8. Cách phân định triết lý Sa-tan và các loại tà thuyết, lý luận sai lầm

Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt

Bản thân Đức Chúa Trời chính là lẽ thật, và Ngài có sẵn mọi lẽ thật. Đức Chúa Trời là nguồn của lẽ thật. Mọi điều tích cực và mọi lẽ thật đều đến từ Đức Chúa Trời. Ngài có thể phán xét sự đúng sai của mọi sự và vạn vật; bất kể là chuyện đã xảy ra, chuyện hiện nay đang xảy ra hay chuyện trong tương lai mà con người chưa biết đến, Ngài đều có thể phán xét. Đức Chúa Trời là Quan tòa duy nhất có thể phán xét hết thảy chuyện đúng sai của tất cả mọi thứ, điều này có nghĩa hết thảy chuyện đúng sai của tất cả mọi thứ chỉ có thể do Đức Chúa Trời phán xét. Ngài biết chuẩn tắc cho hết thảy tất cả mọi thứ. Ngài có thể bày tỏ lẽ thật mọi lúc mọi nơi. Đức Chúa Trời chính là hóa thân của lẽ thật, nghĩa là bản thân Ngài có sẵn thực chất của lẽ thật. Nếu con người hiểu nhiều lẽ thật và được Đức Chúa Trời hoàn thiện, liệu họ có liên quan gì đến hóa thân của lẽ thật không? Không. Điều này là chắc chắn. Khi con người được làm cho hoàn thiện rồi, thì đối với công tác hiện tại của Đức Chúa Trời đang làm và các tiêu chuẩn khác nhau mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với con người, họ có thể có sự phán đoán và cách thực hành chuẩn xác, họ sẽ hiểu trọn vẹn tâm ý của Đức Chúa Trời. Họ sẽ biết phân biệt điều gì đến từ Đức Chúa Trời và điều gì đến từ con người, biết điều gì là đúng và điều gì là sai. Tuy nhiên, có một số điều mà con người không thể đạt đến và không thể nhìn thấu, những điều mà Đức Chúa Trời nói cho họ rồi thì họ mới biết. Còn những điều mà con người chưa biết, và Đức Chúa Trời chưa nói cho, thì con người có thể biết hay không, có thể dự đoán hay không? Tuyệt đối không thể. Hơn nữa, ngay cả khi con người đã đạt được lẽ thật từ Đức Chúa Trời, có thực tế lẽ thật, hiểu được thực chất của nhiều lẽ thật và có năng lực phân định phải trái đúng sai rồi, thì họ có năng lực khống chế và cai quản hết thảy mọi sự vật không? Con người không có năng lực này. Đó là sự khác biệt giữa Đức Chúa Trời và con người. Loài thọ tạo vĩnh viễn chỉ có thể đạt được lẽ thật từ nguồn của lẽ thật mà thôi. Họ có thể đạt được lẽ thật từ con người không? Con người có phải là lẽ thật không? Con người có thể cung ứng lẽ thật không? Họ không thể, và sự khác biệt nằm ở đây. Ngươi chỉ có thể tiếp nhận lẽ thật, chứ không thể cung ứng nó. Ngươi có thể được gọi là người có sẵn lẽ thật không? Ngươi có thể được gọi là hóa thân của lẽ thật không? Tuyệt đối không thể. Thực chất hóa thân của lẽ thật rốt cuộc là gì? Là nguồn cung ứng lẽ thật, nguồn cai quản và tể trị hết thảy mọi sự vật, và đây cũng là chuẩn tắc và tiêu chuẩn duy nhất để phán xét mọi sự và vạn vật. Đây chính là hóa thân của lẽ thật.

– Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 3), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ

Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật, là bày tỏ tâm tính và thực chất của Ngài; chứ không phải dựa trên sự tổng kết của nhân loại về vô số thứ mà họ cho là những điều tích cực và câu nói tích cực. Lời Đức Chúa Trời là lời Đức Chúa Trời; lời Đức Chúa Trời chính là lẽ thật, là cơ sở và quy tắc sinh tồn duy nhất của nhân loại, còn tất cả những cái gọi là tín điều phát xuất từ con người đều là sai lầm, hoang đường, và bị Đức Chúa Trời lên án. Chúng không được Ngài chấp thuận, càng không phải là nguồn gốc hoặc cơ sở cho những lời Ngài phán. Đức Chúa Trời bày tỏ tâm tính và thực chất của Ngài thông qua lời Ngài. Vì Đức Chúa Trời có thực chất của Đức Chúa Trời, và Ngài là thực tế của tất cả những điều tích cực, nên mọi lời Ngài bày tỏ đều là lẽ thật. Bất kể nhân loại bại hoại này định vị hoặc định nghĩa lời Đức Chúa Trời như thế nào, nhìn nhận và nhận biết như thế nào, thì lời Đức Chúa Trời vĩnh viễn là lẽ thật, và đây là sự thật không bao giờ thay đổi. Cho dù có bao nhiêu lời Đức Chúa Trời đã được phán ra, và cho dù nhân loại tà ác, bại hoại này lên án và loại bỏ như thế nào, thì có một sự thật vĩnh viễn không thay đổi: lời Đức Chúa Trời vĩnh viễn là lẽ thật và con người vĩnh viễn không thể thay đổi điều này. Cuối cùng, con người đều phải thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, và văn hóa truyền thống, cũng như kiến thức khoa học mà nhân loại tôn sùng không bao giờ có thể trở thành những điều tích cực, không bao giờ có thể trở thành lẽ thật. Tuyệt đối là vậy. Văn hóa truyền thống và con đường sinh tồn của nhân loại sẽ không trở thành lẽ thật vì những thay đổi theo thời gian hay thời gian trôi qua, và lời của Đức Chúa Trời cũng sẽ không vì bị nhân loại lên án và quên lãng mà trở thành lời của con người. Lẽ thật luôn là lẽ thật; thực chất này sẽ không bao giờ thay đổi. Trong chuyện này có sự thật nào? Chính là sự thật rằng mọi tục ngữ mà nhân loại tổng kết đều đến từ Sa-tan, là tưởng tượng và quan niệm của con người, hoặc là phát sinh từ huyết khí của con người và những tâm tính bại hoại của con người, chúng không liên quan chút nào đến những điều tích cực. Trong khi đó, lời Đức Chúa Trời là sự bày tỏ thực chất và thân phận của Đức Chúa Trời. Vì lý do gì mà Ngài bày tỏ những lời này? Tại sao Ta nói những lời này là lẽ thật? Bởi vì mọi quy tắc, quy luật, căn nguyên, thực chất, chân tướng và bí ẩn của vạn vật đều do Đức Chúa Trời tể trị, đều nằm trong tay Ngài. Do đó, chỉ Đức Chúa Trời mới biết các quy luật, chân tướng, sự thật và bí ẩn của vạn vật. Đức Chúa Trời biết nguồn gốc của vạn vật, và Đức Chúa Trời biết chính xác căn nguyên của vạn vật là gì. Chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là định nghĩa chính xác nhất về vạn vật, và chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là tiêu chuẩn và nguyên tắc cho cuộc sống của con người, mới là lẽ thật và tiêu chí để con người có thể dựa vào đó mà sinh tồn. Trong khi đó, những quy tắc, lý luận của Sa-tan mà nhân loại dựa vào để sinh tồn sau khi bị Sa-tan làm bại hoại, một mặt đi ngược với sự thật là Đức Chúa Trời tể trị vạn vật, mặt khác cũng đi ngược với sự thật rằng Đức Chúa Trời tể trị quy tắc và quy luật của vạn vật. Mọi loại lý luận thuộc về Sa-tan của con người đều nảy sinh từ quan niệm và tưởng tượng của con người, cũng là đến từ Sa-tan. Vai trò của Sa-tan là gì? Trước hết, Sa-tan giả mạo lẽ thật. Thứ hai, nó quấy nhiễu, phá hoại và chà đạp mọi quy luật và quy tắc mà Đức Chúa Trời tạo ra cho vạn vật. Cho nên, những gì đến từ Sa-tan rất tương xứng với thực chất của nó, tràn đầy những dụng tâm tà ác, giả mạo, ngụy trang và dã tâm không bao giờ thay đổi của Sa-tan. Đối với những triết lý, lý luận đến từ Sa-tan này, bất luận nhân loại bại hoại có thể phân định được hay không, bất luận có bao nhiêu người ca tụng, tán dương, chạy theo những thứ này, bất luận nhân loại bại hoại có ngưỡng mộ, sùng bái, rao giảng về chúng trong bao nhiêu năm tháng, chúng cũng sẽ không trở thành lẽ thật. Bởi vì thực chất, căn nguyên, ngọn nguồn của chúng là Sa-tan, là Sa-tan đối địch với Đức Chúa Trời, đối địch với lẽ thật. Cho nên những thứ này mãi mãi sẽ không trở thành lẽ thật, chúng mãi mãi là những điều tiêu cực. Khi không có lẽ thật để đối chiếu, có lẽ nó có thể giả mạo là lương thiện, là tích cực, nhưng khi dùng lẽ thật để vạch trần và mổ xẻ, thì chúng không phải là không có kẽ hở, và không thể đứng vững. Chúng là thứ bị lên án, bị vứt bỏ rất nhanh. Lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ hoàn toàn phù hợp với nhu cầu nhân tính bình thường của nhân loại do Đức Chúa Trời tạo ra, nhưng thứ Sa-tan tiêm nhiễm cho con người hoàn toàn trái ngược với nhu cầu nhân tính bình thường của nhân loại. Nó khiến một người bình thường trở nên không bình thường, trở nên cực đoan, hẹp hòi, cuồng vọng, ngu xuẩn, tà ác, cương ngạnh, hung ác, thậm chí ngông cuồng tự đại. Nghiêm trọng đến một mức nhất định thì tinh thần con người thất thường, ngay cả mình là ai cũng không biết, không muốn làm người bình thường, thông thường, mà cứ đòi làm siêu nhân, dị nhân, làm nhân loại cao cấp. Chúng bóp méo nhân tính của con người, bóp méo bản năng của con người. Lẽ thật khiến con người càng theo bản năng mà dựa vào quy luật, quy tắc của nhân tính bình thường và cả mọi quy luật mà Đức Chúa Trời định ra để tồn tại. Còn những cái gọi là tục ngữ, câu nói mê hoặc con người này thì hoàn toàn khiến con người đi ngược lại với bản năng của mình, khiến họ chạy khỏi quy tắc mà Đức Chúa Trời tiền định và đặt ra, thậm chí khiến họ thoát khỏi quỹ đạo của nhân tính bình thường để làm một vài chuyện cực đoan, chuyện mà người bình thường không nên làm, cũng không nên nghĩ tới. Những quy tắc của Sa-tan này không chỉ bóp méo nhân tính của con người, mà còn khiến con người đánh mất nhân tính bình thường và bản năng của nhân tính bình thường.

Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 1)

Từ khi loài người nghĩ ra khoa học xã hội, tâm trí của con người đã trở nên bị chiếm lĩnh bởi khoa học và kiến thức. Khoa học và kiến thức từ đó đã trở thành những công cụ để cai trị nhân loại, không còn đủ chỗ cho con người thờ phượng Đức Chúa Trời, và không còn những điều kiện thuận lợi cho việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Vị trí của Đức Chúa Trời ngày càng giảm sút trong lòng con người. Không có Đức Chúa Trời trong lòng, thế giới nội tâm của con người thật tăm tối, vô vọng và trống rỗng. Rồi sau đó, nhiều nhà khoa học xã hội, sử gia, và chính trị gia đã đứng ra phát biểu các lý thuyết về khoa học xã hội, lý thuyết về sự tiến hóa của loài người, và các lý thuyết khác trái với lẽ thật rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người, để lấp đầy trái tim và trí óc nhân loại. Và theo cách này, những người tin rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên mọi thứ đã trở nên ngày càng ít hơn, và những người tin vào thuyết tiến hóa đã trở nên ngày càng đông đảo hơn. Ngày càng có nhiều người xem những bản ghi chép về công tác của Đức Chúa Trời và những lời của Ngài trong thời đại Cựu Ước như thần thoại và truyền thuyết. Trong lòng họ, mọi người trở nên thờ ơ với sự tôn nghiêm và vĩ đại của Đức Chúa Trời, thờ ơ với tín điều rằng Đức Chúa Trời tồn tại và nắm quyền tể trị vạn vật. Sự tồn vong của nhân loại cùng vận mệnh của các quốc gia và các dân tộc không còn quan trọng đối với họ nữa, và con người sống trong một thế giới trống rỗng chỉ quan tâm đến ăn, uống và theo đuổi khoái lạc. … Rất ít người chủ động tìm cho ra nơi Đức Chúa Trời làm công tác của Ngài ngày nay, hay tìm kiếm cách Ngài tể trị và sắp đặt đích đến của con người. Và theo cách này, con người không biết rằng nền văn minh của nhân loại trở nên ngày càng ít có khả năng đi theo những ước muốn của con người, và thậm chí có nhiều người còn cảm thấy rằng, sống trong một thế giới như vậy, họ ít hạnh phúc hơn những người đã qua đời. Ngay cả người dân của các quốc gia từng rất văn minh cũng bộc lộ những oán trách như vậy. Bởi vì không có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, cho dù những nhà cầm quyền và những nhà xã hội học có vắt óc ra sao để duy trì nền văn minh nhân loại, thì cũng chẳng ích gì. Không ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong lòng con người, bởi vì không ai có thể làm sự sống của con người, bất kỳ luận điệu xã hội nào cũng không thể giải phóng con người khỏi khốn đốn của sự trống rỗng. Khoa học, kiến thức, tự do, dân chủ, hưởng thụ, an nhàn: những điều này chỉ mang lại cho con người sự an ủi nhất thời. Ngay cả khi có những điều này, nhân loại vẫn không khỏi phạm tội và than vãn về những bất công của xã hội. Có được những điều này cũng không thể ngăn cản khao khát và dục vọng khám phá của con người. Đó là bởi con người do Đức Chúa Trời tạo dựng, những sự hy sinh và khám phá vô nghĩa của con người chỉ có thể dẫn đến nhiều khổ não hơn, khiến con người kinh hãi mãi không thôi, không biết làm sao để đối mặt với tương lai của nhân loại hoặc làm sao để đối mặt với con đường sau này. Thậm chí nhân loại còn sợ khoa học và kiến thức, lại càng sợ cảm giác trống rỗng. Trong thế giới này, bất kể ngươi sống trong một quốc gia tự do hay một quốc gia không có nhân quyền, thì ngươi cũng hoàn toàn không thể thoát khỏi số phận của nhân loại. Cho dù ngươi là kẻ cai trị hay kẻ bị trị, ngươi cũng hoàn toàn không thể thoát khỏi dục vọng muốn khám phá số phận, bí ẩn và đích đến của nhân loại, lại càng không thể thoát khỏi cảm giác trống rỗng không thể nào hiểu nổi. Những hiện tượng chung này của nhân loại được các nhà xã hội học gọi là hiện tượng xã hội, nhưng không một vĩ nhân nào có thể đứng ra giải quyết những vấn đề như thế. Con người, suy cho cùng, chỉ là con người, địa vị và sự sống của Đức Chúa Trời, không ai có thể thay thế được. Nhân loại không chỉ cần một xã hội công bằng, trong đó mọi người đều được no đủ, bình đẳng và tự do; điều nhân loại cần là sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và sự cung ứng sự sống của Ngài cho họ. Chỉ khi con người đạt được sự cung ứng sự sống của Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của Ngài, thì những nhu cầu, dục vọng khám phá, và sự trống rỗng tâm linh của con người mới được giải quyết. Nếu người dân của một quốc gia hay một dân tộc không thể đạt được sự cứu rỗi hoặc chăm sóc của Đức Chúa Trời, thì một quốc gia hoặc dân tộc như vậy sẽ bước trên con đường suy tàn, đi về phía sự tối tăm, và sẽ bị Đức Chúa Trời hủy diệt.

– Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời

Kiến thức về văn hóa cổ đại đã lén đánh cắp con người khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời và giao họ cho quỷ vương và con cháu của nó. Tứ Thư và Ngũ Kinh[a] đã đưa những tư tưởng và quan niệm của con người vào trong một thời đại nổi loạn khác, khiến cho họ còn tâng bốc những người biên soạn Sách / Kinh thư hơn trước, và kết quả là những quan niệm của họ về Đức Chúa Trời càng trầm trọng thêm. Con người không hề biết, quỷ vương đã nhẫn tâm đuổi Đức Chúa Trời ra khỏi lòng họ và sau đó chính nó chiếm giữ với niềm sung sướng đắc thắng. Kể từ đó, con người đã trở nên có một tâm hồn xấu xí và mang vẻ mặt của quỷ vương. Lòng căm ghét Đức Chúa Trời tràn đầy lồng ngực họ, và sự hiểm độc đầy thù hận của quỷ vương đã lan tràn trong con người ngày ngày cho đến khi họ hoàn toàn héo hon. Con người không còn có chút tự do nào và không có cách nào thoát khỏi những cạm bẫy của quỷ vương. Họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc bị bắt tại trận, đầu hàng và sụp xuống quy phục trước nó. Xưa kia, khi tấm lòng và tâm hồn của con người vẫn còn non nớt, quỷ vương đã gieo rắc vào đó mầm mống của khối u vô thần, dạy cho họ những ngụy lý như “nghiên cứu khoa học và kỹ thuật; thực hiện Bốn Hiện đại hóa; và không có thứ gì như là Đức Chúa Trời trên đời”. Không chỉ vậy, nó còn hô to mỗi khi có cơ hội rằng: “Chúng ta hãy dựa vào sức lao động cần cù của mình để xây dựng một quê hương tươi đẹp”, yêu cầu mỗi một người phải sẵn sàng từ thời thơ ấu để trung thành phục vụ Tổ quốc. Vô tình, con người đã bị đem đến trước nó, nơi mà nó không ngần ngại nhận vơ tất cả công trạng về mình (nghĩa là những công trạng thuộc về Đức Chúa Trời bởi vì Ngài nắm giữ toàn thể nhân loại trong tay Ngài). Chưa bao giờ nó có bất kỳ cảm giác xấu hổ nào. Hơn nữa, nó đã trơ trẽn bắt dân sự của Đức Chúa Trời và lôi họ trở lại nhà của nó, nơi mà nó như một con chuột nhảy phóc lên bàn và bắt con người thờ phượng nó như Đức Chúa Trời. Thật là một kẻ liều mạng! Nó kêu gào những điều gây sốc, kích động như: “Không có thứ gì như là Đức Chúa Trời trên đời. Gió có từ sự biến đổi theo những quy luật tự nhiên; mưa có khi nước bốc hơi, gặp nhiệt độ lạnh, ngưng tụ thành giọt rơi xuống đất; động đất là sự rung chuyển bề mặt trái đất do những thay đổi địa chất; hạn hán là do sự khô hạn trong không khí gây ra bởi sự phá vỡ hạt nhân trên bề mặt mặt trời. Đây là những hiện tượng tự nhiên. Trong tất cả những điều này, chỗ nào có hành động của Đức Chúa Trời?”. Thậm chí có những kẻ còn hét toáng lên những tuyên bố như sau, những tuyên bố không nên nói: “Con người đã tiến hóa từ vượn người trong thời cổ đại, và thế giới ngày nay bắt nguồn từ sự nối tiếp các xã hội nguyên thủy bắt đầu từ khoảng hàng tỷ năm trước. Một đất nước hưng thịnh hay suy tàn hoàn toàn nằm trong tay người dân”. Ở vị trí nền, nó buộc con người treo nó lên tường hay đặt nó lên bàn để tỏ lòng kính trọng và dâng của lễ cho nó. Đồng thời với việc kêu lên: “Không có Đức Chúa Trời”, nó tự lập mình lên làm Đức Chúa Trời, láo xược đẩy Đức Chúa Trời ra khỏi địa giới, trong khi đứng vào vị trí của Đức Chúa Trời và giữ vai trò quỷ vương. Hoàn toàn mất lý trí! …

Từ trên xuống dưới và từ đầu đến cuối, Sa-tan đã và đang làm nhiễu loạn công tác của Đức Chúa Trời và hành động chống đối Ngài. Toàn bộ sự rao giảng về “di sản văn hóa cổ đại”, “kiến thức văn hóa cổ đại” quý giá, “những giáo lý của Đạo giáo và Nho giáo”, và “Nho giáo kinh điển và những nghi thức phong kiến” đã đưa con người xuống địa ngục. Khoa học kỹ thuật hiện đại tiên tiến, cũng như ngành công nghiệp, nông nghiệp và thương mại phát triển mạnh ở đâu không thấy. Thay vào đó, tất cả những gì nó làm là nhấn mạnh những nghi thức phong kiến được truyền bá bởi “những con vượn người” thời cổ đại để cố tình làm gián đoạn, chống đối và phá hủy công tác của Đức Chúa Trời. Nó không những tiếp tục làm khổ con người cho đến ngày nay, mà thậm chí còn muốn nuốt trọn[1] con người. Sự lan truyền những giáo huấn về đạo đức và luân thường của chủ nghĩa phong kiến và việc truyền lại những kiến thức văn hóa cổ đại từ lâu đã tiêm nhiễm vào loài người, biến họ thành những con ma quỷ lớn nhỏ. Hiếm ai sẽ vui mừng tiếp nhận Đức Chúa Trời, hiếm ai sẽ hân hoan chào đón Ngài đến. Gương mặt của cả loài người đều đằng đằng sát khí, và ở mọi nơi, hơi thở giết chóc tràn ngập không gian. Họ cố tìm cách đuổi Đức Chúa Trời ra khỏi mảnh đất này; với dao kiếm trong tay, họ dàn trận để “tiêu diệt” Đức Chúa Trời.

– Công tác và sự bước vào (7), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời

Chú thích:

1. “Nuốt trọn” ám chỉ hành vi xấu xa của quỷ vương, nó cưỡng đoạt toàn bộ con người.

a. Tứ Thư và Ngũ Kinh là những cuốn sách chính thức của Nho giáo ở Trung Quốc.


Bất kể trình độ tri thức hiện tại của ngươi cao đến đâu, hay có bằng cấp và trình độ học vấn cao đến đâu, bây giờ Ta đang nói về quan điểm của nhân loại về tri thức và quan điểm của Ta về tri thức. Các ngươi có biết Đức Chúa Trời nhìn nhận như thế nào về tri thức không? Có người nói rằng Đức Chúa Trời hy vọng khoa học của nhân loại phát triển và hy vọng họ hiểu nhiều tri thức khoa học hơn, vì Ngài không muốn con người quá lạc hậu, cái gì cũng không hiểu, không biết. Điều này đúng, nhưng Đức Chúa Trời dùng những thứ này để phục vụ, chứ không phải tán thành chúng. Cho dù trong mắt con người những điều này có tốt đến đâu thì chúng cũng không phải là lẽ thật, cũng không thể thay thế lẽ thật, vì vậy Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật để thay đổi con người và tâm tính của họ. Mặc dù lời Đức Chúa Trời đôi khi có thể nhắc đến những quan điểm hoặc cách nhìn nhận về phương diện tri thức như học thuyết Nho giáo hay khoa học xã hội, nhưng chỉ là nhắc đến một số thứ mang tính biểu tượng. Từ trong câu chữ của lời Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thấy rằng Ngài ghét tri thức của loài người. Trong những thứ tri thức của loài người không chỉ là những câu chữ và đạo lý đơn giản, mà trong đó còn hàm chứa một số tư tưởng, quan điểm, đều mang những sự xằng bậy, thiên kiến của con người và chất độc của Sa-tan. Một số tri thức thậm chí có thể mê hoặc và làm bại hoại con người. Những tri thức này là chất độc và khối u của Sa-tan, và một khi con người đã tiếp nhận và nắm vững được chúng thì chất độc của Sa-tan sẽ phát triển thành khối u trong lòng họ. Khối u này sẽ lan ra toàn bộ cơ thể họ, và chắc chắn con người sẽ tử vong nếu họ không có được sự chữa trị từ lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Vì vậy, con người càng học và càng nắm vững nhiều tri thức thì càng khó tin vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ sẽ phủ nhận và chống lại Ngài, vì tri thức đều là thứ con người có thể nhìn thấy và chạm vào, và hầu hết đều liên quan đến những thứ trong cuộc sống của họ. Con người có thể học tập rất nhiều tri thức ở trường nhưng lại không hề thấy rõ nguồn gốc của tri thức và mối liên hệ của nó với cõi thuộc linh. Hầu hết tri thức mà con người học và nắm vững đều đi ngược lại lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, đặc biệt là thuyết duy vật và thuyết tiến hóa, chúng đều thuộc về tà thuyết phi lý của chủ nghĩa vô thần. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đều là những học thuyết sai lầm chống lại Đức Chúa Trời. Cũng giống như khi ngươi đọc sách lịch sử, tác phẩm của các tác giả nổi tiếng, tiểu sử của những vĩ nhân, hoặc khi ngươi học một ngành khoa học công nghệ về một phương diện nào đó, ngươi sẽ đạt được điều gì? Ví dụ, nếu học vật lý, ngươi sẽ nắm bắt được một số nguyên lý vật lý, học thuyết Newton hoặc các học thuyết khác. Khi con người học nằm lòng những thứ này thì sẽ bị chúng khống chế và chúng sẽ làm chủ tư tưởng của ngươi. Khi đọc lời của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ cảm thấy: “Sao trong lời Đức Chúa Trời không nhắc đến trọng lực của trái đất? Sao lại không nhắc đến những thứ ngoài không gian? Mặt trăng có không khí không, hay có bao nhiêu oxy trên trái đất, tại sao Đức Chúa Trời lại không phán về những việc này? Đức Chúa Trời nên tiết lộ những điều này, vì đó mới là những điều cần được tiết lộ và cho nhân loại biết”. Nếu trong lòng ngươi có kiểu suy nghĩ như vậy, thì ngươi sẽ coi lẽ thật và lời Đức Chúa Trời là thứ yếu và đặt những tri thức và lý luận mình học được lên vị trí chủ yếu. Ngươi sẽ đối xử với lời của Đức Chúa Trời như vậy. Bất luận nói như thế nào, những thứ tri thức này sẽ cho con người có những cảm giác sai lầm và khiến họ rời xa Đức Chúa Trời. Bất kể các ngươi có tin hay không, bất kể hôm nay các ngươi có thể tiếp nhận hay không, rồi sẽ có một ngày các ngươi thừa nhận sự thật này. Tri thức sẽ dẫn con người đến diệt vong, xuống địa ngục, chuyện này các ngươi có thể nhìn thấu không? Có một số người có thể không muốn tiếp nhận lời nói này, bởi vì trong số các ngươi có một số người rất có tri thức và có trình độ học vấn cao. Ta không châm biếm cũng không chế giễu các ngươi, Ta chỉ nói lên một sự thật. Ta không yêu cầu các ngươi tiếp nhận nó ngay lập tức, mà chính là khiến các ngươi từ từ có nhận thức về phương diện này. Thứ tri thức này khiến ngươi sử dụng trí óc và tư duy của mình để phân tích và tiếp cận mọi việc Đức Chúa Trời làm. Chúng sẽ trở thành vật cản trở và chướng ngại cho việc ngươi nhận biết Đức Chúa Trời và trải nghiệm công tác của Ngài, từ đó sẽ dẫn đến việc ngươi rời xa và chống đối Đức Chúa Trời. Nhưng nếu bây giờ đã có tri thức rồi thì phải làm như thế nào? Ngươi phải phân biệt tri thức nào là thực dụng và tri thức nào có nguồn gốc từ Sa-tan, là thuộc về các tà thuyết và luận điệu hoang đường. Nếu như những thứ ngươi tiếp nhận đều là tri thức của thuyết vô thần và những tri thức xằng bậy, chúng sẽ cản trở đức tin nơi Đức Chúa Trời của ngươi, gây nhiễu loạn cho mối quan hệ bình thường của ngươi với Ngài, gây nhiễu loạn cho sự tiếp nhận lẽ thật của ngươi, và cản trở lối vào sự sống của ngươi. Ngươi nên có nhận thức như vậy thì mới đúng.

– Con đường thực hành hướng đến sự thay đổi tâm tính của một người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt

Những thứ tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn này đều không phải là lẽ thật, căn bản không có liên quan gì đến lẽ thật, thậm chí những thứ này trái với lẽ thật và bị Đức Chúa Trời định tội. Chẳng hạn như, nói về tri thức, thì lịch sử có được xem là một hạng mục tri thức không? (Thưa, có.) Lịch sử của nhân loại, lịch sử của quốc gia này, dân tộc kia, cũng như lịch sử hiện đại, lịch sử cổ đại, thậm chí cả dã sử, những thứ sách vở lịch sử và tri thức đó từ đâu mà ra? (Thưa, do con người viết ra.) Vậy những thứ mà con người viết ra có phù hợp với lịch sử thực sự không? Tư tưởng và quan điểm của con người có trái với nguyên tắc, phương thức và phương pháp làm việc của Đức Chúa Trời không? Vậy những lời con người nói này có liên quan gì đến lịch sử thực sự không? (Thưa, không.) Không có liên quan. Do đó, bất kể sách lịch sử ghi chép lại thật đến mấy, thì nó cũng chỉ là tri thức. Bất kể các sử gia ấy có tài ăn nói đến đâu, giảng những sự kiện lịch sử này với lô-gic vững thế nào, nói rõ ràng ra sao, thì nghe xong, cuối cùng ngươi đạt được kết luận gì? (Thưa, sẽ biết những sự kiện đó.) Ngươi sẽ biết những sự kiện đó, nhưng họ giảng lịch sử chỉ để cho ngươi biết những sự kiện đó thôi sao? Họ có một tư tưởng nhất định muốn tiêm nhiễm vào ngươi. Tâm điểm họ muốn tiêm nhiễm là gì, đây là điều mà chúng ta cần phân tích và mổ xẻ. Ta đưa ra một ví dụ thì các ngươi sẽ có thể hiểu được họ muốn tiêm nhiễm cho người khác điều gì. Sau khi xem xét lịch sử tự cổ chí kim, cuối cùng người ta tổng kết ra một câu này, đây cũng là sự thật mà người ta thấy được từ lịch sử của nhân loại: “Thắng làm vua, thua làm giặc”. Đây có phải là tri thức không? (Thưa, phải.) Tri thức này phát xuất từ sự thật lịch sử. Câu này có liên quan gì đến phương thức và phương pháp tể trị vạn vật của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Trên thực tế, nó tương phản, trái ngược và đối chọi với phương thức và phương pháp tể trị vạn vật của Đức Chúa Trời. Vậy họ tiêm nhiễm vào ngươi câu nói này, nếu ngươi không hiểu lẽ thật, hoặc là một người ngoại đạo, thì nghe xong ngươi sẽ nghĩ gì? Ngươi sẽ nhìn nhận câu này như thế nào? Trước hết, những sử gia hoặc sách lịch sử này liệt kê hết mọi sự kiện kiểu này, dùng chứng cứ và sự kiện lịch sử đầy đủ để chứng thực tính đúng đắn của câu này. Ban đầu, có lẽ ngươi chỉ học qua câu này từ một quyển sách, chỉ đơn giản là biết về câu này mà thôi. Khi chưa biết đến những sự kiện này, thì nhận biết của ngươi về câu này chỉ ở một tầng mức và mức độ nào đó, nhưng khi nghe xong những sự thật lịch sử này rồi, thì mức độ công nhận và thừa nhận của ngươi đối với câu này sẽ tăng lên. Ngươi tuyệt đối sẽ không nói: “Có những chuyện đâu giống như vậy”. Thay vào đó, ngươi sẽ nói: “Chuyện là như vậy. Trong lịch sử tự cổ chí kim, nhân loại đã phát triển như vậy, chính là ‘Thắng làm vua, thua làm giặc’!”. Khi nhận biết chuyện đó như vậy rồi, trong lòng ngươi sẽ có quan điểm và thái độ nào đối với việc làm người, sự nghiệp, cuộc sống và những con người, sự việc, sự vật quanh mình? Dạng nhận biết này có thay đổi thái độ của ngươi không? (Thưa, có.) Trước hết là có. Vậy nó thay đổi thế nào? Nó có dẫn dắt, thay đổi phương hướng nhân sinh và phương thức xử thế của ngươi không? Có lẽ trước đây, ngươi cho rằng: “Hòa là quý, nhẫn là cao”, “Người tốt thì sống một đời bình an”, bây giờ thì lại cho rằng: “‘Thắng làm vua, thua làm giặc’. Mình muốn bước vào quan lộ, thì phải suy tính về người này, họ không về phe mình, nên họ có xứng đáng được đề bạt thì mình cũng không đề bạt”. Khi ngươi ngẫm nghĩ như vậy, thái độ của ngươi cũng nhanh chóng thay đổi. Sự thay đổi này từ đâu mà có? Chính là do ngươi tiếp nhận tư tưởng và quan điểm “Thắng làm vua, thua làm giặc” này. Ngươi nghe rất nhiều sự thật rồi thì càng chứng thực tính đúng đắn của dạng quan điểm này trong cuộc sống hiện thực của nhân loại. Ngươi cảm nhận một cách sâu sắc rằng nên đem quan điểm này mà áp dụng vào cách hành động và ứng xử của mình, để mưu cầu cuộc sống và tiền đồ sau này của mình. Có phải dạng tư tưởng và quan điểm này đã thay đổi ngươi rồi không? (Thưa, phải.) Nó thay đổi ngươi, đồng thời cũng làm bại hoại ngươi, chuyện chính là như vậy. Dạng tri thức này thay đổi ngươi, làm bại hoại ngươi rồi, vậy nhìn từ căn nguyên, bất kể những sự kiện lịch sử này nói đúng sự thật đến đâu, thì cuối cùng nó cũng tổng kết ra thành câu này, và tiêm nhiễm vào ngươi tư tưởng này. Tri thức này là hóa thân của lẽ thật hay là lô-gic của Sa-tan? (Thưa, là lô-gic của Sa-tan.) Nói vậy là đúng. Ta nói vậy đã đủ chi tiết chưa? (Thưa, đã đủ chi tiết.) Như vậy là hiểu được rồi. Ngươi mà không tin Đức Chúa Trời thì sống qua hai kiếp cũng không hiểu nổi, ngươi chỉ có thể càng sống càng cảm thấy mình ngốc và không đủ tàn nhẫn, thấy mình nên tàn nhẫn hơn một chút, ma đạo hơn một chút, nham hiểm hơn một chút, xấu xa hơn một chút, ác hơn một chút. Ngươi sẽ nghĩ: “Họ có thể giết người, thì mình phải phóng hỏa. Họ có thể giết một người, thì mình phải giết mười người. Họ giết người không dấu vết, thì mình hại người mà người không biết, còn khiến con cháu ba đời của người ta cảm tạ mình!”. Đây chính là ảnh hưởng mà triết lý, tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn của Sa-tan gây ra cho nhân loại. Trên thực tế, nó chỉ tàn hại và làm bại hoại. Vì vậy, bất kể thế giới này rao giảng và tuyên dương loại tri thức nào, thì đồng thời nó cũng tiêm nhiễm vào ngươi một dạng tư tưởng và quan điểm, nếu ngươi không biết phân định thì sẽ bị đầu độc. Nói tóm lại, hiện tại có một điểm chắc chắn là, bất kể những tri thức này đến từ dân gian hay từ chính quyền, bất kể chúng được thiểu số hay tuyệt đại đa số tôn sùng, thì chúng đều không liên quan đến lẽ thật. Lẽ thật là thực tế của hết thảy mọi điều tích cực, sự đúng đắn của lẽ thật không được quyết định dựa trên việc nó được bao nhiêu người thừa nhận. Thực tế của những điều tích cực này tự bản thân chính là lẽ thật. Chuyện này, ai cũng không thay đổi được, ai cũng không phủ nhận được. Lẽ thật vĩnh viễn là lẽ thật.

– Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 3), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ

Những người thuộc về ma quỷ thì đều sống cho bản thân họ. Nhân sinh quan và những câu cách ngôn của họ chủ yếu đến từ những câu nói của Sa-tan, chẳng hạn như “Người không vì mình, trời tru đất diệt”, “Người chết vì của cải, chim chết vì miếng ăn” và những lời ngụy biện khác như thế. Tất cả những lời nói ra bởi các quỷ vương, các vĩ nhân, và các triết gia đã trở thành chính sự sống của họ. Đặc biệt, hầu hết những lời của Khổng Tử, người mà dân Trung Quốc xem như “nhà hiền triết”, đã trở thành sự sống của con người. Cũng có những châm ngôn nổi tiếng của Phật giáo và Đạo giáo, và những câu nói cửa miệng kinh điển của nhiều nhân vật nổi tiếng khác nhau. Tất cả những thứ này đều là những sự đúc kết các triết lý của Sa-tan và bản tính của Sa-tan. Chúng cũng là sự minh họa và giải thích hay nhất về bản tính Sa-tan. Những thứ độc hại này đã bị tiêm nhiễm vào lòng con người đều đến từ Sa-tan, và không có chút gì đến từ Đức Chúa Trời. Những lời tà ma ấy cũng trực tiếp chống đối lại lời Đức Chúa Trời. Tuyệt đối rõ ràng rằng những hiện thực của tất cả những điều tích cực đều đến từ Đức Chúa Trời, và tất cả những thứ tiêu cực đầu độc con người thì đến từ Sa-tan. Vì lẽ ấy, ngươi có thể phân định bản tính của một người và họ thuộc về ai bằng cách xem xét nhân sinh quan và giá trị quan của họ. Sa-tan làm bại hoại con người qua giáo dục, ảnh hưởng của các chính phủ quốc gia và của những người nổi tiếng cùng các vĩ nhân. Những lời tà ma của họ đã trở thành sự sống và bản tính của con người. “Người không vì mình, trời tru đất diệt” là một châm ngôn nổi tiếng của Sa-tan đã thấm nhuần vào trong mọi người, và điều này đã trở thành sự sống của con người. Có những câu triết lý xử thế khác cũng tương tự như thế. Sa-tan sử dụng nền văn hóa truyền thống của từng quốc gia để giáo dục, mê hoặc và làm bại hoại con người, khiến nhân loại rơi vào và bị nhấn chìm dưới vực sâu không đáy của sự hủy diệt, và cuối cùng con người bị Đức Chúa Trời hủy diệt bởi vì họ phục vụ Sa-tan và chống đối Đức Chúa Trời. Một số người đã làm việc công chức trong xã hội hàng chục năm. Nếu hỏi họ: “Anh đã làm quá tốt vai trò này, anh sống theo những câu châm ngôn nổi tiếng nào vậy?”. Họ có thể nói: “Một điều mà tôi hiểu được là thế này: ‘Quan chức không gây khó dễ cho người mang theo quà, và người không biết bợ đỡ thì không làm được gì’”. Đây là triết lý Sa-tan mà sự nghiệp của họ dựa vào. Chẳng phải những lời này đại diện cho bản tính của những người như vậy sao? Việc không ngần ngại sử dụng mọi phương tiện để đạt được địa vị đã trở thành bản tính của họ, nghiệp quan chức và sự thành công trong sự nghiệp là những mục tiêu của họ. Vẫn có nhiều độc tố Sa-tan trong đời sống, hạnh kiểm và hành vi của người ta. Ví dụ, những triết lý xử thế của họ, cách làm việc của họ, và những câu cách ngôn của họ đều đầy những độc tố của con rồng lớn sắc đỏ, và tất cả những điều này đều đến từ Sa-tan. Do đó, mọi thứ chảy trong xương và máu con người đều là của Sa-tan. Tất cả những quan chức ấy, những kẻ nắm quyền lực, và những kẻ thành đạt đều có con đường và những bí mật thành công của riêng họ. Chẳng phải những bí mật ấy đại diện cho bản tính họ một cách hoàn hảo sao? Họ đã làm những điều to tát như thế trên thế gian, và không ai có thể nhìn thấu những âm mưu và mưu đồ đằng sau chúng. Điều này cho thấy bản tính của họ xảo quyệt và hiểm độc như thế nào. Nhân loại đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc. Nọc độc của Sa-tan chảy trong máu của mỗi người, và có thể nói rằng bản tính con người là bại hoại, tà ác, phản động, đối nghịch với Đức Chúa Trời, đầy dẫy và chìm ngập trong những triết lý và chất độc của Sa-tan. Nó hoàn toàn đã trở thành thực chất bản tính của Sa-tan. Đây là lý do tại sao con người chống đối Đức Chúa Trời và ở trong tình trạng thù địch với Đức Chúa Trời.

– Làm thế nào để biết bản tính con người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt

“Có tiền mua tiên cũng được” là một triết lý của Sa-tan. Nó thịnh hành trong toàn nhân loại, trong mọi xã hội loài người; ngươi có thể nói đó là một xu hướng. Điều này là bởi vì nó đã bị tiêm nhiễm trong lòng của mỗi một con người, những người đã không chấp nhận câu nói này lúc đầu, nhưng rồi ngầm chấp nhận nó khi họ tiếp xúc với cuộc sống thực, và bắt đầu cảm thấy những lời này thực ra là sự thật. Đây chẳng phải là quá trình Sa-tan làm cho con người bại hoại sao? Có lẽ con người không hiểu câu nói này ở cùng một mức độ như nhau, nhưng mọi người đều có mức độ diễn giải và thừa nhận khác nhau về câu nói này dựa trên những gì đã xảy ra xung quanh họ và các kinh nghiệm cá nhân của họ. Chẳng đúng vậy sao? Bất kể ai đó có bao nhiêu kinh nghiệm với câu nói này, nó có thể có ảnh hưởng tiêu cực gì đến lòng họ? Một điều gì đó được tỏ lộ qua tâm tính con người của mọi người trên thế giới này, bao gồm mỗi một người trong các ngươi. Đó là gì? Nó là sự tôn thờ tiền bạc. Có khó để loại điều này ra khỏi lòng của ai đó không? Điều đó rất là khó! Dường như việc làm cho con người bại hoại của Sa-tan đã thực sự sâu sắc! Sa-tan lợi dụng đồng tiền để cám dỗ con người, và làm họ bại hoại tôn thờ đồng tiền cũng như tôn sùng những thứ vật chất. Và sự tôn sùng đồng tiền được biểu hiện nơi người ta như thế nào? Các ngươi có cảm thấy rằng mình không thể tồn tại trong thế giới này mà không có đồng nào, rằng thậm chí một ngày không có tiền sẽ là một điều không thể? Con người có bao nhiêu tiền thì địa vị cao bấy nhiêu, có bao nhiêu tiền thì cao quý bấy nhiêu. Người nghèo thì cúi gập người trong sự hổ thẹn, trong khi người giàu tận hưởng địa vị cao sang của mình. Họ đứng thẳng và kiêu hãnh, nói lớn tiếng và sống kiêu ngạo. Câu nói và xu hướng này mang lại cho con người điều gì? Chẳng phải sự thật là nhiều người hy sinh mọi thứ để theo đuổi tiền bạc sao? Chẳng phải nhiều người đã đánh mất tôn nghiêm và nhân cách khi theo đuổi nhiều tiền bạc hơn sao? Chẳng phải nhiều người vì đồng tiền mà đánh mất cơ hội để thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải sự đánh mất cơ hội đạt được lẽ thật và được cứu rỗi là sự mất mát lớn nhất trong tất cả đối với con người sao? Chẳng phải Sa-tan nham hiểm khi sử dụng cách thức này và câu nói này để làm cho con người bại hoại đến mức như thế sao? Đây chẳng phải là một chiêu hiểm độc sao? Khi ngươi đi từ việc phản đối câu nói phổ biến này đến việc cuối cùng chấp nhận nó là lẽ thật, thì lòng ngươi đã hoàn toàn rơi vào tay Sa-tan, và do đó ngươi vô tình sống theo câu nói đó. Câu nói này ảnh hưởng đến ngươi ở mức độ nào? Ngươi có thể biết con đường thật, và ngươi có thể biết lẽ thật, nhưng ngươi bất lực để theo đuổi nó. Ngươi có thể biết rõ rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nhưng ngươi không sẵn sàng trả giá hay chịu khổ để đạt được lẽ thật. Thay vào đó, ngươi thà hy sinh tương lai và số phận của chính mình để chống đối Đức Chúa Trời cho đến tận cùng. Bất kể Đức Chúa Trời có phán gì, bất kể Đức Chúa Trời có làm gì, bất kể ngươi có hiểu được tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho ngươi sâu sắc và vĩ đại thế nào hay không, thì ngươi cũng sẽ cứng đầu khăng khăng làm theo cách riêng của mình và trả giá cho câu nói này. Nói vậy nghĩa là, câu nói này đã mê hoặc và kiểm soát những suy nghĩ của ngươi, nó đã khống chế hành vi của ngươi và ngươi thà để nó thống trị số phận của mình hơn là gạt bỏ việc theo đuổi sự giàu có. Việc mọi người có thể hành động như vậy, việc họ có thể bị điều khiển và thao túng bởi những lời của Sa-tan – chẳng phải điều này có nghĩa là họ đã bị Sa-tan mê hoặc và làm bại hoại sao? Chẳng phải triết lý và tư tưởng của Sa-tan, và tâm tính của Sa-tan, đã bám rễ trong lòng ngươi sao? Khi ngươi mù quáng theo đuổi sự giàu có và từ bỏ việc theo đuổi lẽ thật, chẳng phải Sa-tan đã đạt được mục đích của hắn là mê hoặc ngươi sao? Chính xác là như thế. Vậy ngươi có thể cảm nhận được khi ngươi bị Sa-tan mê hoặc và làm bại hoại không? Ngươi không thể. Nếu ngươi không thể thấy Sa-tan đứng ngay trước mặt mình, hoặc cảm thấy rằng Sa-tan đang hành động trong bóng tối, thì liệu ngươi có thể nhìn thấy sự đồi bại của Sa-tan không? Ngươi có thể biết Sa-tan làm bại hoại nhân loại như thế nào không? Sa-tan làm cho con người bại hoại mọi lúc và mọi nơi. Sa-tan khiến con người không thể chống lại sự bại hoại này và khiến con người bất lực trước nó. Sa-tan khiến ngươi chấp nhận những tư tưởng, quan điểm của nó và những điều tà ác đến từ nó trong những tình huống mà ngươi không hề hay biết và khi ngươi không nhận ra được điều gì đang xảy đến với ngươi. Con người chấp nhận những điều này và không có ngoại lệ đối với chúng. Họ nâng niu và gìn giữ những điều này như là một báu vật, họ để những điều này thao túng và đùa giỡn với họ; đây là cách mà người ta sống dưới quyền lực của Sa-tan, và thuận phục Sa-tan một cách vô thức, và sự bại hoại mà Sa-tan gây cho con người ngày càng trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.

– Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất V, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời

Có một vài người còn tin rằng câu “Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng” là thực dụng và đúng đắn, những người như vậy thì có biết phân định không? Họ có hiểu lẽ thật không? Chẳng phải tư tưởng và quan điểm của dạng người như vậy có vấn đề sao? Nếu trong hội thánh mà có người lan truyền câu này, thì nghĩa là họ có ý định, là họ đang mê hoặc người ta, họ dùng câu “Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng” để đập tan những băn khoăn, chất vấn của người khác đối với họ. Ngụ ý có phải là họ muốn người ta tin rằng họ có thể làm công tác và là người có thể dùng được? Có phải ý định và mục đích của họ là vậy không? Chắc chắn là vậy. Trong lòng họ nghĩ: “Các anh lúc nào cũng không tin tôi, luôn hoài nghi tôi, ai biết lúc nào các anh phát hiện ra tôi có chút vấn đề và cách chức tôi? Trong lòng tôi không an tâm thì làm sao mà làm công tác chứ?”. Do đó, họ lan truyền quan điểm này là để khiến nhà Đức Chúa Trời tin tưởng họ, không hoài nghi họ, cho họ tự do làm việc, vậy là họ sẽ đạt được mục đích của mình. Nếu thực sự là người mưu cầu lẽ thật, thấy nhà Đức Chúa Trời giám sát công tác của mình, thì họ nên có cách tiếp cận đúng đắn, biết đó là sự bảo vệ dành cho mình, lại càng thêm có trách nhiệm với công tác của nhà Đức Chúa Trời. Mặc dù họ cũng có bộc lộ sự bại hoại, nhưng họ có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời dò xét mình, bảo vệ mình, hoặc tuyên thề với Đức Chúa Trời rằng nếu họ có hành ác thì sẽ nguyện ý tiếp nhận sự trừng phạt của Đức Chúa Trời, như vậy lòng họ chẳng được thanh thản à? Tại sao họ lại muốn lan truyền một loại luận điệu sai trái để mê hoặc người khác, để đạt được mục đích của mình? Có một vài lãnh đạo và người làm công luôn có thái độ chống đối sự giám sát của dân được Đức Chúa Trời chọn và chống đối việc các lãnh đạo cấp trên hỏi thăm tình hình, những người này nghĩ gì? “‘Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng’. Các anh luôn giám sát tôi là có ý gì đây? Các anh không tin tôi thì còn dùng tôi làm gì?”. Nếu hỏi thăm họ về tình hình công việc, nghe ngóng tiến độ công tác, rồi hỏi về tình trạng cá nhân của họ, thì họ lại càng có ý nghĩ: “Công tác này đã giao cho tôi thì nó là phạm vi quyền lực của tôi. Tại sao các anh cứ nhúng tay vào công tác của tôi vậy?”. Ngoài miệng thì không dám nói thẳng ra, nhưng họ lại nói bóng nói gió rằng: “Tục ngữ nói rất hay, ‘Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng’, sao mấy người lại đa nghi vậy?”. Họ sẽ lên án và chụp mũ ngươi. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật, không biết phân định, thì sẽ thế nào? Ngươi nghe họ nói xong thì bảo: “Tôi đa nghi sao? Vậy thì tôi sai rồi, tôi giả dối! Anh nói đúng lắm, ‘Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng’”. Vậy chẳng phải ngươi bị mê hoặc rồi sao? Câu “Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng” này có hợp lẽ thật không? Nó là lời nói nhảm! Những kẻ tà ác này nham hiểm và giả dối, xem tục ngữ là lẽ thật để mê hoặc những người hồ đồ này, kết quả là những người hồ đồ này vừa nghe là liền thật sự bị mê hoặc, nghe xong là bị bịt mắt, nghĩ trong bụng rằng: “Có khi là vậy thật. Mình xử tệ với người ta rồi. Ai cũng nói ‘Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng’, sao mình lại không tin tưởng anh ấy? Không thể làm công tác kiểu này được. Mình phải khích lệ anh ấy, không được nghe ngóng chuyện về công tác của anh ấy. Mình đã dùng anh ấy thì phải tin tưởng anh ấy, phải buông tay để anh ấy làm, không được kìm kẹp anh ấy, mà phải cho anh ấy không gian để thi triển năng lực. Cho dù anh ấy không có năng lực, thì cũng có Đức Thánh Linh công tác rồi!”. Đây là lý lẽ gì vậy? Có câu nào hợp lẽ thật không? (Thưa, không.) Những lời này đều nghe có vẻ đúng, “Không được kìm kẹp người ta”, “Người ta làm không được thì đã có Đức Thánh Linh công tác, Đức Thánh Linh dò xét hết thảy, chúng ta không cần nghi ngờ vì có Đức Chúa Trời phụ trách hết mà”, thực ra những lời này là gì? Người nói ra những lời này chẳng phải là kẻ hồ đồ sao? Một chút chuyện như vậy mà họ nhìn cũng không thấu, họ bị một câu đó mê hoặc mất rồi. Có thể nói rằng hầu hết mọi người đều xem câu “Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng” là lẽ thật, đều bị câu này mê hoặc và ràng buộc. Trong việc chọn người và dùng người, họ bị nó gây nhiễu loạn và ảnh hưởng, thậm chí còn bị nó chi phối. Kết quả là, nhiều lãnh đạo và người làm công luôn gặp khó khăn và nghi ngại mỗi khi tìm hiểu về công tác của hội thánh và đề bạt và chọn dùng người. Cuối cùng, họ chỉ có thể tự an ủi mình bằng câu “Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng”. Mỗi khi kiểm tra hoặc hỏi thăm về công tác, họ nghĩ bụng: “‘Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng’. Mình nên tin tưởng các anh chị em, và xét cho cùng còn có Đức Thánh Linh dò xét mà, vì vậy mình không nên luôn hoài nghi và giám sát người khác”. Họ đã bị ảnh hưởng bởi câu này, phải không? Bị câu này ảnh hưởng thì sẽ gánh chịu những hậu quả gì? Thứ nhất, trong lòng ngươi tồn tại quan điểm “Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng”, thì ngươi có kiểm tra, chỉ đạo công tác của người khác không? Ngươi có giám sát, theo dõi tiến độ công tác của người khác không? Nếu ngươi dùng ai cũng tin, không kiểm tra, chỉ đạo hay giám sát, thì như vậy có phải là làm bổn phận một cách trung thành không? Có thể làm tốt công tác của hội thánh không? Có thể hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời không? Có trung thành với sự ủy thác của Đức Chúa Trời không? Thứ hai, đây không những là không tuân giữ lời Đức Chúa Trời và bổn phận của ngươi, mà còn là xem các triết lý xử thế, các âm mưu và quỷ kế của Sa-tan như lẽ thật để tuân thủ và thực hành. Như vậy không phải là ngươi đang thuận theo Sa-tan và sống theo triết lý của Sa-tan sao? Ngươi không phải là người vâng phục Đức Chúa Trời, càng không phải là người tuân thủ lời Đức Chúa Trời, ngươi hoàn toàn là một kẻ vô lại. Gạt lời Đức Chúa Trời sang một bên, thay vào đó lấy lời của Sa-tan mà thực hành nó như lẽ thật, đây là phản bội lẽ thật và Đức Chúa Trời! Ngươi làm công tác trong nhà Đức Chúa Trời, nhưng nguyên tắc hành động của ngươi lại là triết lý xử thế và lô-gic của Sa-tan, như vậy thì là loại người gì? Đây là loại người phản bội Đức Chúa Trời, là người làm ô danh Đức Chúa Trời nghiêm trọng. Tính chất của chuyện này là gì? Đây là công khai lên án Đức Chúa Trời và công khai phủ nhận lẽ thật. Chẳng phải tính chất của nó là vậy sao? (Thưa, phải.) Ngoài việc không tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, ngươi còn để cho những lời của quỷ và triết lý xử thế của Sa-tan tràn lan trong hội thánh. Khi làm điều này, ngươi trở thành đồng lõa của Sa-tan và hỗ trợ cho Sa-tan hành động trong hội thánh. Tính chất của vấn đề có phải rất nghiêm trọng không?

– Bài bàn thêm 1: Lẽ thật là gì, Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ

Vậy không bao giờ bỏ cuộc rốt cuộc nghĩa là gì? Nghĩa là sau khi thất bại, sau khi gặp trắc trở, sau khi đi sai đường, thì không thừa nhận, mà cứ ngoan cường tiếp tục kiên trì, thất bại xong vẫn không nản lòng, không thừa nhận sai lầm. Cho dù bị bao nhiêu người chỉ trích và lên án, họ cũng không chịu quay đầu, mà muốn tiếp tục phấn đấu, nỗ lực và mưu cầu theo phương hướng và mục tiêu của bản thân, trả cái giá nào cũng được. Đó là dạng tinh thần như vậy. Có phải dạng tinh thần này cũng có tác dụng cổ vũ con người rất lớn không? Không bao giờ bỏ cuộc thường được dùng trong trường hợp nào? Nó được dùng trong đủ mọi trường hợp. Chỉ cần nơi nào có nhân loại bại hoại thì nơi đó có câu này, có dạng tinh thần này. Vậy nhân loại thuộc về Sa-tan nghĩ ra câu này vì mục đích gì? Chính là để khiến con người vĩnh viễn không muốn nhận thức bản thân, không muốn nhận thức sai lầm của bản thân, không muốn chỉ nhìn thấy mặt yếu ớt, nhu nhược và bất lực của mình, mà thay vào đó muốn nhìn thấy mặt đầy năng lực của mình, mặt vĩ đại và dũng mãnh của mình, không muốn đánh giá thấp về mình, mà phải cho rằng bản thân mình ổn. Kiểu như, ngươi cho rằng bản thân mình ổn thì sẽ ổn, ngươi cho rằng bản thân có thể chiến thắng, sẽ không thất bại, có thể trở thành người đứng trên thiên hạ, thì ngươi sẽ thành như vậy, chỉ cần ngươi có quyết tâm đó, ý chí đó, dã tâm và dục vọng đó, thì đều có thể đạt được, con người đâu có nhỏ bé, con người vĩ đại mà. Người ngoại đạo có câu này: “Lòng ta lớn chừng nào thì vũ đài cho ta lớn chừng đó”. Có những người vừa nghe câu này thì thích vô cùng, họ nói: “Ái chà, mình muốn chiếc nhẫn kim cương mười ca-ra, vậy nó có xuất hiện không? Mình muốn có chiếc xe Mercedes, vậy nó có xuất hiện không?”. Trong lòng nghĩ lớn như vậy thì có đạt được không? (Thưa, không.) Lời này là luận điệu sai trái. Nói thẳng ra, người nào tin và thừa nhận câu “không bao giờ bỏ cuộc” thì là người ngông cuồng vô độ. Họ nghĩ như vậy thì hoàn toàn tương phản với lời nào của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời bảo con người nhận thức bản thân, làm người một cách thực tế. Con người có tâm tính bại hoại, có khiếm khuyết, có tâm tính chống đối Đức Chúa Trời, trên đời làm gì có người hoàn hảo, không một người nào hoàn hảo cả, hết thảy đều là người bình thường mà thôi. Đức Chúa Trời khuyên con người nên làm người như thế nào? (Thưa, thật thà mà làm người.) Thật thà mà làm người, giữ vững vị trí loài thọ tạo một cách thực tế. Đức Chúa Trời có bảo con người đừng bao giờ bỏ cuộc không? (Thưa, không.) Không có. Vậy Đức Chúa Trời nói gì về chuyện con người đi sai đường và bộc lộ tâm tính bại hoại? (Thưa, Ngài bảo hãy thừa nhận và tiếp nhận.) Tiếp nhận, thừa nhận, rồi nhận thức, có thể xoay chuyển, đạt đến thực hành lẽ thật. Còn không bao giờ bỏ cuộc thì chính là không nhận thức vấn đề của mình, không nhận thức cũng không tiếp nhận sai lầm của mình, thay vào đó có chết cũng không chịu quay đầu, không chịu hối cải, càng không chịu tiếp nhận sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Họ không tìm kiếm xem số phận của con người rốt cuộc là gì hay Đức Chúa Trời sắp đặt và an bài như thế nào, họ chẳng những không tìm kiếm, mà còn muốn nắm giữ số phận trong tay mình, muốn tự mình định đoạt. Ngoài ra, Đức Chúa Trời khiến con người nhận thức bản thân, đánh giá và nhận xét bản thân cho chuẩn xác, bản thân có thể làm được gì thì thật thà mà làm cho tốt, hết lòng, hết linh hồn, hết trí mà làm cho tốt. Trong khi đó, Sa-tan thì khiến con người lợi dụng hết mức tâm tính kiêu ngạo của họ, giải phóng tâm tính kiêu ngạo của họ, khiến con người làm siêu nhân, vĩ nhân, thậm chí là làm người có dị năng, nó khiến con người làm những việc mà con người không làm được. Do đó, triết lý của Sa-tan là gì? Chính là dù ngươi có sai thì cũng không tính là sai, chỉ cần ngươi có tinh thần không chịu phục, không bao giờ bỏ cuộc, thì sớm muộn cũng đến ngày ngươi trở thành người đứng trên thiên hạ, sớm muộn cũng có ngày nguyện vọng và mục tiêu của ngươi thành hiện thực. Vậy trong cái không bao giờ bỏ cuộc này có ý không từ thủ đoạn nào hay không? Để đạt đến mục tiêu của mình, ngươi không được thừa nhận mình có thể thất bại, không được tin mình là người bình thường, không được tin mình có thể đi sai đường, ngoài ra còn phải dùng đủ mọi phương thức và âm mưu, không từ thủ đoạn nào, để hiện thực hóa dã tâm và dục vọng của bản thân. Trong cái không bao giờ bỏ cuộc này có thái độ chờ đợi và thuận phục đối với số phận không? (Thưa, không.) Không có, con người muốn hoàn toàn nắm số phận trong tay mình, muốn chính mình làm chủ số phận mình, cho dù sau này đi theo hướng nào, được hưởng phúc hay là cuộc sống như thế nào, thì đều do chính bản thân mình định đoạt.

– Bài bàn thêm 1: Lẽ thật là gì, Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ

“Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”, cũng như câu nói “Nhặt được của rơi đừng tham bỏ túi” và “Lấy việc giúp người làm niềm vui” là một trong những yêu cầu mà văn hóa truyền thống đặt ra cho đức hạnh của con người. Tương tự như vậy, bất kể ai đó có thể đạt được hoặc rèn luyện đức hạnh này hay không, thì đó vẫn không phải là tiêu chuẩn hay chuẩn mực để đo lường nhân tính của họ. Có thể là ngươi thực sự có khả năng nghiêm khắc với mình và khoan dung với người, và ngươi đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt cao cho mình. Ngươi có thể hoàn toàn trong sạch và ngươi có thể luôn nghĩ cho người khác và thể hiện sự quan tâm đến họ, không ích kỷ và tìm kiếm tư lợi. Ngươi có thể có vẻ đặc biệt cao thượng, vị tha, và có ý thức mạnh mẽ về trách nhiệm xã hội cũng như đạo đức xã hội. Nhân cách và những phẩm chất cao quý của ngươi có thể biểu lộ với những người thân thiết và với những người ngươi gặp gỡ, tiếp xúc. Hành vi của ngươi có thể không bao giờ có điểm nào để bị chê trách hay phê phán, thay vào đó nhận được vô số lời khen ngợi và thậm chí cả sự ngưỡng mộ. Người ta có thể coi ngươi là người thực sự nghiêm khắc với mình và khoan dung với người. Tuy nhiên, những điều này không gì khác hơn là hành vi bên ngoài. Những suy nghĩ và mong muốn trong sâu thẳm lòng ngươi có nhất quán với những hành vi bên ngoài này, với những hành động ngươi thể hiện ra bên ngoài không? Câu trả lời là không, chúng không nhất quán. Lý do ngươi có thể hành động theo cách này chính là có một động cơ đằng sau. Chính xác thì đó là động cơ gì? Ngươi có thể chịu để cho động cơ đó phơi bày ra ánh sáng không? Chắc chắn là không. Điều này chứng tỏ động cơ này là một điều gì đó không thể nói ra, một điều gì đó đen tối và xấu xa. Bây giờ, tại sao động cơ này lại không thể nói ra và xấu xa? Đó là bởi vì nhân tính của con người bị chi phối và điều khiển bởi những tâm tính bại hoại của họ. Không thể phủ nhận rằng tất cả những suy nghĩ của nhân tính, bất kể con người nói ra hay bộc lộ ra, đều bị chi phối, điều khiển và thao túng bởi những tâm tính bại hoại của họ. Kết quả là những động cơ và ý định của mọi người đều nham hiểm và xấu xa. Bất kể con người có thể nghiêm khắc với mình và khoan dung với người hay không, hoặc họ có thể hiện đức hạnh này ra bên ngoài một cách hoàn hảo hay không, thì điều tất yếu là đức hạnh này sẽ không thể kiểm soát hoặc ảnh hưởng đến nhân tính của họ. Vậy cái gì điều khiển nhân tính của con người? Đó là những tâm tính bại hoại của họ, đó là thực chất nhân tính của họ bị che khuất dưới đức hạnh “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” – đó chính là chân tướng thực sự của họ. Chân tướng thực sự của một người là thực chất nhân tính của họ. Và thực chất nhân tính của họ bao gồm những gì? Nó chủ yếu bao gồm sở thích của họ, điều họ mưu cầu, nhân sinh quan và giá trị quan của họ, cũng như thái độ của họ đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời, v.v. Chỉ những điều này mới thực sự đại diện cho thực chất nhân tính của con người. Có thể nói chắc rằng hầu hết những người đòi hỏi bản thân phải thực hiện đức hạnh “nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” đều bị địa vị ám ảnh. Bị thúc đẩy bởi những tâm tính bại hoại, họ không thể không mưu cầu thanh thế giữa mọi người, sự nổi bật trong xã hội và địa vị trong mắt người khác. Tất cả những điều này đều liên quan đến ham muốn địa vị của họ, và được mưu cầu dưới vỏ bọc đức hạnh tốt của họ. Và những sự mưu cầu này của họ xuất phát từ đâu? Chúng hoàn toàn xuất phát và bị thúc đẩy bởi những tâm tính bại hoại của họ. Cho nên, dù thế nào đi nữa, dù một người có thực hiện đức hạnh “nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” hay không, và họ có làm như thế đến mức hoàn hảo hay không, thì cũng hoàn toàn không thể thay đổi được thực chất nhân tính của họ. Ý là nó không thể nào thay đổi được nhân sinh quan hoặc giá trị quan của họ, hay định hướng cho thái độ và quan điểm của họ đối với mọi kiểu người, sự việc và sự vật. Không phải vậy sao? (Thưa, phải.) Ai càng có khả năng nghiêm khắc với mình và khoan dung với người, thì càng giỏi diễn, giỏi ngụy trang bản thân và giỏi mê hoặc người khác bằng hành vi tốt cùng những lời dễ chịu, và càng là người giả dối, tà ác về bản chất. Họ càng là kiểu người này, thì tình yêu, sự theo đuổi địa vị và quyền lực của họ trở nên càng sâu. Dù đức hạnh bên ngoài của họ có vẻ vĩ đại, vẻ vang và đúng đắn và dù mọi người thấy chúng vừa mắt đến đâu, thì sự mưu cầu không nói ra nằm trong sâu thẳm lòng họ, cũng như thực chất bản tính của họ, thậm chí cả những tham vọng của họ cũng có thể bộc phát từ họ bất cứ lúc nào. Do đó, dù đức hạnh của họ tốt đến đâu, nó cũng không thể che giấu thực chất nhân tính bên trong họ, hay những tham vọng và ham muốn của họ. Nó không thể che giấu được thực chất bản tính ghê tởm của họ là không yêu những điều tích cực, chán ghét và thù hận lẽ thật. Những thực tế này cho thấy, câu nói “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” không chỉ vô lý – nó vạch trần những loại người tham vọng cố gắng sử dụng những câu nói và hành vi như vậy để che đậy tham vọng và ham muốn không thể nói ra của mình. Các ngươi có thể so sánh loại người này với một số kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác trong hội thánh. Để củng cố địa vị và quyền lực của mình trong hội thánh, và để có được danh tiếng tốt hơn giữa các thành viên khác, họ có thể chịu khổ và trả giá trong khi thực hiện bổn phận của mình, thậm chí họ có thể từ bỏ công việc và gia đình mình, bán hết mọi thứ họ có để dâng mình cho Đức Chúa Trời. Trong một số trường hợp, cái giá họ trả và sự đau khổ họ trải qua khi dâng mình cho Đức Chúa Trời vượt quá mức một người bình thường có thể chịu đựng được; họ có thể thể hiện tinh thần chối bỏ bản thân tột cùng để duy trì địa vị của mình. Tuy nhiên, bất kể họ chịu khổ hay trả giá bao nhiêu đi chăng nữa, thì cũng không ai trong số họ bảo vệ chứng ngôn cho Đức Chúa Trời hay lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cũng không ai thực hành theo lời Đức Chúa Trời. Mục đích họ theo đuổi chỉ là để đạt được địa vị, quyền lực và phần thưởng của Đức Chúa Trời. Mọi việc họ làm đều không có một chút liên quan nào đến lẽ thật. Bất kể họ nghiêm khắc với mình như thế nào và khoan dung với người ra sao, kết cục cuối cùng của họ sẽ là gì? Đức Chúa Trời sẽ nghĩ gì về họ? Liệu Ngài có quyết định kết cục của họ dựa trên những hành vi tốt đẹp bên ngoài họ sống thể hiện ra không? Chắc chắn là không. Mọi người nhìn nhận và đánh giá người khác dựa trên những hành vi và biểu hiện này, và bởi vì họ không thể nhìn thấu thực chất của người khác, nên cuối cùng họ bị người khác lừa dối. Nhưng con người không bao giờ lừa dối được Đức Chúa Trời. Ngài tuyệt đối sẽ không khen ngợi và ghi nhớ đức hạnh của con người vì họ có thể nghiêm khắc với mình và khoan dung với người. Thay vào đó, Ngài sẽ lên án họ vì tham vọng của họ và con đường họ đã đi để mưu cầu địa vị. Vì vậy, người mưu cầu lẽ thật nên phân định được tiêu chí đánh giá con người này. Họ nên triệt để phủ nhận và từ bỏ tiêu chuẩn phi lý này, và phân định con người theo lời Đức Chúa Trời cùng các nguyên tắc lẽ thật. Họ nên chủ yếu xem xét liệu người ta có yêu những điều tích cực hay không, liệu họ có khả năng chấp nhận lẽ thật hay không, và liệu họ có thể quy phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời hay không, cũng như xem xét con đường họ chọn và bước đi, và phân loại họ là loại người nào, họ có kiểu nhân tính nào dựa trên những điều này. Rất dễ phạm sai lầm và lệch lạc khi đánh giá người khác dựa trên tiêu chuẩn “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”. Nếu ngươi phân định và nhìn nhận sai lầm về một người dựa trên các nguyên tắc và câu nói đến từ con người, thì ngươi sẽ đang vi phạm lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời trong vấn đề đó. Tại sao lại thế? Lý do là cơ sở cho việc nhìn người của ngươi sẽ là sai và không tương hợp với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật – thậm chí có thể đối lập và trái ngược với chúng. Đức Chúa Trời không đánh giá nhân tính của con người dựa trên câu nói về đức hạnh: “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”, vì vậy nếu ngươi vẫn cứ khăng khăng đánh giá đạo đức của mọi người và xác định họ là loại người nào theo tiêu chí này, thì ngươi đã hoàn toàn vi phạm các nguyên tắc lẽ thật, và ngươi chắc chắn sẽ mắc lỗi cũng như gây ra một số sai lầm và lệch lạc. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, đúng vậy.)

– Mưu cầu lẽ thật là gì (6), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Có một giáo lý trong triết lý sống nói rằng: “Thấy lỗi của bạn chớ nói gì thì tình bạn trường tồn tốt đẹp”. Nghĩa là để giữ gìn một mối quan hệ thân thiện, người ta phải giữ im lặng về các vấn đề của bạn mình, ngay cả khi thấy rõ những vấn đề đó – rằng họ nên tuân thủ nguyên tắc không đánh vào mặt hay vạch khuyết điểm. Họ phải lừa dối nhau, giấu giếm nhau, âm mưu với nhau; và dù biết rất rõ người kia là loại người như thế nào, nhưng cũng không nói thẳng ra mà dùng các phương kế mưu chước để duy trì mối quan hệ thân thiện. Tại sao người ta muốn duy trì các mối quan hệ như vậy? Đó là vì họ không muốn gây thù chuốc oán trong xã hội này, trong đội nhóm của mình, để rồi thường xuyên đặt mình vào những tình huống nguy hiểm. Biết rằng có người sẽ trở thành kẻ thù và làm hại mình sau khi mình vạch ra những khuyết điểm của họ hay làm tổn thương họ, và không muốn đặt mình vào tình huống như vậy, ngươi áp dụng giáo lý trong triết lý sống sau: “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm”. Theo triết lý này, nếu hai người có mối quan hệ như vậy, họ có được coi là bạn bè thực sự không? (Không.) Họ không phải là là bạn bè thực sự, càng không phải là tri kỷ của nhau. Vậy chính xác thì đây là loại quan hệ gì? Chẳng phải đây là một mối quan hệ xã hội cơ bản sao? (Đúng vậy.) Trong những mối quan hệ xã hội như vậy, con người không thể bày tỏ cảm xúc của mình, không thể trao đổi sâu sắc, cũng không thể nói chuyện thoải mái. Họ không thể nói ra những điều trong lòng mình, hay những vấn đề nhìn thấy ở đối phương, hoặc những lời có lợi cho đối phương. Thay vào đó, họ chọn nói những điều tốt đẹp để giữ thiện cảm của người kia. Họ không dám nói lên sự thật hay tuân theo các nguyên tắc, vì sợ rằng điều đó sẽ làm người khác nảy sinh thù hận với họ. Khi không bị ai đe dọa, chẳng phải người đó sống tương đối thoải mái và bình yên sao? Đây chẳng phải là mục đích của con người khi cổ động câu nói: “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” sao? (Đúng vậy.) Rõ ràng, đây là một cách tồn tại mưu chước, dối trá có yếu tố phòng thủ, với mục tiêu là tự bảo vệ bản thân. Những người sống như vậy không có bạn tri kỷ, không có bạn thân để có thể nói năng thoải mái. Họ phòng thủ với nhau, lợi dụng và mưu mô, mỗi người cần gì thì lấy nấy từ mối quan hệ. Chẳng phải là như vậy sao? Về gốc rễ, mục tiêu của câu “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” là để tránh làm mất lòng người khác và tránh gây thù chuốc oán, không hại ai để tự bảo vệ mình. Đó là một kỹ xảo và phương pháp người ta áp dụng để tránh cho bản thân mình khỏi bị tổn hại. Nhìn vào một vài khía cạnh này trong thực chất của nó, yêu cầu về luân lý đạo đức của con người trong câu “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” có phải là yêu cầu cao cả không? Có phải là yêu cầu tích cực không? (Không phải.) Thế thì nó dạy con người ta điều gì? Rằng ngươi không được làm phật lòng hay làm tổn thương bất kỳ ai, nếu không, cuối cùng ngươi mới là người bị tổn thương; và ngoài ra, ngươi không nên tin tưởng bất kỳ ai. Nếu ngươi làm tổn thương bất kỳ người bạn tốt nào của mình, tình bạn sẽ âm thầm bắt đầu thay đổi: họ sẽ từ một người bạn tốt, thân thiết của ngươi trở thành một người xa lạ hoặc kẻ thù. Nó có thể giải quyết được những vấn đề gì khi dạy con người hành động như vậy? Ngay cả khi hành động theo cách này, ngươi không tạo ra kẻ thù và thậm chí bớt vài kẻ thù, thì liệu điều này có khiến mọi người ngưỡng mộ và tán thành ngươi, cũng như luôn coi ngươi làm bạn không? Điều này có hoàn toàn đáp ứng tiêu chuẩn về luân lý đạo đức không? Cùng lắm thì đây không hơn gì một triết lý sống. Liệu tuân theo câu nói và thực hành này có thể được coi là có luân lý đạo đức tốt không? Hoàn toàn không. Đây là cách một số bậc cha mẹ giáo dục con cái. Nếu con cái họ bị đánh khi đi chơi đâu đó, họ nói với đứa trẻ rằng: “Con thật chết nhát. Sao không đánh lại? Nó đấm mình, thì mình đá lại nó!”. Đây có phải là cách đúng không? (Không phải.) Đây gọi là gì? Gọi là xúi giục. Mục đích của xúi giục là gì? Để tránh thiệt hại và lợi dụng người khác. Nếu có người đánh ngươi, cùng lắm là đau mấy ngày; nếu sau đó ngươi đá họ, chẳng phải sẽ có hậu quả nghiêm trọng hơn sao? Và ai đã gây ra điều này? (Các bậc cha mẹ, bằng sự xúi giục của họ.) Vậy tính chất của câu nói “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” chẳng phải có phần giống như vậy sao? Hành xử theo câu này có đúng không? (Không.) Không đúng. Nhìn từ góc độ này, chẳng phải đây là một cách xúi giục người ta sao? (Dạ, đúng vậy.) Nó có dạy con người trở nên khôn ngoan khi tương tác với người khác, để có thể phân biệt mọi người, nhìn nhận con người và sự vật một cách đúng đắn, cũng như tương tác với mọi người một cách khôn ngoan không? Nó có dạy ngươi rằng nếu gặp người tốt, người có nhân tính, thì nên đối xử chân thành với họ, giúp đỡ họ nếu có thể, còn nếu không thể, thì nên bao dung và đối xử đúng mực với họ, học cách bỏ qua những thiếu sót của họ, chịu đựng những hiểu lầm và phán xét của họ về mình, đồng thời học hỏi từ những ưu điểm và tố chất tốt đẹp của họ không? Đó có phải là những gì nó dạy con người không? (Không.) Thế rốt cuộc câu nói này dạy người ta điều gì? Nó khiến người ta trung thực hơn, hay giả dối hơn? Nó khiến con người trở nên giả dối hơn; lòng người ngày càng xa cách, khoảng cách giữa người với người rộng hơn, mối quan hệ của con người trở nên phức tạp; tương đương với sự phức tạp trong các mối quan hệ xã hội của con người. Sự giao tiếp chân tình giữa con người bị mất đi và nảy sinh tư duy đề phòng lẫn nhau. Theo cách này, mối quan hệ của con người còn có thể bình thường được không? Bầu không khí xã hội có được cải thiện không? (Không.) Vì vậy, đó là lý do tại sao câu “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” rõ ràng là sai. Dạy người ta làm điều này không thể khiến họ sống thể hiện ra nhân tính bình thường; hơn nữa, nó không thể khiến người ta trở nên thẳng thắn, chính trực, hay thật thà. Nó hoàn toàn không thể mang lại bất cứ điều gì tích cực.

Câu “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” đề cập đến hai hành động: một là hành động đánh, hai là vạch mặt. Trong giao tiếp bình thường giữa người với người, đánh người là đúng hay sai? (Sai.) Đánh người có phải là biểu hiện và hành vi của nhân tính bình thường trong tương tác giữa người với người không? (Không phải.) Đánh người chắc chắn là sai, dù đánh vào mặt hay vào chỗ khác. Vì vậy, câu nói “Đánh người chớ đánh vào mặt” vốn dĩ đã sai. Theo câu này, rõ ràng đánh vào mặt người khác là không đúng, nhưng đánh vào chỗ khác lại là đúng, bởi vì sau khi bị đánh, mặt sẽ tấy đỏ, sưng lên và bị thương. Điều này khiến người đó trông xấu xí và khó coi, đồng thời cũng cho thấy ngươi đối xử với mọi người rất thô lỗ, thiếu tế nhị và không cao thượng. Vậy đánh người ở chỗ khác thì có cao thượng không? Không – cũng không cao thượng. Trên thực tế, trọng tâm của câu này không phải là đánh ai ở đâu, mà là ở chính từ “đánh”. Khi tương tác với người khác, nếu ngươi luôn đánh người khác như một cách để đối mặt và giải quyết vấn đề, thì bản thân phương pháp của ngươi đã là sai. Nó được thực hiện một cách bốc đồng và không dựa trên lương tâm và lý trí của nhân tính con người, và dĩ nhiên, càng không phải là thực hành lẽ thật hay tuân thủ các nguyên tắc của lẽ thật. Một số người không công kích phẩm giá của người khác trước mặt – họ cẩn trọng trong lời nói và tránh đánh vào mặt người khác, nhưng đằng sau lưng thì luôn giở trò bẩn thỉu, trên bàn bắt tay nhưng dưới gầm bàn đá chân, trước mặt thì nói những điều tốt đẹp nhưng sau lưng âm mưu hãm hại người ta, bắt lỗi để gây bất lợi cho người ta, chờ cơ hội trả thù, dàn dựng và bày mưu tính kế, lan truyền tin đồn, hoặc tạo ra xung đột và lợi dụng người khác để tấn công người ta. Những phương kế quỷ quyệt này khá hơn là bao so với việc đánh vào mặt người ta? Chẳng phải chúng thậm chí còn nghiêm trọng hơn đánh vào mặt người ta sao? Chẳng phải chúng thậm chí còn quỷ quyệt, hung ác và vô nhân tính hơn hay sao? (Đúng vậy.) Vậy thì câu nói “Đánh người chớ đánh vào mặt” vốn đã vô nghĩa. Bản thân quan điểm này đã là sai lầm, có chút giả tạo. Đây là một phương pháp đạo đức giả, bởi vậy nên càng thấy nó gớm ghiếc, kinh tởm và ghê tởm. Bây giờ chúng ta đã rõ bản thân việc đánh người được thực hiện từ sự bộc phát. Ngươi đánh người trên cơ sở nào? Có được pháp luật cho phép không, hay đó có phải là quyền được Đức Chúa Trời ban cho ngươi không? Không. Thế thì tại sao lại đánh người? Nếu ngươi có thể hòa hợp bình thường với ai đó, ngươi có thể dùng những cách đúng đắn để hòa hợp và tương tác với họ. Nếu không thể hòa hợp thì đường ai nấy đi, cần gì phải hành động bốc đồng hay lao vào đánh nhau. Trong phạm vi lương tâm và lý trí của con người, đây là điều con người nên làm. Ngay khi ngươi hành động bốc đồng, dù không đánh vào mặt người ta mà đánh vào chỗ khác thì cũng là một vấn đề nghiêm trọng. Đây không phải là một cách tương tác bình thường. Đây là cách kẻ thù tương tác, không phải cách bình thường con người tương tác. Nó đi quá giới hạn của lý trí con người. Từ “vạch mặt” trong câu “vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” là tốt hay xấu? Từ “vạch mặt” có cùng tầng nghĩa với việc con người bị phơi bày hay vạch trần trong lời Đức Chúa Trời không? (Không.) Theo hiểu biết của Ta về từ “vạch mặt” như trong ngôn ngữ của con người thì nó không có nghĩa như vậy. Bản chất của nó là một hình thức vạch trần có phần ác tâm; nghĩa là phơi bày những vấn đề và thiếu sót của người, hoặc một số điều và hành vi mà người khác không biết, hoặc một số âm mưu, ý tưởng hoặc quan điểm đằng sau. Đây chính là ý nghĩa của từ “vạch mặt” trong câu “vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm”. Nếu hai người hòa thuận và là bạn tri kỷ, giữa họ không có rào cản, và mỗi người đều mong có lợi và hỗ trợ cho người kia, thì tốt nhất họ nên ngồi lại với nhau và nói ra những vấn đề của nhau một cách cởi mở và chân thành. Đây mới là cách đúng đắn, chứ không phải là vạch khuyết điểm của người khác. Nếu ngươi phát hiện ra vấn đề của người khác nhưng thấy họ chưa thể chấp nhận lời khuyên của mình, thì đơn giản là đừng nói gì, để tránh cãi vã hoặc xung đột. Nếu muốn giúp đỡ họ, ngươi có thể hỏi ý kiến họ và trước tiên hãy hỏi họ: “Tôi thấy anh có chút vấn đề và mong có thể cho anh một lời khuyên nào đó. Không biết liệu anh có thể chấp nhận hay không. Nếu anh có thể chấp nhận thì tôi sẽ nói. Nếu không thì giờ tôi sẽ giữ im lặng và không nói gì cả”. Nếu họ nói: “Tôi tin anh. Anh cứ nói đi, không sao đâu; tôi có thể chấp nhận được”, điều đó có nghĩa là ngươi đã được cho phép và sau đó ngươi có thể trao đổi từng vấn đề với họ. Họ không những hoàn toàn tiếp thu điều ngươi nói mà còn được hưởng lợi từ điều đó, và hai người các ngươi sẽ vẫn có thể duy trì mối quan hệ bình thường. Đó chẳng phải là đối xử chân thành với nhau sao? (Đúng vậy.) Đây là phương pháp đúng đắn để tương tác với người khác; nó không phải là vạch khuyết điểm của người khác. Không “vạch khuyết điểm của người khác” như câu đang thảo luận có nghĩa là gì? Nghĩa là không nói về những thiếu sót của người khác, không nói về những vấn đề cấm kỵ nhất của họ, không vạch trần bản chất vấn đề của họ và không quá thẳng thắn khi vạch mặt. Nghĩa là chỉ đưa ra một số nhận xét bề ngoài, nói những điều mọi người thường nói, nói những điều mà bản thân người đó đã có thể nhận thức được và không tiết lộ những sai lầm người đó mắc phải trước đây hay những vấn đề nhạy cảm. Nếu ngươi hành động theo cách này thì có lợi gì cho người đó? Có thể ngươi sẽ không làm phật lòng họ hay thành kẻ thù của họ, nhưng những gì ngươi đã làm không hề giúp ích hay mang lại lợi ích gì cho họ. Vì vậy, bản thân cụm từ “chớ vạch khuyết điểm của người khác” đã là lảng tránh và là một kiểu thủ đoạn không cho phép có sự chân thành trong cách con người đối xử với nhau. Có thể nói rằng hành động theo cách này là chứa chấp những ý đồ xấu xa; đó không phải là cách đúng đắn để tương tác với người khác. Những người ngoại đạo thậm chí còn coi “vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” là điều mà người có đạo đức cao quý nên làm. Đó rõ ràng là một cách tương tác giả dối với người khác, mà mọi người áp dụng để tự bảo vệ mình; nó hoàn toàn không phải là một phương thức tương tác đúng đắn.

– Mưu cầu lẽ thật là gì (8), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Thì câu nói về đức hạnh “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha” mà văn hóa truyền thống Trung Quốc đề cập đến, là một giáo lý kiềm chế và khai sáng con người. Nó chỉ có thể giải quyết những tranh chấp nhỏ nhặt và xung đột vặt vãnh, nhưng hoàn toàn không có tác dụng gì đối với những người nuôi lòng hận thù sâu sắc. Những người đưa ra yêu cầu này có thực sự hiểu về nhân tính của con người không? Có thể nói rằng những người đưa ra yêu cầu này hoàn toàn không phải là không biết mức độ chịu đựng của lương tâm và lý trí con người. Chỉ là việc đưa ra lý thuyết này có thể khiến họ trông có vẻ thâm thúy và cao đẹp, đồng thời có được sự tán thành và tâng bốc của mọi người. Thực tế là họ biết rất rõ rằng nếu ai đó làm tổn hại đến phẩm giá hoặc nhân cách của một người, làm tổn hại đến lợi ích của họ, thậm chí ảnh hưởng đến tiền đồ tương lai và cả cuộc đời họ, thì dưới góc độ nhân tính, bên bị hại phải trả thù. Cho dù có bao nhiêu lương tâm và lý trí, anh ta cũng sẽ không để yên được. Cùng lắm chỉ khác ở mức độ và phương thức trả thù của anh ta…

Tại sao con người có thể buông bỏ hận thù? Những lý do chính là gì? Một mặt, họ bị ảnh hưởng bởi câu nói về đức hạnh này – “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”. Mặt khác, họ lo lắng khi nghĩ rằng nếu mình hay chấp vặt, thường xuyên hận thù người khác, không khoan dung với người khác, thì sẽ không thể có chỗ đứng trong xã hội và sẽ bị dư luận xã hội lên án, bị mọi người cười chê, nên họ phải bất đắc dĩ và miễn cưỡng nuốt giận. Một mặt, từ góc độ bản năng con người, con người sống trên đời này không thể chịu đựng được tất cả những sự áp bức, sự tổn hại vô lý và sự đối xử bất công này. Điều đó có nghĩa là nhân tính của con người không thể chịu đựng được những điều này. Vì vậy, việc đưa ra yêu cầu “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha” đối với bất kỳ ai cũng là bất công và vô nhân đạo. Mặt khác, rõ ràng là những tư tưởng, quan điểm như thế cũng ảnh hưởng hoặc làm sai lệch quan điểm và cách nhìn của con người về những vấn đề này, nên họ không thể nhìn nhận đúng đắn những vấn đề như vậy, mà thay vào đó coi những câu nói như “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha” là điều đúng đắn và tích cực. Khi con người bị đối xử bất công, để tránh sự lên án của dư luận xã hội, họ không còn cách nào khác là phải ngậm đắng nuốt cay những lời xúc phạm và sự đối xử bất bình đẳng mình phải gánh chịu, chờ cơ hội trả thù. Mặc dù ngoài miệng họ nói những điều nghe có vẻ hay ho như “‘Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha’. Thôi kệ, trả thù làm gì, nước chảy qua cầu mà”, nhưng bản năng con người khiến họ không bao giờ quên được sự tổn hại mà việc này đã gây ra cho họ, nghĩa là sự tổn hại nó đã gây ra cho thân, tâm họ không bao giờ có thể xóa nhòa hay phai nhạt được. Khi người ta nói: “Quên hận thù đi, chuyện này đã qua và kết thúc rồi, nước chảy qua cầu”, thì đó chỉ là cái vỏ bọc được tạo thành hoàn toàn từ sự ràng buộc và ảnh hưởng của những tư tưởng và quan điểm như “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”. Tất nhiên, con người cũng bị bó hẹp bởi những tư tưởng và quan điểm như vậy, đến mức họ nghĩ nếu họ không tìm cách đưa chúng vào thực hành, nếu họ không có tấm lòng hoặc sự rộng lượng để khoan dung bất cứ khi nào có thể, thì họ sẽ bị mọi người coi thường, lên án, lại càng bị phân biệt đối xử trong xã hội hoặc cộng đồng. Hậu quả của việc bị phân biệt đối xử là gì? Đó là khi ngươi tiếp xúc với mọi người và làm ăn, người ta sẽ nói: “Tên này tiểu nhân, hay thù. Giao thiệp với hắn phải cẩn thận đấy!”. Nó thực sự hình thành thêm một rào cản khi ngươi làm ăn trong cộng đồng. Tại sao lại có thêm rào cản này? Bởi vì cả xã hội đều bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng và quan điểm như “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”. Tập tục xã hội nói chung tôn trọng tư duy như vậy, và cả xã hội đều bị nó bó hẹp, ảnh hưởng và điều khiển, vì vậy nếu ngươi không thể đưa nó vào thực hành, ngươi sẽ khó có được chỗ đứng trong xã hội và tồn tại được trong cộng đồng. Do đó, một số người không còn cách nào khác là phải tuân theo tập tục xã hội như vậy và làm theo những câu nói và quan điểm như “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”, sống một cuộc sống bi thương. Từ những hiện tượng này, chẳng phải những người gọi là nhà đạo đức học đó có mục đích và ý định nhất định khi đưa ra những câu nói này về tư tưởng và quan điểm đạo đức sao? Có phải họ làm vậy để con người có thể sống tự do hơn, và để thân thể, tâm trí, tinh thần họ được giải thoát hơn không? Hay đó có phải là để con người có thể sống cuộc sống hạnh phúc hơn không? Quá rõ ràng là không. Những câu nói này về đức hạnh hoàn toàn không phục vụ nhu cầu của nhân tính bình thường của con người, nhất là càng không phải được đưa ra để khiến con người sống thể hiện ra nhân tính bình thường. Thay vào đó, chúng hoàn toàn phục vụ tham vọng kiểm soát người dân và ổn định quyền lực của giai cấp thống trị. Chúng phục vụ cho giai cấp thống trị, và được đưa ra để giai cấp thống trị có thể duy trì sự kiểm soát trật tự xã hội cũng như tập tục xã hội, sử dụng những thứ này để ràng buộc mọi người, mọi nhà, mọi cá nhân, mọi cộng đồng, mọi hội nhóm, và xã hội do đủ loại hội nhóm tạo thành. Chính trong những xã hội như vậy, dưới sự truyền bá, ảnh hưởng và khắc sâu của những tư tưởng, quan điểm đạo đức đó, mà những tư tưởng, quan điểm đạo đức chủ đạo của xã hội xuất hiện và hình thành. Sự hình thành này của đạo đức xã hội và tập tục xã hội không còn có lợi cho sự tồn tại của loài người, không còn có lợi cho sự tiến bộ và làm tinh sạch tư tưởng của con người, cũng như không còn có lợi cho việc nâng cao nhân tính. Ngược lại, bởi sự xuất hiện của những tư tưởng và quan điểm đạo đức này mà tư duy của con người bị bó hẹp trong một phạm vi có thể kiểm soát được. Vậy thì cuối cùng ai được lợi? Có phải là nhân loại không? Hay giai cấp thống trị? (Thưa, giai cấp thống trị.) Đúng vậy, cuối cùng chính giai cấp thống trị hưởng lợi. Với những đạo đức kinh này làm nền tảng cho tư duy và đạo đức của con người, họ sẽ dễ bị trị hơn, nhiều khả năng sẽ trở thành những công dân ngoan ngoãn hơn, dễ bị thao túng hơn, dễ bị chi phối hơn bởi đủ loại câu nói từ kinh điển đạo đức trong mọi việc họ làm, và dễ bị điều chỉnh hơn bởi hệ thống xã hội, đạo đức xã hội, tập tục xã hội và dư luận xã hội. Theo cách này, ở một mức độ nào đó, những người thuộc cùng một hệ thống xã hội, môi trường đạo đức và tập tục xã hội về cơ bản có những tư tưởng và quan điểm đồng nhất cũng như những điểm mấu chốt đồng nhất về cách hành xử, bởi vì những tư tưởng và quan điểm của họ có đã trải qua quá trình xử lý và tiêu chuẩn hóa bởi những người gọi là nhà đạo đức, nhà tư tưởng và nhà giáo dục này. Từ “đồng nhất” này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là tất cả những người bị trị – bao gồm cả suy nghĩ và nhân tính bình thường của họ – đã bị đồng hóa và bó hẹp bởi những câu nói này từ đạo đức kinh. Suy nghĩ của mọi người bị hạn chế, đồng thời miệng và não của họ cũng bị hạn chế. Mọi người buộc phải chấp nhận những tư tưởng và quan điểm đạo đức của văn hóa truyền thống này, một mặt dùng chúng để phán xét và ràng buộc hành vi của chính mình, mặt khác để phán xét người khác và xã hội này. Tất nhiên, đồng thời họ cũng bị chi phối bởi dư luận xã hội xoay quanh những câu nói này từ đạo đức kinh. Nếu ngươi cho rằng cách làm của mình trái với câu nói “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”, thì ngươi cảm thấy rất bực bội và khó chịu, và ngươi sẽ sớm nhận ra rằng “nếu mình không cố gắng khoan dung bất cứ khi nào có thể, nếu mình quá nhỏ mọn, hẹp hòi như một kẻ tiểu nhân thiển cận, và mình không thể buông bỏ dù chỉ một chút hận thù mà luôn mang trong mình, thì liệu mình có bị chê cười không? Mình có bị đồng nghiệp và bạn bè kỳ thị không?”. Thế là ngươi phải giả vờ đặc biệt cao thượng. Nếu mọi người có những hành vi này, có phải điều đó có nghĩa là họ bị chi phối bởi dư luận xã hội không? (Thưa, phải.) Khách quan mà nói, sâu thẳm trong lòng ngươi có những xiềng xích vô hình, tức là dư luận xã hội và sự lên án của toàn xã hội giống như những xiềng xích vô hình đối với ngươi.

– Mưu cầu lẽ thật là gì (9), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Hàm ý của câu nói “Điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác” nghĩa là ngươi chỉ nên cho hoặc cung cấp cho người khác những gì bản thân ngươi vui thích và yêu thích. Nhưng những người bại hoại vui thích và yêu thích những điều gì? Những thứ bại hoại, những điều lố bịch và những ham muốn ngông cuồng. Nếu ngươi cho và cung cấp những thứ tiêu cực này cho mọi người, chẳng phải toàn nhân loại sẽ trở nên ngày càng bại hoại sao? Sẽ ngày càng có ít điều tích cực hơn. Chẳng phải đây là sự thật sao? Thực tế là nhân loại đã bị bại hoại sâu sắc. Những con người bại hoại thích mưu cầu danh lợi, địa vị và hưởng thụ xác thịt; họ muốn làm danh nhân, vĩ nhân, siêu nhân. Họ muốn một cuộc sống thoải mái và không thích làm việc vất vả; họ muốn mọi thứ phải được trao cho họ. Rất ít người bọn họ yêu thích lẽ thật hay những điều tích cực. Nếu người ta cho và cung cấp sự bại hoại và những sự ưa thích này cho người khác, thì điều gì sẽ xảy ra? Sẽ đúng như điều ngươi nghĩ: nhân loại sẽ chỉ ngày càng bại hoại hơn. Những ai ủng hộ tư tưởng “Điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác” đòi hỏi mọi người phải cho và cung cấp cho người khác sự bại hoại, những sự ưa thích cùng những ham muốn ngông cuồng của mình, khiến người khác theo đuổi cái ác, sự an nhàn, tiền bạc và sự thăng tiến. Đây có phải là con đường đúng đắn trong cuộc đời không? Rõ ràng có thể thấy rằng “Điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác” là một câu rất có vấn đề. Những lỗ hổng và sai sót trong câu này rất rõ ràng; thậm chí là không đáng để mổ xẻ và phân định. Chỉ cần xem xét một chút là thấy rõ những sai sót và sự bất hợp lý của nó. Tuy nhiên, nhiều người các ngươi dễ bị thuyết phục và bị tác động bởi câu nói này và chấp nhận nó mà không hề phân định. Khi tương tác với người khác, ngươi thường dùng câu nói này để tự răn mình và khuyên nhủ người khác. Làm như vậy, ngươi nghĩ nhân cách của mình đặc biệt cao thượng, và rằng cách hành xử của ngươi rất phải lẽ. Nhưng một cách vô tình, những lời này đã bộc lộ nguyên tắc sống của ngươi và lập trường của ngươi về mọi vấn đề. Đồng thời, ngươi đã mê hoặc và gây lầm lạc người khác, khiến họ tiếp cận mọi người và mọi hoàn cảnh với quan điểm và lập trường giống như ngươi. Ngươi đã cư xử như một kẻ không có lập trường thực sự, và hoàn toàn chọn con đường trung dung ở giữa. Ngươi nói: “Bất kể vấn đề là gì thì cũng không cần phải quá nghiêm túc. Đừng làm khó mình hay người khác. Nếu làm khó người khác thì cũng là đang làm khó chính bản thân mình. Tử tế với người khác tức là tử tế với chính mình. Nếu anh khó khăn với người khác thì cũng là đang khó khăn với chính bản thân mình. Tại sao phải dồn bản thân mình vào thế khó chứ? Không áp đặt cho người khác điều bản thân không muốn là điều tốt nhất có thể làm cho chính bản thân mình, là khoan dung nhất với bản thân mình”. Thái độ này rõ ràng là một thái độ không kỹ lưỡng trong bất cứ việc gì. Ngươi không có lập trường hay quan điểm đúng đắn về bất cứ vấn đề gì; ngươi nhìn nhận mọi việc rối rắm. Ngươi không kỹ lưỡng, chuyện gì cũng mắt nhắm mắt mở cho qua. Cuối cùng, khi ngươi đứng trước Đức Chúa Trời và tự khai trình thì sẽ rất lộn xộn. Tại sao lại như thế? Đó là vì ngươi luôn nói ngươi không nên áp đặt cho người khác điều bản thân không muốn. Điều này khiến ngươi rất ấm lòng và dễ chịu, nhưng đồng thời nó cũng sẽ gây cho ngươi rất nhiều rắc rối, khiến ngươi không thể có quan điểm hay lập trường rõ ràng trong nhiều vấn đề. Tất nhiên, điều đó cũng khiến ngươi không thể hiểu rõ những yêu cầu và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đối với ngươi là gì khi ngươi gặp phải những tình huống này hay ngươi phải đạt được kết quả gì. Những điều này xảy ra bởi ngươi không kỹ lưỡng trong mọi việc; chúng sinh ra từ thái độ và quan điểm rối rắm của ngươi. Không áp đặt cho người khác điều bản thân không muốn có phải là thái độ khoan dung ngươi nên có đối với mọi người và mọi sự không? Không, không phải. Đó chỉ là lý thuyết, bề ngoài thì có vẻ đúng đắn, cao thượng và thiện ý nhưng thật ra lại hoàn toàn là một điều tiêu cực. Rõ ràng, đó càng không phải là một nguyên tắc lẽ thật mà mọi người nên tuân theo. Đức Chúa Trời không yêu cầu con người không áp đặt cho người khác điều bản thân không muốn, mà thay vào đó Ngài yêu cầu con người phải hiểu rõ những nguyên tắc phải tuân giữ khi xử lý những tình huống khác nhau. Nếu nó đúng và phù hợp với lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời thì ngươi phải bám vào. Và không những ngươi phải bám vào mà ngươi cũng phải khuyên nhủ, thuyết phục và thông công với người khác để họ có thể hiểu chính xác tâm ý của Đức Chúa Trời là gì và các nguyên tắc lẽ thật là gì. Đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của ngươi. Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi chọn con đường trung dung, và Ngài càng không yêu cầu ngươi chứng tỏ lòng mình bao la rộng lớn ra sao. Ngươi nên bám vào những điều Đức Chúa Trời đã răn bảo ngươi và dạy dỗ ngươi, và những điều Đức Chúa Trời phán dạy trong lời Ngài: những yêu cầu, tiêu chí và các nguyên tắc lẽ thật mà mọi người phải tuân giữ. Ngươi không chỉ phải bám vào chúng và giữ vững chúng đời đời, mà ngươi còn phải thực hành các nguyên tắc lẽ thật này bằng cách làm gương cũng như là thuyết phục, giám sát, giúp đỡ và dẫn dắt người khác bám sát, tuân thủ và thực hành chúng giống như ngươi. Đức Chúa Trời đòi hỏi ngươi phải làm điều này – đây là điều Ngài giao phó cho ngươi. Ngươi không thể chỉ yêu cầu bản thân mình mà mặc kệ người khác được. Đức Chúa Trời đòi hỏi ngươi phải có lập trường đúng đắn trong mọi vấn đề, giữ vững những tiêu chí đúng đắn và biết chính xác những tiêu chuẩn trong lời Đức Chúa Trời là gì cũng như ngươi phải hiểu chính xác các nguyên tắc lẽ thật là gì. Ngay cả khi ngươi không thể đạt được điều này, cho dù ngươi không sẵn lòng, cho dù ngươi không thích, cho dù ngươi có quan niệm hay ngươi chống đối đi nữa thì ngươi cũng phải xem đó là trách nhiệm của mình, là nghĩa vụ của mình. Ngươi phải thông công với mọi người về những điều tích cực đến từ Đức Chúa Trời, về những điều đúng đắn và phải lẽ, và dùng chúng để giúp đỡ, tác động và hướng dẫn người khác để mọi người đều có thể được hưởng lợi và được gây dựng bởi những điều đó, và bước đi con đường nhân sinh đúng đắn. Đây là trách nhiệm của ngươi, và ngươi không nên cố chấp bám vào tư tưởng “Điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác”, là thứ mà Sa-tan đã đưa vào tâm trí ngươi. Trong mắt Đức Chúa Trời, câu nói đó chỉ là một triết lý xử thế; đó là một lối tư duy chứa đựng mánh khóe của Sa-tan; đó hoàn toàn không phải là con đường đúng đắn, cũng không phải là một điều tích cực. Tất cả những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi nơi ngươi là để ngươi trở thành một người ngay thẳng, người hiểu rõ mình nên làm gì và không nên làm gì. Ngài không yêu cầu ngươi làm một kẻ chiều lòng người hay một kẻ không có lập trường; Ngài đã không yêu cầu ngươi chọn con đường trung dung. Khi một vấn đề có liên quan đến các nguyên tắc lẽ thật, ngươi phải nói những gì cần phải nói, và hiểu những gì cần phải hiểu. Nếu có người không hiểu điều gì mà ngươi hiểu, và ngươi có thể chỉ dẫn và giúp đỡ họ, thì ngươi nhất định phải thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ này. Ngươi không được chỉ đứng ngoài lề mà quan sát, càng không được bám vào những triết lý Sa-tan đã đưa vào tâm trí ngươi như điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác. Các ngươi có hiểu không? (Thưa, có.) Những điều đúng đắn và tích cực là như vậy ngay cả khi ngươi không thích, không sẵn lòng làm, không có khả năng thực hiện và đạt được, chống đối hoặc hình thành những quan niệm chống lại chúng. Thực chất của lời Đức Chúa Trời và lẽ thật sẽ không thay đổi chỉ vì nhân loại có tâm tính bại hoại và có những cảm xúc, tình cảm, ý nguyện và quan niệm nào đó. Thực chất của lời Đức Chúa Trời và lẽ thật sẽ đời đời không bao giờ thay đổi. Ngay khi ngươi biết, hiểu, trải nghiệm và đạt được lời Đức Chúa Trời cũng như lẽ thật, nghĩa vụ của ngươi là phải thông công về những kinh nghiệm và chứng ngôn của mình cho người khác. Điều này sẽ cho phép nhiều người hơn nữa hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, lĩnh hội và đạt được lẽ thật, hiểu được những yêu cầu và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, cũng như nắm bắt được các nguyên tắc lẽ thật. Khi làm như vậy, những người này sẽ có được con đường thực hành khi gặp phải vấn đề trong cuộc sống hàng ngày và sẽ không trở nên mơ hồ hay bị trói buộc bởi những tư tưởng, quan điểm khác nhau của Sa-tan. Câu nói về đức hạnh “Điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác” quả thực và thực sự là âm mưu quỷ quyệt của Sa-tan để khống chế suy nghĩ của con người. Nếu ngươi luôn bám lấy điều này thì ngươi là người sống theo các triết lý của Sa-tan; một người hoàn toàn sống trong tâm tính Sa-tan.

– Mưu cầu lẽ thật là gì (10), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Trong bất kỳ thời đại hay nhóm sắc tộc nào mà câu nói về đức hạnh “Xả thân vì bạn bè” này được sử dụng, nó cũng đều đứng vững khá tốt. Điều đó có nghĩa là nó tương đối phù hợp với lương tâm và lý trí của nhân tính. Chính xác hơn, câu nói này phù hợp với khái niệm “nghĩa khí” mà con người bám vào trong lương tâm của mình. Những người coi trọng nghĩa khí sẽ sẵn sàng xả thân vì bạn bè. Cho dù bạn bè họ gặp phải tình huống khó khăn, nguy hiểm đến đâu, họ cũng sẽ bước lên xả thân vì bạn bè. Đây là tinh thần xả thân vì người. Điều câu nói về đức hạnh “Xả thân vì bạn bè” làm cho thấm nhuần trong con người về cơ bản là coi trọng nghĩa khí. Tiêu chuẩn nó đòi hỏi nhân tính phải giữ vững là con người phải coi trọng nghĩa khí: đó là thực chất của câu nói này…

Những tư tưởng và quan điểm như “xả thân vì bạn bè” có gì sai? Câu hỏi này thực ra khá đơn giản và không khó. Không ai sống trên đời nhảy ra từ khe đá cả. Ai cũng có cha mẹ, con cái, ai cũng có người thân, không ai tồn tại độc lập trong nhân gian này. Ý Ta ở đây là gì? Ý Ta là ngươi sống trong nhân gian này, và ngươi có những nghĩa vụ riêng phải thực hiện. Thứ nhất, ngươi phải phụng dưỡng cha mẹ, và thứ hai, ngươi phải nuôi nấng con cái. Đây là những trách nhiệm của ngươi trong gia đình. Trong xã hội, ngươi cũng có những trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội phải thực hiện. Ngươi phải đóng một vai trò trong xã hội, chẳng hạn như là công nhân, nông dân, thương nhân, sinh viên hoặc trí thức. Từ gia đình cho đến xã hội, có rất nhiều trách nhiệm và nghĩa vụ ngươi phải thực hiện. Nghĩa là ngoài cơm ăn, áo mặc, nhà ở và phương tiện đi lại của bản thân, ngươi còn có nhiều việc phải làm, cũng như còn nhiều việc ngươi nên làm và nhiều nghĩa vụ ngươi nên thực hiện. Chưa nói đến con đường đúng đắn của đức tin nơi Đức Chúa Trời mà con người đi theo, với tư cách một cá nhân, ngươi có nhiều trách nhiệm gia đình và nghĩa vụ xã hội phải thực hiện. Ngươi không tồn tại độc lập. Trách nhiệm trên vai ngươi không phải chỉ là kết bạn và vui vẻ với nhau, hay tìm người mà ngươi có thể trò chuyện và có thể giúp đỡ ngươi. Phần lớn trách nhiệm của ngươi – và cũng là những trách nhiệm quan trọng nhất – liên quan đến gia đình và xã hội. Chỉ khi ngươi làm tròn những trách nhiệm gia đình và nghĩa vụ xã hội của mình, thì cuộc đời ngươi với tư cách một con người mới được coi là trọn vẹn và hoàn thiện. Vậy những trách nhiệm ngươi nên thực hiện trong gia đình bao gồm những gì? Là con cái, ngươi phải hiếu thảo và phụng dưỡng cha mẹ. Mỗi khi cha mẹ ốm đau hay gặp khó khăn, ngươi phải làm tất cả những gì trong khả năng của mình. Là cha mẹ, ngươi phải đổ mồ hôi và nỗ lực, làm việc chăm chỉ và chịu khổ để chu cấp cho cả gia đình, gánh trên vai trách nhiệm nặng nề của việc làm cha mẹ, nuôi nấng con cái, dạy dỗ con cái đi theo con đường đúng đắn, và cho con cái hiểu được các nguyên tắc hành xử. Như vậy, ngươi có rất nhiều trách nhiệm trong gia đình. Ngươi phải phụng dưỡng cha mẹ và gánh vác trách nhiệm nuôi dạy con cái. Có rất nhiều điều như vậy phải thực hiện. Và trách nhiệm của ngươi trong xã hội là gì? Ngươi phải tuân thủ luật pháp và các quy định, ngươi phải có nguyên tắc đối nhân xử thế, ngươi phải cố gắng hết sức trong công việc và quản lý tốt sự nghiệp của mình. Tám mươi hoặc chín mươi phần trăm thời gian và sức lực của ngươi phải dành cho những việc này. Điều đó có nghĩa là bất kể ngươi đóng vai trò gì trong gia đình hay ngoài xã hội, bất kể ngươi đi theo con đường nào, bất kể ngươi mưu cầu và mong muốn điều gì, mỗi người đều có những trách nhiệm phải gánh vác rất quan trọng đối với cá nhân họ và chiếm gần như toàn bộ thời gian, sức lực của họ. Từ góc độ trách nhiệm gia đình và xã hội, giá trị của ngươi với tư cách là một con người và của cuộc đời ngươi khi đến thế gian này là gì? Đó là thực hiện những trách nhiệm và sứ mạng do Trời giao phó cho ngươi. Sinh mệnh của ngươi không thuộc về mình ngươi, và tất nhiên không thuộc về người khác. Sinh mệnh của ngươi tồn tại vì những sứ mạng và trách nhiệm của ngươi, và vì những trách nhiệm, nghĩa vụ và sứ mạng ngươi phải thực hiện trong thế gian này. Sinh mệnh của ngươi không thuộc về cha mẹ ngươi, cũng không thuộc về vợ hay chồng ngươi, và tất nhiên không thuộc về con cái ngươi, càng không thuộc về con cháu ngươi. Vậy thì sinh mệnh ngươi thuộc về ai? Nói từ góc độ một con người của trần gian, thì sinh mệnh ngươi thuộc về những trách nhiệm và sứ mạng do Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi. Nhưng từ góc độ một người tin Đức Chúa Trời, sinh mệnh ngươi thuộc về Đức Chúa Trời, vì chính Ngài là Đấng sắp đặt và có quyền tối thượng trên mọi điều về ngươi. Vì vậy, là một con người, sống trên đời, ngươi không được tùy tiện hứa hẹn hy sinh mạng sống vì người khác, và cũng không được tùy tiện hy sinh mạng sống của mình cho bất kỳ ai vì nghĩa khí. Điều đó có nghĩa là ngươi không được coi thường mạng sống của chính mình. Sinh mệnh của ngươi là vô giá trị đối với bất kỳ ai khác, đặc biệt là đối với Sa-tan, đối với xã hội này, và đối với loài người bại hoại này, nhưng đối với cha mẹ và người thân của ngươi, thì sinh mệnh của ngươi cực kỳ quan trọng, bởi vì có một mối liên hệ không thể tách rời giữa trách nhiệm của ngươi và sự sống còn của họ. Tất nhiên, điều còn quan trọng hơn nữa là có một mối liên hệ không thể tách rời giữa sinh mệnh của ngươi và sự thật là Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng trên muôn vật cũng như toàn thể nhân loại. Sinh mệnh của ngươi là một phần không thể thiếu trong số nhiều sinh mệnh mà Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng. Có thể ngươi không quá coi trọng sinh mệnh của mình đến vậy, và có thể ngươi không nên quá coi trọng sinh mệnh của mình đến vậy, nhưng thực tế là sinh mệnh của ngươi vô cùng quan trọng đối với cha mẹ và người thân của ngươi, những người mà ngươi có mối ràng buộc chặt chẽ và mối quan hệ không thể tách rời. Tại sao Ta lại nói như vậy? Bởi vì ngươi có trách nhiệm với họ, họ cũng có trách nhiệm với ngươi, ngươi có trách nhiệm đối với xã hội này, và trách nhiệm của ngươi đối với xã hội liên quan đến vai trò của ngươi trong xã hội này. Vai trò của mỗi người và mỗi thực thể sống đều là một phần không thể thiếu đối với Đức Chúa Trời, và đều là những yếu tố không thể thiếu trong quyền tối thượng của Đức Chúa Trời đối với loài người, thế giới này, địa cầu này và vũ trụ này. Trong mắt Đức Chúa Trời, mỗi sinh mệnh thậm chí còn tầm thường hơn một hạt cát, và thậm chí còn đáng khinh hơn một con kiến; nhưng vì mỗi người là một sự sống, một sự sống đang sống và đang thở, nên trong quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, mặc dù vai trò của người đó không phải là then chốt, nhưng họ cũng là một phần không thể thiếu. Vì vậy, nhìn từ những khía cạnh này, nếu một người sẵn sàng xả thân vì bạn bè, và không những nghĩ đến mà còn sẵn sàng làm vậy bất cứ lúc nào, hy sinh mạng sống của mình mà không quan tâm đến trách nhiệm gia đình, trách nhiệm xã hội của mình, và cả sứ mạng, bổn phận Đức Chúa Trời trao trên vai mình, thì điều đó chẳng phải là sai sao? (Thưa, phải.) Đây là đại nghịch bất đạo! Điều quý giá nhất Đức Chúa Trời ban tặng cho con người chính là hơi thở gọi là sự sống này. Nếu ngươi tùy tiện hứa hẹn hy sinh mạng sống vì một người bạn mà ngươi nghĩ rằng mình có thể phó thác nó cho họ, thì chẳng phải đây là đại nghịch bất đạo với Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải đây là coi thường mạng sống sao? Chẳng phải đây là hành vi phản nghịch đối với Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải đây là hành động phản bội Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Đây rõ ràng là từ bỏ trách nhiệm ngươi phải thực hiện trong gia đình và xã hội, đồng thời trốn tránh những sứ mạng Đức Chúa Trời đã giao phó cho ngươi. Đây là đại nghịch bất đạo. Điều quan trọng nhất trong đời người không gì khác hơn là những trách nhiệm một người phải đảm nhận trong cuộc đời này – những trách nhiệm gia đình, trách nhiệm xã hội và sứ mạng Đức Chúa Trời đã giao phó. Điều quan trọng nhất là những trách nhiệm và sứ mạng này. Nếu ngươi đánh mất mạng sống của mình bằng cách tùy tiện hy sinh nó vì người khác do ý thức nghĩa khí nhất thời và huyết khí nhất thời, thì trách nhiệm của ngươi có còn tồn tại không? Rồi ngươi có thể nói sao về sứ mạng đây? Rõ ràng ngươi không trân quý sự sống Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi như một điều quý giá nhất, mà thay vào đó lại tùy tiện hứa hẹn hy sinh mạng sống vì người khác, từ bỏ mạng sống của mình vì người khác, hoàn toàn bất chấp hoặc rũ bỏ trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, như thế là vô đạo đức và không công bằng. Vậy thì Ta đang cố gắng nói điều gì với các ngươi đây? Đừng tùy tiện từ bỏ hay hứa hẹn hy sinh mạng sống của mình vì người khác. Một số người nói: “Con có thể hứa hẹn hy sinh mạng sống vì cha mẹ được không? Thế còn hứa hẹn hy sinh mạng sống của mình vì người yêu, có được không ạ?”. Không được. Tại sao không được? Đức Chúa Trời ban mạng sống cho ngươi và cho phép sinh mạng ngươi tiếp tục để ngươi có thể thực hiện trách nhiệm với gia đình và xã hội, cũng như thực hiện sứ mạng Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi; chứ không phải là để người coi mạng sống của mình như trò đùa bằng cách tùy tiện hứa hẹn hy sinh nó vì người khác, trao cho người khác, dâng cho người khác hay hiến dâng vì người khác. Nếu mất mạng, liệu người ta còn có thể thực hiện được trách nhiệm mình đối với gia đình và xã hội cũng như sứ mạng của mình không? Điều đó còn có thể được thực hiện không? (Thưa, không.) Và khi trách nhiệm gia đình và xã hội của một người không còn, thì vai trò xã hội họ đảm nhận có còn tồn tại không? (Thưa, không.) Khi vai trò xã hội một người đảm nhận không còn, thì sứ mạng của người đó có còn tồn tại không? Không. Khi sứ mạng và vai trò xã hội của một người không còn, thì đối tượng Đức Chúa Trời tể trị có còn tồn tại không? Đối tượng Đức Chúa Trời tể trị chính là những sinh vật, những con người có sự sống, và khi trách nhiệm xã hội và mạng sống của họ không còn, những vai trò xã hội của họ đều trở về con số không, thì đây có phải là cố khiến cho loài người mà Đức Chúa Trời tể trị và kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời trở về con số không không? Nếu ngươi làm như vậy, đó chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? (Thưa, phải.) Đây thực sự là đại nghịch bất đạo. Sự sống của ngươi chỉ tồn tại vì trách nhiệm và sứ mạng của ngươi, và giá trị sự sống của ngươi chỉ có thể được phản ánh trong trách nhiệm và sứ mạng của ngươi. Ngoài ra, xả thân vì bạn bè không phải là trách nhiệm và sứ mạng của ngươi. Là một con người được Đức Chúa Trời ban cho sự sống, thực hiện những trách nhiệm và sứ mạng Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi là điều ngươi nên làm. Trong khi đó, xả thân vì bạn bè không phải là trách nhiệm hay sứ mạng Đức Chúa Trời trao cho ngươi. Thay vào đó, nó là hành động của ngươi dựa trên ý thức nghĩa khí, là ảo tưởng của bản thân ngươi, là suy nghĩ vô trách nhiệm của ngươi đối với sinh mệnh, và tất nhiên cũng là một kiểu tư duy mà Sa-tan đã gieo rắc vào con người để chất chứa sự khinh miệt và chà đạp lên sự sống của họ.

– Mưu cầu lẽ thật là gì (10), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Trong xã hội này, những nguyên tắc xử thế, cách sống và cách sinh tồn, thậm chí là thái độ và quan niệm đối với tôn giáo tín ngưỡng, cũng như nhiều quan niệm và quan điểm khác nhau đối với con người, sự việc và sự vật – tất cả những thứ này chắc chắn đều được hun đúc bởi gia đình. Trước khi người ta hiểu lẽ thật, bất kể họ bao nhiêu tuổi, mang giới tính nào, làm nghề nghiệp gì, có thái độ như thế nào với mọi sự, cực đoan hay lý tính, thì tóm lại, trong mọi mặt của sự việc, suy nghĩ, quan điểm và thái độ của người ta đối với mọi sự chịu ảnh hưởng rất lớn từ gia đình. Có thể nói rằng, những sự hun đúc khác nhau của gia đình trên người ta quyết định phần lớn thái độ xử sự, cách thức xử sự, và nhân sinh quan của họ, thậm chí còn ảnh hưởng đến tín ngưỡng của họ. Vì sự hun đúc và ảnh hưởng của gia đình với con người lớn như thế, nên chắc chắn gia đình là nguồn gốc cho những cách thức xử sự và nguyên tắc xử thế của người ta, cũng như nhân sinh quan và quan điểm đối xử với tín ngưỡng của họ. Vì bản thân gia đình không phải là nơi nảy sinh lẽ thật, cũng không phải là khởi nguồn của lẽ thật, nên khi gia đình hun đúc bất kỳ suy nghĩ, quan điểm hay phương thức sinh tồn nào cho ngươi, thì động lực hay mục đích của nó gần như chỉ có một, chính là vì tốt cho ngươi. Những thứ vì tốt cho ngươi này, bất kể chúng đến từ đâu, dù là từ cha mẹ ngươi, ông bà hay tổ tiên ngươi – thì tóm lại, chúng đều là để khi ở trong xã hội và giữa mọi người, ngươi có thể bảo vệ lợi ích của bản thân, khỏi bị ức hiếp, sống giữa mọi người một cách thoải mái và khôn khéo hơn, chúng vốn là để bảo vệ tốt nhất cho lợi ích của ngươi. Sự hun đúc mà ngươi nhận được từ gia đình có nghĩa là bảo vệ ngươi, để ngươi khỏi bị ức hiếp hay chịu đựng bất kỳ sỉ nhục nào, khiến ngươi thành một người nổi trội, cho dù như thế đồng nghĩa với ức hiếp hay hãm hại người khác, chỉ cần ngươi không bị hại là được. Đây là một vài điều quan trọng nhất mà gia đình hun đúc cho ngươi, và chúng cũng là tinh túy và mục đích chính yếu của mọi tư tưởng được hun đúc trong ngươi. Không phải như thế sao? (Thưa, phải.) Xem xét mục đích và tinh túy của mọi thứ gia đình hun đúc cho ngươi, có điều gì phù hợp với lẽ thật không? Dù những thứ này phù hợp với đạo đức hay quyền lợi và lợi ích chính đáng của nhân tính, thì liệu chúng có liên quan gì đến lẽ thật không? Chúng có phải là lẽ thật không? (Thưa, không.) Có thể nói hoàn toàn chắc chắn rằng chúng tuyệt đối không phải là lẽ thật. Bất kể những thứ gia đình hun đúc cho ngươi có được cho là tích cực, chính đáng, có nhân tính và phù hợp với nguyên tắc đạo đức đến thế nào, chúng cũng không phải là lẽ thật, cũng không thể đại diện cho lẽ thật, và dĩ nhiên không thể thay thế lẽ thật. Do đó, trong chủ đề gia đình, những thứ này là một phương diện khác mà người ta nên buông bỏ. Phương diện này cụ thể là gì? Nó là sự hun đúc của gia đình đối với ngươi, đây là phương diện thứ hai mà ngươi phải buông bỏ trong phạm vi chủ đề gia đình. Vì đang thảo luận về sự hun đúc của gia đình đối với ngươi, trước hết hãy nói về chuyện những sự hun đúc này chính xác là gì. Nếu phân biệt chúng theo quan niệm đúng sai của con người, thì một số tương đối đúng đắn, tích cực và dễ hiểu, có thể áp dụng, trong khi đó, một số khác thì tương đối ích kỷ, hèn hạ và dơ bẩn, tương đối tiêu cực, chỉ thế mà thôi. Nhưng dù gì đi nữa, những sự hun đúc đến từ gia đình này đối với con người mà nói là một lớp áo khoác phòng hộ bảo vệ lợi ích xác thịt của con người, giữ gìn tôn nghiêm cho họ giữa mọi người và không để họ bị ức hiếp. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Vậy thì hãy thông công một chút xem gia đình có những sự hun đúc nào đối với ngươi. Chẳng hạn như, khi bậc trưởng bối trong nhà bảo ngươi “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện”, chính là khiến ngươi phải xem trọng thể diện vẻ vang, sống phải có sĩ diện, và không làm những việc khiến mình xấu mặt. Vậy câu nói này dẫn dắt người ta theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực? Nó có thể dẫn dắt ngươi đến với lẽ thật không? Nó có thể dẫn dắt ngươi hiểu lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Ngươi có thể nói hoàn toàn chắc chắn rằng “Không thể”. Cứ nghĩ mà xem, Đức Chúa Trời phán rằng người ta phải làm người trung thực. Khi vi phạm, làm chuyện sai lầm, hay là làm chuyện chống đối Đức Chúa Trời và làm trái lẽ thật, thì ngươi cần thừa nhận lỗi lầm, biết mình, tiếp tục mổ xẻ bản thân để đạt đến sự ăn năn đích thực, rồi từ đó hành động căn cứ theo lời Đức Chúa Trời. Vậy, nếu người ta làm người trung thực, thì nó có xung đột với câu nói “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện” không? (Thưa, có.) Xung đột như thế nào? Câu nói “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện” là để người ta xem trọng việc sống vẻ vang đẹp đẽ và làm những việc khiến thể diện được vẻ vang, chứ đừng làm những việc xấu xa không vẻ vang, đừng phơi bày mặt cực kỳ xấu xí của họ, đồng thời để ngăn họ sống cuộc sống không có sĩ diện hay tôn nghiêm. Vì thể diện, sĩ diện và vẻ vang mà người ta không thể chê bai mọi thứ về bản thân, càng không thể kể cho người khác biết về những mặt tối tăm và không thể để người khác thấy của mình, bởi vì người ta phải sống có sĩ diện và tôn nghiêm. Để có tôn nghiêm thì người ta phải có thể diện, để có thể diện thì phải ngụy trang và tô vẽ bản thân. Như thế chẳng phải sẽ xung đột với việc làm người trung thực hay sao? (Thưa, phải). Khi làm người trung thực, những gì ngươi làm hoàn toàn trái ngược với câu nói “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện”. Nếu muốn làm người trung thực, thì đừng xem trọng sĩ diện; sĩ diện của con người chẳng đáng một xu. Khi đối diện với lẽ thật, người ta phải vạch trần bản thân, chứ đừng ngụy trang hoặc giả tạo. Người ta phải phơi bày trước Đức Chúa Trời những suy nghĩ thật sự, những chân tướng sự thật như những lỗi lầm đã phạm, những chỗ đã vi phạm các nguyên tắc lẽ thật, vân vân, đồng thời phơi bày những thứ này cho các anh chị em thấy. Đây không phải chuyện sống vì thể diện, mà là chuyện sống để làm người trung thực, sống để mưu cầu lẽ thật, sống để làm một loài thọ tạo và sống để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời và được cứu rỗi. Nhưng khi ngươi không hiểu lẽ thật này, không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, thì những thứ mà gia đình hun đúc cho ngươi thường nắm thế chủ đạo. Cho nên, khi làm gì sai thì ngươi che đậy và ngụy trang, nghĩ rằng: “Mình không được nói về chuyện này, cũng không cho phép những người biết chuyện này nói gì. Ai mà nói ra thì mình không tha cho đâu. Thể diện của mình là trên hết. Không sống vì thể diện thì sống vì cái gì nữa, bởi vì thể diện quan trọng hơn hết thảy. Mất thể diện là mất hết tôn nghiêm. Cho nên không được nói thật sự tình, phải ngụy trang, phải che đậy, không thì sẽ mất thể diện và tôn nghiêm, cuộc sống sẽ không còn giá trị. Nếu không được ai tôn trọng, thì mình là thứ vô giá trị, là rác rưởi”. Khi thực hành như thế, ngươi có thể làm người trung thực được không? Có thể hoàn toàn mở lòng và mổ xẻ bản thân không? (Thưa, không thể.) Rõ ràng, làm như thế chính là đang tuân theo câu “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện” mà gia đình đã hun đúc cho ngươi. Tuy nhiên, nếu ngươi buông bỏ câu nói này để mưu cầu lẽ thật và thực hành lẽ thật, thì nó sẽ không còn tác dụng với ngươi nữa, sẽ không còn là lời cách ngôn và nguyên tắc hành động của ngươi nữa, thay vào đó, ngươi sẽ làm hoàn toàn ngược lại câu nói “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện”. Ngươi sẽ không sống vì thể diện, vì tôn nghiêm, mà thay vào đó, ngươi sẽ sống để mưu cầu lẽ thật, làm người trung thực, để mưu cầu việc thỏa mãn Đức Chúa Trời và việc làm một loài thọ tạo chân chính. Tuân thủ nguyên tắc này thì ngươi sẽ buông bỏ được những hun đúc của gia đình.

– Cách mưu cầu lẽ thật (12), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Gia đình hun đúc người ta không phải chỉ với một vài câu nói, mà với một loạt danh ngôn và lời hay ý đẹp. Ví dụ như, các bậc trưởng bối và cha mẹ ngươi có thường nhắc đến câu “Người chết để tên, chim đi để tiếng” không? (Thưa, có.) Họ nói cho ngươi biết: “Người ta phải sống vì chữ “danh”. Cả đời này, người ta chẳng sống vì gì khác ngoài việc lưu lại danh thơm tiếng tốt và lưu lại ấn tượng tốt giữa mọi người. Hễ đi đâu, hãy hào phóng nói lời chào hỏi, lời tâng bốc, nói nhiều những lời tử tế hơn. Đừng đắc tội người ta, mà hãy làm thêm việc tốt, việc thiện”. Sự hun đúc đặc biệt này từ gia đình có tác động nhất định lên hành vi và nguyên tắc hành động của người ta, hệ quả tất yếu là họ rất xem trọng danh lợi. Nghĩa là họ xem trọng thanh danh, danh vọng, ấn tượng họ tạo ra trong lòng người khác và sự đánh giá của người khác về mọi việc họ làm, mọi quan điểm họ phát biểu. Khi xem trọng danh lợi, vô hình trung, ngươi xem nhẹ việc mình có thực hiện bổn phận hợp với lẽ thật và nguyên tắc hay không, có làm thỏa lòng Đức Chúa Trời hay không và có thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn hay không. Ngươi xem những thứ này là thứ yếu, là thứ hai, còn câu nói “Người chết để tên, chim đi để tiếng” mà gia đình hun đúc cho ngươi lại trở nên cực kỳ quan trọng đối với ngươi. Nó khiến ngươi cực kỳ chú ý đến từng chi tiết của bản thân trong suy nghĩ người khác. Nhất là, có người đặc biệt chú trọng lời đánh giá của người khác sau lưng họ, đến mức nằm nhoài ra chân tường, ghé tai vào khe cửa mà nghe, thậm chí còn nhìn lén đánh giá người khác viết về mình. Hễ có ai nhắc đến tên họ là họ nghĩ: “Phải nhanh chóng nghe xem họ đang nói gì về mình, xem họ có đánh giá tốt về mình không. Ôi trời, họ nói mình lười biếng, thích ăn đồ ngon. Vậy thì mình phải thay đổi, sau này không được lười biếng nữa, phải chịu khó thôi”. Chăm chỉ được một thời gian, họ lại tự nhủ: “Mình đã nghe ngóng xem mọi người có nói mình lười biếng không, có vẻ gần đây chẳng có ai nói vậy cả”. Nhưng họ vẫn chưa yên tâm, nên thi thoảng họ lại vô tình hoặc cố ý nhắc đến chuyện này với mọi người: “Tôi có hơi lười biếng”. Thế là người khác bảo họ: “Chị đâu có lười biếng, chị chịu khó hơn hồi trước nhiều mà”. Nghe thấy vậy, lòng họ liền thấy bình an, vui mừng và dễ chịu. “Xem kìa, đánh giá của mọi người về mình đã thay đổi. Có vẻ ai cũng để ý thấy sự cải thiện trong hành vi của mình”. Mọi việc ngươi làm không phải để thực hành lẽ thật, cũng không phải để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, mà là vì thanh danh của ngươi. Vô hình trung, mọi việc ngươi làm đã biến thành thứ gì nào? Biến thành một hành vi tôn giáo. Thực chất của ngươi đã biến thành gì nào? Ngươi đã biến thành một người Pha-ri-si điển hình. Con đường của ngươi đã biến thành gì nào? Biến thành con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Đức Chúa Trời xác định tính chất như vậy đấy. Cho nên, thực chất mọi việc ngươi làm đã bị biến chất, không còn như trước nữa, ngươi không thực hành hay mưu cầu lẽ thật, mà ngươi đang mưu cầu danh lợi. Cuối cùng, trong mắt Đức Chúa Trời, việc thực hiện bổn phận của ngươi, chỉ có một từ thôi, không đạt tiêu chuẩn. Tại sao lại thế? Bởi vì ngươi chỉ trung thành với thanh danh của mình, chứ không phải trung thành với sự ủy thác của Đức Chúa Trời, cũng không phải trung thành với bổn phận của một loài thọ tạo. Khi Đức Chúa Trời định nghĩa như thế, trong lòng ngươi có cảm thụ gì? Thấy niềm tin của ngươi vào Đức Chúa Trời bao nhiêu năm qua đã là vô ích sao? Vậy như thế nghĩa là bao lâu nay ngươi không hề mưu cầu lẽ thật sao? Ngươi đã không mưu cầu lẽ thật, ngươi chỉ đặc biệt chú trọng đến thanh danh, và căn nguyên của chuyện này chủ yếu đến từ sự hun đúc của gia đình đối với ngươi. Ngươi còn được hun đúc bởi câu nói phổ biến nào nữa? Câu “Người chết để tên, chim đi để tiếng” đã thâm căn cố đế trong nội tâm ngươi và trở thành lời cách ngôn của ngươi. Từ khi còn nhỏ, ngươi đã bị câu nói này ảnh hưởng và hun đúc, sau khi trưởng thành, ngươi thường lặp đi lặp lại câu nói này để ảnh hưởng đến thế hệ kế tiếp trong gia đình và với những người quanh ngươi. Dĩ nhiên, nghiêm trọng hơn nữa, ngươi đã coi nó như phương thức và nguyên tắc hành động và xử sự, thậm chí còn xem nó là mục tiêu và phương hướng mưu cầu trong đời. Mục tiêu và phương hướng của ngươi sai lầm, nên kết quả cuối cùng chắc chắn là tiêu cực. Vì thực chất mọi việc ngươi làm chỉ là vì thanh danh của ngươi, chỉ để thực hành câu nói “Người chết để tên, chim đi để tiếng”. Ngươi đâu có mưu cầu lẽ thật, nhưng lại không biết vậy. Ngươi nghĩ câu nói này chẳng có gì sai, con người chẳng phải sống vì thanh danh sao? Người ta thường nói “Người chết để tên, chim đi để tiếng”, câu này nghe có vẻ tích cực và chính đáng, nên ngươi vô thức tiếp nhận sự hun đúc của nó và xem nó là điều tích cực. Khi xem câu nói này là điều tích cực, thì ngươi vô thức mưu cầu và thực hành nó. Đồng thời, ngươi vô thức và hồ đồ coi nó thành lẽ thật và nguyên tắc lẽ thật. Khi xem nó là nguyên tắc lẽ thật, ngươi không còn nghe lời Đức Chúa Trời và cũng không hiểu lời Đức Chúa Trời phán. Ngươi mù quáng thực hành lời cách ngôn “Người chết để tên, chim đi để tiếng” và căn cứ vào nó mà hành động, rồi cuối cùng cái ngươi đạt được là một thanh danh tốt. Ngươi đã gặt hái được điều ngươi muốn, nhưng khi làm như thế, ngươi đã làm trái và buông bỏ lẽ thật, mất đi cơ hội được cứu rỗi. Nếu đã có kết quả như vậy, ngươi nên buông bỏ và chối bỏ quan niệm “Người chết để tên, chim đi để tiếng” mà gia đình hun đúc cho ngươi. Nó không phải là thứ ngươi nên giữ, cũng không phải là câu nói hay tư tưởng mà ngươi nên dốc sinh lực thời gian cả đời để thực hành. Suy nghĩ và quan điểm mà ngươi được truyền thụ và hun đúc này là sai lầm, ngươi nên buông bỏ nó đi. Lý do ngươi nên buông bỏ nó không phải chỉ bởi nó không phải là lẽ thật, mà còn bởi nó sẽ dẫn dắt ngươi lạc lối và cuối cùng đi đến diệt vong, nên hậu quả rất nghiêm trọng. Với ngươi, nó không chỉ là một câu nói, mà là một khối ung thư, một phương thức và phương tiện làm bại hoại con người. Vì trong lời phán, trong những yêu cầu đối với con người, Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu người ta mưu cầu thanh danh tốt, mưu cầu danh vọng tốt, lưu lại ấn tượng tốt với mọi người, khiến mọi người tán thành, khiến mọi người đưa ngón tay cái lên ra hiệu đồng tình, Ngài cũng không bao giờ cho phép người ta sống vì danh tiếng hoặc vì danh thơm tiếng tốt. Đức Chúa Trời chỉ muốn người ta làm tròn bổn phận, quy phục Ngài và vâng phục lẽ thật. Do đó, câu nói này đối với ngươi mà nói là một dạng hun đúc từ gia đình mà ngươi nên buông bỏ.

– Cách mưu cầu lẽ thật (12), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Còn một điều nữa mà gia đình hun đúc lên ngươi. Chẳng hạn như, khi cha mẹ hoặc trưởng bối khích lệ ngươi, họ thường nói, “Chịu được cái khổ nhất thiên hạ, mới đứng được trên thiên hạ”. Khi nói như thế, mục đích của họ là dạy ngươi chịu đựng khổ cực, siêng năng, có nghị lực, làm gì cũng không ngại khổ, bởi vì chỉ có những ai chịu được khổ cực, chịu được vất vả, chịu khó và có tinh thần phấn đấu mới có thể đứng trên thiên hạ. “Đứng trên thiên hạ” nghĩa là gì? Nghĩa là không bị ức hiếp, không bị xem thường hay kỳ thị, nghĩa là có uy danh và địa vị cao giữa mọi người, có thể có quyền phát biểu, có quyền quyết định, nghĩa là có thể có cuộc sống tốt đẹp hơn và có chất lượng sống cao hơn người khác, được mọi người đánh giá cao, bội phục và ngưỡng mộ. Về căn bản, nó nghĩa là ngươi thuộc tầng lớp cao trong toàn bộ nhân loại. “Tầng lớp cao” nghĩa là gì? Nghĩa là có nhiều người dưới chân ngươi và ngươi không cần phải chịu đựng bất kỳ sự ức hiếp nào từ họ, “đứng trên thiên hạ” có nghĩa là vậy. Để đứng trên thiên hạ, ngươi phải “chịu được cái khổ lớn nhất”, nghĩa là ngươi có thể chịu đựng những đau khổ mà người khác không chịu nổi. Nên trước khi đứng trên thiên hạ, ngươi phải có thể chịu được sự khinh bỉ, sự chế nhạo, mỉa mai, gièm pha cũng như sự thiếu thông hiểu của người khác, thậm chí cả sự phỉ nhổ của người khác, vân vân… Ngoài đau khổ thể xác, ngươi còn phải có thể tiếp nhận sự chế nhạo và giễu cợt của dư luận. Chỉ khi học được cách trở thành người như thế, ngươi mới có thể nên người xuất chúng và chiếm một chỗ đứng trong xã hội. Mục đích của câu nói này là khiến người ta trở thành bề trên thay vì thành tôi tớ, làm tôi tớ khổ lắm, bị ức hiếp, bất lực, chẳng có tôn nghiêm, chẳng có thể diện. Đây cũng là sự hun đúc của gia đình lên ngươi, mục đích cũng là vì tốt cho ngươi. Gia đình ngươi làm thế là để ngươi đừng bị ức hiếp, để ngươi có danh, có quyền, được ăn ngon, được hưởng thụ, để ngươi đi đâu cũng không ai dám ức hiếp, thay vào đó, ngươi có thể ăn ở ngang ngược, làm người ra quyết định và ai ai cũng phải cúi đầu khom lưng trước ngươi. Khi mưu cầu đứng trên thiên hạ, một mặt, ngươi làm thế vì bản thân, mặt khác, là để giành vẻ vang cho gia đình và làm rạng danh tiên tổ, để cha mẹ và người nhà của ngươi cũng được thơm lây và không phải bị ức hiếp. Nếu ngươi đã chịu nhiều đau khổ và vươn lên đứng trên thiên hạ, trở thành quan chức cấp cao, đi xe sang, ở biệt thự và bên cạnh có nhiều người vây quanh, thì gia đình đi theo ngươi cũng được thơm lây, và người nhà của ngươi cũng có thể ngồi xe sang, ăn ngon uống tốt. Bào ngư vi cá ngươi muốn ăn thì ăn, muốn đi đâu thì có thể đi đó, có thể hô mưa gọi gió, làm gì tùy thích, sống theo ý mình, sống hung hăng càn quấy, không cần phải dè dặt hay cụp đuôi ngoan ngoãn trước người khác, ngươi có thể muốn làm gì thì làm, thậm chí không cần tuân thủ pháp luật, cả gan làm loạn – đây chính là mục đích khi gia đình ngươi hun đúc ngươi như vậy, là để ngươi không bị tủi thân, khiến ngươi đứng trên thiên hạ. Nói thẳng ra, mục đích của họ là biến ngươi thành người lãnh đạo người khác, chỉ huy và sai sử người khác, biến ngươi thành người chỉ có đi ức hiếp chứ không bao giờ bị ức hiếp, biến ngươi thành bề trên thay vì thành người bị lãnh đạo. Không phải như thế sao? (Thưa, phải.) … Vậy về phương diện này, Đức Chúa Trời yêu cầu điều gì? Đức Chúa Trời có yêu cầu người ta đứng trên thiên hạ, đừng làm người bình thường, tầm thường, thấp kém, xoàng xĩnh, mà phải làm vĩ nhân, danh nhân, cao nhân không? Đức Chúa Trời yêu cầu con người như thế sao? (Thưa, không.) Rõ ràng câu nói mà gia đình hun đúc cho ngươi “Chịu được cái khổ nhất thiên hạ, mới đứng được trên thiên hạ”, không dẫn dắt ngươi theo hướng tích cực, và dĩ nhiên nó chẳng liên quan gì đến lẽ thật. Gia đình ngươi khiến ngươi chịu khổ với một mục đích không đơn thuần, mà có âm mưu ở trong đó, quá bỉ ổi và hèn hạ. Đức Chúa Trời khiến người ta chịu khổ bởi vì họ có những tâm tính bại hoại. Nếu người ta muốn được làm cho tinh sạch khỏi những tâm tính bại hoại, thì họ phải chịu khổ, đây là sự thật khách quan. Hơn nữa, Đức Chúa Trời yêu cầu con người chịu khổ: Đây là việc mà một loài thọ tạo nên làm, cũng là điều mà một người bình thường nên chịu đựng, là thái độ mà một người bình thường nên có. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi đứng trên thiên hạ. Ngài chỉ yêu cầu ngươi làm người bình thường, phổ thông, hiểu lẽ thật, nghe lời Ngài, vâng phục Ngài, chỉ thế thôi. Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu ngươi phải cho Ngài niềm vui bất ngờ, không cần ngươi phải làm chuyện kinh thiên động địa, Ngài cũng không cần ngươi làm danh nhân hay vĩ nhân. Ngài chỉ cần ngươi làm một người bình thường và phổ thông, một con người thực tế, và cho dù ngươi chịu bao nhiêu đau khổ hoặc ngươi có chịu được khổ hay không, nếu cuối cùng, ngươi có thể đạt đến kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, thì đó là con người tốt nhất ngươi có thể trở thành. Điều Đức Chúa Trời muốn không phải là người đứng trên thiên hạ, mà là một loài thọ tạo đích thực, là người có thể thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo. Con người này bình thường và phổ thông, có nhân tính bình thường, có lương tâm và lý trí, chứ không phải là một cao nhân, vĩ nhân trong mắt người ngoại đạo hay nhân loại bại hoại. Trước đây đã thông công nhiều về phương diện này, nên giờ không cần thông công thêm nữa. Câu nói “Chịu được cái khổ nhất thiên hạ, mới đứng được trên thiên hạ” rõ ràng là điều mà ngươi nên buông bỏ. Chính xác thì ngươi nên buông bỏ điều gì? Ngươi nên buông bỏ phương hướng mà gia đình hun đúc cho ngươi mưu cầu. Nghĩa là ngươi nên thay đổi phương hướng mưu cầu của mình. Đừng làm bất cứ chuyện gì để đứng trên thiên hạ, để xuất chúng, xuất sắc hay là được người khác đánh giá cao. Thay vào đó, ngươi nên buông bỏ những ý định, mục đích và động cơ này, làm mọi việc một cách thực tế để trở nên một loài thọ tạo chân chính. Ta nói “một cách thực tế” là có ý gì? Nguyên tắc căn bản nhất là làm mọi việc căn cứ theo những phương thức và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời đã dạy cho con người. Cứ cho là những gì ngươi làm không khiến ngươi bỗng nhiên nổi tiếng, không khiến ngươi được mọi người coi trọng, càng không khiến ngươi được khen ngợi hay đánh giá cao. Nhưng nếu đó là việc ngươi nên làm, thì ngươi nên kiên trì và tiếp tục làm, xem nó như là bổn phận mà một loài thọ tạo phải thực hiện. Làm được thế, ngươi sẽ là một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn trong mắt Đức Chúa Trời, đơn giản vậy thôi. Điều ngươi cần thay đổi là sự mưu cầu liên quan đến cách làm người và nhân sinh quan của ngươi.

– Cách mưu cầu lẽ thật (12), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Gia đình hun đúc và ảnh hưởng ngươi theo những cách khác, chẳng hạn như câu nói “Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất”. Người nhà thường dạy ngươi: “Phải thiện chí giúp người, đừng tranh chấp, đừng kết thù oán với ai, bởi vì nếu gây thù chuốc oán quá nhiều thì sẽ không thể có chỗ đứng trong xã hội, nếu có quá nhiều người ghét con và muốn hại con, thì con sẽ không an toàn trong xã hội. Con sẽ bị uy hiếp bất cứ lúc nào, sự sống còn, địa vị, gia đình, an nguy bản thân và thậm chí là tiền đồ sự nghiệp cũng sẽ bị hủy hoại và cản trở bởi những kẻ tiểu nhân. Nên con phải học được rằng ‘Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất’. Hãy hòa hảo với mọi người, đừng làm mất hòa khí, nói lời thì phải chừa đường lui, đừng làm tổn hại sĩ diện của người khác, và đừng vạch trần thiếu sót của người khác. Những lời khó nghe thì bớt nói, thậm chí đừng nói. Chỉ nói lời lấy lòng thôi, vì dỗ dành người ta thì có hại gì đâu. Con phải học cách nhẫn nhịn trong cả chuyện lớn và chuyện nhỏ, bởi vì ‘Nhẫn một chút sóng yên gió lặng, lùi một bước biển rộng trời cao’”. Cứ nghĩ mà xem, gia đình ngươi truyền thụ cho ngươi hai suy nghĩ và quan điểm cùng một lúc. Một mặt, họ nói ngươi cần phải thiện chí giúp người, mặt khác họ bảo ngươi phải nhẫn nhịn, đừng nói năng bừa bãi, có lời muốn nói cũng phải nuốt xuống, tới khi về nhà thì nói sau, thậm chí về đến nhà cũng không thể nói với cả người nhà, bởi vì tai mách vạch rừng, nếu bí mật bị lộ ra thì sẽ không tốt đẹp gì cho ngươi. Để có chỗ đứng và sinh tồn trong xã hội này, người ta phải học được một điều, là hãy làm người hòa giải. Nói theo cách thông tục là ngươi phải khôn khéo và giảo hoạt, trong lòng có gì nói đó, nghĩ gì nói nấy, thì đấy là ngu ngốc chứ chẳng phải thông minh. Có người như thùng thuốc súng, có gì nói nấy. Người như thế cuối cùng sẽ đắc tội với cấp trên. Cấp trên sẽ gây khó dễ cho anh ấy, hủy bỏ tiền thưởng của anh ấy, luôn tìm cớ để gây sự với anh ấy. Cuối cùng, anh ấy không chịu nổi công việc này nữa. Nếu nghỉ việc thì mất sinh kế. Nếu không nghỉ thì chỉ có thể gồng mình làm một công việc mà anh ấy đã hết sức chịu đựng. Trên không thông, dưới không thông, gọi là gì? “Kẹt”, rơi vào thế kẹt. Người nhà bảo anh ấy: “Con đáng bị ức hiếp như vậy, phải nhớ câu: “Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất!”. Con làm thùng thuốc súng, có gì nói nấy, bị vậy là đáng lắm! Con phải khôn khéo một chút, lời đến miệng rồi cũng hãy suy nghĩ cho kỹ, nhưng con lại không chịu nghĩ, cứ nói thẳng toạc ra. Nghĩ cấp trên con dễ đùa giỡn à? Nghĩ sinh tồn trong xã hội này mà dễ à? Con luôn cho rằng mình chỉ thẳng thắn. Giờ lãnh phải trái đắng rồi đấy. Cứ xem đây là bài học kinh nghiệm đi! Sau này, con hãy ghi nhớ câu ‘Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất’!”. Khi đã học được bài học, anh ấy ghi nhớ nó và nghĩ: “Cha mẹ dạy dỗ mình là đúng. Đây là cảm ngộ cuộc đời, là tinh túy, không nghe không được, không nghe lời người lớn, hậu quả ngay trước mắt, nên sau này mình phải ghi nhớ mới được”. Sau khi tin Đức Chúa Trời và vào nhà Đức Chúa Trời, anh ấy vẫn ghi nhớ câu nói này, “Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất”, và hễ gặp anh chị em là chào hỏi, cố hết sức nói những lời dễ nghe. Lãnh đạo nói: “Tôi làm lãnh đạo cũng lâu rồi, nhưng chưa có đủ kinh nghiệm công tác”. Thế là anh ấy vội vàng tâng bốc: “Anh đang làm tốt lắm mà. Không có anh lãnh đạo, chúng tôi đâu biết đi đường nào”. Người khác bảo: “Tôi đã đạt được sự biết mình, tôi nghĩ mình khá gian trá”. Thế là anh ấy trả lời: “Anh đâu có gian trá, anh rất trung thực mà, tôi mới là người gian trá”. Người khác nói lời khó nghe với anh ấy, thế là anh ấy tự nhủ: “Không cần sợ lời nói khó nghe đó, tệ hơn nữa mình còn chịu được mà. Dù anh nói khó nghe đến đâu, tôi sẽ cứ giả vờ như không nghe thấy, sẽ tiếp tục tâng bốc anh, cố hết sức để lấy lòng anh, bởi vì dỗ dành người khác thì đời nào có hại gì”. Hễ có ai bảo anh ấy cho ý kiến hoặc cởi mở thông công, thì anh ấy cũng không nói thật, với ai cũng vui tươi hớn hở. Có người hỏi anh ấy: “Sao lúc nào anh cũng vui tươi hớn hở thế? Anh là kiểu miệng nam mô, bụng một bồ dao găm à?”. Anh ấy tự nhủ: “Tôi miệng nam mô, bụng một bồ dao găm nhiều năm rồi, suốt bấy lâu nay, tôi chưa hề bị tổn hại gì, nên nó đã trở thành nguyên tắc xử thế tối cao của tôi”. Anh này chẳng phải là hòn đá trơn sao? (Thưa, phải.) Có người lăn lộn trong xã hội như thế này nhiều năm, khi vào nhà Đức Chúa Trời rồi vẫn tiếp tục làm thế. Họ không bao giờ nói được một lời nói thật, không bao giờ mở lòng nói chuyện, không bao giờ nói về chuyện biết mình. Kể cả khi anh chị em bày tỏ tấm lòng với họ, họ vẫn không nói thật lòng, không ai hiểu được thật sự trong đầu họ nghĩ gì. Họ không bao giờ bộc lộ mình nghĩ gì, có quan điểm gì, họ giữ quan hệ rất tốt với mọi người và ngươi không biết được họ thích loại người nào, thích người có tính cách như thế nào, hay họ thật sự nghĩ gì về người khác. Nếu ai đó hỏi họ xem người này người nọ là người thế nào thì họ trả lời: “Anh ấy đã tin Đức Chúa Trời hơn mười năm, nên anh ấy khá tốt”. Ai hỏi thăm họ về người nào, họ cũng đều nói là người đó khá tốt hoặc không tồi. Nếu có người hỏi họ: “Anh có thấy anh ấy có thiếu sót hay tật xấu gì không?”. Họ sẽ trả lời: “Cho đến giờ, tôi chưa thấy gì, sau này tôi sẽ lưu ý kỹ hơn”, nhưng trong lòng họ lại nghĩ: “Anh bảo tôi đắc tội với người đó, việc này chắc chắn tôi không làm đâu! Nếu tôi nói thật với anh rồi người đó phát hiện, anh ấy chẳng phải sẽ trở thành kẻ thù của tôi sao? Gia đình tôi từ lâu đã bảo tôi đừng gây thù chuốc oán, tôi chưa quên lời họ đâu. Anh nghĩ tôi ngu ngốc à? Anh nghĩ anh thông công đôi ba câu lẽ thật là tôi liền quên sự dạy dỗ và hun đúc của gia đình đối với mình à? Không có đâu! Những câu như ‘Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất’ và ‘Nhẫn một chút sóng yên gió lặng, lùi một bước biển rộng trời cao’ chưa bao giờ sai, chúng là lá bùa hộ mệnh của tôi. Ai có tật xấu, tôi cũng không nói, ai chọc giận tôi, tôi sẽ nhẫn nhịn. Chưa thấy mấy chữ in trên trán tôi à? Là chữ “Nhẫn” đấy, gồm ký tự thanh đao nằm trên trái tim. Ai nói lời khó nghe, nhẫn nhịn. Ai tỉa sửa tôi, nhẫn nhịn. Mục đích của tôi là giữ hòa khí với tất cả mọi người, duy trì quan hệ ở mức độ này. Đừng khăng khăng giữ các nguyên tắc, đừng quá ngu ngốc, đừng quá cứng nhắc, phải học cách nương theo hoàn cảnh chứ! Biết tại sao con rùa sống lâu vậy không? Chẳng phải vì gặp phải vật cứng là nó rúc vào mai sao? Như thế có thể bảo vệ bản thân và sống đến ngàn tuổi. Đấy là cách sống thọ, cũng là cách xử thế”. Ngươi chẳng bao giờ nghe được bất cứ lời nói thật hay lời thật lòng nào từ miệng những người như thế, quan điểm thật sự của họ và ranh giới đỏ của họ trong hành xử là đừng bao giờ phơi bày. Họ chỉ nghĩ về những chuyện này, suy đi ngẫm lại, nhưng ngoài họ ra, chẳng ai biết được. Loại người này bên ngoài thì tử tế với tất cả mọi người, có vẻ lương thiện, chẳng làm tổn hại ai. Nhưng thật ra, họ là người hòa giải, là hòn đá trơn. Loại người này luôn được một số người trong hội thánh yêu thích, vì họ không bao giờ phạm lỗi lớn, không bao giờ để lộ bộ mặt thật, lãnh đạo hội thánh và các anh chị em đánh giá họ tương tác khá tốt với tất cả mọi người. Thực hiện bổn phận chẳng thờ ơ cũng chẳng nhiệt tình, được bảo gì thì làm nấy. Họ đặc biệt biết nghe lời và khôn ngoan, không bao giờ làm tổn thương ai khi chuyện trò và xử sự, không bao giờ lợi dụng ai. Họ không bao giờ nói xấu ai, cũng không bao giờ phán xét ai sau lưng. Nhưng chẳng ai biết liệu họ có thật lòng thực hiện bổn phận hay không, chẳng ai biết trong lòng họ suy nghĩ và đánh giá thế nào về người khác. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, ngươi còn cảm thấy loại người này thật sự có chút kỳ lạ và rất khó dò, cảm thấy giữ họ lại có lẽ sẽ gây rắc rối. Ngươi nên làm sao đây? Khá khó nhằn đấy, phải không nào? Khi họ thực hiện bổn phận, ngươi có thể thấy họ chăm lo việc của mình, nhưng họ không bao giờ để tâm đến những nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời đã dặn dò họ. Họ thích gì làm nấy, chỉ cần làm việc theo hình thức, không phạm sai lầm lớn nào là được. Do đó, ngươi không thể nắm thóp hay bới móc ra bất cứ tật xấu nào ở họ. Họ làm việc thì không chê vào đâu được, nhưng trong lòng họ nghĩ gì? Họ có muốn thực hiện bổn phận không? Nếu không có các sắc lệnh quản trị của hội thánh, không có sự giám sát của lãnh đạo hội thánh hay của các anh chị em, người này có thể cấu kết với kẻ ác không? Họ có thể cùng kẻ ác làm việc xấu và làm việc ác không? Khả năng đó rất cao, và họ có thể làm việc đó, nhưng họ chưa làm thôi. Loại người này là phiền phức nhất, họ là con cáo già và hòn đá trơn điển hình. Họ không so đo với ai. Có ai nói gì làm tổn thương họ, hoặc bộc lộ tâm tính bại hoại liên quan đến tôn nghiêm của họ, thì họ sẽ nghĩ gì? “Tôi sẽ nhẫn nhịn, tôi sẽ không so đo với anh, nhưng có ngày anh sẽ xấu mặt thôi!”. Khi người đó thật sự bị xử lý hoặc bị xấu mặt, thì họ cười thầm trong bụng. Họ sẵn sàng giễu cợt người khác, giễu cợt lãnh đạo và nhà Đức Chúa Trời, nhưng họ không giễu cợt bản thân mình. Họ chỉ không biết mình có vấn đề hay tật xấu gì. Người như thế cẩn thận không để lộ bất kỳ điều gì có thể làm tổn thương người khác, hay bất kỳ điều gì có thể khiến người khác nhìn thấu họ, dù họ vẫn nghĩ về những chuyện đó trong lòng. Còn những chuyện có thể mê hoặc và làm tê dại người khác, thì họ đều thể hiện ra ngoài và để người ta nhìn thấy. Người như thế là dạng thâm hiểm nhất và khó xử lý nhất. Vậy nhà Đức Chúa Trời có thái độ như thế nào đối với loại người này? Dùng được thì dùng, không dùng được thì thanh trừ, nguyên tắc là vậy. Tại sao lại thế? Bởi vì người như thế này không được tiền định để mưu cầu lẽ thật. Họ là người không tin, khi chuyện bất thành thì giễu cợt nhà Đức Chúa Trời, giễu cợt anh chị em và lãnh đạo. Vậy họ đóng vai trò gì? Có phải là vai trò của Sa-tan và ma quỷ không? (Thưa, phải.) Khi họ nhẫn nại với anh chị em, trong đó không có sự bao dung hay lòng yêu thương chân thật. Họ làm thế để bảo vệ bản thân và tránh thu hút kẻ thù hay nguy hiểm cho mình. Họ không bao dung để bảo vệ anh chị em, cũng không làm thế xuất phát từ lòng yêu thương, càng không phải vì họ đang mưu cầu lẽ thật và thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật. Thái độ của họ hoàn toàn chú trọng vào việc sống cho qua ngày và mê hoặc người khác. Người như thế là người hòa giải và hòn đá trơn. Họ không thích lẽ thật, không mưu cầu lẽ thật, mà cứ sống cho qua ngày đoạn tháng. Rõ ràng sự hun đúc mà họ nhận được từ gia đình có ảnh hưởng lớn đến cách họ hành xử và xử sự. Dĩ nhiên, phải nói rằng những phương thức và nguyên tắc xử thế này là thứ không thể tách rời khỏi thực chất nhân tính. Hơn nữa, sự hun đúc từ gia đình chỉ khiến hành động của họ càng đến nơi đến chốn hơn và cụ thể hơn, bộc lộ thực chất bản tính của họ triệt để hơn. Do đó, khi đối diện với những vấn đề đúng sai cốt lõi, trong những chuyện có liên quan đến lợi ích nhà Đức Chúa Trời, nếu những người như thế có thể đưa ra lựa chọn thích hợp và buông bỏ những triết lý xử thế mà họ nuôi dưỡng trong lòng như “Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất” để bảo vệ lợi ích nhà Đức Chúa Trời, giảm bớt sự vi phạm và giảm bớt việc hành ác trước Đức Chúa Trời, thì họ sẽ được lợi ích gì? Ít nhất, trong tương lai khi Đức Chúa Trời quyết định kết cục của mỗi người, sự trừng phạt và trách phạt của Đức Chúa Trời đối với họ sẽ được giảm bớt. Khi thực hành theo cách này, những người như thế chẳng mất mát gì mà lại được lợi trăm phần, không phải sao? Nếu buộc họ hoàn toàn buông bỏ triết lý xử thế của mình, thì không dễ, bởi vì nó liên quan đến thực chất nhân tính, những người hòa giải và hòn đá trơn này hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật. Không đơn giản và dễ dàng để họ buông bỏ những triết lý Sa-tan mà gia đình đã hun đúc cho họ, bởi vì dù có gạt những sự hun đúc từ gia đình này sang một bên, bản thân họ chính là người sùng bái những triết lý của Sa-tan, và họ thích thái độ xử thế này, vốn là một thái độ xử thế cá nhân rất chủ quan. Nhưng nếu họ thông minh – trong trường hợp lợi ích của họ không bị đe dọa hay tổn hại mà họ buông bỏ một vài cách làm kiểu này để bảo vệ thỏa đáng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời – thì đó thật sự là điều tốt cho họ, bởi ít nhất nó có thể giảm nhẹ tội trạng, giảm nhẹ sự trách phạt của Đức Chúa Trời với họ, thậm chí còn biến sự trách phạt thành tưởng thưởng và ghi nhớ. Như thế thì tuyệt vời biết bao! Như thế chẳng phải là chuyện tốt sao? (Thưa, phải.)

– Cách mưu cầu lẽ thật (12), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Gia đình còn hun đúc ngươi những gì nữa? Chẳng hạn như, cha mẹ thường xuyên bảo ngươi: “Con mà to miệng to mồm, nói năng bừa bãi, thì sớm muộn gì cũng sẽ chịu thiệt vì cái miệng thối đó thôi! Con phải nhớ ‘Nói nhiều tất sai’! Câu này nghĩa là gì? Nghĩa là nếu con nói nhiều, chắc chắn sẽ có chỗ sơ xuất. Dù gặp chuyện gì, cũng đừng ăn nói bừa bãi, xem người khác nói gì đã rồi hẵng nói. Cứ thuận theo số đông thì con sẽ ổn cả. Nhưng nếu con lúc nào cũng cố ra mặt, lúc nào cũng nói năng bừa bãi, bộc lộ quan điểm mà chẳng biết sếp lớn, cấp trên hay mọi người xung quanh đang nghĩ gì, một khi sếp lớn hay cấp trên chẳng nghĩ như con, thế thì họ sẽ làm khó con. Như vậy thì liệu con còn có thể có quả ngọt để ăn không? Con ngốc à, sau này phải chú ý. Nói nhiều tất sai. Nhớ lấy và đừng nói năng bừa bãi! Cái miệng là để ăn, để thở, để lấy lòng cấp trên, để lấy lòng mọi người, chứ không phải để nói thật. Nói năng thì phải lựa lời, phải có kỹ xảo, có phương pháp, phải dùng đầu óc. Lời lên đến miệng rồi, cũng phải nuốt xuống, kiểm đi kiểm lại trong đầu, chờ đến lúc thích hợp mới nói. Lúc nói cũng phải tùy vào tình hình. Nếu con bắt đầu nói ra ý kiến của mình, nhưng lại để ý thấy người ta không thích thú hoặc có phản ứng không tốt, thì dừng ngay và nghĩ xem nên nói gì để làm mọi người vui rồi mới nói tiếp. Làm như vậy mới là đứa trẻ thông minh. Con mà làm vậy thì sẽ không gặp họa, ai cũng sẽ thích con. Nếu ai cũng thích con, chẳng phải sẽ có lợi cho con sao? Như thế sau này con chẳng có thêm cơ hội sao?”. Gia đình hun đúc ngươi không chỉ bằng cách bảo ngươi phải đạt được thanh danh, đứng trên thiên hạ, thiết lập chỗ đứng giữa mọi người, mà còn bảo ngươi cách dùng hình tượng để lừa gạt người khác và không được nói thật, càng không nên nói ra hết mọi điều trong đầu. Có người sau khi chịu đựng một vài thiệt thòi vì nói thật, họ nhớ tới câu gia đình dặn dò mình “Nói nhiều tất sai”, và rút ra được bài học. Sau đó, họ ngày càng sẵn lòng thực hành câu nói này, biến nó thành phương châm của mình. Có những người trước khi chịu thiệt đã rất nghiêm túc tiếp nhận sự hun đúc của gia đình về phương diện này, bất kể trong trường hợp nào, họ đều liên tục thực hành câu nói này. Càng thực hành nó, họ càng cảm thấy “Cha mẹ và ông bà quá tốt với mình, ai cũng thật lòng với mình và đều là vì muốn tốt cho mình. Mình thật may mắn khi được ông bà cha mẹ dạy cho câu “Nói nhiều tất sai”, nếu không thì không biết mình đã chịu đựng bao nhiêu thiệt thòi vì cái miệng rộng này rồi, không biết đã có bao nhiêu người gây khó dễ cho mình, khinh bỉ, chế nhạo hoặc giễu cợt mình rồi. Câu nói này đúng là hữu dụng và có lợi ích thực tế!”. Trong quá trình thực hành câu nói này, họ đạt được nhiều lợi ích thực tế. Dĩ nhiên, khi đến trước Đức Chúa Trời, họ vẫn nghĩ rằng câu nói này là thứ hữu dụng và có lợi ích thực tế nhất. Mỗi khi có anh chị em nào thẳng thắn thông công về tình trạng cá nhân, sự bại hoại hay trải nghiệm và hiểu biết của bản thân, thì họ cũng cảm thấy muốn thông công, muốn làm người cởi mở và bộc trực, muốn trung thực nói ra những suy nghĩ trong nội tâm hoặc những điều họ biết được, để tạm thời xoa dịu tâm trạng vốn đã bị ức chế suốt nhiều năm của họ, hoặc để được đôi chút tự do và giải phóng. Nhưng mỗi lần họ nhớ lại lời cha mẹ thường dặn dò họ, cụ thể là “‘Nói nhiều tất sai’, đừng nói năng bừa bãi, nên nghe hơn là nói, học cách lắng nghe người khác đi”, thế là bao nhiêu lời muốn nói cũng đành nuốt xuống hết. Khi mọi người nói xong rồi, họ cũng chẳng nói gì, mà nghĩ thầm trong bụng: “Tốt quá, may mà lần này mình không nói gì, bởi vì mình mà mở miệng thì mọi người có thể sẽ có ý kiến về mình và có lẽ mình sẽ bị tổn thất gì đó. Không nói gì là tốt, chưa biết chừng mọi người sẽ vẫn nghĩ mình là người trung thực, không giả dối, chỉ là bẩm sinh có tính trầm mặc ít nói, nên không phải là người lắm mưu mô hay nhiều bại hoại, càng không phải là người có quan niệm về Đức Chúa Trời, mà là một người đơn thuần và cởi mở. Người ta có ấn tượng về mình như thế cũng không tồi, tại sao phải mở miệng nói gì chứ? Mình thật sự thấy câu “Nói nhiều tất sai” đem lại hiệu quả nhất định với bản thân mình, nên mình sẽ tiếp tục hành động như thế này”. Tuân thủ câu nói này cho họ một cảm giác tốt đẹp và có thu hoạch, nên họ giữ im lặng một lần, hai lần, và mãi cho đến một ngày, họ thật sự rất bứt rứt và muốn mở lòng với anh chị em, nhưng miệng họ như bị dán keo, bị quấn băng, và họ không thể thốt ra nổi câu nào. Vì không thể nói với các anh chị em, nên họ quyết định thử thưa với Đức Chúa Trời, thế là họ quỳ gối trước Ngài, thưa rằng: “Thưa Đức Chúa Trời, con có điều này muốn thưa lên. Con…” Dù trong lòng họ đã nghĩ hết rồi nhưng vẫn không biết nói thế nào, không biết biểu đạt, như thể họ đã trở thành người câm tiêu chuẩn rồi. Họ không biết cách cân nhắc câu từ, không biết cách sắp xếp ngôn ngữ. Những cảm xúc bứt rứt tích tụ quá nhiều năm khiến họ cảm thấy ức chế, thấy mình sống một cuộc sống quá tăm tối và đê hèn, rồi khi quyết tâm thưa lên với Đức Chúa Trời những lời thật lòng và giãi bày cảm xúc của mình, thì họ lại không tìm được lời để nói, không biết nói từ đâu hay nói thế nào. Họ không đáng thương sao? (Thưa, có.) Vậy tại sao họ chẳng có gì để thưa với Đức Chúa Trời? Họ chỉ giới thiệu được bản thân mà thôi. Họ muốn thưa với Đức Chúa Trời những lời trong lòng mình, nhưng lại chẳng có lời nào, cuối cùng họ chỉ nói được một câu: “Thưa Đức Chúa Trời, xin Ngài ban cho con lời lẽ con nên nói!”. Đức Chúa Trời đáp: “Ngươi có quá nhiều điều nên nói, nhưng ngươi không muốn nói ra, cho ngươi cơ hội ngươi cũng không nói ra, nên Ta lấy lại mọi sự Ta đã ban cho ngươi. Ta sẽ không ban cho ngươi, vì ngươi không xứng đáng”. Chỉ khi đó, họ mới cảm thấy bao năm qua mình đã mất đi quá nhiều. Dù họ cảm thấy mình đã sống một cuộc đời có tôn nghiêm, đã che đậy bản thân kín kẽ, đã ngụy trang bản thân hoàn hảo, nhưng khi thấy suốt bao lâu nay, các anh chị em có được thu hoạch, không mảy may dè dặt nói về những trải nghiệm của mình và cởi mở về sự bại hoại của mình, những người này mới nhận ra bản thân mình chẳng nói nổi câu nào, cũng chẳng biết nói thế nào. Họ tin Đức Chúa Trời nhiều năm như thế rồi, cũng muốn nói về sự biết mình, muốn thảo luận về trải nghiệm và thể nghiệm của mình với lời Đức Chúa Trời, muốn đạt được chút khai sáng và chút ánh sáng từ Đức Chúa Trời, muốn có chút thu hoạch. Nhưng tiếc thay, vì họ thường xuyên giữ vững tư tưởng “Nói nhiều tất sai”, và thường xuyên bị tư tưởng này ràng buộc và kiểm soát, nên họ đã sống vì câu nói này suốt nhiều năm trời, chẳng nhận được sự khai sáng hay soi sáng nào từ Đức Chúa Trời, về lối vào sự sống, họ vẫn nghèo rớt mùng tơi, như một người khố rách áo ôm. Về câu nói và tư tưởng “Nói nhiều tất sai” này, họ đã thực hành hoàn hảo, đã tuân thủ triệt để, thế mà dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy, họ vẫn không đạt được gì trong lẽ thật, vẫn nghèo nàn và mù quáng. Đức Chúa Trời cho họ cái miệng, nhưng họ không có khả năng nói chuyện để thông công lẽ thật, cũng không có khả năng nói về cảm nhận và hiểu biết của mình, càng không có khả năng thông công với các anh chị em. Đáng thương hơn nữa là họ còn không có khả năng thưa chuyện với Đức Chúa Trời, họ đã mất đi khả năng đó rồi. Họ không đáng thương sao? (Thưa, có.) Đáng thương và đáng buồn. Không phải ngươi không thích nói chuyện sao? Không phải ngươi lúc nào cũng sợ nói nhiều tất sai sao? Vậy thì ngươi đừng bao giờ nói gì cả. Ngươi che đậy những suy nghĩ trong lòng và những điều mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi, đè nén chúng, niêm phong chúng và không cho chúng thoát ra. Ngươi luôn sợ mất mặt, sợ mình bị đe dọa, sợ người khác nhìn thấu ngươi, luôn sợ mình sẽ không còn là người tốt, trung thực và hoàn hảo trong mắt người khác, cho nên ngươi che đậy bản thân, chẳng bao giờ nói ra suy nghĩ thật của mình. Cuối cùng sẽ thế nào? Ngươi trở thành “người câm” hoàn toàn. Ai hại ngươi đến vậy? Nhìn từ góc độ gốc rễ là do sự hun đúc của gia đình đã làm hại ngươi. Nhưng nhìn từ góc độ cá nhân, thì còn là vì ngươi thích sống theo các triết lý Sa-tan, nên ngươi chọn tin rằng sự hun đúc của gia đình mình là đúng đắn và không tin rằng những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với ngươi là tích cực. Ngươi chọn xem sự hun đúc của gia đình đối với ngươi là điều tích cực, và xem lời Đức Chúa Trời, yêu cầu, sự cung ứng, giúp đỡ và dạy bảo của Đức Chúa Trời là sự vật tiêu cực, đối tượng phải đề phòng. Do đó, bất kể Đức Chúa Trời ban cho ngươi nhiều bao nhiêu, nhưng vì ngươi đề phòng và từ chối suốt bao năm qua, nên kết quả cuối cùng là Đức Chúa Trời thu hồi lại hết và chẳng cho ngươi gì cả, bởi vì ngươi không xứng đáng. Cho nên, trước khi chuyện thành ra như thế, ngươi nên buông bỏ sự truyền thụ của gia đình về phương diện này, đừng chấp nhận tư tưởng sai lầm “Nói nhiều tất sai”. Câu nói này khiến ngươi trở nên khép kín hơn, nham hiểm hơn và giả dối hơn. Nó hoàn toàn đi ngược lại và tương phản với yêu cầu của Đức Chúa Trời muốn con người trung thực, bộc trực và cởi mở. Là người tin Đức Chúa Trời và đi theo Ngài thì ngươi phải mưu cầu lẽ thật như là chuyện không thể thoái thác. Và khi mưu cầu lẽ thật như là chuyện không thể thoái thác, ngươi nên buông bỏ mọi cái gọi là sự hun đúc tốt của gia đình đối với ngươi như là chuyện không thể thoái thác, đây là chuyện không nên có lựa chọn. Bất kể gia đình hun đúc ngươi cái gì, bất kể chúng có tốt đẹp hay hữu ích với ngươi thế nào, bất kể chúng bảo vệ ngươi nhiều thế nào, thì chúng đều phát xuất từ con người và Sa-tan, và ngươi nên buông bỏ chúng. Dù lời Đức Chúa Trời và yêu cầu của Ngài đối với con người có lẽ trái ngược với sự hun đúc của gia đình đối với ngươi, hay thậm chí là làm tổn hại đến lợi ích của ngươi, tước đoạt quyền lợi của ngươi, hay thậm chí ngươi thấy chúng không bảo vệ ngươi mà lại cố ý phơi bày ngươi và khiến ngươi xấu mặt, bất kể như thế, ngươi vẫn nên xem chúng là những điều tích cực, bởi vì chúng phát xuất từ Đức Chúa Trời, là lẽ thật, và ngươi nên tiếp nhận chúng. Nếu những thứ mà gia đình hun đúc ngươi có liên quan đến tư tưởng và cách làm người của ngươi, nhân sinh quan của ngươi và con đường ngươi đi, thì ngươi nên buông bỏ chúng, không nên kiên trì. Thay vào đó, ngươi nên thay thế chúng bằng những lẽ thật tương ứng từ Đức Chúa Trời, đồng thời ngươi cũng nên liên tục phân biệt và nhận rõ những vấn đề nội tại và thực chất của những thứ mà gia đình hun đúc cho ngươi, rồi hành động và thực hành theo lời Đức Chúa Trời một cách chính xác hơn, thực tế hơn và chân thực hơn. Tiếp nhận những suy nghĩ đến từ Đức Chúa Trời, tiếp nhận quan điểm nhìn nhận con người và sự việc, những nguyên tắc thực hành đến từ Đức Chúa Trời, đây là trách nhiệm mà một loài thọ tạo không thể thoái thác, và là điều mà loài thọ tạo nên làm, cũng là tư tưởng và quan điểm mà một loài thọ tạo nên có.

– Cách mưu cầu lẽ thật (12), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Gia đình còn có một kiểu hun đúc khác. Ví dụ như người nhà luôn bảo ngươi rằng: “Đừng làm người quá xuất chúng giữa đám đông, phải khiêm tốn một chút và tập tiết chế lại một chút trong lời nói và hành động, trong tài cán, năng lực, chỉ số thông minh, vân vân… Đừng làm một người nổi bật. Giống như có câu, ‘Chim ló đầu thì bị bắn’, và ‘Cái kèo nhô ra ngoài thì mục nát đầu tiên’. Nếu con muốn tự bảo vệ mình và muốn ở trong tập thể lâu dài yên ổn, thì đừng làm chim ló đầu, con nên kiềm chế bản thân và đừng khao khát trở nên tốt đẹp hơn mọi người. Hãy nhìn cái cột thu lôi, sét sẽ đánh vào nó trước, cái nào nhô cao hơn thì bị sét đánh trước; khi gió thổi mạnh cái cây nào cao hơn sẽ phải hứng chịu trước và gặp họa trước; khi trời lạnh, ngọn núi nào cao hơn sẽ bị đóng băng trước. Con người cũng vậy – nếu con luôn xuất đầu lộ diện giữa đám đông, thì Đảng sẽ để ý đến con, nó sẽ nghiêm túc xem xét chuyện trừng trị con. Đừng làm chim ló đầu, đừng bay một mình, mà nên ở lại trong bầy. Nếu không, lỡ như có bất cứ phong trào nào thì con sẽ là người bị trừng trị đầu tiên, vì con là chim ló đầu. Trong hội thánh, đừng làm lãnh đạo hay trưởng nhóm. Lỡ như có bất cứ tổn thất hay vấn đề nào liên quan đến công tác trong nhà Đức Chúa Trời, với vai trò lãnh đạo hoặc người phụ trách, con sẽ là người bị khai đao đầu tiên. Vậy nên đừng làm chim ló đầu, vì chim ló đầu thì bị bắn. Con phải học cách rúc đầu và thu mình lại như con rùa vậy”. Ngươi nhớ những lời này của cha mẹ ngươi, và đến lúc được chọn làm lãnh đạo, ngươi từ chối vị trí này và nói, “Ôi, tôi không làm được đâu! Tôi có gia đình, có con cái rồi, bận rộn lắm. Tôi không làm lãnh đạo được. Các vị làm đi, đừng chọn tôi”. Giả sử như ngươi được bầu làm lãnh đạo thì ngươi cũng không muốn làm: “Tôi e là tôi phải từ chức thôi. Các vị làm lãnh đạo đi, tôi nhường cơ hội cho các vị đấy. Tôi sẽ rời vị trí và nhường lại cho các vị”. Trong lòng ngươi nghĩ, “Hừ! Chim ló đầu thì bị bắn. Trèo càng cao thì ngã càng đau, lên cao thì ắt lạnh. Tôi sẽ cho các vị làm lãnh đạo, và sau khi các vị được chọn, rồi sẽ có ngày các vị đẹp mặt thôi. Tôi không bao giờ muốn làm lãnh đạo, không muốn trèo cao vì đâu muốn bị ngã đau. Nghĩ mà xem, chẳng phải có lãnh đạo nào đó đã bị cách chức sao? Bị cách chức xong, anh ta còn bị khai trừ nữa, thậm chí không có cơ hội làm một tín hữu bình thường. Đó là tấm gương mẫu mực cho câu ‘Chim ló đầu thì bị bắn’ và ‘Cái kèo nhô ra ngoài thì mục nát đầu tiên’. Thế nào? Chẳng phải anh ta đã bị trừng trị sao? Con người phải học cách tự bảo vệ mình, nếu không thì có não để làm gì? Nếu có não thì phải biết dùng nó để bảo vệ bản thân. Có người không thấy rõ vấn đề này, nhưng trong xã hội và bất cứ tập thể nào, nó đều là như thế đấy – ‘Chim ló đầu thì bị bắn’. Ló đầu ra thì vẻ vang đấy, cho đến khi bị bắn mới biết rằng ló đầu ra thì sớm muộn gì cũng bị bắn”. Đây là những lời dạy ân cần của cha mẹ và gia đình ngươi, và cũng là tiếng nói của kinh nghiệm, là tinh túy tổng kết ra được từ cuộc đời họ, điều mà họ lúc nào cũng thì thầm vào tai ngươi. Ta nói “thì thầm vào tai ngươi” là có ý gì? Nghĩa là một hôm, mẹ ngươi nói nhỏ vào tai ngươi: “Để mẹ nói con biết, nếu có một điều mẹ học được trong đời này, thì đó là ‘Chim ló đầu thì bị bắn’, nghĩa là nếu ai đó quá nổi bật và gây quá nhiều sự chú ý, thì họ sẽ dễ bị trừng trị. Thấy vẻ ủ rũ và thật thà của cha con bây giờ không, đó là vì ông ấy đã bị trừng trị trong một chiến dịch đàn áp. Cha con có tài viết văn, biết viết và biết diễn thuyết, lại có tài lãnh đạo, ông ấy quá xuất chúng, rốt cuộc đã bị chiến dịch đó trừng trị. Vì sao mà kể từ đó cha con không nhắc tới chuyện từng làm quan, từng xuất đầu lộ diện? Chính là vì nguyên do đó. Mẹ nói cho con lời trong lòng, nói cho con sự thật, con phải lắng nghe và nhớ kỹ, đừng quên, dù đi đâu cũng phải ghi nhớ nằm lòng. Đây là điều tốt nhất mà một người mẹ như mẹ có thể cho con”. Từ đó trở đi ngươi nhớ lời của bà ấy, cứ hễ nhớ tới câu nói “Chim ló đầu thì bị bắn”, ngươi lại nghĩ đến cha mình, và cứ hễ nhớ về ông, ngươi lại nghĩ đến câu nói này. Cha ngươi từng là một con chim ló đầu và bị bắn, giờ đây dáng vẻ chán chường và mất tinh thần của ông để lại ấn tượng sâu đậm trong đầu ngươi. Nên cứ hễ ngươi muốn ló đầu ra, muốn nói ra lời trong lòng, muốn thật lòng thật dạ làm tròn bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, thì lời khuyên nhủ chân thành của mẹ ngươi – “Chim ló đầu thì bị bắn” – lại xuất hiện trong đầu. Vậy nên ngươi lại chùn bước và nghĩ: “Có tài cán hay sở trường gì, mình cũng không được để lộ, mình phải kiềm chế và nhẫn nhịn. Còn với những lời Đức Chúa Trời bảo con người hết lòng, hết trí, hết sức lực thực hiện bổn phận, thì mình phải chọn lọc một cách thỏa đáng, không được quá liều lĩnh. Nếu mình quá liều lĩnh, và ra mặt đảm đương công tác của hội thánh, lỡ như công tác của nhà Đức Chúa Trời gặp vấn đề và mình bị truy cứu trách nhiệm thì sao? Mình phải gánh vác thế nào đây? Mình sẽ bị thanh trừ sao? Mình sẽ trở thành con dê gánh tội, con chim ló đầu sao? Trong nhà Đức Chúa Trời, mấy chuyện đó khó nói trước lắm. Vậy nên, bất kể làm gì, nhất định phải chừa đường lui cho mình, phải học cách bảo vệ bản thân trước, và đảm bảo có sự bảo hộ lớn nhất trước khi nói năng và hành động. Đây là phương hướng hành động khôn ngoan nhất, vì mẹ mình nói: ‘Chim ló đầu thì bị bắn’”. Câu nói này đã in sâu trong tâm hồn ngươi và có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường nhật của ngươi. Đương nhiên càng nghiêm trọng hơn, nó ảnh hưởng đến thái độ của ngươi đối với việc thực hiện bổn phận. Đây chẳng phải là những vấn đề rất nghiêm trọng sao? Vì vậy, cứ hễ ngươi thực hiện bổn phận và muốn cống hiến một cách chân thành, thật lòng thật dạ dốc hết sức mình, thì câu nói “Chim ló đầu thì bị bắn” cứ luôn ngăn cản bước chân ngươi, và cuối cùng ngươi luôn chọn chừa đường lui và có biện pháp dự phòng cho bản thân, và chỉ thực hiện bổn phận một cách thỏa đáng sau khi đã chừa một lối thoát cho bản thân. Ta nói có đúng không? Về chuyện này, sự hun đúc của gia đình ngươi có bảo vệ ngươi đến mức tối đa khỏi việc bị phơi bày và xử lý không? Với ngươi nó như một tấm bùa hộ thân đúng không? (Thưa, đúng.)

– Cách mưu cầu lẽ thật (12), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Sự hun đúc của gia đình có thể có liên quan đến rất nhiều luật chơi dành cho cách đối nhân xử thế. Ví dụ, cha mẹ thường nói: “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người; con quá hồ đồ và cả tin”. Cha mẹ thường xuyên nói như thế, và thậm chí các bậc trưởng bối hay lải nhải bên tai ngươi, nói cho ngươi rằng: “Hãy làm người tốt, đừng hại người, nhưng phải có lòng phòng người. Người xấu ở khắp nơi. Có thể bên ngoài người ta nói lời dễ nghe với con nhưng con không biết sau lưng họ đang nghĩ gì đâu. Ai biết lòng người sau lớp da, và họa long họa hổ nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”. Những câu nói này cũng có mặt đúng, phải không? Xem xét những câu này theo nghĩa đen thì chúng không có gì sai cả. Không thể biết được sâu trong nội tâm người ta nghĩ gì, lòng họ hung ác hay thiện lành. Không có cách nào để nhìn thấu tâm hồn của người ta. Ý nghĩa của những câu này có vẻ đúng, nhưng chúng chỉ là một dạng đạo lý. Nguyên tắc xử thế mà sau cùng con người có thể tổng kết ra được dựa trên hai câu nói này là gì? Đó là “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người”. Đây là những gì mà các bậc cao niên hay nói. Cha mẹ và các bậc cao niên thường nói vậy, họ lúc nào cũng khuyên bảo ngươi: “Hãy cẩn thận, đừng hồ đồ nghĩ gì nói nấy. Hãy biết cách cảnh giác và đề phòng người ta. Kể cả với bạn bè tốt, cũng không được bộc lộ con người thật hay thổ lộ hết lòng mình. Không được mạo hiểm tính mạng vì họ”. Các bậc cao niên khuyên nhủ ngươi như vậy có đúng không? (Thưa, không, nó dạy con người những đường lối gian trá.) Về mặt lý thuyết, xuất phát điểm của họ là tốt: Để bảo vệ ngươi, ngăn ngươi rơi vào những tình huống nguy hiểm, để bảo vệ ngươi khỏi bị người khác hãm hại hay bị lừa gạt, để bảo vệ lợi ích xác thịt của ngươi, sự an toàn của cá nhân ngươi, và tính mạng của ngươi. Để giữ ngươi tránh khỏi rắc rối, kiện tụng, và đừng sa vào những cám dỗ, để ngươi có thể sống bình an, thuận lợi và hạnh phúc mỗi ngày. Xuất phát điểm của cha mẹ và các bậc trưởng bối chỉ đơn giản là để bảo vệ ngươi. Tuy nhiên, cách họ bảo vệ ngươi, những nguyên tắc mà họ khuyên bảo, những tư tưởng mà họ tiêm nhiễm cho ngươi đều không phải đúng đắn. Xuất phát điểm của họ tuy là đúng, nhưng những tư tưởng mà họ tiêm nhiễm cho ngươi lại vô tình khiến ngươi đi vào cực đoan. Những tư tưởng họ tiêm nhiễm cho ngươi trở thành những nguyên tắc và cơ sở cho cách ngươi xử thế. Khi ngươi giao thiệp với bạn học, đồng nghiệp, đối tác, cấp trên và mọi kiểu người trong xã hội, những người từ mọi tầng lớp xã hội, thì những tư tưởng bảo vệ ngươi mà cha mẹ ngươi tiêm nhiễm vô hình trung trở thành bùa hộ thân và nguyên tắc cơ bản nhất bất cứ khi nào ngươi xử lý quan hệ giữa người với người. Nguyên tắc này là gì? Đó là: Tôi không hại anh, nhưng lúc nào tôi cũng phải đề phòng anh để tránh việc anh lừa tôi, gạt tôi, để tránh vướng phải rắc rối, kiện tụng, khuynh gia bại sản, nhà tan cửa nát, sống cảnh ngục tù. Sống dưới sự chi phối của những tư tưởng và quan điểm như vậy, sống trong nhóm xã hội này với một thái độ xử thế như vậy, ngươi chỉ có thể trở nên ức chế, kiệt quệ, mệt mỏi hơn về cả tinh thần lẫn thể xác. Sau đó ngươi càng trở nên chống đối, có ác cảm với thế giới và nhân loại này, ngày càng căm ghét họ. Khi căm ghét họ thì ngươi bắt đầu xem thường bản thân, cảm giác như ngươi sống không giống một con người, sống mệt mỏi và ức chế. Để tránh bị người khác hãm hại, ngươi phải không ngừng đề phòng, làm những chuyện và nói những lời trái với lòng mình. Để bảo vệ lợi ích và an toàn bản thân, mọi nơi mọi lúc, ngươi đều mang một lớp mặt nạ ngụy trang, không bao giờ dám nói một lời chân thật. Trong tình hình này, trong hiện trạng sinh tồn này, nội tâm ngươi không được tự do, giải phóng. Ngươi thường cần ai đó không gây hại gì đến ngươi, không bao giờ làm tổn hại lợi ích của ngươi, người mà ngươi có thể thổ lộ hết lời trong lòng và trút hết những bất mãn trong nội tâm, mà không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào, không gây ra sự chế nhạo, mỉa mai, chê cười, hay chịu bất cứ hậu quả nào. Trong một tình huống mà tư tưởng và quan điểm “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người” là nguyên tắc xử thế của ngươi, thì nội tâm ngươi lo sợ và bất an. Tất nhiên ngươi sẽ cảm thấy ức chế, không thể giải phóng, và ngươi cần ai đó an ủi ngươi, cần đối tượng để giãi bày tâm sự. Vì vậy, xét từ những phương diện này, dù nguyên tắc xử thế “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người” mà cha mẹ ngươi dạy ngươi có thể bảo vệ ngươi, nhưng nó như một con dao hai lưỡi. Nó vừa bảo vệ lợi ích thể xác và an toàn cá nhân của ngươi ở một mức độ nào đó, cũng vừa khiến ngươi cảm thấy ức chế và khổ sở, không được giải phóng, và thậm chí khiến ngươi càng chán ghét thế giới và nhân loại này hơn. Đồng thời, sâu trong nội tâm, ngươi cũng mơ hồ chán ghét bản thân vì sao lại sinh ra trong một thời đại tà ác như thế, giữa một nhóm người tà ác như thế. Ngươi không hiểu tại sao con người phải sống, tại sao cuộc sống lại mệt mỏi như vậy, tại sao họ phải đeo mặt nạ và ngụy trang bản thân mọi nơi mọi lúc, hay tại sao ngươi luôn phải đề phòng người khác vì lợi ích của mình. Ngươi muốn nói thật mà không thể nói, vì nói rồi sẽ có hậu quả. Ngươi muốn làm người chân chính một lần, nói năng và hành xử một cách quang minh lỗi lạc, không muốn làm tiểu nhân bỉ ổi, không muốn lén lút làm những việc bỉ ổi và đáng xấu hổ, sống trong tăm tối, nhưng không thể làm được. Tại sao ngươi không thể làm người một cách đường đường chính chính? Hồi tưởng về những chuyện mình từng làm, trong lòng ngươi cảm thấy có chút khinh bỉ. Ngươi căm giận và chán ghét trào lưu tà ác và thế giới tà ác này, đồng thời ngươi chán ghét bản thân sâu sắc và chán ghét con người mà ngươi đã trở thành. Nhưng ngươi lại chẳng thể làm được gì. Dù cha mẹ của ngươi, qua lời nói và tấm gương của họ, đã truyền cho ngươi tấm bùa hộ thân này, nhưng nó vẫn khiến ngươi cảm thấy ngươi sống không có hạnh phúc hoặc cảm giác an toàn. Khi ngươi cảm thấy không có hạnh phúc, không có cảm giác an toàn, không có tôn nghiêm và nhân cách, thì một mặt ngươi thấy biết ơn cha mẹ vì đã cho ngươi tấm bùa hộ thân này, mặt khác lại oán giận cha mẹ đã cho ngươi một chiếc xiềng xích thế này. Ngươi không hiểu tại sao cha mẹ lại dạy ngươi làm người theo cách này, tại sao ngươi phải hành xử như vậy mới có thể đạt được một chỗ đứng trong xã hội, mới có thể hòa nhập vào nhóm xã hội này, và mới có thể bảo vệ bản thân. Dù nó là bùa hộ thân, nhưng nó cũng là một xiềng xích khiến nội tâm ngươi cảm thấy vừa yêu vừa hận. Nhưng ngươi có thể làm gì chứ? Ngươi không có con đường nhân sinh đúng đắn, chẳng ai nói cho ngươi phải sống hay xử lý những sự việc xảy đến ra sao, chẳng ai nói cho ngươi biết ngươi đang làm đúng hay sai, hoặc ngươi phải đi con đường kế tiếp như thế nào. Ngươi chỉ có thể trải qua mọi chuyện trong mơ hồ, do dự, đau khổ và bất an. Đây là những hậu quả của triết lý xử thế mà cha mẹ và gia đình tiêm nhiễm cho ngươi, khiến cho nguyện vọng đơn giản nhất là được làm một người đơn giản của ngươi, nghĩa là mong muốn được làm người đường đường chính chính mà không cần dùng những thủ đoạn xử thế này, không thể thành hiện thực. Ngươi chỉ có thể sống một cách hèn hạ, nhượng bộ cầu toàn và sống vì thể diện, biến mình thành người đặc biệt mạnh mẽ để đề phòng người khác, giả vờ mạnh mẽ, cao lớn và lợi hại, để tránh bị ức hiếp. Ngươi chỉ có thể sống trái lòng mình như vậy, khiến cho ngươi cảm thấy chán ghét bản thân, nhưng không còn cách nào khác. Vì ngươi không có năng lực hay con đường để thoát khỏi những phương thức và thủ đoạn xử thế này, ngươi chỉ có thể để bản thân tuân theo sự sắp đặt bởi những tư tưởng được hun đúc từ gia đình và cha mẹ. Trong quá trình này, con người bất tri bất giác bị lừa dối và khống chế bởi những tư tưởng do gia đình và cha mẹ tiêm nhiễm, vì họ không hiểu lẽ thật, không hiểu con người nên sống thế nào, bởi vậy họ chỉ có thể phó mặc cho số phận. Kể cả khi lương tâm của họ vẫn còn một chút cảm giác, hoặc họ vẫn có một nguyện vọng dù nhỏ nhoi là muốn sống thể hiện ra một chút hình tượng con người, chung sống và cạnh tranh công bằng với người khác, bất kể nguyện vọng của họ là gì đi nữa, họ cũng không thể thoát khỏi sự hun đúc và khống chế của những tư tưởng và quan điểm khác nhau đến từ gia đình họ, và cuối cùng, họ chỉ có thể trở lại với tư tưởng và quan điểm “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người” mà gia đình hun đúc cho họ, vì họ không có con đường nào khác để đi – họ không có lựa chọn. Tất cả những điều này đều là do con người không hiểu lẽ thật và không đạt được lẽ thật.

– Cách mưu cầu lẽ thật (14), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật

Tại sao những văn hóa truyền thống này không phải là lẽ thật? Suy cho cùng là vì những thứ này là tư tưởng được nảy sinh sau khi nhân loại bị Sa-tan làm bại hoại, không phải đến từ Đức Chúa Trời. Trong đó có trộn lẫn một số quan niệm và tưởng tượng của con người, càng là hậu quả của việc Sa-tan làm bại hoại nhân loại. Sa-tan lợi dụng tư tưởng và quan điểm, các loại câu nói và luận điệu của nhân loại bại hoại để trói buộc và làm bại hoại tư tưởng của con người. Nếu Sa-tan dùng những thứ rõ ràng là hoang đường, phi lý, sai lầm để mê hoặc con người thì con người sẽ có sự phân định. Họ sẽ có thể phân định phải trái, đúng sai, và dùng khả năng phân định này để phủ nhận và lên án chúng. Như vậy những học thuyết này sẽ không đứng vững được. Nhưng khi Sa-tan dùng một số tư tưởng và lý luận phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người, những thứ mà nó cho rằng có thể đứng vững được khi nói ra, để hun đúc, ảnh hưởng, tiêm nhiễm vào con người, thì nhân loại sẽ rất dễ bị nó mê hoặc. Những câu nói này cũng rất dễ được con người tiếp nhận, truyền bá, cứ như vậy kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác cho đến hiện tại. Ví dụ như giai thoại của một số nhân vật anh hùng Trung Quốc như Nhạc Phi, Dương gia tướng và cả câu chuyện yêu nước của Văn Thiên Tường, tại sao những tư tưởng này của họ có thể lưu truyền đến hiện tại? Nếu xét về phương diện con người, thời đại nào cũng có một nhóm người hay một người cai trị nào đó liên tục dùng những ví dụ này, dùng tư tưởng và tinh thần của những nhân vật này để dạy dỗ thế hệ này qua thế hệ khác, để thế hệ này qua thế hệ khác có thể tiếp nhận sự thống trị của họ một cách an phận và ngoan ngoãn, để họ có thể dùng những tư tưởng này mà cai trị thế hệ này qua thế hệ khác một cách dễ dàng, để sự cai trị của họ được vững chắc hơn. Thông qua việc nói về lòng ngu trung của Nhạc Phi và Dương gia tướng, về tinh thần yêu nước của Văn Thiên Tường và Khuất Nguyên, họ giáo dục dân chúng bị cai trị, để người ta biết một đạo lý là làm người thì phải trung thành, là điều mà một người có phẩm chất đạo đức cao nên có. Trung thành đến mức nào? “Vua xử bề tôi chết, bề tôi không thể không chết”, đến mức độ này, còn có “Trung thần không thờ hai vua”, đây cũng là thứ mà họ tôn sùng. Họ cũng tôn sùng những người yêu nước. Yêu nước là yêu ai? Yêu mảnh đất đó? Yêu nhân dân đó? Đất nước là gì? (Thưa, là người cai trị.) Người cai trị là người phát ngôn của đất nước. Nếu ngươi nói: “Tôi yêu nước thực ra chính là yêu quê hương tôi, yêu cha mẹ tôi. Tôi không thèm yêu những kẻ cai trị như các người đâu!” thì họ sẽ tức giận. Nếu ngươi nói “Yêu nước là yêu người cai trị từ sâu thẳm nội tâm”, thì họ sẽ chấp nhận và đồng ý cho ngươi yêu như vậy. Nếu ngươi nói cho minh bạch, cho rõ ràng rằng người ngươi yêu không phải là họ, thì họ sẽ không đồng ý nữa. Những người cai trị thế hệ này sang thế hệ khác, họ đại diện cho ai? (Thưa, cho Sa-tan.) Họ đại diện cho Sa-tan, và họ là đồng bọn của Sa-tan, thuộc về ma quỷ. Họ không thể giáo dục dân chúng thờ phượng Đức Chúa Trời, thờ phượng Đấng Tạo Hóa, họ không thể làm như vậy. Ngược lại, họ sẽ bảo dân chúng rằng người cai trị là thiên tử. Thiên tử là ý gì? Ông trời ban quyền lực cho một người, người này được gọi là “thiên tử”, hắn sẽ có quyền lực thống trị bách tính dưới gầm trời. Đây có phải là một loại tư tưởng mà người cai trị tiêm nhiễm cho dân chúng hay không? (Thưa, phải.) Một người trở thành thiên tử thì đó chính là trời định, người đó mang trên mình ý trời, dân chúng nên tiếp nhận sự cai trị của hắn vô điều kiện. Cho dù hắn có cai trị như thế nào thì họ đều nên tiếp nhận. Họ tiêm nhiễm cho con người một loại tư tưởng như vậy, khiến ngươi thừa nhận có ông trời, đồng thời khiến ngươi tiếp nhận việc hắn là thiên tử. Mục đích khiến ngươi tiếp nhận hắn là thiên tử là gì? Không phải là để ngươi thừa nhận có trời cao, có Đức Chúa Trời, có Đấng Tạo Hoá, mà là để ngươi tiếp nhận sự thật rằng hắn là thiên tử. Bởi vì hắn là thiên tử được sinh ra do ý trời, dân chúng nên tiếp nhận sự cai trị của hắn. Họ luôn tiêm nhiễm một loại tư tưởng như vậy. Những tư tưởng này đã nảy sinh từ lúc nhân loại sơ khai đến hiện tại. Khi mổ xẻ bất kỳ một từ ngữ hay thành ngữ chứa đựng điển tích, hay là những ngạn ngữ và tục ngữ dân gian hoàn toàn không chứa đựng điển tích nào, thì phía sau chúng luôn có sự trói buộc, mê hoặc của Sa-tan đối với nhân loại, cũng có định nghĩa sai lầm của nhân loại bại hoại đối với sự việc này. Định nghĩa sai lầm này có ảnh hưởng gì đến nhân loại sau này? Nó tốt đẹp, tích cực hay là tiêu cực? (Thưa, tiêu cực.) Về cơ bản là tiêu cực. Ví dụ như “nằm gai nếm mật”, “giấu tài giấu nghề”, “chịu đựng sỉ nhục và gánh vác trọng trách”, “không bao giờ bỏ cuộc”, và cả “dương đông kích tây”, những thứ này ảnh hưởng như thế nào đến nhân loại sau này? Sau khi tiếp nhận những văn hóa truyền thống này, con người từ thế hệ này sang thế hệ khác ngày càng rời xa Đức Chúa Trời, rời xa công tác tạo dựng con người, cứu rỗi con người và kế hoạch quản lý của Ngài. Sau khi nhân loại tiếp nhận những quan điểm sai lầm của văn hóa truyền thống này, họ ngày càng cảm thấy số phận của con người nên nằm trong tay mình, hạnh phúc phải dựa vào chính đôi tay mình để tạo dựng và cơ hội là dành cho những người có sự chuẩn bị, từ đó dẫn đến việc nhân loại càng ngày càng phủ nhận Đức Chúa Trời, phủ nhận sự tể trị của Ngài – mà sống dưới quyền thế của Sa-tan. Nếu so sánh điều mà người hiện đại thích nói với điều mà người của hai ngàn năm trước thích nói, thì nội hàm tư tưởng của chúng là giống nhau. Chỉ có điều con người ngày nay càng nói càng cụ thể, càng nói càng lộ liễu, không những phủ nhận sự tồn tại và sự tể trị của Đức Chúa Trời, mà mức độ chống đối, lên án Đức Chúa Trời của họ càng ngày càng nghiêm trọng.

Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 1)

Sự khác biệt về bản chất giữa lời Đức Chúa Trời và lời của con người, cũng như giữa lẽ thật và đạo lý là gì? Lời Đức Chúa Trời khiến con người ngày càng có lý trí và lương tâm, hành động có nguyên tắc và khiến những gì họ sống thể hiện ra trở nên ngày càng có thực tế của những điều tích cực. Mặt khác, lời nói của con người bề ngoài có vẻ phù hợp với thị hiếu và quan niệm của con người, nhưng bởi vì chúng không phải là lẽ thật, nên chúng chứa đầy cạm bẫy và sự cám dỗ, đầy tà thuyết và luận điệu sai trái, và vì vậy nếu con người hành động theo những lời này, thì những gì họ sống thể hiện ra sẽ ngày càng lạc xa khỏi Đức Chúa Trời và lạc xa khỏi các tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Nghiêm trọng hơn nữa, con người sống ngày càng tà ác và giống như Sa-tan. Khi con người sống và hành động hoàn toàn theo tà thuyết và luận điệu sai trái của loài người, khi họ hoàn toàn tiếp nhận những luận điệu này, thì họ sống như Sa-tan. Và sống như Sa-tan chẳng phải ngụ ý rằng họ là Sa-tan sao? (Thưa, phải.) Vậy là ngươi đã “thành công” trong việc trở thành một Sa-tan sống. Có một số người nói: “Tôi không tin điều đó. Tôi chỉ muốn trở thành một người thật thà mà ai cũng thích. Tôi muốn trở thành một người được hầu hết mọi người xem là người tốt, rồi tôi sẽ xem thử Đức Chúa Trời có hài lòng với tôi hay không”. Nếu ngươi không tin những gì Đức Chúa Trời phán, thì hãy đi mà xem – xem liệu lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, hay quan niệm của con người là lẽ thật. Đây là sự khác biệt về mặt thực chất giữa lời Đức Chúa Trời và lời của con người. Đây là sự khác nhau về thực chất giữa lẽ thật và tà thuyết, luận điệu sai lầm. Cho dù tà thuyết và luận điệu sai lầm của con người có vẻ phù hợp với thị hiếu của con người như thế nào đi nữa, thì chúng cũng không bao giờ có thể trở thành sự sống của họ; trong khi đó, cho dù lời Đức Chúa Trời có vẻ dễ hiểu thế nào, thông tục ra sao, có không hợp với quan niệm của con người thế nào đi nữa, thì thực chất của chúng vẫn là lẽ thật. Nếu con người dựa theo nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời mà hành động và sống thể hiện ra, thì cuối cùng, đến một ngày, họ sẽ trở thành một loài thọ tạo chân chính và đủ tư cách, sẽ có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Ngược lại, nếu con người không thực hành theo lời Đức Chúa Trời, không làm theo yêu cầu của Ngài thì họ sẽ không thể trở thành loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn. Hành động và hành vi của con người, cùng con đường mà họ đi chỉ có thể khiến Đức Chúa Trời ghét bỏ, đây chính là sự thật.

– Mục 10. Họ xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời (Phần 5), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ

Nhiều người ngoài miệng tin Đức Chúa Trời và chúc tụng Ngài, nhưng trong lòng thì không yêu mến lời Đức Chúa Trời phán. Họ không hứng thú với lẽ thật. Họ luôn tin rằng sống theo các triết lý của Sa-tan và các học thuyết thế tục khác là điều mà con người bình thường làm, và đó là cách để bảo vệ bản thân, là cách sống có giá trị trong thế gian. Đây mà là người tin Đức Chúa Trời và đi theo Ngài sao? Không, không phải. Những lời lẽ của các danh nhân và vĩ nhân có vẻ đặc biệt có triết lý và dễ dàng mê hoặc mọi người. Có lẽ các ngươi bám vào lời của họ như lẽ thật và phương châm để tuân thủ. Nhưng đối với lời của Đức Chúa Trời, với một yêu cầu bình thường của Ngài đối với con người như là việc phải làm người trung thực, cẩn trọng và chuẩn mực giữ đúng vị trí của mình, thực hiện bổn phận như một loài thọ tạo và làm người một cách thực tế vững vàng, thì ngươi lại không thể đưa những lời này vào thực hành, không xem đó là lẽ thật, vậy thì ngươi không phải là người đi theo Đức Chúa Trời. Ngươi tuyên bố mình thực hành lẽ thật, nhưng nếu Đức Chúa Trời hỏi ngươi: “Những cái gọi là lẽ thật mà ngươi thực hành có phải là lời Đức Chúa Trời không? Những nguyên tắc mà ngươi tuân giữ có dựa trên lời Đức Chúa Trời không?” lúc đó ngươi sẽ giải trình như thế nào đây? Nếu cơ sở của ngươi không phải là lời Đức Chúa Trời, thì là lời của Sa-tan. Ngươi đang sống thể hiện ra những lời của Sa-tan, thế mà ngươi lại tuyên bố mình thực hành lẽ thật và làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Đấy chẳng phải là báng bổ Đức Chúa Trời sao? Chẳng hạn như, Đức Chúa Trời dạy con người phải trung thực, thế mà có người không suy ngẫm xem làm người trung thực thật sự cần có những gì, cách để thực hành làm người trung thực, điều gì họ sống thể hiện ra và biểu lộ là không trung thực, điều gì họ sống thể hiện ra và biểu lộ là trung thực. Thay vì suy ngẫm thực chất của lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, họ lại tìm đến sách vở của người ngoại đạo. Họ nghĩ: “Những danh ngôn của người ngoại đạo cũng rất hay, cũng dạy con người sống tốt! Chẳng hạn như ‘Người tốt có cuộc sống bình yên’, ‘Người thật thà luôn tồn tại’, ‘Tha người không phải ngốc, sẽ có lợi về sau’. Những câu này cũng đúng và tương hợp với lẽ thật!”. Vậy là họ tuân thủ theo những lời này. Khi tuân thủ những châm ngôn của người ngoại đạo, họ có thể sống thể hiện ra dạng người nào đây? Họ có thể sống thể hiện ra thực tế lẽ thật không? (Thưa, họ không thể.) Chẳng phải có nhiều người như thế sao? Họ đạt được một vài tri thức, họ đọc vài quyển sách và vài tác phẩm nổi tiếng, họ có được chút kiến thức, nghe vào câu danh ngôn và ngạn ngữ dân gian, rồi xem chúng như là lẽ thật, hành động và thực hiện bổn phận chiếu theo những lời đó, áp dụng chúng vào cuộc sống của người tin Đức Chúa Trời và nghĩ là họ đang thỏa mãn lòng Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là đổi trắng thay đen sao? Đây chẳng phải là lừa phỉnh sao? Với Đức Chúa Trời, đây là báng bổ! Ai cũng có những biểu hiện này, với mức độ không ít. Với những ai xem những câu nói dễ nghe và đạo lý đúng đắn trong dân gian là những lẽ thật để tuân giữ, trong khi lại gạt lời Đức Chúa Trời sang một bên, không thèm đếm xỉa, không thể tiếp thu lời Đức Chúa Trời bất chấp có đọc bao nhiêu lần đi nữa, không xem lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, thì họ có phải là người tin Đức Chúa Trời không? Họ có phải là người đi theo Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Những người như thế tin vào tôn giáo, họ vẫn đi theo Sa-tan! Họ tin rằng những lời do Sa-tan nói là triết lý, là vô cùng thâm sâu và kinh điển. Họ xem chúng là những danh ngôn chí lý. Dù có từ bỏ chuyện gì đi nữa, họ cũng không thể từ bỏ những lời này. Từ bỏ những lời này cũng như thể họ mất đi cơ sở cho sự sống của mình, như thể khiến lòng họ thành trống rỗng. Đây là kiểu người gì? Họ là những kẻ đi theo Sa-tan, chính vì thế mà họ tiếp nhận những danh ngôn của Sa-tan như là lẽ thật. Các ngươi có thể mổ xẻ và nhận diện những tình trạng khác nhau của mình trong các bối cảnh khác nhau không? Ví dụ như, có người tin Đức Chúa Trời và thường xuyên đọc lời Ngài, nhưng khi gặp chuyện, họ luôn nói: “Mẹ tôi bảo vậy”, “Ông tôi bảo vậy”, “Danh nhân này nọ từng nói vậy”, hoặc “Trong sách này kia có nói vậy”. Họ không hề nói: “Lời Đức Chúa Trời phán thế này”, “Yêu cầu Đức Chúa Trời đặt ra cho chúng ta là thế này”, “Đức Chúa Trời phán thế này”. Họ không hề nói như thế. Họ có đi theo Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Người ta dễ dàng phát hiện những tình trạng này không? Không dễ, nhưng chúng tồn tại trong con người thì gây tổn hại trí mạng cho họ. Ngươi có thể đã tin Đức Chúa Trời được ba năm, năm năm, tám năm hay mười năm, nhưng vẫn chưa biết cách thuận phục Đức Chúa Trời hay thực hành lời Đức Chúa Trời. Dù gặp phải chuyện gì, ngươi vẫn lấy lời Sa-tan làm cơ sở, vẫn tìm kiếm cơ sở cho mọi việc trong văn hóa truyền thống. Như thế mà là tin vào Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải ngươi đang đi theo Sa-tan sao? Ngươi sống theo lời và tâm tính Sa-tan, thế nên chẳng phải là ngươi đang chống đối Đức Chúa Trời sao? Vì ngươi không thực hành hay sống theo lời Đức Chúa Trời, không đi theo bước chân của Đức Chúa Trời, không thể nghe theo bất cứ điều gì Đức Chúa Trời phán và không thể thuận phục bất cứ điều gì Đức Chúa Trời sắp đặt hay đòi hỏi nơi ngươi, nên ngươi không phải đi theo Đức Chúa Trời. Ngươi vẫn đang đi theo Sa-tan. Sa-tan ở đâu? Sa-tan ở trong lòng con người. Những triết lý, lôgic và quy định cùng đủ loại những quỷ thoại của Sa-tan từ lâu đã bén rễ trong lòng con người. Đây là vấn đề nghiêm trọng nhất. Nếu các ngươi không thể giải quyết vấn đề này trong đức tin nơi Đức Chúa Trời thì các ngươi sẽ không thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Do đó, các ngươi phải thường xuyên đối chiếu những điều mình làm, suy nghĩ cùng quan điểm của mình cũng như cơ sở để ngươi làm mọi việc với lời Đức Chúa Trời, và mổ xẻ mọi việc trong suy nghĩ của mình. Ngươi phải biết được những điều nào bên trong ngươi là triết lý xử thế, những điều nào là các câu ngạn ngữ dân gian, những điều nào là văn hóa truyền thống, và những điều nào đến từ tri thức. Các ngươi phải biết được những điều nào trong số này mình luôn tin là đúng và phù hợp với lẽ thật, những điều nào mà ngươi tuân theo như thể chúng là lẽ thật, và những điều nào ngươi cho phép thay thế lẽ thật. Các ngươi phải mổ xẻ những điều này. Đặc biệt, nếu ngươi coi những điều ngươi tin là đúng và quý giá như lẽ thật; thì không dễ để nhìn thấu chúng, nhưng một khi ngươi nhìn thấu được thì ngươi đã vượt qua được một trở ngại lớn. Những điều này ngăn cản con người hiểu lời Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu ngươi dành cả ngày hoang mang và không biết mình muốn làm gì, nếu ngươi không cân nhắc gì đến những điều này, và không chú trọng đến việc giải quyết những vấn đề này, thì chúng là gốc rễ tình trạng khó ở của ngươi, là chất độc trong lòng ngươi. Nếu chúng không được loại bỏ, ngươi sẽ không có khả năng thực sự theo Đức Chúa Trời, và không thể thực hành lẽ thật, không thể thuận phục Đức Chúa Trời, và không có cách nào đạt được sự cứu rỗi.

– Người ta không thể được cứu rỗi bởi tin vào tôn giáo hay tham gia vào nghi thức tôn giáo, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt

Bất luận là xảy ra chuyện gì, ngươi sẽ dùng triết lý Sa-tan và các phương pháp của con người để giải quyết vấn đề, hay ngươi sẽ tìm kiếm lẽ thật và giải quyết vấn đề theo lời Đức Chúa Trời, hay sẽ dùng cách trung dung để giải quyết vấn đề? Rốt cuộc ngươi sẽ lựa chọn như thế nào, đây là điều tỏ lộ rõ nhất việc ngươi có yêu và mưu cầu lẽ thật hay không. Nếu ngươi luôn chọn dùng triết lý của Sa-tan và các phương pháp của con người để giải quyết vấn đề, thì hậu quả là ngươi sẽ không đạt được lẽ thật, cũng như không đạt được sự khai sáng, soi sáng và dẫn đường của Đức Thánh Linh. Hơn nữa trong lòng ngươi cũng sẽ nảy sinh nhiều quan niệm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời, và cuối cùng ngươi sẽ bị Đức Chúa Trời ghét bỏ và đào thải. Nhưng nếu ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật trong mọi việc và giải quyết chúng theo lời Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ có thể đạt được sự khai sáng, soi sáng và dẫn đường của Đức Thánh Linh. Ngươi sẽ ngày càng hiểu lẽ thật và ngày càng nhận biết Đức Chúa Trời, và như vậy, ngươi sẽ có thể thực sự thuận phục và yêu kính Ngài. Sau khi thực hành và trải nghiệm qua một khoảng thời gian, tâm tính bại hoại của ngươi sẽ ngày càng được làm tinh sạch, ngươi sẽ ngày càng ít khi phản nghịch Đức Chúa Trời hơn, và cuối cùng sẽ đạt đến tương hợp hoàn toàn với Ngài. Nếu luôn chọn cách trung dung, thì thực ra ngươi vẫn đang giải quyết các vấn đề dựa trên triết lý của Sa-tan. Nếu cứ sống theo cách này thì ngươi sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời khen ngợi mà chỉ có thể bị tỏ lộ và đào thải. Nếu ngươi lựa chọn sai cách tin Đức Chúa Trời, chọn cách tin Đức Chúa Trời theo kiểu của tôn giáo, thì ngươi phải nhanh chóng quay đầu, kìm cương ngựa bên bờ vực thẳm và áp dụng những phương thức đúng đắn. Biết đâu ngươi vẫn còn hy vọng được cứu rỗi. Để có được phương thức đúng đắn để tin Đức Chúa Trời, ngươi phải tự mình tìm kiếm và lần mò, người có hiểu biết thuộc linh thì chỉ sau một khoảng thời gian trải nghiệm sẽ tìm được con đường đúng đắn.

– Mưu cầu lẽ thật thì mới có thể giải quyết quan niệm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt

Lời chứng trải nghiệm liên quan

Chúng ta có nên sống theo đức hạnh truyền thống?

Dùng người thì đừng nghi: Có đúng không?

Suy ngẫm về câu “việc gì không muốn thì đừng làm cho người khác”

Trước: 7. Cách phân định thực chất bản tính của nhân loại bại hoại

Tiếp theo: 9. Cách tiếp cận với việc bị tỉa sửa

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger