3. Lời Đức Chúa Trời đã xóa bỏ sự hiểu lầm của tôi

Bởi Flavien, Bénin

Tháng 9 năm 2019 tôi tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Sau đó, tôi được chọn làm trưởng nhóm họp trong hội thánh, và các anh chị em nói tôi tiếp thu nhanh và có tố chất tốt. Không lâu sau đó, tôi được chọn làm chấp sự Phúc Âm, và tôi càng thực hiện bổn phận của mình tích cực hơn trước. Hàng ngày, tôi bận rao giảng Phúc Âm và tổ chức các buổi nhóm họp. Các anh chị em rất thích mối thông công của tôi, và lãnh đạo hội thánh nói tôi đã làm tốt. Việc này khiến tôi rất vui, và tôi cảm thấy tố chất của mình thực sự rất tốt. Để được nhiều người ngưỡng mộ hơn, tôi đọc nhiều lời Đức Chúa Trời hơn, xem nhiều phim của nhà Đức Chúa Trời và các video đọc lời Ngài. Nhưng tôi chỉ hài lòng với việc hiểu biết những câu chữ và đạo lý, hòng để khoe khoang bản thân, và không tập trung vào việc hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời hay thực hành lẽ thật. Trong các cuộc nhóm họp, tôi thông công cặn kẽ nhất có thể để người khác nghĩ tôi hiểu nhiều hơn. Thậm chí tôi còn thông công về những điều mình không hiểu rõ để khiến người khác nghĩ tôi biết mọi thứ. Để tạo hình ảnh tốt trong lòng lãnh đạo, tôi giả vờ là người rất mạnh mẽ. Ví dụ, lúc đầu, tôi có quan niệm về công tác của Đức Chúa Trời, nhưng tôi nghĩ nếu mình nói ra, lãnh đạo sẽ nghĩ tôi không hiểu lẽ thật. Thế là tôi cố tình giấu lãnh đạo quan niệm của mình. Cứ như thể là tôi đang đeo mặt nạ vậy. Những gì tôi thể hiện trước mặt người khác chỉ là ảo ảnh.

Vài tháng sau, tôi được chọn làm lãnh đạo hội thánh, phụ trách chính công tác Phúc Âm. Công tác này cần người ta phải có tố chất, sự phân định và khả năng làm việc. Tôi cảm thấy không ai trong hội thánh có những phẩm chất đó ngoài tôi ra, thế nên Đức Chúa Trời đã phong cho tôi thực hiện bổn phận này. Được thăng chức liên tục khiến tôi nghĩ mình khác mọi người, mình là người khao khát mưu cầu lẽ thật nhất, là người được Đức Chúa Trời yêu thương và ưu ái. Tôi cũng cảm thấy mình là người đặc biệt trong hội thánh, và là người hội thánh không thể thiếu được. Thậm chí tôi còn nghĩ việc phụ trách công tác Phúc Âm giống như lính canh cổng vào hội thánh, rằng tôi có thể quyết định ai có thể và ai không thể vào. Dần dà, tôi ngày càng trở nên kiêu ngạo, và cảm thấy rằng mình cao hơn người khác, rằng mình có thể ra lệnh, và các anh chị em là “người thừa hành” phải nghe lời tôi. Trong công tác của hội thánh, tôi luôn muốn tự quyết và có tiếng nói cuối cùng. Tôi cảm thấy như mình có khả năng làm việc, mình nắm vững nguyên tắc, thế nên không cần phải tiếp thu ý kiến, lời khuyên của người khác. Tôi luôn coi thường các anh chị em. Có một người nhóm trưởng có tố chất trung bình, người mà tôi coi thường. Không quan tâm xem chị ấy có làm bổn phận hiệu quả hay không, tôi vẫn muốn tự ý thay thế chị. Hơn nữa, tôi xem các anh chị em như cấp dưới của mình, và cảm thấy tôi có thể phê bình họ tùy thích. Một chị có cách thực hành riêng khi làm bổn phận, nhưng tôi không nghĩ chị làm đúng, thế là tôi nghiêm khắc phê bình chị mà không thông công về nguyên tắc. Việc này khiến chị ấy rất tiêu cực đến nỗi không muốn hợp tác với tôi. Sau đó, trong một buổi nhóm họp, lãnh đạo hỏi mọi người có khó khăn gì không, và chị này đã nói thẳng: “Anh Flavien có vấn đề. Anh ấy không thông công về lẽ thật, luôn phê bình mọi người, và mỗi lần anh ấy phê bình tôi thì luôn rất gay gắt”. Sau đó, một vài các anh chị em khác cũng báo cáo tôi tùy tiện phê bình mọi người, và vạch trần hành vi ngạo mạn của tôi bằng lời Đức Chúa Trời.

Thật ra, một số người đã đề cập với tôi về vấn đề lối cư xử ngạo mạn của tôi. Một số anh chị em thấy tôi quá nghiêm khắc khi hỏi công việc của người khác và đã gửi tin nhắn cho tôi nói rằng: “Anh này, nói như thế không hay đâu. Anh sẽ khiến các anh chị em thấy tiêu cực”. Các anh chị em cũng đề cập việc tôi lên giọng kẻ cả với người khác, không đặt mình ngang hàng với các anh chị em, thế nên một số người không muốn nói chuyện với tôi, còn người khác thấy bị công kích đến nỗi không muốn làm bổn phận của họ nữa. Sau khi bị các anh chị em liên tục phê phán và tỉa sửa, lòng tự tôn của tôi bị giáng một đòn mạnh. Tôi từng nghĩ mình là người được Đức Chúa Trời yêu thương, ưu ái, nhưng thấy cách các anh chị em vạch trần, từ chối mình khiến tôi rất chán nản và tiêu cực. Tôi mất động lực mưu cầu, và tôi chỉ làm qua loa trong bổn phận của mình, không theo sát công việc của các anh chị em, cũng không tập trung giải quyết các vấn đề hay khó khăn họ gặp phải. Tôi hoàn toàn không quan tâm xem họ cần gì nhất.

Sau đó, một chị gửi cho tôi một đoạn lời Đức Chúa Trời. Đoạn này rất liên quan đến tình trạng của tôi. Đức Chúa Trời phán: “Từ khi nhân loại bị Sa-tan làm bại hoại, bản tính của con người đã bắt đầu biến chất, và họ đã dần mất đi lý trí của con người bình thường. Họ bây giờ không còn làm người ở vị trí của con người nữa mà tràn đầy dã tâm, vượt khỏi vị trí của con người và còn muốn vượt cao hơn nữa. ‘Cao hơn’ ở đây ám chỉ điều gì? Họ mong muốn vượt hơn Đức Chúa Trời, vượt hơn các từng trời, và vượt hơn mọi thứ khác. Đâu là căn nguyên của việc con người bộc lộ ra những tâm tính như thế? Xét cho cùng, bản tính của con người quá kiêu ngạo. Hầu hết mọi người đều hiểu ý nghĩa của từ ‘kiêu ngạo’. Đây là một từ mang nghĩa xấu. Nếu ai đó tỏ ra kiêu ngạo thì những người khác sẽ nghĩ rằng họ không phải là người tốt. Nhìn thấy người nào quá kiêu ngạo thì con người sẽ cảm thấy người này chắc chắn là kẻ ác. Không ai muốn từ này được dùng cho mình cả. Tuy nhiên, trên thực tế, ai cũng kiêu ngạo, và nhân loại bại hoại đều có thực chất này. Một số người nói: ‘Tôi không kiêu ngạo chút nào. Tôi chưa bao giờ muốn là thiên sứ trưởng, tôi cũng chưa bao giờ muốn vượt hơn Đức Chúa Trời hay vượt hơn mọi thứ. Tôi luôn là người đặc biệt thật thà và giữ bổn phận’. Không hẳn như vậy, những lời này không đúng. Một khi con người đã có bản tính và thực chất kiêu ngạo thì họ có thể thường xuyên phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, không nghe lời Ngài, có quan niệm về Ngài, làm ra những việc phản bội Ngài, còn có thể làm ra những việc tôn họ lên và làm chứng cho chính họ. Ngươi nói ngươi không kiêu ngạo, nhưng giả sử ngươi được ban cho một hội thánh và được phép lãnh đạo hội thánh đó; giả sử Ta đã không tỉa sửa ngươi và không ai trong nhà Đức Chúa Trời chỉ trích hay trợ giúp ngươi: sau khi lãnh đạo hội thánh đó một thời gian, ngươi sẽ đưa mọi người đến dưới chân ngươi và bắt họ đầu phục trước ngươi, thậm chí đến mức coi trọng và ngưỡng vọng vào ngươi. Tại sao ngươi lại làm như thế? Điều này sẽ được quyết định bởi bản tính của ngươi; đây chính là sự tỏ lộ tự nhiên. Ngươi không cần phải học điều này từ những người khác, họ cũng không cần phải dạy cho ngươi. Ngươi không cần những người khác ra lệnh hay ép buộc ngươi làm điều này mà cục diện này sẽ tự nhiên được hình thành. Mọi điều ngươi làm đều là để mọi người tán dương ngươi, khen ngợi ngươi, tôn thờ ngươi, quy phục ngươi và nghe lời ngươi trong mọi sự. Nếu cho phép ngươi làm một lãnh đạo thì ắt sẽ dẫn đến cục diện này và điều này không thể thay đổi được. Cục diện này hình thành như thế nào? Nó được quyết định bởi bản tính kiêu ngạo của con người. Biểu hiện của sự kiêu ngạo là phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời. Khi con người ta kiêu ngạo, tự đại và tự nên công chính thì họ sẽ có thể thiết lập một vương quốc độc lập của riêng mình và làm việc theo bất cứ cách nào họ muốn. Họ cũng đưa những người khác vào tầm thâu tóm của mình và lôi kéo những người đó vào vòng tay mình. Khi con người ta có khả năng làm những việc kiêu ngạo như thế thì chứng tỏ rằng thực chất bản tính kiêu ngạo của họ chính là Sa-tan, chính là thiên sứ trưởng. Khi sự kiêu ngạo và tự đại của họ đạt đến một mức độ nhất định thì họ không còn chỗ dành cho Đức Chúa Trời trong lòng, và gạt Đức Chúa Trời sang một bên. Sau đó, họ muốn mình trở thành Đức Chúa Trời, bắt mọi người nghe theo họ và như thế là họ trở thành thiên sứ trưởng. Nếu ngươi có bản tính Sa-tan kiêu ngạo như thế thì trong lòng ngươi sẽ không còn địa vị cho Đức Chúa Trời nữa. Ngay cả khi ngươi tin Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời cũng sẽ không còn công nhận ngươi, sẽ xem ngươi là kẻ ác và sẽ đào thải ngươi(Bản tính kiêu ngạo nằm ở gốc rễ sự chống đối Đức Chúa Trời của con người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi nghĩ về hành vi của mình cho tới giờ. Từ lúc bắt đầu tin Đức Chúa Trời, mọi người đã ngưỡng mộ và khích lệ tôi. Họ nói tôi có tố chất tốt và tôi thông công hay. Tôi cũng được thăng chức vài lần, thế nên tôi thấy mình đặc biệt và giỏi hơn các anh chị em khác, và tôi đủ tư cách phụ trách họ. Bản tính ngạo mạn và tự cho mình là đúng cùng tham vọng theo đuổi địa vị đã khiến tôi nghĩ mình là người được Đức Chúa Trời vui thích và ưu ái. Tôi cảm giác mình xuất sắc và vượt trội hơn người khác, nên bắt đầu lợi dụng vị trí để la mắng, gò ép người khác, thậm chí còn cố kiểm soát các anh chị em bắt họ nghe lời tôi. Tôi đã hành xử hệt như thiên sứ trưởng! Tôi quá tự cao về mình. Sau khi bị các anh chị em tỉa sửa và bác bỏ, tôi nhận ra mình không hoàn hảo như mình tưởng. Tôi xem mình cao trọng hơn người khác, rằng Đức Chúa Trời ưu ái mình, nhưng đó chỉ là sự tưởng tượng của tôi mà thôi.

Vài ngày sau, tôi đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời vạch trần và mổ xẻ kẻ địch lại Đấng Christ. Đức Chúa Trời phán: “Những kẻ địch lại Đấng Christ sẽ trả bất cứ giá nào vì lợi ích địa vị của họ và sự thỏa mãn tham vọng của họ, vì mục tiêu kiểm soát hội thánh và trở thành Đức Chúa Trời. Họ thường làm việc đến khuya và thức dậy vào lúc rạng đông, còn ghi lại những điều xuất sắc mà người khác nói, diễn tập các bài giảng của họ vào nửa đêm hay hừng sáng, tất cả là để trang bị cho bản thân học thuyết mà họ cần để giảng những bài giảng cao cả. Mỗi ngày, họ suy ngẫm xem nên dùng những lời nào của Đức Chúa Trời khi thuyết giảng những bài giảng cao trọng của họ, những lời nào sẽ khơi dậy sự ngưỡng mộ và ngợi khen giữa những người được chọn, và rồi họ học thuộc lòng những lời ấy. Sau đó, họ cân nhắc làm thế nào để diễn giải những từ đó theo cách thể hiện được sự thông minh và hiểu biết sâu sắc của họ. Để thật sự ghi khắc lời Đức Chúa Trời vào lòng, họ còn nỗ lực nghe lời Ngài thêm vài lần. Họ làm mọi việc này với tất cả nỗ lực của những sinh viên tranh giành một vị trí trong trường đại học. Khi ai đó giảng một bài giảng hay, hoặc bài giảng cung cấp sự soi sáng nào đó, hoặc bài giảng cung cấp lý thuyết nào đó, thì một kẻ địch lại Đấng Christ sẽ thu thập và biên soạn nó và biến nó thành bài giảng của riêng họ. Không có lượng công việc nào là quá lớn đối với kẻ địch lại Đấng Christ. Vậy thì động cơ và ý định đằng sau sự nhọc công này của họ là gì? Đó là có thể rao giảng lời Đức Chúa Trời, nói ra những lời đó một cách rõ ràng và dễ dàng, nói thật thông thạo, để những người khác có thể thấy rằng kẻ địch lại Đấng Christ thuộc linh hơn họ, quý trọng lời Đức Chúa Trời hơn, yêu kính Đức Chúa Trời hơn. Bằng cách này, một kẻ địch lại Đấng Christ có thể đạt được sự ngưỡng mộ và tôn thờ của những người xung quanh họ. Một kẻ địch lại Đấng Christ cảm thấy đây là một việc đáng làm và xứng đáng với bất kỳ nỗ lực nào, cái giá nào hay gian khổ nào(Mục 10. Họ xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời Chúa Trời (Phần 7), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). “Thực chất hành vi của những kẻ địch lại Đấng Christ là liên tục sử dụng các phương tiện và phương thức khác nhau để thỏa mãn dã tâm và dục vọng của họ, đạt được mục đích mê hoặc và lung lạc người ta, chiếm vị thế cao để khiến người ta đi theo và sùng bái họ. Có thể trong sâu thẳm nội tâm, họ không cố ý tranh giành nhân loại với Đức Chúa Trời, nhưng có một điều chắc chắn: Ngay cả khi họ không tranh giành con người với Đức Chúa Trời, họ vẫn mong muốn có địa vị và quyền thế giữa mọi người. Ngay cả khi đến một ngày họ nhận ra rằng mình đang tranh giành địa vị với Đức Chúa Trời, và họ tự kiềm chế một chút, thì họ vẫn sử dụng các phương pháp khác nhau để mưu cầu địa vị và danh dự; trong lòng họ biết rõ rằng họ chỉ cần có thể đạt được sự tán thưởng và khâm phục của một số người thì họ sẽ có được địa vị một cách danh chính ngôn thuận. Nói tóm lại, mặc dù mọi việc những kẻ địch lại Đấng Christ làm dường như là dang làm bổn phận, nhưng hậu quả nó mang lại là mê hoặc mọi người, khiến mọi người sùng bái và đi theo họ – trong trường hợp này, việc thực hiện bổn phận của họ theo cách này là đề cao và làm chứng cho chính họ. Dã tâm muốn khống chế mọi người – cũng như giành được địa vị và quyền lực trong hội thánh của họ – sẽ không bao giờ thay đổi. Họ hoàn toàn là một kẻ địch lại Đấng Christ(Mục 5. Họ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người, Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Đức Chúa Trời phán kẻ địch lại Đấng Christ dùng vẻ ngoài đau khổ để tạo ảo ảnh lừa gạt mọi người, hòng để nhận được sự ca tụng, tôn thờ của người khác. Đây chẳng phải là tôi sao? Tôi luôn tìm kiếm danh vị, và mọi điều tôi làm đều là để được người khác nể trọng. Tôi dành rất nhiều thời gian đọc lời Ngài, có khi đọc đến tận khuya mới ngủ, nhưng mục đích của tôi chỉ đơn thuần là để hiểu được nhiều giáo lý hơn để khoe khoang bản thân tốt hơn và được mọi người kính nể và coi trọng. Lời Đức Chúa Trời tiết lộ mọi biểu hiện của tôi. Tôi thấy mình đã bị Đức Chúa Trời lên án, rằng mình sẽ bị đào thải và lòng tôi đầy lo lắng. Nhưng tôi không dám nói với các anh chị em tình trạng thật của mình, vì sợ bị xem là kẻ địch lại Đấng Christ và bị khai trừ. Tôi cố gắng che dấu sự lo lắng của mình trước mặt người khác, nhưng trong lòng tôi đau đớn và tôi cảm thấy như mình đã bị kết án tử. Cũng trong quãng thời gian đó, một kẻ địch lại Đấng Christ đã bị vạch trần và bị khai trừ. Bề ngoài, cô ta tỏ vẻ dâng mình cho Đức Chúa Trời và tìm kiếm lời Ngài để thông công với các anh chị em, nhưng bản thân cô ta lại không thực hành lời Ngài, và khi xảy ra điều không phù hợp với quan niệm của mình, cô ta reo giắc sự tiêu cực, thậm chí phủ nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt và gây rối những người nghiên cứu con đường thật. Tôi nhận một số biểu hiện ở tôi giống cô ta. Ví dụ, tôi thường tìm lời Đức Chúa Trời để thông công với các anh chị em, nhưng bản thân tôi không thực hành lời Ngài. Khi gặp khó khăn, tôi dựa vào sự khôn ngoan và hiểu biết của mình để giải quyết, thay vì tập trung tìm kiếm ý muốn của Ngài hay thực hành lẽ thật. Hơn nữa, tôi cũng có những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ mà lời Đức Chúa Trời đã tiết lộ. Tôi lại càng lo mình sẽ thành kẻ địch lại Đấng Christ và bị khai trừ vì thấy mình có bản tính xấu, có thể dễ dàng lừa dối, kiểm soát các anh chị em, và rồi một ngày nào đó, giống như kẻ địch lại Đấng Christ, tôi sẽ gây gián đoạn công tác của hội thánh. Nghĩ đến điều này càng khiến tôi thêm hoảng sợ. Tôi thấy mình không có hi vọng được ban phước, do đó tôi bắt đầu phàn nàn: “Mình đã bất chấp sự phản đối của gia đình để tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, thậm chí từ bỏ tương lai, rời quê hương để đi truyền bá Phúc Âm ở những vùng mới. Mình đã trả giá đắt như vậy, nhưng cuối cùng vẫn sẽ xuống địa ngục bị trừng phạt. Nếu biết kết cuộc như này, mình đã không dâng mình quá nhiều. Chí ít thì cũng hưởng thụ được chút hạnh phúc thể xác trước khi chết”. Khi đó, tôi chỉ nghĩ về đích đến của mình, không chú ý đến việc tìm kiếm ý muốn của Ngài, thế nên tôi luôn đề phòng Đức Chúa Trời và hiểu lầm Ngài. Tôi thấy nếu tiếp tục làm một bổn phận quan trọng như vậy, chắc chắn tôi sẽ bị vạch trần và khai trừ, nên tôi đã từ chức lãnh đạo. Tôi sợ các anh chị em sẽ chỉ trích và tỉa sửa tôi sau khi thấy bộ mặt thật của tôi nên tôi không mở lòng với họ, cũng không hợp tác với họ. Mối quan hệ với các anh chị em hoàn toàn xa cách. Sau đó, tôi lấy cớ về nhà để rao giảng Phúc Âm để trở về với gia đình ngoại đạo của mình. Đối mặt với sự ép buộc và ngăn cản của gia đình, tôi càng trở nên tiêu cực hơn. Dù còn tiếp tục tham gia nhóm họp, nhưng tôi chỉ đi họp cho có. Tôi rất yếu đuối, cảm thấy mình đã đến hồi kết, nên tôi quyết định rời khỏi hội thánh.

Sau khi rời hội thánh, trong lòng tôi thấy rất trống rỗng. Tôi ở trong phòng cả ngày dài, không muốn làm gì cả. Dù gia đình không còn làm khổ tôi và về thể xác tôi khá thoải mái, nhưng lòng tôi đầy lo lắng và thấy rất tội lỗi. Tôi luôn lo mình sẽ bị Đức Chúa Trời trừng phạt vì đã phản bội Ngài. Tôi sợ địa ngục, sợ cái chết – tôi cố tìm cách bớt lo lắng nhưng vô ích mà thôi. Tôi đọc rất nhiều sách khoa học xã hội, hy vọng tìm thấy điều gì trong sách để an ủi tâm hồn mình, nhưng không gì có thể giải tỏa được nỗi day dứt trong tôi. Dường như tôi chỉ thụ động chờ chết. Một ngày nọ, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời xin Ngài dẫn dắt tôi thoát khỏi tình thế khó khăn này. Sau đó, tôi bắt đầu nghe nhạc thánh ca và đọc lời Đức Chúa Trời. Lời Ngài khuấy động lương tâm tôi và khai sáng tôi. Đức Chúa Trời phán: “Một số người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, và thường bộc lộ một vài tâm tính bại hoại nhất định, nhưng khi có những bộc lộ đó, họ cũng có thể phản tỉnh và biết mình, có thể tiếp nhận và thực hành lẽ thật, sau một thời gian, có thể thấy sự thay đổi nơi họ. Họ là những đối tượng có thể được cứu rỗi(Mục 4. Họ đề cao và làm chứng cho bản thân, Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). “Có những người khi đọc lời Đức Chúa Trời thường nảy sinh những quan niệm và hiểu lầm vì Đức Chúa Trời phơi bày tình trạng bại hoại của con người và nói những lời lên án con người. Họ trở nên tiêu cực và yếu đuối, nghĩ rằng những lời Đức Chúa Trời nhắm vào họ, rằng Đức Chúa Trời đang từ bỏ họ và sẽ không cứu rỗi họ. Họ trở nên tiêu cực đến mức rơi lệ và không muốn đi theo Đức Chúa Trời nữa. Đây thực sự là một sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Khi ngươi không hiểu ý nghĩa của lời Đức Chúa Trời, ngươi không nên cố quy định Đức Chúa Trời. Ngươi không biết Đức Chúa Trời ruồng bỏ loại người nào, hay Ngài từ bỏ con người trong hoàn cảnh nào, hay Ngài gạt con người sang một bên trong hoàn cảnh nào; có những nguyên tắc và bối cảnh cho tất cả những điều này. Nếu ngươi không thông hiểu đầy đủ về những việc cụ thể này, ngươi sẽ rất dễ bị quá mẫn cảm và ngươi sẽ quy định bản thân mình dựa trên một vài lời từ Đức Chúa Trời. Chẳng phải như thế là có vấn đề sao? Khi Đức Chúa Trời phán xét con người, khía cạnh chính của họ mà Ngài lên án là gì? Điều Đức Chúa Trời phán xét và quy định là những tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của con người, Ngài lên án tâm tính Sa-tan và bản tính Sa-tan của họ, Ngài lên án những biểu hiện và hành vi khác nhau của việc họ phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, Ngài lên án họ vì không thể thuận phục Đức Chúa Trời, vì luôn chống đối Đức Chúa Trời, và vì luôn có những động cơ và mục tiêu riêng của mình – nhưng sự lên án như vậy không có nghĩa là Đức Chúa Trời đã từ bỏ những người có tâm tính Sa-tan. Nếu ngươi không hiểu rõ điều này thì ngươi không có năng lực lĩnh hội, điều này khiến ngươi có chút giống những người mắc bệnh tâm thần, luôn nghi ngờ mọi chuyện và hiểu sai Đức Chúa Trời. Những người như vậy không có đức tin thật, vậy sao họ có thể theo Đức Chúa Trời đến cùng được? Nghe chỉ một lời tuyên án của Đức Chúa Trời, ngươi nghĩ rằng đã bị Đức Chúa Trời kết án, mọi người đã bị Đức Chúa Trời từ bỏ và sẽ không còn được cứu rỗi nữa, và bởi vì điều này mà ngươi trở nên tiêu cực, bỏ mặc bản thân rơi vào tuyệt vọng. Đây là hiểu sai về Đức Chúa Trời. Thực ra, Đức Chúa Trời không từ bỏ con người. Họ đã hiểu sai Đức Chúa Trời và tự từ bỏ bản thân mình. Không có gì nghiêm trọng hơn là khi con người tự từ bỏ bản thân mình, như đã được ứng nghiệm bằng những lời trong Cựu Ước: ‘Kẻ ngu dại chết, vì thiếu trí hiểu’ (Châm ngôn 10:21). Không có hành vi nào ngu ngốc hơn là khi con người ta bỏ mặc bản thân rơi vào tuyệt vọng. Đôi khi ngươi đọc những lời Đức Chúa Trời dường như quy định con người; nhưng thực ra, những lời đó không quy định bất cứ ai cả, mà là sự thể hiện tâm ý và quan điểm của Đức Chúa Trời. Những lời này là lẽ thật và nguyên tắc, chúng không quy định ai cả. Những lời Đức Chúa Trời phán ra trong những lúc giận dữ hay thạnh nộ cũng thể hiện tâm tính của Đức Chúa Trời, những lời này là lẽ thật, và hơn nữa, chúng thuộc về nguyên tắc. Con người phải hiểu được điều này. Mục đích Đức Chúa Trời phán những lời này là để con người hiểu được lẽ thật và hiểu được các nguyên tắc; nó hoàn toàn không phải là để quy định con người. Điều này không liên quan gì đến đích đến và phần thưởng cuối cùng của con người, càng không phải là sự trừng phạt cuối cùng của con người. Đây chỉ đơn thuần là những lời để phán xét và tỉa sửa con người, lời Ngài là kết quả của sự tức giận khi con người không sống đúng kỳ vọng của Ngài, và những lời này hòng để thức tỉnh họ, để thúc giục họ – và chúng là những lời phát xuất từ tấm lòng Đức Chúa Trời. Ấy thế mà, một số người gục ngã và từ bỏ Đức Chúa Trời chỉ vì một lời phán xét của Đức Chúa Trời. Những người như thế không biết điều gì tốt cho họ, họ trơ lì với lý trí và hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật. … Có những lúc Đức Chúa Trời lánh khỏi con người, và những lúc Ngài để họ sang một bên một khoảng thời gian để họ có thể phản tỉnh về chính mình, nhưng Đức Chúa Trời chưa từ bỏ họ; Ngài đang ban cho họ cơ hội ăn năn. Đức Chúa Trời chỉ thật sự từ bỏ và những kẻ ác phạm nhiều điều ác, những kẻ chẳng tin và những kẻ địch lại Đấng Christ. Một số người nói: ‘Tôi cảm thấy không có công tác của Đức Thánh Linh và tôi đã không có sự khai sáng của Đức Thánh Linh từ lâu. Có phải Đức Chúa Trời đã từ bỏ tôi?’. Đây là một quan niệm sai lầm. Có một vấn đề về tâm tính ở đây: con người có quá chiều theo cảm xúc, họ luôn làm theo lý lẽ riêng của mình, luôn tùy ý và không có lý trí – đây chẳng phải là vấn đề về tâm tính sao? Ngươi nói rằng Đức Chúa Trời đã từ bỏ ngươi, rằng Ngài sẽ không cứu rỗi ngươi, vậy thì Ngài đã quy định kết cục cho ngươi sao? Đức Chúa Trời chỉ đơn thuần phán vài lời giận dữ với ngươi. Sao ngươi có thể nói Ngài đã từ bỏ ngươi, rằng Ngài không muốn ngươi nữa? Có những lúc ngươi không thể cảm nhận được công tác của Đức Thánh Linh, nhưng Đức Chúa Trời chưa tước đi của ngươi quyền đọc lời Ngài, Ngài cũng chưa quy định kết cục của ngươi, hay chia cắt con đường dẫn đến sự cứu rỗi của ngươi – vậy ngươi buồn phiền về điều gì? Ngươi đang ở trong một trạng thái tồi tệ, có vấn đề trong những động cơ của ngươi, có vấn đề trong quan điểm và tư tưởng của ngươi, trạng thái tâm trí của ngươi bị méo mó – thế mà ngươi không cố gắng sửa chữa những điều này bằng cách tìm kiếm lẽ thật, và liên tục diễn dịch sai và oán trách Đức Chúa Trời, và đẩy trách nhiệm cho Đức Chúa Trời, và thậm chí còn nói: ‘Đức Chúa Trời không muốn tôi, do đó tôi không tin vào Ngài nữa’, thì chẳng phải ngươi lố bịch sao? Chẳng phải ngươi không có lý trí sao?(Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình thì mới có thể tiến vào đúng hướng của đức tin nơi Đức Chúa Trời (1), Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Ngài lay động lòng tôi. Tôi hiểu ra rằng Đức Chúa Trời không từ bỏ, không lên án, không định đoạt kết cuộc của tôi. Thực ra, Ngài biết tôi đã bị Sa-tan làm bại hoại thế nào. Đức Chúa Trời để các anh chị em vạch trần tôi đúng lúc và dùng lời Ngài để vạch trần tâm tính bại hoại của tôi và con đường sai trái tôi đi, vì chỉ có như vậy tôi mới hiểu biết về mình. Đây là cơ hội tuyệt vời để tôi thay đổi. Sự phán xét, hình phạt và tỉa sửa của Ngài không phải là để lên án hay đào thải tôi, mà đều là để cứu rỗi tôi. Đức Chúa Trời mong tôi có thể thực sự biết mình, và thực sự ăn năn. Nhưng tôi lại dùng định kiến và quan niệm cá nhân để hiểu sai ý muốn của Ngài, tưởng rằng vì tôi có biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ nên chắc chắn Đức Chúa Trời không muốn tôi, tôi chắc chắn chịu chung số phận của những kẻ bị diệt vong. Tôi tin nếu một người có tâm tính của một kẻ địch lại Đấng Christ như tôi mà vẫn ở trong hội thánh thì sớm hay muộn họ cũng sẽ làm gián đoạn công tác của hội thánh. Nhưng thật ra, mọi biểu hiện của tôi là bình thường trong mắt Ngài. Tôi đã bộc lộ biểu hiện tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng tôi chưa trở thành một kẻ địch lại Đấng Christ. Đức Chúa Trời đào thải và trừng phạt những kẻ có thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Chúng không thể ăn năn, vì thực chất bản tính của chúng là tà ác, và chúng ghê tởm, căm ghét lẽ thật. Cho dù có làm gì sai, chúng cũng không bao giờ nhận lỗi, và chúng làm bất cứ điều gì để duy trì uy tín và địa vị của mình cho đến chết. Tôi vẫn có thể nhận ra mình bị bại hoại quá sâu sắc, và tôi biết lỗi của mình, do đó tôi vẫn còn cơ hội ăn năn. Tôi chỉ có tâm tính của một kẻ địch lại Đấng Christ, chứ không phải là kẻ địch lại Đấng Christ không có khả năng chấp nhận dù chỉ một chút lẽ thật hay là kẻ khinh ghét lẽ thật. Đức Chúa Trời không lên án tôi trên sự bại hoại đã bị phơi bày của tôi, mà đã cố hết sức có thể để cứu rỗi tôi, mong chờ tôi ăn năn. Nhưng tôi đã sống theo các quan niệm chống đối Đức Chúa Trời và đã hiểu lầm Ngài, tin rằng Đức Chúa Trời sẽ đào thải mình nên tôi từ chức và rời khỏi hội thánh, lo rằng nếu vẫn còn ở lại trong hội thánh, tôi sẽ tiếp tục gây gián đoạn công tác của nhà Đức Chúa Trời và tôi sẽ phải chịu sự trừng phạt còn nặng hơn nữa. Tôi không hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, không biết được tình yêu hay tâm tính của Ngài. Tôi nghĩ vì Đức Chúa Trời không muốn tôi nữa nên nỗ lực gì của tôi cũng là vô ích. Nếu không tận hưởng vui thú thể xác trong thế gian này, tôi sẽ chẳng có gì cả. Giờ nhìn lại điều mình đã làm, tôi thấy xấu hổ vô cùng. Tôi đã thề nhiều lần rằng sẽ theo Đức Chúa Trời suốt đời, nhưng ngay khi đối mặt với sự phán xét và vạch trần, tôi trở nên thụ động, từ chối sự cứu rỗi của Ngài, mất đức tin nơi Ngài, và không chút do dự chọn lợi ích cá nhân và quay trở lại thế giới, tận hưởng vui thú thể xác. Lương tâm của tôi ở đâu! Tôi thấy vô cùng hối hận. Giờ khi hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, dường như tôi đã có hy vọng sống lại và tôi thấy như được sống lại từ cõi chết. Tôi gác lại mọi kế hoạch cá nhân, bao gồm cả việc học và công việc, và bắt đầu chuyên tâm suy ngẫm lời Ngài, hát thánh ca, nghe đọc lời Đức Chúa Trời, và tìm kiếm ý muốn của Ngài trong lời Ngài. Giống như là bắt đầu lại trên con đường tin Đức Chúa Trời vậy. Dần dần, một lần nữa tôi lại nhận được lòng thương xót của Đức Chúa Trời và cảm nhận được niềm vui về sự hiện diện của Ngài. Tôi tìm được sự bình an và niềm vui trong tâm, và trong lòng lại cảm thấy khao khát được quay lại hội thánh. Tuy vậy, tôi không biết liệu hội thánh có chấp nhận tôi không. Vì vậy, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài thương xót, cứu rỗi tôi.

Vài tuần sau, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời và hiểu thêm được một chút về ý muốn của Ngài. Đức Chúa Trời phán: “Vài năm sau khi giai đoạn công tác này bắt đầu, có một người tin Đức Chúa Trời nhưng không mưu cầu lẽ thật; tất cả những gì anh ta muốn là kiếm tiền và tìm một người bạn đời, để sống cuộc sống của một người giàu có, và vì vậy anh ta rời khỏi hội thánh. Sau khi rong ruổi nhiều năm, anh ta bất ngờ trở lại. Anh ta cảm thấy hối hận vô cùng trong lòng, và đã khóc nước mắt giàn giụa. Điều này chứng tỏ rằng lòng anh ta đã không rời bỏ Đức Chúa Trời hoàn toàn, và đây là một điều tốt; anh ta vẫn còn một cơ hội và hy vọng được cứu rỗi. Nếu anh ta đã không tin nữa, trở nên y như những người ngoại đạo thì anh ta đã hoàn toàn tiêu đời. Nếu anh ta có thể thật sự ăn năn, thì vẫn còn hy vọng cho anh ta; điều này là hiếm và quý giá. Bất kể Đức Chúa Trời hành động thế nào, và cho dù Ngài đối xử với con người ra sao – ngay cả khi Ngài căm ghét, khinh ghét, hay rủa sả họ – nếu có một ngày họ có thể quay đầu thì Ta sẽ có được niềm an ủi rất lớn, bởi điều này sẽ có nghĩa rằng họ vẫn có chút ít chỗ cho Đức Chúa Trời trong lòng họ, rằng họ không hoàn toàn mất lý trí con người hay nhân tính của họ, rằng họ vẫn muốn tin Đức Chúa Trời, và họ chí ít có chút ý định thừa nhận Đức Chúa Trời và trở về trước Ngài. Đối với những người thật sự có Đức Chúa Trời trong lòng, cho dù khi họ rời bỏ nhà Đức Chúa Trời, nếu họ trở lại và vẫn thân cận với gia đình này thì Ta sẽ trở nên có phần gắn bó về mặt tình cảm và sẽ được an ủi đôi chút vì điều này. Tuy nhiên, nếu họ không bao giờ quay lại, Ta sẽ nghĩ điều đó thật đáng tiếc. Nếu họ có thể quay lại và thật sự ăn năn thì lòng Ta sẽ đặc biệt đầy mãn nguyện và được an ủi. Việc người này vẫn có khả năng quay trở lại ngụ ý rằng anh ta chưa quên Đức Chúa Trời; anh ta trở về vì trong lòng mình, anh ta vẫn khao khát Đức Chúa Trời. Thật cảm động khi chúng ta gặp nhau. Khi anh ta ra đi, anh ta chắc chắn đã rất tiêu cực, và đã ở trong trạng thái tồi tệ; tuy nhiên, nếu giờ anh ta có thể quay lại thì điều đó chứng tỏ anh ta vẫn có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, anh ta có thể tiếp tục tiến tới hay không là một yếu tố chưa biết, bởi con người thay đổi rất nhanh. Trong Thời đại Ân điển, Jêsus đã thương xót và ban ân điển cho con người. Nếu trong một trăm con chiên có một con bị lạc, Ngài sẽ bỏ chín mươi chín con kia mà tìm con chiên ấy. Điều này không đại diện cho một hành động máy móc, cũng không phải là quy định; đúng hơn, nó cho thấy tâm ý cấp thiết của Đức Chúa Trời là mang đến sự cứu rỗi cho con người, cũng như tình yêu sâu sắc của Ngài dành cho họ. Đó không phải là một cách làm việc; đó là một dạng tâm tính, một kiểu tâm lý. Do đó, một số người rời khỏi hội thánh sáu tháng hay một năm, hay có yếu đuối thế nào, hay có bao nhiêu hiểu lầm, và ấy thế mà khả năng họ thức tỉnh trước thực tế, đạt được nhận thức và quay đầu, và quay lại đúng hướng sau đó khiến Ta cảm thấy đặc biệt được an ủi và mang lại cho Ta chút niềm vui. Trong thế giới vui vẻ và rực rỡ này, và trong thời đại tà ác này, việc có thể thừa nhận Đức Chúa Trời và quay lại đúng hướng là điều mang lại khá nhiều niềm an ủi và làm xúc động lòng người. Lấy việc nuôi con làm ví dụ: dù chúng có hiếu thảo hay không, ngươi sẽ cảm thấy thế nào nếu chúng không thừa nhận ngươi, bỏ nhà đi, và không bao giờ trở lại? Tận sâu thẳm, ngươi vẫn sẽ tiếp tục cảm thấy quan tâm đến chúng, và ngươi sẽ luôn tự hỏi: ‘Khi nào con trai tôi quay trở lại? Tôi muốn gặp nó. Suy cho cùng, nó là con trai tôi, và chẳng phải khi không mà tôi nuôi nấng, yêu thương nó’. Ngươi luôn nghĩ theo cách này; ngươi luôn khao khát ngày ấy đến. Mọi người đều cảm nhận như nhau về việc này, huống chi là Đức Chúa Trời – chẳng phải Ngài càng hy vọng nhiều hơn rằng con người sẽ tìm thấy đường về sau khi lạc lối, rằng đứa con hoang đàng sẽ trở về sao? Con người ngày nay có vóc giạc nhỏ bé, nhưng sẽ đến ngày họ hiểu ra tâm ý của Đức Chúa Trời – trừ khi họ không có sự hướng vọng đến đức tin thật, trừ khi họ là những người không tin, vậy thì trong trường hợp đó, họ không đáng để Đức Chúa Trời quan tâm(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Những lời Đức Chúa Trời khiến tôi cảm động, nước mắt tuôn rơi trên mặt. Tôi cảm giác như Ngài đang phán trực tiếp với mình, giống như người mẹ đang trò chuyện với con mình. Ngài đã cứu rỗi tôi khi tôi tuyệt vọng nhất, và khiến tôi nhận ra tình yêu thương của Ngài là thật. Tôi hiểu rằng Ngài không dễ dàng kết án hay giết người. Đức Chúa Trời đến nhập thể trong thời kỳ sau rốt để cứu rỗi nhân loại. Ngài chưa bao giờ thực sự rời bỏ tôi như tôi tưởng. Thay vào đó, vì tâm tính bại hoại và con đường sai lầm tôi đi, Ngài đã che giấu không cho tôi thấy mặt Ngài. Đó là sự công chính và thánh khiết của Đức Chúa Trời, để sửa dạy và để thay đổi tôi. Đức Chúa Trời chờ tôi ăn năn, nhưng tôi lại có nhiều quan niệm và hiểu lầm về Ngài. Tôi luôn đứng trên quan điểm cá nhân và dùng quan niệm của mình thay thế cho ý muốn của Đức Chúa Trời, như thể là mình hiểu lẽ thật. Dù tôi rất phản nghịch, nhưng Đức Chúa Trời biết điểm yếu của tôi cũng như biết tôi sẽ vấp ngã, thất bại ở đâu. Tình yêu của Đức Chúa Trời lớn hơn nhiều so với những gì tôi có thể tưởng tượng. Ngài dẫn dắt tôi từng bước cho tới khi tôi thức tỉnh. Tôi nhận ra ý định cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời thật chân thành. Chừng nào mọi người còn giữ danh Ngài và theo đường lối của Ngài, thì Ngài sẽ luôn dang tay cứu rỗi. Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm về sự sống của mọi người, nhưng mọi người phải tích cực hoàn thành trách nhiệm của một loài thọ tạo. Đức Chúa Trời không thích những kẻ hèn nhát như tôi, Ngài thích những người có nghị lực. Chỉ cần tôi thành tâm ăn năn hối cải và nỗ lực mưu cầu lẽ thật và thay đổi bản thân, thì vẫn chưa quá muộn. Tôi vẫn có cơ hội thay đổi tâm tính bại hoại và được cứu rỗi. Khi hiểu ra được ý muốn của Ngài, tình trạng tiêu cực và hiểu lầm của tôi được đảo ngược.

Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác khiến tôi hiểu thêm về công tác phán xét của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán: “Ngày nay, Đức Chúa Trời phán xét các ngươi, hành phạt các ngươi, và kết án các ngươi, nhưng ngươi phải biết rằng mục đích của việc kết án ngươi là để ngươi biết được chính mình. Ngài kết án, rủa sả, phán xét và hành phạt để ngươi có thể biết được chính mình, để tâm tính của ngươi có thể thay đổi, và hơn thế nữa, để ngươi có thể biết được giá trị của mình, và thấy rằng tất cả hành động của Đức Chúa Trời đều công chính và phù hợp với tâm tính của Ngài và những yêu cầu trong công tác của Ngài, rằng Ngài làm việc phù hợp với kế hoạch cứu rỗi nhân loại của Ngài, và rằng Ngài là Đức Chúa Trời công chính, Đấng yêu thương, cứu rỗi, phán xét, và hành phạt con người. Nếu ngươi chỉ biết rằng ngươi có địa vị thấp hèn, rằng ngươi bại hoại và phản nghịch, nhưng không biết rằng Đức Chúa Trời mong muốn làm rõ sự cứu rỗi của Ngài qua việc phán xét và hành phạt mà Ngài làm trong ngươi hôm nay, thì ngươi không cách nào có được kinh nghiệm, ngươi càng không có khả năng tiếp tục tiến tới. Đức Chúa Trời đã không đến để giết chóc hoặc hủy diệt, mà để phán xét, rủa sả, hành phạt, và cứu rỗi. Cho đến khi kế hoạch 6.000 năm quản lý của Ngài đi đến hồi kết – trước khi Ngài mặc khải kết cục của từng hạng người – thì công tác của Đức Chúa Trời trên đất sẽ vì lợi ích của sự cứu rỗi; mục đích của nó chỉ là làm cho những ai yêu mến Ngài được trọn vẹn – một cách toàn diện – và khiến họ quy phục dưới sự thống trị của Ngài. Cho dù Đức Chúa Trời cứu rỗi con người như thế nào, thì tất cả đều được thực hiện bằng cách khiến họ thoát khỏi bản chất Sa-tan cũ kỹ của họ; nghĩa là, Ngài cứu họ bằng cách để họ tìm kiếm sự sống. Nếu họ không làm thế, thì họ sẽ không có cách nào để chấp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Việc cứu rỗi là công tác của chính Đức Chúa Trời, và việc tìm kiếm sự sống là điều mà con người phải đảm nhận để chấp nhận sự cứu rỗi. Trong mắt con người, sự cứu rỗi là tình yêu thương của Đức Chúa Trời, và tình yêu thương của Đức Chúa Trời không thể là hình phạt, phán xét, và rủa sả; sự cứu rỗi phải chứa đựng tình yêu thương, lòng thương xót, và hơn thế nữa, những lời an ủi, cũng như là phước lành vô biên được Đức Chúa Trời ban cho. Mọi người tin rằng khi Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, Ngài làm vậy bằng cách cảm thúc họ với các phước lành và ân điển của Ngài, để họ có thể dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời. Điều đó có nghĩa là, Ngài cảm hóa con người tức là Ngài cứu họ. Loại cứu rỗi này được thực hiện bằng cách đạt được thỏa thuận. Chỉ khi Đức Chúa Trời ban cho họ gấp hàng trăm lần thì con người mới chịu quy phục trước danh của Đức Chúa Trời và cố gắng làm tốt vì Ngài và mang lại vinh hiển cho Ngài. Đây không phải là điều Đức Chúa Trời dự định cho loài người. Đức Chúa Trời đã đến làm việc trên đất để cứu rỗi nhân loại bại hoại; không có gì sai trong chuyện này cả. Nếu không, thì Ngài chắc chắn đã không đích thân đến để thực hiện công tác của Ngài. Trong quá khứ, phương tiện cứu rỗi của Ngài chính là việc thể hiện tình yêu thương và lòng thương xót tột bậc, đến nỗi Ngài trao toàn bộ bản thân Ngài cho Sa-tan để đổi lấy toàn nhân loại. Hiện tại không có gì giống quá khứ: Sự cứu rỗi được ban cho các ngươi hôm nay xảy ra vào thời điểm những ngày sau rốt, trong quá trình phân chia mỗi người theo hạng; phương tiện của sự cứu rỗi các ngươi không phải là tình yêu thương hoặc lòng thương xót, mà là hình phạt và phán xét, để con người có thể được cứu rỗi một cách triệt để hơn. Như thế, tất cả những gì các ngươi nhận được là hình phạt, phán xét, và đánh đập không thương tiếc, nhưng hãy biết điều này: trong việc đánh đập nhẫn tâm này không có chút trừng phạt nào cả. Bất kể lời của Ta có khắt khe đến mức nào, thì những gì giáng trên các ngươi chỉ là một vài lời có vẻ cực kỳ nhẫn tâm đối với các ngươi, và cho dù Ta có thể tức giận đến mức nào, thì những gì trút xuống các ngươi vẫn là những lời quở trách, và Ta không có ý làm hại các ngươi hoặc đưa các ngươi đến cái chết. Chẳng phải đây đều là sự thật sao? Hãy biết rằng ngày nay, cho dù đó là sự phán xét công chính hay sự tinh luyện và hành phạt nhẫn tâm, thì mọi thứ đều vì sự cứu rỗi. Bất kể ngày nay mỗi người được phân chia theo từng hạng hay các hạng người được bóc trần, thì mục đích trong tất cả những lời và công tác của Đức Chúa Trời là cứu những ai thực sự yêu mến Đức Chúa Trời. Sự phán xét công chính được mang đến để làm cho tinh sạch con người, và sự tinh luyện nhẫn tâm được thực hiện để làm họ thanh sạch; cả những lời khắt khe lẫn việc sửa phạt đều được thực hiện để làm cho tinh sạch và vì mục đích cứu rỗi(Ngươi nên đặt các phước lành về địa vị sang một bên và hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời để mang sự cứu rỗi đến cho con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi thấy mình không hiểu được công tác phán xét của Ngài. Lúc đầu khi tiếp nhận công tác của Ngài, tôi muốn được vui hưởng tình yêu và lòng thương xót của Ngài cùng sự soi sáng và khai sáng của Đức Thánh Linh. Tôi mãn nguyện với việc chỉ vui hưởng ân điển của Ngài. Tôi nghĩ mình là đứa trẻ nhỏ trong tay Ngài, là người được Ngài yêu quý, nghĩ mình đặc biệt, hoàn hảo, và mình không nên bị Ngài phán xét nghiêm khắc như này. Do đó, khi những lời nghiêm khắc của Ngài vạch trần sự bại hoại và tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ của tôi, tôi nghĩ Ngài sẽ đào thải tôi. Tôi không hiểu được ý muốn của Ngài. Con người đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, và chỉ sự phán xét và trừng phạt nghiêm khắc của Đức Chúa Trời mới có thể thay đổi tâm tính bại hoại của con người và hoàn toàn cứu rỗi chúng ta khỏi quyền thế của Sa-tan. Tôi đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, tôi quá ngạo mạn và tự cho mình là đúng, đến mức tôi cần sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời để thức tỉnh mình. Chỉ có kiểu công tác này mới có thể khiến tôi thấy được bộ dạng bại hoại xấu xí của mình do Sa-tan gây ra, và chỉ khi đó tôi mới có thể căm ghét bản thân, phản bội Sa-tan. Nếu không thì tôi sẽ vẫn nghĩ mình hoàn hảo, được Đức Chúa Trời yêu thương, và khi đó tôi sẽ không bao giờ nhìn lại để mưu cầu lẽ thật hay phản tỉnh. Tôi hẳn sẽ tiếp tục đi con đường sai trái của những kẻ địch lại Đấng Christ cho tới chết. Tôi tin Đức Chúa Trời nhưng không muốn chịu đau khổ, muốn được Ngài ưu ái, muốn mãi vui hưởng ân điển và lòng thương xót của Ngài như đứa trẻ. Làm sao tôi có thể được Ngài làm cho tinh sạch như này chứ? Sự thiếu hiểu biết và ích kỷ của tôi làm tôi hiểu lầm, quay lưng lại và phản bội Ngài. Tôi không thể thấy được tình yêu và sự cứu rỗi của Ngài đằng sau công tác phán xét của Ngài. Tôi đã phải trả giá đắt cho sự thiếu hiểu biết và ích kỷ của mình. Sau khi nhận ra ý nghĩa to lớn của công tác phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, một lần nữa, tôi có lòng tin để theo Ngài và trải nghiệm công tác của Ngài. Tôi đã hiểu ra, dù công tác của Đức Chúa Trời có phù hợp với quan niệm của tôi hay không, tất cả đều là để làm tôi tinh sạch và thay đổi tâm tính bại hoại của tôi, và hoàn toàn cứu rỗi tôi khỏi quyền thế của Sa-tan. Sự phán xét và hình phạt của Ngài là cách tốt nhất để Đức Chúa Trời cứu rỗi con người.

Sau đó, tôi đọc thêm lời Đức Chúa Trời và hiểu được những yêu cầu của Ngài. Đức Chúa Trời muốn tôi là một loài thọ tạo thực sự, chấp nhận quyền tể trị, chu cấp của Ngài, thực hiện bổn phận của tôi, nhận biết và làm chứng cho Ngài. Thật ra, tôi có thân phận như các anh chị em. Đức Chúa Trời ban cho tôi chút ân tứ và tài năng hay cơ hội để làm lãnh đạo, nhưng điều này không có nghĩa là thân phận tôi cao hơn các anh chị em. Tôi vẫn là một loài thọ tạo, và vẫn là một con người bại hoại cần Đức Chúa Trời cứu rỗi. Những Ân tứ và tài năng này là do Đức Chúa Trời ban, nên tôi không được phô trương bản thân. Tôi nên nỗ lực làm tròn bổn phận để thỏa lòng Đức Chúa Trời. Khi nhận ra những điều này, tôi có con đường thực hành, và lòng thấy thanh thản. Giờ tôi muốn mau chóng quay lại hội thánh để tiếp tục làm bổn phận. Lần này tôi càng quyết tâm theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận. Tôi xóa mọi thứ không liên quan đến đức tin nơi Đức Chúa Trời trên điện thoại và máy tính, muốn gạt mọi thứ sang một bên và đi theo Đức Chúa Trời. Vài ngày sau, tôi trở lại hội thánhvà tiếp tục rao giảng Phúc Âm. Tôi rất cảm tạ Đức Chúa Trời. Khi làm bổn phận, tôi có ý thức hợp tác với các anh chị em. Mỗi khi gặp phải vấn đề gì, tôi hỏi ý kiến, đề xuất của các anh chị em và nhờ mọi người tham gia. Tôi thôi không còn tự mình đưa ra quyết định cuối cùng và thôi không áp đặt quan điểm của mình cho các anh chị em. Thay vào đó, tôi bàn bạc và thảo luận mọi việc với mọi người. Tôi cũng không muốn khoe khoang để họ ngưỡng mộ, cũng không cố kiểm soát họ. Tôi không còn muốn quyền lực nữa. Thay vào đó, tôi học cách tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật cùng anh chị em. Thực hành như vậy cảm thấy thanh thản hơn, đây là điều tôi chưa từng cảm nhận được trước đây.

Nhờ trải nghiệm này, tôi đã có thêm được chút thông sáng về công tác của Đức Chúa Trời và ý muốn cứu rỗi nhân loại của Ngài, cũng như có được đức tin lớn hơn. Tôi thật sự cảm nhận được sự phán xét, hình phạt của Ngài không phải là để lên án, hủy diệt, mà là tình yêu thương và sự cứu rỗi của Ngài. Giống như lời Ngài phán dạy: “Hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời là sự sáng, là sự sáng của sự cứu rỗi con người, và chẳng có phước lành, ân điển hay sự bảo vệ nào tốt hơn cho họ(Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Trước: 2. Đức tin: Nguồn Sức mạnh

Tiếp theo: 4. Lãnh đạo hội thánh đâu phải là quan chức

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

53. Tháo gỡ những nút thắt

Bởi Thúy Bách, ÝĐức Chúa Trời phán: “Vì số phận của các ngươi, các ngươi nên tìm kiếm sự chấp thuận của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa...

29. Sự ăn năn của một sĩ quan

Bởi Chân Tâm, Trung QuốcĐức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Từ lúc sáng thế cho đến nay, tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm trong công tác của...

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger