Chỉ khi vâng phục thật sự mới có đức tin chân thực

Đức tin vào Đức Chúa Trời là gì? Đây là vấn đề thực tế nhất, cũng là lẽ thật cơ bản nhất phải hiểu khi tin Đức Chúa Trời. Đức tin vào Đức Chúa Trời rốt cuộc là một loại tín ngưỡng hay một loại mục tiêu đời người, phương hướng đời người? Trong lòng ngươi, mục đích của đức tin vào Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì? Vì sao ngươi phải tin Đức Chúa Trời? Tức niềm tin của ngươi là gì? Nền móng và cơ sở để ngươi tin Đức Chúa Trời là gì? Lấy gì làm động lực? Nói cách khác, ý định và mục đích của việc ngươi tin vào Đức Chúa Trời là gì? Rốt cuộc là vì cái gì? Đây là vấn đề thực tế nhất. Có thể nói, con người có thể tin Đức Chúa Trời, chấp nhận Ngài đều là để đạt phước lành, con người tin Ngài chính là để có một chỗ gửi gắm, hướng tới và mưu cầu trên phương diện tư tưởng và tinh thần, đây là ý định ban đầu của tất cả những ai tin Đức Chúa Trời. Nhưng sau khi người ta tin Đức Chúa Trời, sau khi tiếp xúc với lời Đức Chúa Trời, tiếp xúc với lẽ thật, tiếp xúc với công tác của Đức Chúa Trời và tất cả con người, sự vật, sự việc Đức Chúa Trời tể trị, quan điểm về đức tin vào Đức Chúa Trời của người ta đã vô thức thay đổi, hiểu một chút về lẽ thật thì mới biết tin Đức Chúa Trời là có thể đạt được lẽ thật, là chuyện có ý nghĩa nhất, quả thực có thể thay đổi rất nhiều phương diện của con người, giải quyết triệt để vấn đề bại hoại của con người. Để có đức tin vào Đức Chúa Trời, đầu tiên phải làm rõ mấy vấn đề dưới đây: Tại sao con người phải tin Đức Chúa Trời? Mục đích phải đạt được của việc tin Đức Chúa Trời là gì? Động cơ của việc tin Đức Chúa Trời là gì? Chí hướng, nguyện vọng ban đầu của việc tin Đức Chúa Trời là gì? Các ngươi đã suy nghĩ bao nhiêu tới những vấn đề này? Có câu trả lời chính xác chưa? (Thưa, ban đầu, con tin Đức Chúa Trời với ý định đạt được phước lành. Trải nghiệm một vài sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, nhìn thấy bản thân chỉ mưu cầu đạt được phước lành, quả thật là không có lương tâm và lý trí, và quá ích kỷ rồi, cảm thấy bản thân bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, thì khát vọng làm một người có lương tâm, có lý trí, có thể đứng ở vị trí của loài thọ tạo để đi theo Đức Chúa Trời. Bây giờ con chỉ có một chút hiểu biết như thế thôi.) Con người bắt đầu tin Đức Chúa Trời đều vì muốn đạt được ân điển, muốn đạt được phước lành, đạt được lợi ích, muốn thỏa mãn mọi yêu cầu, mọi nguyện vọng về tinh thần hoặc về xác thịt. Từ lúc mưu cầu những thứ này, bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ cũng đã chịu đựng rất nhiều khổ cực, đến hiện tại con người đã hiểu ý nghĩa của đức tin vào Đức Chúa Trời vượt xa những thứ này, ý nghĩa của đức tin vào Đức Chúa Trời quá sâu sắc, quá thực tế rồi, những lợi ích con người đạt được cũng quá nhiều rồi, không phải vài câu nói là có thể khái quát được. Để tin Đức Chúa Trời, đầu tiên phải giải quyết vấn đề tâm tính bại hoại, giải quyết vấn đề phạm tội của con người, còn phải đạt đến sự vâng phục Đức Chúa Trời, biết Ngài, như thế mới có thể thực sự rũ bỏ tâm tính bại hoại, đến mức thoát khỏi quyền thế của Sa-tan, hoàn toàn hướng về Đức Chúa Trời. Tin Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời đều là để đạt được lẽ thật và sự sống từ Ngài, cuối cùng trở thành người hợp lòng Ngài, có thể vâng phục Ngài, thờ phượng Ngài, đây mới là ý nghĩa thật sự của đức tin vào Đức Chúa Trời. Từ hiểu biết của con người với đức tin vào Đức Chúa Trời là có thể thấy, quan điểm, ý định, động cơ của con người về đức tin vào Đức Chúa Trời đã xảy ra sự thay đổi lớn lao. Sự thay đổi này đạt được như thế nào? (Thưa, là hiệu quả đạt được nhờ Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và đã làm rất nhiều công tác trên con người.) Đúng thế, sự thay đổi này không phải do ngươi chịu đựng qua ngày mà xuất hiện, không phải do bất cứ một ai áp đặt cho ngươi, cũng không phải do bất cứ giáo lý của tôn giáo nào hun đúc, truyền nhiễm mà xuất hiện, càng không phải do ngươi một lòng hướng thiện sau đó làm trời cao cảm động và biến ngươi trở nên tốt hơn, ra dáng con người hơn, những điều này đều là quan niệm và tưởng tượng của con người. Thực ra, thu hoạch thực tế nhất chính là hiểu lẽ thật, hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, có thể nhìn thấy rõ ràng sự tối tăm và gian ác ở chốn nhân gian, tư tưởng và quan niệm của con người đã xảy ra sự biến đổi rất lớn dưới sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời, dưới sự chăm tưới và chăn dắt của lời Đức Chúa Trời. Những sự biến đổi này có được như thế nào? Có được chính là nhờ trải nghiệm từng chút một từ công tác của Đức Chúa Trời, từ lời Đức Chúa Trời. Vậy những biến đổi này liên quan đến cái gì? Liên quan đến chuyện lớn lao nhất của đức tin vào Đức Chúa Trời, chính là chuyện được cứu rỗi, đây là ý nghĩa cuối cùng của đức tin vào Đức Chúa Trời của con người. Thật ra, yêu cầu của con người với đức tin vào Đức Chúa Trời đều không cao, chính là để đạt được ân điển, cầu bình an, sau đó chuyển biến thành muốn làm người tốt, không muốn làm người xấu, cuối cùng có một đích đến tốt là được rồi, nhưng vấn đề lớn nhất ở đây chính là Đức Chúa Trời rốt cuộc muốn đạt được hiệu quả gì trong việc làm công tác phán xét, làm công tác tinh sạch, trong việc cứu rỗi con người, đây là điều con người cần phải hiểu. Trong công tác cứu rỗi con người, Đức Chúa Trời đã dựa vào cái gì để cứu rỗi? Chính là dựa vào việc con người hiểu lẽ thật, hiểu lời Đức Chúa Trời, sau đó trải nghiệm sự phán xét và hình phạt, sự thử luyện và sự tinh luyện, thoát khỏi tội lỗi, thoát khỏi quyền thế của Sa-tan, đạt đến được cứu rỗi. Chung quy lại, ý nghĩa đức tin vào Đức Chúa Trời của con người rốt cuộc là gì? Nói một cách đơn giản, chính là để được cứu rỗi. Ý nghĩa của việc được cứu rỗi là gì? Các ngươi nghiền ngẫm thử xem, nói thử xem rốt cuộc được cứu rỗi là gì? (Thưa, là có thể thoát khỏi quyền thế hắc ám của Sa-tan, hoàn toàn hướng về Đức Chúa Trời, cuối cùng có thể sống sót.) (Thưa, bản thân những người sống dưới quyền lực của Sa-tan thì đã đáng chết rồi, nhưng nhờ trải qua công tác của Đức Chúa Trời, thì có thể được cứu rỗi, thế là người ta sẽ không chết.) Về đạo lý, các ngươi đều hiểu, đều biết giải thích như thế, nhưng lại không biết được cứu rỗi rốt cuộc là chuyện như thế nào? Được cứu rỗi chính là cởi bỏ tâm tính bại hoại đi sao? Được cứu rỗi chính là không nói dối, chính là làm người trung thực không còn phản nghịch Đức Chúa Trời nữa sao? Sau khi được cứu rỗi rốt cuộc là thế nào? Nói một cách dễ hiểu thì được cứu rỗi chính là ngươi có thể sống tiếp, ngươi được cứu sống. Ngươi vốn sống trong tội lỗi, thuộc về những người phải chết, theo cái nhìn của Đức Chúa Trời chính là người chết. Căn cứ vào đâu mà nói như thế? Con người trước khi được cứu rỗi thì sống dưới quyền của ai? (Thưa, sống dưới quyền lực của Sa-tan.) Con người dưới quyền lực của Sa-tan dựa vào cái gì để sống? Sống dựa vào bản tính của Sa-tan, dựa vào tâm tính bại hoại của Sa-tan. Vậy toàn bộ con người, bao gồm cả xác thịt của con người và cả mọi mặt về linh hồn, tư tưởng của con người, là còn sống hay đã chết? Theo cái nhìn của Đức Chúa Trời là đã chết, tức là cái xác không hồn. Nhìn bề ngoài, ngươi vẫn còn sống, vẫn có tư tưởng, nhưng suốt ngày mọi tư tưởng của ngươi đều là những thứ ác, những thứ chống đối Đức Chúa Trời, những thứ phản nghịch Đức Chúa Trời, đều là những thứ Đức Chúa Trời ghê tởm, khinh thường và định tội, trong mắt Đức Chúa Trời, những thứ này không chỉ thuộc về xác thịt mà còn hoàn toàn thuộc về Sa-tan, thuộc về ma quỷ. Trong mắt Đức Chúa Trời, loài người bại hoại kia còn là con người không? Không còn là con người nữa, mà là súc sinh, là ma quỷ, là Sa-tan, là Sa-tan sống! Con người đều sống dựa vào bản tính của Sa-tan, dựa vào tâm tính của Sa-tan, trong mắt Đức Chúa Trời chỉ thấy đó chính là Sa-tan sống mặc xác thịt con người, là ma quỷ khoác da người. Đức Chúa Trời xác định người như vậy là cái xác không hồn, là người chết. Hiện tại, Đức Chúa Trời làm công tác cứu rỗi, chính là muốn biến những cái xác không hồn sống dựa vào tâm tính bại hoại của Sa-tan, dựa vào thực chất bại hoại của Sa-tan – tức cái gọi là người chết – thành người sống, đây chính là ý nghĩa của việc được cứu rỗi. Tin Đức Chúa Trời là để được cứu rỗi, được cứu rỗi là gì? Đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chính là từ người chết biến thành người sống, vốn là người đáng chết thuộc về Sa-tan, hiện tại biến thành người sống lại thuộc về Đức Chúa Trời. Khi con người tin Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời, đạt đến mức có thể vâng phục Ngài, biết Ngài, phủ phục thờ phượng Ngài, thì trong lòng sẽ không còn sự chống lại, sự phản nghịch với Ngài nữa, sẽ không còn chống đối, công kích Ngài nữa, có thể vâng phục Ngài một cách chân thật, trong mắt Ngài, người như thế mới là người sống thật sự. Người chỉ thừa nhận Đức Chúa Trời ngoài miệng có phải người sống không? (Thưa, không phải.) Vậy người thế nào mới là người sống? Có những con người thực tế nào là người sống? Người sống phải sở hữu những gì? Các ngươi nói cách nhìn của mình thử xem. (Thưa, người có thể chấp nhận lẽ thật chính là người sống, quan điểm và tư tưởng, quan điểm nhìn nhận sự việc đã biến đổi, đã tương thích với lời Đức Chúa Trời, thì đó chính là người sống.) (Thưa, hiểu lẽ thật, có thể thực hành lẽ thật mới là người sống.) (Thưa, có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác giống Gióp, người như thế là người sống.) (Thưa, có hiểu biết về Đức Chúa Trời, có thể sống dựa vào lời Đức Chúa Trời, có thể sống được ra thực tế lẽ thật, đây chính là người sống.) Các ngươi đều nói một mặt của biểu hiện. Con người cuối cùng được cứu rỗi, trở thành người sống, ít nhất phải có thể nghe lời Đức Chúa Trời, phải có thể nói những lời có lương tâm và lý trí, phải có tư tưởng, có sự phân biệt, phải có thể hiểu lẽ thật, thực hành lẽ thật, phải có thể vâng phục Đức Chúa Trời, thờ phượng Đức Chúa Trời, đây mới là người sống chân chính. Người sống thường nghĩ những chuyện gì, làm những chuyện gì? Đó là có thể làm một chút chuyện người bình thường nên làm, chủ yếu là làm tròn bổn phận, tất cả những gì họ nghĩ trong tâm tư, tất cả những gì họ bộc lộ, tất cả những gì họ nói và làm thường ngày đều là kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, chính là có tính chất như vậy đấy. Nói một cách xác đáng hơn thì chính là về cơ bản mọi lời nói ra, mọi việc làm ra tối thiểu đều hợp với lẽ thật, không bị Đức Chúa Trời định tội, không bị Đức Chúa Trời ghét bỏ, mà được Đức Chúa Trời cho phép, được Đức Chúa Trời khen ngợi, đây chính là những gì người sống làm, cũng là những gì người sống nên làm. Nếu chỉ thừa nhận ngoài miệng, tin ở trong lòng, liệu có thể đạt đến mức được Đức Chúa Trời khen ngợi, đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể đạt được.) Tại sao không thể đạt được? Có một số người nói: “Tôi tin có Đức Chúa Trời”, “Tôi tin Đức Chúa Trời tể trị vạn vật và số phận của loài người”, “Tôi tin mọi thứ của tôi đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, hơn nửa cuộc đời này của tôi sống sót được đều nhờ Đức Chúa Trời dẫn dắt, Ngài cũng có thể dẫn dắt tôi đi con đường sau này”, “Tôi tin Đức Chúa Trời có thể thay đổi số phận của tôi”, có một chữ “tin” này, liệu có phải đã được cứu rỗi không? (Thưa, không phải.) Vậy có đức tin gì thì được cứu rỗi một cách chân thật? (Thưa, là có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác giống Gióp.) Con người làm thế nào mới có thể có đức tin chân thật như vậy? Thừa nhận ngoài miệng, tin ở trong lòng, một niềm tin như vậy liệu có thể sinh ra lòng kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác không? Có sự tin tưởng như vậy có thể đại diện cho sự hiểu biết Đức Chúa Trời của con người không? Có thể khiến con người đạt được sự vâng phục Đức Chúa Trời không? Có thể đạt được sự cứu rỗi không? Ở đây còn thiếu những thứ gì? Những vấn đề này đều phải được nghiền ngẫm và hiểu ra.

Giữa niềm tin, tín ngưỡng và đức tin chân thật có sự khác biệt không? (Thưa, có.) Nhất định là có sự khác biệt, ngươi phải nghiền ngẫm những chi tiết của sự khác biệt này là gì. Nếu như không biết phân biệt, dù ngươi chỉ có một dạng niềm tin hoặc một dạng tín ngưỡng mờ mịt, thì ngươi cũng sẽ cảm thấy đó là đức tin chân thật với Đức Chúa Trời. Tín ngưỡng mờ mịt sao có thể thay thế đức tin chân thật với Đức Chúa Trời của ngươi được? Sự thật là, ngươi không có đức tin thực sự, mà lại thay thế bằng tín ngưỡng và niềm tin của ngươi. Nếu đức tin của ngươi với Đức Chúa Trời chỉ là một dạng niềm tin, là một dạng tín ngưỡng, vậy ngươi mãi mãi không thể tới trước mặt Ngài một cách chân thật, Ngài không chấp thuận đức tin như thế của ngươi. Niềm tin, tín ngưỡng và đức tin chân thật có gì khác biệt? Niềm tin và tín ngưỡng không dễ để nói rõ ràng, chúng ta hãy nói về đức tin chân thật trước. Đức tin chân thật với Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, là tin tưởng vạn vật vạn sự đều do Đức Chúa Trời tể trị.) Đây là đức tin chân thật hay là niềm tin? (Thưa, là niềm tin.) (Thưa, đức tin chân thật được xây dựng trên cơ sở có hiểu biết về Đức Chúa Trời, con người biết Đức Chúa Trời rồi mới có đức tin chân thật.) Hiểu biết này có chút liên quan rồi đấy. Làm thế nào mới có đức tin chân thật? Những biểu hiện nào mới là đức tin chân thật? Nếu có đức tin thật sự, liệu người ta có thể hiểu sai và oán trách Đức Chúa Trời không? Có sự chống đối không? (Thưa, không.) Nếu có đức tin chân thật, liệu người ta có thể không vâng lời Đức Chúa Trời không? Con người đi làm việc tốt, làm người tốt dựa vào quan niệm tưởng tượng có thể đạt được sự thỏa mãn Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Trước tiên hãy để ba khái niệm niềm tin, tín ngưỡng và đức tin chân thật sang một bên, chúng ta hãy thông công một chuyện trước. Trước khi được cứu rỗi, được trở nên hoàn thiện, Phi-e-rơ làm chuyện gì mà ai ai cũng biết? (Thưa, là chối Chúa ba lần.) Trước khi chối Chúa ba lần, Phi-e-rơ còn từng làm chuyện gì? Lúc Đức Chúa Jêsus nói Ngài phải bị đóng đinh lên thập giá, Phi-e-rơ đã nói một câu gì? (“Hỡi Chúa, Ðức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!” (Ma-thi-ơ 16:22).) Phi-e-rơ nói như thế có phải là có đức tin chân thật không? (Thưa, không phải.) Vậy đó là gì? Đó là lòng tốt của con người, đó là làm gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời. Từ cái gì mà Phi-e-rơ có lòng tốt như vậy? (Thưa, từ ý muốn của con người.) Vì sao Phi-e-rơ có thể có ý muốn con người như thế? Phi-e-rơ không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, không hiểu chức vụ của Đức Chúa Jêsus là gì, Phi-e-rơ không hề có hiểu biết chân thật về Đức Chúa Jêsus, đi theo Chúa chỉ là vì khâm phục, chính là trong lòng tôn sùng, muốn yêu quý Chúa, bảo vệ Chúa. Phi-e-rơ cho rằng: “Chuyện này tuyệt đối không nên xảy đến với Ngài, Ngài không thể chịu đựng đau khổ đó! Phải chịu cũng là con chịu, con chịu thay Ngài”, Phi-e-rơ không biết tâm ý của Đức Chúa Trời, xuất phát từ một chút lòng tốt trong ý muốn của con người như vậy mà muốn ngăn cản chuyện này xảy ra. Vậy cái gì dẫn đến cách làm này của Phi-e-rơ? Một mặt là từ sự nóng nảy, ý muốn của con người và sự không hiểu, một mặt khác là do Phi-e-rơ không biết công tác của Đức Chúa Trời. Hành động như thế của Phi-e-rơ có phải đức tin thực sự không? (Thưa, không phải.) Vậy vì sao Phi-e-rơ có thể có lòng tốt như vậy? Lòng tốt như vậy hợp với lẽ thật không? Là việc lành sao? Mặc dù Phi-e-rơ có thiện ý, tốn rất nhiều tâm tư, xuất phát từ thật lòng, nhưng cách làm này của ông ta có tính chất gì? Có phải một loại hành vi, cách làm sinh ra từ đức tin chân thật không? (Thưa, không phải.) Hiện tại đã nhìn rõ rồi, một trăm phần trăm là không phải. Vậy đây có phải một dạng niềm tin không? (Thưa, phải.) Mượn chuyện này nói thử xem niềm tin là cái gì. Một loại hướng về tốt, một loại nguyện vọng tốt phù hợp nhất với quan niệm và tưởng tượng của con người; một thứ mà loài người nhìn chung đều cho rằng là thiện lành, là chính diện, là tích cực; một loại thiện niệm, một loại tư tưởng tốt, một cách làm tốt, một loại động cơ tốt mà con người đều hướng đến, hoàn toàn hợp với quan niệm của con người, với tình điệu của con người, đây chính là niềm tin. Niềm tin không phải là đức tin chân thật, hoàn toàn xuất phát từ ý nghĩ của con người, không hợp với tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời, cho nên niềm tin không phải đức tin thực sự. Phi-e-rơ quả thật là người tốt, nhân tính không tệ, đơn thuần, thành thật, nhiệt tình, mưu cầu, trong lòng ông ta chắc chắn không nghi ngờ thân phận của Đức Chúa Jêsus, cho nên từ tận sâu nội tâm ông ta mới có thể thốt ra lời nói đó: “Hỡi Chúa, Ðức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!”. Ông ta có thể nói ra lời nói đó, đây đại diện cho nhân tính và nhân cách của ông ta. Mặc dù đây là một loại nguyện vọng, một loại lòng tốt, chỉ là một loại hành vi, cách làm, biểu hiện sinh ra dưới sự thúc đẩy của một loại niềm tin, nhưng có thể nhìn ra nhân tính Phi-e-rơ lương thiện. Ông ta có niềm tin tích cực chính diện, đáng tiếc bởi vì vóc giạc quá nhỏ bé, hiểu Đức Chúa Trời quá ít, không biết kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, không biết công tác Đức Chúa Trời muốn làm, không biết tâm ý của Đức Chúa Trời, làm chuyện ngu muội gây gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời hoàn toàn dựa theo ý muốn của con người, đây là hành động con người làm do niềm tin gây ra, rất hiển nhiên đây không phải đức tin chân thật. Con người có niềm tin như vậy, sinh ra hành vi tốt, có một vài lòng tốt, vậy mọi chuyện ông ta làm ra, Đức Chúa Trời có ghi nhớ hay không? Đức Chúa Trời không ghi nhớ, làm chuyện vô ích mà thôi! Ngược lại, Đức Chúa Trời đã nói một câu thế này: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta!” (Ma-thi-ơ 16:23). Các ngươi nghiền ngẫm thử xem, tại sao Đức Chúa Jêsus lại nói những lời xa rời ý muốn của con người như vậy? Sao Đức Chúa Jêsus không thông cảm cho lòng tốt của Phi-e-rơ? Thái độ của Đức Chúa Trời với chuyện này là gì? Đức Chúa Trời có khen ngợi lòng tốt như vậy của Phi-e-rơ không? (Thưa, không khen ngợi.) Đức Chúa Trời xem xét nội tâm của Phi-e-rơ, thấy ông ta không có bụng dạ xấu gì, nên cũng không cần vạch trần bản chất của chuyện này nữa, như thế có tốt hay không? (Thưa, không tốt.) Vì sao? Đức Chúa Trời nhìn nhận thế nào về lòng tốt của con người, niềm tin của con người, những thứ con người cho là tốt nhưng không hợp với tâm ý của Ngài? Đức Chúa Trời nói đó là thứ xuất phát từ Sa-tan, là thứ chống đối Ngài, Đức Chúa Trời cho là như vậy đấy. Đây có phải có khoảng cách với suy nghĩ của con người không? (Thưa, phải.) Nếu xuất phát từ tình người, thì người bình thường sẽ làm như thế nào? Sẽ giữ thể diện cho Phi-e-rơ, giữ lại đường lui, lòng sẽ nghĩ: “Phi-e-rơ cũng có lòng tốt, là vì bảo vệ Ngài, Ngài chỉ trích Phi-e-rơ như thế là xa rời ý muốn của con người!”. Nhưng những gì Đức Chúa Trời làm chính là không hợp với quan niệm của con người, tính chất lời nói đó của Đức Chúa Trời là gì? Một mặt là vạch trần, một mặt là định tội, còn có một mặt nữa là phán xét. Sau khi nghe xong lời này trong lòng Phi-e-rơ có cảm thụ gì? Chịu hình phạt, tim như bị dao cắt, rất khó chịu, không hiểu, lòng nghĩ: “Ôi Đức Chúa Trời, con thật lòng yêu Ngài! Con tin tưởng Ngài như thế, thương Ngài như thế, bảo vệ Ngài như thế, tại sao Ngài lại đối xử với con như vậy? Nói con là Sa-tan, bảo con lui ra đằng sau, con là Sa-tan sao? Con là người thật lòng đi theo Ngài, sao Ngài có thể coi con là Sa-tan? Hơn nữa Ngài còn xa rời ý muốn của con người như thế, bảo con lui ra đằng sau, con khó chịu quá, đau khổ quá!”. Đức Chúa Trời xử lý những chuyện thế này như vậy, đối đãi những chuyện thế này như vậy, các ngươi có nhìn thấy Ngài có thái độ gì với niềm tin của loài người không? (Thưa, là định tội, phán xét, vạch trần.) Đúng vậy, Đức Chúa Trời chẳng những không thích mà còn ghê tởm, nghiêm trọng nhất chính là tiến hành định tội đối với loại chuyện này. Từ những sự bộc lộ đó của Đức Chúa Trời, các ngươi có nhìn thấy tâm tính của Ngài không? (Thưa, tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính.) Khẳng định là như vậy. Còn gì nữa không? Ở chỗ Đức Chúa Trời, mặc dù bao dung, thương xót, nhẫn nại, yêu thương đối với con người mà nói quá có lợi, là Ngài có gì và là gì khiến con người cảm thấy tương đối dễ chấp nhận, Đức Chúa Trời lúc nào cũng bộc lộ, lúc nào cũng ban cho con người, nhưng một khi con người xúc phạm tâm tính của Ngài, vi phạm nguyên tắc, thì Đức Chúa Trời sẽ đối xử thế nào? Đức Chúa Trời sẽ định tội! Đức Chúa Trời không cho con người câu nói lập lờ nước đôi, nói: “Con người làm như thế là có lòng tốt, không có ý nghĩ khác, lần này tha thứ cho họ”, ở chỗ Đức Chúa Trời không có đạo trung dung của con người, không có ý muốn của con người lẫn lộn vào, một là một, hai là hai, đúng là đúng, sai là sai, không có lập lờ nước đôi. Con người nhìn thấy niềm tin là gì thông qua việc phân tích lời Phi-e-rơ nói với Đức Chúa Jêsus: “Hỡi Chúa, Ðức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!”. Con người có niềm tin có thể đạt được sự thỏa mãn Đức Chúa Trời không? Có thể sinh ra đức tin chân thật không? Có thể thay thế đức tin chân thật với Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Không thể, đây là điều chắc chắn một trăm phần trăm.

Cuối cùng thì niềm tin là gì? Chúng là một dạng tưởng tượng và quan niệm, nguyện vọng tốt đẹp, mục tiêu tốt đẹp và lý tưởng cao xa mà con người xác lập. Sau khi xác lập, con người chạy theo hướng này, mưu cầu và đạt được chúng bằng cách dựa vào lòng tốt, nỗ lực, tâm chí chịu khổ, hoặc thêm nhiều hành vi tốt của con người. Ở đây thiếu điều gì? Tại sao người có niềm tin lại không thể thỏa mãn Đức Chúa Trời? (Thưa, vì dựa trên niềm tin của mình, con người làm nhiễu loạn và gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời.) Đó là một khía cạnh rất rõ ràng. Ngoài ra, khi con người hành động dựa trên niềm tin của mình, thì trong đó có bất kỳ lẽ thật nào không? (Thưa, không có.) Hãy cùng mổ xẻ những việc làm của Phi-e-rơ. Phi-e-rơ nói: “Hỡi Chúa, Ðức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!”. Có lẽ thật trong lời này không? (Thưa, không có.) Ý ông là gì khi nói “Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu”? Tại sao sự đó lại không thể xảy đến cho Đức Chúa Trời được? Chẳng lẽ hết thảy chuyện này không phải do Đức Chúa Trời tể trị sao? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không có quyền quyết định trong hết thảy chuyện này sao? Nếu Đức Chúa Trời cho phép nó xảy ra, thì nó sẽ xảy ra. Nếu Đức Chúa Trời không cho phép nó xảy ra, chẳng phải sẽ tránh được sao? Những lời này của Phi-e-rơ “Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu” có thể nào thay đổi được hết thảy chuyện này không? Ai định đoạt việc xảy ra, diễn biến và kết quả của toàn bộ chuyện này? (Thưa, Đức Chúa Trời định đoạt.) Vậy lời Phi-e-rơ nói này là gì? Chúng là những lời ngu xuẩn, những lời vô tri, những lời nói đại diện cho Sa-tan. Đây là hậu quả do niềm tin của con người gây ra. Đây có phải là một vấn đề nghiêm trọng không? (Thưa, nghiêm trọng.) Nghiêm trọng như thế nào? (Thưa, nó là sự chống đối Đức Chúa Trời và là phát ngôn của Sa-tan.) Đúng vậy. Nó như phát ngôn của Sa-tan, nghĩa là thay Sa-tan mà chống đối Đức Chúa Trời và phá hủy công tác của Đức Chúa Trời. Nếu trong chuyện này, Đức Chúa Jêsus làm như Phi-e-rơ nói, thì chẳng phải công tác cứu chuộc nhân loại của Ngài sẽ đổ bể sao? Tính chất của những lời Phi-e-rơ nói này là gì? (Thưa, chúng làm gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời.) Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời phán không thương tiếc những lời giận dữ đó – “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta!”. Những lời này là sự định tội cũng như phán xét. Trong đó có tâm tính của Đức Chúa Trời! Khi con người mang những niềm tin như vậy, niềm tin trộn lẫn với lòng tốt, nguyện vọng, những mong ước tốt đẹp của con người và tất cả những điều mà con người cho là tích cực, chính diện và tốt đẹp, thì Đức Chúa Trời có khen ngợi điều này không? (Thưa, không.) Con người xem hết thảy những điều này là tốt, vậy tại sao Đức Chúa Trời lại không khen ngợi? Một mặt, đó là bởi vì con người không có nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời. Đây là nguyên nhân chung. Thêm vào đó, nhìn từ góc độ thực tế, con người không thực sự thuận phục lời Đức Chúa Trời phán và những việc Ngài làm, họ cũng không thực sự lĩnh hội được những điều này. Dựa trên ý của con người, họ luôn muốn Đức Chúa Trời không làm việc này việc nọ. Họ luôn nghĩ: “Đức Chúa Trời làm như vậy không hay lắm. Làm vậy không hợp với ý của con người cho lắm, làm vậy là không thông cảm cho con người”. Khi con người gặp phải những chuyện như vậy, họ dễ hình thành quan niệm, trong lòng đầy những tưởng tượng và cách làm của con người. Ở đây không có sự thuận phục, không có nhận thức thực sự, không có sự kính sợ Đức Chúa Trời thực sự, mà chỉ có việc gây gián đoạn và phá hủy công tác của Đức Chúa Trời, không có bất kỳ yếu tố đức tin thực sự nào. Chính vì thế, Phi-e-rơ đã bị phán xét sau khi nói những lời đó. Sau khi nhận sự phán xét, ông có thu hoạch được gì không? (Thưa, ông đã có thể có được một chút nhận thức về bản thân và về tâm tính của Đức Chúa Trời.) Sự phán xét như vậy là điều tốt hay xấu? Ít nhất nó cũng là một cú gõ đầu đau điếng khiến ông phải dừng lại suy nghĩ: “Lạy Chúa, con là Sa-tan sao? Con thực sự tin Ngài, con là người yêu kính Ngài, con là người trung thành đi theo Ngài! Làm sao con có thể là Sa-tan được?”. Suy đi ngẫm lại, ông nghĩ: “Đức Chúa Jêsus đã trách mắng mình bằng những lời rất rõ ràng, rất dễ hiểu như vậy. Ngài bảo mình lui ra đằng sau Ngài và trách mắng mình là Sa-tan. Như vậy mình làm việc này chính là đại diện cho Sa-tan! Loại người nào có thể đại diện cho Sa-tan? Người không tương hợp với Đức Chúa Trời. Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, người như vậy đều có thể chống đối và phản bội Đức Chúa Trời, đều có thể phá hủy công tác của Đức Chúa Trời, và đều có thể làm nhiễu loạn, phá hoại công tác của Đức Chúa Trời, đối đầu với Ngài. Chuyện này quá đáng sợ! Nếu vậy, mình sẽ mau chóng lui ra đằng sau Đức Chúa Trời và không nói nữa”. Chẳng phải điều đó cho thấy Phi-e-rơ đã dần tỉnh ngộ, hiểu ra, và ý thức được tính chất nghiêm trọng của vấn đề sao? Ông nhận ra rằng con người mãi là con người và Đức Chúa Trời mãi là Đức Chúa Trời, giữa con người và Đức Chúa Trời có một khoảng cách. Khi con người hành động dựa trên lòng tốt, Đức Chúa Trời lại xem đó là làm nhiễu loạn và gián đoạn. Cứ dần dần như thế này, có phải là sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với con người lại thành ra là điều tốt không? (Thưa, phải.) Vậy thì con người bộc lộ chút ngu muội có phải là chuyện xấu không? Nhìn như vậy thì đó không phải là chuyện xấu, mà là chuyện tốt. Tại sao chúng ta lại nói đó thành ra là chuyện tốt? (Thưa, bởi vì con người có được thu hoạch từ đó.) Đúng vậy, con người có được một vài thu hoạch. Những thu hoạch này có được như thế nào? Khi sự phán xét của Đức Chúa Trời đến với ngươi và ngươi thuận phục, kiểm điểm bản thân, đồng thời tiếp nhận mọi sự đến từ Đức Chúa Trời – hết thảy những sự bày tỏ, bộc lộ và mọi điều Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi – và nó trở thành thực tế của ngươi, trở thành sự sống của ngươi, thì tự lúc nào không hay, sự bại hoại của ngươi sẽ được làm tinh sạch. Vậy thì việc bị phán xét là chuyện xấu hay chuyện tốt? (Thưa, là chuyện tốt.) Các ngươi có sẵn lòng chịu sự phán xét không? (Thưa, sẵn lòng.) Vậy nếu các ngươi bị phán xét hàng ngày thì có được không? Không cho ngươi ăn, ngủ, nghỉ như bình thường. Khi có chuyện xảy đến, Đức Chúa Trời sẽ bảo ngươi lùi ra. Khi có thời gian, Ngài sẽ phán xét ngươi. Như thế có được không? Ngươi chịu nổi không? Con người không thể chịu nổi, và Đức Chúa Trời cũng không làm chuyện như vậy. Đức Chúa Trời mong mỏi ngươi mau chóng trưởng thành. Đó là lý do tại sao có nhiều bước trong sự phán xét của Đức Chúa Trời. Có lúc Ngài có thể nổi giận, rồi lại cho ngươi chút an ủi. Có lúc Ngài có thể giáng đòn trên ngươi, rồi lại tỏ lòng thương xót ngươi. Dù Đức Chúa Trời thường xuyên nổi giận, nhưng có khoảng nghỉ giữa những cơn giận của Ngài để cho con người thời gian thở. Chỉ khi Đức Chúa Trời trực tiếp phán xét và định tội con người theo cách này thì mới có lợi cho sự trưởng thành trong sự sống của họ. Để đạt được lẽ thật, chịu khổ một chút cũng đáng.

Con người chỉ có niềm tin thì còn cách rất xa việc có thể thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời, và niềm tin thì còn rất lâu mới thay thế được đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời. Nếu con người tin Đức Chúa Trời dựa trên niềm tin thì họ sẽ không bao giờ có thể thực sự đến trước mặt Đức Chúa Trời, càng không thật sự thuận phục Ngài và có lòng kính sợ Ngài. Tại sao lại như vậy? Niềm tin của con người không liên quan gì đến lẽ thật, và cách rất xa việc đáp ứng được yêu cầu của Đức Chúa Trời. Con người có niềm tin không có nghĩa là con người hiểu lẽ thật. Dùng niềm tin mà tin Đức Chúa Trời thì không bao giờ hiểu được công tác của Đức Chúa Trời, mà chỉ có thể làm nhiễu loạn và gián đoạn nó. Dùng niềm tin mà tin Đức Chúa Trời không có nghĩa là con người có thể quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, càng không có nghĩa là họ có thể đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời. Vậy chuyện gì xảy đến tiếp theo với Phi-e-rơ? Trước khi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá, Ngài đã phán với Phi-e-rơ thế này: “Quả thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối Ta ba lần” (Ma-thi-ơ 26:34). Phi-e-rơ đáp lại thế nào? (Thưa, “Dầu tôi phải chết với thầy đi nữa, tôi chẳng chối thầy đâu” (Ma-thi-ơ 26:35).) Điều này khiến Phi-e-rơ khổ sở và ông đã phủ nhận mình sẽ làm như Chúa phán, nhưng cuối cùng sự thật đã ứng nghiệm lời Đức Chúa Jêsus. Đức tin của Phi-e-rơ lúc đó lớn hơn hay nhỏ hơn của các ngươi? (Thưa, lớn hơn, ông đã chém đứt tai của đầy tớ thầy tế lễ cả để bảo vệ Chúa.) Đó là do nóng nảy. Nhận thức của ông về Đức Chúa Jêsus và việc ông xác nhận thân phận của Ngài cho thấy mức độ đức tin của Phi-e-rơ nơi Đức Chúa Jêsus. Nó cho phép ông liều mạng vì Đức Chúa Jêsus, nói rằng: “Ai động đến Chúa của tôi, tôi sẽ liều mạng với người đó!”. Đức tin của ông đã đạt đến mức đó, nhưng sự nóng nảy của con người có phải là điều Đức Chúa Trời muốn không? Chắc chắn là không. Đức tin của Phi-e-rơ đã đạt đến mức ông sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Chúa, vậy tại sao Phi-e-rơ vẫn có thể chối Chúa ba lần? Có phải bởi vì lời tiên tri của Đức Chúa Jêsus đã tiền định ông sẽ làm vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì do đâu? Tại sao ông lại hèn nhát như vậy? Ông đã có thể vì Đức Chúa Jêsus mà liều mạng chiến đấu với người ta và chém đứt tai người ta. Vì yêu kính Đức Chúa Jêsus, ông đã có thể nói ra những lời đó từ tận đáy lòng mình, còn có thể thực hiện được chúng, biểu hiện của ông đặc biệt chân thành. Vậy tại sao đến lúc ấy ông lại không dám thừa nhận Chúa? (Thưa, bởi vì ông biết hậu quả. Nếu khi đó bị quân La Mã bắt, ông sẽ bị xử tử. Ông sợ bị bắt và cũng sợ chết.) Chủ yếu là do ông muốn giữ mạng mình. Đúng là Phi-e-rơ có niềm tin, nhưng ông có thành phần đức tin chân thực không? Lúc đó, Phi-e-rơ đã nhận ra rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, Con Ðức Chúa Trời hằng sống và là chính Đức Chúa Trời rồi. Ông có đức tin chân thực như vậy, vậy tại sao ông vẫn hèn nhát? (Thưa, vì ông thiếu vóc giạc đó.) Ông tham sống sợ chết, sợ chịu khổ và sợ bị hành hạ thể xác. Dù nguyên nhân là gì thì cuối cùng ông vẫn chối Chúa ba lần. Nó đã diễn ra đúng như Đức Chúa Jêsus phán: “Chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối Ta ba lần”. Những lời này quả thực đã ứng nghiệm trên Phi-e-rơ. Tại sao Đức Chúa Jêsus lại có thể phán những điều như vậy và đi đến những kết luận như vậy về Phi-e-rơ? (Thưa, vì Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng con người.) Đức Chúa Trời dò xét điều gì trong lòng Phi-e-rơ? (Thưa, vóc giạc của Phi-e-rơ và đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời.) Đức Chúa Jêsus đã thấy vóc giạc và đức tin của Phi-e-rơ rốt cuộc lớn đến đâu. Với chút vóc giạc như vậy, thì việc ông chối Chúa ba lần có phải là điều quá ngạc nhiên không? Do vóc giạc của mình, ông có biểu hiện như vậy trong bối cảnh đó là điều tất nhiên. Tại sao thời điểm đó ông lại chỉ có chút đức tin này? (Thưa, vì khi đó, Phi-e-rơ đã đi theo Đức Chúa Jêsus được khoảng ba năm, nên ông trải nghiệm quá ít công tác của Đức Chúa Trời.) Sau ba năm đi theo Đức Chúa Jêsus, đức tin của ông chỉ có thể lớn được đến vậy. Đó là vóc giạc của ông thời điểm đó. Sự trưởng thành về vóc giạc của ông đạt được thông qua việc liên tục làm sâu sắc thêm trải nghiệm.

Đi theo Đức Chúa Trời mà không có đức tin chân thực thì có được không? Việc con người có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời rốt cuộc là nói đến điều gì? Nói một cách đơn giản nhất có thể: đó là mức độ đức tin của ngươi vào mọi lời và công tác của Đức Chúa Trời, là mức độ ngươi có thể tin một cách chân thực. Cụ thể, đó là đối với việc lời Đức Chúa Trời phán, những điều Đức Chúa Trời tiền định, sự tể trị của Đức Chúa Trời, sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, cách Đức Chúa Trời an bài đích đến của con người, v.v. cuối cùng có thể ứng nghiệm không, ứng nghiệm như thế nào, trong lòng ngươi có thể tin bao nhiêu, thừa nhận bao nhiêu cũng như có đức tin chân thực vào những điều này bao nhiêu. Tại thời điểm đó, thậm chí Phi-e-rơ còn không dám thừa nhận danh Đức Chúa Jêsus hay thừa nhận mối quan hệ của ông với Đức Chúa Jêsus. Ông chỉ có chút đức tin ít ỏi, và chút đức tin ít ỏi này cho thấy vóc giạc thực sự của ông. Vóc giạc thực sự của ông rốt cuộc lớn thế nào? (Thưa, ông chỉ thừa nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, nhưng ông không có nhận thức gì về Đức Chúa Trời.) Ông có vóc giạc nhỏ bé như vậy và chỉ dừng lại ở đó. Vậy còn các ngươi, các ngươi hiện có đức tin nơi Đức Chúa Trời đến mức độ nào? Đức tin của các ngươi có mạnh hơn của Phi-e-rơ không? Hay yếu hơn? Hay tương đương? (Thưa, cũng tương đương về mặt nhận thức Đấng Christ. Chúng con hiểu nhiều lẽ thật hơn Phi-e-rơ một chút, nhưng trong nhiều lẽ thật này, chúng con vẫn chưa bước vào được.) Nếu đức tin nơi Đức Chúa Trời của con người chỉ dừng lại ở việc đơn thuần thừa nhận Ngài là Đức Chúa Trời, thừa nhận rằng Đức Chúa Trời có thể sắp đặt và an bài mọi sự, rằng Ngài tể trị vạn vật, vận mệnh và cuộc đời của ngươi – nếu ngươi chỉ thừa nhận những điều này, mà có rất ít thành phần tin, càng gần như không có thành phần thuận phục và không hề có yếu tố chờ đợi và tìm kiếm Đức Chúa Trời – thì đây là kiểu đức tin gì? Ngươi luôn nói ngươi tin có Đức Chúa Trời, ngươi tin Đức Chúa Trời tể trị vạn vật và sắp đặt mọi sự, sự sống của con người là do Đức Chúa Trời ban cho, và ngươi sẽ làm bất cứ việc gì Đức Chúa Trời yêu cầu, kể cả hy sinh mạng sống vì Đức Chúa Trời. Nhưng rồi ngươi gặp phải tình huống giống như Phi-e-rơ, khi người ta hỏi: “Đó có phải là Đức Chúa Trời của anh không?”. Ngươi sẽ suy ngẫm về điều này, tự nhủ: “Xung quanh toàn những người không tin, nếu thừa nhận Ngài, chẳng phải mình sẽ bị bắt sao? Đức Chúa Trời đã phán rằng chúng ta có thể sử dụng sự khôn ngoan trong những thời điểm then chốt và có thể không thừa nhận Ngài, vì thế mình sẽ sử dụng sự khôn ngoan, Đức Chúa Trời sẽ không vì thế mà ghi tội mình đâu”. Nếu tham sống và hèn nhát, ngươi sẽ không dám thừa nhận Đức Chúa Trời, thậm chí còn có thể phủ nhận Đức Chúa Trời. Ngươi tin Đức Chúa Trời tể trị vạn vật, vậy khi ấy đức tin đó ở đâu? (Thưa, không còn nữa.) Đức tin mà ngươi cho rằng mình có trong những lúc bình thường là thật hay giả? (Thưa, là giả.) Khi có chuyện xảy đến mà đặc biệt không hợp quan niệm hoặc thị hiếu của ngươi, và tâm ý Đức Chúa Trời trong chuyện đó chưa được mặc khải hoàn toàn, thì Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi phải thuận phục trong chuyện đó. Ngài đã sắp đặt hoàn cảnh này để ngươi có thể học được bài học. Vậy thì ngươi làm gì? Ví dụ, giả sử ngươi có đức tin đặc biệt mạnh mẽ, ngươi đặc biệt ngoan đạo và chân thành, nhưng Đức Chúa Trời lại sắp đặt một hoàn cảnh không phù hợp với quan niệm của ngươi, xem ngươi như một người ngoại đạo. Cảm thấy uất ức, nước mắt ngươi trào dâng và ngươi sẽ oán trách Đức Chúa Trời, trong lòng nói rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con tin Ngài, con sống vì Ngài, thế mà Ngài lại sắp đặt cho con một hoàn cảnh như thế này, đặt con giữa những người ngoại đạo và trộn lẫn con với ô quỷ. Chẳng phải như thế con sẽ bị vấy bẩn sao? Con là người được biệt riêng ra thánh, một người thuộc về Đức Chúa Trời. Ngài không thể sắp xếp như vậy. Ngài có biết con nhớ Ngài nhường nào, con yêu kính Ngài nhường nào không? Con không thể xa Ngài. Ngài không thể đối xử với con như vậy được, thật bất công với con!”. Sao nào? Khi ngươi gặp phải những chuyện không phù hợp với quan niệm của mình, sự thuận phục của ngươi ở đâu? (Thưa, không còn nữa.) Ngươi thay thế sự thuận phục bằng điều gì? (Thưa, sự oán trách, hiểu lầm và chống đối.) Đây có phải là đức tin chân thực không? Đức tin chân thật phải có điều gì, phải có biểu hiện như thế nào? (Thưa, tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời và thuận phục Đức Chúa Trời.) Chỉ một sự việc thôi đã tỏ lộ ai đó có đức tin chân thực hay không.

Hãy cùng thông công về một chuyện đi ngược lại quan niệm của con người nhất. Môi-se sống trong đồng vắng trong bốn mươi năm. Bốn mươi năm là hơn nửa đời con người rồi. Nếu ai đó sống được tám mươi năm, thì bốn mươi năm là một nửa cuộc đời. Đồng vắng là dạng hoàn cảnh sống nào? Đồng vắng không chỉ là một hoàn cảnh sống cực kỳ khắc nghiệt với muôn vàn khó khăn mà Môi-se phải đối mặt, mà vấn đề quan trọng hơn là ông không được tiếp xúc với dân Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm này, và Đức Chúa Trời cũng không hiện ra với ông. Đức Chúa Trời đã sắp đặt môi trường này cho Môi-se để tinh luyện ông. Điều này có phù hợp với quan niệm của con người không? Nếu con người không có đức tin chân thực, thì thường sẽ có biểu hiện gì? Trong hai năm đầu, họ vẫn có chút sức mạnh trong lòng, cảm thấy rằng: “Đức Chúa Trời đang thử thách mình đây, nhưng mình không sợ. Mình có Đức Chúa Trời mà! Chỉ cần Đức Chúa Trời không để mình chết, thì chừng nào còn dù chỉ một hơi thở, mình vẫn có thể sống sót. Mình sống dựa vào Đức Chúa Trời. Mình có đức tin. Mình phải thỏa mãn Đức Chúa Trời!”. Họ có chút tâm chí này bởi vì họ vẫn còn có những con cừu bầu bạn. Tuy nhiên, sau vài năm trôi qua, bầy cừu ngày càng thưa thớt và gió rít gào thét suốt ngày. Trong sự tĩnh lặng của màn đêm, con người cảm thấy cô đơn. Họ không có ai để chia sẻ tâm tư trong lòng. Khi ngước mắt nhìn lên bầu trời, họ chỉ thấy toàn trăng sao. Họ càng cảm thấy cô đơn hơn trong những đêm trời mưa và nhiều mây, khi ngay cả mặt trăng cũng chẳng thấy nữa. Chẳng biết từ lúc nào, đức tin của họ dần nguội lạnh. Khi đức tin của họ trở nên nguội lạnh, lòng oán trách và hiểu lầm lộ ra. Ngay sau đó, tình trạng bên trong của họ trở nên ngày càng chán nản, càng cảm thấy cuộc sống thật vô nghĩa. Lúc nào họ cũng cảm thấy Đức Chúa Trời không chú ý gì đến họ và đã bỏ rơi họ. Họ đặt một dấu chấm hỏi về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, và đức tin của họ ngày càng nhỏ lại. Nếu ngươi không có đức tin chân thực, ngươi sẽ không thể đứng vững trước thử thách của thời gian hoặc thử thách của môi trường. Nếu ngươi không thể đứng vững trước thử thách mà Đức Chúa Trời cho ngươi, thì Đức Chúa Trời sẽ không phán hoặc hiện ra với ngươi. Đức Chúa Trời muốn thấy liệu ngươi có tin vào sự hiện hữu của Ngài hay không, liệu ngươi có thừa nhận sự hiện hữu của Ngài hay không, và liệu ngươi có đức tin chân thực trong lòng hay không. Đây là cách Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng người. Có phải con người sống giữa đất trời đều nằm trong tay Đức Chúa Trời không? Hết thảy họ đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Chắc chắn là vậy. Dù ngươi ở đồng vắng hay trên cung trăng thì cũng nằm trong tay Đức Chúa Trời. Chắc chắn là vậy. Nếu Đức Chúa Trời không hiển hiện với ngươi, làm sao để ngươi có thể thấy được sự hiện hữu và tể trị của Đức Chúa Trời? Làm sao để ngươi có thể để cho lẽ thật rằng “Đức Chúa Trời hiện hữu và tể trị vạn vật” bám rễ trong lòng ngươi và không bao giờ phai mờ? Làm sao để ngươi có thể biến câu này thành sự sống của mình, thành động lực sống của mình, thành đức tin và sức mạnh cho phép ngươi tiếp tục sống? (Thưa, con cầu nguyện.) Nói như vậy là thực tế. Đó là con đường thực hành. Khi ngươi ở trong thời điểm khó khăn nhất, khi ngươi ít cảm nhận được Đức Chúa Trời nhất, khi ngươi thống khổ và cô đơn nhất, khi ngươi cảm thấy như thể mình rời xa Đức Chúa Trời, thì một việc ngươi nên làm nhất là gì? Kêu cầu Đức Chúa Trời. Kêu cầu Đức Chúa Trời cho ngươi sức mạnh. Kêu cầu Đức Chúa Trời cho ngươi cảm nhận được sự hiện hữu của Ngài. Kêu cầu Đức Chúa Trời cho ngươi cảm nhận được sự tể trị của Ngài. Khi ngươi kêu cầu Đức Chúa Trời, cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và đặt sự sống của mình vào tay Đức Chúa Trời, ngươi sẽ cảm thấy Đức Chúa Trời ở bên ngươi và Ngài không bỏ rơi ngươi. Khi ngươi cảm thấy Đức Chúa Trời không bỏ rơi ngươi, khi ngươi thực sự cảm thấy Ngài ở bên ngươi, thì đức tin của ngươi có tăng lên không? Nếu ngươi có đức tin chân thực, liệu nó có bị hao mòn và phai nhạt theo thời gian không? Tuyệt đối không. Có phải bây giờ vấn đề đức tin đã được giải quyết không? Người chỉ bám giữ Kinh Thánh và học thuộc lòng câu chữ một cách cứng nhắc thì có thể nào có đức tin chân thực không? Ngươi vẫn phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời và nương cậy vào Đức Chúa Trời để giải quyết vấn đề này. Môi-se đã trải qua bốn mươi năm đó trong đồng vắng như thế nào? Lúc đó chưa có Kinh Thánh, và chỉ có vài người quanh ông. Ông chỉ có những con cừu bên cạnh. Chắc chắn Môi-se đã được Đức Chúa Trời dẫn dắt. Dù Kinh Thánh không ghi lại Đức Chúa Trời đã dẫn dắt ông như thế nào, Đức Chúa Trời có hiện ra với ông hay không, Đức Chúa Trời có phán với ông hay không, hoặc Đức Chúa Trời có cho Môi-se hiểu được tại sao Ngài lại khiến ông sống trong đồng vắng bốn mươi năm hay không, thì sự thật không thể phủ nhận là Môi-se đã sống ở đồng vắng trong bốn mươi năm. Không ai phủ nhận được sự thật này. Không có ai quanh mình để chia sẻ tâm tư trong lòng, làm sao ông có thể sống sót một mình ở đồng vắng trong bốn mươi năm được? Nếu không có đức tin chân thực, bất kể ai cũng không thể làm được. Nó là một phép màu! Dù con người có suy ngẫm thế nào đi nữa, họ cũng cảm thấy điều này không bao giờ xảy ra được. Nó quá mâu thuẫn với quan niệm và tưởng tượng của con người! Nhưng đây không phải là truyền thuyết, không phải là điều viễn vông, mà là một sự thật xác thực, bất biến và không thể phủ nhận. Sự tồn tại của sự thật này cho con người thấy điều gì? Nếu ngươi có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời, thì chỉ cần ngươi còn một hơi thở, Đức Chúa Trời cũng sẽ không bỏ rơi ngươi. Đây là một sự thật về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi có đức tin chân thực như vậy và nhận thức chân thực như vậy về Đức Chúa Trời, thì đức tin của ngươi đã đủ lớn. Dù ngươi gặp phải hoàn cảnh nào đi nữa, dù ngươi ở trong hoàn cảnh ấy bao lâu đi nữa, đức tin của ngươi cũng sẽ không hao mòn.

Môi-se đã ở trong đồng vắng bốn mươi năm. Đức Chúa Trời không hề hiện ra với ông, cũng không cung ứng lẽ thật cho ông. Môi-se không có quyển sách lời Đức Chúa Trời nào trong tay, không có dân được Đức Chúa Trời chọn bên cạnh, cũng không có ai để chia sẻ tâm tư trong lòng. Sống một mình trong đồng vắng, ông chỉ có thể sống bằng cách dựa vào việc cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Cuối cùng, nhờ đó mà Môi-se thành tựu được đức tin chân thực. Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại làm việc này? Đức Chúa Trời có sự ủy thác cho Môi-se, trọng dụng ông, và Đức Chúa Trời có công tác cần làm trên ông, nên Ngài đã tôi luyện ông. Đức Chúa Trời đã tôi luyện điều gì ở Môi-se? (Thưa, đức tin của ông.) Đức Chúa Trời muốn hoàn thiện đức tin của ông, chứ không phải là tôi luyện đức tin của ông. Điều Đức Chúa Trời tôi luyện là lòng tốt của con người, là cái gọi là sự kiên cường của con người, kỹ năng và bản lĩnh của ông, cũng như sự nóng nảy của ông. Tại sao thời điểm đó Môi-se lại rời khỏi Ai Cập? (Thưa, bởi vì ông đã giết một người Ai Cập vì nóng nảy.) Thời điểm đó, Đức Chúa Trời có thể sử dụng ông được không? (Thưa, không thể.) Nếu Đức Chúa Trời sử dụng ông khi đó thì sao? Ông thù hận người Ai Cập và luôn muốn hành động nóng nảy. Nếu ông giết hại một người khác nữa, chẳng phải sẽ phiền phức sao? Nếu Đức Chúa Trời để ông làm việc, dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, rồi ông lại hành động nóng nảy khi Pha-ra-ôn không đồng ý, thì chẳng phải sẽ phiền phức sao? Đức Chúa Trời sẽ phán: “Ngươi hành động kiểu này thì làm sao ngươi có thể đại diện cho Đức Chúa Trời?”. Vì thế, do ông nóng nảy nên Đức Chúa Trời không thể sử dụng ông. Nóng nảy là điều đại kỵ đối với con người. Nếu ngươi nóng nảy, luôn muốn hành động dựa trên bản tính tự nhiên và tính khí của mình, luôn muốn giải quyết vấn đề bằng biện pháp của con người; nếu ngươi không dùng đức tin chân thực mà tin và nương cậy Đức Chúa Trời, tin vào sự tể trị của Ngài, thì Đức Chúa Trời không sử dụng ngươi được. Nếu Đức Chúa Trời cố gắng sử dụng ngươi, thì chẳng những ngươi sẽ không được việc, mà trên thực tế còn phá hoại mọi việc. Vì thế, sau khi Môi-se giết một người Ai Cập, ông đã phải chạy trốn vào đồng vắng. Đức Chúa Trời đã sử dụng hoàn cảnh đồng vắng để tôi luyện ý chí, sự nóng nảy của ông, lòng tốt, nhiệt tâm và tính khí của ông, cũng như khí khái anh hùng đã khiến ông bảo vệ lợi ích của dân mình và đấu tranh chống lại bất công. Đó đều là những thứ thuộc về ý muốn, sự nóng nảy và bản tính tự nhiên của con người. Tại sao Đức Chúa Trời không sắp đặt cho một vài người Y-sơ-ra-ên đồng hành cùng ông? Nếu ông có một người nữa bên cạnh, có thể ông sẽ không nương cậy vào Đức Chúa Trời, mà vào người khác. Cuối cùng Môi-se đã được tinh luyện thành kiểu người gì trong hoàn cảnh như thế? Ông đã có thể thuận phục Đức Chúa Trời và có đức tin chân thực. Điều này cho thấy sự nóng nảy tự nhiên của ông đã giảm dần. Khi ông sống sót khỏi đồng vắng, ông có còn sự nóng nảy và khí khái anh hùng nữa không? (Thưa, không còn.) Nó được thể hiện qua điều gì? (Thưa, Môi-se đã nói rằng ông không còn là người giỏi ăn nói nữa.) Ông không còn giỏi ăn nói nữa, vậy ông có còn ý riêng và sự bốc đồng nữa không? (Thưa, không.) Nhìn theo cách này, khi Đức Chúa Trời muốn hoàn thiện một người, hoàn thiện đức tin của một người nơi Đức Chúa Trời, thì dù Ngài có sử dụng người này hay không, Đức Chúa Trời cũng sẽ hoàn thiện việc hiểu lẽ thật và hiểu tâm ý Đức Chúa Trời của người này, và cho phép người này thuận phục Đức Chúa Trời một cách chân thực và hoàn toàn, không ô tạp, không có cái gọi là khí khái anh hùng, tính khí, tráng khí hào hùng của con người, không có sự nóng nảy, không có lòng tốt và nhiệt tâm của con người – không có những cái gọi là niềm tin này. Những thứ xuất phát từ ý của con người này, những thứ mà trong lòng người gọi là tương đối tích cực, tốt đẹp và chính diện này, tất cả mọi người đều tôn sùng và mưu cầu, đều sẵn lòng sống theo. Đó chính là niềm tin của con người. Khi con người không có những điều này, họ có thể thực sự thuận phục Đức Chúa Trời, họ sẽ không nói và làm dựa trên sự tưởng tượng của con người và tính tốt của con người. Khi con người trở lại trước Đức Chúa Trời, họ sẽ có thêm thành phần đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời. Thành phần đức tin chân thực là gì? Họ có còn bày mưu tính kế cho Đức Chúa Trời nữa không, nói rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, những điều Ngài làm không phù hợp với quan niệm của con người, và con người rất khó tiếp nhận hành động của Ngài. Ngài thực sự cần phải làm như thế này này”, rồi “Lạy Đức Chúa Trời, những điều Ngài phán nghe không đúng. Khẩu khí lạc điệu, cách tiếp cận sai và từ ngữ Ngài dùng không đúng”? Những điều này đều mai một dần khỏi họ và họ sẽ không còn bày mưu tính kế cho Đức Chúa Trời nữa. Họ sẽ có thể thực sự thuận phục Đức Chúa Trời, có lý trí và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Thông qua bốn mươi năm được tôi luyện trong đồng vắng, Môi-se đã thực sự cảm nhận được sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Trong một hoàn cảnh nơi sự sinh tồn căn bản thôi cũng là bất khả thi đối với một con người, ông đã nương cậy vào Đức Chúa Trời để sống sót ngày qua ngày, bám trụ vào niềm hy vọng năm này qua năm khác, và sống sót đến cuối cùng. Ông thực sự đã thấy Đức Chúa Trời. Đó không phải là ngẫu nhiên, cũng không phải là truyền thuyết. Không có gì là ngẫu nhiên hay đột nhiên ở đây cả. Hết thảy đều là thật. Ông đã thấy được sự hiện hữu thực sự của Đức Chúa Trời và thấy rằng sự tể trị của Đức Chúa Trời trên vạn vật là có thật. Một khi công tác của Đức Chúa Trời nơi con người đã đạt được hiệu quả như vậy, lòng họ sẽ nảy sinh sự thay đổi. Những quan niệm và tưởng tượng của họ sẽ tan biến, họ sẽ cảm thấy bản thân mình chẳng là gì cả, và không có Đức Chúa Trời, họ chẳng thể làm được gì. Kết quả là họ sẽ không nhất quyết làm theo ý họ nữa. Lúc này, con người có nói những điều như “Hỡi Chúa, sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu” không? (Thưa, không.) Chúng ta có thể nói rằng lúc này, con người sẽ không nói năng dựa trên quan niệm của con người để cản trở Đức Chúa Trời, cũng sẽ không nhất quyết làm theo ý họ nữa. Lúc này con người sống dựa trên cơ sở nào? Họ sống thể hiện ra điều gì? Về mặt chủ quan, họ có thể thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Về mặt khách quan, họ có thể thuận theo tự nhiên, chờ đợi và tìm kiếm ý của Đức Chúa Trời, cũng như thuận phục Đức Chúa Trời trong mọi việc Ngài yêu cầu họ làm, mà không có những lựa chọn cá nhân.

Trở lại lúc Đức Chúa Trời sai Môi-se dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, phản ứng của Môi-se như thế nào khi Đức Chúa Trời giao cho ông một sự ủy thác như vậy? (Ông nói rằng ông không giỏi ăn nói, vì miệng và lưỡi ông hay ngập ngừng.) Ông chỉ có chút lo âu đó, rằng mình không giỏi ăn nói, miệng và lưỡi hay ngập ngừng. Nhưng ông có chống lại sự ủy thác của Đức Chúa Trời không? Trước việc đó, ông đã hành xử như thế nào? Ông sấp mình phủ phục. Sấp mình phủ phục nghĩa là gì? Có nghĩa là thuận phục và chấp nhận. Ông phủ phục cả con người mình xuống trước Đức Chúa Trời, không bận tâm đến lựa chọn cá nhân của mình và không đề cập đến bất kỳ khó khăn nào gặp phải. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời muốn ông làm, ông sẽ làm ngay lập tức. Tại sao ông lại có thể tiếp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời ngay cả khi cảm thấy mình không thể làm được gì? Bởi vì ông có đức tin chân thực trong lòng. Ông đã có chút trải nghiệm về sự tể trị của Đức Chúa Trời đối với mọi vật và mọi sự, và trong bốn mươi năm trải nghiệm của mình, ông đã biết được rằng sự tể trị của Đức Chúa Trời là toàn năng. Thế nên ông sốt sắng tiếp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời, và khởi sự làm những gì Đức Chúa Trời ủy thác mà không nói thêm lời nào. Ông khởi sự làm có nghĩa là gì? Có nghĩa là ông thực sự tin vào Đức Chúa Trời, thực sự nương cậy vào Ngài, cũng như thực sự thuận phục Ngài. Ông không hèn nhát, và không tự lựa chọn hay cự tuyệt; thay vào đó, ông hoàn toàn tin tưởng và bắt tay vào hành động với sự ủy thác của Đức Chúa Trời cho mình và với niềm tin tưởng hoàn toàn. Ông tin rằng: “Nếu Đức Chúa Trời đã ủy thác việc này, thì tất cả sẽ được thực hiện như Đức Chúa Trời phán. Đức Chúa Trời đã bảo mình đưa dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập thì mình sẽ đi. Vì đây là điều Đức Chúa Trời đã ủy thác, nên Ngài sẽ làm công tác, và Ngài sẽ ban cho mình sức mạnh. Mình chỉ cần hợp tác”. Đây là sự thông sáng của Môi-se. Người không có hiểu biết thuộc linh cho rằng họ có thể tự mình làm những việc Đức Chúa Trời giao phó. Con người có bản lĩnh đó không? Tuyệt đối không có. Nếu con người hèn nhát, thậm chí họ còn không có can đảm gặp Pha-ra-ôn Ai Cập. Trong lòng họ sẽ nói: “Pha-ra-ôn Ai Cập là ma vương. Ông ta có cả một đội quân trong tay, nói một câu là có thể giết mình. Làm sao mình có thể dẫn nhiều người Y-sơ-ra-ên như vậy đi được? Pha-ra-ôn Ai Cập sẽ nghe mình sao?”. Những lời này chính là sự cự tuyệt, chống đối và phản nghịch, không tin tưởng Đức Chúa Trời, và đây không phải là đức tin chân thực. Hoàn cảnh lúc đó không thuận lợi cho dân Y-sơ-ra-ên hay Môi-se. Theo cái nhìn của con người, việc dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập đơn giản là một nhiệm vụ bất khả thi, bởi vì Ai Cập bị chia cắt bởi Biển Đỏ, và việc vượt qua Biển Đỏ là một thách thức quá lớn. Lẽ nào Môi-se thực sự không biết việc hoàn thành sự ủy thác này khó khăn đến mức nào? Trong thâm tâm ông biết, nhưng ông chỉ nói miệng và lưỡi ông hay ngập ngừng, rằng sẽ không ai để ý đến lời ông. Tận đáy lòng mình, ông không từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời sai Môi-se dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, ông đã sấp mình phủ phục và chấp nhận. Tại sao ông không đề cập đến những khó khăn? Có phải vì sau bốn mươi năm trong đồng vắng, ông không biết đến những nguy hiểm của nhân thế, hay Ai Cập đã phát triển đến đâu, hay hoàn cảnh hiện tại của dân Y-sơ-ra-ên không? Lẽ nào ông không thấy rõ được những điều đó? Đó có phải là điều đã diễn ra không? Chắc chắn là không. Môi-se thông tuệ và khôn ngoan. Ông biết hết những điều đó, đã đích thân trải nghiệm và thể nghiệm chúng trong nhân gian, và sẽ không bao giờ quên được. Ông biết quá rõ tất cả những điều đó. Thế ông có biết sự ủy thác Đức Chúa Trời giao cho ông khó khăn đến mức nào không? (Thưa, có biết.) Nếu ông biết, sao ông có thể tiếp nhận sự ủy thác đó? Vì ông có đức tin. Bằng trải nghiệm cả đời mình, ông tin vào sự toàn năng của Đức Chúa Trời, nên ông đã tiếp nhận sự ủy thác này của Đức Chúa Trời bằng đức tin tràn đầy, không chút nghi hoặc. Ông có trải nghiệm gì? Nói Ta nghe. (Thưa, trong trải nghiệm của ông, mỗi khi ông kêu cầu Đức Chúa Trời và mỗi khi ông lại gần Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đều dẫn dắt và hướng dẫn cho ông. Môi-se đã thấy rằng Đức Chúa Trời không bao giờ thất tín, và ông có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời.) Một mặt là vậy. Còn gì nữa không? (Thưa, trong bốn mươi năm ở đồng vắng, Môi-se thực sự đã thấy được sự tể trị của Đức Chúa Trời bằng cách kêu cầu và cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Ông đã có thể sống sót và vượt qua, và ông có đức tin chân thực vào sự tể trị của Đức Chúa Trời.) Còn gì nữa không? (Thưa, Đức Chúa Trời đã làm rất nhiều công tác trên Môi-se. Ông biết một chút về việc Đức Chúa Trời đã tạo dựng trời đất và vạn vật, Đức Chúa Trời đã sử dụng cơn đại hồng thủy để hủy diệt thế giới trong thời Nô-ê như thế nào, chuyện của Áp-ra-ham, v.v.. Ông đã viết về những điều này trong Ngũ Thư, chứng tỏ ông có được cái nhìn tường tận về tất cả những việc làm này của Đức Chúa Trời, cũng như biết rằng Đức Chúa Trời là toàn năng và toàn trí. Do vậy, ông tin rằng vì Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt ông, công cuộc này chắc chắn sẽ nên trọn vẹn. Ông muốn thấy những việc làm của Đức Chúa Trời, thấy Đức Chúa Trời sẽ làm gì thông qua ông, và Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ, hướng dẫn ông như thế nào. Đây là đức tin mà ông có.) Chuyện là như vậy. Nói Ta nghe, trong bốn mươi năm ở đồng vắng, Môi-se, có thể lĩnh hội rằng không có gì là khó khăn với Đức Chúa Trời, rằng con người nằm trong tay Đức Chúa Trời không? Rất nhiều – đó là sự lĩnh hội chân thực nhất của ông. Trong bốn mươi năm ở đồng vắng, có quá nhiều thứ đe dọa tính mạng, và ông không biết liệu mình có sống sót hay không. Mỗi ngày, ông đều phải đấu tranh sinh tồn và cầu nguyện xin Đức Chúa Trời bảo vệ. Đó là mong ước duy nhất của ông. Trong bốn mươi năm đó, điều ông cảm nghiệm sâu sắc nhất là sự tể trị và sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Thế nên sau này khi ông chấp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời, cảm giác đầu tiên của ông hẳn là: “Không có gì là khó khăn với Đức Chúa Trời; nếu Đức Chúa Trời phán điều đó có thể thực hiện được, thì chắc chắn là làm được; vì Đức Chúa Trời đã giao cho mình một sự ủy thác như vậy, nên chắc chắn Ngài sẽ lo liệu – chính Ngài sẽ làm điều đó chứ không phải người nào khác”. Trước khi hành động, con người phải lên kế hoạch và chuẩn bị trước. Họ phải xử lý sơ bộ trước. Đức Chúa Trời có phải làm thế trước khi Ngài hành động không? Ngài không cần. Mọi loài thọ tạo, dù có tầm ảnh hưởng ra sao, có khả năng hay quyền lực đến đâu, có điên cuồng như thế nào đi nữa, đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Môi-se có đức tin, hiểu biết và kinh nghiệm về việc này, nên trong lòng ông không hề có chút hoài nghi hay sợ hãi nào. Do vậy, đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời đặc biệt chân thực và thuần khiết. Có thể nói ông tràn đầy đức tin.

Ta vừa nói về chủ đề đức tin chân thực là gì. Nói Ta nghe, cuối cùng, Đức Chúa Trời muốn niềm tin của con người hay đức tin chân thực của con người? (Thưa, Ngài muốn đức tin chân thực của con người.) Điều Đức Chúa Trời muốn là đức tin chân thực của con người. Đức tin chân thực là gì? Nói thẳng nhất và đơn giản nhất thì đó là đức tin chân thực của con người nơi Đức Chúa Trời. Đức tin chân thực trong thực tế là thế nào? Nó có liên quan gì đến mọi hoạt động trong đời thực của con người? (Thưa, con người tin rằng Đức Chúa Trời tể trị và tiền định tất cả. Trong mọi chuyện gặp phải, họ tin vào sự tể trị của Đức Chúa Trời và tin rằng đối với Đức Chúa Trời không có gì là khó.) (Thưa, con người tin rằng mọi lời Đức Chúa Trời phán đều sẽ thành hiện thực.) Hãy suy ngẫm thêm về điều này. Đức tin chân thực còn biểu hiện như thế nào nữa? (Thưa, đức tin của Môi-se khác với tín đồ bình thường. Khi ông viết Sách sáng thế, ông tin rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng trời đất và vạn vật bằng lời Ngài. Ông tin rằng trời đất và vạn vật đều thông qua lời Đức Chúa Trời mà có. Ông tin rằng Đức Chúa Trời phán có điều gì, điều ấy sẽ có trên thực tế, Đức Chúa Trời tiền định điều gì, điều ấy sẽ là như vậy. Và ông tin rằng hết thảy lời Đức Chúa Trời đều có thể thành hiện thực và ứng nghiệm. Trên phương diện này, ông có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời. Ông không chỉ tin vào sự thật rằng Đức Chúa Trời thực sự hiện hữu, mà ông còn tin rằng trời đất và vạn vật đều do Đức Chúa Trời tạo dựng. Trong lòng ông tuyệt đối tin rằng lời Đức Chúa Trời thành toàn mọi sự, và ông tin vào sự toàn năng của Đức Chúa Trời. Nếu không có đức tin như vậy nơi Đức Chúa Trời, ông không bao giờ có thể viết được sách Sáng thế. Những lời này cũng là nhờ Đức Thánh Linh cảm thúc và mặc khải, và ông có thể thấy rõ ràng.) Nói Ta nghe, sự hiện hữu thực sự của Đức Chúa Trời có phải vì con người tin nên mới là sự thật không? (Thưa, không.) Sự hiện hữu thực sự của Đức Chúa Trời là dạng sự thật gì? (Thưa, dù con người có tin hay không, thì Đức Chúa Trời vẫn hiện hữu, và Đức Chúa Trời là tự hữu, hằng hữu.) Ít nhất thì đức tin nơi Đức Chúa Trời phải dựa trên cơ sở này: không phải là miệng ngươi thừa nhận Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời hiện hữu, cũng không phải là ngươi không thừa nhận Ngài thì Ngài không hiện hữu. Mà Đức Chúa Trời hiện hữu bất kể ngươi có tin hoặc thừa nhận Ngài hay không. Đức Chúa Trời đời đời là Đấng Tạo Hóa và đời đời tể trị vạn vật. Tại sao con người cần có được nhận thức này? Nó có thể thay đổi được điều gì ở con người? Có những người nói: “Nếu chúng con tin Ngài, thì Ngài là Đức Chúa Trời, nhưng nếu chúng con không tin Ngài, thì Ngài không phải là Đức Chúa Trời”. Đó là lời gì vậy? Đó là lời phản nghịch và sai lầm. Đức Chúa Trời phán: “Nếu ngươi không tin Ta, thì Ta vẫn là Đức Chúa Trời và Ta vẫn tể trị vận mệnh của ngươi. Ngươi không thể thay đổi được điều này”. Đây là sự thật không ai phủ nhận được. Dù người theo thuyết vô thần có phủ nhận hay chống đối Đức Chúa Trời đến đâu, thì vận mệnh của họ vẫn nằm dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời, và họ không thể thoát khỏi sự trừng phạt của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi hoàn toàn tiếp nhận và thuận phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời, và có thể tiếp nhận hết thảy mọi lẽ thật Đức Chúa Trời bày tỏ, thì lời Đức Chúa Trời có thể thay đổi lối sống của ngươi, thay đổi mục tiêu cuộc đời và phương hướng mưu cầu của ngươi, thay đổi con đường ngươi chọn, và thay đổi ý nghĩa cuộc đời ngươi. Có những người, ngoài miệng thì nói tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, vào việc Đức Chúa Trời tể trị vạn vật và mọi sự trên đời, nhưng lại không thể thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, cũng không thể thấy rằng Đức Chúa Trời an bài cho mỗi cá nhân mỗi khác. Những người này luôn muốn mưu cầu dã tâm, dục vọng riêng của mình và luôn muốn làm những việc lớn lao, nhưng lại liên tục gặp phải trở ngại và cuối cùng bị đánh gục đến đầu rơi máu chảy. Chỉ khi đó, họ mới chịu phục. Nếu thực sự tin vào sự tể trị của Đức Chúa Trời, họ có hành động như vậy không? Không thể nào. Họ nên thực hành như thế nào? Trước hết, họ nên hiểu tâm ý Đức Chúa Trời. Trong công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, Ngài giúp con người thoát khỏi những tâm tính bại hoại của họ, cũng như thoát khỏi quyền thế của Sa-tan, bước đi con đường nhân sinh đúng đắn và sống theo lời Đức Chúa Trời. Nếu con người thực sự hiểu tâm ý Đức Chúa Trời, họ sẽ làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời trong việc mưu cầu lẽ thật và mưu cầu nhận biết Đức Chúa Trời, đạt đến thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Chỉ như vậy, họ mới có thể hợp tâm ý Đức Chúa Trời. Có nhiều người tin Đức Chúa Trời, nhưng lại không thể thuận phục Đức Chúa Trời. Họ luôn muốn mưu cầu sở thích riêng, nhưng cuối cùng hết thảy đều thất bại. Chỉ khi đó, họ mới nói ra những lời trong lòng: “Đây là vận mệnh rồi, không ai thay đổi được điều Đức Chúa Trời đã tiền định!”. Lúc này, khi họ lại nói: “Tôi tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và tin rằng mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời”, thì những lời này có khác với những lời họ nói trước kia không? Chúng thực tế hơn nhiều so với những đạo lý họ nói trước kia. Trước kia, họ chỉ thừa nhận trên môi miệng và tin rằng Đức Chúa Trời tể trị mọi sự, nhưng khi có chuyện xảy đến, họ lại không thể thuận phục Đức Chúa Trời, cũng chẳng thể thực hành lẽ thật dựa trên lời Đức Chúa Trời. Trong lòng, họ nghĩ họ có thể tự mình hiện thực hóa lý tưởng của mình. Như thế, những lời Đức Chúa Trời mà họ tin trong lòng và những đạo lý trên miệng lưỡi họ không thể trở thành nguyên tắc hành động của họ được. Nghĩa là họ không tin rằng hết thảy lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật và có thể thành tựu mọi sự. Họ nghĩ họ hiểu lẽ thật, nhưng họ lại không thể thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, nên những gì họ hiểu chỉ là đạo lý và câu chữ, chứ không phải là thực tế lẽ thật. Miệng thì nói tin vào sự tể trị của Đức Chúa Trời, nhưng trong đời thực, họ lại không thể thuận phục Đức Chúa Trời. Họ luôn đi con đường riêng, luôn muốn mưu cầu sở thích riêng, và đi ngược lại yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đây có phải là thuận phục thực sự không? Trong chuyện này có sự tin tưởng thật sự và đức tin chân thực ở đây không? (Thưa, không.) Không hề có, thật đáng thương! Biểu hiện của đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời là gì? Người có đức tin chân thực ít nhất cũng tin rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, đều có thể ứng nghiệm và thành tựu, cũng như tin rằng thực hành theo yêu cầu của Đức Chúa Trời là con đường nhân sinh đúng đắn. Trong cuộc sống, họ có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời và nương cậy vào Đức Chúa Trời, đưa lời Đức Chúa Trời vào đời thực, thực hành theo lời Đức Chúa Trời trong mọi sự, mưu cầu làm người trung thực và sống thể hiện ra thực tế lời Đức Chúa Trời. Họ không chỉ tin vào sự hiện hữu và tể trị của Đức Chúa Trời, mà còn tìm cách thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời trong đời thực. Nếu phản nghịch, họ có thể phản tỉnh bản thân, tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận sự sửa dạy của Đức Chúa Trời và đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu thực hành theo cách này, thì lẽ thật ngươi tin và thừa nhận sẽ trở thành thực tế sự sống của ngươi. Lẽ thật này sẽ có thể nắm thế chủ đạo tư tưởng, cuộc sống và phương hướng toàn bộ cuộc đời của ngươi. Lúc này, ngươi sẽ có thể nảy sinh đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời. Khi ngươi thực sự tin Đức Chúa Trời và có sự thuận phục thực sự, thì sẽ sinh ra đức tin chân thực. Đức tin như thế này mới là thực sự tin Đức Chúa Trời. Đức tin chân thực này bắt nguồn từ đâu? Nó có được bằng cách thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, từ đó đạt đến hiểu lẽ thật. Con người càng hiểu lẽ thật, thì đức tin nơi Đức Chúa Trời của họ càng lớn, họ càng biết về Đức Chúa Trời và họ càng thực sự thuận phục Đức Chúa Trời. Đây chính là cách con người có được đức tin chân thực.

Trong quá trình con người có được đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời làm gì? (Thưa, Ngài khai sáng, hướng dẫn và sắp đặt hoàn cảnh, sau đó lấy lẽ thật nhào nặn vào con người.) Khi Phi-e-rơ nhận lời trách mắng từ Đức Chúa Jêsus, đó chính là Đức Chúa Trời đang vạch trần, phán xét và định tội ông. Có phải con người phải trải nghiệm những điều này thì mới có được đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Tại sao họ phải trải nghiệm những điều này? Không có những điều này không được sao? Có thể nào bỏ qua sự phán xét, vạch trần, khiển trách, sửa dạy, trách mắng và thậm chí rủa sả được không? (Thưa, không thể.) Giả sử Đức Chúa Jêsus thảo luận về việc này với Phi-e-rơ một cách thân thiện, thay vì trách mắng ông, phán rằng: “Phi-e-rơ, Ta hiểu ngươi nói thế là có ý tốt, nhưng sau này đừng nói thế. Đừng cản trở kế hoạch của Ta xuất phát từ ý tốt của con người. Đừng nói nhân danh Sa-tan và làm cửa miệng của Sa-tan. Sau này, hãy cẩn thận hơn và đừng nói lung tung nữa. Trước khi nói, hãy suy nghĩ kỹ xem liệu lời ngươi có đúng không, có khiến Đức Chúa Trời đau lòng hay nổi giận không”. Ngài phán như vậy có được không? (Thưa, không.) Tại sao không? Nhân loại đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu, và tâm tính bại hoại của họ đã bén rễ thâm căn cố đế. Họ sống theo tâm tính bại hoại của mình. Hết thảy những tư tưởng, hành vi, tưởng tượng, quan niệm của họ, hết thảy những mục tiêu và phương hướng cuộc đời họ, cũng như động cơ cho hết thảy những lời nói và việc làm của họ, đều xuất phát từ tâm tính bại hoại. Nếu Đức Chúa Trời không trách mắng họ thì có được không? Họ có nhận ra được tính chất nghiêm trọng của vấn đề này không? Căn nguyên tội lỗi của họ có được nhổ tận gốc không? (Thưa, không thể.) Nếu căn nguyên tội lỗi của họ không thể được nhổ tận gốc, liệu con người có thể thuận phục Đức Chúa Trời được không? (Thưa, không thể.) Bây giờ các ngươi đã rõ khi Đức Chúa Trời định tội và rủa sả con người, thì đó là việc tốt hay xấu chưa? (Thưa, đó là việc tốt.) Đức Chúa Trời tỏ lộ con người có phải là việc tốt không? (Thưa, phải.) Ngài tỏ lộ điều gì ở con người? (Thưa, Ngài tỏ lộ sự yếu đuối, vóc giạc và đức tin vào Đức Chúa Trời của họ.) Ngài tỏ lộ hoàn toàn con người. Những đạo lý ngươi nắm giữ, những câu cửa miệng ngươi liên tục lặp lại, niềm tin của ngươi, sự nhiệt tâm bên ngoài và lòng tốt của ngươi, đều không phải là những thứ Đức Chúa Trời khen ngợi. Đó không phải là những điều Ngài muốn. Dù ngươi nhiệt tâm đến đâu hay có thể bôn ba bao xa, điều đó có cho thấy ngươi có lẽ thật không? Có cho thấy ngươi có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Đây không phải là những điều Đức Chúa Trời khen ngợi. Tính tốt và sự tưởng tượng của con người là vô dụng. Để được Đức Chúa Trời khen ngợi và có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời, ngươi phải trải qua nhiều phương thức làm việc khác nhau của Đức Chúa Trời – vạch trần, phán xét, định tội, rủa sả – thậm chí đôi khi cần cả sửa dạy và một chút trừng phạt. Những điều này có gì đáng sợ không? Không có gì đáng sợ cả. Trong đó chứa đựng tâm ý Đức Chúa Trời, sự quan tâm chu đáo của Đức Chúa Trời và tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Chịu đựng sự khổ này là đáng giá! Đức Chúa Trời làm những việc này và sử dụng những phương thức này để làm công tác trên con người. Nó cho thấy Đức Chúa Trời có những mong đợi nơi những người này và muốn đạt được điều gì đó từ họ. Đức Chúa Trời không làm những việc này ngẫu nhiên, vô cớ hay dựa trên tưởng tượng. Trong chúng hoàn toàn có tâm ý Đức Chúa Trời. Tâm ý Đức Chúa Trời là gì? Ngài khiến con người có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời và khiến cho con người tiếp nhận lẽ thật, thoát khỏi tâm tính bại hoại và đạt đến được cứu rỗi.

Nói Ta nghe, sau khi Phi-e-rơ chối Chúa ba lần, ông có phản tỉnh về đức tin của chính mình không? (Thưa, có.) Người có nhân tính bình thường và mưu cầu lẽ thật thì sẽ phản tỉnh khi gặp phải thất bại và vấp ngã. Phi-e-rơ chắc chắn sẽ phản tỉnh như vậy. Người không yêu lẽ thật sẽ không bao giờ phản tỉnh. Nếu gặp phải tình huống như Phi-e-rơ, họ sẽ nói: “Dẫu tôi đã chối Chúa ba lần, nhưng đó là những trường hợp đặc biệt. Ai mà không cảm thấy lo lắng, sợ hãi và yếu đuối trong những trường hợp đặc biệt như vậy chứ? Chuyện đó có gì to tát đâu. Tình yêu kính của tôi dành cho Chúa vẫn lớn lao, lòng tôi vẫn bừng lửa nhiệt tâm, tinh thần tôi vẫn kiên cường, và tôi sẽ không bao giờ rời bỏ, không bao giờ từ bỏ Chúa! Chối Chúa ba lần chỉ là một vết nhơ nhỏ, chắc Đức Chúa Trời sẽ không nhớ đâu. Suy cho cùng, đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời vẫn rất lớn mà”. Đây là kiểu phản tỉnh gì vậy? Đây có phải là thái độ tiếp nhận lẽ thật không? Đây có phải là cách để có được đức tin chân thực không? (Thưa, không.) Nếu Phi-e-rơ nghĩ: “Lạy Đức Chúa Jêsus, Ngài biết quá rõ về con người, vậy mà sao Ngài lại có thể cược rằng con sẽ làm một chuyện như vậy? Ngài không nên tiên đoán là con sẽ chối Ngài. Mà Ngài nên tiên đoán con sẽ nhận Ngài ba lần. Như thế mới hay, vậy con mới có thể ngẩng cao đầu đi theo Ngài. Hơn nữa, nó cũng cho thấy đức tin lớn lao của con nơi Ngài, và sự tiên đoán của Ngài cũng sẽ chứng tỏ là chuẩn. Vẹn toàn đôi bên. Con thực sự tin Ngài vô cùng. Ngài phải hoàn thiện con và cho con mặt mũi chứ! Ngài không nên trách mắng con. Ngài không nên đối xử với con như vậy. Con là Phi-e-rơ đường hoàng. Con không bao giờ nói lời chối Đức Chúa Trời. Thật mất mặt, xấu hổ quá đi! Tại sao Ngài lại đổ cho con một chuyện như thế? Tại sao không phải là ai khác? Ngài làm thế là không công bằng! Dù con có thừa nhận đã chối Ngài, thì Ngài có nhất thiết phải tỏ lộ con như thế để ai cũng có thể thấy con ngượng không? Sau này, con sẽ đi về đâu? Con có còn nhận được đích đến tốt đẹp trong tương lai không? Chẳng phải như thế nghĩa là Ngài đã từ bỏ con sao? Trong lòng, con cảm thấy vậy là không công bằng”. Lý luận với Đức Chúa Trời như thế là đúng hay sai? (Thưa, là sai.) Đây là kiểu tình trạng gì? Ở đây, Phi-e-rơ có sự bất phục và oán trách. Phi-e-rơ oán trách công tác của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm và thị hiếu của ông. Nó khiến ông mất mặt và mất vị thế, không ngóc đầu lên được. Ở đây ông có sự lựa chọn của con người, ông có sự oán trách, bất phục, đối kháng và phản nghịch của con người. Hết thảy những điều này đều là tâm tính bại hoại. Suy nghĩ kiểu này, hành động kiểu này, có thái độ và tình trạng kiểu này hiển nhiên là sai. Nếu con người suy nghĩ và hành động như thế này mà Đức Chúa Trời không khiển trách họ, liệu họ có thể hình thành đức tin chân thực sau khi bị phơi bày không? Liệu họ có thể có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời được không? (Thưa, không.) Những người oán trách, phản nghịch, chống đối và cự tuyệt sự tỏ lộ của Đức Chúa Trời, cự tuyệt việc Đức Chúa Trời dùng phương thức này mà đối xử với họ, thì sẽ có kết quả như thế nào? Nó mang đến điều gì cho sự sống của người như vậy? Điều đầu tiên nó mang đến là sự tổn hại. Sự tổn hại ngụ ý gì? Trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi có quá nhiều rắc rối cần phải xử lý. Dù chuyện gì xảy đến, ngươi cũng luôn có sự lựa chọn và luôn có thị hiếu riêng, ý riêng, chủ kiến riêng, cũng như sự tưởng tượng, quan niệm và kết luận riêng của mình. Vậy thì ngươi vẫn còn tin Đức Chúa Trời làm gì? Đối với ngươi, Đức Chúa Trời chỉ đơn giản là một đối tượng tín ngưỡng và trụ cột tinh thần của ngươi. Ngươi không cần Đức Chúa Trời, lời Đức Chúa Trời, lẽ thật của Đức Chúa Trời hay sự cung ứng sự sống của Đức Chúa Trời, càng không cần Đức Chúa Trời thực hiện bất kỳ kiểu công tác phán xét nào trên ngươi mà gây ra cho ngươi nhiều đau khổ. Đáp lại, Đức Chúa Trời phán: “Dễ thôi, Ta không làm điều đó với ngươi cũng được. Chỉ có một điều: ngươi phải rời xa Ta. Ngươi có quyền lựa chọn, Ta cũng có quyền lựa chọn. Ngươi có thể chọn không tiếp nhận phương thức cứu rỗi ngươi của Ta, cũng như Ta có thể chọn không cứu rỗi ngươi”. Như vậy có phải nghĩa là ngươi và Đức Chúa Trời không liên quan gì đến nhau không? Đây có phải là quyền tự do của Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Đức Chúa Trời có quyền làm như vậy không? (Thưa, có.) Con người có quyền chọn không tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời không? (Thưa, có.) Con người cũng có quyền này. Ngươi có thể từ bỏ, cũng có thể cự tuyệt sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời dành cho ngươi, nhưng cuối cùng, chính ngươi là người chịu tổn hại. Chẳng những ngươi sẽ không được Đức Chúa Trời hoàn thiện, mà còn bị Đức Chúa Trời ghét bỏ và đào thải. Cuối cùng, ngươi sẽ bị trừng phạt gấp đôi. Đây là kết cục dành cho ngươi. Đó là phiền phức chờ đợi ngươi! Vì thế, người muốn đạt đến được cứu rỗi thì phải chọn thuận phục công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ như vậy, con người mới có thể hình thành đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời và đạt đến có đức tin chân thực nơi Ngài. Đức tin như vậy dần dần sinh ra trong quá trình thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời.

Tâm tính bại hoại của con người ẩn chứa trong ý định đằng sau lời nói và việc làm của họ, trong quan điểm họ nhìn nhận mọi sự, trong từng tâm tư, ý niệm của họ, và trong cách nhìn, sự lĩnh hội, quan niệm, quan điểm, ước muốn và nhu cầu của họ đối với lẽ thật, Đức Chúa Trời và công tác của Đức Chúa Trời. Nó bất tri bất giác lộ ra trong lời nói và hành động của con người. Vậy Đức Chúa Trời đối xử với những điều này bên trong con người như thế nào? Ngài an bài những hoàn cảnh khác nhau để tỏ lộ ngươi. Ngài sẽ không chỉ tỏ lộ, mà còn phán xét ngươi. Khi ngươi bộc lộ tâm tính bại hoại, khi ngươi có những tâm tư và ý niệm chống đối Đức Chúa Trời, khi ngươi có những tình trạng và quan điểm muốn phân cao thấp với Đức Chúa Trời, khi ngươi có những tình trạng hiểu lầm Đức Chúa Trời, hoặc chống đối và đối kháng Ngài, thì Đức Chúa Trời sẽ trách mắng ngươi, phán xét ngươi và hành phạt ngươi, thậm chí có lúc Ngài còn sửa dạy ngươi, trừng phạt ngươi. Mục đích của việc sửa dạy và trách mắng ngươi là gì? (Thưa, là để khiến chúng con hối cải và thay đổi.) Đúng vậy, đó là để khiến ngươi hối cải. Hiệu quả đạt được bằng cách sửa dạy và quở trách ngươi là cho ngươi có thể quay đầu, khiến ngươi hiểu rằng những suy nghĩ của ngươi là quan niệm của con người và rằng chúng sai lầm; hiểu rằng ý định của ngươi sinh ra từ Sa-tan, bắt nguồn từ ý của con người, không phù hợp với lẽ thật, không tương hợp với Đức Chúa Trời, không thể thỏa mãn tâm ý Đức Chúa Trời, chúng khiến Đức Chúa Trời ghê tởm và buồn nôn, khiến Ngài nổi cơn thịnh nộ, thậm chí còn khiến Ngài rủa sả. Sau khi nhận biết điều này, ngươi phải thay đổi ý định và thái độ của mình. Thay đổi như thế nào? Trước hết, ngươi phải thuận phục cách Đức Chúa Trời đối xử với ngươi, cũng như thuận phục những hoàn cảnh, con người, sự việc và sự vật Ngài sắp đặt cho ngươi. Đừng bới lông tìm vết, đừng viện lý do khách quan, cũng đừng trốn tránh trách nhiệm. Thứ hai, hãy tìm kiếm xem khi Đức Chúa Trời làm việc này thì con người nên thực hành lẽ thật nào và nên bước vào lẽ thật nào. Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi phải hiểu những điều này. Ngài muốn ngươi nhận ra những tâm tính bại hoại và thực chất Sa-tan của mình, để ngươi có thể thuận phục những hoàn cảnh Ngài sắp đặt cho ngươi, và cuối cùng là để ngươi có thể thực hành phù hợp với tâm ý Ngài và yêu cầu của Ngài dành cho ngươi. Như thế, ngươi mới vượt qua thử thách. Một khi ngươi không còn đối kháng và chống đối Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ không còn tranh luận với Đức Chúa Trời nữa và có thể thuận phục. Khi Đức Chúa Trời phán: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta!”, ngươi đáp: “Nếu Đức Chúa Trời phán tôi là Sa-tan, thì tôi là Sa-tan. Dù tôi không hiểu mình đã làm gì sai hay tại sao Đức Chúa Trời lại phán tôi là Sa-tan, nhưng Ngài đã ra lệnh cho tôi lui ra sau Ngài, nên tôi sẽ làm không do dự. Tôi phải tìm kiếm ý của Đức Chúa Trời”. Khi Đức Chúa Trời phán tính chất hành động của ngươi là thuộc về Sa-tan, ngươi nói: “Đức Chúa Trời phán thế nào, tôi nhận biết thế ấy, Ngài phán thế nào, tôi cũng tiếp nhận”. Đây là thái độ gì? Đây là thuận phục. Nếu Đức Chúa Trời phán ngươi là ma quỷ, là Sa-tan, ngươi còn có thể miễn cưỡng tiếp nhận, nhưng nếu Ngài phán ngươi là súc vật, ngươi lại không thể tiếp nhận – và không thể thuận phục – thì đó có phải là thuận phục không? Thuận phục nghĩa là hoàn toàn nghe lời và tiếp nhận, không tranh luận hay đặt điều kiện, không phân tích nguyên nhân khách quan, không phân tích nhân quả, mà chỉ một mực tiếp nhận. Khi đạt tới sự thuận phục như thế này, con người đã tiệm cận đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời càng công tác và ngươi càng trải nghiệm, thì sự tể trị mọi sự của Đức Chúa Trời càng chân thực đối với ngươi, đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời càng lớn và ngươi sẽ càng cảm thấy: “Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều tốt lành, không có gì là xấu cả. Mình không được kén chọn, mà nên thuận phục. Chức trách của mình, nghĩa vụ của mình, bổn phận của mình – là thuận phục. Đây là điều mình nên làm với tư cách loài thọ tạo. Nếu mình thậm chí còn không thể thuận phục Đức Chúa Trời, thì mình là gì? Mình chính là súc vật, chính là ma quỷ!”. Chẳng phải điều đó cho thấy giờ đây ngươi đã có đức tin chân thực rồi sao? Một khi đã đạt đến độ này, ngươi sẽ không còn ô tạp, vì thế Đức Chúa Trời sẽ dễ dàng sử dụng ngươi, và ngươi cũng sẽ dễ dàng thuận phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Khi được Đức Chúa Trời khen ngợi, ngươi sẽ có thể đạt được phúc lành của Ngài. Vì vậy, có nhiều bài học để học trong việc thuận phục.

Phi-e-rơ đã có sự thuận phục thực sự đối với Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời phán: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta!”, ông đã giữ im lặng và phản tỉnh. Con người ngày nay không làm được điều này. Nếu Đức Chúa Trời phán: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta”, họ sẽ nói: “Ngài gọi ai là Sa-tan? Nói con là Sa-tan là không được. Nói con được Đức Chúa Trời chọn còn tạm được, như thế, con mới có thể tiếp nhận và thuận phục. Nếu Ngài nói con là Sa-tan, thì con không thể thuận phục được”. Nếu không thể thuận phục, thì ngươi có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời không? Ngươi có sự thuận phục thực sự không? (Thưa, không.) Mối quan hệ giữa sự thuận phục và đức tin chân thực là gì? Chỉ khi có đức tin chân thực, ngươi mới có thể có sự thuận phục thực sự. Chỉ khi ngươi có thể thực sự thuận phục Đức Chúa Trời, đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời mới có thể nảy nở trong ngươi. Ngươi có được đức tin chân thực trong quá trình thực sự thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng nếu không có đức tin chân thực, liệu ngươi có thể thực sự thuận phục Đức Chúa Trời được không? (Thưa, không thể.) Những điều này liên quan đến nhau, và đây không phải là vấn đề quy định hay lô-gic. Lẽ thật không phải là triết học, nó không có tính lô-gic. Các lẽ thật liên quan đến nhau và tuyệt đối không thể tách rời. Nếu ngươi nói: “Để thuận phục Đức Chúa Trời thì phải có đức tin nơi Đức Chúa Trời, và nếu có đức tin nơi Đức Chúa Trời thì phải thuận phục Đức Chúa Trời”, thì đây là quy định, câu chữ, lý luận, là nói chuyện trên trời! Chuyện về sự sống không phải là quy định. Ngươi luôn miệng thừa nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đấng Cứu Rỗi duy nhất của ngươi, là Đức Chúa Trời thật duy nhất, nhưng ngươi có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời không? Ngươi dựa vào điều gì để đứng vững khi gặp hoạn nạn? Nhiều người tiếp nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng bởi vì Ngài đã bày tỏ quá nhiều lẽ thật. Họ tiếp nhận Ngài đều là để bước vào thiên quốc. Nhưng khi phải đương đầu với sự bắt bớ và hoạn nạn, bao nhiêu người rút lui, bao nhiêu người trốn trong nhà, không dám thực hiện bổn phận. Lúc này, những lời ngươi nói – “Tôi tin vào Đức Chúa Trời tể trị, tôi tin Đức Chúa Trời nắm giữ vận mệnh con người, và tin rằng vận mệnh của tôi nằm trong tay Đức Chúa Trời” – từ lâu đã biến mất tăm mất tích. Đó chỉ là câu cửa miệng đối với ngươi. Vì ngươi không dám thực hành và trải nghiệm những lời này, và ngươi không sống theo những lời này, vậy ngươi có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời không? Thực chất việc có đức tin nơi Đức Chúa Trời không chỉ là tin vào danh Ngài, mà còn là tin vào sự thật rằng Đức Chúa Trời tể trị mọi sự. Ngươi phải biến sự thật này thành sự sống của mình, thành chứng ngôn thực tế trong cuộc sống mình. Ngươi phải sống theo những lời này. Nghĩa là cho phép những lời này nắm thế chủ đạo hành vi của ngươi, phương hướng và mục tiêu hành động của ngươi khi gặp chuyện. Tại sao ngươi phải sống theo những lời này? Ví dụ: giả sử ngươi có thể sang nước ngoài để tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, và ngươi nghĩ rằng như vậy thật tốt. Ở nước ngoài thì con rồng lớn sắc đỏ không thống trị được, và không có sự bách hại tín ngưỡng; tin Đức Chúa Trời sẽ không nguy hiểm đến tính mạng, nên ngươi không phải mạo hiểm. Trong khi đó, những người tin Đức Chúa Trời ở Trung Quốc đại lục có nguy cơ bị bắt giữ bất cứ lúc nào; họ đang sống trong sào huyệt của ma quỷ, thật quá nguy hiểm! Rồi một hôm, Đức Chúa Trời phán: “Ngươi đã tin Đức Chúa Trời ở nước ngoài được mấy năm và đã có được chút trải nghiệm sự sống. Ở Trung Quốc đại lục có một nơi mà các anh chị em ở đó chưa trưởng thành về sự sống. Ngươi nên quay trở lại chăn dắt họ”. Ngươi sẽ làm gì khi đối mặt với trách nhiệm này? (Thưa, thuận phục và tiếp nhận.) Ngươi có thể tiếp nhận bề ngoài, nhưng lòng ngươi sẽ cảm thấy khó chịu. Ban đêm nằm trên giường, ngươi sẽ khóc và cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, Ngài biết con yếu đuối. Vóc giạc của con quá nhỏ bé. Dù có trở lại đại lục, con cũng sẽ không thể chăn dắt dân được Đức Chúa Trời chọn. Ngài không chọn ai khác đi được sao? Sự ủy thác này đã đến với con, và con thực sự muốn đi, nhưng con sợ nếu đi thì con sẽ không làm tốt, con sẽ không thể thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn và sẽ phụ tâm ý Ngài! Con không thể ở nước ngoài thêm hai năm nữa được sao?”. Lựa chọn ngươi đang đưa ra là gì? Ngươi không hẳn từ chối đi, nhưng cũng không hẳn đồng ý đi. Đây là thoái thác ngầm. Đây có phải là thuận phục Đức Chúa Trời không? Đây là sự phản nghịch Đức Chúa Trời rõ ràng nhất. Việc ngươi không muốn trở lại nghĩa là ngươi có cảm xúc chống đối. Đức Chúa Trời có biết việc này không? (Thưa, Ngài biết.) Đức Chúa Trời sẽ phán: “Ngươi chớ đi. Ta không làm khó ngươi, Ta chỉ đang cho ngươi sự thử luyện”. Như vậy là Ngài đã tỏ lộ ngươi. Ngươi có yêu kính Đức Chúa Trời không? Ngươi có thuận phục Đức Chúa Trời không? Ngươi có đức tin chân thực không? (Thưa, không có.) Đây có phải là yếu đuối không? (Thưa, không phải.) Đây là phản nghịch, là đối kháng với Đức Chúa Trời. Sự thử luyện này đã phơi bày rằng ngươi không có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời, không có sự thuận phục thực sự, và ngươi không tin rằng Đức Chúa Trời tể trị mọi sự. Ngươi nói: “Chỉ cần tôi sợ là tôi có lý do để chọn không đi. Chỉ cần tính mạng tôi bị đe dọa, thì tôi có thể từ chối. Tôi có thể không tiếp nhận sự ủy thác này và có thể chọn con đường riêng của mình. Tôi có thể mang đầy oán trách và bức xúc”. Đây là kiểu đức tin gì? Không có đức tin chân thực ở đây. Những khẩu hiệu ngươi hô dù có cao đến đâu, thì bây giờ có tác dụng gì không? Hoàn toàn không. Những lời thề của ngươi có tác dụng gì không? Nếu người khác thông công về lẽ thật và làm công tác tư tưởng cho ngươi, thì có tác dụng không? (Thưa, không.) Cho dù sau khi được làm công tác tư tưởng, ngươi miễn cưỡng đi, thì đây có phải là thuận phục thực sự không? Đức Chúa Trời không cần kiểu thuận phục này của ngươi. Nếu ngươi không vui lòng mà đi, thì đi cũng như không. Đức Chúa Trời sẽ không làm công tác, và ngươi sẽ không đạt được gì từ đó. Đức Chúa Trời không ép buộc con người làm gì cả. Ngươi phải cam tâm nguyện ý. Nếu ngươi không muốn đi, ngươi muốn đi con đường thứ ba, và luôn tìm cách trốn tránh, cự tuyệt và thoái thác, thì ngươi không cần phải đi. Khi vóc giạc của ngươi đủ lớn và ngươi có đức tin đó, ngươi sẽ tình nguyện xin đi, nói rằng: “Tôi sẽ đi, không ai đi, tôi cũng đi. Lần này tôi thực sự không sợ, tôi sẽ liều mạng! Chẳng phải sự sống là do Đức Chúa Trời ban cho sao? Sa-tan có gì đáng sợ lắm đâu? Nó chỉ là món đồ chơi trong tay Đức Chúa Trời, sợ gì! Nếu tôi không bị bắt, thì đó là sự ân đãi và thương xót của Đức Chúa Trời. Nếu hoàn cảnh khiến tôi bị bắt, thì đó là vì Đức Chúa Trời cho phép. Dù có chết trong tù, tôi vẫn phải làm chứng cho Đức Chúa Trời! Tôi phải có tâm chí này – tôi sẽ trao sinh mệnh của mình cho Đức Chúa Trời. Tôi sẽ đem những gì mình hiểu, trải nghiệm và biết được trong cuộc sống đến thông công với các anh chị em còn chưa hiểu, chưa biết ở đó. Như thế, họ có thể có đức tin và tâm chí giống như tôi, có thể đến trước Đức Chúa Trời và làm chứng cho Ngài. Tôi phải quan tâm đến tâm ý Đức Chúa Trời và gánh trọng trách này. Dù việc gánh trọng trách này đòi hỏi phải mạo hiểm và hy sinh tính mạng, nhưng tôi không sợ. Tôi không còn nghĩ đến bản thân mình nữa; tôi có Đức Chúa Trời, sự sống của tôi nằm trong tay Ngài, và tôi sẵn lòng thuận phục sự sắp đặt, an bài của Ngài”. Sau khi trở về, ngươi sẽ phải chịu khổ trong hoàn cảnh đó. Ngươi có thể già đi rất nhanh, tóc bạc, da nhăn. Ngươi có thể mắc bệnh hoặc bị bắt bớ, bách hại, thậm chí còn gặp nguy hiểm đến tính mạng. Ngươi nên đối mặt với những vấn đề này như thế nào? Điều này một lần nữa liên quan đến đức tin chân thực. Một số người có thể trở về với quyết tâm cao độ, nhưng sau khi trở về, phải đối mặt với những gian khổ này, họ sẽ làm gì? Ngươi phải dấn thân và tin vào sự tể trị của Đức Chúa Trời. Dù ngươi có già đi trông thấy một chút hoặc mắc bệnh một chút, thì đó cũng chỉ là chuyện nhỏ. Nếu ngươi đắc tội với Đức Chúa Trời và cự tuyệt sự ủy thác của Ngài, ngươi sẽ đánh mất cơ hội được Đức Chúa Trời hoàn thiện trong đời này. Trong cuộc đời, nếu ngươi đắc tội với Đức Chúa Trời và cự tuyệt sự ủy thác của Ngài, thì đó sẽ là một vết nhơ đời đời! Mất đi cơ hội này, ngươi có dùng bao nhiêu năm thanh xuân cũng không đổi lại được. Có thân thể khỏe mạnh, cường tráng để làm gì? Có mặt xinh, dáng đẹp để làm gì? Dù ngươi có sống đến tám mươi tuổi và đầu óc vẫn minh mẫn, nhưng nếu ngươi không thể hiểu nổi ý nghĩa của dù chỉ một câu Đức Chúa Trời phán, thì chẳng phải đáng thương sao? Vô cùng đáng thương! Vậy thì điều quan trọng nhất và quý giá nhất mà con người phải đạt được khi đến trước Đức Chúa Trời là gì? Đó chính là đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời. Bất kể chuyện gì xảy đến, nếu trước tiên ngươi thuận phục, thì cho dù ngươi có chút hiểu lầm nho nhỏ về Đức Chúa Trời lúc đó, hoặc ngươi không hiểu rõ tại sao Đức Chúa Trời lại làm như vậy, thì ngươi cũng sẽ không tiêu cực và yếu đuối. Như Phi-e-rơ đã nói: “Ngay cả khi Đức Chúa Trời chơi đùa với con người như thể họ là những món đồ chơi, thì liệu con người có gì để oán trách không?”. Nếu ngay cả chút đức tin ít ỏi này ngươi cũng không có, thì liệu ngươi còn có thể thuận phục như Phi-e-rơ được không? Thông thường, những việc Đức Chúa Trời làm trên ngươi là hợp tình, hợp lý, phù hợp với vóc giạc, sự tưởng tượng và quan niệm của ngươi. Đức Chúa Trời làm công tác lớn hay nhỏ tùy theo vóc giạc của ngươi. Nếu ngươi vẫn không thể tiếp nhận, liệu ngươi có thể đạt được sự thuận phục như Phi-e-rơ được không? Càng không thể. Cho nên, ngươi phải mưu cầu theo hướng này và mục tiêu này. Chỉ khi đó, ngươi mới có thể đạt đến đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời.

Nếu không có đức tin chân thực, con người có thể thuận phục Đức Chúa Trời được không? Khó nói lắm. Có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời mới có thể thực sự thuận phục Ngài. Chính xác là vậy. Nếu không thực sự thuận phục Đức Chúa Trời, ngươi sẽ không còn cơ hội tiếp nhận sự khai sáng, hướng dẫn hoặc hoàn thiện của Đức Chúa Trời. Mọi cơ hội được Đức Chúa Trời hoàn thiện này đều bị ngươi chối đẩy; ngươi không muốn, ngươi cự tuyệt, trốn tránh và không ngừng né tránh. Ngươi luôn chọn hoàn cảnh an nhàn xác thịt và không phải chịu khổ. Như thế là phiền phức rồi! Ngươi không thể trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Ngươi không thể trải nghiệm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, sự dẫn dắt và bảo vệ của Đức Chúa Trời. Ngươi không thể thấy được việc làm của Đức Chúa Trời. Kết quả là ngươi sẽ không thể đạt được lẽ thật và không đạt được đức tin chân thực – ngươi sẽ không đạt được gì cả! Nếu ngươi không thể đạt được lẽ thật và không thể đạt được lời Đức Chúa Trời làm sự sống của mình, liệu ngươi có thể được Đức Chúa Trời thu phục không? Chắc chắn là không. Được Đức Chúa Trời khai sáng, hướng dẫn và hoàn thiện chủ yếu là để ngươi đạt được điều gì? Ngươi đạt được lẽ thật và lời Đức Chúa Trời. Nghĩa là lời Đức Chúa Trời trở thành thực tế của ngươi, nguồn sự sống của ngươi, cũng như nguyên tắc, cơ sở và tiêu chí cho hành động của ngươi. Lúc này, ngươi sống thể hiện ra điều gì? Có còn là tâm tính bại hoại không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời có phán với ngươi: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta” không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời sẽ phán điều gì? Định nghĩa Đức Chúa Trời dành cho Gióp là gì? (Thưa, ông kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, ông là một người hoàn thiện.) Trích dẫn những lời này ở đây là phù hợp. Nếu các ngươi muốn đạt được danh hiệu và định nghĩa Đức Chúa Trời dành cho Gióp, thì có dễ thực hiện không? (Thưa, không.) Không dễ. Ngươi phải làm thỏa lòng Đức Chúa Trời và tìm kiếm ý Ngài trong mọi sự, hành động theo ý Đức Chúa Trời, và thuận phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chỉ nói ngươi sẽ thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, nhưng sau đó lại cố phân tích xem tại sao những hoàn cảnh, con người, sự việc và sự vật nhất định lại xảy đến với mình, có những oán trách và hiểu lầm, cũng như hiểu sai ý Đức Chúa Trời, thì thật là khiến Đức Chúa Trời đau lòng! Nếu ngươi không muốn Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ không muốn ngươi. Ngài và ngươi sẽ không liên quan gì đến nhau. Nếu cứ tiếp diễn như thế, chẳng phải sẽ phiền phức sao? Nếu ngươi không phải là loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời không phải là Đấng Tể Trị của ngươi, cũng không phải là Đức Chúa Trời của ngươi. Cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ định nghĩa ngươi như thế nào? “Hỡi kẻ làm gian ác… hãy lui ra khỏi Ta!”. Các ngươi có muốn bị nói những lời này không? (Thưa, không.) Nếu ngươi bị nói những lời này thì nghĩa là gì? (Thưa, nghĩa là chúng con bị Đức Chúa Trời định tội, đào thải và trừng phạt.) Như thế là phiền phức rồi! Một khi ngươi bị Đức Chúa Trời định tội và đào thải, thì nó không phải giống như bị lãnh đạo hay người có thẩm quyền định tội – mà đó là Đức Chúa Trời định tội! Đức Chúa Trời ban sự sống cho ngươi và cung ứng sự sống cho ngươi. Giờ đây Đức Chúa Trời không muốn ngươi, liệu ngươi còn có thể sống được không? (Thưa, không.) Điều này nghĩa là gì? Nó báo hiệu kết cục cuối cùng dành cho ngươi, mà không phải là điều tốt đẹp. Đó không hề là điềm lành. Nếu Ta phán ai đó kính sợ Đức Chúa Trời, lánh khỏi điều ác, và là một người hoàn thiện, thì đây là điềm lành, và phúc lành của Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ đến với người như vậy. Các ngươi nên nghĩ gì về những lời Đức Chúa Trời đánh giá Gióp? Nếu ngươi nghĩ xem Gióp ăn gì, mặc gì, đi đứng thế nào, khí chất ra sao, và cố gắng bắt chước những điều này, thì ngươi đi sai đường. Ngươi phải nhanh chóng suy ngẫm và tìm kiếm, nghĩ xem: “Gióp đã làm như thế nào? Ông đã sống thể hiện ra điều gì để nhận được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời phán ông kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, ông là một người hoàn thiện. Đó không phải là chuyện nhỏ. Đây là chính miệng Đức Chúa Trời phán. Mình phải noi gương Gióp, tìm kiếm con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, đồng thời cũng nỗ lực trở thành người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Như vậy mới được Đức Chúa Trời khen ngợi và gọi bằng danh hiệu đó. Mình muốn là người hoàn thiện trong mắt Đức Chúa Trời”. Suy nghĩ thế này mới hợp tâm ý Đức Chúa Trời.

Ngày 30 tháng 12 năm 2016

Trước: Nhận thức được quan điểm sai lầm của mình thì mới có thể thật sự thay đổi

Tiếp theo: Chỉ khi biết sáu loại tâm tính bại hoại mới thật sự tự biết mình

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger