63. Thoát khỏi gánh nặng ân tình

Bởi Trịnh Lý, Trung Quốc

Năm tôi lên chín, cha tôi qua đời vì bạo bệnh, mẹ tôi cực khổ một mình nuôi nấng tôi và bốn anh chị em. Dì tôi thấy chúng tôi tội nghiệp nên thường mang thức ăn và vật dụng cần thiết cho chúng tôi. Mỗi lần dì mang đồ tới cho, mẹ luôn dặn dò chúng tôi phải bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với dì và dạy chúng tôi không bao giờ được quên lòng tốt của người khác, phải biết đền ơn đáp nghĩa, làm một người có lương tâm, để không ai có thể chọc ngoáy, phê bình chúng tôi và gọi chúng tôi là kẻ vô ơn. Dù cuộc sống hàng ngày còn rất khó khăn, nhưng để báo đáp lòng tốt của dì, mẹ tôi luôn chia sẻ với dì những đồ đạc ít ỏi trong nhà. Khi trưởng thành, tôi thường hay nghe người ta nói kiểu: “Nhìn xem, ông kia lúc gặp hoạn nạn được người ta ra tay giúp đỡ, vài năm sau giàu lên liền quay lại báo đáp ân tình. Còn gã này được người khác cứu giúp lúc khó khăn, nhưng lại vô lương tâm, vong ơn bội nghĩa, đúng là ăn cháo đá bát”. Dần dần, tôi cũng bắt đầu sống theo quan điểm này, cảm thấy đã là con người thì phải biết đền ơn đáp nghĩa, nếu không thì là kẻ vô lương tâm, bị thiên hạ khinh bỉ, bị người ta coi thường. Sau khi có đức tin, mặc dù tôi biết mình nên đối nhân xử thế dựa trên lời Đức Chúa Trời, nhưng những tư tưởng truyền thống kế thừa qua nhiều thế hệ đã cắm rễ sâu trong lòng tôi, kết quả là tôi sống theo những quan điểm này và vi phạm các nguyên tắc trong bổn phận, làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh, bị lưu hồ sơ vi phạm.

Vào tháng 8 năm 2021, sau khi đưa ra bản sắp xếp công tác thanh lọc hội thánh, hội thánh bắt đầu thông công lẽ thật trong việc phân định con người, chị chồng của tôi là Phương Linh bị xác định là kẻ chẳng tin. Khi nghe kết quả như vậy, tôi không hề ngạc nhiên chút nào. Dù có đức tin nhiều năm nhưng chị ấy không mưu cầu lẽ thật, thường gây nhiễu loạn và gián đoạn đời sống hội thánh. Trong những buổi hội họp, chị ấy không ngừng bàn tán về người khác, lúc đọc lời Đức Chúa Trời thì ngủ gà ngủ gật, sau khi đọc xong thì cũng chẳng có gì để thông công. Lúc gặp phải vấn đề trái với quan niệm của mình, chị không mưu cầu lẽ thật, cũng không tiếp nhận từ Đức Chúa Trời, luôn săm soi người khác và biện hộ cho bản thân. Khi chị ấy là người tiếp đãi nhóm họp và nghe lãnh đạo thông công về hành vi gây nhiễu loạn của vài người trong nhóm, chị sẽ kể lại cho họ nghe những gì lãnh đạo đã nói, điều này khiến họ nảy sinh thành kiến với lãnh đạo và nghĩ rằng lãnh đạo đang gây khó dễ cho họ. Lãnh đạo đã mổ xẻ về việc Phương Linh gieo rắc bất hòa và quấy nhiễu đời sống hội thánh, thông công cho chị ấy hiểu, nhưng chị ấy không hề cảm thấy có lỗi, mà còn viện đủ lý lẽ để bào chữa cho bản thân. Chị ấy bảo mình chỉ nói sự thật thôi, sao lại gây gián đoạn và nhiễu loạn đời sống hội thánh được? Trong một lần nhóm họp đã thông công phân định về chị dâu tôi, chị ấy bị vạch trần là một kẻ chẳng tin và có nhân tính tà ác, phải bị thanh trừ khỏi hội thánh ngay lập tức. Thế là sau buổi hội họp, Phương Linh chạy đi nói với một người chị em rằng chúng tôi sắp khai trừ chị dâu của tôi, và còn nói vài lời tiêu cực, gây nhiễu loạn tình trạng của người chị em đó. Tôi vội tìm Phương Linh để thông công rằng hội thánh thanh trừ và khai trừ một người dựa trên biểu hiện nhất quán của họ. Lẽ thật tể trị trong nhà Đức Chúa Trời, không cá nhân nào có quyền quyết định. Chị dâu tôi hiện tại lâm vào cảnh bị hội thánh thanh trừ là vì chị ấy có nhân tính tà ác, thường xuyên gây gián đoạn và nhiễu loạn đời sống hội thánh, không chịu ăn năn dù đã được các anh chị em thông công, giúp đỡ nhiều lần. Tôi cũng vạch trần rằng hành động của Phương Linh là đang gieo rắc tiêu cực và cái chết, là phủ nhận việc hội thánh được tể trị bởi lẽ thật và sự công chính. Không ngờ, Phương Linh lại khóc lóc và nói: “Chị biết em có tiếng nói quyết định trong hội thánh, em có thể tùy ý khai trừ người ta”. Trước sự gây rối vô lý của Phương Linh, tôi cảm thấy hơi bất lực, thâm tâm tôi biết rằng Phương Linh không hề tiếp nhận lẽ thật và là một kẻ chẳng tin. Nhưng khi đang chuẩn bị tài liệu để thanh trừ chị ấy, tôi lại lưỡng lự: Phương Linh và mình đã cùng nhau tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời. Bao nhiêu năm qua, cả hai đã cùng nhau hội họp và rao giảng phúc âm. Phương Linh rất quan tâm đến người khác, mỗi khi mình gặp vấn đề gì, chị ấy cũng sẽ cố hết sức giúp đỡ. Đặc biệt là hồi năm 2013, khi chồng mình lâm bệnh, Phương Linh đã thay mình chăm sóc anh ấy để mình có thể tiếp tục thực hiện bổn phận, giúp mình quán xuyến việc đồng áng, thậm chí còn thường xuyên phụ mình làm việc nhà. Sau khi chồng qua đời, gia đình gặp phải đủ thứ khó khăn, nên mình đã rơi vào trạng thái tiêu cực. Chính Phương Linh tối nào cũng đến thăm hỏi mình, cùng mình đọc lời Đức Chúa Trời, thông công với mình về những trải nghiệm của Gióp. Nhờ có Phương Linh đồng hành và hỗ trợ mà tình trạng của mình cải thiện dần. Trong những ngày tháng khó khăn nhất của mình, Phương Linh không chỉ giúp đỡ mình trong cuộc sống, mà còn động viên mình bằng cách đọc lời Đức Chúa Trời. Phương Linh luôn đối xử tốt với mình như vậy, mình không báo đáp ân tình của chị, mà còn chuẩn bị tài liệu để thanh trừ chị, chị ấy mà phát hiện ra thì sẽ nghĩ gì về mình đây? Liệu chị ấy có bảo mình vong ân bội nghĩa và vô lương tâm không? Những gì Phương Linh đã làm cho mình bao năm qua, anh trai, chị dâu và các chị gái của mình đều tận mắt chứng kiến. Ngay cả hàng xóm cũng nói rằng Phương Linh còn thân thiết với mình hơn cả chị em ruột. Người xưa có câu: “Dê biết ơn quỳ bú, quạ mớm nuôi mẹ già”, ngay cả thú vật cũng biết đền ơn đáp nghĩa, vậy mà mình thậm chí không thể khoan dung với người đã bao phen giúp đỡ mình. Liệu mọi người có nghĩ mình là kẻ vô ơn, bỏ rơi và cô lập mình không? Vậy chẳng phải mình sẽ bị chính gia đình khinh ghét hay sao? Khi nghĩ đến điều này, trong lòng tôi vô cùng lo lắng và bất an, cảm thấy tiến thoái lưỡng nan. Một bên là công tác thanh lọc hội thánh, một bên là người chị chồng mà tôi mắc nợ ân tình, tôi không quyết định được, tâm trạng dằn vặt và đau khổ không yên. Trong lúc do dự chưa biết quyết định thế nào, tôi thấy bài giảng của một người anh em cấp trên nói rằng: “Loại người nào có thể ở lại phục vụ trong hội thánh? Miễn họ không phải là kẻ có nhân tính tà ác, miễn họ có kỹ năng rao giảng phúc âm và sẵn sàng làm rao giảng phúc âm, thì họ nên được phép ở lại hội thánh”. Tôi chợt nhận ra: “Phải rồi! Chị Phương Linh không yêu mến lẽ thật, không mưu cầu lẽ thật, nhưng lại thích rao giảng phúc âm và đã đạt được một số kết quả. Bây giờ là thời điểm quan trọng trong việc truyền bá phúc âm, nếu mình giữ Phương Linh ở lại với lý do chị ấy có năng lực rao giảng phúc âm, chẳng phải sẽ không cần thanh trừ chị ấy sao? Vậy thì sẽ tránh làm mất lòng Phương Linh, còn anh trai, chị dâu và các chị gái cũng không trách mình vô lương tâm, mình cũng sẽ không bị mang tiếng xấu là người vong ân bội nghĩa”. Nhận ra điều này, tôi bèn tạm dừng công tác chuẩn bị tài liệu thanh trừ Phương Linh.

Nhưng không lâu sau, có vài chị em bảo tôi rằng có hai đối tượng phúc âm sở hữu tố chất tốt và có khả năng đọc hiểu lời Đức Chúa Trời, nhưng nhân tính của Phương Linh lại quá tệ, hai đối tượng phúc âm này không có thiện cảm với chị ấy nên không muốn nghe giảng nữa. Một chị khác nói Phương Linh gây nhiễu loạn đời sống hội thánh, có vài người không muốn rao giảng phúc âm cùng chị ấy nữa… Khi nghe các anh chị em nói vậy, tôi đã rất sốc. Việc Phương Linh gây nhiễu loạn công tác phúc âm có liên quan trực tiếp đến quyết định mà tôi đưa ra! Tôi vội cầu nguyện ăn năn và thú tội với Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi đọc được lời này của Ngài: “Một số người có thái độ quá láo xược đối với sự sắp xếp công việc từ Bề trên, họ cho rằng: ‘Bề trên sắp xếp công việc, còn chúng tôi thì làm việc trong hội thánh. Có những lời và những việc mà chúng tôi có thể vận dụng một cách linh hoạt, còn cụ thể thực hiện thế nào thì là việc của chúng tôi. Bề trên chỉ nói và sắp xếp công việc, còn người thực sự tiến hành công việc là chúng tôi. Vậy nên sau khi Bề trên giao việc, chúng tôi muốn làm thế nào thì làm, không ai có quyền can thiệp’. Nguyên tắc làm việc của họ là: Họ chỉ nghe những gì họ tin là đúng và không thèm nghe những gì họ tin là sai, họ xem niềm tin của mình là lẽ thật và nguyên tắc. Họ phản kháng bất cứ điều gì không hợp ý họ và sẽ không đội trời chung với ngươi trong những vấn đề đó. Khi những lời nói của Bề trên không hợp ý họ, họ sẽ tự tiện thay đổi cho vừa ý rồi mới ban hành xuống. Chưa được họ đồng ý thì không ai được phép ban hành. Trong khi ở những nơi khác, sự sắp xếp công việc từ Bề trên được ban hành mà không bị chỉnh sửa gì, thì những người này lại sửa đổi sự sắp xếp công việc rồi ban hành đến các hội thánh mà họ phụ trách. Những người như vậy luôn muốn gạt Đức Chúa Trời sang một bên, nóng lòng mong muốn làm cho mọi người tin vào họ, đi theo họ và vâng phục họ. Trong suy nghĩ của họ, có những phương diện mà Đức Chúa Trời không sánh bằng họ – họ cũng nên làm Đức Chúa Trời và con người nên tin vào họ. Đây chính là tính chất của chuyện này. … Họ chỉ thuần túy là thuộc hạ của Sa-tan, làm việc dưới sự cầm quyền của ma quỷ, phá hoại kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời và làm nhiễu loạn công tác của Ngài. Họ đích thị là kẻ địch lại Đấng Christ!(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đâm trúng tim đen, vạch trần việc tôi hành động theo ý mình và đã không tuân theo bản sắp xếp công tác. Bản sắp xếp công tác nêu rõ rằng đối với những người đã bị vạch trần là kẻ hành ác, kẻ chẳng tin hay địch lại Đấng Christ, thì lãnh đạo và người làm công nên nhanh chóng thanh trừ họ. Với tư cách là lãnh đạo, tôi phải vâng phục và tuân thủ vô điều kiện, nhanh chóng và kiên quyết thực hiện việc thanh trừ kẻ địch lại Đấng Christ, kẻ hành ác và những kẻ chẳng tin khỏi hội thánh, nhằm bảo vệ các anh chị em, không để họ bị lừa dối hay quấy nhiễu, để họ có môi trường yên tĩnh mà ăn uống lời Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật và thực hiện bổn phận. Vậy mà dù tôi biết rõ Phương Linh là kẻ chẳng tin, chỉ vì lúc trước chị ấy từng giúp đỡ tôi, tôi sợ nếu giờ mình chuẩn bị tài liệu để thanh trừ chị ấy thì sẽ làm mất lòng chị và bị mọi người gọi là vô ơn, nên tôi đã không tuân theo bản sắp xếp công tác, lại còn lấy cớ Phương Linh biết rao giảng phúc âm để biện hộ và bao che cho chị ấy, làm trái nội dung sắp xếp công tác. Tôi phản tỉnh bản thân: “Rõ ràng mình biết chị chồng mình là Phương Linh đã bị vạch trần là kẻ chẳng tin, nhưng tại sao mình vẫn vì tình cảm riêng mà bênh vực chị ấy, còn cố xóa tội cho chị ấy chứ?”. Tôi nhận ra đó là vì tư tưởng truyền thống về việc đền ơn đáp nghĩa đã chi phối tôi và ràng buộc tôi. Để duy trì hình ảnh tốt đẹp trong lòng mọi người, để không bị coi là kẻ vong ân bội nghĩa và ăn cháo đá bát, tôi đã không quan tâm đến lợi ích của hội thánh, không thèm nghĩ tới hậu quả nếu để Phương Linh ở lại hội thánh, ngang nhiên làm trái bản sắp xếp công tác. Tôi chẳng những không chuẩn bị tài liệu để thanh trừ Phương Linh, mà còn cho chị ấy rao giảng phúc âm. Nhân tính chị tệ đến mức cả hai đối tượng phúc âm của chị đều không muốn tiếp tục tìm hiểu, tất cả chuyện này là hậu quả của việc tôi bao che chị. Tôi đã làm trái bản sắp xếp công tác và tự tiện hành động theo ý mình, qua đó cản trở công tác thanh lọc của hội thánh, dùng chức vụ để biện hộ và bao che cho kẻ chẳng tin đang hành ác trong hội thánh, tạo điều kiện cho kẻ ác tiếp tục hành ác, hành động như tay sai của Sa-tan. Tất cả điều đó cho thấy tôi chính là một lãnh đạo giả. Khi nhận thấy những tội ác mà mình đã gây ra, tôi vô cùng sợ hãi và rất hối hận. Tôi vội vàng yêu cầu mọi người viết đánh giá về Phương Linh. Đọc qua các bản đánh giá, tôi nhận ra Phương Linh không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến công tác phúc âm, mà còn gây chia rẽ trong hội thánh, gieo rắc thị phi, lan truyền sự tiêu cực. Chị còn hay lợi dụng người khác, bản thân chị không thiếu thốn thứ gì, nhưng khi nhìn thấy đồ của người ta thì lại lấy làm của riêng… Đọc hết những bản đánh giá đó, trong lòng tôi thấy tội lỗi vô cùng, biết rằng bao che Phương Linh chính là hành ác. Tôi biết mình không được hành động theo tình cảm nữa và phải nhanh chóng chuẩn bị đầy đủ tài liệu để thanh trừ Phương Linh. Sau đó khi phải xin chữ ký của anh chị em thì tôi lại bắt đầu lo lắng: “Mình cũng sẽ phải thuyết phục anh trai và các chị gái ký tên. Chị dâu vừa mới bị thanh trừ không lâu, giờ mình lại muốn thanh trừ cả Phương Linh, liệu anh trai, chị dâu và các chị có nói mình vô lương tâm và ngó lơ mình không?”.

Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, trình bày về hoàn cảnh của mình, rồi tình cờ đọc được lời này của Ngài: “Trong mọi việc ngươi làm, ngươi đều phải xem xét liệu những ý định của ngươi có đúng hay không. Nếu ngươi có thể hành động theo những yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời là bình thường. Đây là tiêu chuẩn tối thiểu. Hãy nhìn vào những ý định của mình, và nếu ngươi thấy những ý định không đúng đã nảy sinh, hãy biết chống lại chúng, và hành động theo lời Đức Chúa Trời; như vậy ngươi sẽ trở thành người đúng đắn trước Đức Chúa Trời, điều cho thấy rằng mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời là bình thường, và rằng mọi việc ngươi làm là vì Đức Chúa Trời, chứ không phải vì bản thân ngươi. Trong mọi việc ngươi làm và mọi điều ngươi nói, hãy biết giữ lòng mình ngay thẳng và công chính trong hành động của mình, đừng để bị tình cảm chi phối, hoặc hành động theo ý của riêng mình. Đấy là những nguyên tắc hành động cho những người tin vào Đức Chúa Trời. … Nghĩa là, nếu con người có thể giữ Đức Chúa Trời trong lòng và không theo đuổi tư lợi hay nghĩ đến tiền đồ riêng (theo nghĩa xác thịt), mà thay vào đó mang lấy trọng trách của lối vào sự sống, làm hết sức mình để mưu cầu lẽ thật, và thuận phục công tác của Đức Chúa Trời – nếu ngươi có thể làm như vậy, thì những mục tiêu ngươi theo đuổi sẽ là đúng đắn, và mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ trở nên bình thường. Khắc phục mối quan hệ của một người với Đức Chúa Trời có thể gọi là bước đầu tiên để bước vào hành trình thuộc linh của họ. Mặc dù số phận của con người nằm trong tay Đức Chúa Trời, đã được Đức Chúa Trời tiền định, và không thể được thay đổi bởi con người, nhưng việc ngươi có được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện hoặc thu phục hay không còn tùy vào mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời có bình thường hay không. Có thể có những phần trong ngươi yếu đuối hoặc phản nghịch – nhưng miễn là quan điểm và những ý định của ngươi đúng đắn, và miễn là mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời đúng đắn và bình thường, thì ngươi đủ tư cách được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện. Nếu ngươi không có mối quan hệ đúng đắn với Đức Chúa Trời, và ngươi hành động vì xác thịt hay vì gia đình mình, thì dù ngươi nhọc công bao nhiêu, cũng sẽ là công dã tràng. Nếu mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời bình thường, thì mọi thứ khác sẽ đâu vào đấy. Đức Chúa Trời chẳng xét điều gì khác, mà chỉ xét xem quan điểm của ngươi về niềm tin nơi Đức Chúa Trời có đúng đắn không: ngươi tin vào ai, ngươi tin vì ai, và vì sao ngươi tin. Nếu ngươi có thể thấy rõ những điều này, và thực hành với những quan điểm của ngươi đã được xử lý tốt, thì ngươi sẽ tiến bộ trong sự sống, và đảm bảo ngươi cũng sẽ bước vào đường chính đạo. Nếu mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời không bình thường, và quan điểm của ngươi về niềm tin vào Đức Chúa Trời bị lệch lạc, thì tất cả những thứ khác đều vô ích, và dù ngươi tin mạnh mẽ đến đâu, ngươi cũng sẽ chẳng nhận được gì(Quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời như thế nào? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Qua lời Đức Chúa Trời tôi nhận ra rằng để có mối quan hệ bình thường với người khác, trước hết phải thiết lập quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, mọi hành động phải luôn phù hợp với lời Ngài và được đưa đến trước mặt Ngài. Nếu làm theo tâm tính bại hoại, vì danh lợi, địa vị và lợi ích vật chất của bản thân mà cố duy trì mối quan hệ của mình với mọi người, thì Đức Chúa Trời sẽ không chấp thuận, có cố duy trì quan hệ thì cũng vô ích. Kể từ khi chị chồng của tôi bị coi là kẻ chẳng tin, tôi luôn bị kiềm chế bởi tâm tính bại hoại của mình, sợ rằng nếu bị thanh trừ, chị sẽ nghĩ tôi là kẻ vô lương tâm, gia đình sẽ nói tôi vong ơn bội nghĩa, cô lập tôi, bỏ rơi tôi. Thế nên để giữ gìn hình ảnh tốt đẹp trong mắt họ, tôi đã không dám hành động theo nguyên tắc. Giờ đây tôi nhận ra rằng dù trong mắt người khác tôi tốt đẹp thế nào và được ca ngợi bao nhiêu thì cũng vô ích, vì Đức Chúa Trời không chấp thuận. Tôi đã hy sinh lợi ích hội thánh để giữ gìn quan hệ, xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Là người tin vào Đức Chúa Trời, tôi nên hành động theo lời Đức Chúa Trời, chấp nhận sự dò xét của Ngài trong mọi việc. Tôi không thể tiếp tục làm trái bản sắp xếp công tác để duy trì các mối quan hệ, không được chống đối Đức Chúa Trời, và dù mọi người có thái độ thế nào đối với tôi, bất kể họ có bỏ rơi hay phớt lờ tôi, tôi cũng phải thực hành lẽ thật và vạch trần Phương Linh. Phương Linh là kẻ chẳng tin và thường quấy nhiễu đời sống hội thánh. Việc bị thanh trừ là lỗi của chị ấy chứ không phải của ai khác. Anh trai, chị dâu và chị gái tôi cũng là tín hữu, tôi chỉ cần tập trung thông công lẽ thật với họ và giải quyết vấn đề theo nguyên tắc. Sau đó, tôi đọc cho họ nghe về những biểu hiện của Phương Linh, họ chẳng những không trách móc tôi, mà còn nói rằng những người như vậy nên bị thanh trừ, nếu không sẽ làm ô danh Đức Chúa Trời. Anh trai và chị dâu còn chia sẻ một vài biểu hiện không tin của Phương Linh. Nhìn thấy kết quả này, tôi thầm tạ ơn Đức Chúa Trời, đồng thời cảm nhận được niềm vui và sự bình yên khi thực hành lẽ thật.

Không lâu sau, tôi nhận được thông báo thanh trừ Phương Linh. Nghĩ đến việc đọc thông báo cho chị ấy nghe, tôi lại bắt đầu do dự. Những tài liệu này là do tôi chuẩn bị, nghe xong chị ấy chắc chắn sẽ rất ghét tôi! Sau này làm sao chúng tôi còn nhìn mặt nhau được? Phương Linh đã đủ đau khổ vì bị thanh trừ khỏi hội thánh, nếu tôi lại đọc thông báo cho chị nghe, chẳng phải lại càng xát muối vào vết thương của chị sao? Có lẽ không nên đọc cho chị nghe, chỉ cần kể ra một vài biểu hiện tà ác của chị, và báo chị biết rằng chị đã bị thanh trừ khỏi hội thánh, vậy thì sau này cả hai chúng tôi sẽ không quá khó xử khi gặp nhau. Đến khi trực tiếp gặp mặt Phương Linh, tôi nhận ra chị đã sụt cân rất nhiều do đau buồn vì biết tin mình bị thanh trừ. Mặt mày chị bơ phờ, hốc hác. Tôi cảm thấy rất buồn, không dám tiếp tục, nhưng tôi đành cắn răng đọc thông báo cho chị ấy nghe. Tôi lo lắng nếu mình đọc hết cho chị nghe, chị sẽ không tiếp nhận nổi. Vì vậy, tôi vẫn đọc nhưng cố tình bỏ qua những câu vạch trần và lên án biểu hiện của chị. Sau đó, mỗi lần nhìn thấy Phương Linh, tôi luôn cảm thấy hơi khó xử, như thể mình có lỗi với chị. Tôi không biết bản thân đang có vấn đề gì. Tôi biết rõ rằng Phương Linh không mưu cầu lẽ thật, gây nhiều rắc rối, bị thanh trừ là lỗi của chính chị, vậy tại sao tôi lại chìm trong tình trạng như thế này? Sau đó, tôi đọc được lời Đức Chúa Trời: “Ân trả nghĩa đền là một trong những tiêu chuẩn điển hình trong văn hóa truyền thống Trung Quốc để đánh giá đức hạnh của người ta tốt hay xấu. Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá nhân tính người ta tốt hay xấu, đức hạnh như thế nào là xem họ có báo đáp ân huệ hay sự giúp đỡ mà họ nhận được hay không – họ có phải là người biết ân trả nghĩa đền hay không. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc và trong văn hóa truyền thống của nhân loại, con người coi điều này là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá đức hạnh. Nếu có người không hiểu được chuyện ân trả nghĩa đền, thì đó là người vong ân phụ nghĩa, bị coi là người không có lương tâm và không đáng giao du, nên bị tất cả mọi người khinh bỉ, phỉ nhổ hoặc vứt bỏ. Mặt khác, nếu người đó hiểu được chuyện ân trả nghĩa đền – nếu họ là người sau khi đã nhận ân huệ và sự giúp đỡ thì không quên ơn mà còn dùng mọi cách có thể để báo đáp, thì họ được coi là người có lương tâm và nhân tính. Nếu ai đó nhận được lợi ích hoặc sự giúp đỡ từ người khác nhưng không biết đền ơn, hoặc chỉ bày tỏ chút lòng biết ơn bằng một câu ‘cảm ơn’, sau đó không bày tỏ thêm gì nữa, thì người kia sẽ nghĩ gì? Trong lòng họ có cảm thấy không thoải mái không? Có phải họ sẽ nghĩ rằng ‘Gã đó không đáng được giúp đỡ, anh ta không phải là người tốt. Nếu đó là cách anh ta đáp lại khi mình đã giúp anh ta nhiều như vậy thì anh ta thật sự không có lương tâm hay nhân tính gì cả, và không đáng để giao du’ không? Nếu gặp lại loại người này lần nữa, liệu họ có còn giúp đỡ người ấy không? Họ sẽ không muốn, ít nhất là như vậy(Mưu cầu lẽ thật là gì (7), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). “Từ cổ chí kim, vô số người đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng, quan điểm và tiêu chí đạo đức ân trả nghĩa đền. Kể cả khi người ban ơn cho họ là kẻ ác hoặc kẻ xấu, khiến họ phải làm những việc ác, việc xấu, họ vẫn làm trái với lương tâm và lý trí của mình, mù quáng nghe theo để đền ơn, dẫn đến nhiều hậu quả bi thảm. Có thể nói rằng nhiều người do bị tiêu chí đạo đức này ảnh hưởng, bị bó buộc, kìm kẹp và trói buộc mà đã mù quáng và sai lầm giữ vững quan điểm đền ơn này, thậm chí còn có thể nối giáo cho giặc. Giờ, thông qua mối thông công này của Ta, các ngươi đã có thể thấy rõ những chuyện này và có thể xác định rằng đây là sự trung thành ngu xuẩn, và rằng hành vi này được coi là không có giới hạn trong việc làm người, đền ơn một cách tùy tiện, không có sự phân biệt, nó vô nghĩa và vô giá trị. Vì người ta sợ bị dư luận khiển trách hoặc bị người khác buộc tội, nên họ miễn cưỡng dùng cả đời mình để đền ơn người khác, thậm chí dùng cả tính mạng mình để báo đáp, đó là cách làm sai lầm và ngu xuẩn. Câu nói ân trả nghĩa đền phát xuất trong văn hóa truyền thống này không chỉ trói buộc tư tưởng của con người mà còn mang đến gánh nặng và phiền phức cho cuộc sống của họ, đồng thời mang đến những đau khổ và gánh nặng quá mức cho gia đình của con người. Nhiều người phải trả rất nhiều cái giá để ân trả nghĩa đền – họ coi ân trả nghĩa đền là một trách nhiệm xã hội hoặc bổn phận của riêng họ, và thậm chí dùng thời gian cả đời để đền đáp ân tình. Họ cho rằng đây là lẽ bất di bất dịch, không thể thoái thác. Quan điểm và cách làm này chẳng phải rất ngu xuẩn và vô lý sao? Nó hoàn toàn phơi bày sự ngu muội và vô tri của con người. Cho dù nói thế nào, câu nói đức hạnh – ân trả nghĩa đền này có thể phù hợp với quan niệm của con người, nhưng không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, không hề ăn nhập với lời Đức Chúa Trời, nó là một quan điểm và cách làm sai lầm(Mưu cầu lẽ thật là gì (7), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). Những lời mặc khải của Đức Chúa Trời không sai chút nào. Tự cổ chí kim, khi đánh giá nhân tính của một người là tốt hay xấu, có một tiêu chuẩn rất điển hình là căn cứ vào việc người đó có biết đền ơn đáp nghĩa hay không. Nếu ai đó đã giúp đỡ ta hoặc đối xử tốt với ta, ta phải báo đáp lòng tốt của họ, nếu làm được vậy thì ta là người tốt; nếu không ta sẽ bị bỏ rơi, và mọi người sẽ coi ta là kẻ vong ơn bội nghĩa. Bị tiêm nhiễm và hun đúc bởi tư tưởng đền ơn đáp nghĩa, con người vô thức sống dưới sự kiềm chế và ràng buộc của ơn nghĩa. Miễn là trước đây có người đã giúp đỡ ta, ta phải trả ơn họ, không cần phân định xem người mà ta đang trả ơn là loại người như thế nào, hoặc họ có đi đúng đường hay không, và việc trả ơn họ có phù hợp với lẽ thật hay không. Vì tư tưởng đền ơn đáp nghĩa này mà có những người suốt đời bị người khác kìm kẹp, trói buộc. Thậm chí có một số người, vì trả ơn mà giúp người khác làm chuyện xấu, trở thành công cụ để người khác sử dụng. Suốt đời phải sống trong đau đớn và khổ sở… Từ khi tôi còn nhỏ, mẹ đã dạy chúng tôi phải biết đền ơn đáp nghĩa. Nếu ai đó tốt với chúng ta, chúng ta phải suốt đời khắc ghi lòng tốt của họ, không được để người khác nói chúng ta vong ơn bội nghĩa. Hầu hết mọi người xung quanh tôi cũng dùng tiêu chí này để đánh giá nhân phẩm của người khác. Tôi cũng sống theo những tư tưởng, quan điểm truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như “đền ơn đáp nghĩa”, “người kính ta một thước, ta kính người một trượng”, và “nhận ơn một giọt, trả ơn một dòng”. Nếu ai đó ra tay giúp đỡ tôi khi tôi cần, tôi sẽ luôn ghi nhớ trong lòng và tìm cơ hội đền đáp. Nếu người ta tốt với tôi nhưng tôi lại không đền đáp, thì tôi sẽ cảm thấy tự trách, bất an và xấu hổ khi đối mặt với họ. Tôi luôn sợ người khác sẽ nói mình là kẻ vong ơn bội nghĩa. Trường hợp của Phương Linh cũng giống như vậy, chỉ vì chị ấy đã giúp tôi trong quá khứ, tôi rõ ràng phân định được chị ấy là một kẻ chẳng tin, nhưng nếu thanh trừ chị ấy theo nguyên tắc, tôi sợ người ta sẽ trách mình, nên tôi đã cố bao che chị ấy, để báo đáp ân tình trước đây của Phương Linh. Khi phải đọc cho anh trai và chị gái nghe những việc ác mà Phương Linh làm, tôi sợ họ sẽ nói tôi vong ơn bội nghĩa, nên không dám đối mặt với họ. Khi phải đọc thông báo thanh trừ cho Phương Linh nghe, nhìn thấy vẻ mặt xanh xao, hốc hác của chị ấy, tôi không khỏi cảm thấy tội lỗi trong lòng, nên cố ý không đọc những câu vạch trần biểu hiện của chị. Sau khi Phương Linh bị thanh trừ, tôi không dám nhìn mặt chị ấy. Rõ ràng chị ấy bị đào thải vì không mưu cầu lẽ thật và không đi con đường đúng đắn, nhưng tôi luôn cảm thấy mình mới là người sai. Việc chị ấy từng giúp đỡ tôi chẳng khác nào gông cùm đè nặng lên cơ thể tôi, khiến tôi không tài nào thở được. Dù nhận ra mình bị ràng buộc bởi quan niệm và tư tưởng truyền thống trong việc đền ơn đáp nghĩa, nhưng tôi vẫn không thể phân biệt đúng sai, chứ đừng nói đến việc thực hành lẽ thật. Để giữ gìn danh tiếng tốt cho bản thân, để không bị người ta buộc tội và gọi tôi là đồ vong ơn bội nghĩa, tôi đã trả ơn một cách tùy tiện, thiện ác bất phân, không cư xử theo bất kỳ nguyên tắc hay tiêu chuẩn nào, làm ra chuyện phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời. Giờ đây tôi nhận ra rằng những hành vi của tôi dù nhận được bao nhiêu sự ủng hộ, khen ngợi hay tán thành, thì tôi cũng đã hy sinh lợi ích của hội thánh, đã để lại một vết nhơ không thể xóa nhòa trong cuộc đời tín hữu của mình. Hậu quả của chuyện này thật nghiêm trọng! Qua trải nghiệm thực tế lần này, tôi nhận ra rằng văn hóa truyền thống là công cụ mà Sa-tan dùng để lừa dối và làm bại hoại con người. Bị ràng buộc bởi những tư tưởng sai lầm này, dù hiểu lẽ thật nhưng tôi lại không thể thực hành, còn trở thành kẻ phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, tôi không muốn sống theo triết lý Sa-tan nữa.

Sau đó, tôi đọc thêm lời này của Đức Chúa Trời: “Phải tiến hành phân biệt quan điểm văn hóa truyền thống ‘Ân trả nghĩa đền’ này. Phần quan trọng nhất là chữ ‘ân’ – ta nên nhìn nhận chữ ‘ân’ này như thế nào? Đây là phương diện và tính chất nào của chữ ‘ân’? Ý nghĩa của việc ‘Ân trả nghĩa đền’ là gì? Người ta phải làm rõ vấn đề này, tuyệt đối không để ‘ân trả nghĩa đền’ kìm kẹp mình, đây là việc hoàn toàn cần thiết đối với bất kỳ ai mưu cầu lẽ thật. ‘Ân’ trong quan niệm của con người là gì? Từ phương diện nhỏ mà nói, ‘ân’ là việc ai đó giúp đỡ ngươi khi ngươi gặp khó khăn. Ví dụ, ai đó cho ngươi bát cơm khi ngươi không có cơm để ăn và đói đến phát hoảng, hoặc một chai nước khi ngươi sắp chết khát, hoặc giúp ngươi đứng dậy khi ngươi ngã và không thể đứng dậy. Đây đều là ân tình. Ân tình lớn là liên quan đến việc ai đó cứu ngươi khi ngươi gặp phải đại nạn – đó là ơn cứu mạng, hoặc ai đó giúp ngươi thoát chết khi ngươi gặp phải chuyện nguy hiểm tính mạng, tương đương với việc cứu mạng ngươi. Đây là một vài trong số những thứ mà người ta cho là ‘ân’. Loại ân tình này vượt xa bất kỳ ân huệ nhỏ nhoi về vật chất nào – đó là đại ân đại đức không thể đo lường bằng tiền bạc hay vật chất. Chỉ nói vài câu cảm ơn đã không thể biểu đạt được lòng cảm kích của con người nữa. Tuy nhiên, đánh giá theo cách này thì có chính xác không? (Thưa, không.) Tại sao lại không? (Thưa, bởi vì cách đánh giá này căn cứ vào văn hóa truyền thống.) Đây là một câu trả lời về mặt đạo lý và lý luận, và mặc dù có vẻ đúng nhưng nó không khớp với thực chất của vấn đề(Mưu cầu lẽ thật là gì (7), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). “Bây giờ hãy xem thử cái gọi là ân tình giữa loài người. Ví dụ, một người ăn xin lả đi vì đói ngoài trời tuyết, một người tốt bụng cứu người ăn xin, đưa về nhà, cho ăn, cho mặc, còn thu nhận anh ta, sau đó người ăn xin sống trong nhà đó và làm việc cho họ. Bất kể người ăn xin tự nguyện hay vì đền ơn, thì tóm lại việc người ta cứu giúp anh ta có được tính là một dạng ân tình không? (Thưa, không.) Ngay cả những con vật nhỏ còn có thể giúp đỡ và cứu trợ lẫn nhau. Trong khi con người chỉ cần một cái nhấc tay là thực hiện được những việc như thế, bất cứ ai có nhân tính đều có thể làm được, đạt đến được. Cũng có thể nói rằng những việc như thế là trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội mà bất cứ ai có nhân tính đều phải thực hiện. Chẳng phải việc con người xem chúng là ân tình thì có hơi chuyện bé xé ra to sao? Làm vậy có phù hợp không? Ví dụ, trong thời kỳ đói kém, nhiều người không có cơm ăn, nếu một người giàu có phân phát gạo cho các hộ nghèo để giúp họ vượt qua thời điểm khó khăn, thì đây chẳng phải là sự giúp đỡ lẫn nhau về mặt đạo nghĩa tối thiểu giữa người với người hay sao? Ông ta chỉ cho họ một chút lương thực, chứ đâu phải ông ta cho họ hết lương thực rồi để bản thân mình chịu đói chịu khát. Việc này có tính là ơn không? (Thưa, không.) Những trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội mà loài người có khả năng thực hiện, những việc mà theo bản năng con người nên đạt được và nên làm, những việc đơn giản giúp đỡ và hữu ích cho người khác – căn bản không được tính là ơn, vì đây chỉ là giúp đỡ người khác một tay mà thôi. Giúp đỡ ai đó khi họ cần, đúng lúc, đúng chỗ là một hiện tượng rất bình thường. Đó cũng là trách nhiệm của mọi thành viên trong nhân loại nên thực hiện. Đây chỉ đơn giản là một dạng trách nhiệm và nghĩa vụ. Đức Chúa Trời đã cho con người bản năng này khi Ngài tạo dựng họ. Bản năng Ta đề cập đến ở đây là gì? Chính là lương tâm và lý trí của con người(Mưu cầu lẽ thật là gì (7), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). Qua lời Đức Chúa Trời, tôi đã có được sự hiểu biết mới về chữ “ơn” vốn đã luôn trói buộc tôi trong việc “đền ơn đáp nghĩa”. Khi ai đó gặp hoàn cảnh khó khăn, việc ra tay giúp đỡ họ để họ vượt qua gian khổ và hỗ trợ họ bằng toàn bộ khả năng của mình là trách nhiệm xã hội mà mọi người nên đảm nhận, chứ không thực sự là ơn nghĩa. Như Phương Linh, vào thời điểm khó khăn nhất của tôi, đã giúp tôi chăm sóc người chồng bị liệt và phụ tôi lo việc đồng áng, đây là chuyện thường tình giữa người với người, là sự giúp đỡ lẫn nhau trong các mối quan hệ. Chị ấy còn là chị gái của chồng tôi; gia đình em trai gặp cảnh khó khăn, là chị gái thì phải giúp đỡ em hết sức có thể, đây là chuyện thường tình, thực sự không thể xem như ơn nghĩa. Sau khi chồng qua đời, tôi sống trong tình trạng vô cùng tiêu cực, Phương Linh thông công với tôi, giúp đỡ và hỗ trợ tôi, nhưng đó là điều ta nên làm với tư cách anh chị em, không thể xem là một ân huệ. Nếu gia đình Phương Linh gặp khó khăn, tôi cũng sẽ cố gắng hết sức giúp đỡ chị ấy. Nếu chị ấy tiêu cực và yếu đuối, tôi cũng sẽ đọc lời Đức Chúa Trời, thông công và hỗ trợ chị ấy. Đây là điều mà người có nhân tính bình thường nên làm. Nhưng tôi lại cho rằng tất cả những gì Phương Linh làm cho tôi đều là ân huệ. Tôi đã luôn nghĩ cách để trả ơn chị ấy, như thể tôi sẽ không có ngày hôm nay nếu không được Phương Linh giúp đỡ. Thực tế thì nhờ sự soi dẫn và giúp đỡ của lời Đức Chúa Trời nên tôi mới có được ngày hôm nay. Nhớ lại khi chồng tôi qua đời, vì lúc đó không hiểu lẽ thật nên tôi không biết mình phải sống tiếp như thế nào. Vào thời điểm tôi yếu đuối và tiêu cực nhất, Đức Chúa Trời đã sắp đặt người và việc để giúp đỡ tôi. Chính lời Đức Chúa Trời đã khai sáng và soi dẫn tôi thoát khỏi tình thế khó khăn và được như ngày hôm nay. Hiện tại tôi chẳng thiếu cơm ăn, áo mặc, lại được sống cuộc sống bình thường như bao người khác, ăn uống lời Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, tất cả là nhờ tình yêu của Ngài. Nếu tôi thực sự có lương tâm, lẽ ra tôi phải trả ơn Đức Chúa Trời. Vậy mà tôi lại sống theo tư tưởng sai lầm là đền ơn đáp nghĩa khi được người khác giúp, luôn coi trọng các mối quan hệ và tình cảm, không bao giờ quên sự giúp đỡ của bất kỳ ai dù là nhỏ nhất, chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời, Đấng đã ban cho tôi mọi thứ, không ngại vi phạm nguyên tắc, vì trả ơn mà tổn hại lợi ích hội thánh. Tôi làm vậy thực sự là quá vong ơn bội nghĩa, quá thiếu nhân tính. Khi hiểu ra điều này, lòng tôi nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Tôi cảm thấy mình thật đáng khinh vì đã không hiểu được lẽ thật.

Sau đó, tôi thấy lời này của Đức Chúa Trời: “Trước kia có người đã giúp đỡ ngươi, có một số ân huệ với ngươi và có ảnh hưởng đến cuộc đời của ngươi hay một số chuyện trọng đại, nhưng nhân tính của họ và con đường họ đi không phù hợp với con đường ngươi đi và sự mưu cầu của ngươi. Hai ngươi không có tiếng nói chung, trong lòng ngươi không thích người này và thậm chí ở một ý nghĩa nào đó có thể nói rằng những mối quan tâm và sự mưu cầu của ngươi và người đó khác nhau, con đường nhân sinh, thế giới quan, nhân sinh quan của hai ngươi khác nhau – hoàn toàn là hai kiểu người khác nhau. Vậy thì ngươi nên đối đãi và xử lý thế nào đối với sự giúp đỡ họ từng dành cho ngươi? Đây có phải là một tình huống thực tế không? (Thưa, phải.) Vậy ngươi nên làm gì? Đây cũng là tình huống rất dễ xử lý. Sau khi ngươi dành cho họ một số đền đáp về vật chất trong khả năng của mình, nếu con đường các ngươi đi không tương đồng, chí hướng không hợp nhau, không thể đi cùng một con đường, thậm chí không thể làm bạn thì tiếp theo không có cách nào qua lại với nhau được nữa. Nếu không còn cách nào qua lại với nhau nữa thì ngươi sẽ làm thế nào? Giữ khoảng cách với họ. Tuy họ từng có ơn với ngươi, nhưng trong xã hội thì họ bịp bợm và lừa đảo, làm đủ việc xấu xa và ngươi không thích người thế này, nên ngươi hoàn toàn có lý do để lựa chọn cách xa họ. Có người nói: ‘Chẳng phải làm như thế là vô lương tâm sao?’. Đây không phải là vô lương tâm – nếu họ thực sự gặp khó khăn trong cuộc sống, ngươi vẫn có thể giúp họ, nhưng ngươi không được để bị họ kìm kẹp, không được đi theo họ hành ác và làm những việc trái lương tâm. Cũng không cần phải làm trâu làm ngựa cho họ cả đời chỉ vì họ từng giúp ngươi hay có đại ân với ngươi – đó không phải nghĩa vụ của ngươi và họ cũng không xứng đáng được như thế. Ngươi có quyền lựa chọn chung sống, qua lại, thậm chí kết bạn với những người mà ngươi thích, người đúng đắn. Ngươi có thể thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ đối với người này, đây là quyền của ngươi. Đương nhiên, ngươi cũng có thể từ chối giao thiệp và kết bạn với những người mà ngươi không thích, ngươi không cần phải thực hiện bất cứ nghĩa vụ hay trách nhiệm nào với họ – đây cũng là quyền của ngươi. Dù ngươi lựa chọn vứt bỏ người này và từ chối qua lại với họ hoặc từ chối thực hiện bất cứ trách nhiệm và nghĩa vụ nào với họ, thì cũng không tính là sai trái. Làm người thì phải có giới hạn, đối đãi với những người khác nhau thì phải dùng những cách khác nhau. Không được cùng một giuộc với những kẻ ác, tuyệt đối không được nhập bọn với họ, như thế mới là lựa chọn sáng suốt. Đừng để bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như ân tình, tình cảm hoặc dư luận xã hội, v.v. đây chính là có lập trường, là có nguyên tắc, và là những gì ngươi nên làm(Mưu cầu lẽ thật là gì (7), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). Lời Đức Chúa Trời nêu rõ các nguyên tắc về cách đối xử với con người. Nếu trong quá khứ có ai đó đã giúp ta một việc lớn, chúng ta phải đối xử với họ dựa trên phẩm chất nhân tính của họ và con đường mà họ đi. Nếu như họ là người tốt và đi theo con đường đúng đắn, chúng ta có thể giao tiếp với họ một cách bình thường, và hãy dốc hết khả năng của bản thân để hỗ trợ họ một khi họ cần được giúp đỡ. Nếu người đã giúp đỡ chúng ta không đi đúng đường và làm xằng làm bậy, chúng ta phải cẩn thận khi tiếp xúc với họ, phân định bản chất trong lời nói và hành động của họ, khi nào nên bỏ thì bỏ, khi nào nên tránh xa thì phải tránh xa. Chỉ cần giúp đỡ họ về mặt vật chất tùy khả năng của chúng ta là được. Nếu họ tin vào Đức Chúa Trời nhưng không mưu cầu lẽ thật, qua loa trong việc thực hiện bổn phận và hay gây rối, gây nhiễu loạn công tác của nhà Đức Chúa Trời, thì chúng ta phải tỉa sửa và xử lý họ theo nguyên tắc lẽ thật. Nếu họ vẫn không ăn năn, thì ta phải tuân theo nguyên tắc, cảnh báo những người cần cảnh báo và thanh trừ những kẻ cần thanh trừ, không bao giờ được hành động theo phép tắc của Sa-tan hay làm điều trái với nguyên tắc. Trước đây, tôi không đối xử người ta theo nguyên tắc, đã nhiều lần hành động một cách vô tri, bị trói buộc bởi tư tưởng truyền thống, vô tình trở thành tay sai của Sa-tan, gây nhiễu loạn và gián đoạn đời sống hội thánh. Nếu tin Đức Chúa Trời mà không sống theo lẽ thật, thì ta có thể chống đối Ngài và xúc phạm tâm tính Ngài bất cứ lúc nào! Mặc dù hiện tại, Phương Linh thỉnh thoảng vẫn hỗ trợ chút ít về mặt vật chất cho tôi, nhưng qua lời Đức Chúa Trời, tôi đã học được cách nhìn nhận sự hỗ trợ đó. Nó không phải là lòng tốt của Phương Linh, cũng không phải ân tình của chị ấy, mà là tình yêu của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã cử chị ấy đến giúp tôi, nên tôi phải cảm tạ Ngài và làm tròn bổn phận để báo đáp Ngài.

Xưa nay tôi luôn nghĩ mình phải báo đáp ân tình của người khác và phải biết ơn người đã giúp mình, đó là điều người tốt nên làm. Tuy nhiên, qua trải nghiệm lần này tôi hiểu ra rằng, Sa-tan lợi dụng tư tưởng đền ơn đáp nghĩa truyền thống để kìm kẹp và khống chế con người, trói buộc suy nghĩ của họ, khiến họ bất phân phải trái và hành động thiếu nguyên tắc, vô tình trở thành công cụ đắc lực của Sa-tan. Tôi cũng hiểu ra rằng những thứ thuộc về Sa-tan dù trông tốt đẹp đến đâu thì cũng không phải lẽ thật, chỉ lời của Đức Chúa Trời là lẽ thật. Lời Đức Chúa Trời cho phép ta phân biệt phải trái, sống trọn nhân tính bình thường. Chỉ khi sống theo lẽ thật, đối nhân xử thế theo nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời, thì mới có thể làm theo ý muốn của Ngài, mới có thể sống có nhân cách và tôn nghiêm! Tạ ơn Đức Chúa Trời cứu rỗi!

Trước: 62. Tỉnh ngộ khỏi sự kiêu ngạo của mình

Tiếp theo: 64. Tôi đạt được gì khi làm người trung thực

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

52. Vĩnh biệt người dễ dãi!

Bởi Lý Phi, Tây Ban NhaVề những người dua nịnh, tôi từng nghĩ họ thật tuyệt vời, trước khi tin vào Đức Chúa Trời. Họ có tâm tính hòa...

53. Tháo gỡ những nút thắt

Bởi Thúy Bách, ÝĐức Chúa Trời phán: “Vì số phận của các ngươi, các ngươi nên tìm kiếm sự chấp thuận của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa...

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ The Responsibilities of Leaders and Workers Về việc mưu cầu lẽ thật I Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger