Chức trách của lãnh đạo và người làm công (26)
Mục 14. Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ (Phần 5)
Thái độ mà lãnh đạo và người làm công cần có đối với công tác thanh lọc hội thánh
Năm nay, chúng ta đã liên tục thông công về chức trách của lãnh đạo và người làm công, cũng như biểu hiện của các loại người liên quan. Chủ đề thông công càng ngày càng chi tiết và cụ thể, liên quan đến đủ loại vấn đề của các loại người. Những biểu hiện cụ thể của các loại người này và phân loại mà họ nên được phân chia vào, cũng được thông công rất cụ thể và rõ ràng. Thông công về những vấn đề chi tiết này càng cụ thể và rõ ràng thì càng mang lại sự giúp đỡ và hướng dẫn tích cực cho lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, đồng thời càng mang lại nhiều sự hướng dẫn và hỗ trợ cho lãnh đạo và người làm công trong việc làm công tác và bổn phận của họ. Nhưng cho dù chúng ta thông công như thế nào, thông công cụ thể đến đâu, thì một số lãnh đạo và người làm công vẫn không hiểu rõ cách xử lý và giải quyết các loại người cũng như các loại vấn đề trong hội thánh. Những vấn đề của đủ loại người đã được thông công rõ ràng đến vậy, mà có một số lãnh đạo và người làm công vẫn không hiểu rõ cách phân định và đối xử với những loại người khác nhau. Họ vẫn không thể làm việc theo các nguyên tắc lẽ thật, cũng không thể dùng lẽ thật để giải quyết các loại người và vấn đề trong hội thánh. Vì sao vậy? Đó là vì những người như vậy vẫn chưa có được thực tế lẽ thật. Thông qua việc thông công về biểu hiện của đủ mọi loại người, mỗi người nên có sự phân định cơ bản và đưa ra sự sắp xếp hợp lý đối với những người trong hội thánh có làm bổn phận và những người không làm bổn phận, những người mưu cầu lẽ thật và những người không mưu cầu lẽ thật, những người vâng lời, thuận phục và những người gây nhiễu loạn, gián đoạn. Nhưng xét theo tình hình của đủ loại người trong hội thánh, mới chỉ có những kẻ ác rõ ràng bị thanh trừ, còn rất nhiều kẻ chẳng tin vẫn chưa bị thanh trừ triệt để. Trong công tác thanh lọc hội thánh, lãnh đạo và người làm công nên phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời để thanh lọc những kẻ ác và kẻ chẳng tin nhanh nhất có thể, chứ đừng đối phó một cách bị động, làm người dễ dãi hoặc cho rằng chỉ thanh lọc những kẻ ác rõ ràng là chuyện đâu vào đấy rồi. Lãnh đạo và người làm công nên chủ động kiểm tra công tác của từng nhóm, xác minh tình hình từng nhóm viên, để xem còn tồn tại kẻ chẳng tin nào chỉ góp mặt vào cho đủ số hoặc là lan truyền sự tiêu cực và các quan niệm nhằm gây nhiễu loạn công tác của hội thánh không. Một khi phát hiện ra những người này, thì phải triệt để vạch trần và thanh trừ. Đây là công tác mà lãnh đạo và người làm công nên làm. Họ không nên bị động, không nên chờ Bề trên ra lệnh và thúc giục rồi mới hành động, cũng không nên để các anh chị em chung tiếng kêu gọi rồi mới làm một chút việc. Khi làm công tác, lãnh đạo và người làm công nên quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời và trung thành với Ngài. Biểu hiện tốt nhất chính là họ có thể chủ động phát hiện và giải quyết vấn đề. Họ không nên tiếp tục bị động, nhất là khi đã có những lời nói và mối thông công thực tế này làm cơ sở. Thay vào đó, họ nên chủ động và tích cực giải quyết triệt để các vấn đề và khó khăn thực tế bằng cách thông công về lẽ thật, và làm công tác của mình đến nơi đến chốn. Họ nên kịp thời và tích cực theo sát tiến độ công tác, chứ không thể lúc nào cũng chờ Bề trên ra lệnh và thúc giục thì mới làm một cách miễn cưỡng. Nếu lãnh đạo và người làm công luôn tiêu cực, bị động và không làm công tác thực tế, thì họ không xứng làm lãnh đạo và người làm công, nên bị cách chức và điều chỉnh. Hiện nay, có nhiều lãnh đạo và người làm công rất bị động khi làm công tác. Lúc nào cũng phải chờ Bề trên ra lệnh và thúc ép thì họ mới làm một chút công tác, nếu không thì họ sẽ chểnh mảng và lề mà lề mề. Công tác ở một số hội thánh khá hỗn loạn, một số người làm bổn phận ở đó vô cùng chểnh mảng và qua loa chiếu lệ, không có bất kỳ kết quả thực tế nào. Những vấn đề này đã rất nghiêm trọng, tính chất của chúng đã rất tồi tệ rồi, nhưng các lãnh đạo và người làm công của các hội thánh đó vẫn hành động như quan chức và ông chủ. Họ chẳng những không thể làm công tác thực tế, mà còn không thể phát hiện hoặc giải quyết các vấn đề. Điều này dẫn đến công tác của hội thánh rơi vào tình trạng bị tê liệt và đình trệ. Hễ công tác của một hội thánh rơi vào tình trạng hỗn loạn khủng khiếp và không có chút trật tự nào, thì ở hội thánh đó, chắc chắn có lãnh đạo giả hoặc kẻ địch lại Đấng Christ đang nắm quyền. Hội thánh nào có lãnh đạo giả nắm quyền, thì công tác của hội thánh đó chắc chắn sẽ rối tinh rối mù, hỗn loạn khủng khiếp – đây là chuyện không còn nghi ngờ gì nữa. Ví dụ, Ta đã mắt thấy tai nghe nhiều vấn đề trong các hội thánh ở Mỹ. Hầu hết các vấn đề Ta thấy, đều được giải quyết tại chỗ. Còn một vài vấn đề khác, thì Ta yêu cầu lãnh đạo của các hội thánh tại Mỹ giải quyết. Tuy nhiên, lãnh đạo và người làm công làm hầu hết công tác một cách rất bị động, theo sát tiến độ thì quá chậm, hiệu suất thì quá thấp. Đối với hầu hết công việc hằng ngày, họ đều để đến khi Bề trên ra lệnh và thúc giục, thì mới chịu làm. Sau khi Bề trên sắp xếp công tác, họ sẽ bận rộn một thời gian. Nhưng khi bận rộn làm xong chút việc đó, họ lại không biết làm gì tiếp theo, vì họ không biết bổn phận mình nên làm là gì. Họ chẳng bao giờ biết nên làm những công tác nào trong phạm vi chức trách của lãnh đạo và người làm công. Trong mắt họ, chẳng có việc gì cần làm cả. Khi người ta cho rằng chẳng có việc gì cần làm thì đây là vấn đề gì? (Thưa, không mang gánh nặng.) Nói một cách chính xác, họ không mang gánh nặng, lại còn cực kỳ lười biếng và tham hưởng an nhàn, có thể nghỉ ngơi thêm bao lâu thì họ sẽ nghỉ ngơi bấy lâu, thêm một việc chẳng bằng bớt một việc. Những người lười biếng này thường nghĩ bụng: “Tại sao mình phải lo lắng quá nhiều chứ? Lo lắng quá nhiều chỉ khiến mình già đi nhanh hơn. Mình lo lắng đến vậy, chạy đôn chạy đáo đến vậy, mệt mỏi đến vậy, thì đạt được lợi ích gì chứ? Ngộ nhỡ mình kiệt sức và bị ốm thì sao? Mình đâu có tiền để trị bệnh. Lúc về già, ai sẽ chăm sóc mình đây?”. Những người lười biếng này tiêu cực và tụt hậu như vậy. Họ không có chút lẽ thật nào, cũng không nhìn thấu bất cứ điều gì, vậy chẳng phải rõ ràng họ là một đám hồ đồ sao? Người ngây ngốc, chẳng có cảm giác hay hứng thú gì với lẽ thật, thì làm sao có thể được cứu rỗi đây? Tại sao người ta luôn vô kỷ luật và lười biếng như thể xác chết biết đi vậy? Chuyện này liên quan đến vấn đề về bản tính. Trong bản tính con người có một dạng lười biếng, làm việc gì cũng phải có người đốc thúc. Có lúc, người ta chỉ quan tâm đến xác thịt, tham hưởng sự an nhàn xác thịt, và luôn chừa một lối thoát cho bản thân – những người này chỉ toàn ý định xấu xa và âm mưu xảo quyệt, không phải thứ tốt lành gì! Bất kể làm bổn phận quan trọng gì, họ cũng đều giữ lại một phần sức, như vậy chính là vô trách nhiệm và không trung thành. Hôm nay Ta phán những điều này để nhắc nhở các ngươi không được bị động trong công tác. Các ngươi phải có thể làm theo bất cứ điều gì Ta phán bảo. Nếu Ta đến các hội thánh mà biết được hoặc thấy được các ngươi đã thực hiện nhiều công tác, hiệu suất rất cao, tiến độ rất nhanh chóng, mọi việc đạt đến mức độ khiến người ta thấy hài lòng và mọi người đều đã làm hết sức, thì Ta sẽ rất vui. Còn nếu Ta đến các hội thánh mà vừa nhìn đã phát hiện ra rằng tiến độ công tác ở mọi phương diện đều chậm chạp, chứng tỏ các ngươi không làm tốt bổn phận của mình và không theo kịp tốc độ mở rộng phúc âm bình thường, thì các ngươi nghĩ Ta sẽ có tâm trạng như thế nào? Liệu Ta còn vui nổi khi nhìn thấy các ngươi không? (Thưa, không.) Ta sẽ không vui nổi. Công tác này đã được giao phó cho các ngươi và Ta đã nói hết những điều cần nói, cũng đã nói cho các ngươi biết về nguyên tắc thực hành và con đường cụ thể. Thế mà các ngươi vẫn không hành động, không làm công tác, cứ nhất định phải chờ Ta đích thân đốc thúc các ngươi, tỉa sửa các ngươi, thậm chí là ra lệnh thì các ngươi mới chịu làm. Vấn đề ở đây là gì? Chẳng phải vấn đề này phải được mổ xẻ hay sao? Công tác mà rõ ràng các ngươi phải làm thì các ngươi không làm và không gánh vác nổi, vậy Ta có thể có thái độ tốt với các ngươi được sao? (Thưa, không thể.) Tại sao Ta không thể có thái độ tốt với các ngươi? (Thưa, vì chúng con quá vô trách nhiệm trong việc làm bổn phận.) Lý do là vì các ngươi không tận tâm tận lực làm bổn phận, mà chỉ làm qua loa chiếu lệ. Một người trung thành làm bổn phận thì ít nhất phải đạt được một biểu hiện là tận lực, một điều này thôi mà các ngươi đều không đạt đến được. Các ngươi còn lâu mới đạt đến! Không phải là các ngươi không đủ tố chất, mà là tâm thái của các ngươi không đúng và các ngươi vô trách nhiệm. Trong lòng các ngươi có một vài thứ vô lý cản trở các ngươi làm bổn phận. Ngoài ra, tư tưởng làm người dễ dãi cũng cản trở các ngươi làm công tác thanh lọc hội thánh. Các ngươi có biết ý nghĩa của việc thanh lọc hội thánh là gì không? Tại sao Đức Chúa Trời lại muốn thanh lọc hội thánh? Hậu quả của việc không thanh lọc hội thánh là gì? Các ngươi đều không hiểu rõ những chuyện này, cũng không mưu cầu lẽ thật. Điều này chứng tỏ rằng các ngươi không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Các ngươi chỉ sẵn lòng làm một chút công tác bình thường và làng nhàng thuộc chức phận của mình, chứ không muốn làm những công tác đặc biệt, nhất là công tác nào có thể khiến ngươi đắc tội với người khác. Các ngươi đều muốn đùn đẩy những công tác này cho người khác. Đây chẳng phải là cách nghĩ của các ngươi sao? Đây chẳng phải là vấn đề cần giải quyết sao? Các ngươi luôn nói: “Tôi có tố chất kém, hiểu biết về lẽ thật có hạn, ngoài ra tôi không có đủ kinh nghiệm công tác. Tôi chưa bao giờ làm lãnh đạo hội thánh, cũng chưa từng làm công tác thanh lọc hội thánh”. Đây chẳng phải là các ngươi đang mượn cớ sao? Công tác thanh lọc hội thánh đã được thông công rất rõ ràng. Thanh lọc những kẻ địch lại Đấng Christ, kẻ ác và kẻ chẳng tin là chuyện rất đơn giản. Mấy nguyên tắc đó thực sự khó hiểu đến vậy sao? Nếu những vấn đề đơn giản như vậy đã được giải thích rất rõ ràng mà mọi người vẫn không hiểu, vậy thì vấn đề ở đây là gì? Điều này cho thấy hoặc là tố chất của họ quá kém đến mức họ không hiểu tiếng người, hoặc họ chỉ là đám vô lại chẳng chuyên tâm vào việc chính đáng. Trong số các lãnh đạo và người làm công, chắc chắn có một số người có tố chất kém, và chắc chắn có một số người dễ dãi không làm công tác thực tế. Chắc chắn cũng có một số kẻ vô lại chẳng chuyên tâm vào việc chính đáng và làm xằng làm bậy. Mấy tình huống này đều có cả. Trước tiên, cần thanh lọc những kẻ vô lại chẳng chuyên tâm vào việc chính đáng này và thấy ai có thể làm công tác thực tế thì dùng người đó. Chắc chắn những người dễ dãi đang giữ vai trò lãnh đạo phải bị loại bỏ, còn những người có tố chất kém nhưng có thể nghe hiểu tiếng người và làm một chút công tác thực tế, thì có thể được giữ lại. Đây chính là cách giải quyết những vấn đề này. Sau khi Đức Chúa Trời thông công, nếu ngươi có thể thấy rõ các vấn đề mà lãnh đạo và người làm công nên giải quyết trong công tác của hội thánh, thì ngươi nên giải quyết kịp thời, không được lần lữa nữa. Ngươi nên có thể chủ động làm, đừng chờ Bề trên đích thân bố trí công việc hay truyền đạt mệnh lệnh. Bất kể phát sinh vấn đề gì, ngươi đều phải giải quyết trước khi nó ảnh hưởng đến tình hình công tác. Thậm chí, ngươi cần báo cáo những gì ngươi biết về vấn đề, phương án giải quyết vấn đề, nguyên tắc xử lý và kết quả xử lý trước cả khi Bề trên bắt đầu truy cứu vấn đề. Như thế thì quá tốt! Khi đó, liệu Bề trên còn không hài lòng về ngươi nữa sao? Thân là lãnh đạo hoặc người làm công, nếu ngươi chẳng bao giờ thấy được công tác thuộc phạm vi chức trách của mình, hoặc ngươi có được chút ý thức và ý nghĩ, nhưng cứ chần chừ không làm, luôn chờ Bề trên sắp xếp việc cho, thì đấy chẳng phải là tắc trách hay sao? (Thưa, phải.) Đây là tắc trách nghiêm trọng! Ngươi đã đánh mất thái độ và trách nhiệm mà người giữ vai trò lãnh đạo hoặc người làm công nên có đối với bổn phận. Khi làm công tác, lãnh đạo và người làm công nên tuân thủ chặt chẽ yêu cầu của Bề trên. Bề trên thông công đến đâu, thì ngươi nên thực hiện đến đó. Một khi đã hiểu, ngươi phải làm và thực hiện ngay. Giải quyết vấn đề bằng lẽ thật là chức trách quan trọng nhất của lãnh đạo và người làm công. Ngươi không nên bị động chờ Bề trên sắp xếp thì mới làm một chút công tác. Nếu luôn chờ đợi một cách bị động, thì ngươi không xứng làm lãnh đạo hoặc người làm công, ngươi không đủ khả năng gánh vác công tác này. Việc có lý duy nhất mà ngươi nên làm là tự nhận lỗi và từ chức.
Biểu hiện và kết cục của ba loại người tin Đức Chúa Trời
I. Người đem sức lực phục vụ
Có tổng cộng 15 chức trách của lãnh đạo và người làm công, chúng ta đã thông công đến chức trách thứ 14. Các vấn đề mà lãnh đạo và người làm công cần giải quyết trong hội thánh, cũng như vấn đề của các loại người liên quan đến những vấn đề này, đã được thông công khoảng 80 đến 90 phần trăm rồi. Đây đều là những công tác mà lãnh đạo và người làm công cần làm và những vấn đề mà họ cần giải quyết. Có nhiều vấn đề liên quan ở đây, một mặt liên quan đến trách nhiệm mà các lãnh đạo và người làm công cần thực hiện, mặt còn lại liên quan đến các loại vấn đề khác nhau của các loại người trong hội thánh. Mặc dù chủ đề thông công của chúng ta trong khoảng thời gian này là chức trách của lãnh đạo và người làm công và việc vạch rõ các lãnh đạo giả, nhưng chúng ta cũng đã thông công rất nhiều về vấn đề – cũng như tình trạng và thực chất – của các loại người có liên quan đến chủ đề này. Tất nhiên, nội dung cụ thể này có tác dụng khác nhau đối với các loại người đi theo Đức Chúa Trời trong hội thánh. Trong số đó, có một loại người nghe xong những mối thông công này mà vẫn giữ nguyên thái độ: “Tôi có nhân tính tốt, tôi chân thành tin Đức Chúa Trời, tôi sẵn lòng từ bỏ mọi thứ vì tin Đức Chúa Trời, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để làm bổn phận”. Họ không quan tâm đến những tình trạng khác nhau của các loại người, lẽ thật liên quan đến những tình trạng khác nhau, hay nguyên tắc lẽ thật mà mọi người cần hiểu đã được thông công trong khoảng thời gian này. Đây có phải là một loại người không? Có phải loại người này rất tiêu biểu không? (Thưa, phải.) Loại người này luôn giữ một quan điểm nhất định. Quan điểm này chủ yếu bao gồm những gì? Đó là ba điểm Ta vừa đề cập: Thứ nhất, họ cho rằng nhân tính của họ không xấu, thậm chí có thể nói là tốt. Thứ hai, họ cho rằng họ chân thành tin Đức Chúa Trời, tức là họ thực sự tin rằng Đức Chúa Trời tồn tại và tể trị hết thảy, rằng vận mệnh con người là nằm trong tay Đức Chúa Trời quản lý và do Đức Chúa Trời tể trị. Đây là cách giải thích theo nghĩa rộng cho cụm “chân thành tin Đức Chúa Trời”. Thứ ba, họ cho rằng để tin Đức Chúa Trời, họ có thể từ bỏ mọi thứ, có thể chịu khổ và trả giá khi làm bổn phận. Có thể nói rằng ba điểm này là những điều cơ bản, chủ yếu và nòng cốt nhất mà những người này bám giữ khi tin Đức Chúa Trời. Tất nhiên, cũng có thể nói đây là vốn liếng của họ khi tin Đức Chúa Trời, cũng là mục tiêu họ theo đuổi, là động lực và phương hướng cho hành động của họ. Họ cho rằng nếu có đủ ba điểm này thì họ sẽ có ba điều kiện cơ bản để được cứu rỗi, giúp họ trở thành người được Đức Chúa Trời yêu thích và chấp thuận. Đây là một sai lầm lớn. Có đủ ba điểm này mới chỉ cho thấy người ta có một chút nhân tính mà thôi. Một người mới chỉ có một chút nhân tính thì có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi sao? Tuyệt đối không thể. Đức Chúa Trời sẽ khen ngợi những người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Ba điểm này còn chưa đạt đến tiêu chuẩn của thực tế lẽ thật mà chỉ là ba tiêu chuẩn dành cho người đem sức lực phục vụ. Tiếp theo, Ta sẽ thông công chi tiết về ba điểm này để các ngươi hiểu rõ. Điểm đầu tiên là có nhân tính tốt. Họ cho rằng bản thân họ không làm việc ác, không gây gián đoạn và nhiễu loạn, không làm việc gì gây tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, như vậy là đủ rồi, là có thể thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời và hành động phù hợp nguyên tắc rồi. Điểm thứ hai là “chân thành tin Đức Chúa Trời”. Với họ, cái mà họ gọi là “chân thành tin Đức Chúa Trời” có nghĩa là không bao giờ hoài nghi sự tồn tại của Đức Chúa Trời hay sự thật rằng Ngài tể trị vạn vật, và tin rằng vận mệnh của con người nằm trong tay Đức Chúa Trời, và họ cho rằng như vậy là họ có thể đi theo Đức Chúa Trời đến cùng. Họ cho rằng chỉ cần chân thành tin Đức Chúa Trời thì họ sẽ được Ngài khen ngợi. Vì vậy, bất kể Đức Chúa Trời dẫn dắt thế nào, làm như thế nào, hoặc là họ gặp vấn đề gì, thì họ đều nói: “Chỉ cần yêu kính Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời và thuận phục Đức Chúa Trời thôi”. Phương pháp giải quyết vấn đề của họ quá đơn giản rồi. Những lời chung chung này có thể giải quyết được vấn đề gì chứ? Điểm thứ ba là khi tin Đức Chúa Trời, họ có thể từ bỏ mọi sự, như có thể chịu khổ và trả giá khi làm bổn phận. Họ đưa điều này vào thực hành như thế nào? Bởi vì họ chân thành tin Đức Chúa Trời nên khi công tác của hội thánh cần đến hoặc khi bản thân họ cảm nhận được tâm ý cấp thiết của Đức Chúa Trời, thì họ có thể chủ động từ bỏ gia đình, hôn nhân, công việc, buông bỏ tiền đồ ở thế gian, đi theo Đức Chúa Trời và làm bổn phận của mình mà không chút do dự và không bao giờ hối hận. Bất kể nhà Đức Chúa Trời sắp xếp bổn phận gì, họ đều có thể chịu khổ và trả giá, ăn ít đi và ngủ ít đi cũng chẳng sao. Bất kể điều kiện sống có gian khổ đến đâu, hay thậm chí trong một vài hoàn cảnh khắc nghiệt, họ vẫn có thể kiên trì làm bổn phận. Ngoài ba điểm này, việc thực hành mọi phương diện khác liên quan đến lẽ thật dường như chẳng liên quan gì đến họ. Họ cảm thấy làm thế nào là đúng, là tốt thì họ sẽ làm thế ấy. Còn về các nguyên tắc thực hành mà Đức Chúa Trời đã phán với con người, cũng như tình trạng, biểu hiện và thực chất của đủ loại tâm tính bại hoại nơi con người mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ, thì họ cho rằng biết một chút hoặc không biết gì cũng chẳng sao. Họ cho rằng không cần phải quá cụ thể và tỉ mỉ trong việc tìm kiếm các nguyên tắc khác nhau để kiểm điểm sự bại hoại và bù đắp khuyết điểm của bản thân, cũng không cần phải thường xuyên tham gia các buổi nhóm họp để nghe mọi người thông công về đủ loại lời chứng trải nghiệm, rồi sau đó đạt đến sự thay đổi bản thân, v.v.. Họ cảm thấy tin Đức Chúa Trời như vậy thì quá phiền phức và không cần thiết. Họ mang theo sự hiểu biết nông cạn về việc tin Đức Chúa Trời và thay đổi trong tâm tính, còn mang theo các quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời mà đi theo Đức Chúa Trời và làm bổn phận. Chẳng phải loại người này rất tiêu biểu sao? (Thưa, phải.) Họ đặt ra một yêu cầu cơ bản nhất đối với bản thân và một thái độ cơ bản nhất đối với việc tin Đức Chúa Trời. Ngoài hai điều đó ra, đối với lẽ thật, sự phán xét và vạch rõ của Đức Chúa Trời, việc bị tỉa sửa, cũng như các loại tâm tính bại hoại và các loại tình trạng, biểu hiện của con người, v.v. thì họ xem nhẹ và phớt lờ, không bao giờ suy nghĩ hay nghiền ngẫm về những vấn đề này. Tức là, những người này tự cho mình là có nhân tính tốt, là người tốt, và chân thành tin Đức Chúa Trời. Mặc dù thừa nhận rằng con người có tâm tính bại hoại, nhưng họ hoàn toàn không để ý, cũng không tìm hiểu kỹ về các loại tình trạng và biểu hiện cụ thể của các tâm tính bại hoại nơi con người mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ. Đây có phải là một loại người không? Chẳng phải quan điểm và biểu hiện cụ thể của loại người này trong việc tin Đức Chúa Trời rất tiêu biểu sao? (Thưa, phải.) Vậy xét theo quan điểm của những người này về việc tin Đức Chúa Trời, hiểu biết của họ về việc được cứu rỗi, và thái độ của họ đối với lời Đức Chúa Trời vạch rõ các loại tâm tính bại hoại của con người, thì họ nên được xếp vào thể loại nào? (Thưa, là loại người tin một cách hồ đồ, không mưu cầu lẽ thật.) Đây chỉ là bề ngoài. Rốt cuộc thì những người này nên được phân chia như thế nào? Trong hội thánh có nhiều người như vậy không? (Thưa, có.) Hễ nói về các vấn đề cụ thể và thông công về lẽ thật tương ứng, là họ lại bắt đầu thấy buồn ngủ, ngủ gật hoặc mơ mơ màng màng, không có hứng thú. Nếu được sắp xếp bất cứ công tác hoặc việc nào, họ sẽ xắn tay áo lên và bắt tay vào làm, không sợ khổ, cũng không sợ mệt. Họ cho rằng nếu tin Đức Chúa Trời cũng giống như làm loại công việc này thì tốt biết mấy, khi đó họ sẽ thấy hăng hái liền. Những lúc cần chịu khổ, trả giá và ra sức làm việc, thì họ thực sự thiết tha. Nhưng liệu sự thiết tha thực sự và sự hăng hái này có phải là trung thành không? Có phải là biểu hiện mà người ta nên có sau khi hiểu được các nguyên tắc lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Thông qua mối thông công của Ta, các ngươi có thấy được loại người này nên được phân chia vào thể loại nào không? (Thưa, là người đem sức lực phục vụ.) Đúng vậy. Những người như vậy là người đem sức lực phục vụ, và đây là cách người đem sức lực phục vụ tin Đức Chúa Trời.
