Công tác và sự bước vào (9)

Từ lâu, những truyền thống dân tộc và quan điểm tinh thần ăn sâu đã phủ bóng đen lên tâm hồn thanh sạch và ngây thơ của con người, và chúng đã tấn công tâm hồn của con người mà không có chút nhân tính nào, như thể bị vô cảm hay mất hết ý thức về bản thân. Các phương pháp của những con quỷ này cực kỳ tàn bạo, và như thể “giáo dục” và “nuôi dưỡng” đã trở thành những phương pháp truyền thống mà vua quỷ dùng để giết chết con người. Bằng việc sử dụng “sự giảng dạy sâu sắc” của mình, nó hoàn toàn che đậy tâm hồn xấu xa của nó, đội lốt cừu để có được sự tin tưởng của con người và sau đó nắm lấy cơ hội khi con người đang ngủ mê man để hoàn toàn nuốt chửng họ. Tội nghiệp cho nhân loại – làm sao họ có thể biết rằng mảnh đất mà họ được nuôi dưỡng là mảnh đất của ma quỷ, rằng người nuôi nấng họ thực sự là một kẻ thù làm tổn thương họ. Vậy mà con người không tỉnh thức chút nào; sau khi đã thỏa mãn cơn đói khát, họ chuẩn bị trả ơn cho “lòng tốt” của “cha mẹ” mình trong việc dưỡng dục. Con người là như thế. Ngày nay, họ vẫn không biết rằng vị vua đã nuôi nấng mình là kẻ thù của mình. Trái đất vương vãi xương người chết, ma quỷ thì không ngừng phấn khích, và tiếp tục nuốt chửng xác thịt của con người trong “cõi âm ty”, chung nhau một nấm mồ với những bộ xương người và cố côngvô ích để tiêu thụ hết những tàn dư cuối cùng của xác người tả tơi. Vậy mà con người mãi không biết, và chưa bao giờ xem ma quỷ là kẻ thù của mình, mà thay vào đó lại phục vụ nó hết lòng. Một nhân loại suy đồi như thế thì hoàn toàn không có khả năng biết đến Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có dễ dàng trở nên xác thịt và đến giữa họ, thực hiện toàn bộ công tác cứu rỗi của Ngài không? Làm sao con người, những kẻ đã rơi xuống địa ngục, có thể thỏa mãn những yêu cầu của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời đã chịu đựng nhiều đêm không ngủ vì công tác của nhân loại. Từ nơi cao vời vợi đến nơi sâu thẳm nhất, Ngài đã xuống địa ngục sống nơi mà con người sống và trải qua những ngày tháng của mình với con người, Ngài chưa bao giờ phàn nàn về sự đáng khinh trong con người, và Ngài chưa bao giờ quở trách con người vì sự bất tuân của họ, nhưng lại chịu đựng sự sỉ nhục nặng nề nhất khi Ngài đích thân thực hiện công tác của mình. Làm sao Đức Chúa Trời có thể thuộc về địa ngục? Làm sao Ngài có thể sống cả đời trong địa ngục? Nhưng vì lợi ích của toàn nhân loại, để cho cả nhân loại có thể tìm được sự nghỉ ngơi sớm hơn, mà Ngài đã chịu đựng sự sỉ nhục và chịu sự bất công để đến trái đất, và đích thân bước vào “địa ngục” và “âm phủ”, vào hang cọp, để cứu rỗi con người. Làm sao con người có đủ tư cách để chống đối Đức Chúa Trời? Họ có lý do gì để phàn nàn về Đức Chúa Trời? Làm sao họ có thể dám trơ tráo xem xét Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời của thiên đàng đã đến mảnh đất đồi bại ô uế nhất này, và Ngài chưa bao giờ tuôn lời bất bình, hay phàn nàn về con người, mà thay vào đó lặng lẽ chấp nhận sự tàn phá[1] và áp bức của con người. Chưa bao giờ Ngài kháng cự lại những đòi hỏi vô lý của con người, chưa bao giờ Ngài đưa ra những yêu cầu quá mức đối với con người, và chưa bao giờ Ngài đưa ra những yêu cầu vô lý đối với con người; Ngài chỉ đơn thuần thực hiện tất cả những việc con người yêu cầu mà không hề phàn nàn: dạy dỗ, khai sáng, quở trách, tinh luyện bằng lời, nhắc nhở, khuyến giục, an ủi, phán xét và tỏ lộ. Bước nào trong những bước của Ngài không vì sự sống của con người? Mặc dù Ngài đã dẹp bỏ triển vọng và số phận của con người, nhưng bước nào trong các bước do Đức Chúa Trời thực hiện mà không vì số phận của con người? Bước nào trong số đó không vì sự sinh tồn của con người? Bước nào trong số đó không vì sự giải thoát con người khỏi sự đau khổ này và khỏi sự áp bức của các thế lực bóng tối đen như bóng đêm? Bước nào trong số đó không vì lợi ích của con người? Ai có thể hiểu được lòng của Đức Chúa Trời, tấm lòng như của một người mẹ đầy tình yêu thương? Ai có thể hiểu thấu được tấm lòng thiết tha của Đức Chúa Trời? Tấm lòng nồng nhiệt và những kỳ vọng mãnh liệt của Đức Chúa Trời đã được đáp lại bằng những tấm lòng lạnh nhạt, bằng những đôi mắt nhẫn tâm, hờ hững, và bằng những lời trách cứ và lăng mạ lặp đi lặp lại của con người; chúng đã được đáp lại bằng những lời nhận xét gay gắt, sự mỉa mai và xem thường; chúng đã được đáp lại bằng sự chế giễu của con người, bằng sự chà đạp và chối bỏ, bằng sự hiểu lầm, than van, ghẻ lạnh và tránh né, và không có gì khác ngoài sự lừa dối, tấn công và cay đắng. Những lời nói ấm áp được đáp trả bởi những cái cau mày dữ tợn và sự thách thức trơ tráo của hàng ngàn ngón tay vẫy. Đức Chúa Trời chỉ còn cách chịu đựng, cúi đầu, phục vụ con người như một con bò tự nguyện[2]. Biết bao nhiêu ngày tháng, biết bao nhiêu lần Ngài nhìn lên các vì sao, biết bao nhiêu lần Ngài đã đi sớm về khuya, và trằn trọc, chịu đựng đau đớn gấp ngàn lần nỗi đau của Ngài khi rời xa Cha mình, chịu đựng sự tấn công và hủy hoại của con người, cũng như sự đối phó và tỉa sửa của con người. Sự khiêm nhường và ẩn giấu của Đức Chúa Trời đã được đáp lại bằng định kiến[3] của con người, bằng những quan điểm bất công và sự đối xử không công bằng của con người, còn cách Đức Chúa Trời lặng lẽ làm việc ít ai biết đến, sự nhịn nhục của Ngài, sự khoan dung của Ngài đã được đáp lại bằng ánh mắt tham lam của con người; con người cố giẫm đạp Đức Chúa Trời đến chết, không chút hối tiếc, và cố chà đạp Đức Chúa Trời đến cùng kiệt. Thái độ của con người trong việc họ đối xử với Đức Chúa Trời là một trong những “sự thông minh hiếm có”, và Đức Chúa Trời, Đấng bị con người bắt nạt và khinh khi, bị giẫm nát dưới chân của hàng vạn người, trong khi chính con người lại đứng trên cao, như thể họ sẽ làm vua của ngọn đồi, như thể họ muốn nắm quyền hành tuyệt đối[4], làm tâm điểm chú ý từ phía sau màn bạc, biến Đức Chúa Trời thành nhà đạo diễn tận tâm và tuân thủ luật pháp ở hậu trường, không được phép chống trả hay gây rắc rối. Đức Chúa Trời phải đóng vai vị Hoàng đế cuối cùng, Ngài phải là một con rối[5], hoàn toàn không có tự do. Những việc làm của con người là không thể tả được, vậy thì làm sao họ có đủ tư cách để đòi hỏi điều này điều nọ từ Đức Chúa Trời? Làm sao họ có đủ tư cách để đưa ra đề nghị với Đức Chúa Trời? Làm sao họ có đủ tư cách để đòi hỏi Đức Chúa Trời thông cảm với những điểm yếu của mình? Làm sao họ xứng đáng để nhận được sự thương xót của Đức Chúa Trời? Làm sao họ xứng đáng để nhận được sự đại lượng của Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác? Làm sao họ xứng đáng để nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác? Lương tâm của họ đâu rồi? Họ đã làm tan vỡ trái tim của Đức Chúa Trời từ lâu, từ lâu họ đã để mặc lòng Đức Chúa Trời tan nát. Đức Chúa Trời đến giữa con người một cách vui vẻ và đầy năng lượng, hy vọng rằng con người sẽ có lòng thảo đối với Ngài, cho dù chỉ với một chút hơi ấm. Tuy nhiên lòng của Đức Chúa Trời chậm được con người an ủi, tất cả những gì Ngài đã nhận được chỉ là những cuộc tấn công bằng nắm tuyết[6] và sự thống khổ. Lòng con người thì quá tham lam, ham muốn của họ quá lớn, họ không bao giờ có thể thỏa mãn, họ luôn luôn ranh mãnh và dại dột liều lĩnh, họ không bao giờ để Đức Chúa Trời có bất kỳ quyền tự do hay quyền được nói nào, không để cho Đức Chúa Trời có sự lựa chọn nào ngoài việc phải chịu sự sỉ nhục, và để con người thao túng Ngài theo ý họ muốn.

Từ khi sáng thế cho đến nay, Đức Chúa Trời đã chịu đựng rất nhiều đau đớn, và chịu rất nhiều cuộc tấn công. Vậy mà ngay cả ngày nay, con người vẫn không bớt đòi hỏi Đức Chúa Trời, họ vẫn dò xét Đức Chúa Trời, họ vẫn không có sự khoan dung đối với Ngài, và không làm gì ngoài việc cho Ngài lời khuyên, chỉ trích Ngài và sửa dạy Ngài, như thể vô cùng lo sợ rằng Đức Chúa Trời sẽ đi sai đường, rằng Đức Chúa Trời trên đất thì tàn bạo và vô lý, hoặc lộng hành, hoặc rằng Ngài sẽ chẳng là gì. Con người luôn luôn có loại thái độ này đối với Đức Chúa Trời. Làm sao điều đó không làm Đức Chúa Trời buồn lòng? Khi trở nên xác thịt, Đức Chúa Trời đã chịu đựng nỗi đau đớn và sự sỉ nhục tột cùng; vậy thì, việc bắt Đức Chúa Trời chấp nhận sự dạy dỗ của con còn người tệ đến mức nào? Việc Ngài đến giữa con người đã tước đi của Ngài mọi sự tự do, đến mức như thể Ngài bị cầm tù trong địa ngục, và Ngài đã chấp nhận bị con người mổ xẻ mà không hề có chút kháng cự nào. Chẳng phải điều này đáng xấu hổ sao? Khi đến giữa gia đình của một con người bình thường, “Jêsus” đã chịu sự bất công lớn nhất. Thậm chí còn nhục nhã hơn nữa là việc Ngài đã đến thế giới bụi bặm này và hạ mình xuống mức thấp nhất, và mặc lấy một xác thịt bình thường nhất. Khi trở nên một con người nhỏ bé, chẳng phải Đức Chúa Trời Chí Cao đã chịu đựng gian khổ sao? Và chẳng phải Ngài làm thế vì nhân loại sao? Đã có bất kỳ lúc nào Ngài nghĩ về bản thân mình chưa? Sau khi Ngài đã bị chối bỏ và bị người Do Thái xử tử, bị con người cười nhạo và chế giễu, Ngài đã không bao giờ than Trời trách đất. Ngày nay, thảm kịch hàng ngàn năm này đã tái hiện giữa dân tộc giống người Do Thái này. Chẳng phải họ phạm cùng một tội sao? Điều gì khiến con người có đủ tư cách nhận được những lời hứa của Đức Chúa Trời? Chẳng phải họ chống đối Đức Chúa Trời và sau đó nhận những phước lành của Ngài sao? Tại sao con người không bao giờ đối diện công lý, hay tìm kiếm lẽ thật? Tại sao họ không bao giờ quan tâm đến những gì Đức Chúa Trời làm? Sự công chính của họ ở đâu? Sự công bằng của họ ở đâu? Họ có dám trơ tráo đại diện cho Đức Chúa Trời không? Ý thức về công lý của họ ở đâu? Trong những thứ được con người yêu thích thì có bao nhiêu thứ được Đức Chúa Trời yêu thích? Con người không thể phân biệt[7], họ luôn luôn lẫn lộn trắng đen[8], họ đàn áp công lý và lẽ thật, và đề cao, lan truyền sự bất công và bất chính. Họ xua đuổi sự sáng, và nô đùa nhảy nhót trong bóng tối. Những người thay vì tìm kiếm lẽ thật và công lý lại xua đuổi sự sáng, những người thay vì tìm kiếm Đức Chúa Trời lại giẫm đạp Ngài dưới chân mình, và tự kéo mình lên mây. Con người không khác gì kẻ cướp[9]. Lý trí của họ ở đâu? Ai có thể phân biệt được đúng sai? Ai có thể bảo vệ công lý? Ai sẵn lòng chịu đau khổ vì lẽ thật? Con người thật xấu xa và độc ác! Sau khi đóng đinh Đức Chúa Trời vào thập tự giá họ vỗ tay reo hò, không ngớt những tiếng kêu điên dại. Họ giống như gà với chó, họ thông đồng và đồng lõa, họ đã lập ra vương quốc của riêng mình, sự can thiệp của họ đã làm cho không chỗ nào không bị xáo trộn, họ nhắm mắt lại và điên cuồng hú lên liên tục, tất cả bọn họ đều giam lại với nhau, và một bầu không khí đục ngầu lan tỏa, thất điên bát đảo, và những ai mù quáng bám theo người khác cứ tiếp tục xuất hiện, tất cả đều giơ cao những tên tuổi “lừng lẫy” của cha ông mình. Những con gà con chó này từ lâu đã đặt Đức Chúa Trời tận đẩu tận đâu trong tâm trí mình và chưa bao giờ chú ý đến tâm trạng lòng Ngài. Không ngạc nhiên khi Đức Chúa Trời phán rằng con người giống như chó hoặc gà, một con chó sủa kéo theo cả trăm con khác hú theo; theo cách này, với nhiều sự rùm beng, họ đã đem công tác của Đức Chúa Trời vào trong thời đại ngày nay, bất kể công tác của Đức Chúa Trời như thế nào, liệu có công lý hay không, liệu Đức Chúa Trời có một nơi để đặt chân Ngài hay không, ngày mai sẽ ra sao, sự thấp hèn của bản thân mình, và sự ô uế của bản thân mình. Con người chưa bao giờ suy nghĩ về mọi việc nhiều như thế, họ chưa bao giờ bận lòng lo lắng về ngày mai, và đã quơ lấy tất cả những gì có ích và quý giá vào tay mình, không để lại gì cho Đức Chúa Trời ngoại trừ những thứ vụn vặt thừa thãi[10]. Nhân loại thật độc ác làm sao! Họ không dành tình cảm cho Đức Chúa Trời, và sau khi lén lút nuốt chửng mọi thứ của Đức Chúa Trời, họ hất Đức Chúa Trời ra xa phía sau, không còn chú ý gì đến sự tồn tại của Ngài. Họ tận hưởng Đức Chúa Trời, nhưng lại chống đối Đức Chúa Trời và chà đạp Ngài dưới chân, trong khi miệng họ thì thốt ra những lời tạ ơn và ca ngợi Đức Chúa Trời; họ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và phụ thuộc vào Đức Chúa Trời, trong khi họ cũng lừa dối Đức Chúa Trời; họ “tôn cao” danh Đức Chúa Trời, và ngước nhìn diện mạo của Đức Chúa Trời, nhưng họ cũng trơ tráo và không biết xấu hổ ngồi trên ngai của Đức Chúa Trời và phán xét “sự bất chính” của Đức Chúa Trời; họ thốt ra từ miệng mình những lời rằng họ mang ơn Đức Chúa Trời, và họ nhìn vào lời Đức Chúa Trời, tuy nhiên trong lòng họ ném những lời chửi rủa thậm tệ vào Đức Chúa Trời; họ “khoan dung” đối với Đức Chúa Trời nhưng lại áp bức Đức Chúa Trời, và miệng họ thì nói rằng đó là vì lợi ích của Đức Chúa Trời; trong tay họ nắm mọi thứ của Đức Chúa Trời, và trong miệng họ nhai những thức ăn mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ, nhưng mắt họ lại nhìn chằm chằm vào Đức Chúa Trời lạnh lùng và vô cảm, như thể họ muốn ăn tươi nuốt sống Ngài; họ nhìn vào lẽ thật nhưng cứ nhất quyết nói rằng đó là trò lừa bịp của Sa-tan. Họ nhìn vào công lý nhưng ép nó phải trở thành sự chối bỏ bản thân; họ nhìn vào những việc làm của con người và cứ nhất quyết chúng là những gì Đức Chúa Trời là; họ nhìn vào năng khiếu của con người và cứ nhất quyết chúng là lẽ thật; họ nhìn vào các việc làm của Đức Chúa Trời và cứ nhất quyết chúng là sự kiêu ngạo và tự phụ, khoe khoang và tự nên công chính; khi con người nhìn vào Đức Chúa Trời, họ nhất quyết chụp mũ Ngài là con người, và cố gắng hết sức để đặt Ngài vào vị trí của một vật thọ tạo thông đồng với Sa-tan; họ biết rất rõ chúng là những lời phán của Đức Chúa Trời, nhưng sẽ không gọi chúng là gì ngoài những bài viết của con người; họ biết rất rõ rằng Thần được nhận ra trong xác thịt, rằng Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt, nhưng chỉ nói rằng xác thịt này là hậu duệ của Sa-tan; họ biết rất rõ rằng Đức Chúa Trời hạ mình và ẩn giấu, nhưng chỉ nói rằng Sa-tan đã bị làm nhục, và Đức Chúa Trời đã chiến thắng. Đồ vô tích sự! Con người thậm chí không xứng đóng vai trò là những con chó giữ cửa! Họ không phân biệt được trắng đen, và thậm chí cố tình đổi trắng thay đen. Các thế lực và sự bao vây của con người có thể chịu nổi ngày giải phóng của Đức Chúa Trời không? Sau khi cố tình chống đối Đức Chúa Trời, con người tuyệt nhiên dửng dưng, hoặc thậm chí đi xa đến mức xử tử Ngài, không cho phép Đức Chúa Trời tỏ bày chính Ngài. Sự công chính ở đâu? Tình yêu thương ở đâu? Họ ngồi cạnh Đức Chúa Trời, và ép Đức Chúa Trời phải quỳ xuống cầu xin sự tha thứ, tuân theo mọi sự sắp đặt của họ, đồng ý với mọi sự lèo lái của họ, và họ khiến Đức Chúa Trời làm theo sự ra hiệu của họ trong mọi việc Ngài làm, nếu không họ giận điên lên[11] và nổi cơn thịnh nộ. Làm sao Đức Chúa Trời không thể đau buồn tột cùng dưới sự ảnh hưởng của bóng tối như thế, thứ đổi trắng thay đen? Làm sao mà Ngài không thể lo lắng cho được? Tại sao nói rằng khi Đức Chúa Trời bắt đầu công tác mới nhất của Ngài, thì nó giống như công tác tạo nên trời và đất? Việc làm của con người thật “phong phú”, “suối nguồn hằng sống chảy mãi” không ngừng “tưới đầy” cánh đồng lòng người, trong khi “suối nước hằng sống” của con người ganh đua với Đức Chúa Trời không chút đắn đo[12]; cả hai đều không thể hòa hợp, và nó cung cấp cho con người thay cho Đức Chúa Trời bất chấp hậu quả, trong khi con người hợp tác với nó mà không để ý đến những nguy hiểm liên quan. Và dẫn đến hậu quả gì? Họ lạnh lùng gạt Đức Chúa Trời sang một bên, và đặt Ngài thật xa, nơi mà con người sẽ không chú ý đến Ngài, vô cùng sợ hãi rằng Ngài sẽ thu hút sự chú ý của họ, và hết sức lo sợ rằng suối nước hằng sống của Đức Chúa Trời sẽ lôi kéo con người và thu phục con người. Do đó, sau khi trải qua nhiều năm trong những mối bận tâm thế gian, họ đồng lõa và có mưu đồ chống lại Đức Chúa Trời, và thậm chí lấy Đức Chúa Trời làm mục tiêu chỉ trích của họ. Như thể Đức Chúa Trời đã trở thành một khúc gỗ trong mắt của họ, và họ cố hết sức để nắm lấy Đức Chúa Trời và đặt Ngài vào lửa để được tinh luyện và làm cho tinh sạch. Khi nhìn thấy sự bực dọc của Đức Chúa Trời, con người đấm ngực và cười to, họ nhảy múa vì vui sướng, và nói rằng Đức Chúa Trời cũng bị đẩy vào sự tinh luyện, và nói rằng họ sẽ đốt sạch những sự bất khiết, dơ bẩn của Đức Chúa Trời, như thể chỉ có điều này là hợp lẽ phải và hợp lý, như thể chỉ đây mới là những phương pháp công bằng và hợp lý của Thiên đàng. Hành vi hung bạo này của con người dường như là cả cố ý lẫn vô tình. Con người tỏ lộ cả bộ mặt xấu xa lẫn tâm hồn gớm ghiếc, bẩn thỉu, cũng như vẻ bề ngoài đáng thương của một kẻ ăn xin; sau khi lộng hành khắp nơi, họ khoác lấy dáng vẻ thảm bại và cầu xin sự tha thứ của Thiên đàng, giống như một con chó púc cực kỳ đáng thương. Con người luôn luôn hành động theo những cách bất ngờ, họ luôn luôn “cưỡi trên lưng cọp để dọa người khác”[a], họ luôn luôn đóng kịch, không có chút quan tâm nào đến tấm lòng của Đức Chúa Trời, và họ cũng không làm phép so sánh với tình trạng của bản thân mình. Họ chỉ đơn thuần âm thầm chống đối Đức Chúa Trời, như thể Đức Chúa Trời đã làm gì sai với họ, và không nên đối xử với họ như thế, và như thể Trời không có mắt và cố tình gây khó dễ cho họ. Vì thế con người luôn bí mật thực hiện những âm mưu xấu xa, và họ không hề bớt chút đòi hỏi nào đối với Đức Chúa Trời, nhìn bằng con mắt muốn ăn tươi nuốt sống, nhìn trừng trừng giận dữ vào nhất cử nhất động của Đức Chúa Trời, không bao giờ nghĩ rằng họ là kẻ thù của Đức Chúa Trời, và hy vọng rằng sẽ đến ngày Đức Chúa Trời rẽ màn sương, làm rõ mọi thứ, cứu họ khỏi “miệng hổ” và bù đắp những bất bình của họ. Thậm chí ngày nay, con người vẫn không nghĩ rằng họ đang đóng vai chống đối Đức Chúa Trời mà rất nhiều người đã đóng trong suốt các thời đại; làm sao họ có thể biết rằng trong tất cả những gì họ làm họ đã lạc lối từ lâu, rằng tất cả những gì họ hiểu đã bị biển nhấn chìm từ lâu.

Ai đã từng chấp nhận lẽ thật? Ai đã từng chào đón Đức Chúa Trời với vòng tay rộng mở? Ai đã từng vui mừng mong ước sự xuất hiện của Đức Chúa Trời? Hành vi của con người đã suy đồi từ lâu, và sự ô uế của họ từ lâu đã làm cho đền thờ Đức Chúa Trời không thể nhận ra nữa. Trong khi đó, con người vẫn tiếp tục với công việc của chính mình, luôn luôn khinh rẻ Đức Chúa Trời. Như thể sự chống đối Đức Chúa Trời đã trở nên cố định, và không thể thay đổi, và kết quả là, họ thà bị nguyền rủa hơn là chịu thêm bất kỳ sự ngược đãi nào về lời nói và hành động của mình. Làm sao những con người như thế này có thể biết đến Đức Chúa Trời? Làm sao họ có thể tìm được sự nghỉ ngơi cùng Đức Chúa Trời? Và làm sao họ có thể xứng đáng đến trước Đức Chúa Trời? Chắc chắn, không có gì sai khi hiến thân mình cho kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời – nhưng tại sao con người luôn luôn đặt công tác của Đức Chúa Trời và toàn bộ về Đức Chúa Trời tận đẩu tận đâu trong tâm trí trong khi quên mình cống hiến tâm huyết của bản thân? Tinh thần hy sinh quên mình của con người chắc chắn là quý giá – nhưng làm sao họ biết được “tơ” mà họ xe hoàn toàn không có khả năng đại diện cho Đức Chúa Trời là gì? Những ý định tốt của con người chắc chắn là quý hiếm – nhưng làm sao họ có thể nuốt được “kho báu vô giá?”[13] Mỗi người trong các ngươi nên nghĩ về quá khứ của mình: Tại sao chưa bao giờ các ngươi rời xa hình phạt nhẫn tâm và những lời nguyền rủa? Tại sao con người luôn luôn có “mối quan hệ mật thiết” như thế với những lời oai nghi và sự phán xét công chính? Có phải Đức Chúa Trời đang thực sự thử thách họ không? Có phải Đức Chúa Trời đang cố tình tinh luyện họ không? Và con người bước vào giữa sự tinh luyện như thế nào? Họ có thực sự biết công tác của Đức Chúa Trời không? Con người đã học được những bài học nào từ công tác của Đức Chúa Trời và lối vào của riêng mình? Mong rằng con người không quên lời khuyên giục của Đức Chúa Trời, và mong rằng họ có sự thông hiểu về công tác của Đức Chúa Trời, xác định rõ ràng về nó, và quản lý lối vào của chính mình một cách đúng đắn.

Chú thích:

1. “Sự tàn phá” được dùng để vạch trần sự bất tuân của nhân loại.

2. “Được đáp trả bởi những cái cau mày dữ tợn và sự thách thức trơ tráo của hàng ngàn ngón tay vẫy, cúi đầu, phục vụ con người như một con bò tự nguyện” nguyên bản là một câu, nhưng ở đây được tách thành hai câu để làm cho mọi thứ rõ ràng hơn. Phần đầu của câu đề cập đến hành động của con người, trong khi câu thứ nhì ám chỉ sự đau khổ mà Đức Chúa Trời đã trải qua, và việc Đức Chúa Trời khiêm nhường và ẩn giấu.

3. “Định kiến” ám chỉ hành vi bất tuân của con người.

4. “Nắm quyền hành tuyệt đối” ám chỉ hành vi bất tuân của con người. Họ tự đề cao bản thân, trói buộc những người khác, khiến những người đó đi theo họ và chịu đau khổ vì họ. Họ là những thế lực thù địch với Đức Chúa Trời.

5. “Con rối” được dùng để chế giễu những ai không biết Đức Chúa Trời.

6. “Nắm tuyết” được dùng để làm nổi bật hành vi thấp hèn của con người.

7. “Không thể phân biệt” ám chỉ khi con người bóp méo ý muốn của Đức Chúa Trời thành điều gì đó thuộc về Sa-tan, đề cập chung đến hành vi trong đó con người chối bỏ Đức Chúa Trời.

8. “Lẫn lộn trắng đen” ám chỉ đến việc trộn lẫn lẽ thật với những ảo tưởng, và sự công chính với sự xấu xa.

9. “Kẻ cướp” được dùng để ám chỉ rằng con người vô thức và thiếu sáng suốt.

10. “Những thứ vụn vặt thừa thãi” được dùng để ám chỉ hành vi mà con người áp bức Đức Chúa Trời.

11. “Giận điên lên” ám chỉ bộ mặt xấu xí của con người khi nổi giận và bực tức.

12. “Không chút đắn đo” đề cập đến việc khi con người khinh suất và không có chút tôn kính nào đối với Đức Chúa Trời.

13. “Kho báu vô giá” đề cập đến toàn bộ về Đức Chúa Trời.

a. Cụm từ này được dịch dựa trên nguyên bản “hú jiǎ hǔ wēi”, là một thành ngữ Trung Quốc. Nó đề cập đến một câu chuyện trong đó một con cáo dọa những con vật khác bằng cách đi chung với một con hổ, theo cách đó “mượn” sự đe dọa và uy thế sẵn có của con hổ. Đây là một ẩn dụ, được dùng ở đây để ám chỉ con người “mượn” uy thế của người nào đó để làm hoảng sợ hay áp bức những người khác.

Trước: Công tác và sự bước vào (8)

Tiếp theo: Công tác và sự bước vào (10)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger