5. Nỗi đau khắc cốt ghi tâm
Vào một ngày nửa cuối năm 2002, tôi đang làm bổn phận thì bất ngờ bị cảnh sát bắt. Cảnh sát đưa tôi đến một nhà khách, mở ra đoạn video ghi lại các giao dịch trong ngân hàng của tôi, rồi tra hỏi số tiền tôi có từ đâu ra, tôi ở đâu, ai là người lãnh đạo hội thánh, v.v.. Thấy tôi không nói gì, họ dùng đủ mọi thủ đoạn để tra tấn tôi, ép tôi tấn mã bộ, dùng giày da tát mạnh vào mặt tôi, rồi hơn chục cảnh sát thay nhau thẩm vấn tôi, và áp dụng chiến thuật “tước đoạt giấc ngủ” với tôi, tức là không cho tôi ngủ. Chỉ cần tôi nhắm mắt lại là cảnh sát sẽ tát vào mặt hoặc đá tôi một cú thật mạnh, hoặc sẽ bất thình lình hét thật lớn vào tai tôi. Vì không được nghỉ ngơi trong thời gian dài, tôi rơi vào trạng thái tinh thần hoảng loạn, sốt cao, chóng mặt, ù tai, thậm chí là bắt đầu nhìn đôi. Khi bị cảnh sát tra tấn đến ngày thứ hai mươi, thân thể tôi đã đến giới hạn chịu đựng. Tôi ngã xuống đất và không còn chút sức lực nào để đứng dậy nữa. Mắt tôi mở không lên, ý thức bắt đầu mơ hồ, thậm chí hô hấp cũng trở nên khó khăn, tôi cảm thấy mình có thể sẽ chết bất cứ lúc nào. Lúc đó tôi vô cùng sợ hãi, trong lòng không ngừng nghĩ đến mẹ, vợ và các con. Tôi lo lỡ như mình chết, người nhà có thể sẽ không chịu nổi đả kích rồi sụp đổ mất, thế thì sau này họ sẽ sống ra sao? Trong cơn mê man, tôi nghe cảnh sát nói: “Thể loại ngoan cố như mày có chết cũng đáng đời! Chôn bừa ở đâu đó thì cũng chẳng ai biết được!”. Họ lại nói: “Chỉ cần mày khai chỗ ở ra, bọn tao sẽ kết thúc vụ này! Bọn tao không muốn ngày nào cũng thức trắng đêm chịu khổ với mày nữa”. Tôi nghĩ thầm: “Nếu đêm nay mà mình vẫn không hé răng, e rằng sẽ thực sự không qua khỏi. Có lẽ mình nên khai ra chút chuyện râu ria gì đó”. Tôi nghĩ đến một người chị em lớn tuổi đã từng tiếp đãi mình, chị ấy chỉ biết rất ít về chuyện của hội thánh. Nếu tôi thừa nhận đã ở nhà chị ấy, thì chắc cũng không gây tổn hại gì cho hội thánh đâu? Tôi đã bị bắt giữ hơn hai mươi ngày, sách lời Đức Chúa Trời trong nhà chị ấy chắc cũng đã được chuyển đi từ lâu rồi. Nếu không tìm được chứng cứ thì cảnh sát chắc cũng chẳng thể làm gì chị ấy? Thế là lúc đó, tôi đã khai ra nhà của chị ấy. Lời vừa thốt ra, đầu óc tôi lập tức tỉnh táo lại, tôi ý thức được rằng mình đã trở thành Giu-đa, nên trong lòng vô cùng sợ hãi, và cả người tôi sững sờ. Tôi cảm thấy vô cùng tự trách và hối hận, thù hận chính mình sao lại có thể làm Giu-đa rồi bán đứng chị em như vậy chứ! Tôi thực sự ước gì thời gian có thể quay lại để thu lại những lời mình vừa nói, nhưng mọi thứ đã quá muộn. Nghĩ đến việc người chị em lớn tuổi ấy đã bất chấp an nguy của bản thân để tiếp đãi tôi, vậy mà tôi lại vì bảo toàn chính mình mà bán đứng chị ấy, tôi lại càng thấy cắn rứt lương tâm, và thù hận bản thân mình vì đã không có chút nhân tính nào cả. Nhất là khi tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời: “Đối với những kẻ đã không cho Ta thấy chút ít sự trung thành nào suốt trong những kỳ hoạn nạn, Ta sẽ không thương xót nữa, vì lòng thương xót Ta chỉ nới đến thế thôi. Hơn nữa, Ta không thích bất kỳ ai đã một lần phản bội Ta, Ta càng không thích kết giao với những kẻ bán đứng những lợi ích của bạn bè mình. Đây là tâm tính của Ta, bất kể người đó có thể là ai. Ta phải bảo với các ngươi điều này: Bất kỳ ai khiến Ta buồn lòng sẽ không nhận được sự khoan dung từ Ta lần thứ hai, và bất kỳ ai đã trung tín với Ta sẽ vẫn mãi ở trong lòng Ta” (Hãy chuẩn bị đầy đủ những việc lành cho đích đến của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời), lời của Ngài như dao đâm thẳng vào tim tôi, khiến lương tâm tôi lại càng bị lên án và buộc tội. Tôi hiểu rõ trong lòng rằng, tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính, thánh khiết và không dung thứ cho sự xúc phạm của con người. Đức Chúa Trời căm ghét những kẻ vì bảo toàn bản thân mà phản bội Ngài và bán đứng các anh chị em. Tôi đã bán đứng người chị em ấy, trở thành một tên Giu-đa ô nhục, và làm tổn thương lòng Đức Chúa Trời. Ngài chắc chắn sẽ không thể cứu rỗi tôi nữa, chính tôi đã cắt đứt con đường tin Đức Chúa Trời của mình. Nghĩ đến những điều này, tôi thấy lòng mình đau như xé. Tôi mất ngủ suốt nhiều đêm, sống trong đau khổ và tự trách. Tôi có cảm giác mắc nợ Đức Chúa Trời cũng như người chị em ấy, và không có cách nào tha thứ cho chính mình. Sau đó, khi thấy không moi thêm được gì từ tôi nữa, cảnh sát đã gán cho tôi một tội danh bịa đặt và kết án tôi một năm sáu tháng tù. Lúc đó, vì thể trạng quá yếu, trong giờ ra ngoài trời, tôi đi được vài bước là đã thở dốc. Vì sợ tôi chết trong tù, sau năm mươi ngày giam giữ, cảnh sát đã cho tôi tại ngoại để chấp hành án, nhưng không cho phép tôi rời khỏi địa phương. Tôi phải báo cáo hành tung của mình mỗi tháng, và đến cục công an để báo cáo tư tưởng ba tháng một lần. Sau đó, cảnh sát đến nhà của người chị em kia, và chị ấy cũng không thể làm bổn phận nữa.
Tôi ở nhà được hơn một tháng thì cảnh sát lại kéo đến bắt, tôi vội vã trốn sang thành phố khác rồi đi làm thuê. Chẳng bao lâu sau, cảnh sát lại truy đến công trường để bắt tôi, tôi đã phải bỏ trốn khỏi công trường ngay trong đêm. Đó là khoảng thời gian khổ sở nhất của tôi. Tôi mất liên lạc với hội thánh, còn bị họ hàng và bạn bè vứt bỏ. Tôi không có nơi trú ẩn, phải lang thang khắp nơi và thường xuyên ngủ dưới gầm cầu. Lúc đó, tôi thấy vô cùng bất lực, cảm giác như Đức Chúa Trời không cần mình nữa. Tôi biết mình đã xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời và đáng phải bị báo ứng như vậy. Thực ra, tôi có thể chịu được đau khổ xác thịt, nhưng việc mất đi Đức Chúa Trời, không còn đời sống hội thánh và không được đọc lời Ngài khiến tôi cảm thấy sống không bằng chết. Tôi không dám cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cũng thực sự không có mặt mũi nào để cầu nguyện với Ngài. Tôi cảm thấy mình đã trở thành Giu-đa, là kẻ bị Đức Chúa Trời chán ghét, thì liệu Ngài còn nghe lời cầu nguyện của tôi nữa hay không? Tôi mất ngủ suốt nhiều đêm, trong lòng ngập tràn hối hận, đến nỗi không biết mình đã bao nhiêu lần tự tát vào mặt, và muốn tìm đến cái chết để tự giải thoát khỏi đau khổ. Sau đó, tôi nghĩ đến lời Đức Chúa Trời, và bắt đầu hiểu tâm ý của Ngài thêm một chút. Lời Đức Chúa Trời phán: “Ngày nay, hầu hết mọi người đều không có hiểu biết đó. Họ tin rằng việc chịu khổ là vô giá trị, họ bị thế giới từ bỏ, cuộc sống gia đình của họ không được bình yên, họ không được Đức Chúa Trời yêu thương, và tiền đồ của họ thật ảm đạm. Nỗi đau khổ của một số người đạt đến cực điểm, và suy nghĩ của họ chuyển sang cái chết. Đây không phải là sự yêu kính Đức Chúa Trời thực sự; những người như thế là những kẻ hèn nhát, họ không có sự kiên trì, họ yếu đuối và bất lực! Đức Chúa Trời mong muốn con người yêu kính Ngài, nhưng con người càng yêu kính Ngài thì con người càng chịu khổ, và con người càng yêu kính Ngài thì những sự thử luyện của con người càng lớn” (Chỉ bằng cách trải qua những sự thử luyện đau đớn, ngươi mới có thể biết được sự đáng mến của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra hoàn cảnh mà mình đối mặt hôm nay chính là sự công chính của Ngài, và là sự báo ứng mà kẻ Giu-đa như tôi đáng phải chịu. Nhưng tôi được Đức Chúa Trời tạo dựng thì không nên tự chọn cái chết, mà nên tiếp nhận sự trừng phạt của Ngài. Về sau, chỉ cần còn có cơ hội, tôi vẫn muốn đi theo Đức Chúa Trời, cho dù chỉ là phục vụ cho Ngài, tôi cũng sẽ sẵn lòng thực hiện. Vì vậy, tôi gạt bỏ ý nghĩ tự tử, rồi quỳ xuống đất, vừa khóc vừa cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời! Con thật đáng chết, con đáng bị rủa sả…” Suốt một thời gian dài, đó là câu duy nhất tôi có thể thốt lên khi cầu nguyện, trước khi nghẹn ngào không thể nói tiếp.
Năm 2008, các anh chị em tìm được tôi, và nói rằng việc tôi bán đứng người chị em lớn tuổi kia chỉ là do sự yếu đuối nhất thời của xác thịt, việc này không gây tổn thất gì lớn cho hội thánh. Họ còn nói rằng biểu hiện nhất quán của tôi trong bổn phận là khá tốt, và hội thánh lại tiếp tục sắp xếp cho tôi làm bổn phận. Lúc đó, tôi cảm động đến rơi nước mắt. Tôi đã nghĩ mình phản bội Đức Chúa Trời và trở thành Giu-đa, nên đáng bị trừng phạt, thậm chí là bị đày xuống địa ngục. Thế nhưng Đức Chúa Trời đã không đối đãi dựa trên những vi phạm của tôi, mà còn cho tôi cơ hội để hối cải. Tôi càng thêm hối hận và căm ghét bản thân, cảm thấy mình mắc nợ Đức Chúa Trời quá nhiều. Tôi thầm hạ quyết tâm: bất kể sau này hội thánh sắp xếp cho tôi làm bổn phận gì, tôi cũng sẽ quý trọng và làm tốt bổn phận để báo đáp Đức Chúa Trời. Sau đó, Đảng Cộng sản bắt đầu bắt bớ những người tin Đức Chúa Trời ở khắp nơi, và có hai lãnh đạo trong hội thánh của chúng tôi cũng lần lượt bị bắt. Chẳng bao lâu sau, tôi nghe nói họ đã làm Giu-đa và đều bị hội thánh khai trừ rồi. Lúc đó, tôi thầm nghĩ: “Họ bị khai trừ vì đã làm Giu-đa, mình cũng từng làm Giu-đa, vậy chẳng phải sớm muộn gì cũng sẽ bị khai trừ sao?”. Nghĩ đến những điều này, tôi thấy trong lòng âm ỉ đau đớn, cảm thấy vi phạm của mình quá lớn, và dù mình có tiếp tục mưu cầu thì hy vọng được cứu rỗi cũng chẳng còn bao nhiêu. Không chừng có một ngày, khi tôi phạm sai lầm trong bổn phận, hội thánh cũng sẽ khai trừ tôi. Lúc này, tôi càng thêm hối hận, và thù hận bản thân vì đã không đứng vững làm chứng. Nếu lúc đó tôi đứng vững làm chứng, thì hôm nay đã không bị giày vò như thế này rồi. Tất cả là do tôi tham sống sợ chết, chỉ muốn níu lấy một cuộc đời hèn mọn. Hậu quả này là chính tôi tự chuốc lấy, không thể trách ai khác. Vì vậy, tôi càng dốc sức hơn trong bổn phận, hy vọng có thể chuẩn bị nhiều việc lành hơn để bù lại cho vi phạm của mình. Còn những phúc lành, lời hứa, lời an ủi hay khích lệ mà Đức Chúa Trời dành cho con người, tất cả đều chẳng liên quan gì đến tôi nữa. Sau đó, tôi phối hợp chỉnh lý tài liệu dùng cho việc thanh trừ, mỗi lần thu thập và chỉnh lý tài liệu về những kẻ Giu-đa, tôi lại liên tưởng đến tổn hại mà khi mình làm Giu-đa đã gây ra cho người chị em lớn tuổi ấy. Chuyện này giống như một dấu ấn khắc sâu vào lòng tôi. Mỗi lần nghĩ đến chuyện này, tôi lại thấy cắn rứt, đau đớn tựa như bị dao đâm vậy. Chuyện này đã trở thành một vết nhơ vĩnh viễn, một nỗi đau khôn nguôi trong lòng tôi. Về sau, tôi mắc nhiều loại bệnh như tim mạch, cao huyết áp, sức khỏe của tôi cũng ngày càng suy yếu. Tôi bắt đầu nghi ngờ: Chẳng phải tôi đang gặp báo ứng sao? Hay là tôi đã bị Đức Chúa Trời vứt bỏ rồi? Trong lòng tôi lại càng thêm đau khổ và yếu đuối. Thỉnh thoảng, tôi có bộc lộ sự bại hoại khi làm bổn phận, tôi cũng biết mình cần phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại. Nhưng hễ nghĩ đến việc vi phạm của mình quá lớn, tính chất lại quá nghiêm trọng, tôi lại tự hỏi: Liệu Đức Chúa Trời còn có thể cứu rỗi tôi hay không? Liệu Ngài còn khai sáng để tôi hiểu lẽ thật nữa không? Cứ như vậy, tôi luôn sống trong tình trạng chán nản.
Một ngày nọ, một chị em biết được tình trạng của tôi, nên đã thông công trải nghiệm của chị ấy để giúp đỡ tôi, và còn đọc cho tôi nghe một đoạn lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán: “Đức Chúa Trời có quyết định liệu một người sẽ được cứu rỗi hay không dựa trên mức độ bại hoại của họ không? Ngài có quyết định liệu có nên phán xét và hành phạt họ dựa trên mức độ vi phạm hoặc mức độ bại hoại của họ không? Ngài có quyết định đích đến và kết cục của họ dựa trên ngoại hình, xuất thân gia đình, tố chất của họ, hay việc họ đã chịu khổ bao nhiêu không? Đức Chúa Trời không dùng những điều này làm cơ sở cho các quyết định của Ngài; Ngài thậm chí không xét đến những điều này. Vì vậy, ngươi phải hiểu rằng vì Đức Chúa Trời không đánh giá con người dựa trên những điều này nên ngươi cũng không nên đánh giá con người dựa trên những điều này” (Để đạt được lẽ thật, ta phải học hỏi từ con người, sự việc và sự vật xung quanh, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng, Ngài không quy định kết cục và đích đến của một người dựa vào mức độ vi phạm, hoặc là mức độ bại hoại của người đó. Thay vì vậy, Ngài sẽ xem xét liệu người đó có thực sự hối cải sau khi vi phạm hay không, và cuối cùng, Ngài dựa vào việc người đó có lẽ thật hay không, tâm tính có thay đổi hay không, để quy định kết cục cũng như đích đến của người đó. Tôi nên buông bỏ quan niệm của mình, tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh và giải quyết vấn đề của bản thân. Đây mới là việc hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời. Khi nhận ra những chuyện này, tôi thấy tâm trạng ức chế suốt bao năm qua của mình đã được giải tỏa rất nhiều. Tôi vừa khóc vừa cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Bao năm qua con sống trong tình trạng tiêu cực, không có lòng dạ để mưu cầu lẽ thật vì mãi lo được lo mất về tiền đồ và đích đến của mình. Con tạ ơn Ngài đã dùng người chị em kia để giúp đỡ con. Con sẵn lòng hối cải trước Ngài. Lạy Đức Chúa Trời! Xin Ngài dẫn dắt để con giải quyết vấn đề của chính mình”.
Cầu nguyện xong, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Ngoài ra còn có một nguyên nhân khác khiến con người chìm đắm trong cảm xúc chán nản, đó là một số việc cụ thể xảy ra với người ta trước khi họ trưởng thành hoặc sau khi họ đã là người lớn, tức là họ vi phạm gì đó hoặc làm một vài việc ngu xuẩn, ngu muội và vô tri. Vì những vi phạm, việc làm ngu xuẩn và vô tri này, mà họ chìm vào sự chán nản. Kiểu chán nản này là sự tự lên án bản thân, đồng thời cũng là một kiểu xác định mình là loại người gì. … Bất cứ khi nào nghe một bài giảng hoặc một mối thông công về lẽ thật, sự chán nản này dần len lỏi vào tâm trí và thâm tâm họ, và họ tự tra hỏi bản thân: ‘Mình có ổn không? Mình có thể mưu cầu lẽ thật không? Mình có thể đạt được sự cứu rỗi không? Mình là loại người như thế nào? Mình đã từng làm điều đó trước đây, mình đã từng là loại người như thế. Liệu mình có vô phương cứu vãn không? Liệu Đức Chúa Trời có còn cứu mình không?’. Có người đôi khi có thể buông bỏ cảm giác chán nản và thoát khỏi chúng. Họ dùng sự chân thành và dốc hết sinh lực của mình vào việc thực hiện bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, thậm chí có thể dồn hết toàn bộ thể xác và tinh thần vào việc mưu cầu lẽ thật và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, và họ dốc nỗ lực vào lời Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, ngay khi một hoàn cảnh hoặc bối cảnh đặc biệt nào đó xuất hiện, cảm xúc chán nản lại một lần nữa chiếm thế thượng phong và lại khiến họ cảm thấy bị buộc tội trong thâm tâm. Họ tự nhủ: ‘Trước đây mi đã từng làm việc đó và mi là loại người như thế. Mi có thể đạt được sự cứu rỗi không? Thực hành lẽ thật có ích gì chứ? Đức Chúa Trời nghĩ gì về việc mi đã làm? Liệu Đức Chúa Trời có tha thứ cho những gì mi đã làm không? Liệu bây giờ trả giá theo cách này có thể bù đắp cho sự vi phạm đó không?’. Trong thâm tâm, họ thường tự trách, buộc tội bản thân, thường nghi ngờ, luôn tra hỏi bản thân. Họ không bao giờ có thể thoát khỏi hay gạt bỏ những cảm giác chán nản này, và họ không ngừng cảm thấy bất an về chuyện đáng xấu hổ mà mình đã từng làm. Vì vậy, mặc dù đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm, nhưng dường như họ chưa bao giờ nghe hay hiểu bất kỳ điều gì Đức Chúa Trời phán. Cứ như thể họ không biết liệu việc đạt được sự cứu rỗi có liên quan gì đến họ hay không, liệu họ có thể được xá tội và cứu chuộc hay không, hay liệu họ có đủ tư cách để tiếp nhận sự phán xét, hình phạt và sự cứu rỗi của Ngài hay không. Họ không hề biết gì về tất cả những điều này. Bởi vì không nhận được bất kỳ câu trả lời nào, và bởi vì không nhận được bất kỳ kết luận chính xác nào, nên họ luôn cảm thấy chán nản trong lòng. Trong thâm tâm, họ nhớ đi nhớ lại những gì mình đã làm, họ tua đi tua lại trong tâm trí, nhớ lại mọi chuyện đã bắt đầu như thế nào và kết thúc ra sao, nhớ từ đầu đến cuối. Dù có nhớ thế nào đi nữa, họ vẫn luôn cảm thấy tội lỗi, và vì vậy họ luôn cảm thấy chán nản về vấn đề này suốt những năm qua. Ngay cả khi đang thực hiện bổn phận, ngay cả khi đang phụ trách một công tác nào đó, họ vẫn cảm thấy như thể không còn hy vọng được cứu rỗi. Vì vậy, họ chưa bao giờ thẳng thắn đối mặt với chuyện mưu cầu lẽ thật, cũng không coi đó là điều đúng đắn và quan trọng nhất. Họ tin rằng sai lầm họ đã phạm phải hoặc điều họ đã làm trong quá khứ bị hầu hết mọi người coi thường, hoặc họ có thể bị mọi người lên án và khinh thường, hoặc thậm chí bị Đức Chúa Trời lên án. Cho dù công tác của Đức Chúa Trời đang ở giai đoạn nào hay Ngài đã phán bao nhiêu lời, họ cũng chưa bao giờ đối mặt với chuyện mưu cầu lẽ thật một cách đúng đắn. Tại sao lại như vậy? Họ không có đủ dũng khí để thoát khỏi sự chán nản của mình. Đây là kết luận cuối cùng mà kiểu người này rút ra sau khi thể nghiệm kiểu sự việc này, và vì họ không rút ra được kết luận chính xác nên họ không có khả năng thoát khỏi sự chán nản của bản thân” (Cách mưu cầu lẽ thật (2), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Lời Đức Chúa Trời đã xuyên thấu trái tim tôi và vạch rõ tình trạng thật của tôi. Tôi bị bắt rồi trở thành Giu-đa, phản bội Đức Chúa Trời và bán đứng người chị em lớn tuổi ấy. Chuyện này giống như một dấu ấn khắc sâu trong tim tôi. Tuy hội thánh đã tiếp nhận tôi trở lại, và còn giao cho tôi làm bổn phận, nhưng từ đầu chí cuối, tôi vẫn chưa bao giờ vượt qua được rào cản này. Mỗi khi nghĩ đến việc mình từng làm Giu-đa và gây tổn hại cho người chị em lớn tuổi ấy, tôi lại tự quy định rằng mình không còn cơ hội được cứu rỗi. Mỗi lần tôi xem video trải nghiệm về các anh chị em bị bắt và bị tra tấn nhưng vẫn đứng vững làm chứng, tôi cảm thấy xấu hổ, hổ thẹn và cắn rứt lương tâm. Mỗi lần thu thập và chỉnh lý tài liệu thanh trừ các Giu-đa, tôi lại thấy lòng mình đau đớn như bị dao đâm vậy. Tôi thù hận bản thân vì lúc trước đã không đứng vững làm chứng. Nếu khi đó tôi đứng vững làm chứng được, thì giờ đã không bị giày vò như vậy. Tuy bề ngoài tôi vẫn làm bổn phận, nhưng trong lòng thì luôn chán nản, luôn cảm thấy mình không giống những người khác. Tôi đã từng phản bội Đức Chúa Trời, đã từng làm Giu-đa, là kẻ mà Đức Chúa Trời chán ghét. Đức Chúa Trời có còn muốn tôi không? Ngài vẫn sẽ cứu rỗi tôi hay không? Nghĩ đến những chuyện này, tôi lại đầy đau đớn và bất an. Tôi thậm chí còn không dám cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cảm thấy Ngài chán ghét mình, và cũng sẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của mình. Khi đọc lời Đức Chúa Trời cũng vậy, hễ là lời Ngài khích lệ, an ủi, hứa hẹn, ban phúc cho con người, thì tôi đều cảm thấy những lời này không phải dành cho hạng người như mình. Tôi không xứng với lời hứa và phúc lành của Đức Chúa Trời, mà chỉ xứng bị rủa sả và trừng phạt! Tôi đã sống trong tình trạng hiểu lầm Đức Chúa Trời suốt một thời gian dài, cũng không còn ý chí mưu cầu lẽ thật nữa, mà chỉ thỏa mãn với việc làm tốt công tác để chuộc lại tội lỗi. Thực ra, Đức Chúa Trời không tước đi quyền được ăn uống lời Ngài của tôi, Ngài vẫn ban cho tôi cơ hội làm bổn phận và mưu cầu lẽ thật. Đây đều là sự ân đãi của Ngài. Thế nhưng tôi lại sống trong tình trạng chán nản. Khi bộc lộ sự bại hoại trong bổn phận, tôi cũng biết mình nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết. Nhưng hễ nghĩ đến việc mình đã từng làm Giu-đa, tôi lại cảm thấy dù mình có nỗ lực hay mưu cầu bao nhiêu thì cũng hoàn toàn vô ích. Liệu Đức Chúa Trời còn có thể cứu rỗi kẻ đã phản bội Ngài hay không? Tôi thấy mình vẫn nên đem sức lực phục vụ nhiều hơn và làm tốt bổn phận để chuộc lại tội lỗi, rồi có lẽ một ngày nào đó, Đức Chúa Trời nhìn thấy tôi đem sức lực phục vụ với lòng trung thành, thì cũng sẽ trừng phạt tôi nhẹ hơn một chút. Tôi vẫn luôn mang gánh nặng bởi những vi phạm của mình, và sống trong tình trạng chán nản. Mấy năm nay, dù trải qua rất nhiều chuyện, nhưng tôi chỉ thỏa mãn với việc ra sức làm việc mà không chú trọng đến lối vào sự sống của mình, cũng bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để đạt được lẽ thật.
Trong lúc phản tỉnh, tôi lại đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Mọi người tin Đức Chúa Trời hòng để được ban phước, được tưởng thưởng, được đội mão triều thiên. Chẳng phải điều này tồn tại trong lòng mọi người sao? Thật sự là như vậy. Mặc dù mọi người không thường nói về nó, và thậm chí còn che đậy động cơ và ham muốn được phước, nhưng khao khát và động cơ sâu thẳm trong lòng người này luôn bất di bất dịch. Dù con người có hiểu được bao nhiêu lý thuyết thuộc linh, họ có nhận thức trải nghiệm gì, có thể thực hiện bổn phận gì, phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ, hay phải trả giá thế nào, họ cũng không bao giờ buông bỏ được động lực muốn có phước lành ẩn giấu sâu trong lòng, và luôn âm thầm lao nhọc phục vụ động lực đó. Chẳng phải đây là điều sâu kín nhất trong lòng người sao? Nếu không có động cơ nhận được phước lành này, các ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Các ngươi sẽ thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời với thái độ ra sao? Con người sẽ ra sao nếu động cơ được nhận phước lành ẩn sâu trong lòng họ bị dẹp bỏ? Có lẽ nhiều người sẽ trở nên tiêu cực, trong khi một số người sẽ trở nên mất động lực làm bổn phận. Họ sẽ mất hứng thú trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, như thể linh hồn của họ đã tan biến. Trông họ như thể bị mất hồn. Đó là lý do tại sao Ta phán động cơ được nhận phước lành là điều được ẩn giấu sâu kín trong lòng người. Có lẽ, khi họ thực hiện bổn phận của mình hay sống đời sống hội thánh, họ sẽ cảm thấy mình có thể vứt bỏ gia đình và vui vẻ dâng mình cho Đức Chúa Trời, và cảm thấy rằng giờ họ có nhận thức về động cơ được nhận phước lành của mình, và đã gạt bỏ động cơ này sang một bên, thôi không còn bị nó chi phối hay kìm kẹp nữa. Lúc đó họ nghĩ họ không còn động cơ được ban phước nữa, nhưng Đức Chúa Trời thì nghĩ khác. Con người chỉ nhìn nhận vấn đề một cách nông cạn. Nếu không có những thử luyện, họ sẽ cảm thấy hài lòng về bản thân. Miễn là họ không rời khỏi hội thánh hay chối bỏ danh Đức Chúa Trời, và họ kiên định dâng mình cho Đức Chúa Trời, thì họ tin rằng mình đã thay đổi. Họ cảm thấy không còn bị chi phối bởi nhiệt huyết cá nhân hay những bốc đồng nhất thời trong lúc thực hiện bổn phận của mình. Thay vào đó, họ tin họ có thể mưu cầu lẽ thật, và tin họ có thể liên tục tìm kiếm và thực hành lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận, để những tâm tính bại hoại của họ được làm tinh sạch và họ đạt được chút thay đổi thực sự nào đó. Tuy nhiên, khi có những việc xảy ra liên hệ trực tiếp đến đích đến và kết cục của con người, thì họ hành xử như thế nào? Toàn bộ sự thật đều bị tỏ lộ” (Sáu dấu chỉ của sự phát triển trong sự sống, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời vạch rõ rằng người ta đều tin Ngài với ý định cùng mục đích riêng, tất cả là vì tiền đồ, vận mệnh, và để bản thân được ban phúc. Nếu một ngày nào đó không được ban phúc, không còn tiền đồ hay vận mệnh, con người sẽ cảm thấy việc tin Đức Chúa Trời chẳng có ý nghĩa gì nữa, và vì vậy mà sống trong tình trạng chán nản. Tôi nghĩ đến Phao-lô: Ban đầu, ông chống đối Đức Chúa Jêsus, bắt bớ và bức hại các môn đồ của Ngài. Sau đó, trên đường đến Đa-mách, Đức Chúa Trời đã dùng vầng đại quang mà đánh giết Phao-lô, và đồng thời cũng kêu gọi ông làm sứ đồ. Phao-lô đã rao truyền phúc âm trong nhiều năm, ban đầu là để chuộc lại tội lỗi, muốn lấy công chuộc tội. Ông hoàn toàn không mưu cầu lẽ thật để thay đổi tâm tính bại hoại của mình. Kết quả là sau bao nhiêu năm công tác, bản tính Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời của ông hoàn toàn không hề thay đổi. Thậm chí, ông còn cho rằng việc mình công tác mệt nhọc nhiều năm qua đã chuộc sạch tội lỗi rồi, nên đã công khai đòi mão triều thiên từ Đức Chúa Trời, và cuối cùng thì bị Ngài loại bỏ. Tôi phản tỉnh lại bản thân, và thấy mình cũng đang đi con đường của Phao-lô. Vì đã bán đứng người chị em ấy và làm Giu-đa, nên tôi thấy hy vọng được ban phúc của mình rất mong manh. Nhất là khi nhìn thấy hai người lãnh đạo hội thánh làm Giu-đa kia đều đã bị khai trừ, tôi lo một ngày nào đó, mình cũng sẽ bị hội thánh khai trừ. Từ đó, tôi nảy sinh tiêu cực, biếng nhác, không còn ý chí mưu cầu lẽ thật nữa, vì tôi cảm thấy Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi mình nữa, và dù mình có nỗ lực hay mưu cầu như thế nào thì cũng sẽ không có kết cục hay đích đến gì tốt đẹp. Tôi thấy mục đích mình tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận chính là để được ban phúc, chứ không phải để đạt được lẽ thật hay thuận phục Đức Chúa Trời, cũng chẳng phải để làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo và làm Ngài hài lòng. Suốt những năm qua, tôi luôn khổ sở vì vi phạm của mình, lúc nào cũng lo được lo mất về tiền đồ và đích đến của bản thân. Mặc dù tôi cũng có chút hối hận và căm ghét đối với vi phạm của mình, nhưng quan điểm sâu trong bản tính của tôi về việc mưu cầu phúc lành lại chưa hề được giải quyết. Lúc này, tôi mới thấy rõ mình chưa hề thực sự hối cải trước Đức Chúa Trời, mà là đang dùng sự trả giá và dâng mình để chuộc tội với Ngài, để lương tâm không còn cáo buộc tôi nữa. Tôi thấy mình làm việc ác khủng khiếp đến vậy mà vẫn còn muốn giao dịch với Đức Chúa Trời, việc làm này quả thực vô cùng xấu xí, ích kỷ và đê tiện, khiến tôi càng thêm hối hận cũng như ghê tởm bản thân.
Trong lúc tìm kiếm, tôi lại đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời, giúp tôi hiểu thêm một chút về tâm tính công chính của Ngài. Lời Đức Chúa Trời phán: “Hầu hết mọi người đều có vi phạm trong quá khứ và những vết nhơ. Chẳng hạn như, một số người đã chống đối Đức Chúa Trời và nói những điều báng bổ; một số người đã từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời và không thực hiện bổn phận của họ, rồi bị Đức Chúa Trời ghét bỏ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời khi họ phải đối mặt với những cám dỗ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời bằng việc ký tên vào ‘Tam thư’ khi họ bị bắt; một số người đã ăn cắp của lễ; một số người đã phung phí của lễ; một số người thường xuyên làm nhiễu loạn đời sống hội thánh và gây hại cho những người được Đức Chúa Trời chọn; một số người thì lập bè phái và trừng trị người khác, làm xáo trộn hội thánh; một số người thường xuyên truyền bá các quan niệm và cái chết, làm hại các anh chị em; và một số người thì lăng nhăng và dâm loạn, đã gây ảnh hưởng cực kỳ xấu. Điều đó đủ để nói rằng ai cũng có những vi phạm và vết nhơ. Ấy thế mà một số người có thể tiếp nhận lẽ thật và ăn năn trong khi những người khác thì lại không thể và có chết cũng không chịu ăn năn. Bởi vậy người ta nên được đối xử theo như thực chất bản tính của họ và những biểu hiện nhất quán của họ. Những người có thể ăn năn là những người thật sự tin Đức Chúa Trời, còn những kẻ thực sự không ăn năn, những kẻ đáng bị thanh trừ và khai trừ thì sẽ bị thanh trừ và khai trừ. Một số người là kẻ ác, một số thì ngu muội, một số thì ngốc nghếch, và một số thì là loại súc sinh. Mọi người đều khác nhau. Một số kẻ ác bị tà linh ám, trong khi số khác thì là tay sai của quỷ Sa-tan. Một số đặc biệt nham hiểm trong bản tính, trong khi số khác thì đặc biệt giả dối, một số đặc biệt tham lam trong chuyện tiền bạc, và số khác thì ham thích chuyện dâm loạn. Biểu hiện của mỗi người mỗi khác, vậy nên người ta nên được xem xét một cách toàn diện theo bản tính và các biểu hiện nhất quán của họ. … Việc Đức Chúa Trời xử lý một con người không đơn giản như người ta nghĩ. Khi thái độ của Ngài đối với một người là chán ghét hoặc ác cảm, hoặc khi nói đến điều người này phát biểu trong một bối cảnh nhất định, thì Ngài hiểu rõ tình trạng của họ. Điều này là do Đức Chúa Trời dò xét nội tâm và thực chất con người. Con người luôn nghĩ: ‘Đức Chúa Trời chỉ có thần tính của Ngài. Ngài công chính và không cho phép con người xúc phạm. Ngài không xét đến những khó khăn của con người hay đặt mình vào vị trí của con người. Nếu một người chống đối Đức Chúa Trời, Ngài sẽ trừng phạt họ’. Mọi chuyện hoàn toàn không phải là như vậy. Nếu đó là cách người ta hiểu về sự công chính của Ngài, công tác của Ngài, và cách Ngài đối xử với con người, thì họ đã sai lầm nghiêm trọng. Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của mỗi người không dựa trên quan niệm và tưởng tượng của con người mà dựa trên tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đáp trả mỗi người tùy theo những gì họ đã làm. Đức Chúa Trời là công chính, và sớm hay muộn Ngài sẽ khiến tất cả mọi người đều hoàn toàn tâm phục khẩu phục” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Mỗi người đã tiếp nhận sự chinh phục bằng lời của Đức Chúa Trời sẽ có một vài cơ hội để được cứu rỗi; trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với mỗi một người này, Ngài sẽ nương lỏng cho họ hết sức có thể. Chừng nào mà con người từ bỏ con đường sai trật của mình, và chừng nào mà họ có thể ăn năn, thì Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ cơ hội để có được sự cứu rỗi của Ngài” (Ngươi nên đặt các phước lành về địa vị sang một bên và hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời để mang sự cứu rỗi đến cho con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được rằng tâm tính của Ngài thực sự rất công chính. Trong sự công chính của Ngài không chỉ có sự phán xét và thịnh nộ, mà còn có cả lòng thương xót và khoan dung. Cách Đức Chúa Trời đối xử với con người rất có nguyên tắc. Ngài không quy định con người dựa trên vi phạm nhất thời của họ, mà đánh giá một cách toàn diện dựa trên tính chất, bối cảnh hành động, cũng như vóc giạc của họ, và hậu quả mà họ gây ra. Nếu có người vì yếu đuối nhất thời mà bán đứng người khác, nhưng không gây tổn thất lớn cho hội thánh, trong lòng cũng không phủ nhận hay phản bội Đức Chúa Trời, mà sau đó còn có thể thật lòng hối cải, thì Đức Chúa Trời vẫn có lòng thương xót và còn cho người đó cơ hội để hối cải. Còn những ai sau khi bị bắt mà hoàn toàn đứng về phía con rồng lớn sắc đỏ, bán đứng các anh chị em, bán đứng lợi ích của hội thánh, thậm chí là làm tay sai cho con rồng lớn sắc đỏ, thì đều bị tỏ lộ là kẻ ác và không thể cứu vãn. Đức Chúa Trời sẽ không có lòng thương xót đối với loại người như vậy. Tôi nhớ lại việc mình bị bắt, tra tấn, và dồn đến giới hạn chịu đựng của thể xác vì thiếu ngủ trong thời gian dài, trong bối cảnh đó, tôi đã bán đứng người chị em lớn tuổi, nhưng không gây ra tổn thất gì lớn cho hội thánh. Sau đó, tôi vô cùng hối hận và ghê tởm bản thân. Hành vi của tôi thuộc dạng vi phạm nghiêm trọng, thế mà nhà Đức Chúa Trời vẫn cho tôi cơ hội để hối cải. Còn hai người lãnh đạo hội thánh kia, sau khi bị bắt, họ vẫn chưa phải chịu bất kỳ cực hình nào cả, nhưng chỉ vì sợ thể xác phải chịu khổ mà họ đã trở thành Giu-đa, không chỉ ký vào “Tam thư” mà còn bán đứng lãnh đạo và người làm công ở hơn mười hội thánh, khiến cho công tác của nhiều hội thánh bị tê liệt, gây ra tổn thất vô cùng nghiêm trọng. Hành vi của họ không phải do yếu đuối xác thịt nhất thời, mà thực chất của họ chính là Giu-đa, họ là kẻ ác không cách nào cứu vãn được. Việc hội thánh khai trừ họ hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc, và là sự công chính của Đức Chúa Trời. Tôi nhận thấy mình đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm nhưng vẫn không nhận biết về Ngài. Tôi sống trong tình trạng hiểu lầm cũng như đề phòng Ngài, nghĩ rằng Ngài bụng dạ hẹp hòi giống như con người, chỉ cần thấy ai có vi phạm thì sẽ định tội ngay, và không cho người ta cơ hội được cứu rỗi. Tôi thấy mình quá giả dối và tà ác rồi.
Sau đó, tôi lại tìm được con đường thực hành từ lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Muốn giải quyết những hiểu lầm về Đức Chúa Trời, một mặt, con người phải nhận biết tâm tính bại hoại của mình, mổ xẻ và nhận biết được hết những chuyện sai trái mình đã làm, những con đường vòng mình đã đi hay những vi phạm và sai sót của mình. Như vậy thì họ mới có thể nhìn rõ và nhận biết bản tính của mình. Ngoài ra, con người phải thấy rõ tại sao họ lại có thể đi sai đường và làm ra nhiều chuyện đi ngược lại các nguyên tắc lẽ thật, thấy rõ tính chất của những hành động này là gì. Ngoài ra, họ phải hiểu tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người rốt cuộc là gì, hiểu tại sao con người luôn không thể làm theo những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở họ, tại sao họ luôn đi ngược lại tâm ý của Ngài và chỉ làm những gì họ thích. Khi mang những điều này đến trước mặt Đức Chúa Trời mà cầu nguyện và nhận biết được rõ ràng, thì ngươi sẽ có thể xoay chuyển tình trạng, thay đổi tâm thái của mình, và sẽ có thể giải quyết những hiểu lầm của mình đối với Đức Chúa Trời. Có một số người dù làm gì cũng luôn có những ý định không chính đáng và những chủ ý lệch lạc, họ không thể kiểm điểm được xem trạng thái bên trong mình có đúng đắn hay không, cũng không dùng lời Đức Chúa Trời để tiến hành phân định. Đây chính là những người hồ đồ. Một trong những đặc trưng rõ ràng nhất của người hồ đồ chính là, sau khi làm chuyện xấu và bị tỉa sửa thì họ không ngừng tỏ ra tiêu cực, thậm chí là cam tâm sa đọa, tự mặc định rằng mình đã xong đời và không thể được cứu rỗi. Đây có phải là biểu hiện đáng thương nhất của một người hồ đồ không? Người hồ đồ sẽ không phản tỉnh bản thân dựa trên lời Đức Chúa Trời, và sẽ không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề khi gặp khó khăn. Hồ đồ như vậy là không nhẹ, có phải không? Cam tâm sa đọa thì có thể giải quyết được vấn đề không? Vùng vẫy trong sự tiêu cực thì có thể giải quyết được vấn đề không? Con người nên hiểu rằng khi họ làm sai hoặc gặp vấn đề gì thì nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Trước tiên, họ phải phản tỉnh và nhận biết tại sao mình lại làm việc ác, ý định và xuất phát điểm để làm việc ác đó là gì, tại sao họ lại muốn làm như vậy, họ muốn đạt được mục đích gì, là ai đã khuyến khích, xúi giục, mê hoặc họ làm điều đó, hay là chính họ làm điều đó một cách có ý thức. Họ bắt buộc phải phản tỉnh và nhận biết rõ về những vấn đề này, như vậy thì họ mới có thể biết mình đã mắc phải những sai lầm gì và biết mình là thứ gì. Nếu họ không thể nhận biết thực chất việc hành ác của mình và cũng không rút ra được bài học nào từ đó, thì không thể nào giải quyết được vấn đề này. Có rất nhiều người làm chuyện xấu mà không bao giờ phản tỉnh và nhận biết bản thân, những người như vậy có thể thực sự hối cải không? Họ còn có hy vọng được cứu rỗi không? Con người vốn là hậu duệ của Sa-tan, cho dù họ có xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời hay không thì thực chất bản tính của con người vẫn như vậy. Họ nên phản tỉnh và nhận biết bản thân nhiều hơn, thấy rõ mình đã phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời đến mức nào, và liệu mình còn có thể tiếp nhận và thực hành lẽ thật hay không. Nếu nhìn thấu được chuyện này thì họ sẽ biết được mình đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến thế nào. Thực ra, về mặt thực chất bản tính, nhân loại bại hoại đều gặp nguy hiểm rất lớn, việc tiếp nhận lẽ thật là một chuyện rất khó khăn và không hề dễ dàng với họ. Có người đã làm việc ác và thực chất bản tính của họ đã lộ rõ. Có người tạm thời chưa làm việc ác nhưng chưa chắc đã tốt hơn những người khác được bao nhiêu, chỉ là họ chưa gặp phải bối cảnh hay cơ hội để làm việc ác mà thôi. Nếu ngươi đã có những vi phạm này thì bây giờ ngươi nên có thái độ gì, nên khai báo những gì trước Đức Chúa Trời, và những gì Ngài muốn nhìn thấy là gì, trong lòng ngươi phải hiểu rõ những điều này. Ngươi phải làm rõ những chuyện này thông qua cầu nguyện và tìm kiếm, như vậy thì ngươi sẽ biết sau này nên mưu cầu như thế nào, và sẽ không còn bị ảnh hưởng hay kìm kẹp bởi những chuyện sai trái mà mình đã làm trước đây” (Mưu cầu lẽ thật thì mới có thể giải quyết quan niệm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi thấy trong lòng vô cùng xúc động. Đức Chúa Trời không chỉ chăm chăm vào vi phạm trong quá khứ của con người. Chỉ cần một người có thể đến trước Ngài, tiếp nhận lẽ thật, làm bổn phận với lòng trung thành cùng tinh thần trách nhiệm, và dùng hành động thực tế để thể hiện sự hối cải, nếu nhìn thấy sự thay đổi ở người đó, thì Đức Chúa Trời vẫn sẽ ban cho cơ hội được cứu rỗi. Giống như Phi-e-rơ vậy, khi Đức Chúa Jêsus bị bắt, Phi-e-rơ đã ba lần phủ nhận Chúa. Ông vô cùng hối hận, nên sau đó đã chú trọng mưu cầu lẽ thật, mưu cầu sự yêu kính và thuận phục đối với Đức Chúa Trời. Cuối cùng, ông đã vì Đức Chúa Trời mà bị đóng đinh ngược trên thập tự giá, và để lại một lời chứng tuyệt đẹp. Còn có Đa-vít nữa, ông đã chiếm đoạt vợ của U-ri-a và bị Đức Chúa Trời trách phạt nghiêm khắc. Ông hối hận đến mức không bao giờ tái phạm, ngay cả khi về già và có được một thiếu nữ làm ấm giường. Cả đời ông chuẩn bị cho việc xây dựng đền thờ, dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Đức Chúa Trời, và thể hiện sự hối cải qua hành động thực tế. Từ trải nghiệm của Đa-vít và Phi-e-rơ, tôi đã tìm được con đường. Tôi cần phải đối diện một cách đúng đắn với vi phạm của mình, phản tỉnh bản thân thật kỹ càng, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vi phạm và thực sự hối cải trước Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi đã phản tỉnh được rằng việc mình bán đứng chị em và làm mất đi lời chứng chủ yếu là do hai nguyên nhân. Thứ nhất là vì tôi quá nặng về tình cảm. Khi bị cảnh sát tra tấn tàn bạo và đe dọa đến tính mạng, tôi không thể buông bỏ mẹ, con cái và vợ mình. Tôi lo nếu mình chết thì họ sẽ không chịu nổi cú sốc, thế là tôi đã phản bội Đức Chúa Trời, bán đứng chị em, và trở thành một tên Giu-đa ô nhục. Thực ra khi suy nghĩ lại, số phận của gia đình tôi cũng nằm trong tay Đức Chúa Trời. Cả đời họ phải chịu bao nhiêu trắc trở và đau khổ, tất cả đều đã sớm được Đức Chúa Trời định sẵn. Cho dù tôi có ở bên cạnh họ, họ vốn phải chịu bao nhiêu đau khổ thì vẫn phải chịu bấy nhiêu, đây hoàn toàn không phải là việc mà tôi có thể thay đổi được. Nhưng tôi lại không thể nhìn thấu những chuyện này, và vẫn bị tình cảm kìm kẹp, tôi thực sự quá ngu muội rồi! Nguyên nhân còn lại là, tôi chưa thể nhìn thấu về cái chết, cũng không có đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời. Khi tôi bị cảnh sát tra tấn đến ngày thứ hai mươi, và đã đến giới hạn chịu đựng của thể xác. Khi đó, tôi đặc biệt sợ chết, nên đã thỏa hiệp với Sa-tan. Tôi nghĩ đến các môn đồ của Đức Chúa Jêsus, những người vì loan truyền phúc âm của Chúa, mà người thì bị ném đá chết, người thì bị ngựa kéo chết, còn có người thì bị đóng đinh chết trên thập tự giá. Họ đều vì sự công chính mà bị bức hại. Cái chết của họ là lời chứng của việc giành thắng lợi trước Sa-tan và sỉ nhục nó, cũng là chuyện được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Đức Chúa Jêsus phán: “Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống mình thì sẽ được lại” (Ma-thi-ơ 16:25). Nhưng tôi lại tham sống sợ chết mà bán đứng người chị em, để níu lấy một cuộc đời hèn mọn. Tuy xác thịt tôi vẫn sống, nhưng mỗi ngày, tôi đều phải chịu đựng sự giày vò trong tâm hồn, sống chẳng khác gì một cái xác không hồn. Giờ nghĩ lại, nếu vì tin Đức Chúa Trời mà bị bức hại, dù thực sự có bị cảnh sát đánh tàn phế hoặc là đánh chết, thì đó cũng là chuyện được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nhận thức được điều này, tôi thầm hạ quyết tâm, rằng nếu sau này lại bị con rồng lớn sắc đỏ bắt bớ, thì dù phải liều chết, tôi cũng phải đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời để bù đắp lại vi phạm của mình trong quá khứ.
Chẳng bao lâu sau, hội thánh lại gặp phải đợt bắt bớ lớn, và tôi được sắp xếp xử lý công tác khắc phục hậu quả. Khi thảo luận về các hạng mục công tác, tôi đều tích cực tham gia, chú trọng làm việc theo nguyên tắc, và cố gắng hết sức để hoàn thành trách nhiệm của mình. Bình thường trong quá trình làm bổn phận, khi bộc lộ tâm tính bại hoại, tôi sẽ chủ động tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của bản thân. Tôi còn luyện tập viết các bài lời chứng trải nghiệm. Tôi cũng thầm hạ quyết tâm, dù sau này không có kết cục hay đích đến tốt đẹp, thì tôi vẫn muốn làm tốt bổn phận của mình, và dốc hết sức mưu cầu lẽ thật, để lòng Đức Chúa Trời được an ủi phần nào.
Những năm qua, tôi luôn sống trong tình trạng chán nản. Tuy tôi cũng hối hận và ghê tởm bản thân, nhưng vẫn chưa bao giờ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề của mình, khiến cho trong nhiều năm qua, tôi không hề tiến bộ trong sự sống, và cũng mất đi rất nhiều cơ hội để đạt được lẽ thật. Nhờ sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời, tôi đã hóa giải được hiểu lầm cũng như khoảng cách với Ngài, không còn bị trói buộc hay kìm kẹp bởi vi phạm nữa, và có thể làm bổn phận, mưu cầu lẽ thật một cách bình thường. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời từ tận đáy lòng!