Chúng ta đã bắt đầu bằng việc thông công về thực chất bản tính và các loại biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, cũng như các biểu hiện của những người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ nhưng không phải là kẻ địch lại Đấng Christ. Đến nay, chúng ta đang thông công về biểu hiện của các loại người có liên quan đến chức trách của lãnh đạo và người làm công. Mặc dù chủ đề thông công là về kẻ địch lại Đấng Christ và lãnh đạo giả, nhưng vấn đề và biểu hiện cụ thể mà từng mục đề cập đều liên quan đến tâm tính bại hoại của nhân loại bại hoại, cũng như các loại tình trạng và biểu hiện nảy sinh dưới sự chi phối của tâm tính bại hoại. Mặc dù lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ chỉ là thiểu số, nhưng tâm tính của lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ, cũng như các tình trạng và biểu hiện của họ, đều tồn tại nơi mỗi một người với mức độ khác nhau. Hiện tại khi những vấn đề này đã được thông công cụ thể như vậy, thì những người mưu cầu lẽ thật về sau sẽ có thêm con đường và phương hướng, cùng mục tiêu rõ ràng hơn, để mưu cầu lẽ thật, thực hành lẽ thật, hiểu nguyên tắc lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Đây là chuyện tốt cho họ và là chuyện đáng mừng. Nói cách khác, họ đang bắt đầu một cột mốc mới trong việc tin Đức Chúa Trời. Họ không còn sống theo quy định hay nghi thức tôn giáo, cũng không còn sống theo câu chữ và đạo lý hay khẩu hiệu. Thay vào đó, họ có phương hướng và mục tiêu cụ thể hơn để thực hành, và tất nhiên cũng có nguyên tắc thực hành cụ thể hơn. Cách thực hành trong những tình huống nhất định, những nguyên tắc lẽ thật nào có liên quan, hay mọi người có những tình trạng và sự bại hoại nào thì nên tiếp cận thế nào, nên mưu cầu lẽ thật thế nào để giải quyết – hai chủ đề thông công chính về kẻ địch lại Đấng Christ và lãnh đạo giả chủ yếu đề cập đến những nội dung này. Đối với những người mưu cầu lẽ thật, lẽ thật được thông công càng cụ thể thì họ càng có thêm con đường để thực hành. Lẽ thật được thông công càng cụ thể, thì trong lòng họ càng sáng tỏ và rõ ràng, họ càng nhận biết và hiểu rõ về bản thân, đồng thời càng biết được tiếp theo mình nên bước vào điều gì và giải quyết vấn đề gì. Với loại người đem sức lực phục vụ mà chúng ta vừa nhắc đến, sau khi chúng ta thông công rất nhiều về các loại tình trạng nảy sinh từ tâm tính bại hoại của nhân loại và các loại vấn đề về sự bại hoại cần phải giải quyết, họ vẫn cứ trơ ra. Vẫn cứ trơ ra nghĩa là gì? Nghĩa là họ vẫn thấy không rõ và nắm không thấu việc mưu cầu lẽ thật và con đường được cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã phán. Nghiêm trọng hơn nữa là, chúng ta đã thông công về biểu hiện và vấn đề mang tính thực chất nhiều đến vậy rồi, mà họ vẫn cứ cho rằng: “Tôi có nhân tính tốt, tôi chân thành tin Đức Chúa Trời, tôi sẵn lòng từ bỏ mọi thứ vì tin Đức Chúa Trời, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để làm bổn phận của mình. Vậy là đủ rồi”. Gặp chuyện gì, họ cũng không kiểm điểm bản thân hay đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, mà chỉ dựa vào cái tốt của con người hoặc chút lương tâm và lý trí mà họ có để giải quyết vấn đề. Tất nhiên, có một số người dựa vào sự khắc chế và nhẫn nại mà chịu đựng hết lần này đến lần khác, cũng có một số người khác lại dựa vào triết lý xử thế, biến chuyện lớn thành chuyện nhỏ, rồi biến chuyện nhỏ thành không có. Mục tiêu mà họ theo đuổi là: “Đến ngày công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, chỉ cần tôi vẫn làm bổn phận trong hội thánh và không bị thanh trừ là đủ rồi. Còn tôi có nhận thức thực sự về bản thân hay không, tâm tính bại hoại của tôi có được giải quyết hay không, tôi có thực sự thuận phục Đức Chúa Trời hay không, tôi có phải là người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không – đó đều là chuyện nhỏ, không đáng nhắc đến. Ngài suốt ngày chuyện bé xé ra to và thông công về lẽ thật một cách chi tiết đến vậy, đưa cả những vấn đề nhỏ nhất ra thông công mãi không xong, còn luôn bảo chúng tôi phân định. Tôi chỉ không sẵn lòng nghe những lời thông công về lẽ thật này. Tôi không có chút hứng thú nào hết. Khi ngày của Đức Chúa Trời đến, nếu chúng ta có thể tiến thẳng vào vương quốc thì thật tuyệt biết bao!”. Mặc dù sự nhẫn nại của mỗi một người đều có hạn, nhưng sự nhẫn nại của loại người này lại là vô hạn. Tại sao? Bởi vì họ cho rằng họ có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, vì tin Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để làm bổn phận của mình. Gặp chuyện gì, họ cũng có biện pháp giải quyết của riêng mình, cho đến cuối cùng họ vẫn có thể kiên trì làm bổn phận và đứng vững. Nhưng bất kể họ có kiên trì làm bổn phận của mình như thế nào, dựa vào đâu để kiên trì đến cùng, bất kể dù động lực của họ là gì, thì có một điều chắc chắn: Họ không thực sự thuận phục Đức Chúa Trời và chưa bao giờ nhận biết được tâm tính bại hoại của bản thân. Nói chính xác hơn, thì những người này không thừa nhận bản thân có sự bại hoại, không thừa nhận các loại tình trạng và vấn đề nảy sinh từ tâm tính bại hoại của con người mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ. Ngay cả khi thỉnh thoảng tự đối chiếu bản thân với các tình trạng và vấn đề này, thì họ cũng dùng cách tạm thời gác lại đó. Họ nói: “Mọi người đều bại hoại như nhau. Thực chất bản tính của chúng ta đều là của ma quỷ và Sa-tan. Chúng ta đều là kẻ thù của Đức Chúa Trời. Đây là sự thật mà không ai có thể thay đổi. Nhưng miễn là chúng ta kiên trì làm bổn phận, chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ khen ngợi. Và những ai kiên trì đến cùng sẽ là người đắc thắng”. Xét theo quan điểm của họ, thì họ tin Đức Chúa Trời rất hăng hái, nhưng đến lúc chia sẻ lời chứng trải nghiệm, thì họ lại không có gì để nói, không thốt ra nổi một lời. Đến lúc thông công về lẽ thật trong các buổi nhóm họp, họ lại cảm thấy buồn ngủ, nghe không lọt tai. Nếu ngươi hỏi họ: “Anh trải nghiệm lời Đức Chúa Trời như thế nào khi làm bổn phận của mình mỗi ngày?”. Họ sẽ trả lời: “Hội thánh sắp xếp cho tôi làm cái gì thì tôi sẽ làm cái đó. Chuyện này mà còn phải trải nghiệm sao?”. Hình như họ nghe mà không hiểu. Nếu ngươi lại hỏi họ: “Anh có sự bộc lộ bại hoại nào không? Anh làm sao để nhận biết được bản thân?”. Họ sẽ nói: “Tôi cứ thuận phục Đức Chúa Trời và yêu kính Đức Chúa Trời, vậy còn có vấn đề gì được chứ?”. Suy nghĩ của họ đơn giản vậy đấy. Đây là cách nhìn của họ: “Tin Đức Chúa Trời nên như thế này. Làm gì có lắm vấn đề vụn vặt như vậy? Các anh đang quá phức tạp hóa vấn đề rồi!”. Vì vậy, khi làm bổn phận và hành động, họ không bao giờ tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật mà chỉ dựa vào lòng tốt và nhiệt tâm. Nói chính xác hơn là họ hành động dưới sự chi phối của lương tâm và lý trí. Họ cho rằng: “Tôi đã chịu khổ và trả giá nhiều lắm rồi. Tôi đã thực hành lẽ thật và làm hài lòng Đức Chúa Trời nhiều lắm rồi. Đừng đòi hỏi tôi thêm nữa. Tôi như bây giờ đã rất tốt rồi. Tôi là người tốt và chân thành tin Đức Chúa Trời”. Tất nhiên, cũng có lúc những người này không thể không phát tiết ra, và đó là lúc bộ mặt thực sự của họ bại lộ. Họ có thể giảng nhiều câu chữ và đạo lý nhưng lại không có chút vóc giạc thực sự nào. Nói cách khác, họ không có sự sống. Không có sự sống cụ thể đề cập đến điều gì? (Thưa, đến chuyện họ không có lẽ thật.) Làm sao mà họ lại không có lẽ thật? (Thưa, vì họ không yêu thích lẽ thật, cũng không mưu cầu lẽ thật.) Thậm chí còn chưa đủ để bàn đến chuyện họ có yêu thích lẽ thật hay không, nói cho chính xác thì họ không tiếp nhận lẽ thật. Có người sẽ nói: “Làm sao Ngài có thể nói họ không tiếp nhận lẽ thật? Họ đã chịu khổ và trả giá rất nhiều khi làm bổn phận, mỗi ngày đều tất bật đi sớm về khuya, làm sao Ngài có thể nói rằng họ không có lẽ thật?”. Nói như vậy có oan uổng cho họ không? Nhưng nếu ngươi nhìn lại những người này, đằng sau việc chịu khổ và trả giá, liệu mọi việc họ làm có nằm trong phạm vi nguyên tắc lẽ thật không? Họ có tìm kiếm nguyên tắc trong mọi việc họ làm không? Họ có đến trước mặt Đức Chúa Trời với lòng kính sợ Đức Chúa Trời và hành động theo lời Đức Chúa Trời cũng như theo các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu không? Không hề. Tất cả đều là cách làm của con người, là sự khắc chế của con người. Biểu hiện chính cho thấy họ không tiếp nhận lẽ thật là gì? Đó là, trước khi làm một việc gì đó, họ không bao giờ chủ động tìm kiếm lẽ thật hay nghiêm túc nghiền ngẫm xem nguyên tắc lẽ thật là gì, rồi sau đó thực hành nghiêm ngặt theo lời Đức Chúa Trời. Họ có suy nghĩ và thái độ như vậy không? Họ có thái độ thế nào đối với các loại biểu hiện của tâm tính bại hoại nơi con người mà Đức Chúa Trời đã vạch trần? Họ có tiếp nhận những lời này không? Họ có thừa nhận rằng những lời này là sự thật không? Họ có thừa nhận rằng những biểu hiện cụ thể này là sự bộc lộ bại hoại không? Cũng có thể họ sẽ gật đầu hoặc thừa nhận một cách hình thức, nhưng trong lòng lại không tiếp nhận, không để ý. Không để ý có nghĩa là sao? Nói một cách cụ thể, không để ý có nghĩa là không tiếp nhận, không có thái độ rõ ràng, cũng không có sự chống đối hay phản kháng rõ ràng, mà lại có thái độ theo kiểu tạm thời gác lại đối với những lời này của Đức Chúa Trời. Cách nói “tạm thời gác lại” có chút trừu tượng. Nói một cách cụ thể, họ cho rằng: “Ngài nói mọi người kiêu ngạo và giả dối, nhưng có ai lại không giả dối chứ? Ai mà không có chút hẹp hòi chứ? Ai mà không thể hiện chút kiêu ngạo hoặc ngạo mạn chứ? Có gì to tát đâu? Chỉ cần có thể chịu khổ và trả giá là được rồi”. Đây chẳng phải là thái độ và biểu hiện cụ thể cho thấy họ không tiếp nhận sao? (Thưa, phải.) Đây chính là không tiếp nhận lẽ thật. Thái độ của họ đối với những lời phán xét và vạch rõ của Đức Chúa Trời là không để ý và không tiếp nhận. Vậy thì khi anh chị em đánh giá và nhắc nhở họ, thậm chí chỉ ra và giúp đỡ họ về tâm tính bại hoại của họ, liệu họ có thể tiếp nhận không? (Thưa, họ không thể.) Vậy các ngươi hãy nói xem, biểu hiện cụ thể của họ là gì? Tại sao họ không thể tiếp nhận? Đâu là bằng chứng để ngươi nói như vậy? Ví dụ, khi ngươi nói với họ: “Anh không thể làm bổn phận một cách cẩu thả như vậy được. Như vậy là qua loa chiếu lệ”, thì biểu hiện nào của họ chứng thực rằng họ không tiếp nhận lẽ thật? (Thưa, họ sẽ nói: “Tôi đã để tâm lắm rồi. Tôi đã chịu khổ và trả giá. Làm sao anh có thể nói rằng tôi qua loa chiếu lệ?”.) Đây là họ đang bào chữa cho bản thân. Liệu họ có thỉnh thoảng kiếm cớ không? Ngay cả khi trong lòng họ đã thừa nhận, họ vẫn nghĩ: “Mình qua loa chiếu lệ, thế thì sao? Ai mà chẳng có những ngày tâm trạng tồi tệ? Ai mà chẳng có hỷ nộ ai lạc bình thường? Nhưng mình không thể thừa nhận rằng mình qua loa chiếu lệ. Mình cần tìm một cái cớ để che đậy cho qua chuyện. Mình không thể để mất mặt được”. Vì vậy, họ tìm nhiều cái cớ và lý do để ngụy biện cho mình, không thừa nhận sự thật rằng họ qua loa chiếu lệ, không thừa nhận rằng mình có vấn đề trong phương diện này, cũng không tiếp nhận khi được người khác chỉ ra. Đây là biểu hiện cụ thể cho thấy họ không tiếp nhận lẽ thật. Khi không có chuyện gì, họ tự cho mình là “người tốt, người chân thành tin Đức Chúa Trời”. Còn khi có chuyện xảy ra, mặc dù không thể dùng điều này làm lá chắn nữa, họ vẫn tìm đủ lý do để bào chữa và biện bạch cho bản thân, lấp liếm cho qua vấn đề là coi như xong chuyện, chấm hết hoàn toàn, rồi sau đó lại tự cho mình là “người tốt, có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ, cũng như có thể chịu khổ và trả giá khi làm bổn phận”. Nói một cách chính xác, biểu hiện và thực chất của loại người này là của người đem sức lực phục vụ. Nhóm người này chiếm tỉ lệ rất lớn trong hội thánh. Bất kể chiếm tỉ lệ lớn thế nào, nếu cuối cùng, những người này thực sự có thể chịu khổ và trả giá, có thể nhẫn nại và kiên trì đến cùng mà không có vi phạm lớn nào, không vi phạm các sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời hay xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, thì họ chính là những người đem sức lực phục vụ trung thành, là những người đem sức lực phục vụ có thể được sống sót. Đây là một phúc lành lớn lao! Họ không mưu cầu lẽ thật, không thể tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, không thể làm chứng cho Đức Chúa Trời, cũng không thể làm chứng cho lời Đức Chúa Trời và công tác của Ngài, nên họ nhận được phúc lành này là tốt lắm rồi. Một người không mưu cầu lẽ thật thì còn muốn đạt được gì nữa? Là một người đem sức lực phục vụ trung thành đã là không tệ rồi. Một số người hỏi: “Liệu những người này có thể trở thành dân của Đức Chúa Trời không?”. Có thể. Khả năng duy nhất là nếu những người này, trên cơ sở có thể từ bỏ và chịu khổ, mà có thể tiếp nhận lẽ thật, thừa nhận cũng như đối mặt một cách đúng đắn với sự bại hoại của bản thân, rồi sau đó tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, không hành động dựa vào cái tốt hay sự khắc chế, nhẫn nại và kiên trì của con người, thay vào đó thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, thì đến cuối cùng, tâm tính của họ sẽ có thể có một số thay đổi và họ sẽ có một chút xác suất trở thành dân của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu việc làm và hành vi của họ không liên quan gì đến sự thay đổi trong tâm tính, không liên quan gì đến việc tiếp nhận lẽ thật và được cứu rỗi, thì xác suất họ trở thành dân của Đức Chúa Trời sẽ là con số không. Đây là sự thật. Nguyên tắc đối xử với những người đem sức lực phục vụ trung thành là gì? Đó là nỗ lực hết sức để giúp những người này trở nên tỉnh táo. Mục đích của việc giúp họ trở nên tỉnh táo là gì? Đó là để họ đừng mơ mộng. Có thể một số người sẽ hỏi: “‘Mơ mộng’ nghĩa là gì?”. Đó là khi họ tự cho mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá”, sau đó mong được Đức Chúa Trời cứu rỗi – đây là điều không thể. Chúng ta buộc phải khiến họ hiểu rõ quan điểm cho rằng “có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá thì có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi” là sai lầm và ngu xuẩn. Chúng ta nhất định phải khiến họ hiểu rõ rằng việc có mấy điểm này không có nghĩa là người ta đã thoát khỏi tâm tính bại hoại, có một số hành vi tốt cũng không có nghĩa là người ta có thể được cứu rỗi, chứ đừng nói là đạt được lẽ thật, và rằng quan điểm của họ là vô lý và hoang đường, không phù hợp và chẳng ăn nhập gì với lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ. Đối với những người ngoan cố bám giữ các quan niệm tôn giáo như vậy, chúng ta cần giúp đỡ họ. Hãy đọc lời Đức Chúa Trời và thông công về lẽ thật cho họ. Nếu họ vẫn không thể tiếp nhận lẽ thật, và bất kể ngươi thông công về lẽ thật như thế nào, họ vẫn không thông suốt và không có ý tìm kiếm, thì không cần phải nài ép họ. Họ chỉ có thể làm người đem sức lực phục vụ đến cuối cùng mà thôi.
II. Dân của Đức Chúa Trời
Sau khi thông công các biểu hiện của người đem sức lực phục vụ trung thành, chúng ta hãy nói về các biểu hiện của một loại người khác. Những người này nghe xong những lời vạch rõ và phán xét khác nhau của Đức Chúa Trời về tâm tính bại hoại của đủ mọi loại người, thì họ càng suy nghĩ nhiều hơn về đủ mọi lần bộc lộ tâm tính bại hoại của mình cũng như các loại thái độ khác nhau đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật nảy sinh dưới sự chi phối của tâm tính bại hoại của họ – họ bắt đầu phản tỉnh và nhận biết các loại biểu hiện khác nhau của bản thân, đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, kiểm điểm thái độ của họ đối với bổn phận, kiểm điểm những sự bại hoại khác nhau mà họ bộc lộ khi làm bổn phận và khi ở giữa những con người, sự việc và sự vật khác nhau do Đức Chúa Trời sắp đặt. Họ kiểm điểm và nhận biết bản thân từng chút một, đồng thời cố gắng tiếp nhận sự phán xét, vạch rõ, và sửa dạy của Đức Chúa Trời. Những người này tốt hơn người đem sức lực phục vụ ở điểm nào? Họ có thể chủ động và tích cực tiếp nhận lẽ thật, lời Đức Chúa Trời, và mỗi một dạng tâm tính bại hoại mà Đức Chúa Trời vạch rõ. Mặc dù đôi khi họ cũng tiêu cực, trốn tránh, hoặc thậm chí muốn từ bỏ, nhưng dù thế nào đi nữa, họ vẫn có một dạng động lực để khiến bản thân tiếp nhận lẽ thật. Động lực này là gì? Chính là: “Lời Đức Chúa Trời có thể thay đổi con người. Chỉ cần con người tiếp nhận lẽ thật, thì những vấn đề và tâm tính bại hoại này của con người đều có thể được giải quyết, và khi đó con người có thể được cứu rỗi. Nếu muốn được cứu rỗi, mình phải phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời và tiếp nhận lẽ thật”. Ví dụ, có người nghe lẽ thật về việc làm người trung thực rồi thì bắt đầu phản tỉnh bản thân, thấy rõ hơn sự giả dối và lừa lọc mà họ làm, cũng như bộ mặt nham hiểm và tà ác của họ. Họ nhớ lại những lời nói dối và cách thức lừa lọc trước đây vẫn còn đọng lại trong lòng hoặc trong ấn tượng của họ, chúng cứ chiếu đi chiếu lại như cảnh trong một bộ phim, khiến họ cảm thấy ngày càng xấu hổ, đau khổ, và buồn bã. Sau khi liên tục kiểm điểm và phản tỉnh bản thân, họ cảm thấy mình như tội phạm, ngay lập tức ngã quỵ và không thể đứng dậy, cảm thấy bản thân không phải là người tốt mà là kẻ ác, và nghĩ rằng thật may mắn khi họ đã không trực tiếp chống đối Đức Chúa Trời, thật may mắn khi họ đã thoát nạn! Sau đó, họ bắt đầu tỉnh ngộ, không cam tâm thất bại trong chuyện làm người như vậy, và hạ quyết tâm: “Mình phải bắt đầu làm người trở lại, phải làm người trung thực, nếu không thì mình sẽ không thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Để được cứu rỗi, mình phải làm người trung thực, tuyệt đối không được bỏ cuộc!”. Bất kể loại người này tiếp nhận lẽ thật sớm hay muộn, cũng bất kể họ lĩnh hội lời Đức Chúa Trời sâu sắc hay nông cạn, thì tóm lại thái độ của họ đối với lời Đức Chúa Trời không phải là khinh thường, càng không phải là ác cảm hay chống đối. Thay vào đó, họ tích cực thừa nhận và tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, sau đó họ luôn sẵn sàng đưa vào thực hành. Khi hành động hoặc làm bổn phận, họ cố gắng hết sức để tìm kiếm các nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời và sau đó hành động một cách có ý thức theo những nguyên tắc này. Ngay cả khi thỉnh thoảng họ không thể tìm thấy nguyên tắc cụ thể hoặc không thể nắm bắt phương hướng, thì ý định của họ là làm tốt bổn phận của mình, làm sao cho phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật. Nhân tính của loại người này và của người đem sức lực phục vụ không khác nhau là mấy; cũng không có sự phân biệt cao thấp hay sang hèn. Tất nhiên, trong số này cũng có nhiều người tự coi mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, vì tin Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để làm bổn phận của mình”. Nhưng sự khác biệt giữa những người này và người đem sức lực phục vụ là gì? Sau khi nghe những lời Đức Chúa Trời phán xét và vạch rõ con người, thái độ của họ không phải là mặc kệ hay trốn tránh, mà là chủ động và chăm chú tiếp nhận. Ngay cả khi họ nghe xong những lời này thì cảm thấy buồn bã và chán nản, thậm chí bày tỏ sự tức giận đối với sự bộc lộ bại hoại của chính mình, thì cuối cùng, họ vẫn có thể đối mặt một cách đúng đắn và tiếp nhận một cách tích cực, cũng như chủ động thực hành và bước vào chúng. Đây có phải cũng là một loại người không? (Thưa, phải.) Loại người này có tiêu biểu không? (Thưa, có.) Có nhiều người như vậy không? (Thưa, không nhiều.) Mặc dù hiện tại chưa có nhiều nhưng hy vọng sẽ ngày càng có nhiều hơn. Vậy, những người này nên được phân loại vào loại nào? Có thể nói rằng có những biểu hiện cụ thể này nghĩa là những người này yêu thích lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, có.) Có thể nói như vậy. Mặc dù một số người có năng lực lĩnh hội kém thì tiếp nhận lẽ thật chậm hơn, nhưng nơi sâu thẳm nội tâm, họ tiếp nhận lẽ thật và có tâm thái tích cực bước vào lẽ thật. Hễ có người thông công về sự sáng mới hoặc con đường thực hành phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, thì mắt họ sáng lên, lòng họ thông tỏ, và họ vui vẻ, cho rằng: “Cuối cùng đã có người thông công được sự sáng này. Đây là những gì mình còn thiếu”. Họ luôn có thể nắm bắt được mình thiếu cái gì, luôn có thể thu hoạch được sự sáng và sự khai sáng mà họ cần và còn thiếu, cũng như luôn có thể tìm thấy nguyên tắc lẽ thật mà họ cần từ nhận thức trải nghiệm chân thực mà anh chị em thông công. Xét từ những biểu hiện cụ thể này, trong lòng họ có khát khao lẽ thật không? (Thưa, có.) Nếu nói những người này yêu thích lẽ thật thì có phần không khách quan và chính xác cho lắm. Tuy nhiên, xét từ những biểu hiện cụ thể của họ, thì họ đang khao khát lẽ thật. Sự khao khát này đến từ đâu? Chính là từ hy vọng của họ mong giải quyết được tâm tính bại hoại, giải quyết các loại vấn đề và khó khăn khác nhau mà họ gặp phải trong lối vào sự sống, từ hy vọng của họ rằng mình có tiến bộ về lẽ thật và có thể tiến sâu hơn vào lẽ thật, cũng như hy vọng mình có thể thực sự có thể hành động theo nguyên tắc, có con đường để thực hành, có thể từ sự bộc lộ tâm tính bại hoại của mình mà nhận biết chính xác hơn về thực chất tâm tính bại hoại của mình là gì, cách giải quyết và thoát khỏi chúng. Mặc dù những người này thường sống trong những tâm tính bại hoại như tranh giành địa vị, khăng khăng làm theo ý mình, tự cho mình là đúng, kiêu ngạo, giả dối, hoặc thậm chí cương ngạnh, v.v., nhưng trong quá trình liên tục ăn uống lời Đức Chúa Trời và trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, họ sẽ dần dần kiểm điểm và thấy ra những vấn đề rõ ràng này. Sau đó, họ có thể nhận biết những thứ này là vấn đề, là sự bộc lộ tâm tính bại hoại, là không phù hợp với lẽ thật và bị Đức Chúa Trời căm ghét. Sau khi phát giác được tâm tính bại hoại của bản thân, họ càng khao khát giải quyết và thoát khỏi những tâm tính bại hoại này. Đây là một trong những nguồn gốc của sự khao khát lẽ thật. Nói cách khác, họ có nhu cầu giải quyết tâm tính bại hoại của mình, có tâm lý cấp thiết muốn thoát khỏi tâm tính bại hoại. Đồng thời, sau khi phát hiện những tình trạng, vấn đề, và khó khăn khác nhau mà tâm tính bại hoại của họ bộc lộ, họ càng muốn hiểu những lời và yêu cầu chính xác của Đức Chúa Trời về những vấn đề này là gì, cũng như lẽ thật hoặc lời nào của Đức Chúa Trời có thể giải quyết chúng. Đây là những biểu hiện và nguồn gốc cụ thể của sự khao khát của họ đối với lẽ thật. Nói như vậy có khách quan không? (Thưa, có.) Không thể nói rằng những người này yêu thích lẽ thật. Nếu yêu thích lẽ thật, họ sẽ rất chủ động, và các biểu hiện khác nhau của họ sẽ tích cực hơn. Tuy nhiên, xét theo các biểu hiện khác nhau và vóc giạc thực tế của những người này, thì họ chưa đạt đến mức yêu thích lẽ thật, mà chỉ khao khát lẽ thật. Nói như vậy đã rất khách quan rồi. Vậy, khi nhìn vào các biểu hiện khác nhau của những người này, họ nên được xếp vào loại nào? Nói một cách chính xác, những người này nằm trong phân loại là dân của Đức Chúa Trời. Cũng có căn cứ để nói như vậy. Căn cứ gì? Tâm tính bại hoại của loại người này giống như của những người khác. Xét về nhân tính, không thể nói họ có nhân tính tốt, cũng không thể nói họ là người hoàn hảo trong mắt Đức Chúa Trời; hầu hết họ đều có nhân tính trung bình. “Trung bình” có nghĩa là gì? Nghĩa là có lương tâm và lý trí nhất định. Nhưng đây không phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất là gì? Chính là sau khi họ nghe lời Đức Chúa Trời và các yêu cầu của Đức Chúa Trời, cũng như nghe về tâm tính bại hoại của đủ mọi loại người mà lời Đức Chúa Trời vạch rõ, thì họ không thờ ơ vô cảm, mà sẽ được thúc đẩy và sẽ hành động. Hành động có nghĩa là gì? Nghĩa là, sau khi nghe lời Đức Chúa Trời và những lẽ thật này, họ không sẵn lòng sống trong tâm tính bại hoại của mình và tiếp tục cách sống trước đây nữa. Thay vào đó, họ nỗ lực thay đổi những tư tưởng, quan điểm và đường lối sinh tồn và cách sống mà trước đây họ đã dựa vào. Đồng thời, trong khi làm bổn phận của mình và trong những môi trường khác nhau mà Đức Chúa Trời sắp đặt, họ có thể chủ động tìm kiếm lẽ thật, lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ và nguyên tắc thực hành, thay vì mặc ý làm càn. Xét từ nhân tính và tố chất của những người này, cũng như thái độ và quan điểm của họ đối với lời, công tác và yêu cầu của Đức Chúa Trời, v.v., thì họ đích thị là những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Họ có nhiều hy vọng thoát khỏi tâm tính bại hoại và được cứu rỗi hơn những người đem sức lực phục vụ. Chỉ những người tiếp nhận lẽ thật và có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại để được cứu rỗi mới là dân của Đức Chúa Trời. Định nghĩa này chẳng phải rất xác đáng sao? (Thưa, phải.) Định nghĩa như vậy là xác đáng nhất. Được cứu rỗi không phải chỉ là ra sức một chút và trả giá đôi chút để được sống sót là xong. Trạng thái của những người có thể được cứu rỗi là gì? Đó là trạng thái mà, thông qua việc tiếp nhận và trải nghiệm lời và công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính bại hoại của họ được giải quyết. Trong quá trình này, họ nhận biết Đức Chúa Trời, nhận biết tâm tính bại hoại của bản thân, cũng như có thể nghiệm và trải nghiệm cụ thể và chân thực về lời Đức Chúa Trời, từ đó có thể đưa ra lời chứng cho Đức Chúa Trời – nghĩa là có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Họ làm chứng điều gì cho Đức Chúa Trời? Họ làm chứng cho tâm ý và tâm tính của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có gì và là gì, thân phận của Đức Chúa Trời, và làm chứng rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Đây là những gì có thể được thể hiện nơi một người sau khi đạt được sự cứu rỗi. Tại sao sau khi được cứu rỗi, người ta có thể đạt được những kết quả này? Không phải vì họ coi mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, vì tin Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá để làm bổn phận của mình” mà đạt được điều này. Lý do duy nhất và cũng là điểm quan trọng nhất để đạt được điều này chính là họ có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời làm sự sống của mình, có thể thực hành lẽ thật để thoát khỏi tâm tính bại hoại, buông bỏ cách sống và quan điểm sống cũ kỹ, ban đầu của mình, cũng như lấy lời Đức Chúa Trời làm sự sống mới của mình. Họ lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ để làm người và hành động, đi theo Đức Chúa Trời, thuận phục Đức Chúa Trời và làm hài lòng Đức Chúa Trời. Đây là kết quả mà loại người này có thể đạt đến. Điều chính yếu nhất để đạt được sự cứu rỗi là gì? (Thưa, là có thể tiếp nhận lẽ thật.) Đúng vậy. Có thể tiếp nhận lẽ thật là điểm mấu chốt.
Một số người nói: “Nếu con dâng mình cho Đức Chúa Trời đến cùng, thì Đức Chúa Trời có ban phúc lớn cho con không?”. Nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật, nhưng vẫn có thể kiên trì đi theo Đức Chúa Trời đến cùng, đem sức lực phục vụ đến cùng, trong thời gian đó không có sự vi phạm lớn, không xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời, thì trong những tình huống như vậy, Đức Chúa Trời sẽ xác định ngươi là người đem sức lực phục vụ trung thành và được sống sót. Một số người hỏi: “Được sống sót là phúc lành gì?”. Phúc lành này không nhỏ đâu! Nếu có cơ hội và khả thi, ngươi có thể thấy chân thể của Đức Chúa Trời, và chuyện này phụ thuộc vào những gì Đức Chúa Trời làm trong thời đại tiếp theo. Nếu có cơ hội sống sót và sống thêm vài thập kỷ nữa, thì đó là phúc lành rất lớn. Phúc lành này do đâu mà có? Chính là nhờ việc đem sức lực phục vụ một cách trung thành trong khi vẫn giữ quan điểm rằng “Mình có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, vì tin Đức Chúa Trời mà có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng trả giá và chịu khổ để làm bổn phận của mình”. Vậy chẳng phải người đem sức lực phục vụ nên biết đủ hay sao? (Thưa, phải.) Đạt được phúc lành này thì nên biết đủ. Ngươi đâu có tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, nhưng vì Đức Chúa Trời thấy ngươi có lòng trung thành và có thể đem sức lực phục vụ đến cùng, không đào ngũ giữa chừng, không xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời hay vi phạm sắc lệnh quản trị của Ngài, không có những vi phạm lớn, nên Ngài ban phúc lành và ân điển này cho ngươi. Kể từ khi Đức Chúa Trời tạo dựng loài người, đây là món quà lớn nhất mà Đức Chúa Trời ban cho những con người bại hoại chỉ đem sức lực phục vụ một cách trung thành mà không đạt đến việc được cứu rỗi. Ngươi chỉ ra sức một chút, chứ ngươi đâu có tiếp nhận lời Đức Chúa Trời – có thể nhận được phúc lành lớn như vậy đã là rất tốt rồi; đây là sự ân đãi cực lớn của Đức Chúa Trời. Một loại người khác là dân của Đức Chúa Trời – những người mà chúng ta vừa nói đến. Phúc lành mà dân của Đức Chúa Trời nhận được chắc chắn lớn hơn phúc lành mà những người đem sức lực phục vụ nhận được. Vậy, phúc lành của dân của Đức Chúa Trời là gì? Tất nhiên, không đơn giản chỉ là có thể sống sót hoặc có cơ hội thấy chân thể của Đức Chúa Trời. Còn nhiều phúc lành hơn thế nữa, nhưng chúng ta sẽ không nói thêm ở đây. Nói về điều đó là không thực tế, và dù Ta có nói thì bây giờ các ngươi cũng không hiểu, không đạt được chúng. Không ngoa khi nói rằng dân của Đức Chúa Trời là đối tượng mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi, và họ nhận được phúc lành lớn nhất trong toàn thể nhân loại. Tại sao Ta nói như vậy? Bởi vì, trong công tác của Đức Chúa Trời, trong công tác của kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời nhằm cứu rỗi nhân loại, thì dân của Đức Chúa Trời, bằng cách có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, bằng cách có thể coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là nguyên tắc cho sự sinh tồn của mình, và bằng cách lấy lời Đức Chúa Trời làm sự sống của mình, họ đã thoát khỏi tâm tính bại hoại của Sa-tan và sống thể hiện ra lời Đức Chúa Trời, làm chứng mạnh mẽ và vang dội cho Đức Chúa Trời. Họ có thể dùng những gì họ sống thể hiện ra và sự sống của họ để đánh trả Sa-tan và làm Sa-tan hổ thẹn, có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời giữa nhân loại, từ đó đem vinh quang về cho Đức Chúa Trời. Cho nên, dân của Đức Chúa Trời là những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi, và là những người được cứu rỗi. Một số người nói: “Những người này có thể lấy lời Đức Chúa Trời làm sự sống, sống thể hiện ra lời Đức Chúa Trời, và làm chứng cho Đức Chúa Trời, vậy thì họ có phải là con trai yêu dấu của Đức Chúa Trời, những người mà Đức Chúa Trời vui thích không?”. Ngươi nghĩ quá nhiều rồi; trở thành dân của Đức Chúa Trời là đủ tốt rồi. Nếu Đức Chúa Trời gọi ngươi là con trai, con, hay con trai yêu dấu của Ngài, thì đó là việc của Ngài, nhưng bất kể vào lúc nào, ngươi cũng không bao giờ được tự xưng là con trai yêu dấu, con hay là bảo bối của Đức Chúa Trời. Đừng tự xưng như vậy, và đừng tự cho mình là như vậy; ngươi là loài thọ tạo – như vậy mới đúng. Cho dù đến một ngày nào đó, ngươi đạt được danh xưng dân của Đức Chúa Trời, hoặc ngươi đã bước vào con đường được cứu rỗi, thì ngươi cũng chỉ là một loài thọ tạo. Nếu ngươi nghĩ như vậy, thì chứng tỏ con đường ngươi đang đi là đúng. Nếu ngươi luôn mưu cầu trở thành con trai yêu dấu của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời yêu thương và vui thích, thì con đường ngươi đang đi là sai; con đường này không dẫn đến đâu cả, và ngươi không nên có suy nghĩ viển vông như vậy. Bất kể Đức Chúa Trời có bao giờ phán những lời này hay không, có bao giờ hứa như vậy với con người hay không, thì ngươi cũng đừng coi mình như vậy; đó không phải điều ngươi hẳn phải đạt được. Là dân của Đức Chúa Trời đã đủ tốt rồi; dân của Đức Chúa Trời đã là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn – chỉ tiếc rằng hiện tại ngươi chưa phải là một trong số đó. Cho nên, đừng mưu cầu những thứ trống rỗng hư vô và mờ mịt đó. Có thể mưu cầu việc được cứu rỗi thì, ở một mức độ nào đó, đã là ở trên con đường được cứu rỗi. Đặc trưng chính nhất của dân của Đức Chúa Trời là họ có thể tiếp nhận lẽ thật cũng như có biểu hiện yêu thích lẽ thật. Trong quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và mưu cầu sự cứu rỗi, những tâm tính bại hoại, tư tưởng cũ, cũng như nhiều tình trạng và biểu hiện tiêu cực khác nhau liên quan đến tâm tính bại hoại của họ, đều có thể được giải quyết, thoát khỏi, và thay đổi ở nhiều mức độ khác nhau. Sau đó, họ có thể sống thể hiện ra yêu cầu của Đức Chúa Trời về việc làm người trung thực, người hiểu nguyên tắc lẽ thật, người trung thành và thuận phục, cũng như người có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Còn về chuyện làm thế nào để trở thành một dân của Đức Chúa Trời đạt tiêu chuẩn và hợp cách, thì chúng ta sẽ không nói chi tiết ở đây; đó không phải là chủ đề mà chúng ta muốn thông công hôm nay.
III. Người làm thuê
Ngoài những người đem sức lực phục vụ và dân của Đức Chúa Trời, còn có một loại người khác, là loại người đáng thương nhất trong số những người mà Đức Chúa Trời chọn. Sau khi nghe những lẽ thật khác nhau mà Đức Chúa Trời bày tỏ, và những lời vạch rõ khác nhau của Ngài về nhân loại, thì biểu hiện của họ, những gì họ sống thể hiện ra và mục đích mưu cầu của họ vẫn không thay đổi chút gì. Bất kể ngươi thông công về lẽ thật với họ như thế nào, thì họ vẫn thờ ơ vô cảm: “Tôi không muốn thay đổi. Tôi muốn sống thế nào thì sẽ sống thế ấy, chẳng ai quản nổi đâu. Tôi mặc kệ hết! Tôi đang không vui, nên đừng ai chọc vào tôi. Chọc vào tôi thì tôi không khách khí đâu!”. Mặc dù họ không tự nhìn nhận mình bằng thái độ và quan điểm rõ ràng “Mình có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ, cũng như sẵn lòng chịu khổ và trả giá”, nhưng khi ở giữa anh chị em, họ có một thái độ rõ ràng hơn. Là thái độ gì? Chính là: “Tôi sẽ làm theo cách mình muốn, làm những gì mình muốn. Đừng ai khuyên tôi tiếp nhận lẽ thật, đừng ai cố thay đổi tôi. Ai cố khuyên tôi tiếp nhận lẽ thật thì đều đang tự chuốc lấy rắc rối, còn ai muốn tỉa sửa tôi, thì tôi sẽ liều mạng với họ!”. Họ không có chút hứng thú gì với bất kỳ lời nào Đức Chúa Trời phán hay công tác nào Đức Chúa Trời làm. Tất nhiên, đối với tâm tính bại hoại của con người và nguyên tắc hành động, cũng như thái độ mà mọi người nên có đối với Đức Chúa Trời và nguyên tắc mà con người nên tuân thủ khi qua lại giữa người với người – mà anh chị em đề cập trong các buổi nhóm họp hoặc khi làm bổn phận – thì họ nhìn nhận chúng bằng thái độ khinh thường. Một số người làm bổn phận nhưng hoàn toàn không để ý đến các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, dự tính làm thế nào thì cứ làm thế ấy. Ngươi vừa thông công xong các nguyên tắc với họ xong thì họ đồng ý trước mặt ngươi, nhưng vừa quay đi là họ bắt đầu mặc ý làm càn và quỷ tướng của họ lộ ra. Cũng có những người bề ngoài trông có vẻ cũng không tồi, nhưng khi ngươi nói chuyện hoặc tán gẫu với họ, thì thấy quan điểm của họ không đúng, giọng điệu của họ không đúng, và quan trọng hơn là tâm tính của họ không đúng, khiến ngươi không thể nào nói chuyện với họ. Khi ngươi hỏi họ: “Trên đời có Đức Chúa Trời không?”, họ nói: “Tôi không biết”. Ngươi nói: “Chuyện này phải làm theo cách này, đó là tâm ý của Đức Chúa Trời”. Họ trả lời: “Anh thấy tôi chướng mắt phải không? Anh muốn gây phiền phức cho tôi hả? Anh muốn khai trừ tôi hả?”. Ngươi nói: “Anh làm như vậy là đang lan truyền quan niệm và trút ra sự tiêu cực, như vậy có thể khiến một vài người mới tin bị vấp ngã. Chúng ta phải tuân thủ khuôn phép của nhà Đức Chúa Trời và phải hiểu rõ các nguyên tắc nên tuân thủ khi tiếp xúc và qua lại giữa người với người. Nếu những gì anh nói và làm không thể đem lại sự xây dựng hoặc giúp đỡ người khác, thì ít nhất cũng đừng gây ảnh hưởng xấu đến người khác. Đây là lý trí mà nhân tính bình thường nên có”. Họ nói: “Anh nói với tôi về nhân tính bình thường, giảng cho tôi về khuôn phép, anh nghĩ mình là ai chứ? Tôi trút ra sự tiêu cực thì có gì sai? Mấy người mới tin ấy, vấp ngã một người thì bớt đi một người – tôi khỏi phải khó chịu khi gặp họ!”. Nói về khuôn phép với họ cũng vô ích, và giảng về nhân tính với họ cũng thế. Vậy giảng về lẽ thật, về lời Đức Chúa Trời thì sao? Giảng về lời Đức Chúa Trời thì họ cũng không nghe. Chẳng ai dám nói gì họ, chẳng ai dám động chạm hay chọc vào họ. Trong hội thánh có những người như vậy không? (Thưa, có.) Trong số những người đã bị thanh trừ, có một số người như vậy. Những người này là người đem sức lực phục vụ, là dân của Đức Chúa Trời, hay là ai? (Thưa, họ là những người bị đào thải.) Tại sao họ bị đào thải? (Thưa, vì họ không tiếp nhận lẽ thật, chán ghét lẽ thật.) Đây chính là thực chất của vấn đề. Vậy, tại sao họ không tiếp nhận lẽ thật, chán ghét lẽ thật? Nguyên nhân là gì? (Thưa, thực chất của những người này là của kẻ chẳng tin.) Đúng vậy, thực chất của họ là của kẻ chẳng tin. Trong hội thánh có nhiều kẻ chẳng tin, nhưng có phải tất cả những kẻ chẳng tin đều như vậy không? (Thưa, không.) Những người này, thậm chí không có đạo đức và sự giáo dưỡng cơ bản nhất của nhân tính – có phải họ bị đào thải chỉ vì họ là kẻ chẳng tin không? Tại sao họ bị đào thải? Suy cho cùng thì đó là vấn đề nhân tính; những người này có nhân tính xấu và ác. Nói một cách chính xác, thì họ không có nhân tính. Không có nhân tính thì là thứ gì? Thì có quỷ tính. Người có quỷ tính so với súc sinh thì như thế nào? Ta cho rằng họ còn tệ hơn súc sinh; một số loài súc sinh có thể nghe lời và không làm việc xấu. Ví dụ, chó có thể khá ngoan; một số con chó thực sự có thể trở thành thú cưng, rất hòa hợp với con người! Chúng đặc biệt nghe lời và hiểu chuyện, hiểu mọi điều con người nói, và chúng phù hợp để nuôi trong nhà. Những con chó này tốt hơn nhiều so với người không nghe lời. Có nhiều người thậm chí còn không bằng con chó ngoan. Vậy, họ còn là con người sao? Không, họ không phải là con người; họ là thứ phi nhân. Có nhiều người không hiểu tiếng người, không có cách nào giao tiếp với họ được. Thông công về lẽ thật kiểu gì thì họ cũng không tiếp nhận, bị tỉa sửa thì họ còn oán trách, bị đào thải thì họ chửi mắng, họ tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm rồi mà chẳng thay đổi chút gì. Còn có thể cho loại người như vậy lưu lại trong nhà Đức Chúa Trời sao? (Thưa, không thể.) Không thể cho họ lưu lại. Những người như vậy nên được xếp vào loại nào? Trước hết, những người này có nên được xếp vào loại dân được Đức Chúa Trời chọn không? (Thưa, không.) Nếu họ không phải là dân được Đức Chúa Trời chọn, thì nên xếp họ vào loại nào? Nên giải thích như thế nào khi nói họ không phải là dân được Đức Chúa Trời chọn? Nghĩa là, xét từ góc độ nhân tính mà những người này biểu hiện và sống thể hiện ra, thì không chỉ đơn giản rằng họ là kẻ chẳng tin; thực chất của họ không phải là con người. Có rất nhiều kẻ chẳng tin – liệu có phải tất cả đều xấu và ác như những người này không? Không. Ngay cả trong số những người ngoại đạo, không phải ai cũng xấu xa như vậy; một số người có các tiêu chuẩn đạo đức cơ bản nhất. Còn những người này thì sao? Họ không có đạo đức và sự giáo dưỡng cơ bản nhất mà người ngoại đạo có; nói một cách chính xác, những gì họ bộc lộ và sống thể hiện ra không phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức của nhân tính. Thực chất của những người này là quỷ tính. Xét từ thực chất của họ, thì Đức Chúa Trời có cứu rỗi họ không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ. Tại sao lại như vậy? Bởi vì nhân tính của họ là xấu và ác, thuộc về quỷ tính, nên họ chán ghét và chống đối lẽ thật. Thực ra, nói như vậy là nâng cao họ; nói cho chính xác thì những người này chán ngán và căm ghét những điều tích cực, nhưng không đến mức chán ghét và không tiếp nhận lẽ thật. Họ chán ngán, căm ghét và chống đối ngay cả những điều tích cực cơ bản nhất; họ thấy ác cảm với mọi khuôn phép nên giữ và sự giáo dưỡng nên có của một người có nhân tính bình thường. Liệu họ có thể tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, chuyện đó thì khỏi nói đến.) Đúng vậy, khỏi cần nói đến; họ thậm chí còn không phải là người đem sức lực phục vụ. Có một số người nói: “Nếu họ thậm chí không phải là người đem sức lực phục vụ, thì họ được coi là gì trong nhà Đức Chúa Trời? Họ vào nhà Đức Chúa Trời bằng cách nào?”. Nếu chúng ta giải thích về họ, phân loại họ, thì nói một cách chính xác, những người này giống như người làm thuê hoặc công nhân thời vụ được chiêu mộ từ dân ngoại đạo. Ý nghĩa của điều này có rõ ràng không? Đây là loại của họ, cũng là vai trò của họ trong nhà Đức Chúa Trời. Họ thậm chí không phải là người đem sức lực phục vụ, Ta không xem họ là người đem sức lực phục vụ, họ không xứng! Người đem sức lực phục vụ có những đặc điểm như có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, cũng như sẵn lòng trả giá, và có thể chịu khổ, và sống thể hiện ra những điều này. Họ thậm chí không có những đặc điểm này, nên việc phân loại họ là người làm thuê là đã chí nhân chí nghĩa và rất khách khí rồi. Là người làm thuê hoặc công nhân thời vụ thì có nghĩa là gì? Nghĩa là, do các nhu cầu đặc biệt trong những thời kỳ đặc biệt, nhà Đức Chúa Trời đã đưa vào một số người không liên quan đến việc được cứu rỗi để hoàn thành một số công tác. Sau khi các công tác này hoàn thành, những người này cũng lộ rõ chân tướng. Dân được Đức Chúa Trời chọn đã chịu đựng đủ khi qua lại với họ, đã chán ghét họ đến mức không thể chịu đựng nổi, đồng thời đã có sự phân định đầy đủ về họ. Trong tình huống như vậy, những người này nên bị thanh trừ, và đây là thời cơ thích hợp nhất. Về cách những người này xuất hiện, Ta vừa nói rõ ràng rồi phải không? (Thưa, phải.) Họ là những người làm thuê không liên quan đến việc được cứu rỗi, đã được đưa vào trong những thời kỳ đặc biệt của công tác của hội thánh. Sau khi làm những việc vặt và phục vụ trong một khoảng thời gian, những người này làm xằng làm bậy trong nhà Đức Chúa Trời, gây ra rất nhiều sự gián đoạn và nhiễu loạn. Vai trò của họ là nhân vật tiêu cực. Họ thể hiện đầy đủ bộ mặt thật của Sa-tan và ma quỷ, gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, và phá hoại trật tự của đời sống hội thánh. Thực tế hơn, có thể nói rằng những người này đã gây tổn hại khá nghiêm trọng đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, chẳng hạn như làm tổn hại rất nhiều thiết bị, máy móc, đồ vật quý giá, v.v. của nhà Đức Chúa Trời. Có thể nói rằng hành động và hành vi của những người này đã khiến nhiều người tức giận. Tất nhiên, họ cũng khiến nhiều người hơn nữa rút ra được bài học và có được sự phân định, biết được ma quỷ là gì và không có nhân tính là gì, cũng như thấy rõ bộ mặt thật của những kẻ chẳng tin; họ đã cho mọi người thấy rõ hơn và thực tế hơn về tư tưởng và quan điểm của kẻ chẳng tin, thứ họ theo đuổi, thứ họ khao khát nơi sâu thẳm nội tâm, thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật, thái độ của họ đối với bổn phận và những điều tích cực, thậm chí là thái độ của họ đối với một số quy định của nhà Đức Chúa Trời, v.v.. Khi đến mức độ cụ thể như vậy, cách mà những người này sống thể hiện ra nhân tính của họ, thực chất nhân tính của họ, và điều họ theo đuổi, đều bị bại lộ ra hết. Khi đó, việc giữ những người này lại trong hội thánh rõ ràng là thừa thãi, chỉ có hại chứ chẳng có lợi gì cho dân được Đức Chúa Trời chọn. Đây cũng là lúc họ phải rời đi. Vậy, nếu nói rằng nhà Đức Chúa Trời đã cho họ đủ thời gian và cơ hội để tiếp nhận lẽ thật và thờ phượng Đức Chúa Trời, thì có đúng không? (Thưa, không đúng.) Vậy thì nên nói như thế nào? Nhà Đức Chúa Trời đã cho họ đủ cơ hội và đủ thời gian để họ quay đầu, nhưng kết quả lại cho mọi người thấy một sự thật: đó là ma quỷ sẽ mãi mãi là ma quỷ và không bao giờ có thể chuyển biến. Đây là sự thật. Có thể nào khiến con rồng lớn sắc đỏ thừa nhận địa vị và thân phận của Đức Chúa Trời không? Có thể nào khiến những người có quỷ tính thay đổi và tuân thủ chút khuôn phép không? (Thưa, không thể.) Họ không thể đạt được điều đó. Cho họ cơ hội không phải là để họ có thể tiếp nhận lẽ thật, thừa nhận công tác mà Đức Chúa Trời làm, hoặc làm việc theo các nguyên tắc lẽ thật, mà là cho họ cơ hội để quay đầu. Nếu họ có thể quay đầu dù chỉ một chút, thì kết cục sau này của họ có thể thay đổi. Tuy nhiên, những người này không biết điều gì là tốt cho mình; quỷ tính của họ sẽ luôn như vậy. Dù cho họ bao nhiêu thời gian hay cơ hội, thì những gì họ sống thể hiện ra và thực chất của họ sẽ không thay đổi; đây là sự thật. Cho nên, cách xử lý cuối cùng đối với những người này là chấm dứt bổn phận của họ, khiến họ rời khỏi hội thánh, và không cho họ có bất kỳ dính dáng hoặc mối quan hệ nào với nhà Đức Chúa Trời nữa. Có người nào lưu luyến họ, thương hại họ, nói rằng: “Những người này vẫn còn khá trẻ, theo thời gian, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Họ có tố chất tốt như vậy, có ân tứ và tài cán như vậy – nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật thì tốt biết mấy! Nếu nhà Đức Chúa Trời có thể yêu thương và bao dung hơn một chút, cho họ thêm chút cơ hội để họ hối cải, thì khi họ thêm tuổi, có lẽ kết quả sẽ khác”? Những người có cách nghĩ như vậy là loại người nào? (Thưa, là kẻ ngốc, người hồ đồ.) Đúng vậy. Họ đều là những kẻ ngốc, người hồ đồ– chỉ là đồ vô lại! Đức Chúa Trời không cứu rỗi dạng người như vậy, và nhà Đức Chúa Trời không cho phép dạng người như vậy được lưu lại – họ có gì đáng thương hại chứ? Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ không cứu rỗi những người như vậy, mà ngươi nói rằng nên cho họ cơ hội để hối cải. Ngươi có thể cứu rỗi con người sao? Chẳng phải ngươi làm như vậy là đi ngược với Đức Chúa Trời sao? Ngươi muốn người khác nghĩ rằng ngươi có lòng yêu thương hơn cả Đức Chúa Trời sao? Ngươi có thực tế lẽ thật không? Ngươi có thể nhìn thấu thực chất của con người không? Rốt cuộc ai có thể cứu rỗi con người, là Đức Chúa Trời hay ngươi? Ngươi dám đi ngược lại với Đức Chúa Trời – chẳng phải ngươi quá kiêu ngạo, tự cho mình là đúng và không có lý trí sao? Làm như vậy chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Chẳng phải đây là Sa-tan và tà linh đã đầu thai chuyển thế, thích đi ngược lại với Đức Chúa Trời sao? Những kẻ chẳng tin vừa được nhắc đến còn tệ hơn súc sinh. Thông công về lẽ thật cho họ thế nào cũng vô ích; ngay cả việc tỉa sửa họ cũng vô ích. Có thể nói rằng họ có bản tính của Sa-tan và sẽ không bao giờ thay đổi. Nếu có người muốn cho chủng loại Sa-tan này cơ hội hối cải, thì cứ để họ cung dưỡng những người như vậy, xem rốt cuộc họ có tình yêu thương đó hay không. Những kẻ chẳng tin không hề tiếp nhận lẽ thật này chính là những người tệ nhất trong hội thánh; họ đều giống súc sinh, đều bất chấp lý lẽ và không thể cứu vãn. Cho dù là trước kia hay hiện tại, cách hội thánh xử lý họ vẫn thích hợp nhất; hội thánh đã vô cùng kiên nhẫn và bao dung với họ, đã cho họ đủ cơ hội. Nhưng cho đến bây giờ, họ vẫn không thay đổi chút nào, thậm chí có thể nói là ngày một tệ hơn. Nghĩa là khi những người này ấp ủ những quan niệm, tưởng tượng và dục vọng được phúc mà bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ còn có thể chịu chút ràng buộc, làm bổn phận cũng có chút nhiệt tình và hăng hái. Nhưng cuối cùng, khi họ thấy rằng “tin Đức Chúa Trời nghĩa là mưu cầu lẽ thật, nhận biết công tác của Đức Chúa Trời, cũng như thuận phục Đức Chúa Trời, ngoài ra không còn gì nữa” thì thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và với lẽ thật, cũng như bộ mặt thật của họ, đều bị bại lộ hoàn toàn. Họ bại lộ những thứ gì? Họ không chỉ không có nhân tính, lương tâm, và lý trí, mà còn đặc biệt hung ác, tà ác, và ngang ngược. Họ khinh thường Đức Chúa Trời và lẽ thật, thậm chí còn tiếp cận những yêu cầu, khuôn phép và sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời, bằng bộ mặt thù địch và phản kháng. Những biểu hiện này của họ đã làm tăng thêm sự ác cảm và ghê tởm của dân được Đức Chúa Trời chọn đối với họ, cũng như đẩy nhanh tốc độ nhà Đức Chúa Trời thanh lọc họ, cuối cùng nhanh chóng quyết định chuyện họ đi hay ở, quyết định kết cục và số phận của họ. Kết cục và số phận của họ là do chính họ kiếm về, không ai xui khiến hay xúi giục, không ai thúc ép hay dụ dỗ họ, càng không phải do hoàn cảnh khách quan gây ra; kết cục và số phận của họ đều do tự họ gây ra, là sự lựa chọn của chính họ, và được quyết định bởi thực chất bản tính và con đường họ đi. Kết cục và số phận của những người này đã được định đoạt; một khi bị thanh trừ khỏi hàng ngũ những người làm bổn phận, thì họ thậm chí không còn là người đem sức lực phục vụ nữa. Ngươi có thể hình dung được số phận của họ sẽ như thế nào rồi – chuyện này không đáng được đề cập ở đây, vì họ không xứng.
Về loại người bị tỏ lộ và đào thải, biểu hiện của những việc ác khác nhau của họ, cũng như những lời lẽ ác nghiệt mà họ bộc lộ trong cuộc sống hằng ngày, đều là thứ rõ ràng dễ thấy. Tuy nhiên, một số lãnh đạo và người làm công không phân định được những kẻ ác này, hoặc không nhìn thấu được thực chất bản tính của họ. Dường như những lãnh đạo và người làm công này không thấy ra được rằng họ là kẻ ác và kẻ chẳng tin, nên không có dự định thanh lọc họ khỏi hội thánh, hoặc xử lý họ một cách hợp lý. Đây là sự tắc trách nghiêm trọng của lãnh đạo và người làm công. Họ trơ mắt nhìn những người mang quỷ tính và không tuân thủ bất kỳ quy tắc nào của nhà Đức Chúa Trời này làm xằng làm bậy, tùy ý gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh cũng như trật tự của đời sống hội thánh; họ thậm chí còn dung túng cho những người này cả gan làm loạn, vô pháp vô thiên, và mượn danh nghĩa làm bổn phận mà gây tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Gây tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bao gồm rất nhiều chuyện, chẳng hạn như làm hỏng máy móc và các thiết bị khác nhau của nhà Đức Chúa Trời, làm hỏng các dụng cụ và vật dụng văn phòng khác nhau, thậm chí còn tùy ý phung phí của lễ của Đức Chúa Trời, v.v.. Nghiêm trọng hơn, họ còn trắng trợn tung ra các tà thuyết và luận điệu sai lầm, gây nhiễu loạn đến mức khiến dân được Đức Chúa Trời chọn không thể an tâm làm bổn phận, gây nhiễu loạn đến mức khiến những người yếu đuối và tiêu cực từ bỏ bổn phận và không còn đức tin để đi theo Đức Chúa Trời. Những kẻ ác này làm nhiều chuyện xấu như vậy, phạm phải nhiều việc ác gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh cũng như làm hại anh chị em như vậy, mà lãnh đạo và người làm công có mắt như mù, có tai như điếc; thậm chí một số lãnh đạo và người làm công còn nói: “Tôi không biết, chưa từng nghe nói!”. Bè lũ súc sinh và ma quỷ đó đều gây ra sự xáo trộn, khiến hội thánh trở nên tối tăm rối loạn, thế mà lãnh đạo và người làm công lại không hề hay biết và không cảm nhận được gì! Chẳng phải họ là thứ cặn bã sao? Lòng họ đặt ở đâu? Họ đang làm việc gì? Chẳng phải họ chỉ đang nói chuyện phiếm sao? Chẳng phải họ không chuyên tâm vào việc chính đáng sao? Dạng lãnh đạo giả như vậy còn tại chức ngày nào thì đủ loại kẻ ác tha hồ gây nhiễu loạn hội thánh và làm hại dân được Đức Chúa Trời chọn ngày đó. Bởi vì những lãnh đạo giả không thực hiện trách nhiệm của mình nên bè lũ súc sinh đó suốt ngày chơi bời lêu lổng, không làm bất kỳ bổn phận nào, cũng không tuân thủ bất kỳ quy tắc nào, ăn bám trong nhà Đức Chúa Trời, thoải mái hưởng thụ những đãi ngộ vật chất và phúc lợi khác nhau của nhà Đức Chúa Trời – lại còn cố ý gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, làm hỏng máy móc và dụng cụ của nhà Đức Chúa Trời. Họ hành động như vậy, mà còn muốn sống an hưởng tuổi già và muốn gì làm nấy trong nhà Đức Chúa Trời, không ai được phép động chạm hay chọc vào họ. Vấn đề nghiêm trọng như vậy mà lãnh đạo và người làm công lại bỏ mặc làm ngơ, ngay cả khi có người phản ánh cũng không giải quyết – chẳng phải họ là phế vật không làm công tác thực tế nào sao? Chẳng phải đây là tắc trách nghiêm trọng sao? (Thưa, phải.) Một số người nói: “Tôi không giải quyết vấn đề bởi vì tôi quá bận với công tác khác. Tôi bận quá nên không làm nổi!”. Những lời này có đứng vững được không? Vấn đề nghiêm trọng như vậy mà ngươi không giải quyết, rốt cuộc ngươi đang bận làm gì? Chuyện ngươi đang bận làm có giá trị không? Ngươi có biết phân chia mức độ ưu tiên khi làm công tác không? Dù ngươi có bận đến đâu trong công tác, chẳng phải ưu tiên hàng đầu là giải quyết vấn đề sao? Kịp thời hiểu rõ và xử lý các loại người khác nhau gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh là công tác thuộc chức phận của lãnh đạo và người làm công. Nếu ngươi bỏ qua và không giải quyết các vấn đề thực tế, lại đi bận rộn với những chuyện khác, vậy mà đang làm công tác thực tế sao? Nếu ngươi phát hiện vấn đề hoặc có người phản ánh vấn đề với ngươi, thì ngươi nên gác lại công tác đang làm và nhanh chóng đến hiện trường để xem vấn đề nằm ở đâu. Nếu có kẻ ác đang gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, thì trước tiên ngươi nên thanh lọc kẻ ác này. Sau đó, việc giải quyết những vấn đề khác sẽ trở nên dễ dàng. Nếu ngươi phát hiện vấn đề mà không giải quyết, nói rằng mình quá bận, thì chẳng phải ngươi chỉ đang bận rộn một cách mù quáng sao? Rốt cuộc thì ngươi đang bận làm cái gì? Có phải là bận làm công tác thực tế không? Ngươi có thể giải trình rõ được không? Lý do và cái cớ của ngươi có đứng vững không? Tại sao ngươi lại coi việc giải quyết vấn đề là chuyện không quan trọng? Tại sao ngươi không thể giải quyết vấn đề một cách kịp thời? Tại sao ngươi còn có thể tìm cớ để thoái thác, nói rằng mình quá bận nên không thể làm được? Làm như vậy chẳng phải là vô trách nhiệm sao? Thân là lãnh đạo trong hội thánh, ngươi không đặt việc giải quyết vấn đề lên hàng đầu, mà toàn bận rộn với đủ thứ chuyện vặt vãnh, không thấy được sự tồn tại của những vấn đề mấu chốt, khi làm công tác thì không biết phân thứ tự ưu tiên, cũng không nắm bắt được những điểm then chốt – đây là biểu hiện của tố chất cực kỳ kém, và người như vậy chỉ là người hồ đồ. Cho dù làm lãnh đạo bao nhiêu năm, ngươi cũng không thể nào làm tốt công tác của hội thánh. Ngươi nên nhận trách nhiệm và từ chức đi. Người có tố chất quá kém mà làm lãnh đạo thì có rèn luyện thế nào cũng vô ích; chắc chắn họ sẽ không làm được bất kỳ công tác nào – họ là những lãnh đạo giả, phải bị cách chức và điều chỉnh. Khi lãnh đạo giả công tác, thì hậu quả là gì? Nói một cách khách quan, mọi chuyện mà lãnh đạo giả làm đều gây ra tổn thất về nhiều phương diện cho hội thánh. Một mặt, việc không làm tốt công tác mang tính thực chất của hội thánh đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các hạng mục khác nhau trong công tác của hội thánh. Đồng thời, lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn cũng bị gây hại và ảnh hưởng. Quan trọng nhất là chuyện này ảnh hưởng đến việc mở rộng phúc âm của vương quốc. Những hậu quả này đều liên quan trực tiếp đến chuyện lãnh đạo giả không làm công tác thực tế. Nói rõ hơn một chút, tất cả những chuyện này đều do lãnh đạo giả không làm công tác thực tế mà ra. Nếu những lãnh đạo và người làm công khác có thể chủ động làm một chút công tác thực tế, đẩy nhanh tiến độ và rút ngắn thời gian giải quyết vấn đề một chút, thì chẳng phải những tổn thất khác nhau mà lãnh đạo giả gây ra cho nhà Đức Chúa Trời sẽ giảm bớt phần nào sao? Ít nhất thì có thể giảm bớt tổn thất. Ngay cả khi nhà Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi xử lý ngay khi vấn đề phát sinh, thì ít nhất ngươi nên lập tức bắt đầu xử lý khi có người phản ánh vấn đề: Hỏi han anh chị em để tìm hiểu tình hình, bàn bạc và thông công với các lãnh đạo và người làm công khác về cách giải quyết vấn đề. Nếu vấn đề nghiêm trọng và ngươi không biết cách giải quyết, thì ngươi nên kịp thời phản ánh và tìm kiếm giải pháp với cấp trên. Đây là điều mà tất cả lãnh đạo và người làm công nên làm. Nhưng vấn đề hiện tại là những lãnh đạo và người làm công này, ngay cả khi không thể giải quyết vấn đề, thì cũng không phản ánh lên trên. Họ rất sợ phản ánh lên trên vì sợ người khác thấy họ vô năng, tố chất quá kém, và không làm được công tác thực tế; họ lo lắng về chuyện bị cách chức. Tuy nhiên, bản thân họ không chủ động làm công tác; họ ngu ngốc và tê liệt, hành động thì chậm chạp. Không có con đường để giải quyết vấn đề, nên họ cứ được chăng hay chớ, dẫn đến tồn đọng quá nhiều vấn đề chưa được giải quyết, qua đó tạo cơ hội cho kẻ ác lợi dụng sơ hở. Lúc này, những kẻ ác và người có dã tâm đó thấy rằng lãnh đạo giả là kẻ vô dụng nên đã nhân cơ hội mà bắt đầu hành ác một cách trắng trợn, khiến hội thánh trở nên tối tăm rối loạn và rối ren lộn xộn, làm tê liệt mọi công tác. Mặc dù những lãnh đạo giả phải chịu trách nhiệm chính, nhưng những lãnh đạo và người làm công khác cũng đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Chẳng phải đây là sự tắc trách nghiêm trọng của lãnh đạo và người làm công sao? Trên thực tế, hầu hết các vấn đề xuất hiện trong hội thánh đều liên quan trực tiếp đến sự quấy nhiễu mà kẻ ác và kẻ chẳng tin gây ra. Nếu lãnh đạo và người làm công không thể kịp thời phát hiện căn nguyên của vấn đề, không thể tìm ra thủ phạm chính gây ra vấn đề, mà luôn tìm kiếm lý do ở phương diện khác, thì họ sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề và về sau các vấn đề sẽ tiếp tục phát sinh mãi. Cách xử lý vấn đề hiệu quả nhất chính là tóm được và truy cứu trách nhiệm trực tiếp thủ phạm hoặc người ngầm gây ra vấn đề. Ít nhất, cách này đảm bảo rằng những kẻ chẳng tin và kẻ ác đó không dám tiếp tục làm xằng làm bậy cũng như gây nhiễu loạn và gián đoạn nữa. Chẳng phải đây là những gì mà lãnh đạo và người làm công nên làm được sao? (Thưa, phải.) Có thể khẳng định chắc chắn rằng lý do chính khiến các vấn đề tồn tại trong hội thánh ngày càng nhiều và không được giải quyết kịp thời chính là do lãnh đạo và người làm công vô trách nhiệm, hoặc do lãnh đạo giả không có thực tế lẽ thật và không thể làm được công tác thực tế mà ra. Làm lãnh đạo và người làm công mà không thể giải quyết những vấn đề khác nhau xuất hiện trong hội thánh, thì chắc chắn cũng sẽ không thể làm tốt công tác lãnh đạo thuộc chức phận của mình. Trong chuyện này, có một số tình huống và nguyên nhân cần phải hiểu rõ: Nếu lãnh đạo và người làm công là người mới và không có kinh nghiệm, thì nên kiên nhẫn giúp đỡ và dẫn dắt họ giải quyết vấn đề, để cho họ học hỏi và nắm bắt các nguyên tắc lẽ thật trong quá trình giải quyết vấn đề. Làm như vậy, họ sẽ dần dần học được cách giải quyết vấn đề. Nếu lãnh đạo và người làm công không phải là người đúng đắn, không hề tiếp nhận lẽ thật, lại còn dùng quan điểm và phương pháp của người ngoại đạo để giải quyết vấn đề, thì như vậy là không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Những người như vậy không thích hợp để làm lãnh đạo và người làm công, nên kịp thời cách chức và đào thải họ; sau đó, phải bầu cử lại để chọn ra lãnh đạo và người làm công phù hợp. Chỉ có như vậy mới có thể giải quyết triệt để vấn đề. Làm lãnh đạo hội thánh không phải chuyện dễ dàng, và không thể tránh khỏi chuyện có một số vấn đề không thể xử lý được. Tuy nhiên, nếu một người có lý trí, khi gặp phải vấn đề mà mình không giải quyết được, người đó không nên che giấu, ém nhẹm hoặc mặc kệ nó. Thay vào đó, họ nên bàn bạc cùng một vài người hiểu lẽ thật để cùng nhau tìm giải pháp, như vậy có thể giải quyết bảy mươi đến tám mươi phần trăm vấn đề, ít nhất là tạm thời ngăn ngừa vấn đề lớn phát sinh. Đây cũng là đường lối khả dĩ. Nếu thực sự không thể giải quyết vấn đề, thì nên tìm kiếm sự giúp đỡ từ Bề trên, đây là lựa chọn sáng suốt. Nếu vì sợ mất mặt hoặc sợ Bề trên sẽ tỉa sửa do ngươi vô năng, mà ngươi che giấu và ém nhẹm, không báo cáo vấn đề, thì ngươi đã trở nên hoàn toàn bị động. Nếu ngươi hành động như một kẻ ngốc tê liệt và ngu ngốc, bó tay bất lực, thì sẽ gây trì hoãn công chuyện. Những tình huống như vậy sẽ dễ dàng tạo cơ hội cho kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ lợi dụng sự hỗn loạn để hành động. Tại sao lại nói họ lợi dụng sự hỗn loạn để hành động? Bởi vì họ đang chờ đợi chính cơ hội này. Khi lãnh đạo và người làm công không xử lý được bất kỳ vấn đề gì, dân được Đức Chúa Trời chọn cảm thấy hoang mang, lo lắng và đã mất lòng tin vào những lãnh đạo và người làm công này, thì kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ sẽ tìm cách lợi dụng sơ hở này. Họ cho rằng hội thánh đó đang trong tình trạng không có sự lãnh đạo hoặc quản lý, nên họ muốn nhân cơ hội này thể hiện bản lĩnh của mình để khiến những dân được Đức Chúa Trời chọn xem trọng họ, ủng hộ họ, và tin rằng so với lãnh đạo và người làm công thì họ có tố chất tốt hơn, có khả năng hơn trong chuyện giải quyết vấn đề, tìm lối thoát, và xoay chuyển tình thế trong thời kỳ hỗn loạn. Đây chẳng phải những chuyện mà kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ muốn làm nhất sao? Vào lúc này, khi lãnh đạo và người làm công bất lực, mà kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ đứng lên giải quyết vấn đề, thậm chí mở được lối thoát, thì dân được Đức Chúa Trời chọn sẽ tin vào ai? Tất nhiên, họ sẽ tin vào kẻ ác và những thế lực của kẻ địch lại Đấng Christ. Điều này cho thấy gì? Cho thấy rằng lãnh đạo và người làm công là những kẻ vô dụng, chẳng làm nên trò trống gì, vào những thời điểm quan trọng thì lại làm hỏng chuyện. Những người này còn xứng làm lãnh đạo và người làm công sao? Mặc dù kẻ địch lại Đấng Christ không có thực tế lẽ thật, cũng không thể làm công tác thực tế, nhưng họ ít nhiều đều có ân tứ và tương đối tinh tường hơn về những chuyện bên ngoài. Đây chính là ưu thế của họ và là cái để họ có thể mê hoặc người ta. Nhưng nếu họ làm lãnh đạo và người làm công, liệu họ có thể thực sự dùng lẽ thật để giải quyết các vấn đề của dân được Đức Chúa Trời chọn không? Liệu họ có thể thực sự lãnh đạo dân được Đức Chúa Trời chọn ăn uống lời Đức Chúa Trời, hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật không? Chắc chắn là không. Mặc dù họ có chút ân tứ và giỏi ăn nói, nhưng họ không có một chút thực tế lẽ thật nào. Họ có xứng làm lãnh đạo và người làm công của hội thánh không? Không hề! Đây là chuyện mà dân được Đức Chúa Trời chọn nên nhìn thấu; tuyệt đối không được để kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và lừa gạt. Kẻ chẳng tin, kẻ ác, và kẻ địch lại Đấng Christ không hề mưu cầu lẽ thật và không có chút thực tế lẽ thật nào. Vậy các ngươi nói xem, liệu họ có thể nói ra được đôi lời có lương tâm và lý trí, chẳng hạn như: “Mặc dù hiện tại không có ai phụ trách hội thánh, nhưng chúng ta phải tự giác. Quy định của nhà Đức Chúa Trời không thể bị phá vỡ, nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu không thể bị thay đổi. Chúng ta nên làm việc gì thì cứ làm việc đó; mỗi người phải giữ bổn phận mình nên làm, mỗi người một việc, và không được làm rối loạn trật tự” hay không? Họ có thể nói được lời như vậy không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không! Vậy những kẻ chẳng tin và kẻ ác này sẽ làm ra những chuyện gì? Không có ai giám sát và quản thúc, thì họ thậm chí còn không làm bổn phận của mình, chỉ toàn ăn uống, chơi bời, nhàn rỗi nói chuyện phiếm, cười đùa, và thậm chí là tán tỉnh. Còn có những người dành cả đêm để xem video ngoại đạo, rồi ban ngày thì lấy cớ đã thức cả đêm để làm bổn phận mà lười biếng và ngủ nướng. Kẻ ác và người thuộc về ma quỷ làm những việc như vậy đấy. Họ có cảm thấy áy náy khi làm những việc xấu này không? Liệu họ có thấy cắn rứt lương tâm và chủ động làm một chút trách nhiệm của con người, làm một chút chuyện có lợi cho nhà Đức Chúa Trời, hội thánh, và anh chị em không? Chắc chắn là không. Khi có người giám sát, họ mới miễn cưỡng làm một số việc ra vẻ bề ngoài hòng kiếm miếng ăn chực. Đây là chuyện duy nhất họ có thể làm; ngoài ra, những người này không có điểm tích cực nào. Vậy thì việc những người này ở lại nhà Đức Chúa Trời có ý nghĩa gì không? Chẳng có bất kỳ ý nghĩa nào. Những người như vậy quá thừa thãi và phải bị thanh lọc đi.
Làm sao để đánh giá liệu một người có yêu thích lẽ thật hay không? Ta sẽ cho một ví dụ để các ngươi có thể hiểu. Có những người làm một nghề, họ càng học, càng nghiên cứu sâu và càng hiểu rõ, thì càng muốn làm việc trong nghề này và không muốn rời khỏi nghề này. Đây là loại biểu hiện gì? Có phải điều này có nghĩa rằng họ thực sự thích nghề này không? (Thưa, phải.) Bất kể họ phải chịu đựng bao nhiêu khổ, trả bao nhiêu giá, bỏ ra bao nhiêu công sức, thì họ vẫn tiếp tục theo đuổi nghề này mà không chút do dự, không hề hối hận. Đây chính là sự yêu thích thực sự, phát xuất từ sâu thẳm nội tâm. Giả sử có người nói rằng họ thích một công việc nào đó nhưng không cam lòng chịu khổ hoặc trả giá trong quá trình học nghề, và khi có rất nhiều vấn đề xuất hiện trong công việc thì họ không nghĩ giải pháp, trong lòng sợ phiền phức, thậm chí thường cảm thấy làm nghề này là một sự phiền toái hoặc gánh nặng. Tuy nhiên, chuyển nghề không phải chuyện dễ dàng, và khi cân nhắc đến những thu hoạch về vật chất mà nghề này có thể mang lại, thì họ miễn cưỡng làm, nhưng sẽ không bao giờ trở nên người xuất sắc trong nghề này. Vậy, họ có thực sự thích nghề này không? (Thưa, không.) Rõ ràng là họ không thích. Còn có một loại người khác, miệng nói rằng họ thích nghề này, cũng làm nghề này, nhưng không bao giờ chịu khổ hoặc trả giá để học tốt nghiệp vụ. Thậm chí trong quá trình học, họ còn nảy sinh sự ác cảm hoặc chán ghét đối với nghề này và ngày càng không muốn học. Khi sự ác cảm của họ đạt đến một mức độ nhất định, thì họ chuyển nghề, và sau đó không muốn đề cập đến bất kỳ quá trình, câu chuyện hoặc điều gì khác về lúc làm nghề đó. Những người như vậy có thực sự thích nghề này không? (Thưa, không.) Họ không thích. Việc họ có thể dễ dàng từ bỏ nghề này, còn cảm thấy chán ghét và thậm chí chuyển nghề chứng tỏ họ không thực sự thích nghề này. Họ có thể từ bỏ nghề này vì sau khi đầu tư rất nhiều thời gian, sức lực và trả giá, mà nghề này lại không cho họ được sống sung túc hoặc hưởng thụ chế độ đãi ngộ vật chất tốt như mong ước. Họ chán ghét và chửi bới nghề này trong lòng, thậm chí không cho phép người khác đề cập đến, bản thân họ cũng không đề cập đến nữa. Họ thậm chí còn cảm thấy bị sỉ nhục vì từng làm trong nghề này, từng coi nghề này là lý tưởng và mục tiêu theo đuổi cao nhất trong đời. Nếu họ chán ghét nghề này đến mức độ như vậy, thì những biểu hiện ban đầu của họ về nghề này có phải là sự yêu thích thực sự không? (Thưa, không.) Chỉ có một loại người thực sự thích nghề này. Bất kể nghề này có thể mang lại cho họ cuộc sống vật chất tốt đẹp hay lợi ích to lớn hay không, bất kể họ gặp phải bao nhiêu khó khăn khiến họ phải chịu bao nhiêu cái khổ trong nghề này, thì họ vẫn có thể không hề chùn bước mà làm việc trong nghề này và kiên trì đến cùng. Đây chính là thực sự yêu thích. Một người yêu thích lẽ thật thì cũng như vậy. Nếu ngươi thực sự yêu thích những điều tích cực và dần dần chuyển từ yêu thích những điều tích cực sang yêu thích lẽ thật, thì bất kể gặp phải chuyện gì, ngươi vẫn sẽ kiên trì tìm kiếm và mưu cầu lẽ thật, sẽ không thay đổi mục tiêu của đời mình. Nếu ngươi có thể tùy tiện từ bỏ việc tin Đức Chúa Trời và từ bỏ con đường cứu rỗi, thì ngươi không thực sự yêu thích lẽ thật. Còn những người không mưu cầu lẽ thật nhưng cũng không từ bỏ, thì chỉ có một nguyên nhân mà thôi: Đó là họ cho rằng chỉ cần còn một tia hy vọng có thể đạt được kết cục và đích đến tốt đẹp, cùng tương lai tốt đẹp, thì cũng đáng để đánh cược và phải kiên trì đến cùng. Họ cho rằng sự kiên trì này là cần thiết; vừa hay tai họa đang trở nên nghiêm trọng và không có nơi nào để đi, nên họ cứ kiên trì bám trụ ở đây và thử vận may. Liệu trong lòng những người này có chút gì là yêu thích lẽ thật không? (Thưa, không.) Không có chút gì cả. Khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời, những người này cũng nói rằng họ căm ghét thế gian, căm ghét Sa-tan và những điều tiêu cực, yêu thích những điều tích cực và khao khát sự sáng. Nhưng khi họ bước vào nhà Đức Chúa Trời và bước vào hội thánh rồi, thì biểu hiện của họ như thế nào? Khi họ phát hiện ra rằng mình là người đem sức lực phục vụ, rằng Đức Chúa Trời không thích hành động, hành vi và bản tính của họ, thì thái độ của họ thế nào? Họ bộc lộ những biểu hiện như thế nào? Có thể nói rằng khi họ ý thức, cảm thấy hoặc cho rằng mình không còn được ưa chuộng trong nhà Đức Chúa Trời và là đối tượng bị đào thải, thì có người chọn cách rời đi, có người mặc dù miễn cưỡng ở lại hội thánh nhưng cũng hành động theo kiểu bất cần và cuối cùng bị buộc phải rời đi. Những người như vậy không yêu thích lẽ thật; khi dục vọng được phúc của họ tan vỡ, họ có thể phản bội Đức Chúa Trời và rời xa Ngài. Từ vài biểu hiện này có thể thấy được thái độ của các loại người khác nhau đối với lẽ thật.
IV. Những kết cục khác nhau cho ba loại người này
Vừa rồi, chúng ta đã thông công về đặc trưng của ba loại người: người đem sức lực phục vụ, người làm thuê, và dân của Đức Chúa Trời. Xét từ đặc trưng của họ, kết cục cuối cùng của những người này không phải do hoàn cảnh hay điều kiện khách quan quyết định, mà do chính sự mưu cầu và thực chất bản tính của họ quyết định. Tất nhiên, nói một cách khách quan, thì Đức Chúa Trời quyết định vận mệnh của con người, nhưng Đức Chúa Trời cũng dựa trên việc con người có yêu thích lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật hay không để quyết định. Những người đem sức lực phục vụ cũng nói rằng họ yêu thích lẽ thật và những điều tích cực, nhưng cuối cùng, khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, quan niệm và tưởng tượng của họ về Đức Chúa Trời, những đòi hỏi quá đáng của họ đối với Đức Chúa Trời và sự phản bội của họ với Đức Chúa Trời vẫn còn nguyên. Bởi vì trong thời gian Đức Chúa Trời công tác, trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời và làm bổn phận của mình, họ chưa bao giờ giải quyết được tâm tính bại hoại của chính mình. Căn nguyên khiến họ không giải quyết được tâm tính bại hoại của mình là vì họ căn bản không tiếp nhận lẽ thật. Mặc dù họ có mong muốn thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng biểu hiện thực sự của họ chỉ là có thể từ bỏ và sẵn sàng trả giá, chứ không bao giờ tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, hay con đường để thuận phục Đức Chúa Trời. Kết quả cuối cùng là mặc dù đã ra sức rất nhiều, nhưng họ không có chút nhận thức nào về Đức Chúa Trời. Họ vẫn có khả năng phản bội Đức Chúa Trời và nói ra quan niệm và tưởng tượng cũng như những đòi hỏi vô lý của riêng họ đối với Đức Chúa Trời trước mặt mọi người và trước mặt Sa-tan. Khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, họ vẫn coi mình là “có nhân tính tốt, chân thành tin Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ và chịu khổ, cũng như chắc chắn có thể được cứu rỗi”, và vì điều này, họ cảm thấy yên tâm. Thực ra, họ vẫn luôn đi trên con đường của người đem sức lực phục vụ, không hề mưu cầu lẽ thật; do vậy, họ vẫn luôn giữ thân phận là người đem sức lực phục vụ. Còn về loại người là những người làm thuê, chúng ta sẽ không bàn đến. Còn một loại người khác là dân của Đức Chúa Trời, mà chúng ta vừa nói đến. Trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời, họ cũng giống như những người đem sức lực phục vụ mà dâng mình cho Đức Chúa Trời, dâng hiến thời gian và sức lực, thậm chí dâng hiến thanh xuân của mình, cũng như chịu khổ và trả giá rất nhiều. Như thế thì cũng giống như những người đem sức lực phục vụ. Vậy, sự khác biệt là gì? Đó là, khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, nhiều quan niệm và tưởng tượng, cũng như những đòi hỏi quá đáng của họ đối với Đức Chúa Trời đã được giải quyết rồi. Những biểu hiện, tình trạng, và sự bộc lộ về tâm tính mà rõ ràng chống lại Đức Chúa Trời trong tâm tính bại hoại của họ đã bị loại bỏ. Những gì chưa được giải quyết sẽ được hóa giải khi họ dần hiểu lẽ thật thông qua trải nghiệm. Mặc dù họ chưa hoàn toàn thoát khỏi tâm tính bại hoại, nhưng tâm tính sự sống của họ đã trải qua một số thay đổi rồi. Phần lớn thời gian, họ có thể thực hành theo nguyên tắc lẽ thật mà họ hiểu, và sự bộc lộ tâm tính bại hoại của họ sẽ giảm đi thấy rõ. Mặc dù không phải là họ sẽ không bộc lộ những tâm tính bại hoại này trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhưng họ đã đáp ứng được một yêu cầu cơ bản, đó là trở thành người trung thực mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Về cơ bản, họ là người trung thực. Hơn nữa, khi những người này bộc lộ tâm tính bại hoại, vi phạm, hoặc có quan niệm và sự phản nghịch đối với Đức Chúa Trời, bất kể trong hoàn cảnh nào, thì họ sẽ có thái độ hối cải. Đồng thời, còn có một điểm quan trọng nhất là, bất kể trong công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời làm những chuyện cụ thể nào và làm như thế nào, bất kể trong tương lai, Ngài muốn làm việc gì, sẽ an bài vận mệnh của nhân loại như thế nào, và họ sẽ sống như thế nào trong hoàn cảnh mà Ngài an bài, thì họ đều có lòng thuận phục và thái độ thuận phục, và sẽ không còn những lựa chọn, kế hoạch và dự tính cá nhân nữa. Nhờ những biểu hiện chủ động và tích cực này, họ đã trở thành một người đi theo con đường của Đức Chúa Trời kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác như Đức Chúa Trời yêu cầu. Mặc dù họ vẫn còn cách rất xa tiêu chuẩn thực sự – “kính sợ Đức Chúa Trời, lánh khỏi điều ác, và là người trọn vẹn” – như Đức Chúa Trời đã phán, nhưng khi những thử luyện của Đức Chúa Trời giáng xuống mà họ có thể tìm kiếm và thuận phục, thì như vậy là đủ. Họ sẽ không phàn nàn; mà chỉ chờ đợi và thuận phục. Mặc dù hoàn cảnh hiện tại của các ngươi vẫn còn khá xa mới đạt được kết quả như vậy, cũng như có thể rất xa vời và ngoài tầm với của một số người, nhưng nếu các ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật và lấy lời Đức Chúa Trời làm nguyên tắc và nền tảng cho sự sinh tồn của mình, thì Ta tin rằng một ngày nào đó ngươi, hoặc tất cả các ngươi, sẽ không còn xa chuyện trở thành dân thực sự của Đức Chúa Trời, những người được Ngài yêu thương – hãy tin rằng ngày đó đang trong tầm mắt. Bất kể hiện tại ngày đó là lời tiên tri hay đang trong tầm mắt, thì kết quả cuối cùng này không phải là giả tưởng, mà là một sự thật sắp được thành tựu và ứng nghiệm. Sự thật này rốt cuộc được ứng nghiệm nơi ai và với người nào thì tùy thuộc vào cách các ngươi thực sự mưu cầu lẽ thật. Nói cách khác, rốt cuộc ngươi thực sự yêu thích lẽ thật đến một mức độ nhất định và có thể mưu cầu và thực hành lẽ thật hay là ngươi chỉ yêu thích lẽ thật một chút nhưng không thể hoàn toàn tiếp nhận và thực hành lẽ thật? Kết quả cuối cùng sẽ cho ngươi câu trả lời. Được rồi, chúng ta sẽ kết thúc mối thông công về chủ đề này ở đây.
Tiêu chuẩn và căn cứ để phân định các loại kẻ ác
II. Dựa vào nhân tính
Tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục thông công về chức trách thứ 14 của lãnh đạo và người làm công: “Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ”. Tiêu chuẩn để phân định các loại kẻ ác được chia thành ba mục chính. Trước đây, chúng ta đã thông công về mục đích của người ta khi tin Đức Chúa Trời, sau đó chuyển sang thông công về nhân tính của người ta. Về mặt nhân tính, chúng ta cũng đã phân chia thành rất nhiều biểu hiện. Một vài biểu hiện mà chúng ta đã thông công là gì? Các ngươi hãy đọc đi. (Thưa, tiêu chuẩn thứ hai để phân định các loại kẻ ác là nhân tính. Thứ nhất, thích đâm bị thóc và chọc bị gạo; thứ hai, thích lợi dụng; thứ ba, phóng đãng và không chịu sự ràng buộc; thứ tư, dễ trả thù; thứ năm, không thể giữ mồm giữ miệng.) Chúng ta đã thông công đến điểm thứ năm là không thể giữ mồm giữ miệng. Bất kể chúng ta thông công những biểu hiện cụ thể của phương diện nhân tính hay của các phương diện khác, thì như Ta đã nói, hiệu quả đối với từng loại người sẽ khác nhau. Sau khi nghe giảng, những người mưu cầu lẽ thật sẽ chú trọng kiểm điểm bản thân. Họ sẽ đối chiếu bản thân với những gì Ta thông công, có lối vào chủ động và tích cực. Trái lại, những người không mưu cầu lẽ thật, chẳng hạn như người đem sức lực phục vụ, thì chỉ nghe xong là hết chuyện. Họ không để vào lòng, cũng không để tâm mà nghe. Có lúc, họ còn ngủ thiếp đi trong khi nghe giảng. Họ nghe không vào, lại còn cảm thấy: “Nghe những chuyện vặt vãnh này thì có ích gì? Thật mất thời gian. Việc trong tay, tôi còn chưa làm xong đây này!”. Họ luôn lo nghĩ về những công việc cần ra sức. Đối với việc ra sức, họ đặc biệt hăm hở, để tâm, và có lòng trung thành, nhưng đối với những chuyện liên quan đến lẽ thật thì họ lại không thể hăng hái nổi. Điều này tỏ lộ rằng loại người này không có hứng thú với lẽ thật, đơn thuần ra sức thôi là họ đã thấy thỏa mãn rồi. Còn có một nhóm người, bất kể nhà Đức Chúa Trời thông công về lẽ thật như thế nào, họ vẫn giữ thái độ: “Tôi sẽ chỉ chống đối và đối đầu. Ngay cả khi anh chỉ ra vấn đề của tôi và vạch trần biểu hiện, sự bộc lộ cũng như tâm tính của tôi, thì tôi vẫn mặc kệ, vẫn chẳng xem ra gì. Nếu người khác biết chuyện tôi đang bị vạch trần thì sao chứ?”. Họ chỉ mặt dày một mực chống đối và kháng cự, như vậy là hết thuốc chữa. Bất luận thế nào, biểu hiện của các loại người khác nhau vẫn có sự khác biệt. Bất kể là đối với người mưu cầu lẽ thật, hay người sẵn lòng ra sức nhưng không yêu thích lẽ thật, hay người cảm thấy ác cảm và chán ghét lẽ thật, thì lẽ thật đều là thanh gươm hai lưỡi, là đá thử vàng, có thể dò ra thái độ của con người đối với lẽ thật và cả con đường họ đi.
F. Làm càn làm bậy, không ai dám chọc vào
Trước đây, chúng ta đã thông công về cách phân định năm biểu hiện của các loại kẻ ác. Hôm nay, chúng ta sẽ tiếp tục thông công về biểu hiện thứ sáu. Mục thứ sáu này cũng là biểu hiện của một loại kẻ ác, hoặc có thể nói là, dù không coi loại người này là kẻ ác thì mọi người vẫn không ưa họ. Tại sao lại như vậy? Đó là vì loại người này không có lương tâm và lý trí, không có nhân tính bình thường, khi chung sống với họ thì mọi người cảm thấy đặc biệt phiền phức, khó khăn và ác cảm. Biểu hiện cụ thể của loại người này là gì? Đó là làm càn làm bậy, và không ai dám chọc vào. Trong hội thánh có người như vậy không? Không nhiều, nhưng chắc chắn là có. Vậy biểu hiện cụ thể của họ là gì? Khi yên ổn bình thường, những người này có thể làm bổn phận một cách bình thường, tiếp xúc với người khác cũng rất bình thường. Ngươi sẽ không thấy bất kỳ tâm tính hung ác nào nơi họ. Nhưng khi họ hành động trái với nguyên tắc lẽ thật rồi bị tỉa sửa, họ sẽ nổi cơn tam bành, không hề tiếp nhận lẽ thật, lại còn ngụy biện cho mình. Đột nhiên, ngươi phát hiện ra rằng họ quả thật là một con nhím toàn thân đầy gai, một con hổ không thể động vào. Ngươi nghĩ: “Mình đã chung sống với người này một thời gian dài. Mình cứ tưởng họ có nhân tính không tệ, thấu tình đạt lý và dễ nói chuyện, còn cho rằng họ có thể tiếp nhận lẽ thật. Mình không ngờ họ lại là người làm càn làm bậy. Sau này chung sống với họ thì mình phải cẩn thận hơn, không có chuyện gì thì hạn chế tiếp xúc với họ và giữ khoảng cách để tránh chọc vào họ”. Các ngươi đã từng thấy loại người làm càn làm bậy như vậy chưa? Thông thường, những người hiểu rõ họ sẽ biết họ lợi hại thế nào, do đó sẽ đặc biệt khách khí và dè chừng khi nói chuyện với họ. Nhất là khi nói chuyện với họ, ngươi tuyệt đối không được làm tổn thương họ, nếu không họ sẽ không buông tha cho ngươi. Có một số người nói: “Rốt cuộc thì người nào ngang ngược đến vậy? Chúng tôi chưa từng gặp họ”. Vậy thì, chúng ta thực sự phải nói về vấn đề này rồi. Ví dụ, trong quá trình các anh chị em thông công về trải nghiệm của mình, mà có một số người nói về tình trạng bại hoại hoặc khó khăn của riêng họ, thì những người khác sẽ khó tránh khỏi đồng cảm và có trải nghiệm hoặc cảm giác tương đồng. Đây là chuyện rất bình thường. Nghe xong, người ta sẽ nghĩ: “Tôi cũng có trải nghiệm giống như anh, vậy chúng ta hãy cùng thông công về chủ đề này nhé. Tôi muốn nghe xem trải nghiệm của anh thế nào. Nếu mối thông công của anh có sự sáng và có liên quan đến vấn đề mà tôi gặp phải, thì tôi sẽ tiếp nhận và thực hành theo trải nghiệm cũng như con đường của anh để xem kết quả thế nào”. Chỉ có một loại người, khi nghe người khác thông công về nhận thức bản thân và bộc bạch sự bại hoại, xấu xí của mình, lại cho rằng người ta đang vạch trần và phán xét họ một cách trá hình. Họ không nhịn được mà nổi giận đập bàn: “Ai mà không có sự bại hoại? Có ai sống trong chân không chứ? Theo tôi thấy, sự bại hoại của các anh thậm chí còn nghiêm trọng hơn tôi! Các anh có tư cách gì mà nhằm vào tôi, vạch trần tôi? Tôi thấy các anh chỉ muốn làm khó tôi và bài xích tôi! Chẳng phải chỉ vì tôi xuất thân từ nông thôn và không biết nói những lời dễ nghe để lấy lòng các anh hay sao? Chẳng phải vì trình độ học vấn của tôi không cao bằng các anh hay sao? Đến Đức Chúa Trời còn không coi thường tôi, các anh dựa vào đâu mà coi thường tôi!”. Những người khác nói: “Đây chỉ là mối thông công bình thường, không hề nhằm vào anh. Chẳng phải tâm tính bại hoại của mọi người đều giống nhau sao? Khi có người thông công về chủ đề nào đó và nói về tình trạng bại hoại của riêng mình, thì không thể tránh khỏi chuyện người khác cũng có tình trạng tương đồng. Nếu anh cảm thấy mình có tình trạng tương đồng thì anh cũng có thể thông công về trải nghiệm của mình”. Khi đó, họ sẽ trả lời: “Vậy sao? Nếu chỉ có một người thông công như vậy, thì tôi có thể chịu đựng, nhưng tại sao hai, ba người các anh lại hùa nhau ức hiếp tôi? Các anh nghĩ tôi dễ bị ức hiếp lắm hả?”. Chẳng phải là họ càng nói càng lạc đề sao? (Thưa, phải.) Loại người này nói như vậy thì có lý trí không? (Thưa, không.) Nếu ngươi thực sự cho rằng chủ đề thông công của người khác là nhằm vào ngươi, thì ngươi có thể thảo luận hoặc thông công về chủ đề này. Ngươi có thể trực tiếp hỏi người đó xem có phải người đó nhằm vào ngươi hay không, chứ đừng lôi xuất thân nông dân, trình độ học vấn thấp hay chuyện người khác coi thường ngươi vào. Nói những điều đó thì có ích gì? Đó chẳng phải là nói bậy bạ về chuyện đúng sai hay sao? Như thế chẳng phải là làm càn làm bậy sao? (Thưa, phải.) Các ngươi nói xem, những người này có đáng sợ không? (Thưa, có.) Sau khi anh ta làm ầm lên như vậy thì mọi người đều biết anh ta là loại người gì. Sau này, khi thông công trong các buổi nhóm họp, mọi người luôn luôn phải dè chừng, cẩn thận và quan sát sắc mặt anh ta. Nếu vẻ mặt anh ta u ám, người khác sẽ không dám nói chuyện và cảm thấy ngột ngạt khi thông công trong các buổi nhóm họp. Đây chẳng phải là sự kìm kẹp và gây nhiễu loạn mà anh ta mang đến cho người khác vì hành vi làm càn làm bậy của mình sao? (Thưa, phải.) Những người làm càn làm bậy đều là người bất chấp lý lẽ. Họ là người không tiếp nhận lẽ thật và không thể được cứu rỗi.
Loại người làm càn làm bậy này còn có một biểu hiện nữa. Trong các buổi nhóm họp, một số người luôn nói: “Tôi không thể cứ qua loa chiếu lệ được nữa. Tôi phải chú trọng thực hành lẽ thật, phải mưu cầu sự hoàn mỹ. Tôi là người trời sinh đã muốn vượt trội. Dù làm gì, tôi cũng phải làm tử tế”. Họ nói thì hay, nhưng trong thực tế, họ vẫn qua loa chiếu lệ khi làm bổn phận. Bổn phận họ làm có rất nhiều vấn đề và hoàn toàn không đạt đến hiệu quả làm chứng cho Đức Chúa Trời. Khi lãnh đạo chỉ ra vấn đề trong việc làm bổn phận của họ và tỉa sửa họ, họ liền nổi nóng và nói: “Tôi biết mà. Các anh đều phán xét tôi sau lưng tôi, nói rằng nghiệp vụ chuyên môn của tôi kém cỏi. Chẳng phải các anh đều coi thường tôi sao? Đó chỉ là một lỗi nhỏ thôi. Các anh có cần thiết phải tỉa sửa tôi như vậy không? Hơn nữa, ai mà không mắc lỗi chứ? Anh nói tôi qua loa chiếu lệ, nhưng chẳng phải trước kia anh cũng qua loa chiếu lệ khi làm công tác hay sao? Anh có tư cách chỉ trích tôi không? Nếu không có sự phối hợp của tôi, liệu ai trong các anh có thể gánh vác nổi công tác này chứ?”. Các ngươi nghĩ sao về loại người này? Họ làm việc gì, cũng không cho phép người khác chỉ ra khuyết điểm của họ hay nêu ý kiến. Đến cả sự tỉa sửa chính đáng mà họ cũng không tiếp nhận. Bất kể ai lên tiếng, họ cũng chống lại và đối kháng. Họ nói ra những lời không có lý lẽ, còn nói rằng họ bị coi thường hoặc ức hiếp vì thân cô thế cô, hay những điều tương tự khác. Như vậy chẳng phải là càn quấy và làm càn làm bậy sao? Thậm chí còn có người sau khi bị tỉa sửa thì bỏ ngang bổn phận: “Tôi không làm công tác này nữa. Các anh có ai làm được thì làm đi. Để xem thiếu tôi, các anh còn làm được công tác không”. Các anh chị em khuyên giải thì họ cũng không nghe. Ngay cả khi lãnh đạo và người làm công thông công về lẽ thật với họ, họ cũng không tiếp nhận. Họ bắt đầu tự cao tự đại và bỏ ngang bổn phận. Khi nhóm họp, họ sẽ bĩu môi, không đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không thông công. Họ luôn là người đến muộn nhất và ra về sớm nhất. Khi ra về, họ dậm chân và đóng sầm cửa lại, hầu hết mọi người đều không biết phải làm sao với họ. Loại người này mà gặp chuyện thì sẽ đưa ra những lập luận phi lý, nói những lời hồ đồ, sẽ càn quấy và thậm chí còn ném đồ đạc. Đơn giản là họ bất chấp lý lẽ. Một số người còn có biểu hiện nghiêm trọng hơn nữa. Anh chị em gặp họ mà không chào hỏi, thì họ sẽ không hài lòng và nhân cơ hội nhóm họp mà khóc lóc kể lể: “Tôi biết các anh đều coi thường tôi. Lúc nhóm họp, các anh chỉ chăm chăm thông công lời đức chúa trời và bàn về nhận thức trải nghiệm của riêng mình. Chẳng ai quan tâm đến tôi, chẳng ai mỉm cười với tôi, tôi đi cũng không có ai tiễn. Vậy mà gọi là tin đức chúa trời sao? Đám người các anh thực sự không có nhân tính!”. Họ lăn lộn ầm ĩ như vậy ở hội thánh. Ngay cả những chuyện vặt vãnh cũng có thể chọc giận họ, khiến họ trút ra hết mọi oán hận chất chứa. Rõ ràng họ đang bộc lộ tâm tính bại hoại của mình, thế mà họ không phản tỉnh, không nhận biết bản thân, không mưu cầu sự thay đổi, cũng không mưu cầu lẽ thật. Họ lại còn gây phiền phức cho người khác, tìm đủ mọi cớ để cho lòng mình hết chênh vênh, đồng thời tìm cơ hội để trút giận. Quan trọng hơn, họ muốn khiến cho thêm nhiều người chú ý đến họ và sợ họ. Biết đâu được, họ sẽ có uy danh và sự chú ý nhất định giữa mọi người. Dạng người này quá phiền phức rồi! Bất kể họ nói gì, cũng không ai dám nói “không”. Không ai dám tùy tiện đánh giá họ. Không ai dám mở lòng thông công với họ. Ngay cả khi phát hiện ra một số thói xấu và tâm tính bại hoại của họ thì cũng không ai dám chỉ ra cho họ. Trong các buổi nhóm họp, khi thông công về trải nghiệm cá nhân và nhận thức của mình về lời Đức Chúa Trời, mọi người đều cẩn thận tránh né “tổ ong vò vẽ” này, sợ chọc đến họ thì sẽ chuốc rắc rối. Còn có một số người bị chèn ép hoặc gặp chuyện không như ý lúc ở nhà hoặc chỗ làm, lại đem trút ra lúc nhóm họp. Quá rõ ràng là họ đã biến các anh chị em thành nơi trút giận và bao cát của họ. Khi không vui, họ nói những lập luận phi lý và khóc lóc ầm ĩ, ai còn dám thông công về lẽ thật với họ chứ? Nếu có người thông công với họ mà lỡ có lời nào động chạm đến họ, thì họ sẽ dọa tự tử, như vậy thì còn phiền phức hơn nữa. Với người như vậy, người khác thông công bình thường thì không được mà nói chuyện bình thường cũng không xong, quá nhiệt tình với họ thì không được mà lãnh đạm cũng không xong, tránh né họ thì không được mà gần gũi họ quá cũng không xong. Các anh chị em không vui vì niềm vui của họ thì không được, không khổ não vì khó khăn của họ cũng không xong. Làm thế nào cũng không được. Làm thế nào cũng có thể trêu gan và chọc giận họ. Đối xử với họ như thế nào, họ cũng không bao giờ hài lòng. Ngay cả khi Ta giảng và thông công về tình trạng của một số người, mà cũng có thể chọc giận họ. Vì sao lại chọc giận họ? Họ nghĩ: “Đây chẳng phải là phơi bày tôi sao? Ngài thậm chí còn chưa tiếp xúc với tôi, tôi âm thầm làm gì sau lưng cũng đâu có nói với ngài. Làm sao ngài biết được? Nhất định là có người đã mách lẻo. Tôi phải tìm cho ra ai đã liên hệ với ngài, ai đã mách lẻo, ai đã tố giác tôi. Tôi sẽ không để người đó yên!”. Loại người làm càn làm bậy này trong bất kỳ chuyện gì cũng đều có thể suy nghĩ méo mó và không thể tiếp cận một cách đúng đắn. Đây chính là bất chấp lý lẽ! Loại người này hoàn toàn không chịu nói lý lẽ, càng không thể tiếp nhận lẽ thật. Nếu họ ở lại hội thánh thì sẽ chỉ có hại, chứ không có ích gì. Họ chỉ là gánh nặng, là phiền toái cần sớm loại bỏ. Phải mau mau thanh lọc họ đi!
Ở Trung Quốc, những người tin Đức Chúa Trời đều bị con rồng lớn sắc đỏ trấn áp và bách hại. Có quá nhiều người bị truy bắt và có nhà mà không thể về. Nhưng một số người, khi bị bách hại và có nhà mà không thể về, lại tưởng rằng họ đã có công hoặc có tư cách rồi. Khi sống với gia đình tiếp đãi, chuyện họ bắt mọi người hầu hạ thì khỏi cần nói đến, hễ có chuyện không hợp ý hoặc họ nhớ nhà, là họ sẽ bắt đầu làm loạn và những người khác sẽ phải dỗ dành, nhẫn nhịn họ. Những người như vậy chẳng phải là làm càn làm bậy sao? Người bị bách hại thì quá nhiều, mà gia đình tiếp đãi lại quá ít. Chính vì lòng yêu thương mà các anh chị em mới tiếp đãi những người có nhà mà không thể về. Các anh chị em không để họ vất vưởng trên phố mà cho họ sống trong nhà mình. Đây chẳng phải là sự ân đãi của Đức Chúa Trời sao? Nhưng có một số người không những không cảm tạ sự ân đãi của Đức Chúa Trời và không thấy được lòng yêu thương của các anh chị em, mà ngược lại, còn cảm thấy ấm ức, còn có thể oán trách và càn quấy. Thực ra, điều kiện sống ở nhà các anh chị em còn có phần tốt hơn sống ở nhà họ. Nhất là về mặt tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận, thì ở nhà các anh chị em còn tốt hơn ở nhà mình, và có sự phối hợp hài hòa của các anh chị em luôn tốt hơn nhiều so với đơn độc một mình. Mặc dù điều kiện sống ở một số vùng không được tốt lắm, nhưng vẫn đạt mức sống trung bình. Điều quan trọng nhất là họ có thể sống cùng các anh chị em, thường xuyên nhóm họp và ăn uống lời Đức Chúa Trời, hiểu được nhiều lẽ thật hơn và biết được mục tiêu mưu cầu của mình là gì. Vì vậy, những người mưu cầu lẽ thật có thể trả cái giá đó và chịu nỗi khổ đó. Hầu hết mọi người đều có thái độ đúng đắn đối với chuyện này. Họ có thể đón nhận từ Đức Chúa Trời, biết rằng nỗi khổ đó là đáng giá, cũng là nỗi khổ họ nên chịu. Họ có thể tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn. Nhưng một số người làm càn làm bậy và càn quấy lại không lĩnh hội được như vậy. Họ có thể miễn cưỡng chịu được việc một tuần không về nhà, nhưng sau hai tuần, họ bắt đầu buồn bực. Và sau một, hai tháng, họ bắt đầu càn quấy. Họ nói: “Tại sao người một nhà các anh có thể vui vẻ đoàn tụ, mà tôi lại không thể về nhà mình? Tại sao tôi không có tự do trong khi các anh đều có thể tự do ra vào?”. Những người khác trả lời họ: “Đó chẳng phải là do con rồng lớn sắc đỏ bách hại chúng ta sao? Chúng ta đi theo Đức Chúa Trời thì chịu nổi khổ này chẳng phải là việc chính đáng sao? Chịu đựng chút khổ này thì có gì to tát chứ? Với bối cảnh như thế mà còn kén chọn gì chứ? Người khác có thể chịu đựng nỗi khổ này, tại sao anh lại không thể?”. Những người làm càn làm bậy không muốn chịu một chút khổ cực nào. Nếu bị bắt và bỏ tù, chắc chắn họ sẽ trở thành Giu-đa. Cuộc sống ở gia đình tiếp đãi có thể khổ cực đến đâu chứ? Thứ nhất, dẫu sao đồ ăn vẫn là cơm canh cho con người. Thứ hai, không ai làm khó ngươi. Thứ ba, không ai ức hiếp ngươi. Chỉ là ngươi không thể trở về nhà đoàn tụ với gia đình. Chút khổ cực này là điều mà những người làm càn làm bậy không tiếp nhận nổi. Khi người khác thông công về lẽ thật cho họ, họ chẳng những không nghe, mà còn nói những lời như: “Đừng có giảng giải mấy đạo lý to tát đó với tôi. Tôi hiểu biết không kém gì anh đâu. Mấy chuyện này, tôi hiểu hết! Anh chỉ cần cho tôi biết khi nào tôi có thể về nhà? Khi nào thì con rồng lớn sắc đỏ sẽ ngừng theo dõi nhà tôi? Khi nào thì tôi có thể về nhà mà không bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ? Nếu không biết khi nào mình có thể về nhà thì tôi cũng không sống nổi!”. Họ lại bắt đầu làm ầm lên, rồi ngồi bệt xuống đất mà quẫy đạp, càng đạp càng tức giận. Cơn càn quấy của họ cũng nổi lên và họ khóc lóc than vãn. Những người khác nói: “Anh nhỏ tiếng thôi. Nếu anh cứ làm ầm lên như vậy để hàng xóm xung quanh nghe thấy và phát hiện có người ngoài sống trong nhà này, thì chẳng phải chúng ta sẽ bị lộ sao?”. Họ trả lời: “Tôi mặc kệ, tôi cứ muốn làm ầm lên đấy! Các anh đều có thể về nhà, còn tôi thì không. Thật không công bằng! Tôi sẽ làm ầm lên đến chừng nào các anh cũng không thể về nhà, giống như tôi vậy!”. Cơn càn quấy của họ không hề giảm đi, tính xấu của họ lại còn trỗi dậy. Ai nói, họ cũng không nghe, ai khuyên cũng không được. Chờ đến khi tâm trạng họ tốt hơn một chút, họ sẽ yên tĩnh lại và không làm ầm ĩ nữa. Nhưng ai mà biết được đến một ngày nào đó, họ lại càn quấy và bắt đầu làm ầm lên: Họ lại muốn ra ngoài đi dạo, muốn được tự do và nói lớn tiếng ở nhà. Họ sẽ không ngừng lập kế hoạch để về nhà. Các anh chị em bảo họ: “Anh mà về nhà thì nguy hiểm lắm. Cảnh sát đang cắm chốt theo dõi đấy”. Họ trả lời: “Tôi mặc kệ. Tôi muốn về! Nếu họ bắt tôi thì cứ để họ bắt thôi! Có gì to tát chứ? Cùng lắm thì tôi sẽ trở thành Giu-đa!”. Như vậy chẳng phải là điên sao? (Thưa, phải.) Họ công khai nói rằng họ sẽ trở thành Giu-đa, còn ai dám tiếp đãi họ chứ? Có ai sẵn lòng tiếp đãi Giu-đa không? (Thưa, không.) Như vậy mà còn là người tin Đức Chúa Trời sao? Các anh chị em tiếp đãi họ như một người tin Đức Chúa Trời. Nếu nhân tính của họ có kém một chút thì còn có thể chịu đựng được. Chuyện họ không mưu cầu lẽ thật cũng có thể chịu đựng được. Nhưng chỉ có chuyện họ có thể hãm hại các anh chị em bằng cách bán đứng hội thánh và trở thành Giu-đa, khiến nhiều người có nhà mà không thể về, cũng không thể làm bổn phận một cách bình thường. Hậu quả này, ai gánh nổi chứ? Liệu ngươi có dám tiếp đãi loại kẻ thù này không? Tiếp đãi họ chẳng phải là tự gây phiền phức cho mình sao?
Khi hành động, những người làm càn làm bậy chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, thích gì làm nấy. Mở miệng thì toàn nói lập luận phi lý và tà thuyết, còn bất chấp lý lẽ. Tâm tính thì tràn ngập sự hung ác. Không ai dám qua lại với họ, và không ai sẵn lòng thông công về lẽ thật với họ, vì sợ rước họa vào thân. Những người khác nói lời thật lòng với họ mà còn phải rón rén dè chừng, sợ rằng nếu nói một lời nào đó mà họ không thích hoặc không hợp tâm tư của họ, thì họ sẽ vin vào điều đó mà ngang ngược chỉ trích. Họ chẳng phải là kẻ ác sao? Chẳng phải là quỷ sống sao? Người nào có tâm tính hung ác và lý trí không kiện toàn thì đều là quỷ sống. Người ta qua lại với quỷ sống, thì chỉ cần một phút bất cẩn là có thể chuốc họa vào thân. Trong hội thánh mà có dạng quỷ sống như vậy tồn tại thì chẳng phải là phiền phức lớn sao? (Thưa, phải.) Sau khi lăn lộn ầm ĩ và trút giận, họ cũng biết nói chút tiếng người và xin lỗi người ta, nhưng sau đó họ sẽ không thay đổi. Ai biết được khi nào tâm trạng của họ không vui và họ sẽ lại lăn lộn ầm ĩ, nói lập luận phi lý. Đối tượng họ lăn lộn ầm ĩ và trút giận mỗi lần mỗi khác; căn nguyên và bối cảnh sự khiến họ trút giận cũng vậy. Tức là, bất kỳ chuyện gì cũng có thể khiến họ trút giận, bất kỳ chuyện gì cũng có thể khiến họ bất mãn, và bất kỳ chuyện gì cũng có thể khiến họ phản ứng bằng cách lăn lộn ầm ĩ và càn quấy. Như vậy thì quá đáng sợ, quá phiền phức rồi! Những kẻ ác bị bệnh thần kinh này có thể phát điên bất kỳ lúc nào, không ai biết họ có thể làm ra những việc gì. Ta căm ghét nhất dạng người như vậy. Dạng người này có bao nhiêu thì phải thanh lọc bấy nhiêu, phải thanh trừ hết. Ta không muốn qua lại với họ. Dạng người này có tâm tư vẩn đục, tâm tính man rợ, tràn đầy những lập luận phi lý và lời của quỷ, gặp chuyện thì dùng cách thức của huyết khí mà phát tiết. Khi phát tiết, có kẻ thì khóc, có kẻ thì hét, có kẻ thì dậm chân, có kẻ thì lắc đầu, vung chân múa tay. Nói đơn giản, họ là súc sinh, không phải con người. Có người nấu ăn, một khi phát cáu thì sẽ đập nồi đập đĩa. Có người nuôi heo nuôi chó một khi phát cáu thì đánh heo đá chó, có giận dữ gì cũng phát tiết lên động vật. Những người này gặp chuyện gì cũng nổi giận. Họ không suy nghĩ một cách bình tĩnh, cũng không đón nhận chuyện đó từ Đức Chúa Trời. Họ không cầu nguyện hay tìm kiếm lẽ thật, cũng không tìm người để thông công. Khi bất đắc dĩ, họ sẽ nhẫn nại. Khi không muốn nhẫn nại, họ sẽ phát điên, đưa ra những lập luận phi lý, chỉ trích và lên án người khác. Họ thường nói những lời như: “Tôi biết các anh đều có học vấn, ai cũng coi thường tôi”; “Tôi biết gia đình các anh giàu có và các anh chê tôi nghèo”; hoặc “Tôi biết các anh chê tôi không có nền tảng trong việc tin Đức Chúa Trời, chê tôi không mưu cầu lẽ thật”. Họ biết rõ bản thân có nhiều vấn đề nhưng không bao giờ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng, họ cũng không nói về chuyện nhận thức bản thân khi thông công với người khác. Khi vấn đề của chính họ được đề cập, họ sẽ chuyển hướng sự chú ý và quật ngược lại, đổ hết vấn đề và trách nhiệm lên người khác, còn oán trách người khác đối xử với họ không tốt nên họ mới có biểu hiện như vậy. Cứ như thể việc họ lăn lộn ầm ĩ và vô lý làm loạn là do người khác gây ra; cứ như thể tất cả những người khác đều có lỗi, còn họ chỉ bất đắc dĩ mới phải làm như vậy và họ chỉ phòng vệ chính đáng. Cứ khi nào bất mãn, họ lại bắt đầu trút hết oán giận và nói xằng nói bậy, khăng khăng nói lập luận phi lý của mình, như thể mọi người khác đều sai, chỉ có họ mới là người tốt còn những người khác đều xấu. Cho dù họ lăn lộn ầm ĩ hay nói lập luận phi lý như thế nào, họ vẫn đòi người khác phải nói tốt về họ. Ngay cả khi làm việc xấu, họ cũng không cho phép người khác vạch trần hay chỉ trích họ. Nếu ngươi chỉ ra dù chỉ là một vấn đề nhỏ của họ, họ sẽ quấy rầy ngươi mãi không thôi và ngươi đừng mong được sống dễ chịu. Đây là loại người gì? Đây là người làm càn làm bậy, và người làm càn làm bậy thì đều là kẻ ác.
Những người làm càn làm bậy, lúc bình thường thì không làm ra những chuyện đại gian đại ác, nhưng ngay khi gặp chuyện liên quan đến lợi ích, danh tiếng và tôn nghiêm của họ, thì họ lập tức nổi trận lôi đình, lăn lộn ầm ĩ, càn quấy, thậm chí đòi tự tử. Các ngươi nói xem, nếu trong gia đình có một người vô lý và man rợ như vậy, thì chẳng phải cả gia đình gặp tai ương rồi sao? Trong nhà đó sẽ ngày ngày tối tăm hỗn loạn, kêu khóc om sòm, đến mức không thể sống nổi. Một vài hội thánh có những người như thế, mặc dù lúc bình thường vô sự thì không nhìn ra được họ, nhưng chẳng biết lúc nào họ sẽ lên cơn và hiện nguyên hình. Biểu hiện chính của loại người này là lăn lộn ầm ĩ, nói lập luận phi lý, chửi bóng chửi gió, và nhiều biểu hiện khác nữa. Kể cả khi một tháng hay nửa năm họ mới có chuyện như vậy một lần, thì cũng đã khiến người ta thấy rất khó xử và phiền não, khiến đời sống hội thánh của hầu hết mọi người bị quấy nhiễu ở nhiều mức độ khác nhau. Nếu thật sự xác định được ai đó là loại người này, thì nên kịp thời xử lý và thanh trừ họ khỏi hội thánh. Có người nói: “Loại người này cũng đâu làm việc ác gì. Không thể xem họ là kẻ ác, chúng ta nên bao dung và nhẫn nại với họ”. Các ngươi nói xem, không xử lý những người như thế thì có ổn không? (Thưa, không ổn.) Tại sao lại không ổn? (Thưa, bởi vì những việc họ làm gây ra nhiều phiền hà và khổ não cho hầu hết mọi người, còn gây nhiễu loạn đời sống hội thánh.) Xét từ kết quả này, rõ ràng là những người có thể gây nhiễu loạn đời sống hội thánh, cho dù không phải là kẻ ác hay kẻ địch lại Đấng Christ, thì cũng không nên được giữ lại trong hội thánh. Lý do là vì loại người này không yêu thích lẽ thật, mà là chán ghét lẽ thật, và dù có tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, nghe bao nhiêu bài giảng, họ cũng không tiếp nhận lẽ thật. Một khi làm việc xấu gì đó và bị tỉa sửa, thì họ sẽ lăn lộn ầm ĩ, nói xằng nói bậy toáng cả lên. Kể cả khi có người thông công lẽ thật cho họ, họ cũng không tiếp nhận. Chẳng ai nói lý lẽ với họ được. Kể cả khi Ta thông công lẽ thật cho họ, thì dù bề ngoài họ chẳng nói gì, nhưng trong lòng lại không tiếp nhận, rồi khi gặp chuyện, họ vẫn cứ làm như cũ. Ngay cả lời Ta mà họ còn không nghe, các ngươi khuyên thì họ càng không tiếp nhận. Dù loại người này không làm việc đại ác nào, nhưng họ chẳng hề tiếp nhận lẽ thật. Xét từ thực chất bản tính của họ, thì họ không những không có lương tâm và lý trí, mà còn làm càn làm bậy, bất chấp lý lẽ. Người như thế có thể đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời không? Tuyệt đối không thể! Những người không tiếp nhận lẽ thật chút nào thì thuộc số kẻ chẳng tin, là sai dịch của Sa-tan. Hễ chuyện không được như ý, là họ lăn lộn ầm ĩ, một mực nói những lập luận phi lý, thông công về lẽ thật thế nào họ cũng không chịu nghe. Loại người như thế là kẻ làm càn làm bậy, là ma quỷ và tà linh thuần túy, còn không bằng súc sinh! Họ là những kẻ bị bệnh thần kinh với lý trí không ổn, không bao giờ có thể thực sự hối cải. Họ càng ở lâu trong hội thánh thì càng có nhiều quan niệm về Đức Chúa Trời, càng nảy sinh nhiều đòi hỏi vô lý với nhà Đức Chúa Trời, càng gây nhiễu loạn và nguy hại lớn hơn cho đời sống hội thánh. Như thế là ảnh hưởng đến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn và việc tiến hành bình thường của công tác hội thánh. Họ gây hại cho công tác hội thánh không thua gì những kẻ ác, nên thanh trừ họ khỏi hội thánh từ sớm mới phải. Có vài người nói: “Chẳng phải họ chỉ hơi càn quấy sao? Họ cũng đâu đến mức là kẻ ác, đối xử với họ bằng tình yêu thương chẳng phải là tốt hơn sao? Nếu giữ họ lại, có lẽ họ có thể biến đổi và được cứu rỗi”. Ta nói cho ngươi nghe, đây là chuyện không thể nào! Trong chuyện này không có cái “có lẽ” đâu, loại người này tuyệt đối không thể được cứu rỗi. Bởi vì họ không hiểu nổi lẽ thật, càng không tiếp nhận nổi lẽ thật, họ không có lương tâm và lý trí, đầu óc và tư duy của họ không bình thường, còn thiếu cả thường thức làm người căn bản nhất. Họ chính là những kẻ có lý trí không kiện toàn. Đức Chúa Trời tuyệt đối không cứu rỗi dạng người như vậy. Ngay cả những người có tư duy bình thường hơn một chút và có tố chất tốt hơn, nếu không tiếp nhận lẽ thật chút nào, thì đều không thể được cứu rỗi, huống gì là người có lý trí không kiện toàn, họ càng không thể được cứu rỗi. Nếu vẫn đối xử với loại người này bằng lòng yêu thương và vẫn còn nuôi hy vọng vào họ, thì chẳng phải quá ngu muội và vô tri sao? Bây giờ Ta nói cho các ngươi biết: Việc thanh lọc những người làm càn làm bậy và bất chấp lý lẽ ra khỏi hội thánh là hoàn toàn đúng đắn. Làm vậy sẽ chặt đứt tận gốc sự quấy rối của họ đối với hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn. Đây là chức trách của lãnh đạo và người làm công. Nếu trong hội thánh nào có người bất chấp lý lẽ như vậy, thì dân được Đức Chúa Trời chọn phải tố giác họ. Lãnh đạo và người làm công nhận được tin tố giác rồi thì phải nhanh chóng xử lý họ. Đây là nguyên tắc để xử lý loại người thứ sáu, người làm càn làm bậy.
G. Luôn làm trò dâm loạn
Loại người thứ bảy là những người làm trò dâm loạn, một loại người thường được nhắc đến. Mặc dù biểu hiện nhân tính của họ không quá ác – không có những biểu hiện như gieo rắc bất hòa, hoặc hành ác và gây nhiễu loạn – nhưng họ có một đặc điểm chung là luôn có vấn đề và luôn có chuyện xảy ra trong mối quan hệ của họ với người khác giới. Bất kể có cơ hội hay không, những vấn đề như vậy luôn xuất hiện nơi họ, và nếu không có cơ hội thì họ sẽ tạo ra cơ hội, để những “câu chuyện” như vậy vẫn xảy ra. Bất kể trong trường hợp nào, đối phương là ai, hoặc đối phương có khoảng cách với họ bao xa, thì họ vẫn thỉnh thoảng xảy ra những chuyện như thế này. Xảy ra chuyện gì? Chính là chuyện họ hẹn hò ai đó, luôn muốn gần gũi với ai đó, nảy sinh tình cảm với ai đó, hoặc để ý đến ai đó, v.v.. Họ luôn không sống bình thường và không làm bổn phận một cách bình thường được, mà luôn bị ảnh hưởng bởi tình dục. Nghĩa là, trong các tình huống bình thường mà người bình thường sẽ không vướng vào những vấn đề như vậy, thì họ lại thường có thể vướng vào. Họ không cần bất kỳ bối cảnh đặc biệt nào, cũng không cần bất kỳ ai tạo cơ hội cho họ; những chuyện này có thể xảy ra với họ một cách rất tự nhiên. Sau khi những chuyện như thế này xảy ra, bất kể hậu quả là gì, thì luôn có một nhóm người hoặc một người nào đó phải trả giá. Cái giá phải trả là gì? Là việc làm bổn phận bị ảnh hưởng; công tác của hội thánh bị trì hoãn và chậm trễ; một số người trẻ tuổi bị quấy rầy và rơi vào cám dỗ, cũng như không còn hứng thú với việc tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận; thậm chí có người còn mất đi bổn phận hoặc từ bỏ bổn phận của mình. Loại người làm trò dâm loạn này rất phiền phức. Mỗi lần đến nơi nào đó, họ đều có một vài người khác giới vây quanh, tiếp cận, tán tỉnh, thậm chí nói lời bông đùa tình tứ với họ. Tuy rằng không xảy ra vấn đề gì nghiêm trọng mang tính thực chất, nhưng họ đã gây nhiễu loạn nghiêm trọng tình trạng làm bổn phận bình thường của dân được Đức Chúa Trời chọn. Họ đi đến đâu cũng mang phiền phức và sự nhiễu loạn cho người khác, cho công tác và cho hội thánh, thậm chí hễ có cơ hội là họ tán tỉnh người khác giới mà họ thấy có hứng thú, và thiết lập mối quan hệ với những người này. Như vậy là quá phiền phức rồi. Một khi họ phải lòng ai thì người đó sẽ gặp hạn, không có cách nào tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận một cách bình thường nữa. Hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi. Người đó có muốn cũng không thể ngừng liên lạc hoặc ngừng gặp người tán tỉnh mình. Trong hoàn cảnh đang bận rộn làm bổn phận, không thể kết hôn hoặc sống bên nhau, mà họ vẫn không thể đoạn tuyệt mối quan hệ đó, thì cuối cùng chuyện sẽ như thế nào? Họ bắt đầu cảm thấy bị dày vò, vô cùng đau khổ! Nếu họ phải chịu đựng cho đến khi bị trừng phạt trong tai họa, thì họ hoàn toàn tiêu tùng rồi, hy vọng được cứu rỗi của họ đã bị hủy hoại. Một số người phạm tội một lần, khi bị tỉa sửa thì vẫn không hối cải, sau đó tiếp tục phạm tội lần thứ hai hoặc thậm chí lần thứ ba, trong hai hoặc ba năm đã có ba hoặc bốn mối quan hệ yêu đương, chuyện này gây nhiễu loạn cho dân được Đức Chúa Trời chọn và đời sống hội thánh, cũng như khiến dân được Đức Chúa Trời chọn chán ghét họ. Điều này sẽ để lại vết nhơ và sự hối tiếc trong suốt quãng đời còn lại của họ.
Một số người, vì có chút ngoại hình, phong độ, cũng như có chút ân tứ và sở trường, hoặc đã đảm nhiệm một số công tác quan trọng, nên luôn có những người khác giới bám lấy họ như ruồi nhặng, vây quanh họ. Có người phục vụ bữa ăn cho họ, có người dọn giường cho họ, có người giặt quần áo cho họ, có người mua cho họ sản phẩm chăm sóc sức khỏe và mỹ phẩm, cũng như tặng họ những món quà nhỏ, v.v.. Họ không từ chối ai đến với mình, trong lòng biết rằng người khác làm như vậy là không phù hợp, nhưng họ không bao giờ từ chối, lại còn tán tỉnh nhiều người khác giới cùng một lúc. Những người đó tranh giành nhau để có cơ hội hầu hạ họ, cạnh tranh và ghen tuông lẫn nhau, còn họ lại hưởng thụ cảm giác này, cho rằng mình đầy sức hấp dẫn. Trên thực tế, tất cả người trưởng thành đều hiểu về chuyện nam nữ, thậm chí một số người vị thành niên cũng hiểu; chỉ có những người ngốc nghếch, người thiểu năng trí tuệ hoặc người mắc bệnh tâm thần mới không hiểu. Tại sao mấy người này phải tranh giành dữ dội để hầu hạ và lấy lòng một người khác giới? Chẳng phải đều là vì muốn tán tỉnh sao? Chuyện này đâu cần nói ra, mọi người đều biết rõ trong lòng rồi. Trong lòng mọi người biết rõ đó là chuyện không thích hợp, thế mà họ vẫn không từ chối, cứ ngầm đồng ý – làm như vậy thì gọi là gì? Là tán tỉnh. Họ biết đó là nam nữ tán tỉnh nhau, nhưng vì sự kích thích mang lại bởi việc thỏa mãn tình dục của xác thịt mà họ không muốn từ chối. Họ thấy rằng cảm giác này là một dạng hưởng thụ, còn thích thú hơn cả hương vị của mỹ vị nhân gian, nên họ không từ chối. Nếu đương sự không từ chối, thì những người tán tỉnh họ còn vui hơn, nghĩ rằng mình là ý trung nhân của họ, trong lòng cảm thấy khá vui sướng. Còn họ thì cho rằng chỉ cần không nảy sinh mối quan hệ nào mang tính thực chất thì chẳng tính là gì cả, người ngoại đạo làm trò dâm loạn còn nghiêm trọng hơn, cùng lắm thì việc họ làm chỉ là tán tỉnh, cũng giống như yêu đương bình thường thôi. Nhưng yêu đương có phải như vậy không? Hôm nay với người này, ngày mai với người kia, mù quáng tán tỉnh bất kỳ ai hết lần này đến lần khác. Loại người dâm loạn này đi đâu cũng muốn tuôn ra những thứ tình dục, khoe khoang, và tán tỉnh. Càng tán tỉnh được nhiều người thì họ càng thấy vui. Nhưng cuối cùng thì sao? Sau khi họ khoe khoang nhiều lần, một số anh chị em phân định được họ và cùng nhau viết thư phản ánh lên lãnh đạo cấp trên. Cuộc điều tra xác nhận sự việc là đúng, và loại người này bị thanh lọc khỏi hội thánh. Các ngươi thấy sao? Chẳng phải con đường tin Đức Chúa Trời của họ kết thúc ở đó sao? Kết cục đã rõ ràng. Hành động và hành vi của họ ngay cả con người còn không thể chấp nhận được, với Đức Chúa Trời thì còn đáng ghê tởm hơn nữa. Biểu hiện của những người này không phải là quan hệ chính đáng giữa người với người, cũng không phải là nhu cầu của người bình thường. Hành động của họ chỉ có thể được mô tả bằng một từ: “dâm loạn”. Dâm loạn có nghĩa là gì? Nghĩa là quan hệ nam nữ bừa bãi, tùy tiện tán tỉnh người khác một cách vô trách nhiệm, cũng như dụ dỗ và quấy rối người khác giới. Đó là đùa giỡn với tình dục, và làm như vậy mà không cân nhắc đến cái giá phải trả hoặc hậu quả. Nếu cuối cùng có người mắc câu và vướng vào chuyện yêu đương với họ, thì họ sẽ không thừa nhận, mà sẽ nói: “Tôi chỉ đùa thôi. Anh tưởng thật sao? Thực ra, tôi không có ý đó; anh nghĩ quá nhiều rồi”. Đây chẳng phải là ma quỷ cám dỗ người sao? Sau khi cám dỗ một người, họ lại tìm mục tiêu tiếp theo, tán tỉnh những người khác. Người này thật quá xấu, quá tà rồi! Tán tỉnh một người rồi, mà họ không thừa nhận. Nếu ai đó bị loại người này mê hoặc và tán tỉnh, thì chẳng phải chuyện này rất đáng ghê tởm sao? (Thưa, phải.) Loại người tán tỉnh người khác một cách bừa bãi thì có đáng ghét không? (Thưa, có.) Ngay từ đầu, nhà Đức Chúa Trời đã nói rằng nếu một người đến tuổi kết hôn và là người trưởng thành, thì nhà Đức Chúa Trời không phản đối việc họ yêu đương bình thường hay là kết hôn và sống với nhau một cách bình thường, nhà Đức Chúa Trời cho phép và cho họ tự do làm chuyện đó. Tuy nhiên, có một số điều kiện: Không được phép làm trò dâm loạn; không được phép tán tỉnh và ve vãn bừa bãi, hay tùy ý quấy rối người khác giới. Nhà Đức Chúa Trời không hạn chế việc yêu đương, nhưng không cho phép tán tỉnh bừa bãi. Tán tỉnh bừa bãi nghĩa là gì? Nghĩa là có thể quấy rối bất kỳ ai khác giới, nhưng quấy rối rồi thì không thừa nhận. Người mà họ quấy rối không phải là ý trung nhân thực sự của họ; họ không có ý định yêu đương lâu dài hoặc kết hôn mà chỉ muốn tán tỉnh và đùa bỡn đối phương, muốn lợi dụng đối phương, muốn tìm kiếm sự kích thích, muốn có nhiều mối quan hệ tình cảm, muốn giở trò lưu manh – đây gọi là dâm loạn. Trong hội thánh, không có chỗ cho sự dâm loạn; và nếu có hiện tượng này thì phải xử lý theo nguyên tắc thanh trừ người. Tất nhiên, trong các nhóm phúc âm, những tình huống này không được phép xuất hiện ở những người rao truyền phúc âm, dù họ ở hội thánh toàn thời gian hay hội thánh phổ thông. Nếu có người mượn danh nghĩa rao truyền phúc âm để tán tỉnh người khác một cách bừa bãi, chỉ tìm người khác giới để phối hợp hoặc chỉ rao truyền phúc âm cho người khác giới, và lợi dụng cơ hội để làm trò quan hệ bất chính, thì chuyện này sẽ gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác phúc âm của Đức Chúa Trời. Lãnh đạo và người làm công phải kịp thời thanh lọc dạng người này.
Để tìm những người khác giới và làm trò dâm loạn, một số người không quan tâm đến tuổi tác và không có giới hạn tuổi tác. Họ chỉ tìm cách tán tỉnh càng nhiều người càng tốt, không có chút liêm sỉ nào. Khi quyến rũ người khác giới, một số người không chỉ thỏa mãn tình dục của xác thịt, mà còn yêu cầu đối phương chi trả phí sinh hoạt, mua đồ cho họ, v.v.. Nếu các ngươi phát hiện loại người như vậy hoặc có người phản ánh những chuyện như vậy, thì nên kịp thời xử lý. Phương án giải quyết duy nhất là thanh trừ loại người này, thanh trừ vĩnh viễn. Bởi vì với những người có vấn đề như vậy thì chắc chắn đây không phải là chuyện nhất thời, nhất là những người đã kết hôn – mặc dù đã có vợ hoặc chồng ở nhà, mà họ vẫn mượn danh nghĩa rao truyền phúc âm để chuyên môn tìm người khác giới. Loại người nào họ cũng tìm, giàu nghèo gì cũng được, và nếu tìm được người họ thích thì thậm chí còn có thể bỏ trốn cùng người đó, không rao truyền phúc âm nữa – thẳng thừng không tin Đức Chúa Trời nữa. Nếu có thể phát hiện sớm loại người này thì nên nhanh chóng thanh trừ họ khỏi hàng ngũ những người rao truyền phúc âm, thanh trừ vĩnh viễn, không cho họ cơ hội nào khác, và không cần theo dõi thêm. Đã hiểu chưa? Một số người nói: “Có người có cuộc sống thật khó khăn. Nếu họ tán tỉnh người khác giới để lập gia đình, và người kia có thể tin Đức Chúa Trời cũng như chăm sóc họ, thì chẳng phải vẹn cả đôi đường sao?”. Ta nói cho ngươi biết, những người như vậy phải bị thanh trừ càng sớm càng tốt; họ làm vậy không phải vì đời sống gia đình mà là để làm trò dâm loạn. Tại sao Ta lại chắc chắn như vậy? Nếu họ không phải loại người làm trò dâm loạn, thì sau khi tin Đức Chúa Trời, họ tuyệt đối không làm những chuyện như vậy và họ sẽ ghê tởm những chuyện như vậy, nhất là khi họ đã kết hôn. Trào lưu hiện tại của toàn thế giới là dâm loạn và tà ác; con người đều phóng túng trong tình dục và so bì với nhau xem ai có thể tán tỉnh nhiều người khác giới hơn mà không phải chịu ràng buộc, bởi vì xã hội này và nhân loại này không khiển trách hay chế giễu những chuyện này. Cho nên, người ta cho rằng nếu họ có thể kiếm tiền thông qua việc làm trò dâm loạn và bán xác thịt của mình, thì đó là bản lĩnh hoặc năng lực của họ. Họ xem đó là chuyện vẻ vang. Tuy nhiên, sau khi tin Đức Chúa Trời, quan điểm của họ về những chuyện này thay đổi hoàn toàn. Họ có cách tiếp cận đúng đắn với tình dục của xác thịt, điều trước tiên và quan trọng nhất là phải có sự ràng buộc. Làm thế nào để có sự ràng buộc? Con người phải biết xấu hổ và có liêm sỉ. Đây gọi là nhân tính bình thường. Con người đều có tình dục, nhưng người ta phải biết chịu sự ràng buộc và có liêm sỉ. Ngay cả khi có một số ý niệm như vậy, thì người có lương tâm và lý trí vẫn nên chịu sự ràng buộc vì họ tin Đức Chúa Trời. Khi có những ý niệm bất chính trong tâm tư, họ tuyệt đối không được đi theo, càng không được phóng túng. Họ nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những chuyện này. Ngay cả khi họ là những người mới tin Đức Chúa Trời và không hiểu lẽ thật, thì họ cũng nên tự đánh giá mình theo những tiêu chuẩn cơ bản nhất của đạo đức nhân tính. Nếu ngay cả mức độ ràng buộc ít ỏi này mà ngươi còn không có, thì ngươi không có nhân tính bình thường, cũng không có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Mọi loài động vật đều có quy luật và tuân thủ khuôn phép trong phương diện này, không hành động bừa bãi; làm người thì càng không được hành động bừa bãi, càng phải có sự ràng buộc. Nếu ngươi thậm chí không có mức độ ràng buộc và năng lực tự kiềm chế ít ỏi này, thì còn nói gì đến chuyện tìm kiếm và thực hành lẽ thật? Nếu ngươi không thể giải quyết tình dục tà vạy ích kỷ của mình, thì làm sao ngươi có thể giải quyết tâm tính bại hoại của mình? Bản tính chống đối và phản bội Đức Chúa Trời của ngươi lại càng không có cách nào giải quyết nổi, có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Nếu ngươi không thể xử lý được tình dục của xác thịt, thì còn nói gì đến chuyện giải quyết tâm tính bại hoại của mình? Đừng nghĩ tới điều đó nữa, ngươi không đạt được đâu.
Một số người luôn tìm kiếm cơ hội yêu đương trong khi rao truyền phúc âm, và những chuyện như vậy thường xuyên xảy ra. Những người luôn yêu đương và không chuyên tâm vào việc chính đáng thì đều bị thanh trừ và xử lý, còn những người thỉnh thoảng vi phạm thì bị cảnh cáo. Một khi những người có tâm tính tà ác này tìm được hoàn cảnh thích hợp và gặp được người yêu trong mộng, thì họ sẽ rơi vào cám dỗ. Ý định được phúc của họ khi tin Đức Chúa Trời vì thế mà tan biến trong tình dục tà vạy ích kỷ của họ. Chỉ cần bắt đầu yêu đương, là họ mặc kệ mọi thứ khác, thậm chí từ bỏ ý định được phúc, và chỉ theo đuổi sung sướng của xác thịt. Sau một hoặc hai lần phạm tội, họ có thể cảm thấy tội lỗi và buồn bã đôi chút, nhưng sau ba hoặc bốn lần, họ trở nên dâm loạn. Một khi đã trở nên dâm loạn thì họ không còn cảm thấy tội lỗi hay buồn bã nữa bởi vì lớp liêm sỉ, vốn là lằn ranh cuối cùng của nhân tính, đã bị phá vỡ. Họ không còn coi sự dâm loạn là đáng xấu hổ, vì thế mà họ tiếp tục làm trò dâm loạn. Những người có thể tiếp tục làm trò dâm loạn chính là những người đặc biệt phóng túng trong tình dục và không chịu sự ràng buộc. Những người như vậy không được phép tồn tại trong hội thánh, và phải bị thanh lọc; đừng dung dưỡng họ, đừng tìm bất kỳ cái cớ nào để giữ họ lại. Nhà Đức Chúa Trời không thiếu người rao truyền phúc âm, không cần những con quỷ dâm loạn như vậy để cho đủ số lượng, bởi vì chuyện này sỉ nhục nghiêm trọng đến danh Đức Chúa Trời. Cho nên, nếu có người tố giác hoặc nếu chính ngươi phát hiện ra những người như vậy trong đội ngũ rao truyền phúc âm, thì ngươi nên biết phải làm gì. Nếu một số người mới tin Đức Chúa Trời có dạng vấn đề này, thì trước tiên các ngươi nên thông công lẽ thật về dạng vấn đề này, để hết thảy mọi người biết các nguyên tắc và thái độ của hội thánh đối với những người phạm tội dâm loạn là gì. Ít nhất, các ngươi nên cảnh báo trước để họ khỏi rơi vào chuyện này hoặc lợi dụng cơ hội rao truyền phúc âm để làm ra những chuyện này, rồi sau đó lại oán trách những người phụ trách hoặc lãnh đạo và người làm công đã không thông công trước các nguyên tắc lẽ thật có liên quan cho họ. Cho nên, trước khi có chuyện như vậy xảy ra, khi có người còn chưa biết thái độ của nhà Đức Chúa Trời đối với những người và những chuyện như vậy, khi mọi người còn mơ hồ về những chuyện này, thì lãnh đạo và người làm công phải thông công rõ ràng và sáng tỏ những nguyên tắc này cho họ, để họ biết những chuyện này thuộc loại hành vi gì, có tính chất gì, cũng như thái độ của nhà Đức Chúa Trời đối với loại chuyện và loại người này là gì. Sau khi những nguyên tắc này đã được thông công rõ ràng, nếu họ đã biết mà vẫn khăng khăng theo ý mình, vẫn muốn làm như vậy, thì nên xử lý và giải quyết họ, buộc phải thanh trừ họ. Nếu những người như vậy xuất hiện trong hội thánh, thường xuyên gây chuyện bằng cách tán tỉnh người khác hoặc thường xuyên quấy rối những người khác giới, thì họ chắc chắn có vấn đề. Ngay cả khi không xảy ra vấn đề mang tính thực chất nào, thì lãnh đạo vào người làm công cũng nên cảnh cáo và xử lý những người này, hoặc chuyển họ ra khỏi địa điểm làm bổn phận; nếu tình tiết nghiêm trọng thì phải trực tiếp thanh trừ họ. Mối thông công của chúng ta về phương diện thứ bảy trong những biểu hiện của nhân tính kết thúc ở đây.
Ngày 18 tháng 12 năm 2021