Chức trách của lãnh đạo và người làm công (26)

Mục 14. Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ (Phần 5)

Thái độ mà lãnh đạo và người làm công cần có đối với công tác thanh lọc hội thánh

Năm nay, chúng ta đã liên tục thông công về chức trách của lãnh đạo và người làm công cũng như biểu hiện của các loại người liên quan. Chủ đề thông công càng ngày càng chi tiết và cụ thể, liên quan đến đủ loại vấn đề của các loại người. Các biểu hiện cụ thể của những người này và thể loại mà họ nên được phân chia vào cũng được thông công rất cụ thể và rõ ràng. Việc thông công về những vấn đề chi tiết này càng cụ thể và rõ ràng thì càng mang lại sự giúp đỡ và hướng dẫn tích cực cho lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, đồng thời càng mang lại nhiều sự hướng dẫn và hỗ trợ cho lãnh đạo và người làm công trong việc thực hiện công tác và bổn phận của họ. Nhưng cho dù chúng ta thông công như thế nào, cho dù chúng ta thông công cụ thể đến đâu, thì một số lãnh đạo và người làm công vẫn không hiểu rõ cách xử lý và giải quyết các loại người cũng như các loại vấn đề trong hội thánh. Chúng ta thông công rất rõ ràng về vấn đề của các loại người, thế nhưng có một số lãnh đạo và người làm công vẫn không hiểu rõ cách phân định và đối xử với những loại người khác nhau. Họ vẫn không thể hành động theo các nguyên tắc của lẽ thật, không thể sử dụng lẽ thật để giải quyết các loại người và vấn đề trong hội thánh. Vì sao vậy? Đó là vì những người như vậy vẫn chưa có được thực tế lẽ thật. Thông qua việc thông công về biểu hiện của các loại người, mỗi người nên có sự phân định cơ bản và đưa ra sự sắp xếp hợp lý đối với những người trong hội thánh thực hiện bổn phận của mình và những người không thực hiện bổn phận, những người mưu cầu lẽ thật và những người không mưu cầu lẽ thật, những người vâng lời, thuận phục và những người gây nhiễu loạn, làm gián đoạn. Nhưng xét theo tình hình của các loại người trong hội thánh, mới chỉ có những kẻ ác rõ ràng bị thanh trừ, còn rất nhiều người không tin vẫn chưa bị thanh trừ triệt để. Trong công tác thanh lọc hội thánh, lãnh đạo và người làm công nên phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời để thanh lọc kẻ ác và những người không tin nhanh nhất có thể, thay vì đối phó một cách bị động, làm người dễ dãi hay nghĩ rằng chỉ thanh lọc những kẻ ác rõ ràng là xong chuyện. Lãnh đạo và người làm công nên chủ động kiểm tra công tác của từng nhóm, xác minh tình hình thành viên của từng nhóm, để xem có người không tin nào chỉ thêm vào cho đủ đội hình hay lan truyền sự tiêu cực và các quan niệm nhằm gây nhiễu loạn cho công tác của hội thánh hay không. Và một khi phát hiện những người này, phải triệt để vạch trần và thanh trừ. Đây là công tác mà lãnh đạo và người làm công cần làm. Họ không nên bị động, không nên chờ Bề trên ra mệnh lệnh và thúc giục rồi mới hành động, cũng không nên chỉ làm chút chuyện vặt khi các anh chị em đều kêu gọi. Khi thực hiện công tác của mình, lãnh đạo và người làm công nên quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời và trung thành với Ngài. Cách xử sự tốt nhất là họ nên chủ động phát hiện và giải quyết vấn đề. Họ không được tiếp tục bị động, đặc biệt là khi đã có những lời nói và sự thông công thực tế này làm cơ sở. Họ nên chủ động và tích cực giải quyết triệt để các vấn đề và khó khăn thực tế bằng cách thông công về lẽ thật, và thực hiện công tác của mình đến nơi đến chốn. Họ nên kịp thời và tích cực theo dõi tiến độ công tác, chứ không thể lúc nào cũng chờ Bề trên ra mệnh lệnh và thúc giục thì mới làm một cách miễn cưỡng. Nếu lãnh đạo và người làm công luôn tiêu cực, bị động và không thực hiện công tác thực tế, thì họ không xứng đáng làm lãnh đạo và người làm công, đồng thời cần bị thay thế và điều chỉnh. Hiện nay, có nhiều lãnh đạo và người làm công rất bị động trong công tác của mình. Khi nào Bề trên ra mệnh lệnh và thúc ép thì họ mới làm chút ít công tác, nếu không thì họ sẽ chểnh mảng và cù nhầy. Công tác ở một số hội thánh khá hỗn loạn, một số người thực hiện bổn phận ở đó vô cùng chểnh mảng và qua loa hời hợt, không thu được bất kỳ kết quả thực sự nào. Những vấn đề này đã rất nghiêm trọng và khủng khiếp về bản chất, nhưng các lãnh đạo và người làm công của các hội thánh đó vẫn hành động như những quan chức và ông chủ. Họ không những không thể làm bất kỳ công tác thực tế nào mà còn không thể nhận ra hoặc giải quyết các vấn đề. Điều này làm tê liệt công tác của hội thánh và khiến nó bị trì trệ. Hễ công tác của một hội thánh rơi vào tình trạng hỗn loạn khủng khiếp và không có chút trật tự nào, thì chắc chắn có một lãnh đạo giả hoặc kẻ địch lại Đấng Christ đang nắm quyền. Trong mỗi hội thánh có một người lãnh đạo giả nắm quyền, công tác của hội thánh sẽ trở nên hỗn loạn và hỗn độn hoàn toàn – chắc chắn như thế. Ví dụ, có nhiều vấn đề trong các hội thánh ở Mỹ là do Ta chính tai nghe thấy hoặc tận mắt nhìn thấy. Hầu hết các vấn đề Ta thấy đều được giải quyết tại chỗ. Còn với một số vấn đề khác, Ta yêu cầu lãnh đạo của các hội thánh tại Mỹ giải quyết. Tuy nhiên, lãnh đạo và người làm công thực hiện phần lớn công tác một cách rất bị động, việc theo dõi quá chậm còn hiệu suất thì quá thấp. Đối với hầu hết công việc hằng ngày, họ chỉ thực hiện sau khi Bề trên ra mệnh lệnh và thúc giục. Sau khi Bề trên sắp xếp công việc, họ sẽ bận rộn một thời gian. Nhưng khi thực hiện xong chút công việc đó, họ lại không biết làm gì tiếp theo vì họ không biết bổn phận của mình là gì. Họ luôn luôn không biết cần thực hiện công tác nào trong phạm vi chức trách của lãnh đạo và người làm công. Trong mắt họ, không có việc gì cần làm. Có vấn đề gì khi người ta không nghĩ là có công việc nào cần làm? (Họ không gánh vác trọng trách.) Nói một cách chính xác, họ không gánh vác trọng trách, họ cũng rất lười biếng và tham hưởng an nhàn, họ nghỉ ngơi càng lâu càng tốt bất cứ khi nào có thể và làm nhiều chẳng bằng làm ít. Những người lười biếng này thường nghĩ: “Tại sao mình phải lo lắng quá nhiều chứ? Lo lắng quá nhiều chỉ khiến mình già đi nhanh hơn. Mình sẽ được lợi ích gì khi làm thế, khi phải chạy đôn đáo quá nhiều và khiến bản thân kiệt sức như vậy? Ngộ nhỡ mình kiệt sức và bị ốm thì sao? Mình không có tiền để chi trả cho việc điều trị. Và ai sẽ chăm sóc mình khi về già?” Những người lười biếng này chỉ tiêu cực và chậm tiến như vậy. Họ không có chút lẽ thật nào, và không thể nhìn rõ bất cứ điều gì. Họ rõ ràng là một đám người mụ mị, phải không? Tất cả họ đều mụ mị. Họ không chú ý đến lẽ thật, và họ không quan tâm đến nó, vậy thì làm sao họ có thể được cứu rỗi? Tại sao con người luôn vô kỷ luật và lười biếng như thể họ là thây ma vậy? Điều này chạm đến một vấn đề trong bản tính của họ. Có một kiểu biếng nhác trong bản tính con người. Bất kể người ta đang làm nhiệm vụ gì, họ cũng luôn cần ai đó giám sát và thúc giục họ. Đôi khi người ta chỉ quan tâm đến xác thịt, tham hưởng tiện nghi thể chất, và luôn chừa một lối thoát cho bản thân – những người này chỉ toàn ý định xấu xa và âm mưu xảo quyệt, và họ thực sự không phải là người tốt. Họ luôn không làm hết sức mình bất kể họ đang thực hiện bổn phận quan trọng nào. Đây là vô trách nhiệm và không trung thành. Hôm nay Ta phán những điều này để nhắc nhở các ngươi không được thụ động trong công việc. Các ngươi phải có thể làm theo bất cứ điều gì Ta phán bảo. Nếu Ta đến các hội thánh và biết hoặc thấy rằng các ngươi đã thực hiện rất nhiều công tác, có hiệu suất rất cao, đạt tiến độ rất nhanh chóng, mọi việc đã đạt đến một mức độ thỏa đáng và mọi người đều đã tận lực, thì Ta sẽ cảm thấy rất vui. Còn nếu Ta đến các hội thánh và phát hiện ra rằng tiến độ công tác ở mọi phương diện đều chậm chạp, chứng tỏ rằng các ngươi không thực hiện tốt bổn phận của mình và không theo kịp tốc độ mở rộng phúc âm bình thường, thì các ngươi nghĩ Ta sẽ có tâm tình như thế nào? Liệu Ta có còn vui nổi khi nhìn thấy các ngươi không? (Thưa, không.) Ta sẽ không vui nổi. Công tác này đã được giao phó cho các ngươi và Ta đã nói hết những điều cần nói, các ngươi cũng đã được chỉ bảo nguyên tắc thực hành cụ thể và đường lối. Thế mà các ngươi vẫn không hành động, không thực hiện công tác, mà nhất định phải chờ Ta đích thân giám sát và thúc giục các ngươi, tỉa sửa các ngươi hay thậm chí ra lệnh cho các ngươi làm. Có vấn đề gì ở đây vậy? Chẳng phải vấn đề này nên được mổ xẻ hay sao? Khi các ngươi không thực hiện công tác mà rõ ràng các ngươi phải thực hiện và không có khả năng gánh vác công tác đó, liệu Ta có thể có thái độ tốt với các ngươi được không? (Thưa, không.) Tại sao Ta không thể có thái độ tốt với các ngươi? (Thưa, chúng con quá vô trách nhiệm trong việc thực hiện bổn phận của mình.) Lý do là vì các ngươi không tận tâm tận lực thực hiện bổn phận mà chỉ làm qua loa chiếu lệ. Một người trung thành với bổn phận ít nhất phải tận lực, nhưng các ngươi thậm chí còn không đạt được điều này. Các ngươi còn xa mới đạt được! Không phải là các ngươi không đủ tố chất, mà là tâm thế của các ngươi không đúng và các ngươi vô trách nhiệm. Trong lòng các ngươi có một số điều vô lý cản trở các ngươi thực hiện bổn phận. Ngoài ra, tư tưởng làm người dễ dãi cũng cản trở các ngươi thực hiện công tác thanh lọc hội thánh. Các ngươi có biết ý nghĩa của việc thanh lọc hội thánh là gì không? Tại sao Đức Chúa Trời lại muốn thanh lọc hội thánh? Hậu quả của việc không thanh lọc hội thánh là gì? Tất cả các ngươi đều không hiểu rõ những chuyện này và không mưu cầu lẽ thật. Điều đó chứng tỏ rằng các ngươi không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Các ngươi chỉ nguyện ý thực hiện một chút công tác bình thường, làng nhàng thuộc chức vụ của mình và không muốn thực hiện những công tác đặc biệt, nhất là công tác có thể đắc tội người khác. Các ngươi đều muốn giao những công tác này cho người khác. Đây chẳng phải là cách nghĩ của các ngươi sao? Đây chẳng phải là một vấn đề cần giải quyết sao? Các ngươi luôn nói: “Tố chất của tôi rất kém, hiểu biết của tôi về lẽ thật có hạn, ngoài ra tôi không có đủ kinh nghiệm công tác. Tôi chưa bao giờ làm lãnh đạo hội thánh và cũng chưa từng thực hiện công tác thanh lọc hội thánh”. Đây chẳng phải là các ngươi đang mượn cớ sao? Công tác thanh lọc hội thánh đã được thông công rất rõ ràng. Thanh lọc những kẻ địch lại Đấng Christ, kẻ ác và người không tin là chuyện rất đơn giản. Mấy nguyên tắc đó thực sự khó hiểu đến vậy sao? Nếu những vấn đề đơn giản như vậy đã được giải thích rất rõ ràng mà mọi người vẫn không hiểu, vậy thì vấn đề ở đây là gì? Điều này cho thấy hoặc là tố chất của họ quá kém đến mức họ không hiểu người khác nói gì, hoặc họ chỉ là những kẻ khốn nạn ăn sẵn nằm ngửa. Trong số các lãnh đạo và người làm công, chắc chắn có một số người có tố chất kém, và chắc chắn có một số người dễ dãi không thực hiện công tác thực tế. Chắc chắn cũng có một số kẻ khốn nạn ăn sẵn nằm ngửa và làm xằng làm bậy. Tất cả những tình huống này đều có. Trước tiên, chúng ta cần thanh lọc những kẻ khốn nạn ăn sẵn nằm ngửa này và sử dụng bất cứ ai có thể thực hiện công tác thực tế. Chúng ta chắc chắn phải loại bỏ những người dễ dãi giữ vai trò lãnh đạo, và giữ lại những người có tố chất kém nếu họ có thể hiểu người khác nói gì và thực hiện một số công tác thực tế. Đây chính là cách giải quyết những vấn đề này. Sau khi Đức Chúa Trời thông công, nếu ngươi có thể thấy rõ những vấn đề mà các lãnh đạo và người làm công cần giải quyết trong công tác của hội thánh, thì ngươi cần giải quyết kịp thời, không được trì hoãn thêm nữa. Ngươi có thể chủ động làm việc mà không cần chờ Bề trên đích thân bố trí công việc hay truyền đạt mệnh lệnh. Bất kể vấn đề gì phát sinh, ngươi đều cần giải quyết trước khi ảnh hưởng đến tình hình công tác. Thậm chí, ngươi cần báo cáo những gì ngươi biết về vấn đề, phương án giải quyết vấn đề, nguyên tắc xử lý và kết quả xử lý trước cả khi Bề trên bắt đầu truy cứu vấn đề. Như thế thì thật tuyệt vời biết bao! Khi đó, liệu Bề trên có còn không hài lòng về ngươi nữa không? Là một lãnh đạo hoặc người làm công, nếu ngươi cứ luôn không thấy được công tác thuộc phạm vi chức trách của mình, hoặc ngươi có một số nhận thức và ý tưởng nhưng cứ chần chừ không hành động mà luôn chờ Bề trên sắp xếp công việc, thì chẳng phải là thất trách hay sao? (Thưa, phải.) Đây là hành vi thất trách nghiêm trọng! Ngươi đã đánh mất thái độ và chức trách mà ngươi nên có khi thực hiện bổn phận với vai trò lãnh đạo hoặc người làm công. Khi thực hiện công tác, lãnh đạo và người làm công cần tuân thủ chặt chẽ yêu cầu của Bề trên. Ngươi cần thực hiện bất cứ điều gì mà Bề trên đã thông công. Một khi đã hiểu, ngươi phải hành động và thực hiện ngay. Giải quyết vấn đề bằng lẽ thật là chức trách quan trọng nhất của lãnh đạo và người làm công. Ngươi không nên bị động chờ Bề trên sắp xếp công việc trước khi thực hiện bất cứ công tác gì. Nếu luôn chờ đợi một cách bị động, thì ngươi không xứng đáng làm lãnh đạo hoặc người làm công, ngươi không đủ khả năng gánh vác công tác này. Việc có lý duy nhất mà ngươi nên làm là tự nhận lỗi và từ chức.

Biểu hiện và kết cục của ba loại người tin vào Đức Chúa Trời

I. Loại người đem sức lực phục vụ

Các lãnh đạo và người làm công có 15 chức trách tổng cộng và chúng ta đã thông công đến chức trách thứ 14. Các vấn đề mà lãnh đạo và người làm công cần giải quyết trong hội thánh, cũng như vấn đề của các loại người liên quan đến những vấn đề này, đã được thông công khoảng 80 đến 90 phần trăm. Đây đều là những công tác mà lãnh đạo và người làm công cần thực hiện và vấn đề mà họ cần giải quyết. Có nhiều vấn đề liên quan ở đây, một mặt là liên quan đến chức trách mà các lãnh đạo và người làm công cần thực hiện, mặt còn lại liên quan đến những vấn đề khác nhau của các loại người trong hội thánh. Mặc dù chủ đề thông công của chúng ta trong khoảng thời gian này là chức trách của lãnh đạo và người làm công và việc vạch rõ các lãnh đạo giả, nhưng chúng ta cũng đã thông công rất nhiều về vấn đề – cũng như tình trạng và thực chất – của các loại người liên quan đến chủ đề này. Tất nhiên, nội dung cụ thể này có tác dụng khác nhau đối với các loại người đi theo Đức Chúa Trời trong hội thánh. Trong số đó, có một loại người mà kể cả sau khi nghe tất cả những nội dung thông công này cũng vẫn giữ thái độ: “Tôi có nhân tính tốt, tôi chân thành tin vào Đức Chúa Trời, tôi sẵn lòng từ bỏ mọi thứ vì tin vào Đức Chúa Trời, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để thực hiện bổn phận của mình”. Họ không quan tâm đến những tình trạng khác nhau của các loại người, lẽ thật liên quan đến những tình trạng khác nhau, hay nguyên tắc lẽ thật mà mọi người cần hiểu –những điều đã được thông công trong khoảng thời gian này. Đây chẳng phải là một loại người sao? Có phải loại người này không tiêu biểu cho lắm không? (Thưa, phải.) Loại người này luôn giữ một quan điểm nhất định. Quan điểm này chủ yếu bao gồm những gì? Đó là ba điểm Ta vừa đề cập: Thứ nhất, họ tin rằng nhân tính của họ không xấu, thậm chí có thể nói là tốt. Thứ hai, họ nghĩ rằng họ chân thành tin vào Đức Chúa Trời, tức là họ thực sự tin rằng Đức Chúa Trời tồn tại và tể trị mọi thứ, rằng vận mệnh con người là do Đức Chúa Trời quản lý, do Đức Chúa Trời tể trị. Đây là cách giải thích cho cụm “chân thành tin vào Đức Chúa Trời” theo nghĩa rộng. Thứ ba, họ tin rằng vì tin vào Đức Chúa Trời mà họ có thể từ bỏ mọi thứ cũng như chịu khổ và trả giá để thực hiện bổn phận của mình. Có thể nói rằng ba điểm này là những điều cơ bản, chủ yếu và mấu chốt nhất mà những người này bám víu khi tin vào Đức Chúa Trời. Tất nhiên, cũng có thể nói rằng đây là vốn liếng của họ khi tin vào Đức Chúa Trời, cũng như mục tiêu họ theo đuổi và động lực, phương hướng hành động của họ. Họ tin rằng nếu có đủ ba điểm này thì họ sẽ đáp ứng ba điều kiện cơ bản để được cứu rỗi, giúp họ trở thành người được Đức Chúa Trời yêu thương và chấp thuận. Đây là một sai lầm lớn. Có đủ ba điểm này mới chỉ cho thấy một chút nhân tính mà thôi. Liệu một người mới chỉ có một chút nhân tính có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi hay không? Tuyệt đối không. Đức Chúa Trời sẽ khen ngợi những người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Ba điểm này vẫn chưa đạt tiêu chuẩn về thực tế lẽ thật mà chỉ là ba tiêu chuẩn dành cho người đem sức lực phục vụ. Ở phần dưới, Ta sẽ thông công chi tiết ba điểm này để các ngươi hiểu rõ. Điểm đầu tiên là có nhân tính tốt. Họ tin rằng chỉ cần không làm việc ác, không làm gián đoạn và gây nhiễu loạn, cũng như không làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời là đủ, và rằng như vậy có nghĩa là họ có thể thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời và hành động theo nguyên tắc. Điểm thứ hai là “chân thành tin vào Đức Chúa Trời”. Với họ, cái mà họ gọi là “chân thành tin vào Đức Chúa Trời” có nghĩa là không bao giờ hoài nghi sự tồn tại của Đức Chúa Trời hay sự thật rằng Ngài tể trị vạn vật, và tin rằng vận mệnh của con người nằm trong tay Đức Chúa Trời – điều mà họ nghĩ rằng sẽ giúp họ đi theo Đức Chúa Trời đến cùng. Họ tin rằng chỉ cần chân thành tin vào Đức Chúa Trời thì họ sẽ được Ngài khen ngợi. Vì vậy, bất kể Đức Chúa Trời lãnh đạo hay làm như thế nào, hay họ gặp vấn đề gì, họ đều nói: “Chỉ cần yêu Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời, thuận phục Đức Chúa Trời”. Phương pháp giải quyết vấn đề của họ quá đơn giản. Liệu những lời chung chung này có thể giải quyết được vấn đề gì không? Điểm thứ ba là họ có thể từ bỏ mọi thứ vì tin vào Đức Chúa Trời, cũng như có thể chịu khổ và trả giá để thực hiện bổn phận của mình. Họ đưa điều này vào thực hành như thế nào? Bởi vì họ chân thành tin vào Đức Chúa Trời nên khi công tác của hội thánh cần đến hoặc khi họ cảm nhận được tâm ý cấp thiết của Đức Chúa Trời, họ có thể chủ động từ bỏ gia đình, hôn nhân, nghề nghiệp, buông bỏ tiền đồ thực tế, đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình mà không chút do dự và không bao giờ hối hận. Bất kể nhà Đức Chúa Trời sắp xếp bổn phận gì cho họ, họ cũng có thể chịu khổ và trả giá, ngay cả khi điều đó có nghĩa là họ phải ăn ít đi và ngủ ít đi. Bất kể điều kiện sống có gian khổ đến đâu, hay thậm chí ở một số hoàn cảnh khắc nghiệt, họ vẫn có thể kiên trì thực hiện bổn phận. Ngoài ba điểm này, việc thực hành tất cả các phương diện khác liên quan đến lẽ thật dường như không liên quan đến họ. Họ làm bất cứ điều gì mà họ cảm thấy tốt hoặc đúng. Còn về các nguyên tắc thực hành mà Đức Chúa Trời đã phán với con người, cũng như tình trạng, biểu hiện và thực chất của các kiểu tâm tính bại hoại của con người mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ, thì họ nghĩ rằng biết một chút hoặc không biết gì cũng được. Họ cảm thấy không cần phải quá cụ thể và tỉ mỉ trong việc tìm kiếm các nguyên tắc để kiểm điểm sự bại hoại và bù đắp khuyết điểm của bản thân, không cần phải thường xuyên tham gia các buổi nhóm họp để nghe người khác thông công về các lời chứng trải nghiệm, rồi sau đó đạt được sự thay đổi bản thân, v.v. Họ cảm thấy tin vào Đức Chúa Trời theo cách này quá phiền phức và không cần thiết. Họ đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình với sự hiểu biết nông cạn về việc tin vào Đức Chúa Trời và thay đổi trong tâm tính, cùng các quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời. Chẳng phải loại người này rất tiêu biểu sao? (Thưa, phải.) Họ có một yêu cầu cơ bản nhất đối với bản thân và một thái độ cơ bản nhất đối với việc tin vào Đức Chúa Trời. Ngoài ra, họ còn phớt lờ lẽ thật, sự phán xét và vạch rõ của Đức Chúa Trời, việc bị tỉa sửa, cũng như các tâm tính bại hoại và tình trạng, biểu hiện của con người, v.v. Họ không bao giờ suy nghĩ hay nghiền ngẫm về những vấn đề này. Tức là, những người này tự cho mình là có nhân tính tốt, là người tốt, và chân thành tin vào Đức Chúa Trời. Mặc dù thừa nhận rằng con người có tâm tính bại hoại, nhưng họ không để ý và hoàn toàn không nghiên cứu kỹ về tình trạng và biểu hiện cụ thể của các tâm tính bại hoại của con người mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ. Đây chẳng phải là một loại người sao? Chẳng phải quan điểm và biểu hiện cụ thể của loại người này trong việc tin vào Đức Chúa Trời rất tiêu biểu sao? (Thưa, phải.) Vậy xét theo quan điểm của những người này về việc tin vào Đức Chúa Trời, sự hiểu biết của họ về việc được cứu rỗi, và thái độ của họ đối với lời Đức Chúa Trời vạch rõ các tâm tính bại hoại của con người, thì họ nên được xếp vào thể loại nào? (Thưa, đó là loại người tin vào Đức Chúa Trời một cách hồ đồ, không mưu cầu lẽ thật.) Đây chỉ là bề ngoài. Rốt cuộc thì những người này nên được phân chia như thế nào? Trong hội thánh có nhiều người như vậy không? (Thưa, có.) Cứ khi nào người khác nói về các vấn đề cụ thể và thông công về lẽ thật tương ứng là họ lại bắt đầu thấy buồn ngủ, ngủ gật hoặc mơ mơ màng màng, không có hứng thú. Nếu được sắp xếp bất cứ công tác hoặc công việc nào, họ sẽ xắn tay áo lên và bắt tay vào làm, không sợ khổ hay mệt. Họ nghĩ rằng nếu tin vào Đức Chúa Trời cũng giống như làm loại công việc này thì thật tốt, khi đó họ sẽ có nhiệt huyết. Khi cần chịu khổ, trả giá và ra sức làm việc, họ thể hiện sự nghiêm túc thực sự. Nhưng liệu sự nghiêm túc và nhiệt huyết thực sự này có phải là trung thành không? Đó có phải là biểu hiện mà một người cần có sau khi hiểu được các nguyên tắc lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Thông qua mối thông công của Ta, các ngươi có thấy được loại người này nên được phân chia vào thể loại nào không? (Thưa, đó là người đem sức lực phục vụ.) Đúng vậy. Những người như vậy là người đem sức lực phục vụ, và đây là cách người đem sức lực phục vụ tin vào Đức Chúa Trời.

Chúng ta đã bắt đầu bằng việc thông công về thực chất bản tính và các biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, cũng như các biểu hiện của những người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ nhưng thật ra không phải là kẻ địch lại Đấng Christ. Đến nay, chúng ta đang thông công về biểu hiện của các loại người có liên quan đến chức trách của lãnh đạo và người làm công. Mặc dù chủ đề thông công là về kẻ địch lại Đấng Christ và lãnh đạo giả, nhưng vấn đề và biểu hiện cụ thể mà từng mục đề cập đều liên quan đến tâm tính bại hoại của nhân loại bại hoại, cũng như các tình trạng và biểu hiện nảy sinh dưới sự chi phối của tâm tính bại hoại. Mặc dù lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ chỉ là thiểu số, nhưng tâm tính của lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ, cũng như các tình trạng và biểu hiện của họ, đều tồn tại ở mỗi người ở mức độ khác nhau. Hiện tại khi những vấn đề này đã được thông công cụ thể như vậy, những người mưu cầu lẽ thật tiếp theo đây sẽ có thêm con đường và phương hướng, cùng mục tiêu rõ ràng hơn, để mưu cầu lẽ thật, thực hành lẽ thật, hiểu nguyên tắc lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Đây là chuyện tốt cho họ và là điều đáng mừng. Nói cách khác, họ đang bắt đầu một cột mốc mới trong việc tin vào Đức Chúa Trời. Họ không còn sống theo quy định, nghi thức tôn giáo, hay sống theo câu chữ và đạo lý cũng như khẩu lệnh. Thay vào đó, họ có phương hướng và mục tiêu cụ thể hơn để thực hành, và tất nhiên là cả nguyên tắc thực hành cụ thể hơn. Cách thực hành trong những tình huống nhất định, những nguyên tắc lẽ thật nào có liên quan, hay mọi người có những tình trạng và sự bại hoại nào và cách xử lý, cũng như cách mưu cầu lẽ thật để giải quyết chúng – hai chủ đề thông công chính về kẻ địch lại Đấng Christ và lãnh đạo giả chủ yếu đề cập đến những nội dung này. Đối với những người mưu cầu lẽ thật, lẽ thật được thông công càng cụ thể thì họ càng có thêm con đường để thực hành. Lẽ thật được thông công càng cụ thể, thì tâm trí họ càng sáng tỏ và rõ ràng, họ càng nhận thức và hiểu rõ về bản thân, đồng thời càng biết rõ tiếp theo mình nên bước vào việc gì và giải quyết vấn đề gì. Với loại người mà chúng ta vừa nhắc đến là người đem sức lực phục vụ, sau khi chúng ta thông công rất nhiều về các tình trạng nảy sinh từ tâm tính bại hoại của nhân loại và các vấn đề về sự bại hoại cần phải giải quyết, họ vẫn không lay chuyển. Vẫn không lay chuyển có nghĩa là sao? Tức là họ vẫn không thấy rõ và không thể hiểu thấu việc mưu cầu lẽ thật và con đường cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã phán. Nghiêm trọng hơn, sau khi chúng ta thông công về rất nhiều biểu hiện và vấn đề thực chất, họ vẫn nghĩ: “Tôi có nhân tính tốt, tôi chân thành tin vào Đức Chúa Trời, tôi sẵn lòng từ bỏ mọi thứ vì tin vào Đức Chúa Trời, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để thực hiện bổn phận của mình. Vậy là đủ rồi”. Khi gặp chuyện, họ không kiểm điểm bản thân hay đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, mà lại cố gắng giải quyết vấn đề chỉ dựa vào lòng tốt con người của bản thân hoặc chút lương tâm và lý trí mà họ có. Tất nhiên, có một số người dựa vào sự khắc chế và nhẫn nại mà chịu đựng hết lần này đến lần khác, trong khi một số người khác lại dựa vào triết lý xử thế, biến chuyện lớn thành chuyện nhỏ, rồi biến chuyện nhỏ thành không có. Mục tiêu mà họ theo đuổi là: “Đến ngày công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, chỉ cần tôi vẫn thực hiện bổn phận của mình trong hội thánh và không bị thanh trừ là đủ rồi. Tôi có nhận thức thực sự về bản thân hay không, tâm tính bại hoại của tôi có được giải quyết hay không, tôi có thực sự thuận phục Đức Chúa Trời hay không, tôi có phải là người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không – đó đều là những chuyện nhỏ, không đáng nhắc đến. Anh suốt ngày chuyện bé xé ra to và thông công về lẽ thật một cách chi tiết như vậy, đưa cả những vấn đề nhỏ nhất ra thông công không ngừng và luôn bảo chúng tôi phân định. Tôi chỉ không muốn nghe những lời thông công về lẽ thật này. Tôi không có chút hứng thú nào cả. Khi ngày của Đức Chúa Trời đến, nếu chúng ta có thể tiến thẳng vào vương quốc thì thật tuyệt biết bao!”. Mặc dù sự nhẫn nại của mọi người đều có hạn, nhưng sự nhẫn nại của loại người này lại là vô hạn. Tại sao? Bởi vì họ tin rằng họ có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, vì tin vào Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để thực hiện bổn phận của mình. Khi có bất cứ chuyện gì xảy ra, họ đều có biện pháp giải quyết riêng, cho đến cuối cùng họ vẫn có thể kiên trì thực hiện bổn phận và đứng vững. Nhưng dù họ có kiên trì thực hiện bổn phận của mình như thế nào, dựa vào đâu để kiên trì đến cùng và dù động lực của họ là gì, thì có một điều chắc chắn: Họ không thực sự thuận phục Đức Chúa Trời và chưa bao giờ nhận thức được tâm tính bại hoại của bản thân. Nói chính xác hơn, những người này không thừa nhận rằng họ có sự bại hoại, không thừa nhận các tình trạng và vấn đề nảy sinh từ tâm tính bại hoại của con người mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ. Ngay cả khi thỉnh thoảng họ tự đối chiếu bản thân với các tình trạng và vấn đề này thì họ cũng dùng cách xử lý lạnh. Họ nói: “Chúng ta đều bại hoại như nhau. Thực chất bản tính của chúng ta đều là thực chất bản tính của ma quỷ và Sa-tan. Chúng ta đều là kẻ thù của Đức Chúa Trời. Đây là sự thật mà không ai có thể thay đổi. Nhưng miễn là chúng ta kiên trì thực hiện bổn phận, Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ khen ngợi. Và những ai kiên trì đến cùng sẽ là người chiến thắng”. Xét theo quan điểm của họ, niềm tin vào Đức Chúa Trời của họ rất mãnh liệt, nhưng khi cần chia sẻ lời chứng trải nghiệm, họ lại im lặng, không nói nổi một lời. Khi đến lúc thông công về lẽ thật tại các buổi nhóm họp, họ lại cảm thấy buồn ngủ, nghe không lọt tai. Nếu ngươi hỏi họ: “Anh trải nghiệm lời Đức Chúa Trời như thế nào khi thực hiện bổn phận của mình mỗi ngày?”. Họ sẽ trả lời: “Hội thánh sắp xếp cho tôi làm gì thì tôi sẽ làm đó. Liệu việc này có đòi hỏi phải trải nghiệm không?”. Hình như họ không hiểu. Nếu ngươi lại hỏi họ: “Anh có bộc lộ sự bại hoại nào không? Anh làm sao để nhận thức được bản thân?”. Họ sẽ nói: “Tôi chỉ thuận phục Đức Chúa Trời và yêu Đức Chúa Trời thì có vấn đề gì được chứ?”. Suy nghĩ của họ đơn giản vậy đấy. Đây là cách nhìn của họ: “Tin vào Đức Chúa Trời nên là như thế này. Làm gì có lắm vấn đề vụn vặt như vậy? Các anh đang quá phức tạp hóa vấn đề!”. Vì vậy, khi thực hiện bổn phận và làm việc, họ không bao giờ mưu cầu nguyên tắc lẽ thật mà chỉ dựa vào lòng tốt và nhiệt huyết. Nói đúng hơn, họ hành động dưới sự chi phối của lương tâm và lý trí. Họ nghĩ: “Tôi đã chịu khổ và trả giá nhiều lắm rồi. Tôi đã thực hành lẽ thật và làm hài lòng Đức Chúa Trời nhiều lắm rồi. Đừng đòi hỏi ở tôi thêm nữa. Tôi như bây giờ đã là rất tốt rồi. Tôi là người tốt và chân thành tin vào Đức Chúa Trời”. Tất nhiên, cũng có lúc những người này không thể không phát tiết ra, và đó là lúc bộ mặt thực sự của họ bộc lộ. Họ có thể nói ra nhiều câu chữ và đạo lý nhưng lại không có vóc giạc thực sự. Nói cách khác, họ không có sự sống. Không có sự sống cụ thể đề cập đến điều gì? (Thưa, họ không có lẽ thật.) Làm sao mà họ lại không có lẽ thật? (Thưa, họ không yêu lẽ thật và cũng không mưu cầu lẽ thật.) Thậm chí chưa thể nói đến việc họ có yêu lẽ thật hay không, mà nói chính xác hơn là họ không tiếp nhận lẽ thật. Có thể một số người sẽ nói: “Làm sao Ngài có thể nói rằng họ không tiếp nhận lẽ thật? Họ đã chịu khổ và trả giá rất nhiều để thực hiện bổn phận, mỗi ngày đều tất bật đi sớm về tối, làm sao Ngài có thể nói rằng họ không có lẽ thật?”. Nói như vậy có phải là oan uổng cho họ không? Nhưng nếu ngươi nhìn lại những người này, đằng sau nỗi khổ và cái giá họ phải trả, liệu mọi việc họ làm có nằm trong phạm vi nguyên tắc lẽ thật không? Họ có mưu cầu lẽ thật trong mọi việc họ làm không? Họ có đến trước mặt Đức Chúa Trời với lòng kính sợ Đức Chúa Trời và làm mọi việc theo lời Đức Chúa Trời cũng như các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu không? Không hề. Tất cả đều là cách làm của con người, là sự khắc chế của con người. Biểu hiện chính cho thấy họ không tiếp nhận lẽ thật là gì? Đó là, trước khi làm một việc gì đó, họ không bao giờ chủ động mưu cầu lẽ thật hay nghiêm túc nghiền ngẫm xem nguyên tắc lẽ thật là gì và sau đó thực hành nghiêm ngặt dựa theo lời Đức Chúa Trời. Họ có những tư tưởng và thái độ như vậy không? Họ có thái độ thế nào đối với các biểu hiện cho thấy tâm tính bại hoại của con người mà Đức Chúa Trời đã vạch trần? Họ có tiếp nhận những lời này không? Họ có thừa nhận rằng những lời này là sự thật không? Họ có thừa nhận rằng những biểu hiện cụ thể này bộc lộ sự bại hoại không? Có thể họ sẽ gật đầu hoặc thừa nhận một cách hình thức, nhưng trong lòng lại không tiếp nhận, không để ý. Không để ý có nghĩa là sao? Nói một cách cụ thể, không để ý có nghĩa là không tiếp nhận, không có thái độ rõ ràng và không có sự đối lập hay phản kháng rõ ràng, mà lại có thái độ xử lý lạnh đối với những lời mà Đức Chúa Trời phán. Cách nói “xử lý lạnh” có phần trừu tượng. Nói một cách cụ thể, họ nghĩ rằng: “Ngài nói mọi người kiêu căng và giả dối, nhưng có ai lại không giả dối chứ? Ai mà không có chút hẹp hòi chứ? Ai mà không thể hiện chút kiêu căng hoặc ngạo mạn chứ? Có gì to tát đâu? Chỉ cần có thể chịu khổ và trả giá là xong việc”. Đây chẳng phải là thái độ và biểu hiện cụ thể cho thấy họ không tiếp nhận sao? (Thưa, phải.) Đây chính là không tiếp nhận lẽ thật. Thái độ của họ đối với những lời phán xét và vạch rõ của Đức Chúa Trời là không để ý và không tiếp nhận. Vậy thì khi anh chị em đánh giá và nhắc nhở họ, thậm chí chỉ điểm và giúp đỡ họ về tâm tính bại hoại của họ, liệu họ có thể tiếp nhận không? (Thưa, họ không thể.) Vậy thì các ngươi hãy nói xem biểu hiện cụ thể của họ là gì? Tại sao họ không thể tiếp nhận? Đâu là bằng chứng để ngươi nói như vậy? Ví dụ, khi ngươi nói với họ: “Anh không thể thực hiện bổn phận một cách cẩu thả như vậy được. Như vậy là qua loa chiếu lệ”, thì biểu hiện nào của họ chứng thực rằng họ không tiếp nhận lẽ thật? (Thưa, họ sẽ nói rằng: “Tôi đã tận tâm rồi. Tôi đã chịu khổ và trả giá. Làm sao anh có thể nói rằng tôi qua loa chiếu lệ?”.) Đây là họ đang bào chữa cho bản thân. Liệu họ có lúc nào kiếm cớ không? Ngay cả khi trong lòng họ đã thừa nhận, họ vẫn nghĩ: “Mình qua loa chiếu lệ, thế thì sao? Ai mà chẳng có những ngày tâm tình tồi tệ? Ai mà chẳng có hỷ nộ ái ố bình thường? Nhưng mình không thể thừa nhận rằng mình qua loa chiếu lệ. Mình cần tìm một cái cớ để che đậy. Mình không thể mất mặt được”. Vì vậy, họ tìm nhiều cái cớ và lý do để ngụy biện cho mình, không thừa nhận sự thật rằng họ qua loa chiếu lệ, không thừa nhận rằng mình có vấn đề trong phương diện này, và cũng không tiếp nhận sự chỉ điểm của người khác. Đây là biểu hiện cụ thể cho thấy họ không tiếp nhận lẽ thật. Khi không có chuyện gì, họ tự cho mình là “người tốt, người chân thành tin vào Đức Chúa Trời”. Còn khi có chuyện xảy ra, mặc dù họ không thể dùng điều này làm lá chắn nữa, họ vẫn tìm đủ lý do để bào chữa và biện giải cho bản thân, lấp liếm cho qua vấn đề, chấm dứt vấn đề, rồi sau đó lại tự cho mình là “người tốt, có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ, cũng như có thể chịu khổ và trả giá để thực hiện bổn phận của mình”. Nói một cách chính xác, biểu hiện và thực chất của loại người này là của người đem sức lực phục vụ. Nhóm người này chiếm tỉ lệ lớn trong hội thánh. Bất kể chiếm tỉ lệ lớn thế nào thì sau cùng, nếu những người này thực sự có thể chịu khổ và trả giá, có thể nhẫn nại và kiên trì đến cùng mà không phạm phải bất cứ tội lỗi lớn nào, không vi phạm các sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời hay xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, thì họ chính là những người đem sức lực phục vụ trung thành, những người đem sức lực phục vụ có thể tồn tại. Đây là một phúc lành lớn lao! Họ không mưu cầu lẽ thật, không tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, không làm chứng cho Đức Chúa Trời, hay làm chứng cho lời Đức Chúa Trời và công tác của Ngài nên nhận được phúc lành này là tốt lắm rồi. Một người không mưu cầu lẽ thật thì còn muốn gì nữa? Là một người đem sức lực phục vụ trung thành đã là không tệ rồi. Một số người nói: “Liệu những người này có thể trở thành dân của Đức Chúa Trời không?”. Có thể. Khả năng duy nhất là nếu những người này, trên cơ sở có thể từ bỏ và chịu khổ, có thể tiếp nhận lẽ thật, thừa nhận cũng như đối mặt một cách đúng đắn với sự bại hoại của bản thân, rồi sau đó mưu cầu lẽ thật để giải quyết, không hành động dựa vào lòng tốt hay sự khắc chế, nhẫn nại và kiên trì của con người mà thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, thì đến cuối cùng tâm tính của họ sẽ có thể có một số thay đổi và họ sẽ có một chút khả năng trở thành dân của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu việc làm và hành vi của họ không liên quan gì đến sự thay đổi trong tâm tính, không liên quan gì đến việc tiếp nhận lẽ thật và được cứu rỗi, thì khả năng họ trở thành dân của Đức Chúa Trời sẽ là con số không. Đây là sự thật. Nguyên tắc đối xử với những người đem sức lực phục vụ trung thành là gì? Đó là nỗ lực hết sức để giúp những người này trở nên tỉnh táo. Mục đích của việc giúp họ trở nên tỉnh táo là gì? Đó là để họ ngừng mơ mộng. Có thể một số người sẽ hỏi: ““Mơ mộng” có nghĩa là gì?”. Đó là khi họ tự cho mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá”, sau đó mong được Đức Chúa Trời cứu rỗi – đây là điều không thể. Chúng ta nhất định phải khiến họ hiểu rõ quan điểm cho rằng “có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá có thể giúp một người được Đức Chúa Trời cứu rỗi” là sai lầm và ngu xuẩn. Chúng ta nhất định phải khiến họ hiểu rõ rằng việc có những điểm này không có nghĩa là người ta đã từ bỏ tâm tính bại hoại của mình, có một số hành vi tốt cũng không có nghĩa là người ta có thể được cứu rỗi, chứ đừng nói là đạt được lẽ thật, và rằng quan điểm của họ là sai lầm, hoang đường, lạc quẻ và không phù hợp với lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ. Đối với những người ngoan cố bám víu vào các quan niệm tôn giáo như vậy, chúng ta cần giúp đỡ họ. Hãy đọc lời Đức Chúa Trời và thông công về lẽ thật cho họ. Nếu họ vẫn không thể tiếp nhận lẽ thật, và bất kể ngươi thông công về lẽ thật như thế nào, họ vẫn không thông suốt và không có ý mưu cầu, thì không cần phải miễn cưỡng họ. Họ chỉ có thể làm người đem sức lực phục vụ đến cuối cùng.

II. Dân của Đức Chúa Trời

Sau khi thông công các biểu hiện của người đem sức lực phục vụ trung thành, hãy nói về các biểu hiện của một loại người khác. Sau khi những người này nghe những lời vạch rõ và phán xét khác nhau của Đức Chúa Trời về tâm tính bại hoại của tất cả các loại người, ngược lại, họ suy nghĩ nhiều hơn về những lần bộc lộ khác nhau trước đây về tâm tính bại hoại của mình cũng như các thái độ khác nhau đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật nảy sinh dưới sự chi phối của tâm tính bại hoại của họ – họ bắt đầu phản tỉnh và nhận biết các biểu hiện khác nhau của bản thân, đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, kiểm điểm thái độ đối với bổn phận của họ, kiểm điểm những sự bại hoại khác nhau mà họ bộc lộ khi thực hiện bổn phận và giữa những người, sự việc và sự vật khác nhau do Đức Chúa Trời sắp đặt. Họ kiểm điểm và nhận biết chính mình từng chút một đồng thời cố gắng tiếp nhận sự phán xét, vạch rõ, và sửa dạy của Đức Chúa Trời. Những người này tốt hơn người đem sức lực phục vụ ở điểm nào? Họ có thể chủ động và tích cực tiếp nhận lẽ thật, lời Đức Chúa Trời, và mọi tâm tính bại hoại mà Đức Chúa Trời vạch rõ. Mặc dù đôi khi họ tiêu cực, trốn tránh, hoặc thậm chí muốn bỏ cuộc, nhưng dù thế nào đi nữa, họ vẫn có động lực để tiếp nhận lẽ thật. Động lực này là gì? Chính là: “Lời Đức Chúa Trời có thể thay đổi con người. Chỉ cần con người tiếp nhận lẽ thật, thì tất cả những vấn đề và tâm tính bại hoại này đều có thể giải quyết được, và khi đó con người có thể được cứu rỗi. Nếu muốn được cứu rỗi, mình phải phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời và tiếp nhận lẽ thật”. Ví dụ, sau khi nghe lẽ thật về việc trở thành người trung thực, một số người bắt đầu tự phản tỉnh, thấy rõ hơn sự xảo quyệt và lừa gạt mà họ thực hiện, cũng như bộ mặt nham hiểm và tà ác của họ. Họ nhớ lại những lời nói dối và cách thức lừa gạt trước đây vẫn còn đọng lại trong lòng hoặc trong ấn tượng của họ, lặp đi lặp lại trong tâm trí họ như cảnh trong một bộ phim, khiến họ cảm thấy càng xấu hổ, đau khổ, và buồn bã. Sau khi liên tục tự kiểm điểm và tự phản tỉnh, họ cảm thấy mình như tội phạm, ngay lập tức ngã quỵ và không thể đứng dậy, cảm thấy bản thân không phải là người tốt mà là kẻ ác, và nghĩ rằng thật may mắn khi họ không trực tiếp chống lại Đức Chúa Trời, may mắn đã thoát nạn! Sau đó, họ bắt đầu giác ngộ, không cam tâm làm kẻ thất bại như vậy, và quyết tâm: “Mình phải bắt đầu lại và trở thành người trung thực, nếu không thì mình sẽ không thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Để được cứu rỗi, mình phải là người trung thực. Bây giờ, mình tuyệt đối không được bỏ cuộc!”. Bất kể những người này tiếp nhận lẽ thật sớm hay muộn, họ đón nhận lời Đức Chúa Trời sâu sắc hay nông cạn, thì thái độ của họ đối với lời Đức Chúa Trời không phải là kinh thường, càng không phải là phản cảm hay chống đối. Thay vào đó, họ chủ động thừa nhận và tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, sau đó họ luôn sẵn sàng đưa vào thực hành. Khi hành động hoặc thực hiện bổn phận của mình, họ cố gắng hết sức để tìm kiếm các nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời và sau đó hành động một cách có ý thức theo những nguyên tắc này. Ngay cả khi họ không thể tìm thấy nguyên tắc cụ thể hoặc không thể nắm bắt phương hướng, thì ý định của họ là thực hiện tốt bổn phận của mình, phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời và theo nguyên tắc lẽ thật. Nhân tính của những người này và của người đem sức lực phục vụ phần lớn là giống nhau; không có sự phân biệt cao thấp, hay sang hèn. Tất nhiên, cũng có nhiều người trong số này tự coi mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, vì tin vào Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để thực hiện bổn phận của mình”. Nhưng sự khác biệt giữa những người này và người đem sức lực phục vụ là gì? Sau khi họ nghe những lời vạch rõ và phán xét của Đức Chúa Trời về con người, thái độ của họ không phải là bàng quan, trốn tránh, mà là chủ động và chăm chú tiếp nhận. Ngay cả khi họ cảm thấy buồn bã và chán nản sau khi nghe những lời này, thậm chí bày tỏ sự tức giận đối với sự bại hoại được bộc lộ của chính mình, thì cuối cùng, họ vẫn có thể đối mặt một cách đúng đắn, tiếp nhận một cách tích cực cũng như chủ động thực hành và bước vào chúng. Chẳng phải đây cũng là một loại người sao? (Thưa, phải.) Chẳng phải những người này có tính đại diện nhất định sao? (Thưa, phải.) Có nhiều người như vậy không? (Thưa, không nhiều.) Mặc dù hiện tại chưa có nhiều nhưng hy vọng sẽ ngày càng có nhiều hơn. Vậy, những người này nên được phân loại vào loại nào? Những biểu hiện cụ thể này có thể chỉ ra rằng những người này yêu mến lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, có.) Có thể. Mặc dù một số người có năng lực đón nhận kém tiếp nhận lẽ thật chậm hơn, nhưng sâu trong lòng, họ tiếp nhận lẽ thật và có tâm thái tích cực khi bước vào lẽ thật. Bất cứ khi nào có người thông công về ánh sáng mới hoặc con đường phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, thì mắt họ sáng lên, lòng họ được thông suốt, và họ cảm thấy vui vẻ, nghĩ rằng: “Cuối cùng đã có người thông công ánh sáng này. Đây là những gì mình còn thiếu”. Họ luôn có thể nắm bắt những gì mình còn thiếu, luôn đạt được ánh sáng và sự khai sáng mà họ rất cần và còn thiếu, cũng như luôn tìm thấy nguyên tắc lẽ thật mà họ cần từ nhận biết về trải nghiệm chân thực mà anh chị em thông công. Xét từ những biểu hiện cụ thể này, trong lòng họ có khát khao lẽ thật không? (Thưa, có.) Nếu chúng ta nói rằng những người này yêu mến lẽ thật thì cách nói này có phần không quá khách quan hoặc không chính xác. Tuy nhiên, xét từ những biểu hiện cụ thể này, những người này đang khao khát lẽ thật. Sự khao khát này đến từ đâu? Chính là từ hy vọng giải quyết tâm tính bại hoại của họ, hy vọng giải quyết nhiều vấn đề và khó khăn khác nhau mà họ gặp phải trong lối vào sự sống, hy vọng tiến bộ trong lẽ thật, có thể tiến sâu hơn, cũng như hy vọng có thể thực sự hành động theo nguyên tắc, có con đường để thực hành, nhận biết chính xác hơn từ sự bộc lộ trong tâm tính bại hoại của bản thân xem thực chất tâm tính bại hoại của họ là gì, cách giải quyết và loại bỏ ra sao. Mặc dù những người này thường sống trong tâm tính bại hoại như tranh giành địa vị, khăng khăng làm theo ý mình, tự cho mình là đúng, kiêu căng, giả dối, hoặc thậm chí cương ngạnh, nhưng qua việc liên tục ăn uống lời Đức Chúa Trời và trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, họ sẽ dần dần kiểm điểm và xác định những vấn đề rõ ràng này. Sau đó, họ có thể nhận biết những thứ này là vấn đề, là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại, là không phù hợp với lẽ thật và bị Đức Chúa Trời ghét bỏ. Sau khi thấy được tâm tính bại hoại của bản thân, họ càng khao khát loại bỏ và giải quyết những tâm tính bại hoại này. Đây là một trong những nguồn gốc của sự khao khát của họ về lẽ thật. Nói cách khác, họ có nhu cầu giải quyết tâm tính bại hoại của mình, có tâm lý cấp thiết loại bỏ tâm tính bại hoại. Đồng thời, sau khi phát hiện những tình hình, vấn đề, và khó khăn khác nhau mà tâm tính bại hoại của họ bộc lộ, họ càng muốn hiểu những lời và yêu cầu chính xác của Đức Chúa Trời về những vấn đề này là gì, cũng như lẽ thật hoặc lời nào của Đức Chúa Trời có thể giải quyết chúng. Đây là những biểu hiện và nguồn gốc cụ thể của sự khao khát của họ về lẽ thật. Nói như vậy có khách quan không? (Thưa, có.) Không thể nói rằng những người này yêu mến lẽ thật. Nếu yêu mến lẽ thật, họ sẽ rất chủ động, và các biểu hiện khác nhau của họ sẽ tích cực hơn. Tuy nhiên, xét theo các biểu hiện khác nhau và vóc giạc thực tế của những người này, họ chưa đạt đến mức yêu mến lẽ thật mà chỉ khát khao lẽ thật. Nói như vậy đã khá khách quan rồi. Vậy, khi nhìn vào các biểu hiện khác nhau của những người này, họ nên được xếp vào loại nào? Nói một cách chính xác, những người này thuộc về loại dân của Đức Chúa Trời. Nói như vậy là có căn cứ. Căn cứ là gì? Tâm tính bại hoại của những người này giống như của những người khác. Xét về nhân tính, không thể nói họ có nhân tính tốt, cũng không thể nói họ hoàn hảo trong mắt Đức Chúa Trời; hầu hết họ đều có nhân tính trung bình. “Trung bình” có nghĩa là gì? Nghĩa là có một mức độ lương tâm và lý trí nhất định. Nhưng đây không phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất là gì? Chính là sau khi họ nghe lời Đức Chúa Trời và các yêu cầu của Đức Chúa Trời, cũng như nghe về tâm tính bại hoại của tất cả loại người mà lời Đức Chúa Trời vạch rõ, họ không còn thờ ơ mà được thúc đẩy và sẽ hành động. Hành động có nghĩa là gì? Nghĩa là, sau khi nghe lời Đức Chúa Trời và những lẽ thật này, họ không cam lòng sống trong tâm tính bại hoại của mình nữa và không cam lòng tiếp tục cách sống trước đây nữa. Thay vào đó, họ nỗ lực thay đổi những tư tưởng, quan điểm và cách sinh tồn và lối sống mà trước đây họ đã dựa vào. Đồng thời, họ chủ động tìm kiếm lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận của mình và trong những môi trường khác nhau mà Đức Chúa Trời sắp đặt, lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ và nguyên tắc thực hành, thay vì tuỳ ý và bừa phứa. Xét từ nhân tính, tố chất của những người này, cũng như thái độ và quan điểm của họ đối với lời Đức Chúa Trời, công tác của Đức Chúa Trời, và yêu cầu của Đức Chúa Trời, v.v. họ chính xác là những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Họ có nhiều hy vọng loại bỏ tâm tính bại hoại và được cứu rỗi hơn những người đem sức lực phục vụ. Chỉ những người tiếp nhận lẽ thật và có thể loại bỏ tâm tính bại hoại của bản thân để được cứu rỗi thì mới được coi là dân của Đức Chúa Trời. Định nghĩa này chẳng phải rất thích hợp sao? (Thưa, phải.) Định nghĩa này là thích hợp nhất. Được cứu rỗi không phải chỉ là đóng góp đôi chút và trả giá đôi chút để được ở lại là xong. Trạng thái của những người có thể được cứu rỗi là gì? Đó là trạng thái mà, thông qua việc tiếp nhận và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời và công tác của Ngài, tâm tính bại hoại của họ được giải quyết. Trong quá trình này, họ nhận biết Đức Chúa Trời, nhận biết tâm tính bại hoại của bản thân, cũng như có trải nghiệm thực tế và cụ thể về lời Đức Chúa Trời, do đó có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời – họ có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Họ làm chứng điều gì cho Đức Chúa Trời? Họ làm chứng cho tâm ý của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có gì và là gì, thân phận của Đức Chúa Trời, và rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá. Đây là những gì có thể được thể hiện ở một người sau khi đạt được sự cứu rỗi. Tại sao con người sau khi được cứu rỗi lại có thể đạt được những kết quả này? Không phải vì họ coi mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, vì tin vào Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá để thực hiện bổn phận của mình” mà đạt được điều này. Lý do duy nhất, và là điểm quan trọng nhất, để đạt được điều này là họ có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời như sinh mệnh của mình, có thể thực hành lẽ thật để loại bỏ tâm tính bại hoại của bản thân, từ bỏ cách sống và quan điểm sống cũ kỹ, ban đầu của mình, cũng như lấy lời Đức Chúa Trời làm sinh mệnh mới của mình. Họ lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ để đối nhân xử thế, làm mọi chuyện, đi theo Đức Chúa Trời, thuận phục Đức Chúa Trời và làm hài lòng Đức Chúa Trời. Đây là kết quả mà những người này có thể đạt được. Điều quan trọng nhất để đạt được sự cứu rỗi là gì? (Thưa, là có thể tiếp nhận lẽ thật.) Đúng vậy. Có thể tiếp nhận lẽ thật là điểm mấu chốt.

Một số người nói: “Nếu con dâng mình cho Đức Chúa Trời đến cùng, thì Đức Chúa Trời có chúc phúc lớn cho con không?”. Nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật, nhưng vẫn có thể kiên trì đi theo Đức Chúa Trời đến cùng, đem sức lực phục vụ đến cùng, trong thời gian đó không có sự vi phạm hay xúc phạm lớn nào đến tâm tính của Đức Chúa Trời, thì trong những tình huống như vậy, Đức Chúa Trời sẽ coi ngươi là người đem sức lực phục vụ trung thành và được ở lại. Một số người hỏi: “Ở lại là phúc lành gì?” Đó không phải là phúc lành nhỏ! Nếu có cơ hội và khả thi, ngươi có thể thấy thân thể chân thật của Đức Chúa Trời, và điều này phụ thuộc vào những gì Đức Chúa Trời làm trong thời đại tiếp theo. Nếu có cơ hội ở lại và sống thêm vài thập kỷ nữa, thì đó là phúc lành lớn. Phúc lành này đến như thế nào? Chính là nhờ việc đem sức lực phục vụ một cách trung thành trong khi vẫn giữ quan điểm rằng “Mình có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, vì tin vào Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để thực hiện bổn phận của mình”. Chẳng phải người đem sức lực phục vụ nên biết bằng lòng sao? (Thưa, phải.) Họ nên bằng lòng để đạt được phúc lành này. Ngươi còn không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, nhưng vì Đức Chúa Trời thấy ngươi có lòng trung thành và khả năng đem sức lực phục vụ đến cùng, không bỏ dở giữa chừng, không xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời hay vi phạm sắc lệnh quản trị của Ngài, không phạm phải những tội lỗi lớn, nên Ngài ban phúc lành và ân điển này cho ngươi. Kể từ khi Đức Chúa Trời tạo ra loài người, đây là món quà lớn nhất mà Đức Chúa Trời ban cho nhân loại bại hoại, những người chỉ đem sức lực phục vụ một cách trung thành nhưng chưa đạt được sự cứu rỗi. Ngươi chỉ đóng góp một chút, và còn không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời – có thể nhận được phúc lành lớn như vậy đã là rất tốt rồi; đây là ân điển vô biên của Đức Chúa Trời. Một loại người khác là dân của Đức Chúa Trời – những người mà chúng ta vừa nói đến. Phúc lành mà dân của Đức Chúa Trời nhận được chắc chắn lớn hơn của những người đem sức lực phục vụ nhận được. Vậy, phúc lành của dân của Đức Chúa Trời là gì? Tất nhiên, không đơn giản chỉ là có thể ở lại hoặc có cơ hội thấy thân thể chân thật của Đức Chúa Trời. Còn nhiều phúc lành hơn thế nữa, nhưng chúng ta sẽ không nói thêm ở đây. Nói về điều đó là không thực tế, và bên cạnh đó, ngay cả khi Ta nói thì các ngươi sẽ không hiểu hoặc đạt được chúng ngay bây giờ. Không ngoa khi nói rằng dân của Đức Chúa Trời là đối tượng mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi, và họ nhận được phúc lành lớn nhất trong tất cả nhân loại. Tại sao Ta nói như vậy? Bởi vì, trong công tác của Đức Chúa Trời, trong công tác của kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời nhằm cứu rỗi nhân loại, thì dân của Đức Chúa Trời, bằng cách có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, bằng cách có thể coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là nguyên tắc cho sự sinh tồn của họ, và bằng cách biến lời Đức Chúa Trời thành sinh mệnh của họ, họ đã loại bỏ tâm tính bại hoại của Sa-tan và sống thể hiện ra lời Đức Chúa Trời, làm chứng mạnh mẽ và vang dội cho Đức Chúa Trời. Họ có thể dùng những gì họ sống thể hiện ra, sinh mệnh của họ, để đánh trả Sa-tan và làm Sa-tan hổ thẹn, có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời giữa nhân loại, từ đó đem vinh quang về cho Đức Chúa Trời. Cho nên, dân của Đức Chúa Trời là những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi, và là những người nhận được sự cứu rỗi. Một số người nói: “Những người này có thể lấy lời Đức Chúa Trời làm sinh mệnh, sống thể hiện ra lời Đức Chúa Trời, và làm chứng cho Đức Chúa Trời, vậy thì họ có phải là con trai yêu dấu của Đức Chúa Trời, những người mà Đức Chúa Trời vui thích không?”. Ngươi đang nghĩ quá nhiều; trở thành dân của Đức Chúa Trời là đủ tốt rồi. Nếu Đức Chúa Trời gọi ngươi là con trai, con, hay con trai yêu dấu của Ngài, thì đó là việc của Ngài, nhưng bất kể khi nào thì ngươi cũng không bao giờ được tự xưng là con trai yêu dấu, con hay bảo bối của Đức Chúa Trời. Đừng tự xưng như vậy, và đừng tự cho mình là như vậy; ngươi là loài thọ tạo – điều này là đúng. Cho dù một ngày nào đó, ngươi được gọi giữa dân của Đức Chúa Trời, hoặc ngươi đã bước vào con đường được cứu rỗi, thì ngươi vẫn chỉ là một loài thọ tạo. Nếu ngươi nghĩ như vậy, thì chứng tỏ con đường ngươi đang đi là đúng. Nếu ngươi luôn theo đuổi để trở thành con trai yêu dấu của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời yêu thương và vui thích, thì con đường ngươi đang đi là sai; con đường này không dẫn đến đâu cả, và ngươi không nên có suy nghĩ viển vông như vậy. Bất kể Đức Chúa Trời có phán những lời này hay không hoặc có hứa như vậy với con người hay không, thì ngươi cũng không nên coi mình như vậy; đó không phải điều ngươi nên cố gắng đạt được. Là một trong những dân của Đức Chúa Trời đã là đủ tốt rồi; dân của Đức Chúa Trời đã đạt đến tiêu chuẩn là loại thọ tạo – nhưng tiếc rằng ngươi chưa phải là một trong số đó. Cho nên, đừng theo đuổi những thứ hão huyền, ảo tưởng và trống rỗng đó. Có thể theo đuổi việc được cứu rỗi thì, ở một mức độ nào đó, đã là ở trên con đường được cứu rỗi. Đặc điểm chính của dân của Đức Chúa Trời là họ có thể tiếp nhận lẽ thật cũng như thể hiện tình yêu cho lẽ thật. Trong quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và theo đuổi sự cứu rỗi, những tâm tính bại hoại, tư tưởng cũ, cũng như nhiều tình hình và biểu hiện tiêu cực khác nhau liên quan đến tâm tính bại hoại của họ có thể được giải quyết, loại bỏ, và thay đổi ở nhiều mức độ khác nhau. Sau đó, họ có thể sống thể hiện ra yêu cầu của Đức Chúa Trời về việc trở thành một người trung thực, một người hiểu nguyên tắc lẽ thật, một người trung thành và thuận phục, cũng như một người có thể kính sợ Đức Chúa Trời và tránh xa điều ác. Còn về cách trở thành một người của Đức Chúa Trời đạt tiêu chuẩn và đáp ứng được chuẩn mực, chúng ta sẽ không nói chi tiết ở đây; đó không phải là chủ đề trong mối thông công hôm nay của chúng ta.

III. Người làm thuê

Ngoài những người đem sức lực phục vụ và dân của Đức Chúa Trời, còn có một loại người khác là loại người đáng thương nhất mà Đức Chúa Trời chọn. Sau khi nghe những lẽ thật khác nhau mà Đức Chúa Trời bày tỏ, và những lời khác nhau mà Ngài vạch rõ về nhân loại, thì biểu hiện của họ, những gì họ sống thể hiện ra và mục đích theo đuổi của họ vẫn không thay đổi. Bất kể ngươi thông công về lẽ thật với họ như thế nào, thì họ vẫn thờ ơ: “Tôi không muốn thay đổi. Tôi sẽ sống theo cách mình muốn, và không ai có thể can thiệp. Anh muốn làm gì thì làm, tôi không quan tâm! Tôi đang không vui nên đừng ai trong các anh khiêu khích tôi. Nếu khiêu khích tôi thì tôi sẽ không khách khí!”. Mặc dù họ không coi mình có thái độ và quan điểm rõ ràng như “Mình có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng chịu khổ và trả giá”, nhưng họ có thái độ rõ ràng hơn trong các anh chị em. Thái độ này là gì? Chính là: “Tôi sẽ làm theo cách mình muốn, làm những gì mình muốn. Không ai được thuyết phục tôi tiếp nhận lẽ thật, không ai được cố gắng thay đổi tôi. Bất kỳ ai cố gắng thuyết phục tôi tiếp nhận lẽ thật thì đều đang chuốc lấy rắc rối, và nếu bất kỳ ai cố gắng tỉa sửa tôi, thì tôi sẽ liều mạng với họ!”. Họ không hề quan tâm đến bất kỳ lời nào mà Đức Chúa Trời phán, hay công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện. Tất nhiên, đối với tâm tính bại hoại của con người và nguyên tắc làm mọi chuyện, cũng như thái độ mà mọi người nên có đối với Đức Chúa Trời và nguyên tắc mà con người nên tuân thủ trong các mối giao lưu giữa người với người – mà anh chị em đề cập trong các buổi tụ họp hoặc khi thực hiện bổn phận của mình – họ coi chúng bằng thái độ khinh thường. Một số người thực hiện bổn phận, nhưng họ hoàn toàn không để ý đến các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, làm mọi chuyện theo cách mà họ đã dự định. Ngay sau khi ngươi thông công xong các nguyên tắc với họ, họ đồng ý trước mặt ngươi nhưng sau đó quay người và bắt đầu làm mọi chuyện một cách tuỳ ý và bừa phứa, thể hiện chân tướng ma quỷ của họ. Cũng có những người bề ngoài trông có vẻ là người đàng hoàng, nhưng khi ngươi nói hoặc trò chuyện với họ, thì quan điểm của họ không đúng, giọng điệu của họ không đúng, và quan trọng hơn là tâm tính của họ không đúng, khiến ngươi không thể nào nói chuyện với họ. Khi ngươi hỏi họ: “Đức Chúa Trời có trên đời này không?”, họ nói: “Tôi không biết”. Ngươi nói: “Chuyện này phải làm theo cách này, đó là tâm ý của Đức Chúa Trời”. Họ trả lời: “Anh thấy khó chịu với tôi phải không? Anh muốn gây phiền phức cho tôi sao? Anh đang muốn khai trừ tôi sao?”. Ngươi nói: “Anh làm như vậy là đang lan truyền quan niệm và trút ra sự tiêu cực, điều này có thể khiến một số tín hữu mới vấp ngã. Chúng ta phải tuân thủ các quy tắc của nhà Đức Chúa Trời và phải rõ ràng về các nguyên tắc cần tuân thủ trong các mối tiếp xúc và giao lưu giữa con người. Nếu những gì anh nói và làm không thể bồi dưỡng hay giúp đỡ người khác, thì ít nhất cũng đừng gây ảnh hưởng xấu đến người khác. Đây là lý trí mà người có nhân tính bình thường nên có”. Họ nói: “Anh nghĩ mình là ai khi nói với tôi về nhân tính bình thường, thuyết giảng cho tôi về quy tắc? Tôi trút ra sự tiêu cực thì có gì sai? Cứ mỗi tín hữu mới vấp ngã thì ít đi một tín hữu mới – tôi khỏi phải khó chịu khi gặp họ!”. Nói về các quy tắc với họ là vô ích, và thuyết giảng về nhân tính với họ cũng vậy. Vậy, thông công về lẽ thật, về lời Đức Chúa Trời thì sao? Họ cũng không nghe mối thông công về lời Đức Chúa Trời. Không ai dám nói gì họ, không ai dám động chạm đến hay khiêu khích họ. Trong hội thánh có những người như vậy không? (Thưa, có.) Trong số những người đã bị thanh trừ, có một số người như vậy. Những người này là người đem sức lực phục vụ, dân của Đức Chúa Trời hay là ai? (Thưa, họ là những người đã bị đào thải.) Tại sao họ bị đào thải? (Thưa, vì không tiếp nhận lẽ thật, chán ghét lẽ thật.) Đây chính là thực chất của vấn đề. Vậy, tại sao họ không tiếp nhận lẽ thật, chán ghét lẽ thật? Nguyên nhân là gì? (Thưa, thực chất của những người này là của người không tin.) Đúng vậy, thực chất của họ là của người không tin. Trong hội thánh có nhiều người không tin, nhưng có phải tất cả những người không tin đều như vậy không? (Thưa, không.) Những người này, thậm chí không có đạo đức và sự giáo dưỡng nhân tính cơ bản nhất – có phải họ bị đào thải chỉ vì họ là người không tin không? Tại sao họ bị đào thải? Suy cho cùng thì đó là vấn đề nhân tính; những người này có nhân tính xấu xa, độc ác. Nói một cách chính xác, họ không có nhân tính. Họ không có nhân tính, thì họ là gì? Họ chính là những người có bản tính ma quỷ. Những người có bản tính ma quỷ so với súc sinh thì như thế nào? Ta cho rằng họ còn tệ hơn súc sinh; một số loài súc sinh có thể nghe lời và không làm điều xấu. Ví dụ, chó có thể khá ngoan; một số con chó thực sự có thể trở thành thú cưng, rất hoà hợp với con người! Chúng đặc biệt nghe lời và hiểu chuyện, hiểu mọi điều con người nói, và chúng phù hợp để nuôi trong nhà. Những con chó này tốt hơn nhiều so với người không nghe lời. Có nhiều người thậm chí không tốt bằng những con chó. Vậy, họ vẫn là con người chứ? Không, họ không phải là con người; họ không thuộc về con người. Có nhiều người không hiểu ngôn ngữ loài người, không thể nào giao tiếp với họ. Cho dù lẽ thật được thông công như thế nào thì họ cũng không tiếp nhận, họ trách móc khi bị tỉa sửa, chửi mắng khi bị đào thải, không hề thay đổi dù đã tin bao nhiêu năm. Liệu những người như vậy vẫn được phép ở trong nhà Đức Chúa Trời chứ? (Thưa, không.) Họ không được phép ở lại. Những người như vậy nên được xếp vào loại nào? Trước hết, những người này có nên được xếp vào loại người được Đức Chúa Trời chọn không? (Thưa, không.) Nếu họ không phải là người được Đức Chúa Trời chọn, thì nên xếp họ vào loại nào? Nên giải thích như thế nào khi nói họ không phải là người được Đức Chúa Trời chọn? Nghĩa là, xét từ góc độ nhân tính mà những người này biểu hiện và sống thể hiện ra, không chỉ đơn giản rằng họ là người không tin; thực chất của họ không phải là con người. Có rất nhiều người không tin – liệu có phải tất cả đều xấu xa và độc ác như những người này không? Không. Ngay cả trong số những người ngoại đạo, không phải ai cũng xấu xa; một số người có các tiêu chuẩn đạo đức cơ bản nhất. Còn những người này thì sao? Họ không có đạo đức và sự giáo dưỡng cơ bản nhất mà người ngoại đạo có; nói một cách chính xác, những gì họ bộc lộ và sống thể hiện ra không phù hợp với tiêu chuẩn của đạo đức nhân loại. Thực chất của những người này là ma quỷ. Xét từ thực chất của họ, thì Đức Chúa Trời có cứu rỗi họ không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ. Tại sao lại như vậy? Bởi vì nhân tính của họ là xấu xa và độc ác, thuộc về bản tính ma quỷ, nên họ chán ghét và chống lại lẽ thật. Thực ra, nói như vậy là nâng cao họ; nói chính xác, những người này chán ghét và coi thường những điều tích cực, nhưng không đến mức chán ghét lẽ thật và không tiếp nhận lẽ thật. Họ chán ghét, coi thường và chống lại ngay cả những điều tích cực cơ bản nhất; họ phản cảm với tất cả những quy tắc mà một người có nhân tính bình thường nên tuân thủ cũng như sự giáo dưỡng mà họ nên có. Liệu họ có thể tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, họ không đạt được điều đó.) Đúng vậy, họ không đạt được điều đó; họ thậm chí không phải là người đem sức lực phục vụ. Có một số người nói: “Nếu họ thậm chí không phải là người đem sức lực phục vụ, thì họ được coi là gì trong nhà Đức Chúa Trời? Họ vào nhà Đức Chúa Trời bằng cách nào?”. Nếu chúng ta định nghĩa họ, phân loại họ, thì nói một cách chính xác, những người này giống như người làm thuê hoặc công nhân thời vụ được đưa vào từ những người ngoại đạo. Ý nghĩa của điều này có rõ ràng không? Đây là loại của họ, cũng như vai trò của họ trong nhà Đức Chúa Trời. Họ thậm chí không phải là người đem sức lực phục vụ, họ không xứng đáng! Người đem sức lực phục vụ có những đặc điểm như có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, cũng như sẵn lòng trả giá, và có khả năng chịu khổ, và họ sống thể hiện ra những điều này. Họ thậm chí không có những đặc điểm này, nên việc phân loại họ là người làm thuê là đã chí nhân chí nghĩa và rất khách khí rồi. Là người làm thuê hoặc công nhân thời vụ thì có ý nghĩa gì? Nghĩa là, do các nhu cầu đặc biệt trong những thời điểm đặc biệt, nhà Đức Chúa Trời đã tuyển dụng một số người không liên quan đến việc được cứu rỗi để hoàn thành một số công tác. Sau khi các công tác này hoàn thành, những người này đã lộ rõ chân tướng. Người được Đức Chúa Trời chọn đã chịu đựng đủ khi giao lưu với họ, trở nên chán ghét đến mức không thể chịu đựng nổi, đồng thời đã có sự phân định đầy đủ về họ. Trong các tình huống như vậy, những người này nên được thanh trừ, và đây là thời cơ thích hợp nhất. Ta vừa nói rõ về cách những người này xuất hiện phải không? (Thưa, phải.) Họ là những người làm thuê không liên quan đến việc được cứu rỗi, đã được đưa vào trong những thời điểm đặc biệt của công tác của hội thánh. Sau khi làm những việc vặt và phục vụ trong một khoảng thời gian, những người này làm xằng làm bậy trong nhà Đức Chúa Trời, gây ra rất nhiều sự gián đoạn và quấy nhiễu. Vai diễn mà họ đóng là nhân vật tiêu cực. Họ phản ánh đầy đủ bộ mặt thật của Sa-tan và ma quỷ, làm nhiễu loạn công tác của hội thánh, và phá hoại trật tự của đời sống hội thánh. Cụ thể hơn, có thể nói rằng những người này đã gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, chẳng hạn như làm tổn hại rất nhiều thiết bị, máy móc, đồ vật quý giá, v.v. của nhà Đức Chúa Trời. Có thể nói rằng hành động và hành vi của những người này đã khiến nhiều người tức giận. Tất nhiên, họ cũng khiến nhiều người hơn học được bài học và có được sự phân định, biết được ma quỷ là gì và không có nhân tính là gì, cũng như thấy rõ bộ mặt thật của những người không tin; họ đã cho mọi người thấy rõ hơn và cụ thể hơn về tư tưởng và quan điểm của người không tin, thứ họ theo đuổi, thứ họ khao khát sâu thẳm trong lòng, thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật, thái độ của họ đối với bổn phận và những điều tích cực, thậm chí là thái độ của họ đối với một số quy định của nhà Đức Chúa Trời, v.v. Khi đến mức độ cụ thể như vậy, cách mà những người này sống thể hiện ra nhân tính của họ, thực chất nhân tính của họ, và điều họ theo đuổi, đều được bộc lộ hoàn toàn. Khi đó, việc giữ những người này trong hội thánh có vẻ thừa thãi, gây tổn hại lớn cho người được Đức Chúa Trời chọn mà không có lợi gì cho họ. Đây là lúc họ phải rời đi. Vậy, nếu chúng ta nói rằng nhà Đức Chúa Trời đã cho họ đủ thời gian và cơ hội để tiếp nhận lẽ thật và thờ phụng Đức Chúa Trời, thì có đúng không? (Thưa, không.) Vậy thì nên nói như thế nào? Nhà Đức Chúa Trời đã cho họ đủ cơ hội và đủ thời gian để họ quay lại, nhưng kết quả cho mọi người thấy một sự thật: ma quỷ sẽ mãi mãi là ma quỷ và không bao giờ có thể thay đổi. Đây là sự thật. Có thể nào khiến con rồng lớn sắc đỏ thừa nhận địa vị và thân phận của Đức Chúa Trời không? Liệu có thể nào khiến những người có bản tính ma quỷ thay đổi và tuân thủ một số quy tắc không? (Thưa, không.) Họ không thể đạt được điều đó. Cho họ cơ hội không phải là để họ tiếp nhận lẽ thật, thừa nhận công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện, hay hành động theo các nguyên tắc lẽ thật, mà là cho họ cơ hội để quay lại. Nếu họ có thể quay lại dù chỉ một chút, thì kết cục sau này của họ có thể thay đổi. Tuy nhiên, những người này không biết điều gì là tốt cho mình; bản tính ma quỷ của họ sẽ luôn như vậy. Dù cho họ bao nhiêu thời gian hay cơ hội, thì những gì họ sống thể hiện ra và thực chất của họ sẽ không thay đổi; đây là sự thật. Cho nên, cách xử lý cuối cùng đối với những người này là chấm dứt bổn phận của họ, khiến họ rời khỏi hội thánh, và không cho họ có bất kỳ mối liên kết hoặc mối quan hệ nào với nhà Đức Chúa Trời nữa. Có người nào lưu luyến họ, thương hại họ, nói rằng: “Những người này vẫn còn khá trẻ, theo thời gian, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Họ có tố chất tố như vậy, có ân tứ và tài cán như vậy – thật tốt biết mấy nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật! Nếu nhà Đức Chúa Trời có thể yêu thương và bao dung hơn, cho nhiều cơ hội hơn để họ hối cải, thì khi họ lớn lên, có thể kết quả sẽ khác” không? Những người có cách nghĩ như vậy là loại người nào? (Thưa, là người hồ đồ, người lơ mơ.) Đúng vậy. Họ đều là những người hồ đồ, lơ mơ – chỉ là đồ vô lại! Đức Chúa Trời không cứu rỗi những người như vậy, và nhà Đức Chúa Trời không cho phép họ ở lại – họ có gì đáng thương hại? Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ không cứu rỗi những người như vậy, mà ngươi nói rằng nên trao cho họ cơ hội để hối cải. Ngươi có thể cứu rỗi mọi người không? Chẳng phải làm như vậy là làm trái lại Đức Chúa Trời sao? Có phải ngươi muốn người khác nghĩ rằng ngươi yêu thương hơn cả Đức Chúa Trời không? Ngươi có thực tế lẽ thật không? Ngươi có thể nhìn thấu thực chất của con người không? Ai có thể cứu rỗi con người, là Đức Chúa Trời hay ngươi? Ngươi dám làm trái lại Đức Chúa Trời – chẳng phải ngươi quá kiêu ngạo, tự cho mình là đúng và không có lý trí sao? Làm như vậy chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Chẳng phải đây là Sa-tan và tà linh đã đầu thai, luôn thích làm trái lại Đức Chúa Trời sao? Những người không tin vừa được nhắc đến còn tệ hơn súc sinh. Bất kể người nào thông công lẽ thật cho họ ra sao, thì cũng vô ích; ngay cả việc tỉa sửa họ cũng vô ích. Có thể nói rằng họ có bản tính của Sa-tan và sẽ không bao giờ thay đổi. Nếu có người muốn cho những loại Sa-tan này cơ hội hối cải, hãy để họ cũng cấp cho những người như vậy, xem liệu họ có thực sự có tình yêu thương hay không. Những người không tin này không tiếp nhận lẽ thật chút nào là những người tệ nhất trong hội thánh; họ đều giống súc sinh, không thể thuyết phục và không thể cứu vãn. Cho dù là trước kia hay hiện tại, cách hội thánh xử lý họ vẫn thích hợp nhất; hội thánh đã vô cùng kiên nhẫn và bao dung, cũng như cho họ đủ cơ hội. Nhưng cho đến bây giờ, họ vẫn không thay đổi chút nào, thậm chí có thể nói là ngày một tệ hơn. Lúc đầu, khi những người này tin vào Đức Chúa Trời với những quan niệm, tưởng tượng và dục vọng được phúc, họ có thể bị ràng buộc phần nào, thực hiện bổn phận của mình với chút nhiệt tình và hăng hái. Nhưng cuối cùng, khi họ thấy rằng “tin vào Đức Chúa Trời nghĩa là mưu cầu lẽ thật, nhận biết công tác của Đức Chúa Trời, cũng như thuận phục Đức Chúa Trời, và thế là hết” thì thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và với lẽ thật, cũng như bộ mặt thật của họ, đều bộc lộ hoàn toàn. Họ đã bộc lộ những thứ gì? Họ không chỉ không có nhân tính, lương tâm, và lý trí, mà còn đặc biệt hung ác, tà ác, và ngang ngược. Họ khinh thường Đức Chúa Trời và lẽ thật, thậm chí còn đối đãi với những yêu cầu và quy tắc của nhà Đức Chúa Trời – và sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời – bằng vẻ căm thù và phản kháng. Những biểu hiện này của họ đã làm tăng thêm sự phản cảm và chán ghét của người được Đức Chúa Trời chọn đối với họ, cũng như đẩy nhanh tốc độ nhà Đức Chúa Trời thanh lọc họ, cuối cùng nhanh chóng xác định liệu họ sẽ ở hay đi, quyết định kết cục và số phận của họ. Kết cục và số phận là do chính họ kiếm được, không ai xui khiến hay xúi giục, không ai thúc ép hay dụ dỗ họ, và chắc chắn không phải do hoàn cảnh khách quan gây ra; kết cục và số phận là do tự họ gây ra, là sự lựa chọn của chính họ, và được quyết định bởi thực chất nhân tính và con đường họ đã đi. Những kết cục và số phận này đã được định đoạt; một khi họ bị thanh trừ khỏi hàng ngũ những người thực hiện bổn phận, thì họ thậm chí không còn là người đem sức lực phục vụ nữa. Ngươi có thể tưởng tượng ra số phận của họ sẽ như thế nào – điều này không đáng đề cập ở đây, vì họ không xứng đáng.

Đối với loại người bị tỏ lộ và đào thải, biểu hiện của những việc ác khác nhau của họ, cũng như những lời lẽ cay nghiệt mà họ bộc lộ trong cuộc sống hằng ngày, đều dễ thấy. Tuy nhiên, một số lãnh đạo và người làm công không có khả năng phân định những kẻ ác này, hoặc không nhìn thấu được thực chất bản tính của họ. Dường như những lãnh đạo và người làm công này không thấy được rằng họ là kẻ ác và người không tin, nên không có dự định thanh lọc họ khỏi hội thánh, hoặc xử lý họ một cách hợp lý. Đây là sự thất trách nghiêm trọng của lãnh đạo và người làm công. Lãnh đạo vào người làm công trơ mắt nhìn những người có bản tính ma quỷ này không tuân thủ bất kỳ quy tắc nào của nhà Đức Chúa Trời, làm xằng làm bậy, tự ý gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh cũng như trật tự của đời sống hội thánh; họ thậm chí còn dung túng cho những người này cả gan làm loạn, vô pháp vô thiên, và làm tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời dưới danh nghĩa thực hiện bổn phận. Làm tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bao gồm nhiều thứ: làm hỏng máy móc và các thiết bị khác nhau của nhà Đức Chúa Trời, làm hỏng các dụng cụ và vật dụng văn phòng khác nhau, thậm chí còn tuỳ ý phung phí của lễ của Đức Chúa Trời, v.v. Nghiêm trọng hơn, họ trắng trợn tung ra các tà thuyết và luận điệu sai lầm, gây nhiễu loạn đến mức khiến người được Đức Chúa Trời chọn không thể an tâm thực hiện bổn phận, gây nhiễu loạn đến mức khiến người yếu đuối và tiêu cực từ bỏ bổn phận và mất niềm tin vào việc đi theo Đức Chúa Trời. Những kẻ ác này làm tất cả những chuyện xấu xa này, họ phạm phải tất cả những việc ác này, gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh cũng như làm hại anh chị em, nhưng lãnh đạo và người làm công có mắt như mù, có tai như điếc; một số người thậm chí còn nói: “Tôi không biết, chưa từng nghe nói!”. Bè lũ súc sinh và ma quỷ đó đã gây ra sự xáo trộn, khiến hội thánh trở nên tối tăm rối loạn, thế mà lãnh đạo và người làm công lại không hề hay biết và không hề nhận thức được! Chẳng phải họ là đồ cặn bã sao? Lòng họ ở đâu? Họ đang làm gì? Chẳng phải họ chỉ đang nói chuyện phiếm sao? Chẳng phải họ đang bỏ bê nhiệm vụ của mình sao? Mỗi ngày những lãnh đạo giả như vậy còn tại chức thì thêm một ngày đủ loại kẻ ác tha hồ gây nhiễu loạn hội thánh và làm hại người được Đức Chúa Trời chọn. Bởi vì những lãnh đạo giả không thực hiện trách, nhiệm của mình nên bè lũ súc sinh đó chơi bời lêu lổng cả ngày, không thực hiện bất kỳ bổn phận nào cũng không tuân thủ bất kỳ quy tắc nào, ăn bám trong nhà Đức Chúa Trời, thoải mái hưởng thụ những đãi ngộ vật chất và phúc lợi khác nhau của nhà Đức Chúa Trời – họ thậm chí cố ý gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, làm hỏng máy móc và dụng cụ của nhà Đức Chúa Trời. Họ hành động như vậy, nhưng vẫn muốn sống cuộc sống an nhàn và muốn làm gì tuỳ thích trong nhà Đức Chúa Trời, không ai được phép động chạm hay khiêu khích họ. Vấn đề nghiêm trọng như vậy mà lãnh đạo và người làm công lại bỏ mặc, không giải quyết ngay cả khi có người phản ánh – chẳng phải họ là đồ vô dụng, không làm công việc thực tế nào sao? (Thưa, phải.) Chẳng phải đây là sự thất trách nghiêm trọng sao? (Thưa, phải.) Một số người nói: “Tôi không giải quyết vấn đề bởi vì tôi quá bận với công tác khác. Tôi bận không làm nổi!”. Những lời này có đúng đắn không? Vấn đề nghiêm trọng như vậy mà ngươi không giải quyết thì ngươi đang bận làm gì? Chuyện ngươi đang bận làm có giá trị không? Ngươi có biết cần ưu tiên công việc nào không? Dù ngươi có bận đến đâu trong công việc, chẳng phải ưu tiên hàng đầu là giải quyết vấn đề sao? Kịp thời hiểu rõ và xử lý những loại người khác nhau gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh là trách nhiệm của lãnh đạo và người làm công. Nếu ngươi bỏ qua các vấn đề thực tế và bận rộn với những chuyện khác, thì ngươi có đang làm công tác thực tế không? Nếu ngươi phát hiện vấn đề hoặc có người phản ánh vấn đề với ngươi, thì ngươi nên gác lại công việc đang làm và đến ngay hiện trường để xem vấn đề nằm ở đâu. Nếu có kẻ ác gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, thì trước tiên ngươi nên thanh lọc kẻ ác này. Sau đó, việc giải quyết những vấn đề khác sẽ dễ dàng. Nếu ngươi phát hiện vấn đề và không giải quyết, nói rằng mình quá bận, thì chẳng phải ngươi chỉ đang bận việc linh tinh sao? Rốt cuộc thì ngươi đang bận vì điều gì? Có phải là công tác thực tế không? Ngươi có thể giải thích rõ không? Lý do và cái cớ của ngươi có đúng đắn không? Tại sao ngươi lại coi việc giải quyết vấn đề là không quan trọng? Tại sao ngươi không giải quyết vấn đề một cách kịp thời? Tại sao ngươi tìm cớ để thoái thác, nói rằng mình quá bận nên không thể giải quyết? Làm như vậy chẳng phải là vô trách nhiệm sao? Là lãnh đạo trong hội thánh, ngươi không đặt việc giải quyết vấn đề lên hàng đầu, bận rộn với đủ thứ chuyện vặt vãnh, không nhận ra sự tồn tại của những vấn đề mấu chốt, không thể biết cần ưu tiên công việc nào và không thể nắm bắt được những điểm then chốt – đây là biểu hiện của tố chất cực kỳ kém, và người như vậy chỉ là người hồ đồ. Cho dù làm lãnh đạo bao nhiêu năm, ngươi cũng không thể thực hiện tốt công tác của hội thánh. Ngươi nên nhận trách nhiệm và từ chức. Nếu lãnh đạo có tố chất quá kém, thì mọi việc đào tạo đều vô ích; họ chắc chắn sẽ không có khả năng thực hiện bất kỳ công tác nào – họ là những lãnh đạo giả, phải bị thay thế và điều chỉnh. Khi lãnh đạo giả công tác, thì hậu quả là gì? Nói một cách khách quan, mọi chuyện mà lãnh đạo giả làm đều gây ra tổn thất về nhiều phương diện cho hội thánh. Một mặt, việc không thực hiện tốt công tác thực chất của hội thánh đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của những hạng mục khác nhau trong công tác của hội thánh. Đồng thời, lối vào sự sống của người được Đức Chúa Trời chọn cũng bị tổn hại và ảnh hưởng. Quan trọng nhất, việc này ảnh hưởng đến việc rao truyền phúc âm của vương quốc. Những hậu quả này đều liên quan trực tiếp đến những lãnh đạo giả không làm công tác thực tế. Nói rõ hơn, tất cả những điều này đều do lãnh đạo giả không làm công tác thực tế gây ra. Nếu những lãnh đạo và người làm công khác có thể chủ động thực hiện một số công tác thực tế khác, đẩy nhanh tiến độ và rút ngắn thời gian giải quyết vấn đề, thì chẳng phải những tổn thất khác nhau mà lãnh đạo giả gây ra cho nhà Đức Chúa Trời sẽ giảm bớt phần nào sao? Ít nhất thì có thể giảm bớt tổn thất. Ngay cả khi nhà Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi xử lý ngay khi vấn đề phát sinh, thì ít nhất ngươi nên lập tức bắt đầu xử lý khi có người phản ánh vấn đề: Hỏi anh chị em về tình hình, bàn bạc và thông công với lãnh đạo và người làm công khác về cách giải quyết vấn đề. Nếu vấn đề nghiêm trọng và ngươi không biết cách giải quyết, ngươi nên kịp thời phản ánh với cấp trên và tìm kiếm giải pháp. Đây là điều mà tất cả lãnh đạo và người làm công nên làm. Nhưng vấn đề hiện tại là những lãnh đạo và người làm công này, ngay cả khi không thể giải quyết vấn đề, thì họ cũng không phản ánh lên cấp trên. Họ rất sợ phản ánh lên cấp trên vì sợ người khác thấy họ vô năng, tố chất quá kém, và không có khả năng làm công tác thực tế; họ lo lắng về việc bị thay thế. Tuy nhiên, bản thân họ không chủ động thực hiện công tác; họ ngu ngốc và tê liệt cũng như hành động chậm chạp. Không có con đường để giải quyết vấn đề, họ chỉ được chăng hay chớ, dẫn đến tồn đọng quá nhiều vấn đề chưa được giải quyết, do đó tạo cơ hội cho kẻ ác lợi dụng sơ hở. Lúc này, những kẻ ác và người có dã tâm đó thấy rằng lãnh đạo giả là kẻ bất lực nên đã thừa cơ hành ác một cách trắng trợn, khiến hội thánh trở nên tối tăm rối loạn và lộn xộn, làm tê liệt mọi công tác. Mặc dù những lãnh đạo giả phải chịu trách nhiệm chính, nhưng những lãnh đạo và người làm công khác cũng không hoàn thành trách nhiệm của mình. Chẳng phải đây là sự thất trách nghiêm trọng của lãnh đạo và người làm công sao? Trên thực tế, hầu hết các vấn đề xuất hiện trong hội thánh đều liên quan trực tiếp đến sự quấy nhiễu mà kẻ ác và người không tin gây ra. Nếu lãnh đạo và người làm công không thể kịp thời phát hiện căn nguyên của vấn đề, không thể tìm ra thủ phạm chính gây ra vấn đề, luôn tìm kiếm lý do ở phương diện khác, thì họ sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề và các vấn đề sẽ tiếp tục phát sinh trong tương lai. Nếu thủ phạm hoặc người gây ra vấn đề ở sau lưng bị bắt và chịu trách nhiệm trực tiếp, thì đây là cách xử lý vấn đề hiệu quả nhất. Ít nhất, cách này đảm bảo rằng những người không tin và kẻ ác đó không dám tiếp tục làm xằng làm bậy cũng như gây nhiễu loạn và gián đoạn. Chẳng phải đây là những gì mà lãnh đạo và người làm công nên làm sao? (Thưa, phải.) Có thể khẳng định chắc chắn rằng lý do chính khiến các vấn đề tồn tại trong hội thánh ngày càng nhiều và không được giải quyết kịp thời là vì sự vô trách nhiệm của lãnh đạo và người làm công, hoặc vì lãnh đạo giả không có thực tế lẽ thật và không thể làm được công tác thực tế. Nếu lãnh đạo và người làm công không thể giải quyết những vấn đề khác nhau xuất hiện trong hội thánh, thì chắc chắn họ sẽ không thể thực hiện tốt công tác lãnh đạo của mình. Có một số tình huống và nguyên nhân cần phải hiểu rõ ở đây: Nếu lãnh đạo và người làm công là người mới, không có kinh nghiệm, thì nên kiên nhẫn giúp đỡ, lãnh đạo họ giải quyết vấn đề, và cho phép họ học hỏi và nắm bắt các nguyên tắc lẽ thật trong quá trình giải quyết vấn đề. Làm như vậy, họ sẽ dần dần học cách giải quyết vấn đề. Nếu lãnh đạo và người làm công không phải là người phù hợp, không hề tiếp nhận lẽ thật mà dùng quan điểm và cách thức của người ngoại đạo để giải quyết vấn đề, thì điều này không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Những người như vậy không phù hợp để làm lãnh đạo và người làm công, và phải kịp thời thay thế và đào thải họ; sau đó, phải bầu cử lại để chọn ra lãnh đạo và người làm công phù hợp. Chỉ có như vậy mới có thể giải quyết triệt để vấn đề. Làm lãnh đạo hội thánh không phải chuyện dễ dàng, và không thể tránh khỏi một số vấn đề không thể xử lý được. Tuy nhiên, nếu một người có lý trí, khi gặp phải vấn đề mà mình không thể giải quyết, người đó không nên che giấu, kìm nén hoặc bỏ qua vấn đề đó. Thay vào đó, họ nên bàn bạc với một số người hiểu lẽ thật để cùng nhau tìm giải pháp, có thể giải quyết bảy mươi đến tám mươi phần trăm vấn đề, ít nhất là tạm thời ngăn ngừa vấn đề lớn phát sinh. Đây là biện pháp khả thi. Nếu thực sự không thể giải quyết vấn đề, thì nên tìm kiếm sự giúp đỡ từ Bề trên, đây là một lựa chọn sáng suốt. Nếu vì sợ mất mặt hoặc sợ Bề trên sẽ tỉa sửa do ngươi vô năng mà ngươi che giấu và không báo cáo vấn đề, thì ngươi đã trở nên hoàn toàn bị động. Nếu ngươi hành động như một kẻ ngốc đần độn và tê liệt, bất lực trong mọi chuyện, thì điều đó sẽ trì hoãn mọi thứ. Những tình huống như vậy sẽ dễ dàng tạo cơ hội cho kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ lợi dụng sự hỗn loạn để hành động. Tại sao lại nói họ lợi dụng sự hỗn loạn để hành động? Bởi vì họ đang chờ đợi chính cơ hội này. Khi lãnh đạo và người làm công không thể xử lý bất kỳ vấn đề gì, người được Đức Chúa Trời chọn cảm thấy hoang mang, lo lắng và đã mất lòng tin vào những người này, thì kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ sẽ tìm cách lợi dụng sơ hở này. Họ cho rằng hội thánh đang trong tình trạng không có sự lãnh đạo hoặc quản lý nên họ muốn nhân cơ hội này thể hiện khả năng của mình để khiến những người được Đức Chúa Trời chọn xem trọng họ, ủng hộ họ, và tin rằng so với lãnh đạo và người làm công khác thì họ có tố chất tốt hơn, có nhiều khả năng hơn trong việc giải quyết vấn đề và tìm lối thoát, cũng như có thể xoay chuyển tình thế trong thời kỳ hỗn loạn. Đây chẳng phải những chuyện mà kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ muốn làm nhất sao? Vào lúc này, khi lãnh đạo và người làm công bất lực, kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ đứng lên giải quyết vấn đề, thậm chí dẫn lối thoát, thì người được Đức Chúa Trời chọn sẽ tin vào ai? Tất nhiên, họ sẽ tin vào kẻ ác và những thế lực của kẻ địch lại Đấng Christ. Điều này cho thấy gì? Cho thấy rằng lãnh đạo và người làm công là những kẻ bất lực và vô tích sự, thất bại vào những thời điểm quan trọng. Mặc dù kẻ địch lại Đấng Christ không có thực tế lẽ thật và không thể thực hiện công tác thực tế, nhưng họ đều có một số ân tứ ở các mức độ khác nhau và tinh tường hơn tương đối về những chuyện bên ngoài. Đây chính là ưu thế của họ và là cách họ có thể mê hoặc con người. Nhưng nếu họ trở thành lãnh đạo và người làm công, liệu họ có thể thực sự dùng lẽ thật để giải quyết các vấn đề của người được Đức Chúa Trời chọn không? Liệu họ có thể thực sự lãnh đạo người được Đức Chúa Trời chọn ăn uống lời Đức Chúa Trời, hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật không? Chắc chắn là không. Mặc dù họ có một số ân tứ và khéo ăn khéo nói, nhưng họ không có bất kỳ thực tế lẽ thật nào. Họ có xứng đáng làm lãnh đạo và người làm công của hội thánh không? Không hề! Đây là chuyện mà người được Đức Chúa Trời chọn nên nhìn thấu; họ tuyệt đối không được để kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc hay lừa gạt. Người không tin, kẻ ác, và kẻ địch lại Đấng Christ không hề mưu cầu lẽ thật và không có chút thực tế lẽ thật nào. Vậy các ngươi nói xem, liệu họ có thể nói điều gì đó có lương tâm và lý trí, chẳng hạn như: “Mặc dù hiện tại không có ai phụ trách hội thánh, nhưng chúng ta phải tự giác. Quy định của nhà Đức Chúa Trời không thể bị phá vỡ, nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu không thể bị thay đổi. Chúng ta nên làm những gì mình nên làm; mọi người phải giữ bổn phận mình phải thực hiện, mỗi người một việc, và không gây rối trật tự” không? Họ có thể nói như vậy không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không! Vậy những người không tin và kẻ ác này sẽ làm chuyện gì? Không có ai giám sát và quản thúc, họ thậm chí không thực hiện bổn phận của mình, chỉ ăn uống, chơi bời, nhàn rỗi nói chuyện phiếm, cười đùa, và thậm chí là tán tỉnh. Một số người dành cả đêm để xem video ngoại đạo, rồi ban ngày họ lười biếng và ngủ nướng với cái cớ đã thức cả đêm để thực hiện bổn phận. Kẻ ác, những người thuộc về ma quỷ làm những chuyện này. Họ có cảm thấy tội lỗi khi làm những việc xấu này không? Liệu họ có đột nhiên cắn rứt lương tâm và chủ động thực hiện trách nhiệm của con người và làm chuyện gì có lợi cho nhà Đức Chúa Trời, hội thánh, và anh chị em không? Chắc chắn là không. Khi có người giám sát, họ miễn cưỡng làm một số việc vì sĩ diện hão chỉ để kiếm được một bữa ăn. Đây là chuyện duy nhất họ có thể làm; ngoài ra, những người này không có điểm tích cực nào. Vậy thì việc những người này ở lại nhà Đức Chúa Trời có ý nghĩa gì không? Không có bất kỳ ý nghĩa nào. Những người như vậy quá thừa thãi và phải bị thanh lọc.

Làm sao để đánh giá liệu một người có yêu mến lẽ thật hay không? Ta sẽ cho một ví dụ để các ngươi có thể hiểu. Một số người làm một nghề, và họ càng học, càng nghiên cứu sâu hơn và càng hiểu rõ thì càng muốn làm việc trong nghề và không muốn rời khỏi nghề này. Đây là loại biểu hiện gì? Có phải điều này có nghĩa rằng họ thực sự thích nghề này không? (Thưa, phải.) Bất kể họ phải chịu đựng bao nhiêu gian khổ, phải trả giá bao nhiêu, phải bỏ ra bao nhiêu công sức, thì họ vẫn tiếp tục theo đuổi nghề này mà không chút do dự, không hối hận. Đây là tình cảm chân thực, là sự yêu thích từ sâu trong lòng. Giả sử có người nói rằng họ thích một công tác nào đó nhưng không cam lòng chịu đựng gian khổ hoặc trả giá trong quá trình học nghề, và khi có nhiều vấn đề xuất hiện trong công tác, họ không tìm kiếm giải pháp, trong lòng sợ phiền phức, và thậm chí thường cảm thấy làm nghề này là một sự phiền toái hoặc gánh nặng. Tuy nhiên, việc chuyển nghề không phải điều dễ dàng, và khi cân nhắc đến những lợi ích vật chất mà nghề này có thể mang lại, người này miễn cưỡng làm, nhưng sẽ không bao giờ trở nên nổi bật trong nghề này. Vậy, họ có thực sự thích nghề này không? (Thưa, không.) Rõ ràng là họ không thích. Có một loại người khác, nói rằng họ thích nghề nào đó và làm nghề đó nhưng không bao giờ chịu khổ hoặc trả giá để học tốt nghiệp vụ. Trong quá trình học, họ thậm chí còn nảy sinh sự phản cảm hoặc chán ghét đối với nghề này và ngày càng không muốn học. Khi sự phản cảm của họ đạt đến một mức độ, họ chuyển nghề, và sau đó không muốn đề cập đến bất kỳ quá trình, câu chuyện hoặc điều gì khác từ khi làm nghề đó. Những người như vậy có thực sự thích nghề này không? (Thưa, không.) Họ không thích. Việc họ có thể dễ dàng từ bỏ nghề này, cảm thấy chán ghét và thậm chí chuyển nghề chứng tỏ họ không thực sự thích nghề này. Họ thể từ bỏ nghề này vì sau khi đầu tư rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc, nghề họ làm không cho họ cuộc sống sung túc như mong ước hoặc hưởng thụ chế độ đãi ngộ vật chất tốt. Họ chán ghét và chửi bới nghề này trong lòng, thậm chí không cho phép người khác đề cập đến, bản thân họ cũng không đề cập đến nữa. Họ thậm chí còn cảm thấy bị sỉ nhục vì đã từng làm trong nghề này, từng coi nghề này là lý tưởng và mục tiêu theo đuổi cao nhất trong đời. Nếu họ chán ghét nghề này đến mức độ như vậy, thì những biểu hiện ban đầu của họ về nghề này có phải là sự yêu thích chân thật không? (Thưa, không.) Chỉ có một loại người thực sự thích nghề này. Bất kể liệu nghề này có thể mang lại cho họ cuộc sống vật chất tốt đẹp hay lợi ích to lớn hay không, bất kể họ gặp phải bao nhiêu khó khăn hay chịu đựng bao nhiêu đau khổ trong nghề này, thì họ vẫn có thể làm việc trong nghề này mà không do dự và kiên trì đến cùng. Đây chính là sự yêu thích chân thật. Điều này cũng đúng với việc liệu một người có yêu mến lẽ thật hay không. Nếu ngươi thực sự yêu mến những điều tích cực và dần dần chuyển từ yêu mến những điều tích cực sang yêu mến lẽ thật, thì bất kể chuyện gì xảy ra, ngươi vẫn kiên trì tìm kiếm và mưu cầu lẽ thật, và sẽ không thay đổi mục tiêu của đời mình. Nếu ngươi có thể tuỳ ý từ bỏ việc tin vào Đức Chúa Trời và từ bỏ con đường cứu rỗi, thì ngươi không thực sự yêu mến lẽ thật. Còn những người không mưu cầu lẽ thật nhưng cũng không từ bỏ, thì chỉ có một nguyên nhân cho sự kiên trì của họ: Họ nghĩ rằng miễn là còn một tia hy vọng về kết quả và đích đến tốt đẹp, một tương lai tốt đẹp thì việc đánh cược là đáng giá, và họ nên kiên trì đến cùng. Họ cho rằng sự kiên trì này là cần thiết; đúng lúc tai hoạ đang trở nên nghiêm trọng và không có nơi nào để đi, nên họ cũng có thể bám trụ ở đây và thử vận may của mình. Liệu trong lòng những người này có chút sự yêu mến nào dành cho lẽ thật không? (Thưa, không.) Không có. Khi những người này bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, họ cũng nói rằng họ ghét thế giới, ghét Sa-tan, ghét những điều tiêu cực, yêu mến những điều tích cực và khao khát ánh sáng. Nhưng khi họ bước vào nhà Đức Chúa Trời và bước vào hội thánh, thì biểu hiện của họ như thế nào? Khi họ phát hiện ra rằng mình người đem sức lực phục vụ và rằng Đức Chúa Trời không thích hành động, hành vi và bản tính của họ, thì thái độ của họ thế nào? Họ bộc lộ những biểu hiện như thế nào? Có thể nói rằng khi họ ý thức, cảm thấy hoặc cho rằng mình không còn được ưa chuộng trong nhà Đức Chúa Trời và phải bị đào thải, thì một số người chọn cách rời đi, trong khi những người khác, ngay cả khi họ miễn cưỡng ở lại hội thánh, thì bất cần và cuối cùng bị buộc phải rời đi. Những người như thế này không yêu mến lẽ thật; khi dục vọng được phúc của họ tan vỡ, họ có thể phản bội Đức Chúa Trời và rời xa Ngài. Những biểu hiện này cho thấy thái độ của những người khác nhau đối với lẽ thật.

IV. Ba kết cục khác nhau cho ba loại người này

Vừa rồi, chúng ta đã thông công về đặc điểm của ba loại người: người đem sức lực phục vụ, người làm thuê, và dân của Đức Chúa Trời. Xét theo đặc điểm của họ, kết cục cuối cùng của những người này không phải do hoàn cảnh hay điều kiện khách quan quyết định, mà do chính sự theo đuổi và thực chất bản tính của họ quyết định. Tất nhiên, nói một cách khách quan, thì Đức Chúa Trời quyết định vận mệnh của con người, nhưng Đức Chúa Trời cũng quyết định dựa trên việc con người có yêu mến lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật hay không. Những người đem sức lực phục vụ cũng nói rằng họ yêu mến lẽ thật và những điều tích cực, nhưng cuối cùng, khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, quan niệm và tưởng tượng của họ về Đức Chúa Trời, những đòi hỏi quá đáng của họ đối với Đức Chúa Trời và sự phản bội Đức Chúa Trời của họ vẫn còn nguyên. Bởi vì trong thời gian Đức Chúa Trời công tác, trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình, họ chưa bao giờ giải quyết được tâm tính bại hoại của chính mình. Căn nguyên khiến họ không giải quyết được tâm tính bại hoại của mình là vì về cơ bản họ không tiếp nhận lẽ thật. Mặc dù họ có mong muốn thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng biểu hiện thực sự của họ chỉ là có khả năng từ bỏ và sẵn sàng trả giá, mà không bao giờ tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, hay con đường để thuận phục Đức Chúa Trời. Kết quả cuối cùng là mặc dù đã đóng góp rất nhiều, nhưng họ không có chút nhận biết nào về Đức Chúa Trời. Họ vẫn có khả năng phản bội Đức Chúa Trời và nói ra quan niệm và tưởng tượng cũng như những đòi hỏi vô lý của riêng họ đối với Đức Chúa Trời trước mặt mọi người và trước mặt Sa-tan. Khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, họ vẫn coi mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin vào Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ và chịu khổ, cũng như chắc chắn có thể được cứu rỗi”, và vì điều này, họ cảm thấy yên tâm. Trên thực tế, họ vẫn luôn đi trên con đường của những đem sức lực phục vụ, không hề mưu cầu lẽ thật; do vậy, họ vẫn luôn giữ thân phận là người đem sức lực phục vụ. Đối với loại người là những người làm thuê, chúng ta sẽ không nói về họ. Còn một loại người khác là dân của Đức Chúa Trời, mà chúng ta vừa đề cập. Trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời, họ, giống như những người đem sức lực phục vụ, dâng mình cho Đức Chúa Trời, đánh đổi thời gian, công sức, và thậm chí thanh xuân của mình, cũng như chịu nhiều đau khổ và trả giá rất nhiều. Làm như vậy giống như những người đem sức lực phục vụ. Vậy, sự khác biệt là gì? Đó là, khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, nhiều quan niệm và tưởng tượng, cũng như những đòi hỏi quá đáng của họ về Đức Chúa Trời sẽ được giải quyết. Những biểu hiện, tình hình, và sự bộc lộ về tâm tính mà rõ ràng chống lại Đức Chúa Trời trong tâm tính bại hoại của họ đã bị loại bỏ. Những biểu hiện chưa được giải quyết sẽ dần dần tan biến khi họ hiểu lẽ thật thông qua trải nghiệm. Mặc dù tâm tính bại hoại của họ chưa hoàn toàn bị loại bỏ, nhưng tâm tính sự sống của họ đã trải qua một số thay đổi. Phần lớn thời gian, họ có thể thực hành theo nguyên tắc lẽ thật mà họ hiểu, và sự bộc lộ về tâm tính bại hoại của họ sẽ giảm đi đáng kể. Mặc dù không phải là họ sẽ không bộc lộ những tâm tính bại hoại này trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhưng họ đã đáp ứng được một yêu cầu cơ bản, đó là trở thành người trung thực mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Về cơ bản, họ là người trung thực. Hơn nữa, khi những người này bộc lộ tâm tính bại hoại, hoặc phạm tội, hoặc có quan niệm và sự phản nghịch Đức Chúa Trời, bất kể ở trong môi trường nào, thì họ sẽ có thái độ hối cải. Đồng thời, điểm quan trọng nhất là bất kể Đức Chúa Trời làm những chuyện cụ thể nào và làm như thế nào trong công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt, Ngài sẽ làm như thế nào trong tương lai, sẽ an bài vận mệnh của nhân loại như thế nào, và họ sẽ sống như thế nào trong hoàn cảnh mà Ngài an bài, thì họ đều có lòng thuận phục và thái độ thuận phục, và sẽ không còn những lựa chọn, kế hoạch và ý định cá nhân nữa. Nhờ những biểu hiện chủ động và tích cực này, họ đã trở thành kiểu người mà Đức Chúa Trời yêu cầu, người đi theo con đường của Đức Chúa Trời kính sợ Ngài và lánh xa điều ác. Mặc dù họ vẫn còn cách xa tiêu chuẩn thực sự – “kính sợ Đức Chúa Trời, lánh xa điều ác, và trở nên người trọn vẹn” – như Đức Chúa Trời đã phán, nhưng khi những thử thách của Đức Chúa Trời giáng xuống mà họ có thể tìm kiếm và thuận phục thì như vậy là đủ. Họ sẽ không phàn nàn; họ sẽ chỉ chờ đợi và thuận phục. Mặc dù hoàn cảnh hiện tại của các ngươi vẫn còn khá xa mới đạt được kết quả như vậy, cũng như có thể rất xa vời và ngoài tầm với của một số người, nhưng nếu các ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật và lấy lời Đức Chúa Trời làm nguyên tắc và nền tảng cho sự sống còn của chính mình, thì Ta tin rằng một ngày nào đó ngươi, hoặc tất cả các ngươi, sẽ không còn xa để trở thành dân của Đức Chúa Trời thực sự, những người được Ngài yêu thương – hãy tin rằng ngày đó đang trong tầm mắt. Bất kể ngày đó là lời tiên tri trong hiện tại hay đang trong tầm mắt, thì kết quả cuối cùng không phải là giả tưởng, mà là một sự thật sắp cho thành quả và ứng nghiệm. Sự thật này được ứng nghiệm nơi ai và với người nào thì tùy thuộc vào cách các ngươi thực sự mưu cầu lẽ thật. Nói cách khác, liệu ngươi có thực sự yêu mến lẽ thật ở một mức độ nhất định và có thể mưu cầu và thực hành lẽ thật không hay ngươi chỉ yêu mến lẽ thật một chút nhưng không thể hoàn toàn tiếp nhận và thực hành lẽ thật? Kết quả cuối cùng sẽ cho ngươi câu trả lời. Được rồi, chúng ta sẽ kết thúc mối thông công về chủ đề này ở đây.

Tiêu chuẩn và cơ sở phân định các loại kẻ ác

II. Dựa vào nhân tính

Tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục thông công về chức trách thứ 14 của lãnh đạo và người làm công: “Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ”. Tiêu chuẩn phân định các loại kẻ ác được chia thành ba loại chính. Trước đó chúng ta đã thông công về mục đích của một người khi tin vào Đức Chúa Trời, sau đó chuyển sang thông công về nhân tính của người đó. Về mặt nhân tính của một người, chúng ta cũng đã phân chia thành nhiều biểu hiện. Một số biểu hiện mà chúng ta đã thông công là gì? Các ngươi hãy đọc đi. (Thưa, mục thứ hai để phân định các loại kẻ ác liên quan đến nhân tính của một người. Thứ nhất, thích đâm bị thóc và chọc bị gạo; thứ hai, thích lợi dụng; thứ ba, phóng đãng và không ràng buộc; thứ tư, thích trả thù; thứ năm, không giữ được lời ăn tiếng nói.) Chúng ta đã thông công đến điểm thứ năm về việc không biết giữ lời ăn tiếng nói. Bất kể chúng ta thông công những biểu hiện cụ thể về phương diện nhân tính hay phương diện khác, thì như Ta đã nói, hiệu quả đối với từng loại người sẽ khác nhau. Sau khi nghe giảng, những người mưu cầu lẽ thật sẽ chú trọng vào việc kiểm điểm bản thân. Họ sẽ đối chiếu bản thân với những gì Ta thông công và có lối vào chủ động, tích cực. Tuy nhiên, những người không mưu cầu lẽ thật, chẳng hạn như người đem sức lực phục vụ, thì chỉ nghe xong là hết chuyện. Họ không để trong lòng hay để tâm trong lúc nghe. Thỉnh thoảng, họ còn ngủ thiếp đi trong khi nghe giảng. Họ nghe không lọt tai và thậm chí còn nghĩ: “Nghe những chuyện vặt vãnh này thì có ích gì? Thật mất thời gian. Tôi còn chưa hoàn thành công việc đang làm!”. Họ luôn nghĩ đến những công việc cần ra sức. Họ đặc biệt hăm hở và để tâm trong việc ra sức, thể hiện lòng trung thành, nhưng lại không thể hăng hái trong những chuyện liên quan đến lẽ thật. Điều này cho thấy rõ ràng rằng loại người này không có hứng thú với lẽ thật. Họ thỏa mãn với việc chỉ cần ra sức. Cũng có một nhóm người mà bất kể nhà Đức Chúa Trời thông công về lẽ thật như thế nào thì họ vẫn giữ thái độ: “Tôi sẽ chỉ chống lại và đối kháng. Ngay cả khi anh chỉ ra vấn đề của tôi và phơi bày biểu hiện, sự bộc lộ cũng như tâm tính của tôi, thì tôi vẫn không để ý và sẽ phớt lờ. Nếu người khác biết chuyện tôi đang bị phơi bày thì sao?”. Họ chỉ mặt dày tiếp tục chống đối và kháng cự, đúng là vô phương cứu chữa. Bất luận thế nào, biểu hiện của các loại người khác nhau vẫn có sự khác biệt. Cho dù đối với người theo đuổi lẽ thật, người nguyện ý ra sức nhưng không yêu lẽ thật, hay người cảm thấy phản cảm và chán ghét lẽ thật, thì lẽ thật cũng là con dao hai lưỡi, là đá thử vàng có thể đo lường thái độ của con người đối với lẽ thật và cả con đường họ đi.

F. Làm càn làm bậy, không ai dám chọc giận

Trước đây, chúng ta đã thông công về cách phân định năm biểu hiện của các loại kẻ ác. Hôm nay, chúng ta sẽ tiếp tục thông công về biểu hiện thứ sáu. Mục thứ sáu này cũng là biểu hiện của một loại kẻ ác, hoặc có thể nói là dù không coi loại người này là kẻ ác thì mọi người vẫn không ưa họ. Tại sao lại thế? Đó là vì loại người này không có lương tâm và lý trí, không có nhân tính bình thường, mọi người cảm thấy đặc biệt phiền phức, khó hòa hợp và phản cảm khi sống chung với họ. Biểu hiện cụ thể của loại người này là gì? Đó là làm càn làm bậy, và không ai dám chọc giận họ. Trong hội thánh có người như vậy không? Không nhiều, nhưng chắc chắn là có. Vậy biểu hiện cụ thể của họ là gì? Khi yên ổn bình thường, những người này có thể thực hiện bổn phận một cách bình thường và tiếp xúc với người khác cũng rất bình thường. Ngươi sẽ không thấy bất cứ tâm tính hung ác nào ở họ. Nhưng khi việc làm của họ vi phạm nguyên tắc lẽ thật và họ bị tỉa sửa, họ sẽ nổi cơn tam bành, không hề tiếp nhận lẽ thật và lại còn ngụy biện cho mình. Đột nhiên, ngươi phát hiện ra rằng họ quả thật là một con nhím toàn thân đầy gai, một con hổ không thể chạm vào. Ngươi nghĩ: “Mình đã ở chung với người này một thời gian dài. Mình cứ tưởng rằng họ có tính cách không xấu, thấu tình đạt lý và dễ nói chuyện, đồng thời tin rằng họ có thể tiếp nhận lẽ thật. Mình không ngờ họ lại là người làm càn làm bậy. Sau này mình phải cẩn thận hơn khi ở chung với họ, hạn chế qua lại trừ phi cần thiết và giữ khoảng cách để tránh chọc giận họ”. Ngươi đã từng thấy loại người làm càn làm bậy như vậy chưa? Thông thường, những người hiểu rõ họ sẽ biết họ lợi hại thế nào và do đó sẽ đặc biệt khiêm nhường, cẩn thận khi nói chuyện với họ. Đặc biệt, khi nói chuyện với họ, ngươi tuyệt đối không được làm tổn thương họ, nếu không thì ngươi sẽ gặp vô vàn rắc rối với họ. Có một số người nói: “Rốt cuộc thì ai mà hỗn láo thế? Chúng tôi chưa từng gặp họ”. Trong trường hợp đó, chúng ta thực sự phải nói về vấn đề này. Ví dụ, khi các anh chị em thông công về quá trình trải nghiệm của mình, khi một số người nói về tình trạng bại hoại hoặc khó khăn của riêng họ, những người khác sẽ khó tránh khỏi đồng cảm và có trải nghiệm hoặc cảm giác tương đồng. Đây là điều rất bình thường. Sau khi nghe, người ta sẽ nghĩ: “Tôi cũng có trải nghiệm giống như anh, vậy chúng ta hãy cùng thông công về chủ đề này nhé. Tôi muốn nghe xem trải nghiệm của anh thế nào. Nếu sự thông công của anh có ánh sáng và có liên quan đến một vấn đề mà tôi gặp phải, thì tôi sẽ tiếp nhận và thực hành theo trải nghiệm cũng như con đường của anh để xem kết quả thế nào”. Chỉ có một loại người, mà khi nghe người khác thông công về việc nhận thức bản thân và thể hiện sự bại hoại, xấu xí của mình, lại nghĩ rằng người ta đang phơi bày và phán xét họ một cách trá hình. Họ không nhịn được mà nổi giận đập bàn: “Ai mà không có sự bại hoại? Ai mà lại sống trong chân không? Theo tôi thấy, sự bại hoại của các anh thậm chí còn nghiêm trọng hơn tôi! Các anh có tư cách gì mà nhằm vào tôi, phơi bày tôi? Tôi thấy các anh chỉ muốn làm khó tôi, bài xích tôi! Chẳng phải chỉ vì tôi xuất thân từ nông thôn và không biết nói những lời dễ nghe để lấy lòng các anh hay sao? Chẳng phải vì trình độ học vấn của tôi không cao bằng các anh hay sao? Đến Đức Chúa Trời cũng không coi thường tôi, vậy thì các anh dựa vào đâu mà coi thường tôi!”. Những người khác nói: “Đây chỉ là sự thông công bình thường chứ không hề nhằm vào anh. Chẳng phải tâm tính bại hoại của mọi người đều giống nhau sao? Khi có người thông công về chủ đề nào đó và nói về tình trạng bại hoại của riêng mình, thì không thể tránh khỏi việc người khác cũng gặp tình trạng tương đồng. Nếu anh cảm thấy mình gặp tình trạng tương đồng thì anh cũng có thể thông công về trải nghiệm của mình”. Khi đó, họ sẽ trả lời: “Vậy sao? Nếu chỉ có một người thông công như vậy với tôi thì tôi có thể chịu đựng, nhưng tại sao hai, ba người các anh lại hùa nhau ức hiếp tôi? Các anh nghĩ tôi dễ bị ức hiếp lắm sao?”. Chẳng phải là họ càng nói càng xa sao? (Thưa, phải.) Những người này có lý trí khi nói những lời như vậy không? (Thưa, không.) Nếu ngươi thực sự nghĩ chủ đề thông công của người khác là nhằm vào ngươi, thì ngươi có thể thảo luận hoặc thông công về chủ đề này. Ngươi có thể trực tiếp hỏi người đó xem có phải người đó nhằm vào ngươi hay không, thay vì lôi xuất thân nông dân, trình độ học vấn thấp hay việc người khác coi thường ngươi vào. Nói những điều đó thì có ích gì? Đó chẳng phải là nói bậy bạ về chuyện đúng sai hay sao? Như thế chẳng phải là làm càn làm bậy sao? (Thưa, phải.) Các ngươi có nghĩ những người này thật đáng sợ không? (Thưa, có.) Sau khi anh ta làm ầm lên như vậy thì mọi người đều biết anh ta là loại người gì. Khi thông công trong các buổi nhóm họp sau này, mọi người luôn luôn phải nói chuyện cẩn thận và quan sát sắc mặt anh ta. Nếu vẻ mặt anh ta u ám, người khác sẽ không dám nói chuyện và cảm thấy ngột ngạt trong khi thông công tại các buổi nhóm họp. Đây chẳng phải là sự kìm kẹp và gây nhiễu loạn mà anh ta mang đến cho người khác vì hành vi làm càn làm bậy của mình sao? (Thưa, phải.) Những người làm càn làm bậy đều là người bất chấp lý lẽ. Họ không tiếp nhận lẽ thật và không thể được cứu rỗi.

Loại người làm càn làm bậy này còn có một biểu hiện nữa. Trong các buổi nhóm họp, một số người luôn nói: “Tôi không thể cứ qua loa chiếu lệ được nữa. Tôi cần chú trọng thực hành lẽ thật. Tôi cần mưu cầu sự hoàn mỹ. Tôi là người trời sinh hiếu thắng. Dù làm gì, tôi cũng phải làm tử tế”. Họ nói thì hay nhưng trong thực tế, họ vẫn qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận. Bổn phận họ thực hiện có rất nhiều vấn đề và còn xa mới đạt được hiệu quả làm chứng cho Đức Chúa Trời. Khi lãnh đạo chỉ ra vấn đề trong việc thực hiện bổn phận của họ và tỉa sửa họ, họ liền nổi giận và nói: “Tôi biết mà. Các anh đều phán xét tôi sau lưng tôi, nói rằng nghiệp vụ chuyên môn của tôi kém cỏi. Chẳng phải các anh đều coi thường tôi sao? Đó chỉ là một lỗi nhỏ thôi. Các anh có cần thiết phải tỉa sửa tôi như vậy không? Hơn nữa, ai mà không mắc lỗi chứ? Anh nói tôi qua loa chiếu lệ, nhưng chẳng phải trước kia khi thực hiện công tác của mình, anh cũng qua loa chiếu lệ hay sao? Anh có đủ tư cách chỉ trích tôi không? Nếu không có sự phối hợp của tôi, liệu ai trong các anh có thể gánh vác công tác này?”. Ngươi nghĩ sao về loại người này? Họ không cho phép người khác chỉ ra khuyết điểm của họ hay đưa ra ý kiến trong bất cứ việc gì họ làm. Đến cả sự tỉa sửa chính đáng họ cũng không tiếp nhận. Bất kể ai lên tiếng, họ cũng chống lại và đối kháng. Họ nói ra những điều không có lí lẽ, thậm chí còn nói rằng họ bị coi thường hoặc rằng họ bị ức hiếp vì thế đơn lực mỏng, hay những điều tương tự khác. Như vậy chẳng phải là ngang ngược và làm càn làm bậy sao? Thậm chí còn có người sau khi bị tỉa sửa thì mặc kệ bổn phận: “Tôi sẽ không thực hiện công tác này nữa. Các anh làm được thì làm đi. Để xem các anh có còn thực hiện được công tác này nếu không có tôi không”. Các anh chị em cố gắng khuyên giải họ nhưng họ không nghe. Ngay cả khi lãnh đạo và người làm công thông công về lẽ thật với họ, họ cũng không tiếp nhận. Họ bắt đầu tự cao tự đại và mặc kệ bổn phận của mình. Trong các buổi nhóm họp, họ sẽ bĩu môi, không đọc lời Đức Chúa Trời và cũng không thông công. Họ luôn là người đến muộn nhất và ra về sớm nhất. Khi ra về, họ dậm chân và đóng sầm cửa lại, hầu hết mọi người đều không biết phải làm sao với họ. Khi gặp chuyện, họ sẽ đưa ra những lập luận phi lý, nói những lời vô vị, tỏ ra ngang ngược và thậm chí còn ném đồ đạc. Họ quả thật là bất chấp lý lẽ. Một số người còn có biểu hiện nghiêm trọng hơn nữa. Nếu khi gặp mặt các anh chị em không chào hỏi họ, họ sẽ không hài lòng và nhân cơ hội trong buổi nhóm họp mà khóc lóc kể lể: “Tôi biết các anh đều coi thường tôi. Trong các buổi nhóm họp, các anh chỉ chăm chăm thông công lời đức chúa trời và thảo luận về nhận thức trải nghiệm của riêng mình. Không ai quan tâm đến tôi, không ai mỉm cười với tôi, và không ai ra tiễn tôi khi tôi rời đi. Các anh là loại tín hữu nào vậy? Các anh thực sự không có nhân tính!”. Họ lăn lộn khóc lóc như vậy ở hội thánh. Ngay cả những chuyện vặt vãnh cũng có thể chọc giận họ, khiến họ trút hết mọi oán hận chất chứa. Rõ ràng là họ đang bộc lộ tâm tính bại hoại của mình, nhưng họ không phản tỉnh, không nhận thức được bản thân và không muốn mưu cầu sự thay đổi hay lẽ thật. Thay vào đó, họ gây phiền phức cho người khác, tìm đủ mọi cớ để cân bằng tâm lý của mình, đồng thời tìm cơ hội để trút giận. Quan trọng hơn, họ muốn khiến nhiều người để ý đến họ và sợ họ hơn. May ra thì trong số đó, họ sẽ có uy danh và sự quan tâm nhất định. Những người như vậy thật phiền phức! Bất kể họ nói gì, không ai dám nói “không”. Không ai dám tùy tiện đánh giá họ. Không ai dám thông công với họ một cách thoải mái. Ngay cả khi phát hiện ra một số thói xấu và tâm tính bại hoại của họ thì cũng không ai dám chỉ ra cho họ biết. Trong các buổi nhóm họp, khi thông công về trải nghiệm cá nhân và nhận thức của mình về lời Đức Chúa Trời, mọi người đều cẩn thận lảng tránh “tổ ong bắp cày” này, sợ chọc giận họ và gây rắc rối. Cũng có một số người trút giận trong các buổi nhóm họp sau khi cảm thấy bị chèn ép hoặc gặp chuyện không như ý ở nhà hoặc trong công tác. Rõ ràng là họ đã biến các anh chị em thành nơi trút giận và bao cát của họ. Khi không vui, họ đưa ra những lập luận phi lý, lăn lộn khóc lóc. Ai dám thông công về lẽ thật với họ chứ? Nếu có người thông công với họ và nhỡ có lời nào động chạm đến họ, họ sẽ dọa tự tử. Như thế thì còn phiền phức hơn nữa. Với người như vậy, người khác không thể thông công bình thường, không thể nói chuyện bình thường, không thể quá nhiệt tình hay quá lạnh nhạt, không thể tránh né, không thể đến quá gần. Nếu các anh chị em không vui vì niềm vui của họ thì không được. Nếu các anh chị em không khổ não vì khó khăn của họ thì cũng không được. Làm thế nào cũng không được. Dù làm gì thì cũng có thể chọc giận và chọc tức họ. Bất kể mọi người đối xử với họ như thế nào, họ cũng không bao giờ thỏa mãn. Ngay cả việc Ta giảng và thông công về tình trạng của một số người cũng có thể chọc giận họ. Vì sao điều này lại chọc giận họ? Họ nghĩ: “Đây chẳng phải là phơi bày tôi sao? Ngài thậm chí còn chưa tiếp xúc với tôi, và tôi cũng chưa kể với ngài bất cứ điều gì về những việc tôi đã làm phía sau. Làm sao ngài biết được? Nhất định là có người đã mách lẻo. Tôi phải tìm ra ai đã liên hệ với ngài, ai đã mách lẻo, ai đã tố giác tôi. Tôi sẽ cho người đó biết tay!”. Loại người làm càn làm bậy này có thể có những suy nghĩ sai lệch về bất cứ chuyện gì và không thể cư xử đúng đắn trong bất cứ việc gì. Họ chính là người bất chấp lý lẽ. Họ hoàn toàn không thể phân rõ phải trái, lại càng không có khả năng tiếp nhận lẽ thật. Nếu họ ở lại hội thánh thì sẽ chỉ có hại và không có ích gì. Họ chỉ là gánh nặng, là phiền toái cần sớm loại bỏ. Phải mau mau thanh lọc họ!

Ở Trung Quốc, những người tin vào Đức Chúa Trời đều bị con rồng lớn sắc đỏ trấn áp và hãm hại. Có quá nhiều người bị truy bắt và không thể trở về nhà. Nhưng một số người, khi bị hãm hại và không thể trở về nhà, lại tưởng rằng họ đã có công hoặc đủ tư cách. Họ sống với gia đình chủ nhà và không chỉ được mọi người phục vụ mà chỉ cần mọi chuyện có chút không như ý hay họ nhớ nhà, họ sẽ bắt đầu càn quấy và những người khác sẽ phải dỗ dành, nhường nhịn họ. Những người như vậy chẳng phải là làm càn làm bậy sao? Có quá nhiều người bị hãm hại, và có rất ít gia đình chủ nhà. Chính vì lòng yêu thương mà các anh chị em mới tiếp đãi những người không thể trở về nhà. Các anh chị em không để họ phiêu bạt trên phố mà cho họ sống trong nhà mình. Đây chẳng phải là ân điển của Đức Chúa Trời sao? Nhưng có một số người không những không cảm tạ ân điển của Đức Chúa Trời mà còn không thấy được lòng yêu thương của các anh chị em. Trái lại, họ cảm thấy ấm ức và thậm chí còn oán hận và trở nên ngang ngạnh. Kỳ thực, điều kiện sống ở nhà các anh chị em còn có phần tốt hơn sống ở nhà mình. Đặc biệt là về phương diện tin vào Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, thì ở nhà các anh chị em còn tốt hơn ở nhà mình, và có sự phối hợp hài hòa của các anh chị em luôn tốt hơn nhiều là cô đơn một mình. Mặc dù điều kiện sống ở một số vùng không được tốt lắm, nhưng vẫn đạt mức sống trung bình. Điều quan trọng nhất là họ có thể sống cùng các anh chị em, thường xuyên nhóm họp và ăn uống lời Đức Chúa Trời, hiểu được nhiều lẽ thật hơn và biết được mục tiêu mình theo đuổi là gì. Vì vậy, những người mưu cầu lẽ thật có thể trả cái giá đó và chịu nỗi khổ đó. Hầu hết mọi người đều có thái độ đúng đắn đối với chuyện này. Họ có thể đón nhận từ Đức Chúa Trời, biết rằng nỗi khổ đó là đáng giá, là nỗi khổ họ đáng phải chịu. Họ có thể nhìn nhận nỗi khổ đó một cách đúng đắn. Nhưng một số người làm càn làm bậy và ngang ngạnh lại không đón nhận mọi chuyện theo cách này. Họ có thể miễn cưỡng chịu được việc không thể trở về nhà trong một tuần, nhưng sau hai tuần, họ bắt đầu buồn bực. Và sau một, hai tháng, họ bắt đầu tỏ ra ngang ngạnh. Họ nói: “Tại sao người một nhà các anh có thể vui vẻ đoàn tụ mà tôi lại không thể trở về nhà mình? Tại sao tôi không có tự do trong khi các anh đều có thể tự do ra vào?”. Những người khác trả lời họ: “Đó chẳng phải là do con rồng lớn sắc đỏ hãm hại sao? Chẳng phải chịu đựng nỗi khổ này là việc chúng ta cần phải làm khi đi theo Đức Chúa Trời sao? Chịu đựng chút đau khổ này thì có gì to tát chứ? Với bối cảnh như vậy thì có gì để kén chọn đây? Nếu người khác có thể chịu đựng nỗi khổ này thì tại sao anh lại không thể?”. Những người làm càn làm bậy không muốn chịu một chút khổ cực nào. Nếu bị bắt và bỏ tù, chắc chắn họ sẽ trở thành Ju-đa. Cuộc sống ở gia đình chủ nhà có thể khổ cực đến đâu chứ? Thứ nhất, dẫu sao đồ ăn vẫn là cơm canh cho con người. Thứ hai, không ai làm khó ngươi. Thứ ba, không ai ức hiếp ngươi. Chỉ là ngươi không thể trở về nhà và đoàn tụ với gia đình. Và chút khổ cực này đơn giản là điều mà những người làm càn làm bậy không thể đón nhận. Khi người khác thông công về lẽ thật cho họ, họ không những không nghe lọt tai mà còn nói những điều như: “Đừng có giảng giải với tôi những đạo lý to tát đó. Tôi hiểu biết không kém gì anh đâu. Tôi hiểu hết! Anh chỉ cần cho tôi biết khi nào tôi có thể trở về nhà? Khi nào thì con rồng lớn sắc đỏ sẽ ngừng giám thị nhà tôi? Khi nào thì tôi có thể trở về nhà mà không bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ? Nếu không biết khi nào mình có thể trở về nhà thì tôi cũng chẳng sống được!”. Họ lại bắt đầu làm ầm lên, rồi ngồi bệt xuống đất đá chân, càng đá càng tức giận. Họ cũng bộc phát một cách ngang ngạnh và khóc lóc than vãn. Những người khác nói: “Anh nói nhỏ thôi. Nếu anh cứ làm ầm lên như vậy để hàng xóm xung quanh nghe thấy và phát hiện có người ngoài sống trong nhà thì chẳng phải chúng ta sẽ bị lộ sao?”. Họ trả lời: “Tôi mặc kệ, tôi cứ muốn làm ầm lên đấy! Các anh đều có thể trở về nhà nhưng tôi thì không. Thật không công bằng! Tôi sẽ làm ầm lên đến chừng nào các anh cũng không thể trở về nhà, giống như tôi vậy!”. Sự bộc phát ngang ngạnh của họ không hề giảm đi, mà tính xấu của họ còn nổi lên. Không ai có thể nói lý lẽ với họ, không ai có thể khuyên nhủ họ. Khi tâm tình họ tốt hơn một chút, họ yên tĩnh lại và không làm ầm ĩ nữa. Nhưng ai mà biết được, một ngày nào đó họ lại cư xử ngang ngạnh và làm ầm lên: Họ lại muốn ra ngoài đi dạo, muốn được tự do, và nói lớn tiếng ở nhà. Họ sẽ không ngừng lập kế hoạch để về nhà. Các anh chị em báo với họ: “Nếu anh về nhà thì nguy hiểm lắm. Cảnh sát đang cắm chốt theo dõi đấy”. Họ trả lời: “Tôi mặc kệ. Tôi muốn trở về! Nếu họ bắt tôi thì cứ để họ bắt thôi! Có gì to tát chứ? Cùng lắm thì tôi sẽ trở thành Ju-đa!”. Như vậy chẳng phải là điên sao? (Thưa, phải.) Họ công khai nói rằng họ sẽ trở thành Ju-đa. Vậy thì ai còn dám tiếp đãi họ? Có ai muốn tiếp đãi Ju-đa không? (Thưa, không.) Người như vậy có phải là người tin vào Đức Chúa Trời không? Các anh chị em tiếp đãi họ như một người tin vào Đức Chúa Trời. Nếu nhân tính của họ hơi thiếu sót thì còn có thể chịu đựng được. Việc họ không mưu cầu lẽ thật cũng có thể chịu đựng được. Nhưng họ lại có thể hãm hại các anh chị em bằng cách bán đứng hội thánh và trở thành Ju-đa, khiến nhiều người không thể trở về nhà hay thực hiện bổn phận của mình một cách bình thường. Ai có thể đảm đương hậu quả này? Liệu ngươi có dám tiếp đãi loại kẻ thù này không? Tiếp đãi họ chẳng phải là tự gây phiền phức cho mình sao?

Khi làm việc, những người làm càn làm bậy chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, tùy tâm sở dục. Lời nói của họ chỉ toàn những lập luận phi lý và tà thuyết và họ bất chấp lý lẽ. Tâm tính của họ tràn ngập sự hung ác. Không ai dám kết giao với họ, và không ai sẵn lòng thông công về lẽ thật với họ, vì sợ rước họa vào thân. Những người khác cảm thấy lo lắng mỗi khi nói ra suy nghĩ của mình với họ, sợ rằng nếu nói một lời nào đó mà họ không thích hoặc không hợp ý của họ, thì họ sẽ nắm lấy điều đó và đưa ra những lời buộc tội thái quá. Chẳng phải những người như vậy tà ác sao? Chẳng phải họ là quỷ sống sao? Tất cả những kẻ có tâm tính xấu xa và lý trí sai lạc đều là những con quỷ sống. Và khi ai đó tương tác với quỷ sống, họ có thể chuốc họa vào thân chỉ với một phút bất cẩn. Chẳng phải sẽ gây rắc rối lớn nếu những con quỷ sống như thế có mặt trong hội thánh sao? (Thưa, sẽ như vậy.) Sau khi những con quỷ sống này nổi cơn tam bành và trút giận, họ có thể nói như một con người trong một thời gian và xin lỗi, nhưng sau đó họ sẽ không thay đổi. Ai biết được khi nào tâm trạng của họ sẽ trở nên tồi tệ và họ sẽ nổi cơn tam bành khác, phun ra những lập luận phi lý. Mục tiêu họ lăn lộn khóc lóc và trút giận mỗi lần mỗi khác; cũng như nguồn cơn và bối cảnh sự khiến họ trút giận. Tức là, bất cứ điều gì cũng có thể khiến họ nổi đóa, bất cứ điều gì cũng có thể khiến họ không hài lòng, và bất cứ điều gì cũng có thể khiến họ phản ứng bằng cách lăn lộn khóc lóc và hành vi ngang ngạnh. Thật kinh khủng! Thật rắc rối! Những kẻ ác loạn trí này có thể mất trí bất cứ lúc nào, không ai biết họ có khả năng làm gì. Ta căm ghét nhất những người như vậy. Từng người trong bọn họ đều phải bị thanh lọc – tất cả bọn họ phải bị thanh trừ. Ta không muốn dính líu đến họ. Họ suy nghĩ mụ mị và có tâm tính hung bạo, đầy những lập luận phi lý và lời của quỷ, và khi có chuyện xảy đến với họ, họ trút giận về những chuyện đó một cách hung hăng. Một số kẻ thì khóc khi trút giận, những kẻ khác thì la hét, có kẻ thì dậm chân, thậm chí có kẻ lắc đầu và khua tay múa chân. Họ chỉ là cầm thú, không phải con người. Khi mất bình tĩnh, một số đầu bếp sẽ đập nồi và đĩa, còn một số người khác có nuôi heo hoặc chó thì lại đá và đánh những con vật này, trút hết cơn giận dữ lên chúng. Bất kể chuyện gì xảy ra, những người này luôn nổi giận. Họ không suy nghĩ bình tĩnh hay đón nhận chuyện đó từ Đức Chúa Trời. Họ không cầu nguyện hay mưu cầu lẽ thật, và cũng không tìm kiếm sự thông công với những người khác. Khi bất đắc dĩ, họ sẽ nhẫn nại. Khi không muốn nhẫn nại, họ sẽ phát điên, đưa ra những lập luận phi lý, chỉ trích và lên án người khác. Họ thường nói những lời như: “Tôi biết các anh đều có học vấn và coi thường tôi”; “Tôi biết gia đình các anh giàu có và các anh chê tôi nghèo”; hoặc “Tôi biết các anh chê tôi vì tôi không có cơ sở trong việc tin vào Đức Chúa Trời cũng như tôi không mưu cầu lẽ thật”. Họ biết rõ bản thân có nhiều vấn đề nhưng không bao giờ mưu cầu lẽ thật để giải quyết chúng, họ cũng không thảo luận về việc nhận thức bản thân khi thông công với người khác. Khi vấn đề của chính họ được đề cập, họ sẽ chuyển hướng sự chú ý và quật ngược lại, đổ hết vấn đề và trách nhiệm cho người khác, thậm chí oán trách rằng lý do cho hành vi của họ là vì người khác đối xử với họ không tốt. Cứ như thể việc họ lăn lộn khóc lóc và cố tình gây sự là do người khác gây ra; cứ như thể tất cả những người khác đều có lỗi, còn họ chỉ bất đắc dĩ làm như vậy và họ chỉ phòng vệ chính đáng. Cứ khi nào không thỏa mãn, họ lại bắt đầu trút hết bực dọc và nói bậy bạ, khăng khăng đưa ra những lập luận phi lý như thể mọi người khác đều sai, chỉ có họ mới là người tốt còn những người khác đều xấu. Cho dù họ lăn lộn khóc lóc hay đưa ra những lập luận phi lý như thế nào, họ vẫn đòi người khác phải nói tốt về họ. Ngay cả khi họ làm việc xấu, họ cũng không cho phép người khác phơi bày hay chỉ trích họ. Nếu ngươi chỉ ra dù chỉ là một vấn đề nhỏ của họ, họ sẽ lôi ngươi vào những cuộc tranh cãi không hồi kết và ngươi đừng mong được sống dễ chịu. Đây là loại người gì? Đây là người làm càn làm bậy và người làm càn làm bậy chính là kẻ ác.

Những người làm càn làm bậy thường không làm ra những chuyện đại gian đại ác, nhưng ngay khi gặp chuyện liên quan đến lợi ích, danh tiếng và tôn nghiêm của họ, thì họ lập tức nổi trận lôi đình, lăn lộn khóc lóc, hành động ngang ngạnh, thậm chí đòi tự tử. Nói Ta nghe, nếu trong gia đình có một người vô lý và thô lỗ quá đáng như thế, thì chẳng phải cả gia đình gặp tai ương rồi sao? Trong nhà đó sẽ ngày ngày chìm trong hỗn loạn, kêu khóc om sòm, đến mức không thể sống nổi. Một vài hội thánh có những người như thế, mặc dù lúc bình thường vô sự thì không nhìn ra được, nhưng chẳng biết lúc nào họ sẽ lên cơn và hiện nguyên hình. Biểu hiện chính của những người này là lăn lộn khóc lóc, ngụy biện vô lý, chửi bóng chửi gió, và nhiều biểu hiện khác nữa. Kể cả nếu họ chỉ bộc lộ những biểu hiện này mỗi tháng một lần, hay nửa năm một lần, thì cũng đã khiến người ta thấy rất khó xử và phiền não, khiến đời sống hội thánh của hầu hết mọi người bị quấy nhiễu ở nhiều mức độ khác nhau. Nếu thật sự xác định được ai đó là loại người này, thì nên nhanh chóng xử lý và thanh trừ họ khỏi hội thánh. Có người nói: “Loại người này cũng đâu làm việc ác gì. Không thể xem họ là kẻ ác, chúng ta nên bao dung và kiên nhẫn với họ”. Nói Ta nghe, không xử lý những người như thế thì có ổn không? (Thưa, không ổn.) Tại sao lại không ổn? (Thưa, bởi vì hành động của họ gây ra nhiều phiền hà và khổ não cho hầu hết mọi người, còn làm nhiễu loạn đời sống hội thánh.) Dựa trên kết quả này, rõ ràng là những người có thể gây nhiễu loạn đời sống hội thánh, cho dù không phải là kẻ địch lại Đấng Christ, thì cũng không nên được giữ lại trong hội thánh. Lý do là vì những người này không yêu thích lẽ thật, mà là chán ghét lẽ thật, và dù có tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, nghe bao nhiêu bài giảng, họ cũng không tiếp nhận lẽ thật. Một khi làm việc xấu gì đó và bị tỉa sửa, thì họ sẽ lăn lộn khóc lóc, nói càn nói bậy. Kể cả khi có người thông công lẽ thật cho họ, họ cũng không tiếp nhận. Chẳng ai nói lý lẽ với họ được. Kể cả khi Ta thông công lẽ thật cho họ, thì dù bề ngoài họ chẳng nói gì, nhưng trong lòng lại không tiếp nhận, rồi khi gặp chuyện, họ vẫn cứ làm như cũ. Ngay cả lời Ta mà họ còn không nghe, các ngươi khuyên thì họ càng không tiếp nhận. Dù những người này không làm việc đại ác nào, nhưng họ cũng chẳng hề tiếp nhận lẽ thật. Xét về thực chất bản tính của họ, thì họ không những không có lương tâm và lý trí, mà còn làm càn làm bậy, bất chấp lý lẽ. Người như thế có thể đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời không? Tuyệt đối không thể! Những người không tiếp nhận lẽ thật chút nào là kẻ chẳng tin, là sai dịch của Sa-tan. Khi chuyện không được như ý, là họ lăn lộn khóc lóc, nhất mực đưa ra những lập luận phi lý, thông công lẽ thật thế nào họ cũng không chịu nghe. Những người như thế là kẻ làm càn làm bậy, là ma quỷ và tà linh thuần túy, còn tệ hơn cả súc sinh! Họ là những kẻ bị bệnh thần kinh với lý trí không ổn, không bao giờ có thể thực sự hối cải. Họ càng ở lâu trong hội thánh thì càng có nhiều quan niệm về Đức Chúa Trời, càng nảy sinh nhiều đòi hỏi vô lý với nhà Đức Chúa Trời, càng gây nhiễu loạn và tổn hại lớn hơn cho đời sống hội thánh. Như thế là ảnh hưởng đến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn và tiến độ thông thường của công tác hội thánh. Họ gây tổn hại cho công tác hội thánh không thua gì những kẻ ác, nên thanh trừ họ từ sớm mới phải. Có vài người nói: “Chẳng phải họ chỉ hơi ngang ngạnh sao? Họ đâu đến mức là kẻ ác, đối xử với họ bằng tình yêu thương chẳng phải là tốt hơn sao? Nếu giữ họ lại, có lẽ họ có thể biến đổi và được cứu rỗi”. Ta nói cho ngươi nghe, đây là chuyện không thể nào! Trong chuyện này không có cái “có lẽ” đâu, loại người này tuyệt đối không thể được cứu rỗi. Bởi vì họ không hiểu lẽ thật, càng không tiếp nhận lẽ thật, họ không có lương tâm và lý trí, đầu óc và tư duy của họ không bình thường, còn thiếu cả thường thức cư xử căn bản nhất. Họ chính là những kẻ có lý trí bất ổn. Đức Chúa Trời tuyệt đối không cứu rỗi những người như vậy. Ngay cả những người có tư duy bình thường hơn một chút và tố chất tốt hơn, nếu hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật, thì cũng không thể được cứu rỗi, chứ đừng nói đến những người có lý trí bất ổn. Nếu vẫn đối xử với loại người này bằng lòng yêu thương và vẫn còn hy vọng vào họ thì chẳng phải quá ngu muội và thiếu hiểu biết sao? Bây giờ Ta sẽ nói cho các ngươi biết: Việc thanh lọc những người làm càn làm bậy và bất chấp lý lẽ ra khỏi hội thánh là hoàn toàn đúng đắn. Việc đó sẽ cắt đứt tận gốc sự quấy rối của họ đối với hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn. Đây là chức trách của lãnh đạo và người làm công. Nếu có những người bất chấp lý lẽ như vậy trong bất cứ hội thánh nào, thì dân được Đức Chúa Trời chọn phải tố giác họ. Và sau khi dân được Đức Chúa Trời chọn tố giác, lãnh đạo và người làm công phải nhanh chóng xử lý họ. Đây là nguyên tắc xử loại người thứ sáu, tức là người làm càn làm bậy.

G. Luôn tìm sự dâm loạn

Loại người thứ bảy là những người tìm sự dâm loạn, một nhóm người thường được nhắc đến. Mặc dù biểu hiện nhân tính của họ không quá xấu xa – không có những chuyện như gây xích mích, hoặc hành ác và gây nhiễu loạn – nhưng họ có một đặc điểm chung là các vấn đề và sự cố luôn nảy sinh trong mối quan hệ của họ với người khác giới. Bất kể có cơ hội hay không, những vấn đề như vậy luôn xuất hiện đối với họ, và nếu không có cơ hội thì họ sẽ tạo ra cơ hội, để những “câu chuyện” như vậy vẫn xảy ra. Bất kể trường hợp nào, đối phương là ai, hoặc đối phương cách xa họ bao nhiêu, thì những chuyện như thế này vẫn thỉnh thoảng xảy ra đối với họ. Chuyện gì đã xảy ra? Chính là chuyện họ hẹn hò ai đó, luôn muốn gần gũi với ai đó, nảy sinh tình cảm với ai đó, hoặc để ý đến ai đó, v.v. Họ luôn không sống bình thường và không thực hiện bổn phận một cách bình thường, luôn bị ảnh hưởng bởi sự dâm loạn. Nghĩa là, trong các tình huống bình thường mà người bình thường không vướng vào những vấn đề như vậy, thì họ lại thường xuyên vướng vào. Họ không cần bất kỳ bối cảnh đặc biệt nào hoặc bất kỳ ai để tạo cơ hội cho họ; những chuyện này xảy ra một cách tự nhiên. Sau khi những chuyện như thế này xảy ra, bất kể hậu quả là gì, luôn có một nhóm người hoặc một ai đó phải trả giá. Cái giá phải trả là gì? Việc thực hiện bổn phận bị ảnh hưởng; công tác của hội thánh bị trì hoãn và chậm trễ; một số người trẻ bị quấy rầy và rơi vào cám dỗ, cũng như không còn hứng thú với việc tin vào Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình; và một số người thậm chí đã mất đi bổn phận hoặc từ bỏ bổn phận của mình. Những người tìm sự dâm loạn thì rất phiền phức. Mỗi lần đến nơi nào đó, họ đều có người khác giới vây quanh, tiếp cận, tán tỉnh, thậm chí liếc mắt đưa tình với họ. Tuy rằng không có vấn đề gì nghiêm trọng về thực chất có thể xảy ra, nhưng họ đã làm nhiễu loạn nghiêm trọng tình hình bình thường của những người được Đức Chúa Trời chọn khi những người này thực hiện bổn phận của mình. Họ đi đến đâu thì cũng mang phiền phức và sự nhiễu loạn cho người khác, cho công tác, và cho hội thánh, thậm chí quyến rũ người khác giới mà họ thấy có hứng thú miễn là có cơ hội, và thiết lập mối quan hệ với những người này. Điều này quá phiền phức. Một khi họ phải lòng ai thì người đó sẽ gặp xui xẻo, không thể tin vào Đức Chúa Trời hoặc thực hiện bổn phận của mình một cách bình thường nữa. Hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi. Người đó không thể ngừng liên lạc hoặc ngừng gặp người quyến rũ mình, và trong khi họ đang bận rộn thực hiện bổn phận, họ không thể kết hôn hoặc ổn định cuộc sống, và mối quan hệ vẫn không thể đoạn tuyệt. Cuối cùng thì chuyện gì xảy ra? Họ bắt đầu cảm thấy bị dày vò, vô cùng đau khổ! Nếu họ phải chịu đựng cho đến khi bị trừng phạt trong tai hoạ, thì mọi chuyện đã hoàn toàn kết thúc đối với họ, hy vọng được cứu rỗi của họ đã bị dập tắt. Một số người phạm tội một lần, và ngay cả khi họ bị tỉa sửa thì vẫn không hối cải, nhưng sau đó họ phạm tội lần thứ hai hoặc thậm chí lần thứ ba, trong hai hoặc ba năm có ba hoặc bốn mối quan hệ, điều này gây nhiễu loạn cho người được Đức Chúa Trời chọn và đời sống hội thánh, cũng như khiến người được Đức Chúa Trời chọn chán ghét họ. Điều này sẽ để lại vết nhơ và sự hối tiếc trong suốt quãng đời còn lại của họ.

Một số người, vì có chút ngoại hình, phong độ, cũng như có chút ân tứ và sở trường, hoặc đã đảm nhiệm một số công tác quan trọng, nên luôn có những người khác giới bám lấy họ như ruồi, vây quanh họ. Một số người phục vụ bữa ăn, dọn giường, giặt quần áo cho họ, mua cho họ sản phẩm chăm sóc sức khoẻ và mỹ phẩm, cũng như tặng họ những món quà nhỏ, v.v. Họ không từ chối ai đến với mình, trong lòng biết rằng người khác làm như vậy là không phù hợp nhưng họ không bao giờ từ chối, lại còn quyến rũ nhiều người khác giới cùng một lúc. Những người đó tranh giành nhau để có cơ hội phục vụ họ, cạnh tranh và ghen tuông lẫn nhau, trong khi người dâm loạn lại thích cảm giác này, cho rằng mình đầy sức hấp dẫn. Trên thực tế, tất cả người lớn đều hiểu chuyện giữa nam và nữ, thậm chí một số trẻ vị thành niên cũng hiểu; chỉ có những kẻ ngốc, người thiểu năng trí tuệ hoặc người mắc bệnh tâm thần mới không hiểu. Tại sao những người này phải tranh giành rất dữ dội để phục vụ và lấy lòng một người khác giới? Chẳng phải chỉ là muốn quyến rũ thôi sao? Không cần nói ra; mọi người đều biết chuyện gì đang xảy ra. Đó là điều mà ai cũng biết rõ là không phù hợp, nhưng họ lại không từ chối mà ngầm đồng ý – làm như vậy gọi là gì? Là tán tỉnh. Họ biết đó là sự quyến rũ giữa nam và nữ, nhưng vì sự kích thích do việc thoả mãn ham muốn nhục dục của xác thịt mang lại nên họ không muốn từ chối. Họ thấy rằng cảm giác này là một loại hưởng thụ, tốt hơn hương vị của bất kỳ món ngon nào trên thế giới, nên họ không từ chối. Nếu người có liên quan không từ chối, thì những người quyến rũ họ còn vui hơn, nghĩ rằng mình là người mà họ thích, trong lòng cảm thấy khá vui sướng. Và người đó nghĩ rằng miễn là không nảy sinh mối quan hệ nào về thực chất thì không được tính là chuyện nghiêm túc, rằng sự dâm loạn giữa những người ngoại đạo còn nghiêm trọng hơn, và rằng cùng lắm thì chuyện này được gọi là sự quyến rũ, giống như hẹn hò bình thường. Nhưng hẹn hò có phải như vậy không? Hôm nay với người này, ngày mai với người kia, mù quáng tán tỉnh và quyến rũ bất kỳ ai hết lần này đến lần khác. Loại người dâm loạn này đi đâu cũng muốn giải phóng ham muốn nhục dục, khoe khoang, và quyến rũ. Càng tán tỉnh nhiều người thì họ càng thấy vui. Nhưng cuối cùng thì sao? Sau khi họ khoe khoang nhiều lần, một số anh chị em phân định được họ và cùng nhau viết thư cho lãnh đạo cấp trên. Cuộc điều tra xác nhận sự việc là đúng, và người dâm loạn đã bị thanh lọc khỏi hội thánh. Các ngươi thấy sao? Chẳng phải con đường tin vào Đức Chúa Trời của họ kết thúc ở đó sao? Kết cục đã rõ ràng. Hành động và hành vi của họ đến con người cũng không thể chấp nhận được, nói gì đến Đức Chúa Trời. Hành vi mà những người này biểu hiện không đại diện cho mối quan hệ chính đáng giữa con người với nhau, cũng không phản ánh nhu cầu của người bình thường. Hành động của họ chỉ có thể được mô tả bằng một từ: “sự dâm loạn”. Sự dâm loạn có nghĩa là gì? Nghĩa là mối quan hệ lăng nhăng giữa nam và nữ, quyến rũ người khác một cách vô trách nhiệm, cũng như dụ dỗ và quấy rối người khác giới. Đó là đùa giỡn với nhục dục, và làm như vậy mà không cân nhắc đến cái giá phải trả hoặc hậu quả. Nếu cuối cùng có người mắc câu và vướng vào chuyện yêu đương với họ, thì họ sẽ không thừa nhận, và nói: “Tôi chỉ đùa thôi. Anh tưởng thật sao? Thực sự, tôi không có ý đó; anh nghĩ quá nhiều rồi”. Đây chẳng phải ma quỷ cám dỗ mọi người sao? Sau khi cám dỗ một người, họ tìm mục tiêu tiếp theo, quyến rũ những người khác. Họ thật xấu xa và tà ác làm sao! Sau khi quyến rũ một người, họ không thừa nhận. Nếu một người bị loại người này mê hoặc và quyến rũ, thì chẳng phải chuyện này rất ghê tởm sao? (Thưa, phải.) Loại người quyến rũ người khác một cách bừa bãi thì có đáng ghét không? (Thưa, có.) Ngay từ đầu, nhà Đức Chúa Trời đã nói rằng nếu một người đến tuổi kết hôn và là người trưởng thành, thì nhà Đức Chúa Trời không phản đối việc họ hẹn hò hay kết hôn và sống một cách bình thường, và rằng nhà Đức Chúa Trời cho phép và cho họ tự do làm chuyện đó. Tuy nhiên, có một số điều kiện: Không được phép tìm sự dâm loạn; không được phép quyến rũ và tán tỉnh bừa bãi, cũng như tuỳ ý quấy rối người khác giới. Nhà Đức Chúa Trời không hạn chế việc hẹn hò, nhưng không cho phép quyến rũ bừa bãi. Quyến rũ bừa bãi nghĩa là gì? Nghĩa là quấy rối bất kỳ ai khác giới nhưng sau khi làm như vậy thì không thừa nhận. Người mà họ quấy rối không phải là người yêu thực sự của họ; họ không có ý định có mối quan hệ lâu dài hoặc kết hôn mà chỉ muốn quyến rũ, chơi đùa, có được sự thích thú từ đối phương, tìm kiếm sự kích thích, muốn có nhiều mối quan hệ, muốn giở trò lưu manh – đây gọi là sự dâm loạn. Trong hội thánh, không có chỗ cho sự dâm loạn; và nếu có hiện tượng này thì phải xử lý theo nguyên tắc thanh trừ người. Tất nhiên, trong các nhóm phúc âm, những tình huống này không được phép xuất hiện ở những người rao truyền phúc âm, dù họ ở hội thánh toàn thời gian hay hội thánh bình thường. Nếu có người dùng danh nghĩa rao truyền phúc âm để quyến rũ người khác một cách bừa bãi, chỉ chọn người khác giới để phối hợp hoặc chỉ rao truyền phúc âm cho người khác giới, và lợi dụng cơ hội để có mối quan hệ không chính đáng, thì điều này sẽ làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác phúc âm của Đức Chúa Trời. Lãnh đạo và người làm công phải kịp thời thanh lọc loại người này.

Để tìm những người khác giới và tìm sự dâm loạn, một số người không quan tâm đến tuổi tác và không có giới hạn tuổi tác. Họ chỉ tìm cách quyến rũ càng nhiều người càng tốt, mà không hề xấu hổ. Một số người không chỉ thoả mãn ham muốn nhục dục của xác thịt khi quyến rũ những người khác giới mà còn yêu cầu đối phương chi trả phí sinh hoạt, mua đồ cho họ, v.v. Nếu các ngươi phát hiện loại người như vậy hoặc có người phản ánh những chuyện như vậy, thì nên kịp thời xử lý họ. Giải pháp duy nhất là thanh trừ họ vĩnh viễn. Bởi vì đối với những người có vấn đề như vậy thì chắc chắn không phải là vấn đề tạm thời, nhất là những người đã kết hôn – mặc dù đã có vợ/chồng ở nhà, họ vẫn nhắm vào người khác giới dưới danh nghĩa rao truyền phúc âm. Họ tìm kiếm đủ loại người, bất kể giàu nghèo, và nếu thấy người họ thích thì thậm chí có thể bỏ trốn cùng người đó, không còn rao truyền phúc âm nữa – thẳng thừng không tin vào Đức Chúa Trời nữa. Nếu có thể phát hiện sớm loại người này thì nên nhanh chóng thanh trừ họ vĩnh viễn khỏi hàng ngũ những người rao truyền phúc âm, không cho họ cơ hội nào khác, và không cần theo dõi thêm. Ngươi có hiểu không? Một số người nói: “Với một số người, cuộc sống thật khó khăn. Nếu họ quyến rũ người khác giới để lập gia đình, và người kia có thể tin vào Đức Chúa Trời cũng như chăm sóc họ, thì chẳng phải vẹn cả đôi đường sao?”. Ta nói cho ngươi biết, những người như vậy phải bị thanh trừ càng sớm càng tốt; họ không phải vì đời sống gia đình mà là vì tìm sự dâm loạn. Tại sao Ta lại chắc chắn như vậy? Nếu họ không phải loại người tìm sự dâm loạn, thì sau khi tin vào Đức Chúa Trời, họ tuyệt đối không làm những chuyện như vậy và thấy những chuyện như vậy thật ghê tởm, nhất là khi họ đã kết hôn. Trào lưu hiện tại của toàn thế giới là dâm loạn và tà ác; con người đều phóng túng trong nhục dục và phân bì với nhau xem ai có thể quyến rũ nhiều người khác giới hơn mà không phải chịu ràng buộc, bởi vì xã hội này và nhân loại này không lên án hay chế giễu những chuyện này. Cho nên, con người nghĩ rằng nếu họ có thể kiếm tiền thông qua việc tìm sự dâm loạn và bán xác thịt của mình, thì đó là bản lĩnh hoặc khả năng của họ. Họ có đó là chuyện vinh dự. Tuy nhiên, sau khi tin vào Đức Chúa Trời, quan điểm của họ về những chuyện này thay đổi hoàn toàn. Họ tìm thấy cách đúng đắn để đối đãi với ham muốn nhục dục của xác thịt, điều trước tiên và quan trọng nhất là phải ràng buộc. Làm thế nào để ràng buộc? Con người phải biết xấu hổ và có liêm sỉ. Đây được gọi là nhân tính bình thường của con người. Con người đều có ham muốn nhục dục, nhưng con người cần biết ràng buộc chính mình, có liêm sỉ. Ngay cả khi có một số suy nghĩ như vậy, họ vẫn nên ràng buộc bản thân vì họ tin vào Đức Chúa Trời cũng như có lương tâm và lý trí. Họ tuyệt đối không được đi theo những ý niệm không chính đáng trong lòng, chứ đừng nói đến việc phóng túng. Họ nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những chuyện này. Ngay cả khi họ là những người mới tin vào Đức Chúa Trời mà không hiểu lẽ thật, thì họ vẫn nên tự đánh giá mình theo những tiêu chuẩn cơ bản nhất của đạo đức nhân tính. Nếu ngay cả mức độ ràng buộc này mà ngươi còn không có, thì ngươi không có nhân tính bình thường cũng như không có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Mọi loài động vật đều có quy luật nhất định và tuân thủ quy tắc trong phương diện này, không hành động bừa bãi; làm người thì càng không được hành động bừa bãi, và có sự ràng buộc lớn hơn nữa. Nếu ngươi thậm chí không có mức độ ràng buộc và năng lực tự kiềm chế này, thì làm sao ngươi có thể hy vọng tìm kiếm và thực hành lẽ thật? Nếu ngươi không thể giải quyết ham muốn tà ác của chính mình, thì làm sao ngươi có thể giải quyết tâm tính bại hoại của mình? Bản tính chống đối và phản bội Đức Chúa Trời của ngươi còn khó giải quyết hơn nữa, có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Nếu ngươi không thể xử lý được ham muốn nhục dục của xác thịt, thì làm sao ngươi có thể hy vọng giải quyết tâm tính bại hoại của mình? Đừng nghĩ tới điều đó nữa, ngươi sẽ không thể đạt được.

Một số người luôn tìm kiếm cơ hội hẹn hò trong khi rao truyền phúc âm, và những chuyện như vậy xảy ra thường xuyên. Những người luôn yêu đương trong khi không thực hiện nhiệm vụ thích hợp của mình đã bị thanh trừ và xử lý, còn những người thỉnh thoảng phạm tội thì bị cảnh cáo. Một khi những người có tâm tính tà ác này tìm được hoàn cảnh phù hợp và gặp được người mà họ coi là người yêu, thì họ sẽ rơi vào cám dỗ. Ý định được phúc của họ khi tin vào Đức Chúa Trời vì thế mà tan biến giữa ham muốn tà ác của chính mình. Ngay khi bước vào yêu đương, họ mặc kệ mọi thứ khác, thậm chí từ bỏ ý định được phúc, và chỉ theo đuổi hạnh phúc xác thịt. Sau một hoặc hai lần phạm tội, họ có thể cảm thấy tội lỗi và buồn bã đôi chút, nhưng sau ba hoặc bốn lần, họ trở nên dâm loạn. Một khi đã trở nên dâm loạn thì họ không còn cảm thấy tội lỗi hay buồn bã nữa bởi vì lớp liêm sỉ, vốn là ranh giới cơ bản của nhân tính, đã bị phá vỡ. Họ không còn coi sự dâm loạn là đáng xấu hổ, và vì thế mà tiếp tục tìm sự dâm loạn. Những người có thể tiếp tục tìm sự dâm loạn chính là những người đặc biệt phóng túng trong ham muốn nhục dục của họ, không có chút ràng buộc nào. Những người như vậy không được phép tồn tại trong hội thánh, và phải bị thanh lọc; đừng dung túng hoặc tìm bất cứ cái cớ nào để giữ họ lại. Nhà Đức Chúa Trời không thiếu người rao truyền phúc âm, không cần những con quỷ dâm loạn như vậy để cho đủ số lượng, bởi vì chuyện này sỉ nhục nghiêm trọng đến danh Đức Chúa Trời. Cho nên, nếu có người tố giác hoặc nếu chính ngươi phát hiện ra những người như vậy trong nhóm rao truyền phúc âm, thì ngươi nên biết phải làm gì. Nếu một số người mới tin vào Đức Chúa Trời có vấn đề này, thì trước tiên các ngươi nên thông công lẽ thật về vấn đề này, để mọi người biết các nguyên tắc và thái độ của hội thánh đối với những người phạm tội dâm loạn. Ít nhất, các ngươi nên cảnh báo trước để họ không rơi vào chuyện này và không lợi dụng việc rao truyền phúc âm như một cơ hội để thực hiện những chuyện này, mà sau đó lại đổ lỗi cho những người phụ trách hoặc lãnh đạo và người làm công vì không thông công trước các nguyên tắc lẽ thật có liên quan. Cho nên, trước khi có chuyện như vậy xảy ra, trước khi một số người biết thái độ của nhà Đức Chúa Trời đối với những người và những chuyện như vậy, khi mọi người vẫn mơ hồ về những chuyện này, thì lãnh đạo và người làm công phải thông công rõ ràng và minh bạch những nguyên tắc này cho họ để họ biết những chuyện này thuộc loại hành vi và tính chất nào, cũng như thái độ của nhà Đức Chúa Trời đối với loại chuyện và loại người này là gì. Sau khi những nguyên tắc này đã được thông công rõ ràng, nếu họ vẫn khăng khăng theo ý mình và vẫn muốn làm theo cách của mình dù đã biết rõ những nguyên tắc này, thì phải xử lý và giải quyết họ, phải thanh trừ họ. Nếu những người như vậy xuất hiện trong hội thánh, thường xuyên gây chuyện bằng cách quyến rũ người khác hoặc thường xuyên quấy rối những người khác giới, thì họ chắc chắn có vấn đề. Ngay cả khi không có vấn đề thực chất nào xảy ra, thì lãnh đạo vào người làm công cũng nên cảnh cáo và xử lý những người này, hoặc chuyển họ ra khỏi nơi họ thực hiện bổn phận; trong những tình huống nghiêm trọng, phải trực tiếp thanh trừ họ. Mối thông công của chúng ta về phương diện thứ bảy của biểu hiện trong nhân tính con người kết thúc ở đây.

Ngày 18 tháng 12 năm 2021

Trước: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (25)

Tiếp theo: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (28)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger