93. Ý định được ban phước của tôi biến mất như thế nào

Bởi Y San, Trung Quốc

Năm 2003, tôi tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đức Chúa Jêsus mà chúng tôi hằng mong đợi cuối cùng đã tái lâm, lòng tôi vô cùng phấn khích. Sau đó, tôi tích cực rao truyền phúc âm, mong muốn chia sẻ tin mừng này cho nhiều người khao khát sự xuất hiện của Đức Chúa Trời hơn nữa. Bất kể giới tôn giáo ngăn trở, đánh đập, hay chửi rủa, hay con rồng lớn sắc đỏ bách hại, bắt bớ, tôi vẫn kiên trì rao truyền phúc âm. Một thời gian sau, khối u vú nhiều năm của tôi không cần phẫu thuật mà lại khỏi một cách kỳ diệu, thu nhập từ việc kinh doanh của gia đình cũng tăng gấp ba, và kể từ đó, tôi càng có thêm động lực thực hiện bổn phận. Bất kể phải đi đâu để rao truyền phúc âm, dù xa xôi hay gian khổ thế nào, tôi cũng đều cam tâm tình nguyện. Năm 2012, tôi làm lãnh đạo hội thánh, vì bận rộn với bổn phận nên đã một thời gian không về nhà. Một hôm, trên đường đi nhóm họp, tôi tình cờ gặp con trai. Con nói cháu gái tôi bị u não ác tính, đã tốn mấy trăm nghìn tệ mà vẫn không chữa khỏi, bác sĩ bảo cháu chỉ còn sống được nhiều nhất là hai tháng nữa. Nghe vậy, tim tôi như thắt lại, đầu óc quay cuồng: “Trời ơi, cháu còn nhỏ thế này sao lại mắc phải căn bệnh đó chứ?”. Về đến nhà, tôi thấy đầu cháu gái được băng bó, một bên mắt đã không nhìn thấy gì, vậy mà cháu vẫn đang nhảy múa trước ti vi. Lòng tôi chợt nhói đau, tôi không tài nào chấp nhận được sự thật này và bật khóc nức nở. Cháu gái tôi mới ba tuổi, đang tuổi nhảy nhót vui đùa, lẽ nào sinh mệnh nhỏ bé này sắp phải kết thúc như vậy sao? Trong lòng tôi đau đớn khôn tả, vội vàng hỏi chồng có thể đưa cháu đến bệnh viện tốt nhất để khám lại không, nhưng chồng tôi nói: “Vô ích thôi, muộn rồi, không chữa được đâu, chỉ còn sống được hai tháng nữa thôi”. Nghe chồng nói vậy, cả đêm đó tôi không tài nào chợp mắt được. Tôi nghĩ: “Sao cháu gái mình lại mắc phải căn bệnh này chứ? Từ khi tin Đức Chúa Trời đến nay, mình vẫn luôn thực hiện bổn phận, cũng chịu không ít khổ cực, tại sao Đức Chúa Trời không gìn giữ cháu gái mình? Tại sao lại để mình gặp phải sự thử luyện lớn đến vậy?”. Càng nghĩ, lòng tôi càng đau khổ, không còn muốn ra ngoài thực hiện bổn phận nữa. Tôi biết tình trạng của mình không đúng, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời để chống lại bản thân, nhưng trong lòng vẫn hy vọng Ngài sẽ gìn giữ để cháu gái tôi khỏi bệnh. Tôi nghĩ đến câu chuyện trong Kinh Thánh, có một bé gái đã chết, Đức Chúa Jêsus cầm tay cô bé thì cô bé liền sống lại. Thế là tôi cầu nguyện và giao phó cháu gái cho Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ mình phải nhanh chóng ra ngoài thực hiện bổn phận, tin rằng nếu Đức Chúa Trời thấy tôi vứt bỏ và dâng mình như vậy, có lẽ Ngài sẽ gìn giữ cho cháu gái tôi khỏe lại. Tôi cũng dặn dò con trai và chồng mình phải cầu nguyện nhiều hơn cho cháu.

Lúc đó, trong lòng tôi chỉ mong cháu gái mau chóng bình phục, nên khi thực hiện bổn phận cũng không thể không nghĩ đến cháu. Trong đầu tôi cứ hiện lên những hình ảnh cháu gái hoạt bát, đáng yêu, giống như một cuốn phim quay chậm vậy. Mặc dù tôi vẫn thực hiện bổn phận nhưng không còn mang gánh trọng trách như trước nữa. Đặc biệt khi nghĩ đến đứa cháu gái đáng yêu của mình chỉ còn sống được hai tháng nữa thôi, lòng tôi lại đau như dao cắt. Ban đêm, tôi không tài nào ngủ được, nước mắt cũng bất giác tuôn rơi. Tôi sống trong sự tiêu cực và yếu đuối, làm bổn phận chẳng có hiệu quả gì. Lúc này, tôi mới nhận ra tình trạng của mình rất nguy hiểm, nếu không mau chóng xoay chuyển thì sẽ đánh mất công tác của Đức Thánh Linh. Thế là tôi đến trước Đức Chúa Trời cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, cháu gái con mắc bệnh nặng, lòng con rất đau khổ. Xin Ngài gìn giữ tấm lòng con, khai sáng để con hiểu được tâm ý của Ngài”. Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Trong khi trải qua những sự thử luyện, việc người ta yếu đuối, hoặc có sự tiêu cực bên trong họ, hoặc thiếu sự rõ ràng về tâm ý của Đức Chúa Trời hoặc con đường thực hành, là chuyện bình thường. Nhưng nói tóm lại, ngươi phải có đức tin vào công tác của Đức Chúa Trời, và phải giống như Gióp, không phủ nhận Đức Chúa Trời. Mặc dù Gióp đã yếu đuối và rủa sả ngày sinh của chính mình, nhưng ông đã không phủ nhận rằng mọi thứ con người có được sau khi ra đời đều được Đức Giê-hô-va ban cho, và rằng Đức Giê-hô-va cũng là Đấng lấy chúng đi. Bất kể bị thử luyện ra sao, ông vẫn duy trì niềm tin này. Trong trải nghiệm của con người, bất kể họ trải qua sự tinh luyện nào đến từ những lời của Đức Chúa Trời, thì những gì Đức Chúa Trời muốn ở nhân loại, tóm gọn lại, là đức tin và lòng yêu kính Đức Chúa Trời của họ. Những gì Ngài hoàn thiện bằng cách làm việc như thế này là đức tin, tình yêu, và những ý chí của mọi người. Công tác hoàn thiện Đức Chúa Trời làm trên con người là điều mà họ không thể nhìn thấy và không thể chạm đến; trong những trường hợp như vậy thì cần đến đức tin. Khi có điều gì đó không thể được nhìn thấy bằng mắt thường, thì cần con người có đức tin, khi ngươi không thể buông bỏ các quan niệm của chính mình, thì cần ngươi có đức tin. Khi ngươi không hiểu công tác của Đức Chúa Trời, thì cần ngươi có đức tin, có một lập trường vững chắc và đứng vững làm chứng. Khi Gióp đạt đến điểm này, Đức Chúa Trời đã xuất hiện và phán với ông. Nghĩa là, chỉ từ bên trong đức tin của mình thì ngươi mới có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời. Khi ngươi có đức tin thì Đức Chúa Trời sẽ hoàn thiện ngươi, còn nếu ngươi không có đức tin, Ngài không thể làm điều này(Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Suy ngẫm đoạn lời này của Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng cháu gái tôi mắc bệnh là có sự cho phép của Đức Chúa Trời, đó là sự thử luyện của Ngài đối với tôi, và cũng là để hoàn thiện đức tin của tôi. Tôi nghĩ đến Gióp, ông biết rằng gia tài khổng lồ và mọi thứ của mình đều do Đức Chúa Trời ban cho, và việc Ngài lấy lại tất cả là chuyện đương nhiên. Khi Đức Chúa Trời thử luyện ông, ông thà nguyền rủa ngày mình sinh ra chứ không oán trách Đức Chúa Trời. Ông còn có thể nói rằng: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Ông có đức tin thật và đã giao phó mạng sống mình cho Đức Chúa Trời, để Ngài sắp đặt mọi sự. Nhân tính của Gióp quá ư chính trực và lương thiện! Nhìn lại mình, trước đây tôi cũng từng có lòng nhiệt thành khi thực hiện bổn phận. Bất kể phải chịu bao nhiêu khổ cực khi rao truyền phúc âm, hay bị giới tôn giáo và con rồng lớn sắc đỏ bách hại, định tội thế nào, tôi cũng không hề tiêu cực, mà vẫn cứ rao truyền phúc âm và dâng mình như mọi khi. Nhưng đó không phải là đức tin thật. Mà là vì sau khi tin Đức Chúa Trời, việc kinh doanh của gia đình tôi đã khởi sắc, và Đức Chúa Trời cũng đã chữa lành bệnh tật cho tôi, và tôi được tận hưởng ân điển, phước lành của Đức Chúa Trời. Nhưng bây giờ, khi cháu gái tôi bị ung thư não, chỉ còn sống được hai tháng, và Đức Chúa Trời đã không chữa lành cho cháu như tôi yêu cầu, tôi bắt đầu dựa vào những sự hy sinh trong quá khứ của mình để lý luận với Đức Chúa Trời, oán trách Ngài không gìn giữ cháu gái tôi. Tôi thậm chí còn cảm thấy việc Đức Chúa Trời làm không hề quan tâm đến ý của con người, rằng Ngài không nên để tôi gặp phải sự thử luyện lớn đến vậy. Tôi nhận ra mình thiếu cả nhân tính lẫn lý trí, không có đức tin thật hay sự thuận phục đối với Đức Chúa Trời. Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy mình thực sự đã phụ lòng Đức Chúa Trời. Ngài đã ban cho tôi quá nhiều, tôi không thể tiếp tục tham lam như vậy được. Tôi phải noi gương Gióp và thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời.

Sau đó, trong lúc thực hiện bổn phận, mỗi khi nhìn thấy con của các anh chị em, tôi lại nghĩ đến cháu gái mình, ảo tưởng rằng sẽ tốt biết bao nếu một ngày nào đó cháu gái tôi cũng có thể khỏe mạnh, tung tăng chạy nhảy quanh tôi. Tôi nhớ lại mình từng có một khối u vú, bác sĩ nói khối u đã lớn, nếu không phẫu thuật thì sẽ rất nguy hiểm. Tôi đã cậy dựa vào Đức Chúa Trời và tiếp tục thực hiện bổn phận, rồi khối u đã biến mất một cách kỳ diệu. Lần này, tôi lại muốn siêng năng thực hiện bổn phận của mình, nên đã sắp xếp lịch trình kín mít, thường xuyên nhóm họp với các anh chị em và thảo luận công việc. Các anh chị em cũng tích cực rao truyền phúc âm và hỗ trợ người mới, không có công việc nào bị trì hoãn. Tôi thầm nghĩ: “Biết đâu một ngày nào đó, bệnh của cháu gái mình sẽ đột nhiên khỏi hẳn”. Hai tháng sau, khi trở về nhà, tôi thấy bệnh tình của cháu gái chẳng những không thuyên giảm, mà tế bào ung thư đã di căn khắp cơ thể. Cháu chỉ còn thoi thóp hơi tàn, một chiếc quan tài nhỏ cũng đã được chuẩn bị sẵn. Con trai và con dâu tôi khóc không ngừng. Lòng tôi tan nát, nước mắt không kìm được mà tuôn rơi. Tôi lại bắt đầu lý luận với Đức Chúa Trời, thầm nói trong lòng: “Hai tháng nay cháu gái con bị bệnh, con cũng không hề xao nhãng bổn phận. Kể từ khi tin Đức Chúa Trời, con vẫn luôn vứt bỏ và dâng mình, từ bỏ việc kinh doanh, bị người đời phỉ báng, người thân ruồng bỏ, con rồng lớn sắc đỏ còn truy bắt. Bất kể hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu, con vẫn kiên trì thực hiện bổn phận. Sao kết quả lại như thế này? Con cũng đâu có làm chuyện gì rõ ràng chống đối Đức Chúa Trời! Tại sao chuyện này lại xảy đến với con? Tại sao Đức Chúa Trời không gìn giữ cháu gái con?”. Tình trạng của tôi tuột dốc không phanh. Tôi không còn chút sức lực nào để đi lại, ngay cả ăn cũng không muốn. Tôi đau đớn và tiêu cực đến mức nảy sinh ý định không muốn thực hiện bổn phận nữa. Tôi biết mình không nên oán trách, nhưng khi nhìn thấy cháu gái đang hấp hối, tôi thực sự không thể kiềm chế được. Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con không muốn oán trách Ngài, nhưng con thực sự không thể vượt qua được. Con cảm thấy vô cùng yếu đuối và bất lực, xin hãy gìn giữ tấm lòng con để không buông lời oán trách”. Không lâu sau, cháu gái tôi qua đời. Lòng tôi vô cùng đau đớn. Tôi không còn tâm trí đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không muốn thông công trong các buổi nhóm họp. Đặc biệt là khi nhìn thấy những đứa trẻ của các anh chị em bằng tuổi cháu gái mình, tôi không thể cầm được nước mắt. Tôi sống trong sự tiêu cực và hiểu lầm, một thời gian dài tình trạng vẫn không xoay chuyển, làm bổn phận cũng chẳng có hiệu quả gì. Lúc đó, tôi mới đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và tìm kiếm.

Một hôm, tôi đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời, và lòng tôi sáng tỏ hơn rất nhiều. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Nếu sự ra đời của một người được định bởi kiếp trước của người đó, thì cái chết của họ đánh dấu sự kết thúc của mệnh định đó. Nếu sự ra đời của một người là khởi đầu sứ mệnh của họ trong đời này, thì cái chết của họ đánh dấu sự kết thúc của sứ mệnh đó. Vì Đấng Tạo Hóa đã định đoạt bối cảnh cố định cho sự ra đời của một người, nên tất nhiên, Ngài cũng đã an bài bối cảnh cố định cho cái chết của một người. Nói cách khác, không ai được sinh ra một cách ngẫu nhiên, không cái chết nào là đột nhiên phát sinh, và cả sự sống và chết tất nhiên đều có liên hệ với những kiếp trước và kiếp này của con người. Bối cảnh cho cả sự ra đời lẫn chết đi của một con người đều có liên quan đến sự mệnh định của Đấng Tạo Hóa; đây là vận mệnh của một người, số phận của một người. Vì có nhiều cách lý giải cho sự ra đời của một con người, nên cái chết của một con người tất nhiên cũng có các loại bối cảnh đặc thù. Đây là lý do con người có tuổi thọ khác nhau, cách thức và thời điểm chết của họ khác nhau. Có người khỏe mạnh cường tráng nhưng lại chết trẻ; có người ốm yếu nhưng lại sống thọ và qua đời một cách thanh thản. Có người chết vì những nguyên nhân khác thường, có người chết một cách tự nhiên. Có người chết xa quê, có người thì nhắm mắt lần cuối bên cạnh những người thân yêu. Có người chết trong không trung, có người chết dưới mặt đất. Có người chết chìm dưới nước, có người mất mạng trong thảm họa. Có người chết vào buổi sáng, có người chết vào buổi tối… Mọi người đều muốn được sinh ra vẻ vang, sống thật huy hoàng và chết cách oanh liệt, nhưng không ai có thể vượt qua vận mệnh của chính mình, không ai có thể thoát khỏi sự tể trị của Đấng Tạo Hóa. Đây là số phận con người. Con người có thể vạch ra đủ loại kế hoạch cho tương lai của mình, nhưng không ai có thể vạch ra cách họ ra đời cũng như thời điểm và cách họ lìa đời. Mặc dù con người đều cố hết sức để tránh né và chặn đứng cái chết đang đến, nhưng cái chết đang lặng lẽ đến gần mà họ không hề biết. Không ai biết được khi nào mình sẽ chết hoặc chết như thế nào, càng không biết nó sẽ xảy ra ở đâu. Quá hiển nhiên, người nắm giữ quyền sinh tử không phải con người, cũng không phải sinh linh nào đó trong thế giới tự nhiên, mà là Đấng Tạo Hóa, Đấng có thẩm quyền độc nhất. Sự sống chết của nhân loại không phải là sản phẩm của quy luật nào đó của thế giới tự nhiên, mà là một kết quả của sự tể trị trong thẩm quyền của Đấng Tạo Hóa(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng cuộc đời, sự sống và cái chết của con người đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Một người sinh ra lúc nào, chết đi lúc nào đều do Đức Chúa Trời định sẵn, con người không thể thay đổi được. Giống như việc cháu gái tôi mắc bệnh gì, khi nào qua đời cũng đều do Đức Chúa Trời định sẵn, không phải là điều mà ý muốn chủ quan của tôi có thể thay đổi, cũng không thể thay đổi bằng việc tôi công tác, chịu khổ hay trả giá được. Tôi đã không thể thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, lại còn hy vọng rằng công tác và sự dâng mình của mình sẽ khiến Ngài thay đổi số phận cháu gái tôi. Chẳng phải về thực chất tôi đang chống đối Đức Chúa Trời sao? Sự sống chết của cháu gái tôi có liên quan đến kiếp trước và kiếp này của cháu. Cháu chỉ có thể sống được mấy năm, mạng của cháu là vậy thôi. Thực ra, nhiều đứa trẻ trong các gia đình của người ngoại đạo cũng chết vì những bệnh nan y khác nhau. Ví dụ, tôi biết một người ngoại đạo có con cũng bị u não. Ban đầu đã chữa khỏi, nhưng đến năm mười hai tuổi thì bệnh tái phát và cuối cùng qua đời. Từ đó, tôi thấy rằng một người sống được bao lâu là do Đức Chúa Trời định sẵn, không liên quan đến việc người nhà của họ có tin Đức Chúa Trời hay không. Nhưng tôi lại cho rằng vì mình tin Đức Chúa Trời nên cháu gái tôi không thể chết vì bệnh tật. Đó là một quan điểm sai lầm. Sau khi nhận ra những điều này, lòng tôi không còn đau khổ nhiều nữa. Tôi cũng có thể tiếp nhận từ Đức Chúa Trời và thuận phục sự tể trị, sắp đặt của Ngài đối với cái chết của cháu gái tôi. Tôi đã chia sẻ những nhận thức này với chồng và con trai để họ cũng không oán trách Đức Chúa Trời.

Một hôm, tôi đọc được một đoạn lời khác của Đức Chúa Trời và hiểu thêm được một số vấn đề của mình. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Liên quan đến chuyện được phúc và gặp họa, có lẽ thật nên được tìm kiếm ở đây. Câu nói nào mới là lời lẽ chí lý mà con người nên giữ vững? Gióp từng nói một câu như thế này: ‘Sự phước mà tay Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?’ (Gióp 2:10). Lời này có phải là lẽ thật không? Đây là một câu nói của con người, không thể đạt đến tầm của lẽ thật, nhưng lời này có chỗ phù hợp với lẽ thật. Nó phù hợp với lẽ thật ở chỗ nào? Bất luận là con người được phúc hay gặp họa thì chuyện đó đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, đều do Ngài tể trị, đây là lẽ thật. Kẻ địch lại Đấng Christ có tin điều này không? Họ không tin và không thừa nhận điều này. Tại sao họ lại không tin và không thừa nhận? (Thưa, vì họ tin Đức Chúa Trời là để được phúc. Họ chỉ muốn được phúc.) (Thưa, bởi vì họ quá ích kỷ, chỉ mưu cầu lợi ích của xác thịt.) Khi tin Đức Chúa Trời, kẻ địch lại Đấng Christ chỉ muốn được phúc chứ không muốn gặp họa, nên nhìn thấy ai được phúc, được lợi lộc, được ân điển, được nhiều sự hưởng thụ về vật chất hơn nữa, được món hời lớn, thì họ cho rằng đây là việc do Đức Chúa Trời làm. Còn nếu không được những sự chúc phúc về mặt vật chất này thì không phải việc do Đức Chúa Trời làm. Ngụ ý của điều này chính là: ‘Nếu ngài là đức chúa trời thật thì ngài chỉ có thể chúc phúc con người. Ngài nên miễn trừ tai họa cho con người, không thể để con người chịu khổ. Như vậy thì việc con người tin ngài mới có giá trị, mới có ý nghĩa. Nếu đi theo ngài mà vẫn phải gặp họa và chịu khổ thì người ta tin ngài còn có ý nghĩa gì nữa?’. Họ không thừa nhận rằng vạn sự vạn vật đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, rằng Đức Chúa Trời tể trị tất cả. Nguyên nhân họ không thừa nhận là gì? Kẻ địch lại Đấng Christ sợ gặp họa, họ chỉ muốn được lợi ích, chỉ muốn chiếm lợi, chỉ muốn hưởng thụ sự chúc phúc. Họ không muốn tiếp nhận sự tể trị của Đức Chúa Trời, không muốn tiếp nhận sự sắp đặt của Ngài mà chỉ muốn đạt được lợi ích từ trong tay Ngài. Kẻ địch lại Đấng Christ có quan điểm ích kỷ và đê tiện như vậy đấy. Đây là một loạt những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ liên quan đến những lời như lời hứa và lời chúc phúc của Đức Chúa Trời. Nhìn tổng thể của loạt biểu hiện này, chủ yếu là liên quan đến quan điểm mưu cầu của kẻ địch lại Đấng Christ, cùng cách nhìn, sự đánh giá và lý giải của họ đối với loại chuyện mà Đức Chúa Trời làm trên con người này(Mục 10. Họ xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời (Phần 6), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Lời Đức Chúa Trời đã vạch rõ những ý định đê tiện đằng sau việc tin Đức Chúa Trời của những kẻ địch lại Đấng Christ. Những kẻ địch lại Đấng Christ tin Đức Chúa Trời chỉ để được ban phước và hưởng lợi, nhưng hễ gặp phải bất hạnh là họ lại oán trách và phản bội Đức Chúa Trời. Mọi việc họ làm đều dựa trên sự mong đợi được ban phước và hưởng lợi. Về thực chất, họ đang cố gắng giao dịch với Đức Chúa Trời. Phản tỉnh về những ý định và mục đích khi tin Đức Chúa Trời của mình, tôi nhận ra chúng không khác mấy so với kẻ địch lại Đấng Christ. Tôi cũng đang mưu cầu phước lành. Nghĩ lại lúc mới tin Đức Chúa Trời, khối u vú của tôi đã khỏi từ lúc nào không hay, việc kinh doanh của gia đình cũng phát đạt. Đức Chúa Trời đã ban cho tôi nhiều ân điển và phước lành, tôi vui đến nỗi cười không khép được miệng, vừa đi vừa hát. Gia đình tôi tràn ngập tiếng cười, ngay cả chồng và các con tôi cũng nói rằng Đức Chúa Trời thật tốt. Tôi cảm thấy có một nguồn năng lượng vô tận khi thực hiện bổn phận, cảm thấy rằng việc hy sinh, dâng mình và chịu khổ là đáng giá. Tôi đã ngợi khen và cảm tạ Đức Chúa Trời từ tận đáy lòng. Nhưng khi thấy cháu gái mình bị chẩn đoán mắc bệnh u não và chỉ còn sống được hai tháng, tôi đã oán trách Đức Chúa Trời không gìn giữ cháu. Tôi đã cầu nguyện và cầu xin Đức Chúa Trời mỗi ngày, hy vọng cháu gái tôi được chữa lành, mong rằng Đức Chúa Trời sẽ chữa khỏi bệnh cho cháu. Tôi cũng đã nỗ lực thực hiện bổn phận, hy vọng rằng Đức Chúa Trời, dựa trên lòng trung thành của tôi trong việc thực hiện bổn phận, sẽ làm cho cháu gái tôi khỏe lại một cách kỳ diệu. Nhưng khi cháu gái tôi qua đời, tôi lại trở nên tiêu cực và bắt đầu oán trách, thậm chí không còn muốn thực hiện bổn phận nữa. Tôi còn đem những sự hy sinh và trả giá trong quá khứ ra để lý luận với Đức Chúa Trời. Tôi như thế này mà là người tin Đức Chúa Trời sao? Tôi nghĩ đến Phao-lô đã dâng hiến cả đời mình cho Đức Chúa Trời, thành lập các hội thánh ở khắp nơi, thậm chí chịu cảnh tù đày, tất cả đều với hy vọng nhận được phần thưởng và phước lành của Đức Chúa Trời. Ông xem tất cả những sự trả giá của mình như con bài mặc cả để đổi lấy mão triều thiên công chính, dùng những điều này để bắt chẹt Đức Chúa Trời. Ông đã xúc phạm nghiêm trọng đến tâm tính của Đức Chúa Trời, và cuối cùng đã phải nhận lấy sự trừng phạt và nguyền rủa của Ngài. Quan điểm mưu cầu của tôi cũng giống như của Phao-lô. Tôi cho rằng mình hy sinh và trả giá cho Đức Chúa Trời càng nhiều thì Ngài càng phải ban lại cho tôi nhiều hơn, và khi Đức Chúa Trời không ban phước cho tôi, tôi lại oán trách Ngài không công chính. Tôi thấy mình thật ích kỷ và đê tiện, chỉ tìm kiếm lợi lộc, giống như đang làm công ở ngoài thế gian, nghĩ rằng mình làm bao nhiêu việc thì phải nhận được bấy nhiêu tiền công, không được thì sẽ không làm. Thực hiện bổn phận vốn là chuyện thiên kinh địa nghĩa, nhưng tôi lại chỉ thực hiện bổn phận để Đức Chúa Trời ban phước và ban ân điển cho mình. Tôi chỉ thực hiện bổn phận vì lợi ích của bản thân. Tôi không có chút chân thành nào, hoàn toàn là giao dịch. Những ý định đê tiện của tôi thực sự đã khiến Đức Chúa Trời ghê tởm.

Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Loại người địch lại Đấng Christ có trải nghiệm bao nhiêu chuyện thì cũng không bao giờ cố giải quyết chúng bằng cách tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, càng không cố gắng nhìn nhận sự việc qua lời Đức Chúa Trời – đây hoàn toàn là vì họ không tin rằng mọi câu trong lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật. Cho dù nhà Đức Chúa Trời có thông công lẽ thật như thế nào thì những kẻ địch lại Đấng Christ vẫn không tiếp nhận, cho nên đối với bất kỳ chuyện gì, họ cũng không có thái độ đúng đắn; nhất là về cách đối đãi với Đức Chúa Trời và lẽ thật, những kẻ địch lại Đấng Christ càng ôm chặt quan niệm, thà chết không buông. Thần mà họ tin là thần có thể thực hiện các dấu kỳ phép lạ, là thần siêu nhiên. Bất kỳ ai có thể thực hiện các dấu kỳ phép lạ – dù là Quan Âm Bồ Tát, Phật Tổ hay Thiên Hậu Thánh Mẫu – họ đều gọi là đức chúa trời. Họ cho rằng chỉ những ai có thể thực hiện dấu kỳ phép lạ mới là đức chúa trời có thân phận của đức chúa trời, bất kỳ ai không thể thực hiện dấu kỳ phép lạ thì cho dù bày tỏ bao nhiêu lẽ thật cũng không nhất định là đức chúa trời. Họ không nhận thức được rằng việc bày tỏ lẽ thật là quyền năng và sự toàn năng của đức chúa trời; thay vào đó, họ nghĩ rằng chỉ có thực hiện dấu kỳ phép lạ mới là quyền năng và sự toàn năng của đức chúa trời. Vì vậy, về công tác thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể bày tỏ lẽ thật để chinh phục và cứu rỗi con người, chăm tưới, chăn dắt và dẫn dắt dân được Đức Chúa Trời chọn, để con người trải nghiệm thực tế sự phán xét, hành phạt, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời, đạt đến hiểu lẽ thật, loại bỏ tâm tính bại hoại, trở thành người thuận phục và thờ phượng Đức Chúa Trời, v.v. – những kẻ địch lại Đấng Christ coi tất cả những chuyện này là do con người làm chứ không phải do Đức Chúa Trời làm. Trong suy nghĩ của những kẻ địch lại Đấng Christ, các thần nên ẩn sau bàn thờ và để cho người ta thờ cúng, ăn thức ăn mà người ta dâng, ngửi nhang mà người ta đốt, ra tay giúp đỡ khi người ta gặp khó khăn, thể hiện quyền năng, trợ giúp tức thì cho người ta trong giới hạn những gì họ có thể hiểu được, và đáp ứng những nhu cầu của họ, khi họ xin giúp đỡ và thành tâm cầu khấn. Đối với những kẻ địch lại Đấng Christ, chỉ một vị thần như thế này mới là đức chúa trời thật. Trong khi đó, mọi việc Đức Chúa Trời làm ngày nay đều gặp phải sự xem thường của những kẻ địch lại Đấng Christ. Tại sao lại như vậy? Xét theo thực chất bản tính của những kẻ địch lại Đấng Christ, những gì họ muốn không phải là công tác chăm tưới, chăn dắt và cứu rỗi mà Đấng Tạo Hóa thực hiện trên các loài thọ tạo, mà là cả đời hanh thông, vạn sự như ý, không bị trừng phạt trong đời này, và đời sau được lên thiên đàng. Quan điểm và nhu cầu của họ xác nhận thực chất của họ là thù hận lẽ thật(Mục 15. Họ không tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, và phủ nhận thực chất của Đấng Christ (Phần 1), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Qua sự vạch rõ của lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng dù đã theo Ngài nhiều năm, tôi vẫn tin vào một Đức Chúa Trời mơ hồ. Tôi đã xem Đức Chúa Trời như Bồ Tát, chỉ coi Ngài là đối tượng để ban phước cho tôi, tin rằng chỉ cần mình thành tâm tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận thì Ngài sẽ ban phước cho tôi, bảo đảm gia đình tôi bình an, không bệnh tật, không tai ương. Khi cháu gái tôi bị chẩn đoán mắc bệnh nan y, tôi đã nghĩ mình có thể yêu cầu Đức Chúa Trời làm phép lạ và chữa lành cho cháu bằng cách thực hiện thêm nhiều bổn phận. Tôi đã xem Đức Chúa Trời như một đối tượng ban phát phước lành lớn lao cho tôi, nghĩ rằng Ngài nên đáp ứng yêu cầu của tôi dựa trên sự hy sinh “chân thành” của tôi. Đây đâu phải là đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời chứ? Công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt không phải là thực hiện phép lạ, chữa bệnh và đuổi quỷ, mà là bày tỏ lẽ thật để thực hiện công tác phán xét và hành phạt, để làm tinh sạch con người, cứu con người khỏi tâm tính bại hoại để họ có thể được cứu rỗi. Thế nhưng, tôi đã không biết công tác của Đức Chúa Trời, không phản tỉnh xem quan điểm mưu cầu của mình trong những năm tháng tin Chúa là gì, và mình đã đi con đường nào. Đối với những lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ, tôi chẳng hề để tâm; trong những hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt, tôi cũng không trải nghiệm thực tế lời Ngài hay mưu cầu sự thay đổi trong tâm tính. Thay vào đó, tôi chỉ đang cố gắng giao dịch với Đức Chúa Trời, đòi hỏi ân điển và phước lành. Thái độ tin Đức Chúa Trời của tôi có khác gì so với những người thờ thần tượng chứ? Chẳng phải đây là sự báng bổ đối với Đức Chúa Trời sao? Tôi tin Đức Chúa Trời mà không chú trọng mưu cầu lẽ thật, chỉ tập trung vào việc nhận được ân điển và phước lành của Ngài. Tôi thậm chí còn chống đối và oán trách trong lòng vì cái chết của cháu gái, cho rằng Đức Chúa Trời không công chính, cũng không còn muốn thực hiện bổn phận nữa. Tôi đã hoàn toàn đứng về phía đối lập với Đức Chúa Trời. Nếu tôi không ăn năn, thì dù có hy sinh và dâng mình bao nhiêu đi nữa, cũng sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời khen ngợi.

Sau đó, tôi đọc thêm lời của Đức Chúa Trời, và đã hiểu rõ hơn về chuyện khi tin Đức Chúa Trời thì nên có quan điểm mưu cầu như thế nào. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ngươi có thể nghĩ rằng tin Đức Chúa Trời thì chỉ là chịu khổ, hoặc làm nhiều việc cho Ngài, hoặc xác thịt ngươi được bình an, hoặc mọi thứ diễn ra suôn sẻ với ngươi, và ngươi được thoải mái, thanh thản trong mọi việc. Không điều nào trong số này là mục đích mà mọi người nên có trong đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời. Nếu ngươi tin vì những mục đích này, thì quan điểm của ngươi là không đúng, và đơn giản là ngươi không thể được hoàn thiện. Những hành động của Đức Chúa Trời, tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, sự khôn ngoan của Ngài, lời Ngài, cùng sự kỳ diệu và không thể dò lường của Ngài là tất cả những điều mọi người nên hiểu. Thông qua sự hiểu biết này, ngươi nên tiến tới rũ bỏ khỏi lòng mình những yêu cầu, hy vọng, và quan niệm cá nhân. Chỉ bằng cách loại bỏ những điều này thì ngươi mới có thể đáp ứng được những điều kiện Đức Chúa Trời đòi hỏi, và chỉ bằng cách làm điều này, ngươi mới có thể có được sự sống và thỏa mãn Đức Chúa Trời. Mục đích tin vào Đức Chúa Trời là để thỏa mãn Ngài và để sống thể hiện ra tâm tính mà Ngài đòi hỏi, hầu cho những hành động và sự vinh hiển của Ngài có thể được thể hiện qua nhóm người không xứng đáng này. Đây là quan điểm đúng đắn đối với việc tin Đức Chúa Trời, và đây cũng là mục tiêu ngươi nên mưu cầu(Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Không có mối tương quan giữa bổn phận của con người và việc liệu họ được phúc hay gánh họa. Bổn phận là việc con người phải thực hiện; đó là thiên hướng của họ và không nên lệ thuộc vào sự tưởng thưởng, điều kiện hay lý do. Chỉ khi đó mới là thực hiện bổn phận của mình. Được ban phúc là khi ai đó được làm cho hoàn thiện và vui hưởng các phúc lành của Đức Chúa Trời sau khi trải qua sự phán xét. Gánh họa là khi tâm tính của ai đó không thay đổi sau khi họ đã trải qua hình phạt và sự phán xét, đó là khi họ không trải nghiệm việc được làm cho hoàn thiện, mà bị trừng phạt. Nhưng bất kể họ được ban phúc hay gánh họa, những loài thọ tạo cũng phải thực hiện bổn phận của mình, làm những điều họ cần phải làm, và làm những điều họ có thể làm; đây chính là điều tối thiểu mà người mưu cầu Đức Chúa Trời nên làm. Ngươi không nên thực hiện bổn phận của mình chỉ để được ban phúc, và ngươi không nên từ chối hành động vì sợ gánh họa(Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng tin Đức Chúa Trời không phải là để mưu cầu phước lành hay lợi dụng bổn phận để đạt được mục đích của mình, mà nên chú trọng vào việc mưu cầu lẽ thật trong những hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt để giải quyết tâm tính bại hoại của bản thân, dùng những trải nghiệm thực tế của mình để làm chứng cho Đức Chúa Trời và làm tốt bổn phận của một loài thọ tạo. Đây mới là quan điểm mưu cầu đúng đắn trong đức tin nơi Đức Chúa Trời. Đồng thời, tôi cũng nhận ra rằng việc thực hiện bổn phận trong đức tin của mình không liên quan đến việc được phước hay gặp họa, vì làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo là chức trách của chúng ta, và dù được phước hay gặp họa, chúng ta vẫn phải làm tròn bổn phận của mình mà không thoái thác. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con không nên oán trách Ngài, hay đòi hỏi ân điển và phước lành từ Ngài. Mọi việc Ngài làm đều là tốt đẹp, là do con đã mù quáng không mưu cầu lẽ thật hay hiểu công tác của Ngài, lại còn cố giao dịch với Ngài. Giờ đây, con nguyện từ bỏ quan điểm mưu cầu sai lầm của mình và thuận phục sự tể trị, an bài của Ngài”.

Sau khi trải nghiệm sự thử luyện và tinh luyện này, tôi đã phần nào nhận ra ý định mưu cầu phước lành đầy uế tạp trong đức tin của mình, quan điểm tin Đức Chúa Trời của tôi cũng đã có chút thay đổi, và tôi đã có được một vài nhận thức về sự toàn năng và sự tể trị của Đức Chúa Trời. Tôi cũng hiểu ra rằng trải nghiệm khổ nạn và sự tinh luyện là chuyện tốt, là tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự cứu rỗi của Ngài!

Trước: 92. Suy ngẫm về chuyện liều mạng kiếm tiền

Tiếp theo: 94. Những điều học được qua việc điều chuyển bổn phận

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

29. Sự ăn năn của một sĩ quan

Bởi Chân Tâm, Trung QuốcĐức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Từ lúc sáng thế cho đến nay, tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm trong công tác của...

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 8) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger