Chức trách của lãnh đạo và người làm công (17)

Mục 12. Xác định kịp thời và chính xác những con người, sự việc và sự vật gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời cùng trật tự bình thường của hội thánh; chặn đứng và hạn chế họ, xoay chuyển cục diện, đồng thời thông công lẽ thật để dân được Đức Chúa Trời chọn phát triển sự phân định và rút ra bài học từ những chuyện này (Phần 5)

Các loại người, sự việc và sự vật gây gián đoạn và nhiễu loạn đời sống hội thánh

IX. Trút ra sự tiêu cực

Hôm nay, sẽ tiếp tục thông công điều thứ 12 về chức trách của lãnh đạo và người làm công – đó là “Phát hiện kịp thời và chính xác các loại con người, sự việc, sự vật gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời cũng như trật tự bình thường của hội thánh, và tiến hành ngăn chặn, hạn chế, xoay chuyển cục diện, đồng thời thông công lẽ thật để cho những người được Đức Chúa Trời chọn phát triển sự phân định và rút ra được bài học từ những chuyện này”. Đối với các loại vấn đề gây nhiễu loạn và gián đoạn xuất hiện trong đời sống hội thánh thì lần trước Ta đã thông công điều thứ 8 – lan truyền quan niệm, hôm nay sẽ thông công điều thứ 9 – trút ra sự tiêu cực. Việc trút ra sự tiêu cực cũng là chuyện thường nghe thấy trong cuộc sống thường nhật. Cũng như vậy, khi những hành vi hoặc lời lẽ thuộc phương diện trút ra sự tiêu cực này xuất hiện trong đời sống hội thánh thì cũng nên bị hạn chế và ngăn chặn. Bởi lẽ, việc trút ra sự tiêu cực không đem lại sự xây dựng cho bất kỳ ai, ngược lại, nó khiến người ta bị ảnh hưởng, nhiễu loạn và phải chịu tổn thất. Cho nên, trút ra sự tiêu cực chính là điều tiêu cực, và về tính chất, nó không khác gì các hành vi, cách làm hay lời nói gây nhiễu loạn đời sống hội thánh, cả hai đều gây ra sự nhiễu loạn và ảnh hưởng tiêu cực cho người ta. Không có một người nào trút ra sự tiêu cực mà có có thể đem lại sự xây dựng cho người khác hay khiến người khác được ích lợi, họ chỉ có thể gây ra ảnh hưởng xấu cho người khác, đồng thời ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận bình thường của người khác. Do đó, khi chuyện trút ra sự tiêu cực xuất hiện trong hội thánh, thì cũng nên ngăn chặn và hạn chế nó như vậy, chứ đừng dung túng hay khuyến khích.

A. Trút ra sự tiêu cực là gì

Trước tiên, chúng ta hãy xem xét nên hiểu và xác định việc toát ra sự tiêu cực như thế nào, nên nhận diện sự tiêu cực của con người như thế nào, những lời nói và biểu hiện nào nơi họ toát ra sự tiêu cực. Trên hết, sự tiêu cực mà con người toát ra không phải là tích cực, nó là điều trái ngược, đối nghịch với lẽ thật, nó là thứ sinh ra từ tâm tính bại hoại của họ. Việc có tâm tính bại hoại dẫn đến những khó khăn trong việc thực hành lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời – và vì những sự khó khăn này, những suy nghĩ tiêu cực và những điều tiêu cực khác bị phơi bày nơi con người. Những thứ này được tạo ra trong bối cảnh họ đang cố gắng thực hành lẽ thật; đây là những suy nghĩ và quan điểm ảnh hưởng và cản trở con người khi họ cố gắng thực hành lẽ thật, và hoàn toàn là những điều tiêu cực. Cho dù có phù hợp với những quan niệm của con người như thế nào và những suy nghĩ tiêu cực này nghe hợp lý đến đâu, chúng cũng không đến từ việc hiểu lời Đức Chúa Trời, càng không phải là sự trải nghiệm và biết lời Đức Chúa Trời. Thay vào đó, chúng được tạo ra bởi tâm trí con người, và không hề phù hợp với lẽ thật – và vì vậy chúng là những điều tiêu cực, những điều trái ngược. Ý định của những người toát ra sự tiêu cực là tìm ra nhiều lý do khách quan khiến họ không thực hành lẽ thật, để kiếm được sự thông cảm và thấu hiểu của người khác. Ở các mức độ khác nhau, hành vi này ảnh hưởng và làm triệt tiêu sự chủ động của mọi người trong việc thực hành lẽ thật, và thậm chí có thể ngăn nhiều người thực hành lẽ thật. Những hậu quả và tác động bất lợi này làm cho những điều tiêu cực này càng đáng bị coi là trái ngược, chống đối Đức Chúa Trời, và hoàn toàn thù nghịch với lẽ thật. Một số người mù quáng trước bản chất của sự tiêu cực, và nghĩ rằng thường xuyên tiêu cực là bình thường, rằng nó không có tác động lớn đối với việc theo đuổi lẽ thật của họ. Điều này sai; trên thực tế, nó có tác động rất lớn, và nếu sự tiêu cực trở nên quá sức chịu đựng, nó có thể dễ dàng trở thành sự phản bội. Hậu quả khủng khiếp này gây ra bởi chính sự tiêu cực chứ không phải điều gì khác. Vậy việc toát ra sự tiêu cực cần được nhận diện và hiểu như thế nào? Nói đơn giản, toát ra sự tiêu cực là lừa dối mọi người và ngăn cản họ thực hành lẽ thật; đó là việc sử dụng các chiến thuật mềm, những phương pháp có vẻ bình thường, để lừa dối mọi người và khiến họ vấp ngã. Điều này có gây hại cho họ không? Nó thực sự gây tổn hại sâu sắc cho họ. Và như vậy, việc toát ra sự tiêu cực là điều trái ngược, bị Đức Chúa Trời lên án; đây là cách giải thích đơn giản nhất về việc toát ra sự tiêu cực. Vậy thành phần tiêu cực của việc toát ra sự tiêu cực là gì? Những điều gì là tiêu cực, và có khả năng có tác động bất lợi đến con người, gây ra sự phá vỡ và tổn hại? Sự tiêu cực bao gồm những gì? Nếu mọi người có sự hiểu biết thuần túy về lời Đức Chúa Trời, liệu những lời họ thông công có chứa đựng bất cứ điều gì tiêu cực không? Nếu con người có thái độ thực sự vâng phục đối với những hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt cho họ, thì sự hiểu biết của họ về những hoàn cảnh này có chứa đựng bất cứ điều gì tiêu cực không? Khi họ chia sẻ những gì họ đã trải nghiệm và những gì họ biết với mọi người, liệu nó có chứa bất kỳ sự tiêu cực nào không? Chắc chắn là không. Nếu như đối với bất kỳ chuyện gì xảy ra trong hội thánh hoặc quanh mình, mà người ta đều có thể đón nhận từ Đức Chúa Trời, tiếp cận một cách đúng đắn, có thể có thái độ tìm kiếm và thuận phục, vậy thì nhận thức, sự lý giải và trải nghiệm của người ta đối với những chuyện này có thành phần tiêu cực không? (Thưa, không.) Tuyệt đối sẽ không có. Xét từ phương diện này, rốt cuộc tiêu cực là nói đến chuyện gì? Nên lý giải sự tiêu cực như thế nào? Có phải trong sự tiêu cực có những thứ có những tính tính chất bất mãn, oán trách, oán giận, v.v. của con người hay không? Khi nghiêm trọng thì trong sự tiêu cực còn có sự chống đối, phản kháng, thậm chí là kêu gào. Khi trút ra lời lẽ có những thành phần này thì có thể xác định tính chất việc đó là đang trút ra sự tiêu cực. Xét từ những biểu hiện này, khi người ta trút ra sự tiêu cực thì trong lòng họ còn có sự thuận phục với Đức Chúa Trời nữa không? Chắc chắn là không. Họ có sẵn lòng chống lại xác thịt và giải quyết ý tiêu cực của mình không? Không có đâu, họ chỉ toàn đối đầu, phản nghịch và chống đối. Trong lòng người mà tràn đầy những thứ này và bị những thứ tiêu cực này chiếm hữu rồi, thì sẽ nảy sinh sự chống đối, phản nghịch và phản kháng với Đức Chúa Trời, dạng người như vậy còn có thể thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời sao? Không thể, họ sẽ chỉ rời xa Đức Chúa Trời, chỉ thêm tiêu cực, thậm chí là hoài nghi, phủ nhận và phản bội Đức Chúa Trời, như vậy chẳng phải là chuyện nguy hiểm sao? Hễ ai thường xuyên tiêu cực thì sẽ có thể trút ra sự tiêu cực, mà trút ra sự tiêu cực chính là đang chống đối và phủ nhận Đức Chúa Trời. Do đó, người thường xuyên trút ra sự tiêu cực thì mọi nơi mọi lúc đều có thể phản bội và rời xa Đức Chúa Trời.

Xét từ ý nghĩa của từ “tiêu cực”, một người tiêu cực là khi cảm xúc của họ rơi vào trạng thái vô cùng chùng xuống, tâm trạng rất tệ, trong cảm xúc tràn đầy những thứ tiêu cực, không có thái độ tích cực tiến lên hay tích cực vươn lên, cũng không phối hợp và tìm kiếm một cách tích cực và chủ động, lại càng không có lòng cam tâm tình nguyện thuận phục. Thay vào đó, cảm xúc của họ trở nên vô cùng chán nản. Vậy chán nản đại diện cho điều gì? Có đại diện cho những điều tích cực trong nhân tính không? Có đại diện cho việc con người có lương tâm và lý trí không? Có đại diện cho việc con người sống có tôn nghiêm và sống trong tôn nghiêm của nhân tính không? (Thưa, không.) Nó không đại diện cho những điều tích cực, vậy nó đại diện cho điều gì? Nó có thể đại diện cho việc con người không có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời, cũng như không có quyết tâm và ý chí mưu cầu lẽ thật và tích cực tiến lên hay không? Nó có thể đại diện cho việc con người bất mãn với hiện trạng và khó lý giải hiện trạng, không sẵn lòng tiếp nhận sự thật hiện tại như vậy hay không? Nó có thể đại diện cho loại trạng thái trong lòng người tràn đầy sự không phục, muốn phản kháng, muốn thoát khỏi hiện trạng và thay đổi hiện trạng hay không? (Thưa, có thể.) Đây là một số tình trạng mà con người biểu hiện ra khi đối mặt với hiện trạng trong lúc tiêu cực. Tóm lại, bất kể nói như thế nào thì khi con người trong lúc tiêu cực mà bất mãn với hiện trạng, bất mãn với sự an bài của Đức Chúa Trời thì đó không đơn giản chỉ là sự hiểu lầm, không lý giải được, không nhận thức được, hay không thể trải nghiệm được. Không nhận thức được thì có thể là vấn đề về tố chất hoặc thời gian, đây là biểu hiện bình thường của nhân tính, không trải nghiệm được có lẽ cũng do một vài nguyên nhân khách quan, nhưng những thứ này đều chưa đến mức là thứ tiêu cực hay có hại. Có vài người cũng không trải nghiệm được, nhưng khi gặp phải chuyện mình lý giải không được, nhìn không thấu hoặc là chuyện mình không nhận thức được, không trải nghiệm được, thì họ sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm ý Ngài, chờ đợi sự khai sáng và soi sáng của Ngài, họ cũng tích cực và chủ động tìm người nào đó để tìm kiếm và thông công. Nhưng có một số người lại khác, họ không có con đường thực hành những phương diện này, cũng không có dạng thái độ này, họ không chờ đợi, tìm kiếm, hay tìm người thông công, mà thay vào đó trong lòng họ nảy sinh sự hiểu lầm, cảm thấy những chuyện đã xảy ra, những hoàn cảnh này không tương hợp với ý nguyện, ý thích, hay tưởng tượng của bản thân, từ đó mà nảy sinh những thứ có hại như không phục, bất mãn, chống đối, oán trách, phản kháng, kêu gào, v.v.. Những thứ có hại này nảy sinh rồi, mà họ cũng chẳng để tâm, chẳng đến trước mặt Đức Chúa Trời để cầu nguyện, phản tỉnh, và nhận thức tình trạng của mình, sự bại hoại của mình, cũng chẳng đọc lời Đức Chúa Trời để tìm kiếm ý muốn của Ngài, chẳng dùng lời Ngài để giải quyết vấn đề, càng không tìm người để tìm kiếm và thông công, mà thay vào đó cứ kiên trì với những gì bản thân cho là đúng, là chuẩn xác, nuôi trong lòng sự không phục, bất mãn, và họ rơi vào trong cảm xúc tiêu cực, có hại. Khi đắm chìm trong những cảm xúc này, ngày một ngày hai họ còn có thể kìm nén được, chịu đựng được, nhưng qua thời gian dài thì trong tư tưởng họ sẽ nảy sinh không ít thứ, trong đó có quan niệm và tưởng tượng của con người, cũng có luân lý đạo đức và cả văn hóa, truyền thống, tri thức của con người, v.v.. Họ dùng những thứ này để đánh giá, tính toán và lý giải mọi vấn đề đang phải đối mặt, hoàn toàn mắc vào lưới của Sa-tan, từ đó nảy sinh đủ loại tình trạng bất mãn và không phục, sau đó từ những tình trạng bại hoại này lại nảy sinh đủ loại tư tưởng và quan điểm sai lầm, và trong lòng người ta không kiểm soát nổi những thứ tiêu cực này nữa, thế là họ muốn tìm cơ hội phát tiết và trút ra những thứ này. Khi trong lòng họ tràn đầy sự tiêu cực, liệu họ có nói rằng: “Bên trong con người tôi đều là những thứ tiêu cực, tôi không được nói lung tung, để tránh làm hại người khác. Nếu tôi muốn nói, không kìm nén được, tôi sẽ nói với bức tường, hoặc tìm một đối tượng không hiểu tiếng người để nói”? Họ có lòng tốt này hay không? (Thưa, không có.) Vậy họ sẽ làm gì? Họ sẽ tìm cơ hội kiếm người nghe để tiếp nhận những quan điểm tiêu cực, những lời lẽ và cảm xúc tiêu cực của họ, dùng cách này để phát tiết các loại cảm xúc tiêu cực trong lòng như bất mãn, không phục, ấm ức, v.v.. Họ cho rằng, thời gian sống đời sống hội thánh là lúc phát tiết tốt nhất, cũng là một dịp tốt để họ phát tiết sự tiêu cực, phát tiết sự bất mãn và không phục, bởi vì khi có nhiều người nghe thì lời họ nói sẽ có thể ảnh hưởng đến người khác và khiến người khác nảy sinh sự tiêu cực, có thể gây ra hậu quả xấu cho công tác của hội thánh. Đương nhiên, những người trút ra sự tiêu cực này khi ở sau lưng người ta cũng không thể kìm nén được, họ cũng luôn muốn phát tiết ra lời lẽ tiêu cực của mình, nếu ít người nghe thì họ sẽ nói không hăng, khi mọi người tập trung cùng một chỗ thì họ sẽ nói hăng hơn. Xét từ các phương diện như cảm xúc, tình trạng, v.v. của người trút ra sự tiêu cực, họ làm vậy đâu phải vì muốn khiến cho người ta hiểu lẽ thật, nhìn thấu chân tướng, giải trừ hiểu lầm và nghi ngờ đối với Đức Chúa Trời, có thể nhận thức bản thân, nhận thức thực chất bại hoại của mình, giải quyết vấn đề phản nghịch và bại hoại của mình để không phản nghịch Đức Chúa Trời, không chống đối Đức Chúa Trời, thay vào đó có thể thuận phục Ngài. Mục đích của họ không nằm ngoài hai loại này: một mặt là mượn việc trút ra sự tiêu cực để phát tiết cảm xúc của mình, mặt khác là lôi kéo càng nhiều người rơi vào tiêu cực, mắc vào cái lưới chống đối và kêu gào với Đức Chúa Trời giống như họ. Do đó, loại hành vi trút ra sự tiêu cực tuyệt đối nên bị ngăn chặn trong đời sống hội thánh.

B. Đủ loại tình trạng của người trút ra sự tiêu cực
1. Trút ra sự tiêu cực khi bất mãn vì bị cách chức

Cảm xúc và biểu hiện của sự tiêu cực về cơ bản chính là những điều này. Ta đã thông công về những điều này rồi, thì người ta nên đối chiếu với bản thân mình, xem thử trong đời sống hiện thực của mình có những biểu hiện nào, lời lẽ nào và phương thức nào là đang trút ra sự tiêu cực, những tình huống nào khiến người ta có thể chìm vào tiêu cực, từ đó dẫn đến trút ra sự tiêu cực. Các ngươi nói xem, trong tình huống bình thường, người ta có vì những chuyện này mà tiêu cực không? Những dạng tiêu cực thường thấy là gì? (Thưa, khi bị cách chức hoặc bị tỉa sửa, trong lòng người sẽ nảy sinh một vài sự tiêu cực.) Bị cách chức là một dạng, bị tỉa sửa lại là một dạng khác. Tại sao khi bị cách chức thì người ta lại tiêu cực? (Thưa, có người bị cách chức rồi thì chẳng có nhận thức gì về bản thân, họ cho rằng chính địa vị khiến họ tiêu tùng, sau đó họ nói “Leo càng cao, ngã càng đau”, và trút ra một vài quan điểm tiêu cực. Đối với chuyện bị cách chức, họ không có sự lĩnh hội thuần túy, trong lòng thì không phục.) Trong họ có sự không phục và bất mãn, đây là cảm xúc tiêu cực. Vậy có sự oán trách không? (Thưa, có. Họ cảm thấy bản thân đã chịu khổ và trả giá, đã làm việc vất vả để công tác suốt, nhưng bỏ sức ra mà chẳng được gì, lại còn bị cách chức, thế là họ nói: “Làm lãnh đạo khó quá, ai làm lãnh đạo là xui xẻo rồi, cuối cùng đều bị cách chức hết”.) Lan truyền lời lẽ như vậy chính là trút ra sự tiêu cực. Nếu họ chỉ không phục và bất mãn, nhưng không lan truyền, thì vẫn chưa cấu thành việc trút ra sự tiêu cực. Nếu từ sự không phục và bất mãn mà họ bắt đầu dần dà nảy sinh cảm xúc oán trách, không thừa nhận sự thật rằng mình có tố chất kém và không làm nổi công tác, sau đó lại bắt đầu nói những lý lẽ méo mó của mình, nói lý lẽ rồi thì nảy sinh đủ dạng tuyên bố và quan điểm, lý do và cái cớ, phân bua biện bạch, v.v., thế là những lời lẽ này đều nằm trong việc trút ra sự tiêu cực. Có vài lãnh đạo giả vì không làm công tác thực tế mà bị cách chức, trong lòng họ không phục và bất mãn, không hề có chút thuận phục nào. Họ luôn nghĩ bụng: “Cứ cách chức tôi đi, để xem ai có thể làm lãnh đạo. Người khác đâu giỏi bằng tôi, tôi làm công tác không nổi, thì người khác cũng làm không nổi!” Họ không phục ở chỗ nào? Họ cảm thấy tố chất của mình không tệ, công tác làm cũng không ít, tại sao lại cách chức họ? Đây là ý nghĩ trong lòng của lãnh đạo giả. Họ không phản tỉnh và nhận thức bản thân xem rốt cuộc mình có làm công tác thực tế hay không, rốt cuộc mình đã giải quyết bao nhiêu vấn đề thực tế, chuyện công tác của hội thánh bị tê liệt có phải là sự thật không, họ rất ít khi suy xét về những chuyện này. Họ không cho rằng bản thân không có thực tế lẽ thật, không nhìn thấu chuyện, thay vào đó, họ cho rằng mình đã làm rất nhiều công tác, không nên bị xác định tính chất là lãnh đạo giả, đây là lý do lớn nhất khiến trong lòng họ không phục và bất mãn. Trong lòng họ luôn nghĩ: “Mình đã làm bổn phận nhiều năm, ngày nào mình cũng thức khuya dậy sớm vì ai chứ? Mình tin Đức Chúa Trời rồi thì cũng đã buông bỏ gia đình, buông bỏ công việc, lại còn bất chấp nguy cơ bị bắt và bỏ tù mà làm bổn phận, chịu khổ biết bao nhiêu! Bây giờ nói mình không làm công tác thực tế rồi cách chức mình, vậy là quá bất công rồi! Mình không có công lao thì cũng có khổ lao, không có khổ lao thì cũng đã chịu mệt! Mình có tố chất như vậy, đã trả giá vì công tác như vậy mà còn không đạt tiêu chuẩn, còn có thể bị cách chức, thì mình thấy chẳng có ai làm lãnh đạo đạt tiêu chuẩn nổi!” Họ nói những lời này có phải là đang trút ra sự tiêu cực không? Trong những lời này có câu nào mang ý thuận phục không? Có chút ý tìm kiếm lẽ thật nào không? Có câu nào là đang phản tỉnh bản thân kiểu: “Mình bị nói là làm công tác không đạt tiêu chuẩn, vậy rốt cuộc mình kém ở chỗ nào? Mình đã không làm những công tác thực tế nào? Mình có biểu hiện nào của lãnh đạo giả?” Họ có phản tỉnh bản thân như vậy không? (Thưa, không.) Vậy những lời họ nói mang tính chất gì? Có phải là đang oán trách không? Có phải là đang biện bạch cho mình không? Họ biện bạch cho mình vì mục đích gì? Chẳng phải là muốn kiếm sự đồng tình và thông hiểu của mọi người sao? Chẳng phải là muốn có thêm nhiều người thay họ lên tiếng bất bình, thay họ lớn tiếng kêu oan sao? (Thưa, phải.) Vậy họ đang kêu gào với ai? Chẳng phải là đang nói lý lẽ và kêu gào với Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Họ nói năng như thế là đang oán trách và chống đối Đức Chúa Trời. Trong lòng họ tràn đầy lời oán trách, tràn đầy sự chống đối và phản nghịch, chưa hết, họ còn mượn việc trút ra sự tiêu cực mà khiến thêm nhiều người thông hiểu cho và đồng tình với họ, khiến thêm nhiều người giống như họ mà nảy sinh sự tiêu cực, nảy sinh sự oán trách, chống đối, phản kháng hoặc kêu gào với Đức Chúa Trời. Chẳng phải họ trút ra sự tiêu cực để đạt được những mục đích nào sao? Mục đích của họ không gì khác ngoài khiến thêm nhiều người biết được cái gọi là chân tướng sự việc, cho rằng họ bị oan ức, việc họ làm không sai, họ không nên bị cách chức, và cách chức họ là sai. Mục đích của họ là khiến thêm nhiều người thay họ lên tiếng bất bình, để từ đó lấy lại thể diện, địa vị và thanh danh của họ. Lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ sau khi bị cách chức thì đều trút ra sự tiêu cực như vậy, muốn kiếm sự đồng tình của người khác, chứ chẳng có một ai có thể phản tỉnh và nhận thức bản thân, thừa nhận sai lầm của bản thân, thực sự hối hận và hối cải. Sự thật này có thể chứng tỏ rằng lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ đều là người không yêu thích lẽ thật và không tiếp nhận lẽ thật chút nào, do đó sau khi bị tỏ lộ và đào thải, họ đều không thể dựa vào lẽ thật và lời Đức Chúa Trời mà nhận thức bản thân. Chẳng có ai thấy họ có chút hối hận nào hay là có thể thực sự nhận thức bản thân, cũng chẳng có ai thấy họ có chút biểu hiện hối cải thực sự nào, trông như thể họ vĩnh viễn không biết nhận thức bản thân, không biết thừa nhận sai lầm của mình. Xét từ sự thật này, lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ mà bị cách chức là hoàn toàn thích hợp, không oan uổng chút nào. Dựa vào việc họ không phản tỉnh và nhận thức bản thân chút nào, không hề có lòng hối hận, thì có thể thấy rõ tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ nơi họ nghiêm trọng rồi, và họ đều là người không yêu thích lẽ thật chút nào.

Có những lãnh đạo giả sau khi bị cách chức thì chẳng thừa nhận sai lầm của mình chút nào, cũng không tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh, nhận thức bản thân, không có chút lòng hay thái độ thuận phục nào. Thay vào đó, họ lại hiểu lầm Đức Chúa Trời, oán trách Đức Chúa Trời bất công với họ, vắt óc suy tính tìm đủ kiểu lý do và cái cớ để phân bua biện bạch cho mình, thậm chí có người còn nói: “Trước đây, tôi đâu có muốn làm lãnh đạo, tôi biết làm lãnh đạo khó lắm, làm tốt thì chẳng được thưởng, làm không tốt thì bị cách chức, bị mang tiếng xấu, lại còn bị anh chị em từ bỏ, chẳng còn mặt mũi gì, thế này thì làm sao mà chường mặt ra trước mọi người đây? Bây giờ đã bị cách chức rồi, tôi càng xác định rõ rằng làm lãnh đạo và người làm công thì khó mà làm tốt, đây là việc phí sức mà chẳng được gì!” Lời nói “làm lãnh đạo và người làm công là phí sức mà chẳng được gì” này có ý gì? Có ý muốn tìm kiếm lẽ thật không? Chẳng phải họ nảy sinh sự căm ghét đối với việc nhà Đức Chúa Trời sắp xếp cho họ làm lãnh đạo và người làm công, sau đó dùng dạng lời lẽ này mà mê hoặc người khác sao? (Thưa, phải.) Vậy lời như thế có thể gây ra hậu quả gì? Tâm tư và tư tưởng của đa số mọi người, cùng sự lĩnh hội và nhận thức của họ về chuyện này sẽ bị lời này ảnh hưởng và gây nhiễu loạn, đây chính là hậu quả do việc trút ra sự tiêu cực đem lại cho người ta. Chẳng hạn như, ngươi không phải là lãnh đạo, nghe xong lời này thì trong lòng ngươi kinh hãi: “Chẳng lẽ là vậy sao? Tuyệt đối đừng chọn tôi làm lãnh đạo, có chọn tôi thì tôi cũng gấp rút tìm đủ kiểu lý do và cái cớ mà chối từ, nói rằng tôi có tố chất kém, không làm nổi công tác”. Có vài người làm lãnh đạo nghe lời này thì cũng bị ảnh hưởng, họ nghĩ bụng: “Chuyện này quá đáng sợ! Sau này mình có gặp phải cái kết như họ không? Nếu có cái kết như họ thật, thì mình tuyệt đối không làm lãnh đạo đâu”. Có phải cảm xúc và lời lẽ tiêu cực, có hại này đã gây nên sự nhiễu loạn cho người khác không? Quá rõ ràng là nó đã gây nên sự nhiễu loạn rồi. Bất kể là ai, dù tố chất tốt hay kém, mà nghe lời này thì sẽ vô thức tiếp nhận nó, để nó vào trước thì nó làm chủ tâm tư họ, rồi họ chịu ảnh hưởng của nó theo những mức độ khác nhau. Chịu ảnh hưởng của nó rồi thì hậu quả sẽ là gì? Đối với chuyện làm lãnh đạo và chuyện bị cách chức khi làm lãnh đạo, đa số mọi người sẽ không thể có cách tiếp cận đúng đắn, cũng không có thái độ thuận phục, thay vào đó sẽ luôn nuôi lòng hiểu lầm và đề phòng Đức Chúa Trời, nảy sinh cảm xúc có hại đối với chuyện này, hễ nghe đề cập đến chuyện này thì đặc biệt nhạy cảm, đặc biệt sợ hãi. Khi người ta có những biểu hiện này, thì chẳng phải họ rơi vào sự cám dỗ và mê hoặc của Sa-tan sao? Quá rõ ràng, đây là họ đã chịu sự mê hoặc và gây nhiễu loạn của người trút ra sự tiêu cực. Chính vì những thứ từ người trút ra sự tiêu cực vốn phát xuất từ tâm tính bại hoại và từ Sa-tan, chính vì chúng không phải là nhận thức về lẽ thật, không phải là sự lĩnh hội từ trải nghiệm đến từ việc thuận phục hết mọi hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt, cho nên người ta nghe những chuyện này rồi thì đều bị gây nhiễu loạn ở những mức độ khác nhau. Đối với bất kỳ ai, sự tiêu cực mà người ta trút ra đều có một vài tác dụng gây nhiễu loạn và có hại. Có người có thể tích cực và chủ động tìm kiếm lẽ thật, họ sẽ bị hại nhẹ hơn một chút. Có người chẳng có sức đề kháng gì, cho dù đã biết lời này không đúng mà vẫn không kìm nổi chuyện bị nó quấy nhiễu, bị hại sâu sắc. Bất kể Đức Chúa Trời thông công về chuyện này thế nào, yêu cầu ra sao, thì người ta đều hoàn toàn phớt lờ, thay vào đó, họ lại để những lời trút ra sự tiêu cực này vào lòng, liên tục cảnh cáo bản thân không được buông lỏng, như thể những lời lẽ tiêu cực này là ô dù bảo vệ, là lá chắn của họ. Bất kể Đức Chúa Trời có nói thế nào thì họ cũng không thể buông bỏ sự đề phòng và hiểu lầm. Những người này không có bất lý lối nào vào lẽ thật hay lời Đức Chúa Trời, chẳng hiểu được thực tế lẽ thật nào, chẳng có bất kỳ sự phân định nào hay sức đề kháng gì đối với những lời lẽ tiêu cực này, cuối cùng họ bị những lời lẽ tiêu cực này kìm kẹp và trói buộc, rồi họ không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời được nữa. Đây chẳng phải là bị nó hại sao? Họ bị hại đến mức độ nào? Lời Đức Chúa Trời thì họ đều nghe không lọt, nghe không hiểu, trái lại còn xem lời tiêu cực, lời bất mãn, không phục và oán trách mà người ta trút ra như là thứ tích cực, như là phương châm trong lòng mình, và dùng những lời này mà chỉ đạo cuộc sống của mình, mà chống đối Đức Chúa Trời, phản kháng lời Đức Chúa Trời, như vậy chẳng phải là mắc vào lưới của Sa-tan rồi sao? (Thưa, phải.) Những người này không không muốn mà cứ mắc vào lưới của Sa-tan và bị Sa-tan bắt đi rồi. Chỉ là chuyện bị cách chức đơn giản đến vậy, mà lời lẽ tiêu cực do loại người này trút ra lại gây ra ảnh hưởng lớn đến vậy cho người ta, chuyện này có căn nguyên cả. Những người tiếp nhận những lời lẽ tiêu cực này vốn đã tràn đầy tưởng tượng và quan niệm, thậm chí còn có một vài sự hiểu lầm và đề phòng đối với chuyện làm lãnh đạo. Cho dù những hiểu lầm và đề phòng này còn chưa thành hình rõ nét trong tư tưởng ý thức của họ, nhưng khi nghe những lời lẽ tiêu cực này rồi, thì họ càng cho rằng họ đề phòng và hiểu lầm là đúng, họ càng có thêm lý do để xác định rằng làm lãnh đạo thì chắc chắn là lành ít dữ nhiều, tuyệt đối không được làm lãnh đạo và người làm công để khỏi phải phạm sai lầm rồi bị cách chức và vứt bỏ. Đây có phải là hoàn toàn bị người trút ra sự tiêu cực mê hoặc và ảnh hưởng rồi không? Lời lẽ tiêu cực do một người bị cách chức trút ra, cùng cảm xúc không phục, bất mãn của họ, mà có thể gây nên ảnh hưởng và tổn hại lớn đến vậy, thì các ngươi nói xem, khi cảm xúc tiêu cực mà người ta trút ra tràn đầy bầu không khí chết chóc, thì chuyện có nghiêm trọng không? (Thưa, nghiêm trọng.) Nghiêm trọng ở chỗ nào? Chúng hùa theo vừa y sự đề phòng và hiểu lầm Đức Chúa Trời nơi sâu thẳm nội tâm con người, đồng thời chúng cũng phản ánh tình trạng hiểu lầm và nghi ngờ của con người đối với Đức Chúa Trời, cùng thái độ trong lòng con người đối với Đức Chúa Trời. Do đó, người trút ra sự tiêu cực đi lan truyền những lời lẽ này là đánh trúng phóc điểm yếu của người ta, và người ta tiếp nhận chúng trọn vẹn, hoàn toàn mắc vào lưới của Sa-tan, không thể tự mình thoát ra. Đây là chuyện tốt hay chuyện xấu? (Thưa, là chuyện xấu.) Hậu quả là gì? (Thưa, khiến người ta phản bội Đức Chúa Trời.) (Thưa, khiến người ta đề phòng và hiểu lầm Đức Chúa Trời, trong lòng xa cách Đức Chúa Trời, tiêu cực đối với bổn phận, không dám tiếp nhận sự ủy thác quan trọng, hài lòng với việc làm chút bổn phận bình thường, kết quả là bỏ lỡ quá nhiều cơ hội được hoàn thiện.) Dạng người này có thể được cứu rỗi không? (Thưa, không thể.)

Phao-lô từ hai ngàn năm trước đã bày tỏ không ít quan điểm, viết không ít thư tín, trong thư của ông ta nói rất nhiều luận điệu sai trái. Bởi vì người ta không biết phân định, mà những người đọc Kinh Thánh hai ngàn năm qua đều tiếp nhận tư tưởng và quan điểm của Phao-lô làm chủ đạo, gạt lời Đức Chúa Jêsus sang một bên, và không tiếp nhận lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời. Những người tiếp nhận tư tưởng và quan điểm của Phao-lô thì có thể đến trước mặt Đức Chúa Trời không? Có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Không thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời thì họ có thể xem Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Khi Đức Chúa Trời đến và đứng trước mặt họ, thì họ có thể nhận biết Đức Chúa Trời không? Họ có thể tiếp nhận Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của mình, là Chúa của mình không? (Thưa, không thể.) Tại sao lại không thể? Những tư tưởng và quan điểm sai lầm của Phao-lô quá tràn đầy trong lòng người, hình thành nên đủ dạng lý luận và câu nói, người ta mà dùng những thứ này để đánh giá Đức Chúa Trời, đánh giá công tác, lời phán và tâm tính của Đức Chúa Trời, đánh giá thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người, thì họ không còn là loài người bại hoại thông thường và đơn giản nữa, mà họ đang đứng ở phía đối lập với Đức Chúa Trời, nghiên cứu và phân tích Đức Chúa Trời, làm kẻ địch với Đức Chúa Trời, vậy thì Đức Chúa Trời còn có thể cứu rỗi dạng người như vậy không? (Thưa, không thể.) Đức Chúa Trời không cứu rỗi thì họ còn có cơ hội được cứu rỗi nữa sao? Sự tiền định và việc tuyển chọn của Đức Chúa Trời cho con người cơ hội, nhưng khi Đức Chúa Trời tiền định và tuyển chọn rồi, thì người ta lại chọn con đường đi theo Phao-lô, vậy thì cơ hội được cứu rỗi này có còn nữa không? Có vài người nói: “Tôi là người được Đức Chúa Trời tiền định và tuyển chọn, tôi đã ở trong vùng an toàn rồi, chắc chắn tôi sẽ được cứu rỗi”. Lời này có vững hay không? Được Đức Chúa Trời tiền định và tuyển chọn nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi trở thành ứng cử viên được cứu rỗi, nhưng ngươi có thể được cứu rỗi hay không thì còn phải xem ngươi mưu cầu như thế nào, xem con đường ngươi chọn có đúng hay không. Mọi ứng cử viên cuối cùng đều được chọn, đều được cứu rỗi cả sao? Đâu phải. Cũng như vậy, người ta mà tiếp nhận những cảm xúc không phục, bất mãn, oán trách, v.v., hoặc những lời lẽ, tư tưởng và quan điểm của những người trút ra sự tiêu cực, trong lòng bị những thứ tiêu cực này tràn đầy và chiếm hữu, thì họ không chỉ công nhận chúng một chút, mà thay vào đó họ sẽ hoàn toàn tiếp nhận, lại còn muốn sống theo những thứ này. Vậy người ta mà sống theo những thứ tiêu cực này, thì mối quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời trở thành cái gì rồi? Trở thành hai bên đối lập, không phải là mối quan hệ giữa Đấng Tạo Hóa với loài thọ tạo, không phải là mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời với loài người bại hoại, càng không phải mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời với người được cứu rỗi, thay vào đó đã trở thành mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời với Sa-tan, giữa Đức Chúa Trời với kẻ thù của Ngài. Do đó, chuyện con người được cứu rỗi bây giờ bị đặt một dấu chấm hỏi, trở thành chuyện chưa biết rồi. Những lời lẽ tiêu cực của người bị cách chức tràn đầy sự oán trách, hiểu lầm, phân bua, biện bạch, thậm chí họ nói ra một vài lời lẽ mê hoặc và lôi kéo người khác, khiến người khác nghe xong thì nảy sinh sự hiểu lầm và đề phòng Đức Chúa Trời, thậm chí trong lòng nảy sinh sự xa cách và từ bỏ Đức Chúa Trời. Do đó, lúc dạng người này trút ra sự tiêu cực thì nên kịp thời hạn chế và ngăn chặn họ. Đối với trải nghiệm của mình, họ không thể đón nhận từ Đức Chúa Trời, không thể tìm kiếm lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời, thì đó là chuyện của họ, không được để họ ảnh hưởng đến người khác. Họ không tiếp nhận được thì để họ dần dần tiếp thu, dần dần giải quyết. Nhưng nếu họ trút ra sự tiêu cực và gây ảnh hưởng, nhiễu loạn lối vào bình thường của người khác, thì phải kịp thời ngăn chặn và hạn chế. Nếu không hạn chế được họ và họ vẫn cứ trút ra sự tiêu cực mà mê hoặc và lôi kéo người khác, thì nên kịp thời thanh trừ, không nên dung túng cho họ tiếp tục gây nhiễu loạn đời sống hội thánh.

2. Trút ra sự tiêu cực khi không tiếp nhận sự tỉa sửa

Còn có một trường hợp người ta dễ trút ra sự tiêu cực: đó là khi bị tỉa sửa thì không thể tiếp nhận được một vài lời tỉa sửa, trong lòng còn có sự không phục, bất mãn và oán trách, thậm chí còn cảm thấy oan ức. Họ cho rằng trong chuyện này có oan tình: “Tại sao không cho tôi thanh minh, không cho tôi nói rõ chứ? Tại sao cứ liên tục tỉa sửa tôi vậy?” Những người này thường trút ra những sự tiêu cực nào? Họ tìm lý do để phân bua biện bạch như vậy, chứ chẳng tiến hành mổ xẻ, bù đắp hay khắc phục những sai lầm mình đã phạm, thay vào đó họ lại nói lý lẽ, nói rằng tại sao họ không làm tốt được, do nguyên nhân gì mà thành ra như vậy, nguyên nhân và điều kiện khách quan thế nào, họ đâu có cố ý, v.v.. Họ dùng những lý do này mà phân bua biện bạch, để đạt đến mục đích là không tiếp nhận sự tỉa sửa. Loại người này không thừa nhận rằng việc tỉa sửa họ là đúng, thay vào đó họ còn muốn cùng rất nhiều người phân tích chuyện mà họ bị tỉa sửa, muốn ở trước mặt hết thảy mọi người mà thanh minh cho rõ chuyện này. Họ còn lan truyền rằng: “Tỉa sửa kiểu này thì sẽ chẳng còn một ai dám làm bổn phận nữa, cũng chẳng có một ai sẵn lòng làm bổn phận nữa. Mọi người sẽ chẳng biết làm thế nào, và chẳng có con đường thực hành nữa”. Thậm chí có người bề ngoài thì thông công rằng mình tiếp nhận sự tỉa sửa thế này thế nọ, trong khi trên thực tế, họ đang mượn việc thông công mà phân bua biện bạch cho mình, khiến cho thêm nhiều người cho rằng nhà Đức Chúa Trời chẳng nể mặt người ta chút nào, hễ sơ suất làm sai một chút là đều có thể bị tỉa sửa. Người dễ trút ra sự tiêu cực thì chẳng bao giờ biết phản tỉnh bản thân, cho dù có bị tỉa sửa thì họ cũng không biết phản tỉnh bản thân xem rốt cuộc cái sai mình phạm có tính chất gì, do cái gì mà ra – những chuyện này họ chẳng bao giờ mổ xẻ, thay vào đó cứ một mực nói lý lẽ, phân bua, biện bạch. Thậm chí còn có những người nói rằng: “Khi chưa bị tỉa sửa thì tôi còn cảm thấy có con đường để đi. Giờ bị tỉa sửa rồi thì tôi cứ mơ hồ, chẳng biết nên thực hành thế nào, cũng chẳng biết nên tin Đức Chúa Trời thế nào. Con đường trước mặt giờ mờ mịt rồi”. Họ còn nói với những người khác rằng: “Các anh chị phải dè chừng và cẩn thận, đừng để bị tỉa sửa. Bị tỉa sửa là đau khổ vô cùng, như thể bị lột đi một lớp da vậy. Các anh chị đừng sa vào con đường cũ của tôi, xem bây giờ tôi bị tỉa sửa thành ra thế nào đi? Tôi tiến không được mà lùi cũng không xong, làm gì cũng không đúng!” Lời này có đúng không? Nghe xong thì thấy có vấn đề không? (Thưa, có, họ đang biện bạch và nói lý lẽ, nói rằng mình không sai.) Trong lúc biện bạch và nói lý lẽ, họ còn tuôn ra một vài thông tin nào? (Thưa, họ nói nhà Đức Chúa Trời tỉa sửa người ta là sai.) Có vài người nói: “Khi chưa bị tỉa sửa, tôi còn cảm thấy mình có con đường để đi, bị tỉa sửa rồi thì tôi chẳng biết nên làm thế nào nữa”. Tại sao sau khi bị tỉa sửa thì họ không biết nên làm thế nào nữa? Nguyên nhân của chuyện này là gì? (Thưa, khi bị tỉa sửa, họ không tiếp nhận lẽ thật, không nhận thức bản thân, trong lòng có vài quan niệm mà cũng không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, vì vậy mà không còn đường. Họ không tìm nguyên nhân nơi mình, ngược lại còn nói rằng vì bị tỉa sửa mà họ không còn đường.) Nói vậy có phải là đang quật ngược lại không? Nói vậy thì cũng giống như nói: “Việc tôi làm vốn phù hợp nguyên tắc, anh tỉa sửa tôi như vậy chẳng phải rõ ràng là không cho tôi chiếu theo nguyên tắc mà làm việc sao? Vậy thì sau này tôi thực hành kiểu gì đây?” Những người nói lời đó chính là có ý này. Đây có phải là tiếp nhận sự tỉa sửa không? Họ có tiếp nhận sự thật rằng mình đã phạm sai lầm không? (Thưa, không.) Có phải lời này có ý rằng họ vốn biết cách để làm xằng làm bậy, đến khi bị tỉa sửa và bị bắt phải chiếu theo nguyên tắc mà làm việc, thì họ không biết làm thế nào nữa và trở nên mơ hồ hay không? (Thưa, phải.) Vậy trước đây họ làm như thế nào? Khi người ta bị tỉa sửa, chẳng phải là vì họ đã không chiếu theo nguyên tắc mà làm việc sao? (Thưa, phải.) Người ta làm xằng làm bậy, không tìm kiếm lẽ thật, cũng không chiếu theo nguyên tắc và quy định của nhà Đức Chúa Trời mà làm việc, chính vì vậy nên mới bị tỉa sửa. Mục đích của việc tỉa sửa là để khiến người ta có thể tìm kiếm lẽ thật và chiếu theo nguyên tắc mà làm việc, không còn làm xằng làm bậy nữa. Vậy sau khi bị tỉa sửa mà người ta lại nói mình không biết nên làm như thế nào, không biết thực hành như thế nào nữa, thì trong lời đó chút ý nhận thức bản thân nào không? (Thưa, không có.) Họ không có chút ý nhận thức bản thân nào, cũng chẳng có ý tìm kiếm lẽ thật. Ngụ ý trong lời họ là: “Trước đây tôi làm bổn phận rất tốt, nhưng từ sau khi bị anh tỉa sửa, tư tưởng tôi rối bời, đường lối để tôi làm bổn phận cũng bị xáo trộn cả lên. Bây giờ tư tưởng của tôi chẳng bình thường nữa rồi, làm việc chẳng quyết đoán, táo bạo và dũng cảm như trước nữa. Đây hoàn toàn do việc tôi bị tỉa sửa mà ra. Từ khi bị tỉa sửa, tâm linh tôi bị tổn thương nghiêm trọng. Do đó, tôi phải nói cho những người khác biết, khi làm bổn phận thì nhất định phải dè chừng, tuyệt đối đừng để lộ cái xấu hay xảy ra sai sót. Để xảy ra sai sót thì phải bị tỉa sửa, mà bị tỉa sửa rồi thì sẽ thành nhát gan, không còn năng động như trước, nhuệ khí cũng giảm đi hơn nửa, chút anh dũng và chí hướng quyết chí tự cường của tuổi trẻ cũng không còn, trở thành kẻ yếu bóng vía, sợ đông sợ tây, cảm thấy làm thế nào cũng không đúng. Trong lòng người đó sẽ không còn cảm thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời bên mình nữa, ngày càng xa rời Đức Chúa Trời, cầu nguyện kêu xin Đức Chúa Trời thì dường như Ngài không quan tâm, cảm thấy bản thân chẳng còn tinh thần phấn chấn, chẳng còn sức sống, chẳng còn đáng mến nữa. Ngay cả bản thân cũng chẳng còn xem mình ra gì”. Những lời này là lời thông công thật lòng của người có trải nghiệm à? Lời này có chân thực không? Có đem lại sự xây dựng và ích lợi gì cho người khác không? Chẳng phải đây là bóp méo sự thật sao? (Thưa, phải, lời này rất vô lý.) Họ nói: “Các anh chị đừng theo gót tôi, đừng đi con đường cũ của tôi! Anh chị thấy bây giờ tôi thật thà, nhưng thực ra từ sau lần bị tỉa sửa đó, tôi cảm thấy bị dọa sợ, không còn tự do thoải mái như trước nữa”. Lời này có tác dụng gì với người nghe? (Thưa, nó khiến người ta thêm đề phòng Đức Chúa Trời, vì sợ bị tỉa sửa mà họ hành động một cách dè chừng và thận trọng.) Những lời này sẽ có tác dụng tiêu cực. Nghe những lời này thì người ta sẽ cảm thấy: “Chứ còn gì nữa! Không dè chừng một chút là sẽ bị tỉa sửa, đây thật sự là chuyện có đề phòng cũng không nổi! Làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời sao mà khó khăn đến vậy? Ngày nào cũng giảng nguyên tắc lẽ thật, thật là làm khó người ta mà! Cứ yên ổn sống qua ngày không được à? Yêu cầu đó đâu có cao, đâu phải ước mong cao vời gì, sao lại khó đạt được như vậy? Tuyệt đối đừng để tôi rơi vào cảnh bị tỉa sửa, gan tôi nhỏ lắm, bình thường mà có ai trừng mắt lớn tiếng với tôi là tim tôi đã đập thình thịch rồi. Nếu thật sự bị tỉa sửa, bị nói những lời nghiêm khắc như vậy, bị mổ xẻ chân tướng sự thật như vậy, thì làm sao tôi chịu nổi? Ban đêm tôi chẳng gặp ác mộng sao? Ai cũng nói tỉa sửa là việc tốt, sao tôi chẳng thấy tốt chỗ nào, chẳng phải người vừa rồi đã bị dọa sợ đấy sao? Tôi mà bị tỉa sửa thì cũng sẽ bị dọa sợ”. Đây có phải là tác dụng từ những lời của người trút ra sự tiêu cực không? Tác dụng này là tích cực và chính diện, hay là tiêu cực và phản diện? (Thưa, là tiêu cực và phản diện.) Những lời lẽ tiêu cực này sẽ gây nên sự tổn hại rất lớn cho những người sẵn lòng mưu cầu lẽ thật! Các ngươi nói xem, những người thường xuyên trút ra sự tiêu cực và lan truyền sự chết chóc này có phải là sai dịch của Sa-tan không? Có phải là người gây nhiễu loạn công tác của hội thánh không? (Thưa, phải.)

Có những người hành động theo ý riêng và làm trái nguyên tắc, sau khi bị tỉa sửa thì họ cho rằng mình đã vất vả và trả giá đến vậy mà còn bị tỉa sửa, nên trong lòng họ tràn đầy sự không phục, họ cũng không tiếp nhận sự vạch trần và mổ xẻ đối với mình. Họ cảm thấy Đức Chúa Trời không công chính và nhà Đức Chúa Trời không công bằng với mình, cảm thấy họ là nhân tài hữu dụng đến vậy, đã chịu khổ nhiều đến vậy, trả giá lớn đến vậy, thế mà nhà Đức Chúa Trời đã không tuyên dương, lại còn muốn tỉa sửa họ. Trong lòng họ không phục, nên nảy sinh sự oán trách, sau đó thì muốn trút ra sự tiêu cực: “Theo tôi thấy, không có chuyện gì khó bằng tin Đức Chúa Trời. Đạt được chút phúc, hưởng được chút ân điển thật sự chẳng dễ dàng gì. Tôi đã trả giá nhiều đến thế, vậy mà mới không làm tốt một việc là đã bị tỉa sửa rồi. Người như tôi mà không đảm đương nổi thì còn ai có thể đảm đương nổi chứ? Chẳng phải Đức Chúa Trời công chính à? Sao tôi chẳng nhận thức được sự công chính của Đức Chúa Trời? Sự công chính của Đức Chúa Trời tại sao lại không hợp với quan niệm của con người như vậy?” Họ không mổ xẻ xem bản thân đã làm việc gì trái với nguyên tắc, đã bộc lộ tâm tính bại hoại nào. Họ chẳng những không hối hận chút nào, không thuận phục chút nào, mà còn muốn công khai xét đoán và chống đối. Sau khi nghe một loạt những lời lẽ như vậy, trong lòng đa số mọi người sẽ có chút đồng tình với họ và sẽ bị ảnh hưởng: “Chứ còn gì nữa! Người ta tin Đức Chúa Trời đã 20 năm rồi mà còn có thể bị tỉa sửa như vậy. Người tin Đức Chúa Trời 20 năm mà còn chưa chắc chắn được cứu rỗi, thì người như chúng ta lại càng không có hy vọng gì rồi”. Đây có phải là họ đã bị trúng độc rồi không? Ngay khi sự tiêu cực bị trút ra, thì độc tố cũng được gieo xuống, giống như hạt giống gieo vào lòng người, bén rễ, đâm chồi, khai hoa, kết quả trong tư tưởng người ta. Chẳng biết từ bao giờ, người ta đã bị trúng độc, bắt đầu nảy sinh sự chống đối và oán trách Đức Chúa Trời. Sau khi bị tỉa sửa, người ta bắt đầu không phục Đức Chúa Trời và bất mãn với cách nhà Đức Chúa Trời xử lý họ. Chẳng những không có thái độ hối cải và nhận tội, mà họ còn muốn nói lý lẽ, phân bua, biện bạch. Họ đi khắp nơi mà lan truyền rằng trong nhiều năm tin Đức Chúa Trời, họ đã chịu bao nhiêu cái khổ, làm những công tác nào, làm những bổn phận nào, thế mà bây giờ chẳng những không được thưởng, lại còn bị tỉa sửa. Họ chẳng những không thể từ trong việc bị tỉa sửa mà nhận thức sự bại hoại của bản thân, nhận thức sai lầm mình đã phạm, thay vào đó họ còn lan truyền rằng nhà Đức Chúa Trời đối đãi với họ như vậy là bất công, là không có lý có tình, rằng nhà Đức Chúa Trời không nên đối đãi với họ như vậy, nếu đối đãi với họ như vậy thì Đức Chúa Trời không công chính. Họ trút ra những sự tiêu cực này vì họ không thể tiếp nhận sự tỉa sửa, không thể tiếp nhận sự thật rằng họ đã phạm sai lầm, càng không thể tiếp nhận hay thừa nhận sự thật rằng họ đã gây tổn hại cho lối vào sự sống của anh chị em và công tác của hội thánh. Họ cứ cho rằng bản thân họ làm thì hẳn phải đúng, còn nhà Đức Chúa Trời mà tỉa sửa họ thì hẳn là không đúng. Họ lan truyền sự tiêu cực chính là vì muốn nói cho mọi người rằng nhà Đức Chúa Trời đối đãi với người ta không công bằng, hễ người ta phạm sai lầm là nhà Đức Chúa Trời sẽ nhân đó nắm thóp, sẽ nắm chặt một vấn đề này mà tỉa sửa tàn nhẫn, tỉa sửa đến khi nào người ta ngoan ngoãn mới thôi, tỉa sửa đến khi nào người ta cho rằng mình không có công lao, không còn ai sùng bái, không tự thấy mình giỏi và không còn dám đòi Đức Chúa Trời ban thưởng nữa, thì khi đó mới đạt được mục đích của nhà Đức Chúa Trời. Họ trút ra những sự tiêu cực này với mục đích khiến thêm nhiều người thay mặt họ mà lên tiếng bất bình, khiến thêm nhiều người hiểu “chân tướng” và biết trong suốt bấy nhiêu năm tin Đức Chúa Trời, họ đã chịu biết bao cái khổ, có công lao to thế nào, tư cách lớn ra sao, là tín đồ thâm niên chừng nào, để rồi từ đó mà khiến những người khác đứng về phía họ mà cùng họ đối đầu với quy định của nhà Đức Chúa Trời và việc nhà Đức Chúa Trời tỉa sửa họ. Việc này có mang tính chất lôi kéo người khác không? (Thưa, có.) Họ trút ra sự tiêu cực như vậy là để lôi kéo và mê hoặc người khác, là để trút giận bằng cách gây nhiễu loạn công tác của hội thánh. Bất kể cuối cùng việc họ trút ra sự tiêu cực gây ra tác dụng như thế nào nơi người khác, thì tóm lại, tác dụng và hậu quả đó là mê hoặc, gây nhiễu loạn và hãm hại người ta, chứ chẳng đem lại sự xây dựng gì. Nó có tác dụng tiêu cực.

Sau khi gặp phải chuyện bị tỉa sửa, thì sự tiêu cực mà người ta trút ra về cơ bản là những điều này. Nghĩa là đối với sự tỉa sửa, người ta không thể tiếp nhận, trong lòng không phục và bất mãn, không thể đón nhận từ Đức Chúa Trời. Phản ứng đầu tiên của họ không phải là từ trong chuyện bị tỉa sửa này mà tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh, nhận thức và mổ xẻ bản thân, xem mình rốt cuộc đã làm sai ở đâu, việc mình làm có phù hợp nguyên tắc không, tại sao lại bị nhà Đức Chúa Trời tỉa sửa, họ bị đối đãi như vậy là do bị người ta trút giận, hay như vậy là công bằng và hợp lý. Phản ứng đầu tiên của họ không phải là tìm kiếm những chuyện này, thay vào đó họ lại đem tư cách và những chuyện chịu khổ, trả giá của mình ra mà phản kháng với sự tỉa sửa. Khi làm như vậy, thứ nảy sinh trong lòng họ chắc chắn toàn là thứ tiêu cực và phản diện, chứ chẳng có thứ tích cực và chính diện nào. Do đó, họ mà thông công về cảm nhận và nhận thức sau khi bị tỉa sửa, thì chắc chắn là đang trút ra sự tiêu cực và lan truyền quan niệm. Đối với những chuyện trút ra sự tiêu cực và lan truyền quan niệm thì nên kịp thời ngăn chặn và hạn chế, đừng có dung túng hay mặc kệ. Bởi vì những thứ tiêu cực này đều có tác dụng cản trở, gây nhiễu loạn và phá hoại đối với lối vào sự sống của mỗi một người, chứ chẳng thể có tác dụng tích cực hay chính diện gì, càng không thể thôi thúc người ta có lòng trung thành với Đức Chúa Trời hay là làm bổn phận một cách trung thành. Do đó, khi loại người này trút ra sự tiêu cực là họ đang gây nhiễu loạn đời sống hội thánh, chuyện này nên bị hạn chế.

3. Trút ra sự tiêu cực khi danh tiếng, địa vị và lợi ích bị tổn hại

Ngoài trường hợp bị cách chức và bị tỉa sửa, người ta còn có thể trút ra sự tiêu cực trong những trường hợp nào nữa? (Thưa, khi lợi ích của người ta bị tổn hại và cảm thấy mình bị thiệt thòi.) (Thưa, có những người làm bổn phận đã nhiều năm, nhưng khi thân thể mắc bệnh hoặc là trong nhà gặp phải tai họa nào đó, thì họ nói: “Tin Đức Chúa Trời lâu năm đến vậy, tôi đã đạt được gì chứ?”) “Câu nói hay ho” của người tiêu cực triền miên chính là “Tôi đã đạt được gì chứ?”. Còn trường hợp nào nữa không? (Thưa, có người làm bổn phận chẳng những không có kết quả mà còn thường xuyên xuất hiện sai sót, thế là họ nói: “Tại sao Đức Chúa Trời khai sáng cho người khác mà không khai sáng cho tôi? Tại sao Đức Chúa Trời cho người khác tố chất tốt đến thế, mà tố chất của tôi lại kém đến vậy?” Họ không phản tỉnh vấn đề nơi bản thân mình, thay vào đó lại đẩy trách nhiệm sang Đức Chúa Trời, nói Đức Chúa Trời không khai sáng và dẫn dắt họ, sau đó thì họ cứ mải miết oán trách Đức Chúa Trời.) Họ nói Đức Chúa Trời không công bằng, tại sao lại khai sáng cho người khác, ân đãi người khác mà không ân đãi họ, để họ làm bổn phận chẳng có kết quả gì – họ đang oán trách đấy. Các ngươi đưa ra ví dụ rất hay. Còn gì nữa? (Thưa, còn có vài người sau khi bị điều chỉnh bổn phận thì tràn đầy oán giận, nói tại sao lại điều chỉnh họ, rồi nghi ngờ lãnh đạo và người làm công nhắm vào họ và kiếm chuyện với họ.) Có phải họ cảm thấy nhà Đức Chúa Trời xem thường họ không? (Thưa, phải.) Có những người không làm công tác thực tế rồi bị cách chức và đào thải, họ cảm thấy danh tiếng và địa vị của mình bị tổn hại, để phát tiết sự bất mãn mà họ luôn nói sau lưng người ta mấy lời than vãn: “Tôi tin đức chúa trời chưa được bao lâu, năng lực lĩnh hội cũng không ổn, tố chất cũng kém, đâu được như người ta, nói tôi không ổn thì tôi không ổn thôi!” Bề ngoài thì họ đang nhận thức bản thân không đủ tốt, nhưng trên thực tế là họ đang cố lấy lại lợi ích đã mất, không ngừng than vãn, nói những lời khiến người ta đồng tình với họ và cảm thấy nhà Đức Chúa Trời không công bằng. Ngay khi lợi ích của họ bị tổn hại thì họ không sẵn lòng chịu như vậy, luôn muốn vãn hồi tổn thất, luôn muốn bù đắp cho bằng được, không thì họ không còn đức tin vào Đức Chúa Trời, cũng chẳng biết tin Đức Chúa Trời như thế nào nữa, và nói những lời như: “Ban đầu tôi cảm thấy tin Đức Chúa Trời là chuyện rất tốt, cảm thấy làm lãnh đạo và người làm công trong hội thánh thì chắc chắn sẽ được phúc lớn, ai ngờ đâu còn có thể bị cách chức và đào thải, bị mọi người từ bỏ. Trong nhà Đức Chúa Trời mà còn có thể xảy ra chuyện như vậy! Người tin Đức Chúa Trời chưa chắc đều là người tốt, việc nhà Đức Chúa Trời làm chưa chắc đều có thể đại diện cho Đức Chúa Trời và chính nghĩa!”. Hết thảy những lời như vậy là gì? Nghĩa đen nghĩa bóng của những lời này đều kèm theo sự công kích, xét đoán và chống đối. Bề ngoài thì họ nhắm vào một lãnh đạo nào đó hoặc nhắm vào hội thánh, nhưng trên thực tế thì trong lòng họ đang nhắm vào Đức Chúa Trời, nhắm vào lời Đức Chúa Trời cũng như những sắc lệnh quản trị và quy định của nhà Đức Chúa Trời, đây hoàn toàn là chuyện trút giận. Tại sao họ muốn trút giận? Chính là vì họ cảm thấy mình bị thiệt thòi, trong lòng chông chênh và không cam tâm, muốn giành lấy và muốn được bồi thường. Mặc dù sự tiêu cực mà loại người này lan truyền không gây nên sự đe dọa quá lớn đối với đa số mọi người, nhưng những lời xấu xí này cũng như ruồi nhặng, sâu bọ hôi thối, gây nên một vài sự nhiễu loạn không nhỏ cho tâm tư của người khác. Đa số mọi người nghe xong đều cảm thấy chán ghét, tuy nhiên không tránh khỏi có những người cùng loại với họ, có cùng tâm tính, thực chất và đam mê như họ, thì có thể ngưu tầm ngưu mã tầm mã với họ, rồi bị ảnh hưởng và nhiễu loạn, đây là chuyện khó tránh khỏi. Thậm chí còn có vài người có vóc giạc nhỏ và không biết phân định thì cũng sẽ bị những lời lẽ tiêu cực này gây nhiễu loạn, đức tin vào Đức Chúa Trời cũng bị ảnh hưởng. Những người này vốn đã không biết rốt cuộc tin Đức Chúa Trời là vì điều gì, rất mơ hồ đối với các lẽ thật về khải tượng, năng lực lĩnh hội lẽ thật cũng kém, sau khi nghe những lời lẽ tiêu cực này rồi thì họ sẽ rất dễ không muốn mà vẫn cứ tiếp nhận, thế là sẽ bị ảnh hưởng. Những lời này là một loại độc tố, rất dễ gieo vào lòng người. Sau khi người ta tiếp nhận những lời lẽ tiêu cực này rồi mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu họ làm bổn phận thì họ cũng chẳng thèm ngó ngàng, nhà Đức Chúa Trời yêu cầu họ phối hợp trong công tác nào đó thì họ cũng dở dở ương ương, muốn gánh vác thì gánh vác, không muốn gánh vác thì thôi, họ luôn có vài lý do và đủ dạng lý lẽ. Trước khi nghe những lời tiêu cực này, họ còn có chút thành tâm trong việc tin Đức Chúa Trời, còn có chút thái độ tích cực và chủ động trong việc làm bổn phận, nhưng sau khi nghe những lời lẽ tiêu cực này rồi thì họ trở nên rất lãnh đạm, còn lãnh đạm với cả các anh chị em, hết sức đề phòng các anh chị em, hội thánh mà sắp xếp cho họ làm bổn phận gì thì họ chỉ toàn tránh tránh né né, đùn qua đẩy lại, vô cùng bị động. Trước đây, lúc nhóm họp thì họ luôn đúng giờ, sau khi nghe những lời lẽ này rồi thì họ dự nhóm họp theo kiểu bữa đực bữa cái, vui thì dự, không vui thì thôi. Trong nhà mà phát sinh một vài chuyện không thuận ý, thì vì sợ sẽ gặp phải tai họa gì, nên họ mới dự nhóm họp nhiều hơn và đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn, đọc lời Đức Chúa Trời xong mà họ cao hứng, kích động và cảm động thì họ còn dâng hiến chút tiền. Nhưng đến ngày trong nhà họ bình an vô sự rồi thì họ lại không dự nhóm họp nữa, anh chị em muốn giúp đỡ, tìm họ để thông công thì họ còn viện cớ từ chối, anh chị em có tìm đến tận nhà thì cho dù rõ ràng đang ở trong nhà mà họ cũng không chịu ra mở cửa. Đây là chuyện gì vậy? Chính là họ bị những lời lẽ tiêu cực này ảnh hưởng rồi, họ bị trúng độc rồi, họ cho rằng những người tin Đức Chúa Trời này không đáng tin cậy. Ban đầu, họ tin những người này lắm, khi đọc lời Đức Chúa Trời họ cũng cảm thấy: “Đây là lời Đức Chúa Trời, những người này là anh chị em, đây là nhà Đức Chúa Trời, thật tốt đẹp biết bao!” Nhưng sau khi nghe người này người kia lan truyền lời lẽ tiêu cực thì họ đã thay đổi. Đây chẳng phải là bị ảnh hưởng sao? Chẳng phải lối vào sự sống của họ bị tổn hại rồi sao? (Thưa, phải.) Đây là do ai mà bị ảnh hưởng? Chính là do người trút ra sự tiêu cực nói những lời đó. Người ta còn chưa thiết lập nền tảng trên con đường thật, ăn uống lời Đức Chúa Trời còn chưa đến mức hiểu được lẽ thật, nên rất dễ bị những thứ tiêu cực này ảnh hưởng. Đặc biệt là những người không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, chỉ biết nhìn xu thế, tình thế và hiện tượng bề ngoài của sự tình, họ càng dễ bị những lời tiêu cực này ảnh hưởng. Nhất là khi nghe có người nói những luận điệu sai trái như: “Nhà Đức Chúa Trời chưa chắc đã công bằng, việc nhà Đức Chúa Trời làm chưa chắc đã tích cực”, v.v., thì họ lại càng thêm đề phòng. Một câu phù hợp lẽ thật thì chưa chắc người ta đã tiếp nhận, nhưng một câu tiêu cực, vô lý và trái lẽ thật lại rất dễ ăn sâu bén rễ trong lòng người, muốn nhổ bỏ đi cũng không dễ. Người ta tiếp nhận lẽ thật thì quá khó, mà tiếp nhận luận điệu sai trái thì quá dễ!

Có một vài người có nhân tính không tốt, họ đặc biệt xem trọng uy tín, danh tiếng, sự hưởng thụ xác thịt, tài sản và lợi ích của bản thân. Khi danh tiếng, địa vị và lợi ích trực tiếp của họ bị tổn thất, thì họ đâu có tiếp nhận từ Đức Chúa Trời, đâu có tiếp nhận mọi hoàn cảnh mà Ngài sắp đặt cho họ, hay là có thể buông bỏ những thứ này và không so đo chuyện được mất cá nhân. Thay vào đó, họ mượn đủ loại cơ hội mà trút ra sự bất mãn và không phục của mình, trút ra cảm xúc tiêu cực của mình, từ đó dẫn đến chuyện một số người bị làm hại nghiêm trọng. Do đó, khi loại người này trút ra sự tiêu cực, thì lãnh đạo hội thánh trước hết phải kịp thời nắm rõ tình hình, kịp thời ngăn chặn và hạn chế, đương nhiên cũng nên tích cực và chủ động vạch trần họ, thông công với các anh chị em về cách phân định loại người này, thông công về lý do họ nói ra những lời tiêu cực và vô lý này, về cách để tiếp cận và phân định những lời này của họ, để phòng tránh bị họ mê hoặc và làm hại nghiêm trọng. Phải biết phân định và mổ xẻ loại người này, từ đó tránh xa và từ bỏ loại người này, không để bị họ mê hoặc nữa. Đây là công tác mà lãnh đạo hội thánh nên làm. Đương nhiên, các anh chị em bình thường mà phát hiện ra loại người này và phân định được thực chất nhân tính của loại người này, thì cũng nên tránh xa họ. Nếu ngươi không có đủ sức đề kháng, không có đủ vóc giạc để hỗ trợ, giúp đỡ và thay đổi họ, nếu ngươi cảm thấy bản thân không chế ngự được những lời lẽ tiêu cực, những câu nói bất mãn và không phục của họ, thì cách tốt nhất là ngươi cứ tránh xa họ. Nếu ngươi cảm thấy mình rất mạnh mẽ, có chút vóc giạc, bất kể ai nói gì đều phân định được, đều không bị ảnh hưởng, bất kể họ có trút ra sự tiêu cực nghiêm trọng đến đâu cũng không thể thay đổi đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời, đồng thời khi họ đang trút ra sự tiêu cực thì ngươi còn có thể vạch trần họ, ngăn chặn họ, vậy thì ngươi không cần tránh xa hay đề phòng dạng người này. Nhưng nếu ngươi cảm thấy bản thân không có vóc giạc như vậy, thì phương thức và nguyên tắc để đối đãi với dạng người này chính là tránh xa họ ra. Có dễ làm được việc này không? (Thưa, dễ làm được.) Có vài người nói: “Con bao dung cho họ, nhẫn nại và khoan dung với họ, vậy có được không?” Cũng được, làm vậy cũng không sai, nhưng đó không phải là cách thực hành mấu chốt nhất và tốt nhất. Nếu như ngươi nhẫn nại, bao dung và dung túng cho họ, để rồi cuối cùng bản thân ngươi bị họ mê hoặc và lôi kéo, cho dù nhà Đức Chúa Trời có cung ứng và hỗ trợ thế nào, ngươi cũng không cảm nhận được, hoặc là lúc đọc lời Đức Chúa Trời, ngươi thường xuyên bị lời lẽ và tư tưởng của họ chi phối, chỉ cần nghĩ về một câu họ nói là tâm tư ngươi bị ảnh hưởng và đọc lời Đức Chúa Trời không vào nữa, hay là lúc anh chị em thông công nhận thức về lẽ thật, nhất là thông công về việc phân định lời lẽ của loại người này, thì ngươi lại bị lời lẽ của họ chi phối và ảnh hưởng, khiến tâm tư ngươi hỗn loạn – trong trường hợp đó, ngươi nên tránh xa loại người này. Sự bao dung và nhẫn nại của ngươi không có tác dụng, không phải là biện pháp tốt nhất để phòng thủ trước loại người này. Nếu sự bao dung và nhẫn nại của ngươi không phải là một dạng hành vi giả vờ bề ngoài, mà thực sự là ngươi có đủ vóc giạc để đối diện với loại người này, bất kể họ nói thế nào thì dù miệng không nói ra nhưng trong lòng ngươi cũng có sự phân định, chỉ là ngươi có thể nhẫn nhịn họ, không thèm để tâm đến họ, nhưng bất kỳ lời tiêu cực và phản diện nào, bất kỳ lời hiểu lầm và oán trách Đức Chúa Trời nào họ nói ra, đều không ảnh hưởng chút gì đến đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời, cũng không ảnh hưởng đến lòng trung thành của ngươi khi làm bổn phận hay sự thuận phục của ngươi đối với Đức Chúa Trời, nếu như vậy thì ngươi có thể bao dung và nhẫn nại với họ. Nguyên tắc thực hành bao dung và nhẫn nại là gì? Là không để bị hại. Ngươi đừng để tâm đến họ làm gì, họ thích nói gì cứ việc nói, đằng nào dạng người này cũng là thứ lưu manh càn quấy, làm càn làm bậy, ngươi có thông công lẽ thật thế nào họ cũng không tiếp nhận, họ nằm trong số ma quỷ và Sa-tan, ngươi thông công với họ cũng vô ích. Do đó, trước khi nhà Đức Chúa Trời thanh trừ và xử lý họ, nếu ngươi có vóc giạc để có thể bao dung, nhẫn nại với họ mà không bị họ hại là tốt nhất. Có phải các ngươi hầu như luôn dùng nguyên tắc bao dung và nhẫn nại không? Dạng người nào các ngươi cũng có thể chịu đựng, nhưng đôi lúc sơ sẩy một chút là ngươi bị mê hoặc, sau đó mới tỉnh ngộ, trong lòng cảm thấy mắc nợ Đức Chúa Trời, cầu nguyện hai ngày thì tình trạng có xoay chuyển, đã gần lại với Đức Chúa Trời hơn. Hầu như lúc nào ngươi cũng có thể thấy rõ loại người này là thứ chẳng tốt đẹp gì và nằm trong số ma quỷ, mặc dù ngươi cũng có thể qua lại bình thường với họ, nhưng trong lòng ngươi hẳn xa cách và thấy ác cảm với họ. Bất kể họ nói thế nào, trút ra lời lẽ và quan điểm tiêu cực thế nào, ngươi đều bịt tai không nghe, không thèm để tâm và nghĩ rằng: “Anh muốn nói gì cứ việc nói, tôi phân định được anh rồi, tôi sẽ không qua lại với dạng người như anh”. Hầu như lúc nào, các ngươi cũng theo nguyên tắc xử sự này phải không? Có thể làm được như vậy cũng không tệ, làm vậy cũng đâu có dễ, phải có hiểu được chút lẽ thật và có vóc giạc nhất định mới làm được. Nếu ngươi còn không có được chút vóc giạc này, vậy thì ngươi sẽ không có cách nào đứng vững được, và sẽ không làm tốt bổn phận của mình được.

4. Trút ra sự tiêu cực khi dục vọng được phúc tiêu tan

Việc trút ra sự tiêu cực còn có một biểu hiện nữa. Có vài người nói: “Tin Đức Chúa Trời lâu năm đến vậy, tôi đã đạt được gì chứ?”. Khi loại người này trút ra sự tiêu cực, chủ yếu họ nói lời “Tôi đã đạt được gì chứ?” này. Ý họ là cái gì họ cũng không đạt được. Họ cho rằng tin Đức Chúa Trời mà muốn đạt được chút lợi ích, chúc phúc lành từ nhà Đức Chúa Trời và từ Đức Chúa Trời thì cực kỳ vất vả, phải dâng hiến lòng yêu kính cực lớn, có sự nhẫn nại cực lớn, dục tốc bất đạt. Nhất là họ cho rằng những lời Đức Chúa Trời vạch trần, tỉa sửa, tinh luyện và làm tinh sạch sự bại hoại cho con người đều là những lời quan cách bề ngoài, không thể tin tưởng tuyệt đối, nếu cứ chiếu theo lời Đức Chúa Trời mà thực hành thì sẽ bị tổn thất nặng nề. Họ cho rằng bất kể lúc nào, việc có thể đạt được lợi ích và điều tốt, có thể thực hiện lý tưởng và nguyện vọng mới là điều mấu chốt nhất, còn chuyện có thực hành lẽ thật hay không thì không mấu chốt, chỉ cần không hành ác là được, là sẽ không bị hội thánh đào thải. Đa số mọi người nghe xong những lời tiêu cực này thì sẽ cảm thấy thế nào? Sẽ tán đồng và tán thành trong lòng, hay là cảm thấy có chút khinh bỉ, cảm thấy người nói lời này thật ích kỷ và đê tiện, tà ác và đáng ghét, đồng thời có thể phân định họ, vạch trần và hạn chế họ, không để họ tiếp tục lan truyền sự tiêu cực và chết chóc nữa? Đối với dạng lời tiêu cực này, đa số mọi người sẽ thấy ác cảm và kết tội chúng, hay là có thể bị chúng mê hoặc và nảy sinh sự tiêu cực? Có vài người nghe xong lời này, nhìn lại mình với đôi bàn tay trắng, thì cảm thấy “Chứ còn gì nữa, mình cũng đâu đạt được gì. Mình ở trong nhà Đức Chúa Trời ngày ăn ba bữa, bận rộn suốt ngày, ngoài chừng đó ra, thực sự đâu có đạt được gì”. Các ngươi có ý nghĩ như vậy không? Có cùng cảm giác như vậy không? Người hiểu lẽ thật thì sẽ nói: “Cái gì mà không đạt được gì chứ? Từ nơi Đức Chúa Trời, chúng ta đã đạt được quá nhiều rồi! Đã hiểu được biết bao lẽ thật mà!” Nhưng lại có những người phản bác rằng: “Nói rằng đã đạt được quá nhiều thì có vẻ không thực tế lắm. Có đạt được chút ân điển, đạt được cơ hội làm bổn phận, hiểu được một vài đạo lý làm người, tiếp xúc và quen biết được không ít anh chị em đến từ nhiều nơi khác nhau, mở mang thêm rất nhiều kiến thức, vậy cũng chỉ tính là đạt được một chút mà thôi”. Các ngươi thuộc trường hợp nào? Có phải trường hợp nào cũng có không? (Thưa, phải.) Chúng ta sẽ nói về chuyện này từ hai phương diện. Trước hết, hãy nói về chuyện loại người tin Đức Chúa Trời luôn vì để đạt được ân điển, họ tin Đức Chúa Trời là để mưu cầu đạt được lẽ thật hầu được cứu rỗi sao? (Thưa, không phải, họ tin là để được phúc lành.) Vậy Đức Chúa Trời ban cho họ ân điển, sự bảo vệ, sự ân đãi, khai sáng và soi sáng còn ít sao? (Thưa, không ít.) Có thể nói, bất kỳ người nào tin Đức Chúa Trời cũng đều được Đức Chúa Trời bảo vệ. Chuyện được Đức Chúa Trời bảo vệ này có cụ thể không? Có ví dụ thực tế không? Người ta được bảo vệ về chuyện gì? (Thưa, chuyện tương đối rõ ràng là sau khi tin Đức Chúa Trời thì chúng con không bị những trào lưu tà ác của thế gian hun đúc nữa, không sa đọa, không mưu cầu những thứ tà ác như đi hộp đêm, hút thuốc, uống rượu, v.v.. Ít nhất chúng con không dính dáng đến những thứ đó. Con cảm thấy chúng con đã được bảo vệ rất nhiều về phương diện này.) Đây là một phương diện rất thực tế, ai cũng có thể tận mắt thấy và đích thân thể nghiệm được. Không chịu sự ảnh hưởng và mê hoặc của các trào lưu tà ác trong thế gian, sống như con người, sống trong nhân tính bình thường và có hình tượng con người, đây là một ví dụ và chứng cứ thực tế về sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Còn gì nữa? (Thưa, không bị tà linh quấy nhiễu, có thể sống dưới sự bảo vệ của Đức Chúa Trời.) Đây cũng là một ví dụ thực tế. Đa số mọi người đều có thể nghiệm này phải không? Các ngươi có thể lĩnh hội được ý trong chuyện này không? Có vài người nói: “Người ngoại đạo cũng đâu có bị tà linh quấy nhiễu, người ngoại đạo có mấy người bị tà linh quấy nhiễu chứ?” Lời này có đúng không? Các ngươi cảm thấy lời này có phù hợp sự thật không? (Thưa, bạn học của con có kha khá người bị tà linh quấy nhiễu, có người bị bóng đè, có người nghe thấy âm thanh lạ. Họ không tin Đức Chúa Trời, cũng không biết đó là chuyện gì, họ đã đi chữa trị khắp nơi mà không lành, cứ sống trong hoang mang sợ hãi, vô cùng thống khổ. Nhưng con từ nhỏ đã tin Đức Chúa Trời nên chưa bao giờ bị những thứ đó quấy nhiễu, chưa chịu cái khổ đó, hầu như lúc nào trong lòng cũng yên ổn và bình an.) Người thành tâm tin Đức Chúa Trời thì không có mối lo âu đó, không cần phải lo lắng mình bị chứng cuồng loạn, bị tà linh quấy nhiễu hay nhập vào, bởi vì chúng ta có Đức Chúa Trời nên khỏi phải sợ. Còn có một phương diện nữa, đó là trong đời sống hiện thực, người ngoại đạo suốt ngày nói về chuyện xem tướng, xem phong thủy, bói toán, thậm chí phương Tây còn có chiêm tinh học. Có người thờ tượng phật, tà linh và ngẫu tượng có danh tiếng, có người thì không, nhưng dù có thờ hay không thì họ đều ít nhiều bị ảnh hưởng và hạn chế. Chẳng hạn như, ra khỏi cửa thì phải bói một quẻ để xem đi hướng nào thì lành, đi hướng nào thì dữ, khi mở tiệm thì phải đặt quầy ở hướng nào mới có thể kiếm tiền, đặt quầy ở hướng nào thì không kiếm được tiền, trong tiệm để những đồ gì, thờ ngẫu tượng nào thì có thể thu hút tiền tài, thứ gì để ở hướng nào thì không phá phong thủy. Khi chuyển nhà thì phải chọn xem giờ nào lành để sau này trong nhà có thể thịnh vượng và không xảy ra chuyện gì, còn phải xem giờ nào dữ. Thậm chí học sinh đi thi cũng bị ảnh hưởng bởi những thứ này, trong ngày thi không được nói những lời nào ngụ ý thi rớt, toàn phải nói những lời kiểu như “đậu”, “cao”. Từ chuyện con cái đi học, đến chuyện cha mẹ sống hàng ngày, kiếm tiền, chuyển nhà, tìm việc, cả chuyện hôn nhân của con cái, v.v., hết mọi phương diện trong cuộc sống đều bị đủ thứ gọi là phong thủy, vận thế, v.v. ảnh hưởng. Vậy khi bị những thứ này ảnh hưởng là họ đang bị thứ gì hạn chế? Chính là bị tà linh hạn chế, đây đều là sự khống chế của tà linh. Vậy tại sao người ta lại muốn thờ những thứ này? Tại sao lại chịu sự ảnh hưởng của những thứ này? Tại sao một chuyện đơn giản như chuyển nhà mà người ta cứ luôn phải ngẫm nghĩ xem chuyển nhà giờ nào thì lành, giờ nào thì dữ, chuyển thứ gì trước thì lành, không chuyển thứ gì thì lành? Tại sao người ta luôn suy xét những thứ này? Họ không suy xét thì không được, họ mà không suy xét thì tà linh sẽ ra tay, sẽ hành hạ, tra tấn họ. Từ những chuyện này, các ngươi thấy được gì? Toàn thể nhân loại đều sống dưới tay ác quỷ. Ác quỷ là nói đến ai? Lớn thì là Sa-tan và ma quỷ, nhỏ thì là tà linh các nơi, những tà linh khống chế các chủng tộc khác nhau. Đủ mọi mặt trong cuộc sống con người đều bị những tà linh này hạn chế và khống chế, thậm chí khi xây nhà, đến lúc thượng lương thì phải treo dải dây đỏ và đốt pháo để cầu may mắn, còn thợ nề thì đều mặc đồ đỏ để có thể phát tài và không gặp sự cố ngoài ý muốn. Những chuyện này đều có một vài chi tiết tỉ mỉ và câu nói, còn có một vài điều kiêng kỵ, nếu không kiêng kỵ, không tuân thủ những câu nói này thì không được. Chẳng hạn như, có người thường xuyên gặp trắc trở, không được thuận lợi – họ mất việc làm, vợ cũng bỏ đi, trong nhà chẳng có gì, còn không có tiền đóng trả góp mua nhà, mọi chuyện đều không thuận lợi. Họ chẳng làm chuyện gì xấu cả, vậy tại sao lại gặp phải những chuyện này? Không còn cách nào khác, họ phải đi thờ thần giả và tà linh, hoặc gấp rút tìm người xem phong thủy để mong chuyển vận, từ đó trở đi, mọi chuyện bắt đầu thuận lợi lên từng chút một. Trước đây, họ không tin những chuyện này, bây giờ gặp chuyện rồi thì họ lại có thể thờ một cách thành tâm, làm gì cũng phải xem bói, bốc quẻ trước đã. Các ngươi nói xem, người ta sống như vậy có mệt hay không? (Thưa, mệt.) Sống vậy mệt lắm! Muốn tự do tự tại mà sống cũng không được, muốn không bị những câu nói và khuôn phép này hạn chế cũng không được, họ mà phá vỡ những khuôn phép này thì tà linh sẽ ra tay, sẽ quấy nhiễu, họ sẽ bị tà linh cưỡng ép chế ngự, phải ngày ngày thờ cúng là linh thì mới có thể sống êm xuôi. Nhưng người tin Đức Chúa Trời thì không bị những thứ mê tín phong kiến và việc làm của tà linh hạn chế, họ nói chuyển nhà là chuyển nhà, nói đi là đi, chẳng có kiêng kỵ gì. Ở Trung Quốc đại lục, Trung Cộng luôn trấn áp và bách hại tín ngưỡng tôn giáo, nếu người tin Đức Chúa Trời không thể ở lại nơi nào đó, thì phải nhanh chóng chuyển nhà đi, lúc đó có cần xem ngày, xem giờ hoặc thờ cúng gì không? Không cần, họ cầu nguyện với Đức Chúa Trời thì Ngài bảo vệ cho, hết thảy mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, họ không cần chịu những thứ đó hạn chế. Lúc nào muốn ăn gì, muốn ra ngoài, thì họ có cần xem ngày, xem thử có phạm kiêng kỵ gì không à? Đâu cần, họ cứ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, hết thảy mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Con người sống dưới sự thống trị của Đức Chúa Trời, sống dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời, có Đức Chúa Trời bảo vệ và hướng dẫn, thì tà linh ô quỷ lớn nhỏ gì cũng đều dạt sang một bên, chúng đâu dám làm gì trên người tin Đức Chúa Trời, vậy chẳng phải những người này được Đức Chúa Trời bảo vệ hay sao? Chẳng phải họ sống thật thoải mái tự tại sao? (Thưa, phải.) Các ngươi nói xem, ân điển này có lớn không? (Thưa, lớn.) Cho dù hiện tại ngươi đã đạt được lẽ thật hay chưa, chỉ cần ngươi là người thành tâm tin Đức Chúa Trời thì ngươi chính là người mà Đức Chúa Trời tiền định và tuyển chọn, ngươi đến trước mặt Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ bảo vệ ngươi như vậy, cho ngươi hưởng thụ dạng ân điển như vậy, đây là ân điển thật lớn lao! Sự an toàn cá nhân và mọi hành tung của ngươi đều được an toàn và bảo đảm, có Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm và bảo vệ cho, ngươi không cần phải lo lắng làm gì. Hầu như mọi lúc, người ta căn bản còn không cầu nguyện, cũng không nói một cách có ý thức rằng: “Tôi sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Đức Chúa Trời bảo vệ, mong được bình an, không xảy ra chuyện gì”. Ngươi không cần cầu nguyện đâu. Chỉ cần trong lòng ngươi có một niềm tin đơn giản rằng: “Tôi tin Đức Chúa Trời, hết thảy mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời”, thì Đức Chúa Trời sẽ ra tay. Con người hưởng thụ ân điển lớn đến vậy từ Đức Chúa Trời, vậy mà còn ít nữa sao? (Thưa, không ít.) Đức Chúa Trời là Đấng tể trị độc nhất vô nhị trên thế giới, tính mạng và mọi sự của ngươi đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, trong tay Đấng tể trị này, lòng ngươi được bình an vững vàng, thanh thản, ngươi không cần phải lo lắng chuyện gì. Bất kể ngươi nhận thức Đức Chúa Trời được bao nhiêu, hiểu được bao nhiêu lẽ thật, trong lòng ngươi tuyệt đối sẽ nắm rõ chút chuyện này. Hết thảy mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, người tin Đức Chúa Trời mà trong lòng có chỗ cho Ngài và hiểu rõ lẽ thật, thì tà linh sẽ không đám quấy nhiễu và phá hoại, không dám tiếp cận đâu, cho nên người tin Đức Chúa Trời khỏi cần làm những quá trình không cần thiết này. Đây là ân điển lớn biết bao, sao ngươi còn nói tin Đức Chúa Trời mà chẳng đạt được gì? Nói vậy chẳng phải là không có lương tâm sao? Chưa cần tính đến điều gì khác, nội chuyện người ta nói mình chẳng đạt được gì đã chứng tỏ người ta quá thiếu lương tâm rồi, lương tâm băng hoại quá rồi, những chuyện khác khỏi cần nói đến nữa làm gì.

Đức Chúa Trời ban miễn phí lẽ thật và sự sống cho con người, cung ứng lời Ngài cho con người mà không đòi lại gì. Mặc dù người ta cảm thấy hiện tại vóc giạc mình còn non nớt, cũng không hiểu được quá nhiều lẽ thật, có hiểu một chút cũng không nói rõ ràng được, nhưng đây là những điều Đức Chúa Trời ban cho con người, đối với con người mà nói, tấm lòng và sự yêu thương này của Đức Chúa Trời là ân điển vô cùng lớn lao! Đức Chúa Trời lấy thứ quý báu nhất đem cho con người, và con người từ Đức Chúa Trời mà đạt được thứ quý báu nhất trên đời, bất kể ngươi có thể nghiệm được không, thì Đức Chúa Trời đã ban những điều này cho con người rồi, con người còn có gì để nói chứ? Con người xứng đạt được những điều này sao? Những người được Đức Chúa Trời tuyển chọn này là những người hạnh phúc nhất trên đời, ngươi được Đức Chúa Trời tuyển chọn và nhìn trúng thì ngươi là người hạnh phúc nhất và may mắn nhất trên đời rồi, sao ngươi còn nói bản thân chẳng đạt được gì? Ngươi trở thành người hạnh phúc nhất và may mắn nhất là nhờ Đức Chúa Trời tuyển chọn và nhìn trúng ngươi, cho nên tà linh ô quỷ đâu dám tiếp cận ngươi. Có vài người nói: “Vậy chuyện đó chứng tỏ rằng giá trị bản thân và thân phận của con tôn quý rồi phải không?” Có thể nói như vậy không? Cũng không thể nói như vậy, mọi chuyện này đều là nhờ sự yêu thương và hành động của Đức Chúa Trời. Con người đạt được quá nhiều rồi! Đời này người ta đã đạt được nhiều như vậy, tự thân con người có đủ tư cách mà nhận chừng đó hay không? Có vài người tin Đức Chúa Trời mà chẳng mưu cầu lẽ thật chút nào, còn luôn nói rằng: “Tôi tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà đã đạt được gì chứ?” Bản thân ngươi không biết tính à? Ngươi có hiểu lẽ thật không thì trong lòng ngươi tự biết, ngươi làm bao nhiêu việc ác thì trong lòng ngươi cũng biết, ngươi hưởng thụ bao nhiêu ân điển, thì trong lòng ngươi càng biết. Nếu trong lòng ngươi rõ ràng về những chuyện này thì ngươi sẽ không nói ra lời vô lương tâm như vậy. Có vài người còn nói: “Nhà Đức Chúa Trời còn cho tôi ăn, mặc, ở”. Những cái này chẳng phải quá nhỏ khi so với ân điển và sự bảo vệ của Đức Chúa Trời sao? Chúng đáng để nhắc đến sao? Chỉ là người có lương tâm thì cảm thấy mặc dù chúng không đáng để nhắc đến, nhưng chúng cũng là ân điển của Đức Chúa Trời. Ân điển của Đức Chúa Trời có tính mãi cũng không hết, Đức Chúa Trời ban cho con người quá nhiều rồi! Còn về những thứ vật chất, thực ra xét từ góc độ của Đức Chúa Trời, thì Ngài còn chẳng tính đến chúng với con người làm gì.

Trong những việc Đức Chúa Trời làm, một phương diện là bảo vệ con người, phương diện khác là đưa con người lên con đường được cứu rỗi, khiến cho con người có thể được cứu rỗi. Tấm lòng và tình yêu thương này của Đức Chúa Trời, con người đều được hưởng, ân điển Đức Chúa Trời ban cho người thật quá nhiều rồi! Ngoài ra, còn có một điều tối quan trọng, đó là lẽ thật mà Đức Chúa Trời ban cho con người, cụ thể là những lời mà suốt mọi thời đại trong lịch sử nhân loại, chưa có ai từng nghe qua hay đạt được. Bất kể Đức Chúa Trời đã tạo dựng nhân loại bao nhiêu lần, Ngài chưa hề làm công tác này, chưa hề phán những lời này. Mọi huyền nhiệm liên quan đến nhân loại, những gì con người có thể chịu được, với tới được và hiểu được, thì Đức Chúa Trời đều nói hết cho các ngươi rồi. Những huyền nhiệm và lẽ thật này có thể đánh giá theo số lượng nào đó sao? Không có cách nào để đánh giá cả, con người hưởng thụ mấy đời cũng không hết. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì những lời này của Đức Chúa Trời là nền tảng sinh tồn của con người, là sự có thể tồn tại đời đời. Nếu ngươi thực sự có may mắn để có thể được sống sót và sống đời đời, vậy thì những lời này và những lẽ thật này của Đức Chúa Trời sẽ đủ cung ứng cho ngươi đời đời. Đời đời nghĩa là gì? Nghĩa là không bị thời gian hạn chế, là vô hạn, lý giải theo nghĩa đen, thì nghĩa là không có giới hạn, là sống mãi, như Đức Chúa Trời. Những lời này và những lẽ thật này của Đức Chúa Trời có thể tồn tại đến tận lúc đó. “Tận lúc đó” là dùng ngôn ngữ của con người mà diễn đạt một khái niệm và định nghĩa về thời gian mà thôi, nhưng thực ra nó là vô hạn. Các ngươi nói xem, những lời này của Đức Chúa Trời có giá trị lớn không? Quá lớn! Ngươi không mưu cầu những lời này thì ngươi bị tổn thất, là ngươi ngu xuẩn mà thôi. Ngươi mà mưu cầu, thì những lời này sẽ có giá trị mãi mãi cho ngươi, không phải chỉ trong đời này kiếp này, mà là đời đời. Những lời này đời đời hữu hiệu và hữu dụng, có giá trị và ý nghĩa với ngươi, có thể đời đời cung ứng cho ngươi. Ngươi hiểu được và đạt được những lời này, dựa vào những lời này mà sống, thì ngươi sẽ có thể trường tồn, nói cách thông tục thì là trường sinh bất lão, mãi không biết mùi vị cái chết là gì. Đây có phải là điều con người tha thiết ước mơ hay không? Đã qua biết bao thời đại, đã có biết bao người qua đời, mà người vẫn còn sống. Ngươi dựa vào cái mà sống? Dựa vào lời Đức Chúa Trời, vào lẽ thật thì ngươi sẽ có tư cách sống mãi như vậy. Sống mãi để làm gì? Ngươi có sự ủy thác của Đức Chúa Trời, có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, còn có sứ mạng của ngươi nữa. Sứ mạng của ngươi là gì? Đức Chúa Trời muốn dùng việc ngươi sống thể hiện ra lời Ngài mà tôn vinh Ngài, làm chứng cho Ngài, đây chính là giá trị của lời Ngài. Những lẽ thật và những lời mà con người ở thời đại này nghe được, tiếp xúc được và trải nghiệm được có giá trị và ý nghĩa tồn tại đời đời. Tại sao lại tồn tại đời đời? Những lời này của Đức Chúa Trời không phải là một dạng thần học, lý luận, khẩu hiệu hay tri thức, mà là lời sự sống, ngươi chỉ cần đạt được những lời này, sống theo những lời này, dựa vào những lời này mà sinh tồn, thì Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi sống mãi, không để ngươi chết, nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ không hủy diệt ngươi, không hủy đi tính mạng của ngươi, cho ngươi sống mãi. Phúc lành này có lớn lao không? (Thưa, lớn lao.) Đức Chúa Trời muốn dùng những lời này mà cho ngươi đời này nếm thử và đời sau đạt được dạng phúc lành này, đây là lời hứa của Đức Chúa Trời. Xét từ lời hứa lớn lao như vậy mà Đức Chúa Trời ban cho con người, thì những gì con người đạt được có nhiều hay không? (Thưa, nhiều.) Đức Chúa Trời ban cho con người lời hứa lớn lao như vậy, công bố khắp nơi, nói cho ngươi biết, cho ngươi đến lấy miễn phí, ngươi không cần phải hy sinh tính mạng, cũng không cần phải giao hết mọi thứ thuộc về mình, chỉ cần lắng nghe lời Đức Chúa Trời, chiếu theo yêu cầu và ý của Đức Chúa Trời mà làm, là ngươi sẽ có thể đạt được lời hứa này của Đức Chúa Trời rồi. Những gì Đức Chúa Trời ban cho con người có nhiều hay không? Hiện tại ngươi đang trên con đường đạt được lời hứa này, mặc dù vẫn chưa đạt được hoàn toàn, nhưng cái ngươi đạt được còn ít hay sao? Xét từ lời hứa mà Đức Chúa Trời ban cho con người này, thì con người đã đạt được quá nhiều, đã chiếm lợi quá lớn rồi, con người đâu có bị thiệt, cũng đâu bị tổn thất gì. Con người chỉ bỏ ra chút thời gian, xác thịt có thể cũng vất vả một chút, hy sinh đôi chút hạnh phúc gia đình, sở thích và dục vọng xác thịt cá nhân, từ bỏ một vài lý tưởng, chí thú và nguyện vọng của bản thân, v.v.. Nhưng so với việc hiểu lẽ thật, được cứu rỗi và nhận lời hứa của Đức Chúa Trời, thì những thứ tiền đồ, mục tiêu và lý tưởng cá nhân này đều chẳng đáng để nhắc đến, bởi vì những thứ đó chỉ có thể khiến ngươi vào địa ngục, Đức Chúa Trời sẽ không cho ngươi lời hứa vì những thứ đó. Ngược lại, con người bỏ ra đôi chút thời gian có hạn, bỏ ra một vài cái giá mà bản thân sẵn lòng và có thể làm được, cuối cùng con người hiểu được lẽ thật, hiểu được một vài huyền nhiệm và nguyên tắc mà từ khi Đức Chúa Trời sáng thế đến giờ chưa có ai trong nhân loại hiểu được, hiểu được một vài thực chất và căn nguyên của vạn sự vạn vật, v.v.. Quan trọng hơn nữa, con người có được một vài nhận thức về Đức Chúa Trời và có thể kính sợ Đức Chúa Trời. Đạt được những điều này thì chẳng phải cái giá bỏ ra quá đáng giá hay sao? Con người có gì mà oan ức chứ? Tại sao lại còn nói tin Đức Chúa Trời mà chẳng đạt được gì? Nói vậy có phải là lương tâm băng hoại quá rồi không? Ngươi đạt được nhiều như vậy mà còn không biết đủ, còn muốn đạt được gì nữa? Làm tổng thống, làm tỷ phú thì ngươi mới hài lòng sao? Nếu Đức Chúa Trời ban những điều đó cho ngươi, thì ngươi không còn là người của Ngài nữa rồi, Đức Chúa Trời đâu muốn thu phục dạng người như vậy.

Người ta luôn nói tin Đức Chúa Trời mà chẳng đạt được gì, như vậy là không có lương tâm, không có chút năng lực lĩnh hội lẽ thật nào, cũng không mưu cầu lẽ thật, và nhân cách quá đê hèn. Loại người này chẳng có chút lĩnh hội thuần túy nào về những việc Đức Chúa Trời làm, những gì Đức Chúa Trời yêu cầu nơi con người, những gì Đức Chúa Trời ban cho người, v.v. cuối cùng khi có chút chuyện không được như ý thì cơn giận dữ dội họ vốn đè nén sẽ bộc phát: “Tôi tin Đức Chúa Trời mà đã đạt được gì chứ? Xác thịt tôi đã chịu khổ biết bao, hội thánh sắp xếp làm bổn phận gì tôi cũng làm, khổ đến mấy mệt đến mấy, tôi cũng không oán trách, gian khổ đến mấy tôi cũng không nói một lời. Tôi chưa bao giờ yêu cầu điều gì với nhà Đức Chúa Trời. Lòng yêu thương và trung thành của tôi lớn như vậy, mà tôi đã đạt được gì chứ? Nếu tôi chẳng đạt được gì, thì người khác càng không đạt được!” Ngụ ý của họ là: “Các người đâu có dâng hiến nhiều như tôi, đâu có trả giá đắt như tôi, tôi chẳng đạt được thì sao các người có thể đạt được chứ? Các người đều cần phải dè chừng một chút, đừng có ngốc quá!” Như vậy chẳng phải là vô lương tâm sao? Người vô lương tâm thì luôn nói những lời ngu muội ngoan cố. Đức Chúa Trời phán nhiều lẽ thật đến vậy, có nhiều điều và câu nói tích cực đến vậy, mà họ chẳng lĩnh hội được câu nào, cứ ngoan cố ôm chặt quan điểm của mình: “Tôi đã chịu khổ và trả giá vì Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời phải ban phúc cho tôi, phải cho tôi được nhiều hơn người khác. Nếu không thì tôi sẽ phát tiết, sẽ bộc phát, tôi sẽ chửi! Tôi muốn đạt được cái gì thì phải ban cho tôi cái đấy, tôi mà không đạt được, thì Đức Chúa Trời không công chính, tôi sẽ nói mình chẳng đạt được gì – đấy là tôi đang ăn ngay nói thật!” Như vậy chẳng phải là không có nhân tính sao? Lời của người không có nhân tính chắc chắn không đứng vững được, càng khỏi nói đến chuyện có phù hợp lẽ thật hay không, yêu cầu mức này thì có hơi cao với họ. Lời ngươi nói đều phải là yêu cầu chính đáng và tuyên bố chính đáng, đừng có nói lý lẽ méo mó, thế thì bất kể nói cho ai nghe, để cho ai đánh giá, lời của ngươi đều có thể đứng vững được. Nhưng lời nói và việc làm của người có nhân tính không tốt thì không đứng vững được. Khi họ làm ầm ĩ mà phát tiết oán giận, có vài người cảm thấy: “Tại sao họ nói bản thân chẳng đạt được gì cả? Hay là nhà Đức Chúa Trời có chỗ không phải với họ? Có phải việc nhà Đức Chúa Trời làm không phù hợp nguyên tắc và không dám đưa ra ánh sáng không? Người này bình thường có vẻ có thể chịu khổ và trả giá, hôm nay lại có thể nổi giận đùng đùng như vậy, nói mình chẳng đạt được gì, có vẻ thực sự là họ chẳng đạt được gì rồi. Đây chẳng phải là đem người thật thà ra chọc giận sao? Vậy thì mình cũng phải dè chừng một chút, khi làm bổn phận đừng có chịu khổ và trả giá nhiều như trước đây nữa”. Có vài người hồ đồ và không biết phân định sẽ bị ảnh hưởng như vậy.

Đối với những người thường xuyên trút ra sự tiêu cực, nếu họ thực sự có quan điểm và ý nghĩ muốn nói ra, thì trước hết cứ để họ nói, để họ bộc lộ quan điểm. Họ bộc lộ xong thì mọi người sẽ hiểu: “Họ cảm thấy cái giá bản thân đã trả không tương xứng với những thứ đạt được, cảm thấy bản thân không đạt được lợi ích và bị thiệt thòi, nên họ không chịu. Đây là họ đang oán trách Đức Chúa Trời, muốn cò kè mặc cả với Đức Chúa Trời, muốn đòi ân điển và lợi ích đây mà!” Người bình thường nghe xong những lời của họ thì có thể có chút phân định về họ không? Khi mọi người đã phân định được họ rồi, thì hãy bảo họ: “Anh đã nói xong chưa? Nếu không còn gì để nói thì giữ mồm giữ miệng đi, không thì anh sẽ tự làm xấu mặt mình. Nếu bản tính tà ác của anh bại lộ trước mặt hết thảy mọi người và không kịp thời kiềm chế, thì sẽ khiến hết thảy mọi người nổi giận, cứ chờ đến khi mọi người đều vạch trần và từ bỏ anh, thì anh có hối hận cũng không kịp”. Ngươi cứ cảnh cáo họ như vậy, dùng cách này mà hạn chế họ. Ngươi cũng có thể nói thế này: “Anh mà cảm thấy mình bị thiệt thòi, thì khỏi cần tin Đức Chúa Trời nữa. Anh cảm thấy bản thân chẳng đạt được gì, vậy thì rốt cuộc anh muốn đạt được gì đây? Nếu anh muốn làm giàu cho nhà mình, thành đại gia, làm quan lớn, vậy thì không được rồi, đây không phải là điều người ta muốn là có thể đạt được, mà là chuyện do Đức Chúa Trời tiền định. Đức Chúa Trời xuất hiện và công tác để cứu rỗi con người, không phải để ban cho con người những thứ này. Chỗ nào có thể cho anh những thứ này thì anh cứ đến đó, nhà Đức Chúa Trời không phải là thế gian, không thể thỏa mãn cho ma quỷ và Sa-tan. Tốt nhất anh đừng đòi hỏi những điều này từ nhà Đức Chúa Trời hay các anh chị em, anh mà dám đòi hỏi Đức Chúa Trời những thứ này thì anh sẽ xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và chọc giận Ngài. Bởi vì Đức Chúa Trời đã ban cho con người ân điển đủ nhiều, ban lẽ thật làm sự sống còn nhiều hơn nữa, anh mà không trân quý lẽ thật, thì anh đúng là ngu muội và vô tri”. Mọi người đều chỉ trích và tỉa sửa họ như vậy. Cách thực hành này thế nào? Hoặc có thể nói với họ: “Nhà Đức Chúa Trời không nợ anh cái gì cả, dâng mình cho Đức Chúa Trời và làm bổn phận là việc anh tự nguyện làm. Từ khi tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận đến giờ, anh có biết anh đã hưởng thụ bao nhiêu ân điển của Đức Chúa Trời không? Anh mà có chút lương tâm thì đừng có nói với Đức Chúa Trời rằng anh chẳng đạt được gì, mà nên đến trước mặt Đức Chúa Trời và nhận thức vấn đề của mình. Nếu anh thực sự tin Đức Chúa Trời là lẽ thật, hết thảy mọi việc Đức Chúa Trời làm đều là lẽ thật, và lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, thì anh đừng nên nói ra lời này, đừng nên oán trách. Thái độ của anh bây giờ đâu phải là thái độ mà một người tin Đức Chúa Trời nên có, cũng chẳng phải là thái độ của một người tìm kiếm lẽ thật nên có. Anh là đang muốn tạo phản, muốn lôi chuyện cũ ra hạch hỏi Đức Chúa Trời! Đây là anh đang muốn đường ai nấy đi, tất toán một lần với Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời đâu có nợ anh cái gì, nhà Đức Chúa Trời cũng không nợ anh gì cả. Nếu anh muốn tất toán với nhà Đức Chúa Trời, thì anh nhanh rời nhà Đức Chúa Trời đi, tuyệt đối đừng có làm phiền nhà Đức Chúa Trời kẻo bị Đức Chúa Trời nổi giận đánh giết, hậu quả không tốt đẹp lắm đâu. Anh mà còn chút lương tâm và lý trí thì nên bình tĩnh lại mà cầu nguyện và tìm kiếm, xem thử quan điểm mưu cầu của mình khi tin Đức Chúa Trời có vấn đề gì, xem anh có đi con đường mà Đức Chúa Trời yêu cầu anh đi không. Anh có nhiều yêu cầu vô lý và nhiều oán giận như vậy với Đức Chúa Trời, thì sự mưu cầu của anh có vấn đề rồi. Anh tích tụ oán thán quá nhiều, không phải chỉ là chuyện một ngày hai ngày, mà đã từ lâu lắm rồi, có khi từ lúc bắt đầu tin Đức Chúa Trời, anh đã mang một dạng quan điểm sai lầm mà đến trước mặt Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời nói gì anh cũng không cảm nhận được, đến mức chẳng thấy hối hận hay mang nợ gì cả. Có lẽ vì vậy mới dẫn đến cục diện hôm nay. Anh nhanh nhận tội và hối cải đi, bây giờ hối cải còn kịp. Anh mà không hối cải, vẫn cứ liên tục hành ác và trút ra sự tiêu cực, thì anh sẽ thành ma quỷ, thành kẻ địch lại Đấng Christ. Nhà Đức Chúa Trời sẽ thanh trừ anh, rồi sau này anh sẽ không còn cơ hội được cứu rỗi nữa – nhà Đức Chúa Trời kết tội anh thì Đức Chúa Trời cũng định tội anh. Chúng tôi thấy anh tin Đức Chúa Trời đã nhiều năm như vậy, cũng có thể chịu khổ và trả giá, nên mới cảnh cáo anh như thế này, cho anh thêm một cơ hội. Nếu anh cứ khư khư cố chấp, không nghe khuyên giải, rồi nhà Đức Chúa Trời quyết định thanh trừ anh, thì anh không còn là anh chị em nữa, hy vọng được cứu rỗi của anh cũng sẽ tiêu tan. Đến lúc đó, anh sẽ thực sự chẳng đạt được gì, lúc đó đừng có hối hận. Bây giờ, quan trọng nhất là anh phải xoay chuyển tư tưởng và quan điểm, cùng phương hướng mưu cầu của mình, đừng tiếp tục mưu cầu luôn phải đạt được gì đó. Anh cứ nghe lời Đức Chúa Trời, xem trong những lời Đức Chúa Trời vạch rõ tâm tính bại hoại của con người thì anh có thể phản tỉnh và nhận thức được bao nhiêu. Những vấn đề anh có thể đối chiếu với bản thân và có thể thấy rõ, thì anh có giải quyết được không? Về sự phản nghịch của mình với Đức Chúa Trời, anh có nhận thức được không? Có giải quyết được không? Hiện tại anh đang đối diện với vấn đề lớn nhất, đó là luôn muốn tính toán sổ sách với Đức Chúa Trời, đây là vấn đề gì? Chẳng phải vấn đề này cần được giải quyết sao? Anh tin Đức Chúa Trời mà luôn kèm ý định, luôn kèm giao dịch, luôn nôn nóng muốn được phúc, muốn dùng cách bỏ sức, dâng mình và chịu khổ xác thịt để đổi lấy phúc lành của thiên quốc, như vậy chẳng phải là lô-gic của kẻ cướp hay sao? Tại sao anh không xem Đức Chúa Trời ban cho con người phúc lành như thế nào, Đức Chúa Trời yêu cầu con người điều gì, phán những lời nào với con người, và con người làm được gì thì có thể đạt được lời hứa của Đức Chúa Trời? Nếu anh thực sự tin Đức Chúa Trời, thực sự muốn được cứu rỗi, thì đừng có lúc nào cũng muốn đạt được gì đó từ Đức Chúa Trời. Anh phải xem bản thân đã thực hành được bao nhiêu lời Đức Chúa Trời rồi, xem mình có phải là người tuân theo lời Đức Chúa Trời không. Tuân theo lời Đức Chúa Trời là chiếu theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật mà thực hành và sống, chứ không phải chỉ cần xác thịt chịu khổ một chút, trả giá một chút là xong. Khi tâm tính bại hoại của anh chưa được giải quyết, thì những sự trả giá và chịu khổ của anh đều có mục đích. Dạng trả giá như vậy thì Đức Chúa Trời không khen ngợi, cũng không cần. Nếu anh cứ muốn tính toán sổ sách với Đức Chúa Trời, cứ muốn nói lý lẽ và đọ sức với Đức Chúa Trời, thì anh sẽ xúc phạm tâm tính của Ngài, Ngài sẽ thành toàn cho anh vào địa ngục và chịu trừng phạt, đó là báo ứng cho việc hành ác. Anh hưởng thụ quá nhiều phúc lành và ân điển của Đức Chúa Trời, Ngài cũng cho anh một vài đãi ngộ đặc biệt về mặt vật chất rồi, anh nên đạt được gì cũng đã đạt được rồi, sao lại còn muốn đòi hỏi Đức Chúa Trời gì nữa?” Người có lương tâm và lý trí mà nghe ngươi thông công những lời này, thì cảm xúc oán trách trong họ có bớt đi phần nào không? Những lời này có phải là sự lĩnh hội thuần túy hợp lẽ thật không? (Thưa, phải.) Nếu người ta có nhân tính và lý trí thì sẽ có thể hiểu, cũng có thể tiếp nhận. Chỉ có những ai không có nhân tính, mất hết lương tâm và lý trí, mới cho rằng những lời này là lừa gạt họ, là lời quan cách và không đáng tin, cho rằng những điều này không phải là lợi ích thực tế như ân điển vô hình hoặc phúc lành vật chất. Do đó, trước khi họ thấy được những thứ lợi ích thực tế này, thì ngươi nói gì cũng vô dụng, họ đều không tiếp nhận đâu. Trước mặt ngươi, có thể họ không phản kháng, nhưng sau lưng ngươi, thì trong lòng họ vẫn cứ chống đối như cũ, vẫn thỉnh thoảng trút ra sự tiêu cực, còn muốn khoe công lao, tính toán một lượt những cái khổ mình đã chịu, cách đối đãi hiện thời của nhà Đức Chúa Trời với họ, việc họ đã nhẫn nại với nhà Đức Chúa Trời thế nào – những chuyện này luôn còn mãi trong lòng họ. Bất kể gặp chuyện gì, chỉ cần họ không đạt được thứ họ muốn, thì thú tính của họ sẽ bộc phát dữ dội, tuôn trào như sấm động, bại lộ sự xấu xí, còn muốn trút ra sự tiêu cực nữa. Vậy đối với dạng người này, còn cần khuyên nhủ không? Sau khi khuyên nhủ đơn giản mà thấy họ vẫn giữ tính đó, lại tái phạm và quỷ tính phát tác, thì nên làm thế nào? Lúc đó thì nên hạn chế họ, đừng cho họ cơ hội hối cải nữa, họ là thứ vô dụng chẳng làm được việc gì, là thứ ngu muội ngoan cố. Thứ ngu muội ngoan cố nghĩa là gì? Nghĩa là họ không tiếp nhận con đường thuần túy, không tiếp nhận những điều tích cực. Thay vào đó, họ tiếp nhận những thứ lý lẽ méo mó, tà thuyết và luận điệu sai trái, họ bám giữ quan điểm bản thân rằng phải đạt được lợi ích thực tế, phải chiếm được lợi, và không để bị thiệt thòi. Bất kể nhà Đức Chúa Trời thông công lẽ thật thế nào, họ đều nói: “Những lời này đều dễ nghe, nhưng lời dễ nghe thì ai mà chẳng nói được? Anh mà bị thiệt thòi thì không nói được vậy đâu?” Họ giữ chặt quan điểm này không buông, gặp chuyện không như ý hoặc bị tổn thất gì thì cảm thấy bản thân tin Đức Chúa Trời mà chẳng đạt được gì, và lại muốn trút ra sự tiêu cực. Vậy còn cho họ cơ hội nữa không? Không cho nữa, họ không làm bổn phận cho tốt, lại còn muốn gây nhiễu loạn người khác, hãy nhanh chóng ngăn chặn và hạn chế họ, đừng để họ nói năng tùy ý. Nếu họ còn muốn tiếp tục lan truyền sự tiêu cực và quấy nhiễu người khác, thì đừng khách khí nữa, nhanh chóng thanh lọc họ đi. Vậy có bị xem là không có lòng yêu thương không? (Thưa, không.) Đã thông công lẽ thật hết nước hết cái với họ rồi, thông công thế nào họ cũng không nghe lọt tai, như vậy là có ý gì? Nhìn bề ngoài thì đây là kẻ chẳng tin, nhưng về thực chất, họ là ma quỷ, họ đến nhà Đức Chúa Trời để đòi ân điển và phúc lành từ Đức Chúa Trời, đến để kiếm lợi, chưa đạt được lợi thì chưa dừng, nếu tin một thời gian mà vẫn chưa đạt được lợi, thì tâm tính Sa-tan của họ sẽ bộc phát, sẽ phát tiết sự bất mãn với Đức Chúa Trời, sẽ hành ác và gây nhiễu loạn, đây chính là ma quỷ. Chút chịu khổ và dâng mình của họ căn bản không phải là họ đang thực hành lời Đức Chúa Trời, mà hoàn toàn là để làm giao dịch, để bản thân được lợi, được phúc. Người tin Đức Chúa Trời mà luôn muốn đạt được chút gì đó, thì khi gặp chuyện và trở nên tiêu cực, yếu đuối, họ sẽ luôn nói “Tôi tin Đức Chúa Trời mà chẳng đạt được gì”, rồi họ sẽ bất cần, tìm cách báo thù, còn thường xuyên trút ra sự tiêu cực và phát tiết cảm xúc bất mãn của mình. Chúng ta đã thông công về cách đối đãi với loại người này rồi, đó là chiếu theo nguyên tắc mà xử lý. Nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật, bảo đảm sau này không tiếp tục gây nhiễu loạn nữa, thì có thể cho họ thêm cơ hội ở lại trong hội thánh. Nếu họ luôn muốn gây nhiễu loạn và phá hoại công tác hội thánh và đời sống hội thánh, thì hãy thanh lọc họ ngay. Làm vậy là để bảo vệ công tác hội thánh và bảo đảm đời sống hội thánh của dân được Đức Chúa Trời chọn không bị quấy nhiễu. Đây là quyết định và biện pháp được đưa ra dựa trên nguyên tắc này. Như vậy là thích hợp.

Trong đời sống hội thánh, còn có những người nào dễ trút ra sự tiêu cực? Có những người làm bổn phận không có kết quả và luôn xảy ra sai sót, họ chẳng phản tỉnh bản thân, luôn cho rằng Đức Chúa Trời không công chính, không công bằng, luôn ân đãi người khác chứ chẳng ân đãi họ, lại còn xem thường họ, chẳng bao giờ khai sáng cho họ, vì vậy mà họ làm bổn phận chẳng bao giờ có kết quả, chẳng bao giờ đạt được mục đích nên người xuất chúng và được xem trọng. Trong lòng họ oán trách Đức Chúa Trời, đồng thời cũng nảy sinh sự đố kỵ, chán ghét và căm hận đối với những người trung thành làm bổn phận. Nhân tính của loại người này như thế nào? Có phải là hẹp hòi thiển cận không? Ngoài ra, có phải những người này không hiểu được cách mưu cầu lẽ thật khi tin Đức Chúa Trời không? Họ không hiểu tin Đức Chúa Trời là gì. Họ cho rằng tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận thì cũng giống như thi đại học, luôn phải so điểm số và thứ hạng cao thấp, do đó họ đặc biệt xem trọng những thứ này. Có phải tình trạng của họ là vậy không? Trước hết, xét từ góc độ lĩnh hội lẽ thật, loại người này có hiểu biết thuộc linh không? Họ không có hiểu biết thuộc linh, không hiểu được tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật là chuyện như thế nào. Một mặt, họ quá xem trọng thứ hạng giữa mọi người, mặt khác, họ luôn dùng phương thức chấm điểm này mà đánh giá xem người khác làm bổn phận thế nào và họ làm bổn phận thế nào, giống như đánh giá học sinh đi học vậy, họ dùng phương thức này mà đánh giá việc tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận. Như vậy có phải có chút vấn đề không? Ngoài ra, cách dùng sức để làm bổn phận của họ có đúng hay không? Chẳng phải họ đem cách dốc sức học hành thi cử vào việc làm bổn phận sao? (Thưa, phải.) Tại sao lại nói như vậy? Loại người này mà tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận thì có biết cách tìm kiếm nguyên tắc không? Họ có thể tìm kiếm nguyên tắc không? Một mặt, họ không biết cách tìm kiếm nguyên tắc, về những chuyện như cách đọc lời Đức Chúa Trời, cách thông công lẽ thật, cách làm tốt bổn phận, thì họ đều không hiểu, mà cũng không quan tâm. Họ chỉ biết phải tìm cho được nguyên tắc và chiếu theo nguyên tắc mà làm, nhưng nguyên tắc được quy định thế nào, Đức Chúa Trời yêu cầu điều gì, người khác chiếu theo nguyên tắc mà làm việc thế nào, thì họ đều không biết, không hiểu nổi. Mặt khác, có những tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời dùng để đánh giá con người làm bổn phận có đạt tiêu chuẩn không và có những nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với người làm bổn phận, họ có thể dựa trên những điều này mà đánh giá việc làm bổn phận hay không? Họ có thể nghe hiểu những điều này từ lời Đức Chúa Trời và mối thông công của các anh chị em hay không? Trước hết, họ nghe mà không hiểu lời Đức Chúa Trời, cũng không hiểu chuyện làm bổn phận. Sau khi tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận, họ ngẫm nghĩ: “Lúc đi học, mình phát hiện ra đạo lý này, đó là chỉ cần sẵn lòng bỏ công học hành cho nhiều, thì sẽ có thể đạt được điểm số cao. Thế thì khi tin đức chúa trời, mình cũng làm như vậy, mình sẽ đọc thêm lời đức chúa trời, sẽ cầu nguyện thêm, lúc người khác tán gẫu hoặc ăn cơm, thì mình học thánh ca và đọc thuộc lòng lời Đức Chúa Trời. Mình bỏ công sức như vậy, thì khi đức chúa trời thấy mình chịu khó, chăm chỉ, cần cù, chắc chắn ngài sẽ ban phúc cho mình, và mình làm bổn phận chắc chắn sẽ có kết quả. Chắc chắn giữa mọi người, mình sẽ có thể được điểm số cao, được xem trọng và đề bạt”. Kết quả là họ làm như vậy mà vẫn không được như ý nguyện, thế là họ nghĩ: “Sao hiệu quả làm bổn phận của mình vẫn không bằng người khác? Như thế này thì đến lúc nào mình mới được đề bạt và trọng dụng đây? Như vậy là không còn hy vọng nữa sao? Mình bẩm sinh đã muốn cạnh tranh, không cam lòng xếp sau người khác. Khi đi học đã như vậy, bây giờ tin đức chúa trời rồi, mình vẫn như vậy. Hễ ai vượt qua mình thì mình sẽ quyết tâm nhất định phải vượt qua họ, chưa vượt qua họ thì chưa chịu dừng!” Họ cho rằng nếu dùng phương thức và phương pháp đúng – là chỉ cần dùng tinh thần chăm chỉ học hành mà đọc thêm lời Đức Chúa Trời và học thêm thánh ca, không tán gẫu với người khác, cũng không chú trọng ăn mặc, bớt ngủ, bớt hưởng thụ, đạt đến kỷ luật thân thể và không tham hưởng an nhàn xác thịt – thì sẽ có thể được Đức Chúa Trời ban phúc, chắc chắn làm bổn phận sẽ có kết quả. Rốt cuộc sự tình chẳng bao giờ như họ muốn, họ mới nghĩ: “Tại sao khi làm bổn phận, mình vẫn luôn có sai sót, chẳng làm tốt được như người khác? Người khác làm thì nhanh chóng, tốt đẹp, được lãnh đạo khen ngợi và đánh giá cao suốt. Mình đã chịu ấm ức và chịu khổ đến thế này, tại sao vẫn không đạt được kết quả?” Họ ngẫm nghĩ mãi, cuối cùng có được một phát hiện trọng đại: “Hóa ra đức chúa trời không công chính, mình tin đức chúa trời lâu như vậy mà giờ mới biết! Đức chúa trời muốn ân đãi ai thì ân đãi người đó, tại sao ngài lại không muốn ân đãi mình? Là do mình ngốc, do mình không biết nịnh hót, không dẻo miệng, không thông minh lanh lợi? Hay là do diện mạo mình quá tầm thường, trình độ văn hóa thấp? Đây là đức chúa trời tỏ lộ mình sao? Mình đã đọc quá nhiều lời đức chúa trời, tại sao ngài không ân đãi mình, lại còn muốn tỏ lộ mình?” Họ cứ nghĩ mãi rồi trở nên tiêu cực: “Mình chẳng muốn làm bổn phận nữa, làm bổn phận cũng đâu được đức chúa trời ban phúc, đọc nhiều lời đức chúa trời thì ngài cũng đâu khai sáng. Lời đức chúa trời đã nói rằng đức chúa trời muốn ân đãi ai thì ân đãi người đó, muốn thương xót ai thì thương xót người đó. Người được đức chúa trời ân đãi và thương xót cũng đâu phải là mình, hà cớ gì mình phải chuốc lấy cái khổ này?” Họ càng nghĩ càng tiêu cực, càng nghĩ càng cùng đường, trong lòng uất ức, không muốn làm bổn phận nữa, đến lúc làm bổn phận thì cũng làm cho có lệ, người khác thông công lẽ thật thế nào họ cũng nghe không vào, trong lòng chẳng có phản ứng gì. Ở trong trạng thái như vậy thì họ còn có lối vào sự sống nữa không? Còn có lòng trung thành khi làm bổn phận không? Không còn nữa, ngay cả một chút nỗ lực và cần cù cũng không còn. Vậy trong lòng họ còn lại gì? “Mình cứ tới đâu hay đấy, tới đâu tính đấy. Ai biết được ngày nào đức chúa trời sẽ tỏ lộ và đào thải mình, từ bỏ mình. Đến ngày đó mà không cho mình làm bổn phận nữa thì mình sẽ không làm. Mình biết bản thân mình không ổn, mặc dù bây giờ đức chúa trời chưa đào thải mình, nhưng mình biết đức chúa trời đâu có thích mình. Mình bị đào thải là chuyện sớm muộn mà thôi”. Trong lòng họ nảy sinh những tư tưởng và quan điểm này, khi họ giao tiếp với người khác thì thỉnh thoảng những lời lẽ này sẽ bộc lộ: “Anh chị tin cho tốt nhé. Anh chị tin đức chúa trời và làm bổn phận thì hẳn là được đức chúa trời ban phúc. Tôi thì chẳng có hy vọng gì rồi, cùng đường rồi. Tôi có cần cù, nỗ lực thế nào cũng vô ích, người mà đức chúa trời không thích thì có cố gắng thế nào cũng vô ích. Tôi làm bổn phận thì có bao nhiêu sức đều bỏ ra bấy nhiêu, nếu không có chỗ cho tôi dốc sức thì tôi cũng hết cách. Đức chúa trời còn có thể ép người ta làm việc quá sức mình sao? Đức Chúa Trời cũng đâu thể bắt vịt trèo cây!” Lời này có ý gì? Ngụ ý của nó là: “Tôi là vậy đấy, bất kể đức chúa trời đối đãi với tôi thế nào, thái độ của tôi vẫn cứ như vậy đấy”. Các ngươi nói xem, người có dạng thái độ và ý định như vậy, tại sao còn muốn đạt được phúc lành của Đức Chúa Trời? Họ nảy sinh dạng tình trạng và thái độ như vậy, thì có thể ảnh hưởng đến người khác không? Như vậy rất dễ gây ảnh hưởng tiêu cực và phản diện lên người khác, khiến người khác rơi vào tiêu cực và yếu đuối. Như vậy chẳng phải là mê hoặc và hãm hại người khác sao? Người tiêu cực đến mức độ như vậy thì chẳng phải thuộc hạng ma quỷ sao? Ma quỷ chẳng bao giờ yêu thích lẽ thật cả.

Có những người không trút ra sự tiêu cực theo kiểu thao thao bất tuyệt, mà chỉ nói đôi câu vài lời như: “Anh chị đều giỏi hơn tôi. Anh chị đều được phúc lớn. Tôi thì không ổn rồi. Có nỗ lực thế nào cũng không được. Tôi chẳng còn hy vọng được Đức Chúa Trời ban phúc nữa rồi”. Mặc dù lời lẽ đơn giản, nghe thì không cảm thấy có vấn đề gì, có vẻ như họ đang kiểm điểm và mổ xẻ bản thân, đang tiếp nhận sự thật rằng tố chất mình kém và bản thân có thiếu sót. Nhưng trên thực tế, họ đang trút ra một dạng tiêu cực vô hình. Trong lời của họ có kèm theo sự mỉa mai, giễu cợt, cũng kèm theo sự chống đối, đương nhiên càng kèm theo sự bất mãn với Đức Chúa Trời và cảm xúc tiêu cực, chán nản. Những lời tiêu cực này mặc dù không nhiều, nhưng cảm xúc này cũng giống như bệnh truyền nhiễm, có thể ảnh hưởng đến người khác. Mặc dù họ không nói rõ rằng: “Tôi không muốn làm bổn phận nữa, tôi không còn hy vọng được cứu rỗi nữa rồi, các anh chị cũng đang gặp nguy hiểm đấy”, nhưng họ lan truyền một dạng tín hiệu, khiến người khác cảm thấy họ nỗ lực đến vậy mà không có hy vọng được cứu rỗi, vậy thì những người không nỗ lực chẳng phải càng không có hy vọng sao? Họ lan truyền tín hiệu này là đang nói với mọi người rằng: “Hy vọng là điều rất quan trọng. Nếu Đức Chúa Trời không cho anh hy vọng, không ban phúc cho anh, thì anh có nỗ lực bao nhiêu cũng chỉ phí công”. Sau khi đa số mọi người tiếp nhận tín hiệu này rồi, đức tin vào Đức Chúa Trời trong sâu thẳm nội tâm họ không khỏi giảm sút, lòng trung thành nên có và sự thành tâm nên dâng lên khi làm bổn phận cũng bớt đi nhiều. Mặc dù khi trút ra sự tiêu cực này, họ không có ý thức rõ ràng là muốn mê hoặc và lôi kéo người khác, nhưng dạng cảm xúc tiêu cực này rất nhanh chóng ảnh hưởng đến người khác, khiến người khác cảm thấy có nguy cơ, cảm thấy nỗ lực của mình rất dễ thành công cốc, do đó khiến người ta sống trong cảm giác, dùng cảm giác mà suy đoán về Đức Chúa Trời, dùng hiện tượng bề ngoài mà phân tích, nghiên cứu thái độ và lòng chân thành của Đức Chúa Trời đối với con người. Dạng cảm xúc tiêu cực này mà lan đến người khác rồi, thì người ta sẽ không kìm nổi việc rời xa Đức Chúa Trời, cũng không kìm nổi việc nảy sinh hiểu lầm và nghi ngờ với những gì Đức Chúa Trời phán, không còn tin tưởng lời Đức Chúa Trời nữa, đồng thời đối với bổn phận mình làm, người ta cũng không còn thành tâm, không sẵn lòng trả giá, cũng không sẵn lòng có chút lòng trung thành nào cả. Đây chính là ảnh hưởng của những lời lẽ tiêu cực này lên người ta. Hậu quả nảy sinh từ ảnh hưởng này là gì? Người ta nghe xong những lời này thì chẳng được xây dựng gì, càng không đạt đến nhận thức bản thân hay phát hiện những thiếu sót của bản thân, không đạt đến thực hành lẽ thật và chiếu theo nguyên tắc mà làm bổn phận, chẳng có kết quả tích cực gì. Ngược lại, ảnh hưởng của những lời lẽ đó còn khiến người ta thêm tiêu cực, muốn từ bỏ việc mưu cầu lẽ thật, cũng không còn ý chí làm bổn phận nữa. Tại sao họ lại mất đức tin? (Thưa, vì họ cảm thấy không còn hy vọng được cứu rỗi nữa.) Đúng vậy, ngươi tiếp nhận dạng thông tin này rồi thì cảm thấy bản thân không còn hy vọng được cứu rỗi nữa, khi làm bổn phận ngươi sẽ không còn muốn dốc sức nữa. Những biểu hiện này cho thấy ngươi không thành tâm mưu cầu lẽ thật, thay vào đó luôn dùng cảm giác, tâm trạng và ức đoán mà phán đoán xem Đức Chúa Trời có hài lòng về ngươi không, ngươi có hy vọng được cứu rỗi không và ngươi làm bổn phận có được Đức Chúa Trời khen ngợi không. Khi người ta dùng ức đoán mà phán đoán những chuyện này, thì tinh thần thực hành lẽ thật của họ sẽ không mạnh mẽ. Tại sao lại vậy? Khi người ta dùng ức đoán mà phán đoán về Đức Chúa Trời thì họ có thể phán đoán chuẩn xác hay không? Con người có thể ức đoán chuẩn xác mỗi một tâm tư ý niệm của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Tư tưởng của con người tràn đầy sự giả dối, giao dịch, triết lý xử thế của con người, lô-gic của Sa-tan, v.v., con người dùng những thứ này mà ức đoán về Đức Chúa Trời thì hậu quả sẽ là gì? Sẽ hoài nghi và xa rời Đức Chúa Trời, thậm chí là mất sạch đức tin vào Đức Chúa Trời. Khi người ta mất sạch đức tin vào Đức Chúa Trời, thì trong lòng người chắc chắn có một dấu chấm hỏi to đùng về chuyện Đức Chúa Trời có tồn tại hay không. Đến lúc đó thì thời gian tin Đức Chúa Trời của họ cũng kết thúc rồi, người ta sẽ hoàn toàn tiêu tùng. Ngoài ra, con người ức đoán về Đức Chúa Trời thì có đúng hay không? Đây là thái độ mà loài thọ tạo nên có với Đấng Tạo Hóa sao? Quá rõ ràng là không, con người không nên ức đoán về Đức Chúa Trời, cũng không nên suy đoán về ý niệm của Đức Chúa Trời hay tâm tư của Đức Chúa Trời đối với con người. Nội chuyện đó đã là sai lầm rồi, làm như vậy là con người đứng sai cả góc độ lẫn vị trí rồi.

Khi đối đãi với Đức Chúa Trời thì con người không nên ức đoán, suy đoán, ngờ vực hay nghi kỵ, cũng không nên dùng tư tưởng, quan điểm, triết lý xử thế, hay tri thức học vấn mà phán đoán Đức Chúa Trời. Vậy con người nên đối đãi với Đức Chúa Trời như thế nào? Trước hết, con người nên tin Đức Chúa Trời là lẽ thật. Về yêu cầu và tâm ý của Đức Chúa Trời đối với con người, về tình yêu thương hay sự ghét bỏ của Đức Chúa Trời đối với con người, về sự an bài, tâm tư và ý niệm của Đức Chúa Trời đối với đủ loại người, v.v. hết thảy những điều này không cần ngươi suy đoán. Trong lời Đức Chúa Trời đều có những câu nói và ý nghĩa rõ ràng về những điều này rồi. Ngươi chỉ cần tin và tìm kiếm, sau đó chiếu theo lời Đức Chúa Trời mà thực hành là được, đơn giản vậy thôi. Đức Chúa Trời đâu có bảo ngươi dùng cảm giác mà phán đoán xem rốt cuộc Đức Chúa Trời có ý gì với ngươi, rốt cuộc Đức Chúa Trời nhìn nhận con người ngươi như thế nào. Vậy ngươi cho rằng bản thân không có hy vọng được cứu rỗi, thì đó là một dạng cảm giác hay là một sự thật? Lời Đức Chúa Trời có phán như vậy không? (Thưa, không.) Vậy lời Đức Chúa Trời phán những gì? Đức Chúa Trời bảo con người mỗi khi gặp bất kỳ vấn đề hay tâm tính bại hoại gì thì làm thế nào để tìm kiếm lẽ thật làm giải pháp và tìm ra con đường thực hành lẽ thật. Điều này đã chứng thực một chuyện, đó là việc Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi con người và biến đổi tâm tính bại hoại của con người là thật, Đức Chúa Trời không lừa ngươi, và đây không phải là lời nói suông. Ngươi cho rằng bản thân không có hy vọng được cứu rỗi, nhưng đó chỉ là tâm trạng nhất thời của ngươi thôi, chỉ là một cảm giác nảy sinh trong một hoàn cảnh nào đó. Cảm giác của ngươi đâu đại diện cho ý của Đức Chúa Trời hay tâm ý của Đức Chúa Trời, càng không đại diện cho ý niệm của Đức Chúa Trời, cũng không đại diện cho lẽ thật. Do đó, ngươi mà cứ sống theo cảm giác, dùng cảm giác mà ức đoán về Đức Chúa Trời, lấy cảm giác mà thay thế ý của Đức Chúa Trời, thì ngươi sai trầm trọng và rơi vào quỷ kế của Sa-tan rồi. Vậy trong những chuyện như vậy, con người nên làm thế nào? Đừng dựa vào cảm giác. Có những người nói: “Không dựa vào cảm giác, thì dựa vào cái gì?” Dựa vào bất kỳ thứ gì của ngươi cũng đều vô ích, cảm giác của con người đâu có đại diện cho lẽ thật, ai biết những cảm giác của ngươi nảy sinh như thế nào, rốt cuộc từ đâu mà ra, nếu chúng nảy sinh do ngươi bị Sa-tan mê hoặc thì phiền phức cho ngươi rồi. Tóm lại, bất kể những cảm giác đó từ đâu mà ra, thì nó đều không đại diện cho lẽ thật. Lúc nào cảm giác và trực giác của người ta càng mạnh, thì lúc đó càng cần tìm kiếm lẽ thật và đến trước mặt Đức Chúa Trời mà phản tỉnh bản thân. Cảm giác của con người là thứ hoàn toàn khác hẳn với sự thật và lẽ thật. Cảm giác có thể cung ứng lẽ thật cho ngươi sao? Có thể cho ngươi con đường thực hành sao? Đều không thể. Chỉ có lời Đức Chúa Trời và lẽ thật mới có thể cho ngươi con đường thực hành, cho ngươi bước ngoặt, và mở cho ngươi một con đường. Do đó, việc ngươi nên thực hành không phải làm tìm cho ra cảm giác của mình – cảm giác của ngươi đâu có quan trọng. Việc ngươi nên làm là đến trước mặt Đức Chúa Trời mà tìm kiếm lẽ thật, từ trong lời Đức Chúa Trời mà hiểu tâm ý của Ngài. Ngươi càng dựa vào cảm giác thì càng cùng đường, càng dựa vào cảm giác thì càng chìm vào tiêu cực, càng cho rằng Đức Chúa Trời không công bằng, không ban phúc cho ngươi. Trái lại, nếu ngươi buông bỏ những cảm giác này mà tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, xem thử trong quá trình làm bổn phận, mình đã làm những việc gì trái với nguyên tắc lẽ thật, đã làm những việc gì theo ý riêng và căn bản không liên quan gì đến nguyên tắc lẽ thật; trong quá trình tìm kiếm ngươi sẽ phát hiện mình có quá nhiều ý riêng và tưởng tượng. Cứ dùng cách nghiêm túc thế này thì ngươi sẽ phát hiện ra không ít vấn đề: “Con người mình quá phản nghịch, quá ngang ngạnh, quá kiêu ngạo rồi! Đâu phải mình không có hy vọng được cứu rỗi, mà là cảm giác của mình không chuẩn, là mình không xem trọng lời Đức Chúa Trời, không chiếu theo nguyên tắc lẽ thật mà thực hành. Mình luôn oán trách Đức Chúa Trời không ban phúc hay dẫn dắt mình, lại thiên vị, nhưng thực ra mình không nhận thức được rằng bản thân khi làm bổn phận thì qua loa chiếu lệ, tùy ý làm càn – vậy là mình sai rồi. Bây giờ mình đã phát hiện ra, Đức Chúa Trời đâu có thiên vị. Khi người ta không tìm kiếm lẽ thật, không đến trước mặt Đức Chúa Trời, mà Đức Chúa Trời không hủy bỏ tư cách làm bổn phận của người ta là đã tốt rồi, Ngài đã rất khoan dung rồi. Thế mà mình còn cảm thấy tràn đầy oan ức, còn so đo và nói lý lẽ với Đức Chúa Trời. Trước đây, mình còn cảm thấy bản thân không tệ, bây giờ mình mới thấy được chuyện hoàn toàn không phải như vậy, mình làm việc gì cũng chẳng chiếu theo nguyên tắc, Đức Chúa Trời không sửa dạy đã là ân đãi mình rồi, Đức Chúa Trời thấy vóc giạc mình nhỏ mà!” Thông qua tìm kiếm như thế, ngươi sẽ hiểu ra được một vài lẽ thật, có thể tích cực và chủ động chiếu theo nguyên tắc lẽ thật mà thực hành, từng chút một cảm thấy mình làm người đã có chút nguyên tắc, làm bổn phận cũng đã có chút nguyên tắc, lúc đó chẳng phải lương tâm ngươi sẽ khá bình an hay sao? “Trước đây, mình cảm thấy không có hy vọng được cứu rỗi, bây giờ tại sao cảm giác và ý thức đó ngày càng phai mờ đi? Làm thế nào mà tình trạng này thay đổi được vậy? Trước đây, mình cho rằng bản thân không có hy vọng, như vậy chẳng phải là tiêu cực và chống đối, là đối đầu với Đức Chúa Trời sao? Mình quá phản nghịch rồi!” Sau khi thuận phục, chẳng biết từ lúc nào, trong quá trình làm bổn phận, ngươi hiểu ra được một vài nguyên tắc, cũng không còn so sánh bản thân với người khác nữa, mà chú trọng làm sao để bản thân không qua loa chiếu lệ và có thể chiếu theo nguyên tắc mà làm bổn phận. Thế là chẳng biết từ lúc nào, cái cảm giác bản thân không thể được cứu rỗi của ngươi không còn nữa, ngươi cũng không rơi vào tình trạng tiêu cực nữa, làm bổn phận đã có nguyên tắc, và cảm thấy mối quan hệ với Đức Chúa Trời cũng bình thường rồi. Khi có cảm giác đó, ngươi sẽ cảm thấy: “Đức Chúa Trời đâu có ruồng bỏ mình, mình có thể cảm thấy Đức Chúa Trời đang hiện diện bên mình, cũng có thể cảm thấy sự dẫn dắt và chúc phúc của Đức Chúa Trời khi mình tìm kiếm Ngài lúc làm bổn phận. Cuối cùng mình đã thể nghiệm được rằng Đức Chúa Trời ban phúc cho người khác, cũng ban phúc cho mình, Đức Chúa Trời không thiên vị, chuyện mình được cứu rỗi xem ra vẫn còn hy vọng. Hóa ra trước đây mình đã đi sai đường, làm bổn phận thì luôn qua loa chiếu lệ, tùy ý làm càn, lại còn cảm thấy như vậy không tệ, còn sống trong thế giới nhỏ của mình, tự tán thưởng mình. Bây giờ mình mới thấy ra như vậy là sai trầm trọng rồi! Toàn thể nhân loại này sống trong tình trạng kêu gào và chống đối Đức Chúa Trời, chẳng trách mình không đạt được sự khai sáng của Đức Chúa Trời. Không chiếu theo nguyên tắc mà hành động thì làm sao đạt được sự khai sáng của Đức Chúa Trời chứ?” Ngươi xem, hai cách thực hành hoàn toàn khác nhau, hai phương thức tiếp cận với ý niệm của bản thân hoàn toàn khác nhau, cuối cùng sẽ đem lại kết quả khác nhau.

Người ta tin Đức Chúa Trời thì không được sống dựa theo cảm giác. Cảm giác của con người chính là tâm trạng nhất thời, nó có liên quan gì đến kết cục của người ta không? Có liên quan gì đến sự thật không? (Thưa, không.) Khi con người lạc xa khỏi Đức Chúa Trời, khi họ sống trong tình trạng hiểu sai về Đức Chúa Trời, hoặc chống đối, chống lại Đức Chúa Trời và cãi lại Đức Chúa Trời, thì họ đã hoàn toàn rời bỏ sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời, họ đã hoàn toàn rời xa ánh sáng của sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Khi người ta sống trong tình trạng như thế này, họ không thể không sống theo cảm xúc của chính mình. Một suy nghĩ nhỏ nhặt nào đó cũng có thể khiến ngươi bị xáo trộn đến mất ăn mất ngủ, một lời nhận xét vô ý của ai đó cũng có thể khiến ngươi rơi vào nghi ngờ và hoang mang, thậm chí một cơn ác mộng thôi cũng có thể khiến ngươi tiêu cực và khiến ngươi hiểu sai về Đức Chúa Trời. Một khi loại vòng luẩn quẩn này đã thành hình, người ta quyết định rằng họ kể như xong, rằng họ không còn hy vọng được cứu rỗi, rằng họ đã bị Đức Chúa Trời bỏ rơi, rằng Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ. Càng nghĩ theo cách này và càng có nhiều cảm xúc như vậy, họ càng bị sa vào tiêu cực. Lý do thực sự cho việc người ta có những cảm giác này là bởi vì họ không tìm kiếm lẽ thật hoặc thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật. Và bởi vì, khi điều gì đó xảy ra với mình, người ta không tìm kiếm lẽ thật và không thực hành lẽ thật, bởi vì họ luôn đi theo con đường riêng của họ và sống giữa những mưu đồ nhỏ nhặt của mình, ngày nào cũng so sánh bản thân với người khác và cạnh tranh với người khác, đố kỵ và ghen ghét bất cứ ai giỏi hơn mình, giễu cợt và mỉa mai bất cứ ai họ cho là thấp kém hơn mình, sống trong tâm tính của Sa-tan, không làm mọi việc theo các nguyên tắc lẽ thật và không chịu tiếp nhận sự khuyên nhủ của bất kỳ ai. Cuối cùng điều này dẫn đến đủ loại ảo tưởng, ức đoán và phán xét, chúng khiến bản thân họ luôn lo lắng. Chẳng phải đây là lỗi của chính họ sao? Chỉ có con người mới có thể tự chuốc đầy trái đắng như vậy – và họ thực sự đáng bị như thế. Điều gì gây ra tất cả những điều này? Là bởi con người không tìm kiếm lẽ thật, quá kiêu ngạo và tự nên công chính, họ hành động theo khuynh hướng của riêng mình, họ luôn khoe khoang và so sánh mình với người khác, họ luôn cố gắng làm mình nổi bật, họ luôn đưa ra những đòi hỏi vô lý với Đức Chúa Trời, v.v. – tất cả những điều này khiến người ta dần lạc khỏi Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời và bất chấp lẽ thật hết lần này đến lần khác. Cuối cùng, họ lao vào bóng tối và sự tiêu cực. Và những lúc như vậy, con người không thể có hiểu biết thuần túy về sự phản nghịch và chống đối của mình, lại càng không thể có thái độ đúng đắn; thay vào đó, họ than oán về Đức Chúa Trời, hiểu sai về Đức Chúa Trời, cố gắng ức đoán về Đức Chúa Trời. Khi điều này xảy ra, người ta cuối cùng nhận ra sự bại hoại của họ quá sâu sắc và họ đang gặp rắc rối lớn, vì vậy họ xác định rằng mình đang chống đối Đức Chúa Trời, và họ không thể không chìm vào tiêu cực, không thể tự kéo mình ra được. Những gì họ tin là: “Đức Chúa Trời ghét bỏ mình, Đức Chúa Trời không muốn mình, mình quá phản nghịch, mình đáng bị như vậy, chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi mình nữa”. Họ tin rằng đây đều là sự thật. Trong lòng họ xác định những điều mà họ ức đoán là sự thật. Dù ai có thông công lẽ thật với họ cũng chẳng ích gì, họ đều không tiếp nhận. Họ nghĩ: “Đức Chúa Trời sẽ không ban phước cho mình, Ngài sẽ không cứu rỗi mình, vậy thì tin Đức Chúa Trời để làm gì?”. Khi con đường đức tin nơi Đức Chúa Trời của họ đã đến mức này, liệu người ta có còn khả năng tin không? Không. Tại sao họ không thể tiếp tục nữa? Có một sự thật ở đây. Khi sự tiêu cực của con người đạt đến một mức độ nào đó, khi lòng họ tràn ngập sự chống đối và than oán, và họ muốn cắt đứt mọi liên hệ với Đức Chúa Trời, thì đây không còn đơn giản là việc họ không kính sợ Đức Chúa Trời, không vâng lời Đức Chúa Trời, không yêu lẽ thật và không tiếp nhận lẽ thật nữa. Thay vào đó, điều gì đang xảy ra? Trong thâm tâm, họ đã tự quyết định từ bỏ đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời. Họ nghĩ rằng thật đáng xấu hổ khi thụ động chờ bị bỏ ra, rằng lựa chọn từ bỏ sẽ có giá hơn, vì vậy họ chủ động và tự ngừng mọi thứ. Họ lên án đức tin nơi Đức Chúa Trời là xấu, họ lên án lẽ thật là không thể thay đổi con người, và họ lên án Đức Chúa Trời là không công chính, buồn bực hỏi tại sao Đức Chúa Trời không cứu rỗi họ: “Mình đã hy sinh rất nhiều, mình đã rất tha thiết, mình đã làm việc rất chăm chỉ, mình đã chịu khổ nhiều hơn những người khác rất nhiều và đã cố gắng nhiều hơn mọi người khác rất nhiều, vậy mà Đức Chúa Trời vẫn không ban phước cho mình. Bây giờ mình thấy Đức Chúa Trời không thích mình, Đức Chúa Trời không công bằng”. Họ có gan để biến những nghi ngờ của họ về Đức Chúa Trời thành lên án và báng bổ Đức Chúa Trời. Khi những điều như vậy thành hình, họ có thể tiếp tục trên con đường đức tin nơi Đức Chúa Trời nữa không? Bởi vì họ phản nghịch Đức Chúa Trời và chống đối Đức Chúa Trời, không hề tiếp nhận lẽ thật hay phản tỉnh về bản thân mình, nên họ đã bị mất quyền. Tự con người chủ động từ bỏ Đức Chúa Trời, lại còn oán trách Đức Chúa Trời không ban phúc cho mình, không ân đãi mình, như vậy có phải là bất chấp lý lẽ không? Đường người ta đi, đều là người ta tự chọn và tự đi, chẳng có ai làm thay cả. Là tự ngươi chọn con đường cùng, tự ngươi từ bỏ Đức Chúa Trời và không muốn Đức Chúa Trời. Từ đầu đến cuối, Đức Chúa Trời đâu có nói không muốn ngươi, đâu có nói từ bỏ và không cứu rỗi ngươi, là ngươi dựa vào suy đoán của mình mà quy định Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thành tâm tin Đức Chúa Trời, thì cho dù Đức Chúa Trời không muốn ngươi, ngươi vẫn cứ tin, cho Đức Chúa Trời ghê tởm ngươi, ngươi vẫn tin, vẫn đọc lời Đức Chúa Trời như trước, vẫn có thể tiếp nhận lẽ thật, vẫn có thể làm bổn phận như thường, ai hạn chế hay cản trở ngươi được chứ? Đây chẳng phải đều là lựa chọn và sự mưu cầu của bản thân ngươi sao? Bản thân ngươi không có đức tin, còn quay ngược lại mà oán trách Đức Chúa Trời, như vậy đúng là bất chấp lý lẽ. Bản thân ngươi không biết bảo vệ mối quan hệ với Đức Chúa Trời, cứ muốn phá hoại, một khi có rạn nứt rồi thì còn có thể khôi phục nữa không? Gương vỡ thì rất khó lành, cho dù có lành thì vẫn còn vết rạn. Sự rạn nứt đã thành sự thật rồi thì mối quan hệ đó không thể nào khôi phục lại như ban đầu được nữa. Do đó, người ta tin Đức Chúa Trời thì bất kể gặp phải hoàn cảnh nào, cũng nên học cách thuận phục và tìm kiếm lẽ thật, như vậy mới có thể đứng vững được. Người ta mà muốn đi theo Đức Chúa Trời đến cùng, thì mấu chốt chính là mưu cầu lẽ thật. Bất kể là làm bổn phận hay là làm bất kỳ việc gì, mấu chốt là hiểu rõ lẽ thật và chiếu theo nguyên tắc lẽ thật mà thực hành và thực hiện. Bởi vì trong quá trình hiểu lẽ thật và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, ngươi sẽ hiểu rõ, lý giải và nhận thức được Đức Chúa Trời, hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, đạt đến tương hợp với Đức Chúa Trời, đạt đến nhận thức và tiếp nhận thực chất của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không chiếu theo nguyên tắc lẽ thật mà thực hành, thay vào đó cứ một mực dựa theo ý riêng mà hành động và làm bổn phận, thì ngươi sẽ vĩnh viễn không tiếp xúc được lẽ thật. Không tiếp xúc được lẽ thật nghĩa là gì? Nghĩa là vĩnh viễn ngươi không tiếp xúc được thái độ của Đức Chúa Trời đối với mỗi một dạng sự vật, yêu cầu của Đức Chúa Trời hoặc ý niệm của Đức Chúa Trời, càng không tiếp xúc được tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời được bộc lộ trong công tác của Ngài. Ngươi không tiếp xúc được những sự thật này trong công tác của Đức Chúa Trời, thì nhận thức của ngươi về Đức Chúa Trời vĩnh viễn là quan niệm và tưởng tượng của con người, chỉ có thể dừng lại trong quan niệm và tưởng tượng mà thôi, vĩnh viễn không thể nào tương hợp với thực chất và tâm tính thực sự của Đức Chúa Trời. Như vậy thì ngươi sẽ không thể đạt đến thực sự nhận thức Đức Chúa Trời.

Trong quá trình làm bổn phận, người ta thường nảy sinh tình trạng tiêu cực và phản nghịch, nếu họ có thể tìm kiếm lẽ thật và dùng nguyên tắc lẽ thật mà tiếp cận và giải quyết những chuyện này, thì cảm xúc tiêu cực của họ sẽ không trở thành sự oán trách, chống đối, phản kháng, kêu gào hoặc thậm chí là báng bổ. Nhưng nếu người ta cứ một mực dựa vào sự khôn lỏi của bản thân, dựa vào sự kiềm chế, sự nỗ lực và cần cù của con người, việc kỷ luật thân thể, và những cách làm khác tương tự để tiếp cận chuyện này, thì sớm muộn gì cũng có ngày những tưởng tượng, phán đoán và ức đoán của con người sẽ trở thành sự oán trách, phản kháng, chống đối, kêu gào, thậm chí là báng bổ hướng về Đức Chúa Trời. Khi mắc kẹt trong cảm xúc tiêu cực như vậy, người ta rất dễ nảy sinh những cảm xúc hoặc ý nghĩ như không phục, bất mãn, oán trách Đức Chúa Trời, v.v. Khi những ý nghĩ này tích tụ dần bên trong mà người ta vẫn không mưu cầu lẽ thật, không dùng lẽ thật để giải quyết, thì lúc đó sự không phục, bất mãn và oán trách của người ta sẽ biến thành phản kháng, người ta sẽ dùng một vài hành vi phản nghịch, chẳng hạn như qua loa chiếu lệ, cố ý gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh, hoặc những những hành vi tiêu cực tương tự, nhằm thể hiện sự không phục và bất mãn của mình, từ đó đạt đến mục đích phản kháng Đức Chúa Trời. Có những người sẽ phá hoại và gây nhiễu loạn việc làm bổn phận của người khác, ý họ là: “Tôi mà không được làm bổn phận, hoặc tôi làm bổn phận mà Đức Chúa Trời không ban phúc cho tôi, thì tôi sẽ khiến các người đều không làm tốt bổn phận!” Sau đó, họ bắt đầu gây nhiễu loạn. Có người dùng lời nói, có người dùng một vài hành vi nào đó. Người dùng hành vi để gây nhiễu loạn thì sẽ làm những việc gì? Chẳng hạn như, họ cố ý xóa tập tin trong máy tính của người khác để gây ảnh hưởng đến kết quả làm bổn phận của người đó, hoặc họ cố ý gây nhiễu loạn buổi nhóm họp trên mạng, đây là hành vi quấy nhiễu người khác của ma quỷ và Sa-tan. Mọi người đều không hiểu nổi: “Người ta đã chừng này tuổi, sao lại giở trò như vậy? Đâu phải là đứa trẻ lên mười, sao còn bày trò ác ý như vậy?” Sự thật là những những người 30, 40, 50 hay 60 tuổi vẫn có thể làm ra những việc như vậy. Các loại hành vi này khiến người ta thật không hiểu nổi, chúng đâu phải là việc làm của người có lương tâm và lý trí, chúng là việc làm của ma quỷ và Sa-tan thì có. Họ thấy người khác không bị ảnh hưởng, thấy mục đích của mình chưa đạt được, thế là họ nhằm vào những lúc có đông người hoặc lúc nhóm họp mà trút ra sự tiêu cực và gây nhiễu loạn. Khi họ bắt đầu dùng hành vi để phát tiết bất mãn thì chuyện đã trở nên rất khó kiểm soát, rất khó kiềm chế rồi, nó mà cứ phát triển thì chỉ có thể ngày càng leo thang, ngày càng có tính chất nghiêm trọng. Họ không những quấy nhiễu bằng hành vi, mà còn dùng đủ dạng thủ đoạn và phương thức, dùng đến những lời lẽ mang tính công kích và xét đoán để gây nhiễu loạn việc làm bổn phận của người khác. Bất kể đã đạt được mục đích hay chưa, tiếp theo họ sẽ chống đối Đức Chúa Trời trong lòng, không đọc lời Đức Chúa Trời, không học thánh ca, hễ sách nào có liên quan đến lời Đức Chúa Trời hay lẽ thật là họ đều không đọc. Vậy ở nhà họ làm gì? Họ đọc tiểu thuyết, xem phim bộ, học nấu ăn, học trang điểm… Lúc nhóm họp, họ không thông công nhận thức về lời Đức Chúa Trời, cũng không thông công cách giải quyết tâm tính bại hoại và sự bộc lộ bại hoại của bản thân. Lúc người khác thông công thì họ cố ý cướp lời, cắt lời người khác, hoặc cố ý đổi đề tài, v.v. họ toàn nói những lời phá hoại và gây nhiễu loạn này. Tại sao họ có thể làm như vậy? Nguyên nhân là vì họ cho rằng bản thân không còn hy vọng được cứu rỗi nữa, nên họ bất cần, đã rách thì cho nát luôn, trước khi bị hội thánh thanh trừ, họ sẽ tìm vài bạn đồng hành, họ không đạt được phúc lành thì cũng không thể để người khác được phúc lành. Tại sao họ lại suy nghĩ nghĩ như vậy? Họ cho rằng Đức Chúa Trời mà họ tin không giống với đức chúa trời trong tưởng tượng ban đầu của họ, Đức Chúa Trời không yêu thương con người và công chính như họ tưởng tượng, càng không chân tình thực ý với con người như họ tưởng tượng. Đức Chúa Trời yêu thương người khác mà không yêu thương họ, cứu rỗi người khác mà không cứu rỗi họ, giờ họ chẳng thấy có hy vọng gì nữa rồi, cảm thấy bản thân không thể được cứu rỗi nữa, thế là họ muốn đã rách thì cho nát luôn. Như vậy vẫn chưa hết, họ còn muốn khiến người khác đều thấy rằng họ không có hy vọng thì người khác cũng không có hy vọng như họ. Khiến được người khác đều không tin Đức Chúa Trời và rút lui, thì họ mới thỏa mãn. Họ làm vậy vì mục đích là: “Tôi không đạt được phúc lành thiên quốc, thì các người cũng đừng mơ đạt được!” Loại người này là thứ gì vậy? Có phải là ma quỷ không? Ma quỷ có bị xuống địa ngục thì cũng không cho phép người khác tin Đức Chúa Trời và vào thiên quốc, họ muốn đâm đầu vào đường cùng đây mà! Nhưng hễ ai có chút lương tâm, có chút lòng sợ hãi Đức Chúa Trời thì không nên làm như vậy. Nếu họ thật sự đã làm ra việc ác lớn và bị tỏ lộ, cảm thấy bản thân không còn hy vọng nữa, thì họ cũng phải thành toàn cho người khác, để cho người khác tin Đức Chúa Trời cho tốt, chứ đừng học theo họ. Họ nên nói rằng: “Con người tôi quá yếu đuối, ham muốn xác thịt quá lớn và đam mê thế gian, tôi bị như thế này là do tự mình chuốc lấy, đáng đời thôi! Các anh chị lo mà tin cho tốt, đừng để bị tôi ảnh hưởng. Lúc nhóm họp thì tôi canh chừng cho anh chị, nếu cảnh sát của con rồng lớn sắc đỏ vào thôn thì tôi sẽ báo tin cho anh chị!”. Hễ người nào có chút nhân tính thì ít ra phải làm được chút việc này, đừng có gây nhiễu loạn việc mưu cầu lẽ thật của người khác. Nhưng có vài người không có nhân tính, khi chuyện không thuận theo ý họ hoặc khi họ thấy anh chị em xem thường và xa lánh mình, thì họ cảm thấy Đức Chúa Trời đã tỏ lộ và đào thải mình rồi, không còn hy vọng được cứu rỗi nữa. Khi có dạng ý niệm và ý nghĩ này, thì họ sẽ có thể bất cần kiểu đã rách thì cho nát, sẽ có thể không chút kiêng dè mà trút ra sự tiêu cực và gây nhiễu loạn đời sống hội thánh. Đây là loại người gì? Đây chẳng phải là ma quỷ sao? (Thưa, phải.) Đối đãi với loại người thuộc về ma quỷ này thì có nên khách khí không? (Thưa, không nên.) Vậy nên xử lý như thế nào? Ngươi hãy nói: “Chị đến nhóm họp mà không đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không tiếp nhận lẽ thật, vậy chị đến để làm cái gì? Đến để gây nhiễu loạn à? Chị cảm thấy bản thân không còn hy vọng được cứu rỗi nữa, thực ra chúng tôi cũng đâu bản thân có hy vọng quá lớn gì, nhưng chúng tôi cứ nỗ lực. Chúng tôi tin Đức Chúa Trời không thiên vị, tin Đức Chúa Trời thành tín, lòng cứu rỗi con người của Ngài là chân thành và lòng Ngài sẽ không thay đổi. Chỉ cần có một tia hy vọng thì chúng tôi sẽ không từ bỏ, chúng tôi sẽ không luôn tiêu cực và hiểu lầm Đức Chúa Trời giống chị đâu. Chị muốn quấy nhiễu và kéo chân chúng tôi thì mơ đi! Nếu chị cứ khư khư cố chấp, tiếp tục cho là vậy, lại mang ác ý mà quấy nhiễu chúng tôi, thì đừng trách chúng tôi không khách khí. Từ hôm nay trở đi, chị bị thanh trừ, trong hội thánh không có chỗ cho chị nữa, chị nhanh cút đi!” Như vậy chẳng phải là xử lý được vấn đề rồi sao? Quá đơn giản mà, nói dăm ba lời là đã thanh lọc họ đi rồi, quá dễ dàng! Tại sao lại xử lý như vậy? Bởi vì thực chất bản tính của loại người này bất biến rồi, họ sẽ không tiếp nhận lẽ thật đâu. Họ cho rằng bản thân không còn cơ hội được cứu rỗi, nhưng Đức Chúa Trời đâu có nói vậy, anh chị em cũng đâu có nói vậy, thế mà họ có thể hành ác và gây nhiễu loạn như vậy. Nếu thật sự đến một ngày vì hành ác và gây nhiễu loạn công tác hội thánh mà họ bị khai trừ, hoặc là vì không mưu cầu lẽ thật mà họ bị Đức Chúa Trời sửa dạy, thì họ sẽ làm gì? Họ có thể trở mặt thành thù với Đức Chúa Trời, có thể trả thù không? Có thể quá đi chứ! Thật tốt khi dạng người này bị tỏ lộ lúc chưa thực sự làm ra việc gì, chưa phạm việc ác lớn nào. Đây là việc Đức Chúa Trời làm, Đức Chúa Trời đã tỏ lộ họ. Bây giờ thanh lọc họ đi là vừa đẹp, những người khác còn chưa bị tổn hại gì. Xử lý như vậy là đúng lúc và xác đáng, mọi người sẽ phát triển được sự phân định, kẻ ác cũng bị xử lý. Vai trò vật làm nền của họ đã được làm tròn rồi.

Đây cơ bản là đủ loại tình trạng và biểu hiện của người trút ra sự tiêu cực. Khi dục vọng mưu cầu địa vị và danh lợi của họ không được thỏa mãn, khi việc Đức Chúa Trời làm không phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của họ, động chạm đến lợi ích của họ, thì họ sẽ chìm trong trong cảm xúc không phục và bất mãn. Khi có một vài cảm xúc không phục và bất mãn này rồi, trong lòng họ sẽ nảy sinh ra một vài lý do và cái cớ, phân bua biện bạch, và những ý nghĩ oán trách khác. Lúc này, họ không chúc tụng hay thuận phục Đức Chúa Trời, càng không tìm kiếm lẽ thật và nhận thức bản thân, thay vào đó, họ dùng quan niệm, tưởng tượng, tư tưởng và quan điểm của mình, hoặc là huyết khí của con người mà đối đầu với Đức Chúa Trời. Và họ chiến đấu lại thế nào? Họ gieo rắc những cảm giác bất chấp và bất mãn, dùng điều này để làm sáng tỏ những suy nghĩ và quan điểm của họ với Đức Chúa Trời, cố gắng khiến Đức Chúa Trời hành động theo ý muốn và yêu cầu của họ để thỏa mãn những mong muốn của họ; chỉ khi đó họ mới cảm thấy được yên. Đặc biệt, Đức Chúa Trời đã bày tỏ nhiều lẽ thật để phán xét và hành phạt con người, để làm tinh sạch tâm tính bại hoại của họ, để cứu rỗi con người khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan, và ai biết được bao nhiêu ước mơ được ban phước lành của con người đã bị những lẽ thật này cắt ngang, làm tan tành hình ảnh tưởng tượng được nâng lên thiên đàng mà họ hy vọng ngày đêm. Họ muốn làm mọi cách có thể để chỉnh đốn điều này, để xoay chuyển nó – nhưng họ bất lực, họ chỉ có thể rơi vào thảm họa với sự tiêu cực và oán hận. Họ không chịu vâng phục tất cả những gì Đức Chúa Trời đã sắp xếp, vì những gì Đức Chúa Trời làm mâu thuẫn với quan niệm, lợi ích và suy nghĩ của họ. Đặc biệt, khi hội thánh thực hiện công tác làm tinh sạch và bỏ ra nhiều người, những người này nghĩ rằng Đức Chúa Trời không yêu thương họ, rằng Đức Chúa Trời đã làm điều sai trái, rằng họ bị đối xử bất công, và vì vậy họ muốn hợp lại để chống đối, họ cố phủ nhận rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, họ phủ nhận thân phận và bản chất của Đức Chúa Trời, và họ phủ nhận tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, họ cũng phủ nhận sự thật về quyền tối thượng của Đức Chúa Trời đối với mọi sự. Và họ phủ nhận tất cả những điều này bằng cách nào? Thông qua sự phản kháng và chống đối. Hàm ý là: “Những gì Đức Chúa Trời làm trái ngược với quan niệm của tôi, và vì vậy tôi không vâng phục, tôi không tin rằng Ngài là lẽ thật. Tôi sẽ tranh luận với Ngài, và sẽ truyền bá những ý tưởng này cho những người trong hội thánh. Tôi sẽ nói bất cứ điều gì tôi muốn, và tôi không quan tâm hậu quả là gì. Tôi có quyền tự do ngôn luận, Ngài không thể bắt tôi im miệng, tôi sẽ nói những gì tôi muốn. Ngài có thể làm gì chứ?”. Khi những người này khăng khăng gieo rắc những ý kiến và ý tưởng ngụy biện cá nhân này, họ có đang nói về sự hiểu biết của chính bản thân mình không? Họ có đang thông công lẽ thật không? Tuyệt đối không. Họ đang lan truyền sự tiêu cực, họ đang tuyên truyền những lời ngụy biện tà ác. Họ không cố gắng để biết hoặc vạch trần sự bại hoại của chính mình hoặc những việc họ đã làm trái với lẽ thật, cũng không phơi bày những sai lầm mà họ đã mắc phải; thay vào đó, họ đang cố gắng hết sức để hợp lý hóa và bảo vệ những sai lầm của mình để chứng minh rằng họ đúng, đồng thời cũng đưa ra những phán xét lố bịch, gieo rắc những ý tưởng và hiểu biết bất lợi và ngụy biện, cũng như những lời lẽ đồi bại và xấu xa. Tác động đối với dân sự được Đức Chúa Trời chọn và hội thánh chính là sự phá vỡ và ảo tưởng; nó thậm chí có thể đẩy một số người vào trạng thái tiêu cực và bối rối – đó là tất cả những tác động bất lợi gây ra bởi những người toát ra sự tiêu cực. Do đó, đối với những người trút ra sự tiêu cực, cùng những lời lẽ và hành vi của họ, tất nhiên nên hạn chế, chứ đừng dung túng hay cho phép. Hội thánh nên có phương thức và nguyên tắc xử lý thích hợp với những người này, một mặt anh chị em nên có sự phân định đối với những người này và lời lẽ tiêu cực của họ, mặt khác, khi dân được Đức Chúa Trời chọn có sự phân định rồi, thì nên kịp thời dựa theo nguyên tắc lẽ thật mà thanh trừ và khai trừ những người này, để khỏi có thêm người bị ảnh hưởng và nhiễu loạn. Về chuyện trút ra sự tiêu cực, chúng ta thông công đến đây thôi.

C. Nguyên tắc và con đường để giải quyết sự tiêu cực

Con người có bản tính Sa-tan và sống theo tâm tính Sa-tan, nên khó tránh khỏi chuyện có tình trạng tiêu cực, nhất là khi người ta chưa hiểu lẽ thật thì càng thường xuyên bị như vậy. Mỗi một người đều có những lúc tiêu cực, có người thường xuyên tiêu cực, có người ít khi tiêu cực, có người tiêu cực trong thời gian dài, có người tiêu cực trong thời gian ngắn, vóc giạc mỗi người một khác, nên tình trạng tiêu cực của mỗi người cũng khác nhau. Người có vóc giạc lớn thì khi gặp phải sự thử luyện mới có thể có đôi chút tiêu cực. Còn người có vóc giạc nhỏ, vẫn chưa hiểu lẽ thật, thì khi người khác lan truyền chút quan niệm hay là nói mấy lời vô lý, họ cũng không biết phân định, lại còn có thể bị gây nhiễu loạn và ảnh hưởng, còn có thể trở nên tiêu cực. Bất kể xảy ra vấn đề gì cũng có thể khiến họ tiêu cực, một chuyện nhỏ chẳng đáng để nhắc đến mà cũng có thể khiến họ tiêu cực. Vậy làm sao để giải quyết vấn đề thường xuyên tiêu cực? Nếu người ta không biết cách tìm kiếm lẽ thật, không biết cách ăn uống lời Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Đức Chúa Trời thì rất phiền phức, họ chỉ có thể trông vào sự giúp đỡ và hỗ trợ của anh chị mà thôi. Nếu không có ai có thể giúp đỡ họ, hoặc họ không tiếp nhận sự giúp đỡ, thì có thể họ sẽ tiêu cực mãi không thoát ra được, thậm chí từ bỏ đức tin. Ngươi xem, người ta mà luôn có quan niệm và dễ tiêu cực thì rất nguy hiểm. Có thông công lẽ thật thế nào, họ cũng không tiếp nhận, cứ luôn nhận định rằng quan niệm và tưởng tượng của bản thân là đúng đắn, đây cũng là người rất phiền phức. Nhưng bất kể tiêu cực thế nào, trong lòng ngươi cũng nên hiểu rằng: ngươi có quan niệm không có nghĩa là quan niệm đó phù hợp lẽ thật, mà có nghĩa là sự lĩnh hội của ngươi có vấn đề, nếu có chút lý trí thì ngươi đừng lan truyền quan niệm, đây là việc tối thiểu người ta phải giữ được. Nếu ngươi có chút lòng kính sợ Đức Chúa Trời, có thể thừa nhận bản thân là người đi theo Đức Chúa Trời, thì ngươi nên tìm kiếm lẽ thật và giải quyết quan niệm của mình, thuận phục lẽ thật, chứ đừng làm việc gây gián đoạn và nhiễu loạn. Chút chuyện này mà ngươi không làm được, cứ phải lan truyền quan niệm, vậy thì ngươi đánh mất lý trí rồi. Ngươi thuộc loại thần kinh bất thường và bị quỷ nhập rồi, ngươi không còn làm chủ bản thân nữa, ma quỷ chi phối ngươi thì ngươi sẽ muốn nói, muốn lan truyền, chẳng có cách nào kìm nổi, đây là việc làm của tà linh. Nếu ngươi có chút lương tâm và lý trí thì nên làm được chút này: đừng lan truyền quan niệm, đừng gây nhiễu loạn anh chị em. Cho dù có tiêu cực, ngươi cũng đừng làm những việc gây tổn hại đến anh chị em, chỉ nên làm tốt bổn phận của mình, làm tốt việc mình nên làm, bảo đảm không thẹn với lòng, đây chính là giới hạn chót trong việc làm người. Cho dù có lúc ngươi tiêu cực, nhưng không làm gì vượt giới hạn, thì Đức Chúa Trời cũng không làm căng với sự tiêu cực của ngươi. Chỉ cần ngươi có lương tâm và lý trí, có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cậy dựa Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, thì sớm muộn gì ngươi cũng sẽ hiểu được lẽ thật và chuyển biến. Nếu ngươi gặp phải chuyện lớn, chẳng hạn như ngươi làm lãnh đạo mà bị cách chức và đào thải vì không làm công tác thực tế, rồi cảm giác mình không còn hy vọng nữa, trở nên tiêu cực, chìm sâu trong tiêu cực đến mức không vực dậy nổi, cảm giác như mình bị định tội và rủa sả rồi, thế là ngươi nảy sinh sự oán trách với Đức Chúa Trời, trong trường hợp đó thì nên làm thế nào? Dễ lắm, cứ tìm vài người hiểu lẽ thật mà thông công và tìm kiếm, nói ra lời trong lòng mình. Quan trọng hơn nữa, ngươi hãy đến trước mặt Đức Chúa Trời, thành thật đem từng cái một trong những sự tiêu cực và yếu đuối của mình, cùng những điều mà mình không lý giải được và không vượt qua được, mà cầu nguyện và thông công với Đức Chúa Trời, không giấu diếm gì. Nếu có những điều không dám nói ra mà người không thể mở miệng nói với người khác, thì ngươi càng phải đến trước mặt Đức Chúa Trời mà cầu nguyện. Có vài người nói: “Nói với Đức Chúa Trời thì Ngài chẳng định tội sao?” Những việc ngươi chống đối Đức Chúa Trời và khiến Ngài định tội còn ít sao? Thêm một việc mà ngươi cũng lăn tăn à? Ngươi nghĩ ngươi không nói thì Đức Chúa Trời sẽ không biết sao? Ngươi nghĩ thế nào, Đức Chúa Trời đều biết cả, ngươi nên mở lòng thông công với Đức Chúa Trời và nói lời thật lòng, đem vấn đề và tình trạng của ngươi kể thật với Đức Chúa Trời, những sự yếu đuối, phản nghịch, thậm chí là oán trách của ngươi cũng có thể được đem ra nói với Đức Chúa Trời, kể cả khi ngươi muốn phát tiết một chút cũng được, Đức Chúa Trời sẽ không định tội. Tại sao Đức Chúa Trời không định tội? Đức Chúa Trời biết vóc giạc của ngươi, ngươi không nói với Ngài thì Ngài cũng biết vóc giạc của ngươi. Ngươi mà nói với Đức Chúa Trời, một mặt đây là cơ hội để ngươi mở lòng thổ lộ với Ngài, mặt khác đây cũng là ngươi đang biểu lộ thái độ thuận phục của ngươi với Đức Chúa Trời, ít nhất ngươi để Đức Chúa Trời thấy được lòng ngươi không khép lại với Ngài, chỉ là ngươi yếu đuối, không đủ vóc giạc để vượt qua chuyện này, chỉ vậy thôi. Ngươi không có ý phản kháng, thái độ của ngươi là muốn thuận phục, chỉ là vóc giạc của ngươi quá nhỏ, không chịu nổi chuyện này. Khi ngươi hoàn toàn mở lòng với Đức Chúa Trời và có thể nói lời từ đáy lòng với Ngài, mặc dù những lời ngươi nói vẫn có sự yếu đuối và oán trách, cũng có nhiều thứ tiêu cực và phản diện, nhưng trong đó có một vài điều đúng: đó là ngươi thừa nhận tâm tính bại hoại của mình, thừa nhận bản thân là loài thọ tạo, không phủ nhận thân phận Đấng Tạo Hóa của Đức Chúa Trời, không phủ nhận mối quan hệ giữa ngươi với Đức Chúa Trời là mối quan hệ giữa loài thọ tạo với Đấng Tạo Hóa. Ngươi phó thác cho Đức Chúa Trời chuyện mà ngươi khó vượt qua nhất và có thể khiến ngươi yếu đuối nhất, nói lời trong lòng với Ngài, như vậy là biểu lộ thái độ của ngươi rồi. Có những người nói: “Con từng cầu nguyện với Đức Chúa Trời một lần rồi, sự tiêu cực của con chẳng được giải quyết, con vẫn không vượt qua nổi chuyện đó”. Chẳng sao cả, ngươi chỉ cần nghiêm túc tìm kiếm lẽ thật, cho dù ngươi hiểu đến mức độ nào, Đức Chúa Trời cũng sẽ dần khiến ngươi mạnh mẽ lên, không còn yếu đuối như ban đầu nữa. Ngươi có bao nhiêu sự yếu đuối, tiêu cực, oán trách và cảm xúc tiêu cực, cứ nói hết với Đức Chúa Trời, đừng xem Đức Chúa Trời là người ngoài. Ngươi giấu với ai chứ đừng giấu với Đức Chúa Trời, bởi vì chỉ có duy nhất Đức Chúa Trời cho ngươi cậy dựa và cứu rỗi ngươi, con người chỉ có đến trước mặt Đức Chúa Trời thì những vấn đề này mới có thể được giải quyết, chứ trông vào người khác thì chỉ vô ích mà thôi. Do đó, khi người ta tiêu cực và yếu đuối, thì đều có thể đến trước mặt Đức Chúa Trời, đều có thể cậy dựa Đức Chúa Trời, như vậy mới là thông minh nhất. Chỉ có người ngu muội ngoan cố, khi càng gặp chuyện lớn, chuyện then chốt và cần phải hướng về Đức Chúa Trời mà thổ lộ tiếng lòng, thì họ lại càng rời xa và trốn tránh Đức Chúa Trời, tính toán trong lòng, tính tới tính lui thì kết quả thế nào? Những sự tiêu cực và oán trách đó trở thành sự phản kháng, rồi sự phản kháng trở thành chống đối và kêu gào, không đội trời chung với Đức Chúa Trời, và mối quan hệ giữa họ với Đức Chúa Trời hoàn toàn đổ vỡ. Tuy vậy, khi chìm trong sự yếu đuối và tiêu cực, mà ngươi vẫn chọn đến trước mặt Đức Chúa Trời mà tìm kiếm lẽ thật, vẫn chọn thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, có thái độ thành tâm thuận phục, thì khi Đức Chúa Trời thấy ngươi đang ở trong sự tiêu cực mà vẫn thành tâm muốn thuận phục, Ngài sẽ biết cách hướng dẫn ngươi, cho ngươi thoát ra khỏi sự tiêu cực và yếu đuối. Có vài trải nghiệm này rồi, thì ngươi sẽ có đức tin thực sự vào Đức Chúa Trời, sẽ cảm giác rằng bất kể gặp phải khó khăn gì chỉ cần tìm kiếm và chờ đợi Đức Chúa Trời, thì từ lúc nào không hay, Ngài sẽ an bài lối thoát và cho ngươi nhìn thấy sự tình có biến đổi, khiến ngươi không còn yếu đuối nữa mà trở nên mạnh mẽ, đức tin vào Ngài cũng gia tăng. Khi hồi tưởng lại những chuyện này, ngươi sẽ cảm thấy tại sao sự yếu đuối của ngươi lúc đó lại ấu trĩ đến vậy. Thực ra, con người ấu trĩ như vậy đấy, nếu không có Đức Chúa Trời nâng đỡ thì vĩnh viễn con người sẽ không thoát ra khỏi sự ấu trĩ và ngu muội mà trưởng thành được. Chỉ có dần dà tiếp nhận và thuận phục sự tể trị của Đức Chúa Trời trong quá trình trải nghiệm những chuyện này, có thể tích cực và chủ động đối diện những sự thật này, tìm kiếm nguyên tắc và tâm ý của Đức Chúa Trời, không còn trốn tránh, rời xa hay phản nghịch Đức Chúa Trời, thay vào đó biến đổi trở nên ngày càng thuận phục, ngày càng bớt phản nghịch, ngày càng thân cận và thuận phục Đức Chúa Trời – trải nghiệm như vậy thì sự sống sẽ dần dà lớn lên, ngày càng trưởng thành, sẽ phát triển đến vóc giạc của người trưởng thành.

Nên tiếp cận và giải quyết tình trạng tiêu cực như thế nào? Tiêu cực không đáng sợ, mấu chốt là người ta phải có lý trí. Luôn tiêu cực thì chẳng phải dễ làm ra việc ngu xuẩn sao? Khi tiêu cực, ngoài chuyện buông lời oán trách, cam tâm sa đọa, nói năng và hành động chẳng có chút lý trí nào, thì nó có ảnh hưởng gì đến việc làm bổn phận không? Nếu có thể cam tâm sa đọa, tiêu cực chểnh mảng, vậy chẳng phải là phản bội Đức Chúa Trời sao? Khi tiêu cực đến mức nghiêm trọng, thì người ta giống như bị bệnh thần kinh vậy, cũng có chút giống như người bị quỷ ám, nghĩa là không có lý trí, nếu không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết thì thực sự nguy hiểm. Lúc tiêu cực mà người ta không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời chút nào thì sẽ dễ đánh mất lý trí, còn đi khắp nơi tuyên dương và lan truyền sự tiêu cực, bất mãn và quan niệm của mình. Như vậy là cố ý chống đối Đức Chúa Trời, quá dễ gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh, hậu quả này thật không tưởng tượng nổi, khả năng quá cao là người ta sẽ bị Đức Chúa Trời ghét bỏ. Nếu trong lúc tiêu cực mà người ta có thể tìm kiếm lẽ thật, nuôi lòng kính sợ Đức Chúa Trời, không nói lời tiêu cực, cũng không lan truyền sự tiêu cực và quan niệm của mình, cũng không thay đổi đức tin vào Đức Chúa Trời, vẫn có thái độ thuận phục Đức Chúa Trời, vậy thì người ta sẽ dễ dàng thoát ra khỏi sự tiêu cực. Con người ai cũng có lúc tiêu cực, chỉ là mức độ nặng nhẹ và thời gian dài ngắn khác nhau, nguyên nhân dẫn đến tiêu cực cũng khác nhau. Có người trong lúc bình thường thì không tiêu cực, lúc gặp phải thất bại và bước lùi thì mới tiêu cực, có người tiêu cực vì chút chuyện nhỏ, thậm chí có người tiêu cực vì bị một câu của người khác làm tổn thương thể diện, có người gặp phải chuyện không thuận theo ý mình thì cũng có thể tiêu cực, dạng người này có biết cách sống không vậy? Có kiến thức không vậy? Có tấm lòng và sự độ lượng của người bình thường không vậy? Chẳng có đâu. Bất kể trong trường hợp nào, chỉ cần người ta sống trong tâm tính bại hoại thì sẽ thường xuyên chìm trong một vài tình trạng tiêu cực. Đương nhiên, nếu người ta hiểu lẽ thật, có thể nhìn thấu chuyện, thì tình trạng tiêu cực cũng sẽ ngày càng ít đi, sự tiêu cực cũng theo sự trưởng thành của vóc giạc mà tan biến dần, tan biến hoàn toàn. Người không yêu thích lẽ thật và người không tiếp nhận lẽ thật chút nào thì sẽ ngày càng có nhiều cảm xúc tiêu cực, tình trạng tiêu cực, cả tư tưởng và thái độ tiêu cực, chúng càng tích tụ thì càng nghiêm trọng, ngay khi chúng đến mức quá tải thì người ta sẽ không thể vực dậy nổi, như vậy là rất nguy hiểm. Do đó, điều then chốt là phải kịp thời giải quyết sự tiêu cực. Giải quyết sự tiêu cực thì phải dựa vào bản thân chủ động tìm kiếm lẽ thật, an tĩnh trước mặt Đức Chúa Trời mà đọc và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời thì sẽ có thể được khai sáng và soi sáng, sẽ có thể hiểu lẽ thật và nhìn thấu thực chất của sự tiêu cực, sẽ có thể giải quyết vấn đề tiêu cực. Nếu ngươi vẫn bám giữ quan niệm và lý do của mình không chịu buông, vậy thì ngươi ngu muội cùng cực, ngươi sẽ chết vì sự ngu muội và vô tri. Bất kể thế nào, khi giải quyết sự tiêu cực thì nên chủ động, chứ đừng bị động. Có những người cho rằng khi nảy sinh sự tiêu cực, trước hết cứ lờ nó đi, chờ đến lúc nào bản thân vui vẻ thì sự tiêu cực sẽ tự nhiên biến thành vui sướng, đây là ảo tưởng của con người. Người ta không tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật, thì sự tiêu cực đâu có tự động bị loại trừ, cho dù ngươi quên nó rồi, trong lòng không còn cảm giác nữa, thì vẫn không đồng nghĩa với đã giải quyết sự tiêu cực tận gốc, ngay khi có hoàn cảnh thích hợp thì nó sẽ tái phát, đây là chuyện thường thấy. Nếu là người thông minh và có lý trí, thì ngay lúc sự tiêu cực nảy sinh, ngươi nên nhanh chóng tìm kiếm lẽ thật, dùng cách tiếp nhận lẽ thật mà giải quyết nó, như vậy thì sẽ có thể giải quyết vấn đề tiêu cực từ gốc. Hễ ai thường xuyên tiêu cực thì đều do không tiếp nhận lẽ thật mà ra, ngươi không tiếp nhận lẽ thật thì những thứ tiêu cực này sẽ giống như ma quỷ làm phiền ngươi mãi không buông, khiến ngươi cứ mãi tiêu cực, khiến ngươi nảy sinh cảm xúc không phục, bất mãn và oán trách Đức Chúa Trời, khi đến mức ngươi chống đối, đối đầu và kêu gào với Đức Chúa Trời thì ngươi cũng kết thúc rồi, bộ mặt xấu xí của ngươi đã bại lộ. Đến lúc bắt đầu bị mọi người vạch trần, mổ xẻ và xác định tính chất, ngươi thấy quan tài mới đổ lệ, lúc đó ngươi sẽ sụp đổ, bắt đầu đấm ngực điên cuồng, ngươi còn chờ tiếp nhận sự trừng phạt của Đức Chúa Trời thôi! Tiêu cực không chỉ khiến người ta nảy sinh sự yếu đuối, mà còn có thể khiến người ta oán trách, xét đoán và phủ nhận Đức Chúa Trời, thậm chí là đối đầu trực tiếp và kêu gào thẳng mặt Đức Chúa Trời. Do đó, khi giải quyết sự tiêu cực mà bỏ lỡ thời cơ, thì ngay khi ngươi bộc lộ những lời báng bổ Đức Chúa Trời xúc phạm đến tâm tính Đức Chúa Trời, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Ngươi có thể vì một chuyện gì đó, một câu nào đó, hoặc một tư tưởng, quan điểm nào đó mà chìm trong sự tiêu cực và trong lòng oán trách, thì chứng tỏ ngươi có nhận thức lệch lạc, có quan niệm và tưởng tượng về chuyện đó, quan điểm của ngươi về chuyện đó chắc chắn không phù hợp với lẽ thật. Lúc này ngươi cần tìm kiếm lẽ thật, đối diện chuyện đó một cách đúng đắn, cố gắng xoay chuyển những quan niệm và ý nghĩ sai lầm đó nhanh nhất và sớm nhất, đừng để bản thân bị những quan niệm này trói buộc và gây lầm lạc để rồi chìm trong tình trạng không phục, bất mãn và oán trách Đức Chúa Trời. Kịp thời giải quyết sự tiêu cực là chuyện then chốt, triệt để giải quyết sự tiêu cực cũng then chốt. Đương nhiên, phương thức tốt nhất để giải quyết sự tiêu cực là tìm kiếm lẽ thật, đọc thêm lời Đức Chúa Trời, đến trước mặt Đức Chúa Trời mà tìm kiếm sự khai sáng của Ngài. Có lúc cũng có thể tư tưởng và quan điểm của ngươi nhất thời không thể xoay chuyển, nhưng ít ra ngươi phải biết bản thân mình không đúng, ý nghĩ này của mình là lệch lạc, như vậy ít ra sẽ đạt được kết quả là dạng tư tưởng và quan điểm sai lầm này sẽ không thể ảnh hưởng đến lòng trung thành của ngươi khi làm bổn phận, không thể ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ngươi với Đức Chúa Trời, cũng không ảnh hưởng đến việc ngươi đến trước mặt Đức Chúa Trời mà tâm tình và cầu nguyện với Ngài, ít ra sẽ đạt được những kết quả này. Khi chìm trong sự tiêu cực, trong lòng không phục, bất mãn và oán trách Đức Chúa Trời, mà ngươi không muốn tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, còn cho rằng quan hệ giữa mình với Đức Chúa Trời rất bình thường, thì thực ra lòng ngươi đã rời xa Đức Chúa Trời rồi, không còn muốn đọc lời Đức Chúa Trời hay cầu nguyện nữa, vậy chẳng phải vấn đề nghiêm trọng rồi sao? Ngươi nói: “Bất kể tiêu cực thế nào, tôi đâu có làm chậm trễ bổn phận, cũng không quẳng gánh giữa đường, tôi có lòng trung thành mà!” Lời này có đứng vững được không? Nếu ngươi thường xuyên tiêu cực, thì đây không phải chỉ là một dạng tâm tính bại hoại đâu, còn có vấn đề nghiêm trọng hơn: Đó là ngươi có quan niệm về Đức Chúa Trời, hiểu lầm Đức Chúa Trời, nảy sinh ngăn cách với Đức Chúa Trời, nếu không tìm kiếm lẽ thật mà giải quyết, thì đây là chuyện rất nguy hiểm. Nếu người ta thường xuyên tiêu cực, thì làm sao có thể bảo đảm khi làm bổn phận sẽ không qua loa chiếu lệ, sẽ có thể trung thành đến cùng? Chẳng lẽ vấn đề tiêu cực chưa được giải quyết, mà sự tiêu cực tự động rút đi, tự động biến mất sao? Nếu không kịp thời tìm kiếm lẽ thật mà giải quyết, thì sự tiêu cực sẽ phát triển, chỉ có thể ngày càng nghiêm trọng, hậu quả nó gây ra chỉ có thể ngày càng xấu hơn, tuyệt đối chẳng phát triển theo hướng tích cực, mà chỉ có phát triển theo hướng xấu mà thôi. Do đó, khi nảy sinh sự tiêu cực thì phải nhanh chóng tìm kiếm lẽ thật mà giải quyết, như vậy mới có thể bảo đảm làm tốt bổn phận. Giải quyết vấn đề tiêu cực là chuyện then chốt, không được chậm trễ!

Ngày 26 tháng 6 năm 2021

Trước: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (16)

Tiếp theo: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (22)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger