Chức trách của lãnh đạo và người làm công (25)
Mục 14. Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ (Phần 4)
Tiêu chuẩn và căn cứ phân định các loại kẻ ác khác nhau
Hôm nay, chúng ta tiếp tục mối thông công về chức trách thứ 14 của lãnh đạo và người làm công: “Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ”. Vài lần trước, chúng ta đã thông công về một số nội dung mà lãnh đạo và người làm công nên phân định, cũng như những lẽ thật chính mà họ nên hiểu, khi thực hiện công tác này; nghĩa là, chúng ta đã thông công về cách phân định các loại kẻ ác. Các loại kẻ ác được định nghĩa như thế nào? Chính là những người chui vào nhà Đức Chúa Trời dưới chiêu bài tin vào Đức Chúa Trời, nhưng không tiếp nhận lẽ thật mà còn làm nhiễu loạn công tác của hội thánh; tất cả những người như vậy được xếp vào loại kẻ ác. Họ là những người mà hội thánh nên thanh trừ hoặc khai trừ; nghĩa là, họ không được phép tồn tại trong hội thánh. Chúng ta phân chia và mổ xẻ các loại kẻ ác thành ba mục chính. Ba mục này là gì? Mục đầu tiên là mục đích khi tin vào Đức Chúa Trời. Mục thứ hai là nhân tính – bằng cách mổ xẻ nhân tính của một người, chúng ta có thể phân định và thấy rõ liệu họ có phải là người mà hội thánh nên thanh trừ không. Mục thứ ba là gì? (Thưa, là thái độ đối với bổn phận của mình.) Thái độ đối với bổn phận của mình chính là mục thứ ba. Trước đây, chúng ta đã thông công về mục đầu tiên. Đối với mục thứ hai – nhân tính của một người – đã thông công được hai điểm. Điểm đầu tiên là gì? (Thưa, là thích đâm bị thóc, chọc bị gạo.) Còn điểm thứ hai? (Thưa, là thích lợi dụng.) Xét từ nội dung của hai điểm này, có vẻ như không đủ để coi đây là biểu hiện của kẻ ác, nhưng dựa trên biểu hiện chi tiết mà Ta đã thông công trước đây thì hai loại người này đã tin vào Đức Chúa Trời trong nhiều năm nhưng vẫn chưa thực sự hối cải; những biểu hiện khác nhau của họ đã gây ra sự nhiễu loạn và phá hoại đối với đời sống hội thánh, lối vào sự sống của người được Đức Chúa Trời chọn, và mối quan hệ giữa những người được Đức Chúa Trời chọn. Theo các biểu hiện và dựa trên thực chất bản tính của họ, hai loại người này nên được phân loại là kẻ ác. Lãnh đạo hội thánh và người được Đức Chúa Trời chọn nên phân định và xác định họ, cũng như kịp thời thanh trừ họ. Làm như vậy có phù hợp không? (Thưa, có.) Hoàn toàn phù hợp. Biểu hiện của hai loại người này trong hội thánh có ảnh hưởng rất xấu; họ không hề quan tâm đến lẽ thật, cũng không hề thuận phục công tác của Đức Chúa Trời. Trong số anh chị em, những gì họ sống thể hiện ra dường như không khác gì người ngoại đạo; họ thường nói dối và lừa gạt người khác, thực hiện bổn phận của mình một cách qua loa chiếu lệ và không có chút tinh thần trách nhiệm nào, cũng như không thay đổi mặc dù đã được cảnh báo nhiều lần. Họ không chỉ làm ảnh hưởng đến đời sống hội thánh mà còn làm nhiễu loạn nghiêm trọng công tác của hội thánh. Không nghi ngờ gì nữa, họ nằm trong số những người mà hội thánh nên thanh trừ hoặc khai trừ, và việc xác định họ là kẻ ác cũng như liệt kê họ vào hàng ngũ những người như vậy là hoàn toàn phù hợp, không hề quá đáng khi làm như vậy. Loại đầu tiên, những người thích đâm bị thóc, chọc bị gạo, không chỉ có các vấn đề đơn giản như nói những điều không thích hợp lắm hoặc gặp rào cản khi giao tiếp với người khác, mà còn có vấn đề về tâm tính. Ở mức độ sâu hơn, vấn đề về tâm tính là vấn đề về thực chất bản tính của họ. Ở mức độ nông hơn, đó là vấn đề về nhân tính của họ; nghĩa là, nhân tính của họ cực kỳ tồi tệ và đê tiện, khiến họ không thể hoà hợp bình thường với người khác. Họ không những không có các biểu hiện tích cực như cung cấp, giúp đỡ, hay yêu thương người khác, mà hành động và hành vi của họ chỉ nhằm gây nhiễu loạn, phá hoại, và phá huỷ. Nếu một số người thường xuyên đâm bị thóc, chọc bị gạo, và luôn làm như vậy dù lén lút hay công khai, gây ảnh hưởng rất xấu đến công tác của hội thánh và anh chị em, thì họ nằm trong số những người mà hội thánh nên thanh trừ. Loại thứ hai là những người thích lợi dụng. Bất kể tình huống nào, họ luôn tìm cách lợi dụng người khác, luôn tập trung vào lợi ích của chính mình. Họ không chú trọng đến việc bước vào thực tế lẽ thật, cũng không chú trọng đến việc thực hiện tốt bổn phận của mình hay công việc mình đảm nhận. Họ càng không chú trọng vào việc hoà hợp bình thường với anh chị em, lấy mạnh bù yếu cho nhau và xây dựng các mối quan hệ bình thường, hoặc sống một cuộc sống bình thường trong hội thánh. Họ không chú trọng vào bất kỳ điều gì trong số này mà chỉ đến hội thánh và giữa anh chị em để lợi dụng. Chỉ cần họ còn ở trong hội thánh, chỉ cần anh chị em tiếp xúc với họ, thì anh chị em sẽ cảm thấy không thoải mái. Anh chị em không chỉ cảm thấy phản cảm với hành động và hành vi của họ, mà chủ yếu là trong lòng thường cảm thấy bị quấy rầy và kìm kẹp ở mức độ đáng kể. “Mức độ đáng kể” có nghĩa là gì? Nghĩa là trong cuộc sống thực tế, khi bị người không tin hoặc kẻ ác quấy rối, một số người bị cảm xúc kìm kẹp và không thể thoát ra, trong khi những người khác dù không thể chịu đựng được, không dám nói thẳng ra nhưng luôn cảm thấy bị kìm kẹp và bất an trong lòng. Chẳng phải điều này gây ra sự nhiễu loạn nghiêm trọng cho anh chị em sao? (Thưa, phải.) Cho nên, người được Đức Chúa Trời chọn phải phân định hai loại người này; họ đều được phân loại là kẻ ác trong số những người mà hội thánh nên thanh trừ. Các nguyên tắc cụ thể để xử lý những người này đã được thông công trong buổi tụ họp lần trước, nên lần này Ta sẽ không thông công chi tiết nữa. Tóm lại, hai loại người được thông công ở trên đã gây nhiễu loạn không chỉ đến đời sống hội thánh của anh chị em, mà còn đến việc thực hiện bổn phận của anh chị em một cách có trật tự; hành vi của một vài người trong số họ thậm chí có thể khiến một số tín hữu mới không có nền tảng bị vấp ngã. Cho nên, dựa vào phương thức và cách thức họ làm mọi chuyện, cũng như những biểu hiện khác nhau trong nhân tính của của họ và hậu quả tiêu cực mà những biểu hiện này gây ra, hai loại người này nằm trong số những người mà hội thánh nên thanh trừ, và việc liệt kê họ vào hàng ngũ kẻ ác là không hề quá đáng. Mặc dù hành vi của những người thích đâm bị thóc, chọc bị gạo và những người thích lợi dụng có thể không ngang ngược hay hung ác như những kẻ ác trong quan niệm của con người, không có những biểu hiện rõ ràng này, nhưng vì những hậu quả tiêu cực do hành vi và nhân tính của họ gây ra nên hội thánh phải thanh trừ họ. Đây là những biểu hiện của hai loại người này, và các nguyên tắc xử lý họ, mà chúng ta đã thông công lần trước.
II. Dựa vào nhân tính
C. Phóng đãng và không ràng buộc
Hôm nay, chúng ta tiếp tục thông công về biểu hiện của một vài loại người khác liên quan đến nhân tính của họ, bắt đầu với loại người thứ ba. Đặc điểm chính trong nhân tính của những người này là gì? Chính là phóng đãng và không ràng buộc. Phóng đãng và không ràng buộc thì rất dễ hiểu theo nghĩa đen; có nghĩa là hành vi, cử chỉ, và lời lẽ của những người này có vẻ vô phép tắc – họ không phải những người đoan trang và đứng đắn. Đây là sự hiểu biết cơ bản về biểu hiện của những người thuộc loại này. Trong hội thánh, không thể tránh khỏi việc quan điểm của một số người về việc tin vào Đức Chúa Trời và cách họ theo đuổi sẽ có những sai lầm hoặc sai sót. Lời lẽ và cử chỉ của họ không hề sùng đạo, biểu hiện trong cuộc sống và phẩm chất nhân tính của họ hoàn toàn không đạt đến chuẩn mực của các thánh, và họ không hề có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Nhìn chung, lời lẽ, hành vi, và cử chỉ của họ chỉ có thể được mô tả là phóng đãng và không ràng buộc. Tất nhiên, còn có nhiều biểu hiện cụ thể mà mọi người đều có thể nhìn thấy và dễ dàng phân định. Những người này giống như những người không tin và người ngoại đạo; cụ thể, biểu hiện của họ đặc biệt phóng đãng. Trong các buổi tụ họp, họ ăn mặc rất xuề xoà. Một số người không thèm chăm sóc cho bản thân gọn gàng trước khi ra khỏi nhà, đến các buổi tụ họp trong tình trạng đầu bù tóc rối, tóc không chải và mặt không rửa. Một số người ăn mặc luộm thuộm, đi dép lê hoặc thậm chí mặc đồ ngủ đến các buổi tụ họp. Có những người thì sống luộm thuộm, không chú ý đến vệ sinh cá nhân, và không ngại mặc quần áo bẩn đến các buổi tụ họp. Họ tham gia các buổi tụ họp một cách cực kỳ xuề xoà, như thể sang nhà hàng xóm chơi, không coi trọng. Trong các buổi tụ họp, lời lẽ và cử chỉ của họ cũng không ràng buộc, họ nói to mà không có chút e dè nào, thậm chí còn phấn khích và múa may quay cuồng khi vui sướng, đặc biệt phóng túng. Bất kể trước mặt bao nhiêu người, họ vẫn luôn cười nói, khoa tay múa chân, ngồi vắt chéo chân và không coi ai ra gì; họ đặc biệt khoa trương và thậm chí kiêu ngạo, không bao giờ nhìn thẳng vào mắt bất kỳ ai khi nói chuyện mà chỉ liếc nhìn xung quanh. Làm như vậy chẳng phải là phóng đãng sao? (Thưa, phải.) Đặc biệt phóng đãng và không có chút ràng buộc nào. Tất nhiên, người ngoại đạo cũng có thể quy những lời lẽ và cử chỉ của những người này là do không có giáo dục tốt, nhưng chúng ta hiểu theo cách khác; đây không chỉ là vấn đề không có giáo dục tốt. Là người trưởng thành thì phải biết rõ làm sao để lời lẽ, cử chỉ và cách đối đãi với người khác cho đúng đắn và phù hợp – nhất là, phải biết làm như thế nào cho phù hợp với chuẩn mực của các thánh, bồi dưỡng anh chị em, và tạo nên nhân tính bình thường – mà không cần được chỉ bảo. Đặc biệt là khi sống trong đời sống hội thánh, tuy không cần phải nguỵ trang trước mặt anh chị em, nhưng phải biết ràng buộc. Vậy, thước đo và tiêu chuẩn bắt buộc của sự ràng buộc này là gì? Chính là phù hợp với chuẩn mực của các thánh. Quần áo và trang phục phải đoan trang và đứng đắn, tránh ăn mặc quái dị, phải sùng đạo trước mặt Đức Chúa Trời, không được khoa tay múa chân; tất nhiên, trước mặt người khác thì cũng phải sùng đạo và cư xử giống con người, để mọi người cảm thấy họ phù hợp, có ích và mang tính bồi dưỡng mọi người. Làm như vậy thì Đức Chúa Trời mới hài lòng. Những người phóng đãng và không ràng buộc không hề để ý đến việc sống thể hiện ra những khía cạnh cơ bản nhất của nhân tính. Một trong những lý do chắc chắn khiến họ không quan tâm đến chính là về cơ bản thì họ không biết cách trở thành một người sùng đạo hoặc người có nhân cách và danh dự, đáng được tôn trọng; họ không hiểu những điều này. Cho nên, mặc dù hội thánh đã nhiều lần quy định và yêu cầu mọi người phải ăn mặc chỉnh tề, đoan trang và đứng đắn trong các buổi tụ họp, không được ăn mặc quái dị, nhưng họ vẫn không coi trọng những quy tắc này, thường đến buổi tụ họp với đôi dép lê, đầu tóc rối bù hoặc thậm chí với bộ đồ ngủ. Đây là một trong những biểu hiện của người phóng đãng và không ràng buộc.
Một biểu hiện khác của những người phóng đãng và không ràng buộc là họ ăn mặc rất thời thượng, trang điểm đậm và bắt mắt tại các buổi tụ họp. Hai ngày trước buổi tụ họp, họ bắt đầu trang điểm và làm đẹp, suy nghĩ xem nên trang điểm như thế nào, đeo đồ trang sức gì, chọn kiểu tóc gì, mặc trang phục nào, mang túi gì và đi giày nào. Một số phụ nữ còn tô son, phấn mắt và phấn mũi rất bắt mắt, tệ hơn nữa, một số người còn ăn mặc và trang điểm theo cách bắt mắt quá mức, để lộ vai và lưng, ăn mặc quái dị. Trong các buổi tụ họp, họ không cẩn thận lắng nghe mối thông công của anh chị em, không cầu nguyện, càng không tham gia vào mối thông công hoặc chia sẻ nhận biết và chứng ngôn trải nghiệm cá nhân của mình. Thay vào đó, họ so sánh mình với mọi người, quan tâm việc ai ăn mặc đẹp hơn hay không đẹp bằng họ, ai đang mặc quần áo hiệu đặc biệt thịnh hành, ai đang mặc quần áo rẻ tiền mua ở vỉa hè, giá của chiếc vòng tay mà một người đang đeo, v.v.; họ chỉ quan tâm đến những chuyện này, thậm chí thường xuyên so sánh một cách công khai. Xét từ cách ăn mặc cũng như lời lẽ, hành vi, và cử chỉ của những người này, rõ ràng họ tham gia vào đời sống hội thánh và tiếp xúc với anh chị em không phải để hiểu lẽ thật, càng không phải để theo đuổi lối vào sự sống nhằm đạt được sự thay đổi trong tâm tính, mà là để dùng thời gian trong các buổi tụ họp nhằm khoe khoang việc hưởng thụ tiền bạc và cuộc sống vật chất của họ. Một số người mặc toàn hàng hiệu tới những nơi tụ họp để khoe khoang, thỏa mãn tối đa dục vọng về thời trang và trào lưu xã hội giữa anh chị em, dụ dỗ người khác theo đuổi những trào lưu này, cũng như khiến người khác ghen tị và xem trọng họ. Mặc dù có thể thấy một số anh chị em có vẻ mặt và thái độ phản cảm đối với họ, nhưng họ vẫn chẳng thèm ngó tới, tiếp tục làm theo ý mình, đi giày cao gót và mang túi hiệu. Thậm chí một số người còn cố tỏ ra giàu có và nhiều tiền, dùng nước hoa kém chất lượng đến các buổi tụ họp, nên sau khi họ bước vào phòng, mùi nước hoa, phấn má hồng và dầu dưỡng tóc hòa quyện tạo thành một mùi hăng và khó chịu. Nhiều người khác tức giận nhưng không dám nói ra, trông thấy là ghê tởm còn những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời thì tránh xa họ. Cho dù trang phục và cách trang điểm của họ có sang trọng hay thoải mái hơn, thì đặc điểm của những người này là lời lẽ, hành vi, cử chỉ, và lối sống của họ đặc biệt tự do và vô kỷ luật không chỉ trong các buổi tụ họp mà còn trong sự tiếp xúc hằng ngày với anh chị em hoặc trong cuộc sống thường ngày của họ. Nói một cách chính xác, họ đặc biệt phóng túng, không có bất kỳ sự ràng buộc nào. Họ không có khuôn mẫu thường xuyên nào trong cuộc sống hằng ngày; họ tuỳ ý nói những gì mình muốn, hành động tuỳ tiện và bừa phứa, không bao giờ nói về trải nghiệm cá nhân, hiếm khi chia sẻ nhận biết của mình về lời Đức Chúa Trời và hầu như không nói về những khó khăn gặp phải khi thực hiện bổn phận của mình. Họ chỉ nói về những điều gì? Trào lưu xã hội, thời trang, món ngon, cuộc sống riêng tư của những người nổi tiếng và thậm chí là các ngôi sao, cũng như những giai thoại kỳ lạ trong xã hội. Từ những bộc lộ tự nhiên này, không khó để thấy rằng những người này tin vào Đức Chúa Trời chỉ để sống qua ngày. Cuộc sống của họ tập trung hoàn toàn vào việc ăn, uống và vui chơi, thay vì vào những chuyện như sống đời sống hội thánh, thực hiện bổn phận, hoặc mưu cầu lẽ thật. Cái gọi là “phóng đãng và không ràng buộc” chính là nói đến lối sống của những người này, những gì họ sống thể hiện ra trong nhân tính, cũng như cách họ xử lý mọi chuyện, đối nhân xử thế đều phóng đãng và không ràng buộc. Họ thường bắt chước những cách nói trào lưu trong xã hội; bất kể anh chị em có thích nghe hoặc có hiểu được hay không, những người này vẫn cứ nói. Thậm chí, họ còn thường bắt chước lời của một số người nổi tiếng trong xã hội cũng như ngôi sao âm nhạc và điện ảnh. Tuy nhiên, họ chưa bao giờ quan tâm đến một số từ vựng tích cực thường được nhà Đức Chúa Trời và anh chị em sử dụng; họ không bao giờ thông công về lẽ thật trong cuộc sống hằng ngày. Những gì họ sùng bái là trào lưu thế giới; nhiều nhân vật và ngôi sao nổi tiếng là đối tượng mà họ sùng bái và bắt chước. Ví dụ, họ nhanh chóng nắm bắt được một số từ và cách nói phổ biến trên mạng và áp dụng vào cuộc sống cũng như trong các cuộc trò chuyện với anh chị em. Tất nhiên, những lời này chắc chắn không phải là tích cực hay có thể bồi dưỡng con người; những từ vựng này đều tiêu cực, không có giá trị hoặc ý nghĩa gì đối với người tin vào Đức Chúa Trời. Những cách nói trào lưu này do nhân loại bại hoại và tà ác tạo ra, hoàn toàn đại diện cho suy nghĩ và quan điểm của thế lực tà ác. Những những người không tin trong hội thánh, thích trào lưu tà ác, thường để ý, tiếp nhận và sử dụng những lời nói này. Họ hoàn toàn nghe không vào thuật ngữ và từ vựng thuộc linh của nhà Đức Chúa Trời, cũng không lắng nghe hoặc học hỏi về chúng một cách nghiêm túc. Ngược lại, họ học và sử dụng rất nhanh những thứ tiêu cực của thế giới ngoại đạo, và những thứ mà kẻ cặn bã chú ý đến. Do đó, dù xét theo cách ăn mặc bên ngoài, lời lẽ, và cử chỉ, hay theo những suy nghĩ và quan điểm cũng như thái độ đối với mọi thứ mà họ bộc lộ, thì những người này khác thường một cách đặc biệt giữa anh chị em. Khác thường có nghĩa là gì? Nghĩa là lời lẽ, hành vi, và cử chỉ của họ giống như người ngoại đạo, không hề thay đổi; họ chính là những người không tin. Ví dụ, có một số người hát hai bài thánh ca trên sân khấu nhà Chúa và được mọi người khen ngợi, vì vậy họ bắt đầu nghĩ mình là ngôi sao hoặc người nổi tiếng, luôn yêu cầu trang điểm đậm khi biểu diễn, khăng khăng phải để kiểu tóc của một người nổi tiếng nào đó và nhuộm tóc thành màu kỳ quái. Khi người khác nói: “Người tin vào Đức Chúa Trời phải ăn mặc đoan trang và đứng đắn; phong cách của anh không phù hợp với yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời” thì họ phàn nàn rằng: “Quy định của nhà đức chúa trời quá nghiêm khắc; thật sự phiền phức! Tại sao làm một ngôi sao lại khó khăn đến vậy?”. Sau khi hát xong hai bài thánh ca, họ tự cho mình là ngôi sao và nghĩ rằng mình tuyệt vời, và mỗi khi rảnh rỗi đều nghĩ: “Những ngôi sao ngoại đạo dùng bao nhiêu ngón tay để cầm micrô khi hát? Họ phải bước bao nhiêu bước để lên sân khấu? Tại sao mình hát hay như vậy mà không nhận được hoa? Các ngôi sao trên thế giới đều có người quản lý và trợ lý; họ không phải tự mình xử lý hoặc đối phó với hầu hết mọi chuyện, trợ lý của họ làm hết. Nhưng là ca sĩ trong nhà đức chúa trời, mình phải xử lý mọi chuyện vụn vặt của cuộc sống như lấy thức ăn, mặc quần áo, và mua đồ. Nhà đức chúa trời quá bảo thủ!”. Trong lòng, họ luôn cảm thấy không vui khi sống trong nhà Đức Chúa Trời, cảm thấy đặc biệt ấm ức, luôn không cam tâm và đầy phàn nàn. Những người như vậy có thể yêu mến lẽ thật không? Họ sẽ thực hành lẽ thật chứ? Tại sao họ không tự phản tỉnh? Quan điểm của họ về mọi thứ rất méo mó, giống như quan điểm của người ngoại đạo; làm sao họ không thể nhận ra? Nhà Đức Chúa Trời không ngăn cản họ trở thành một ngôi sao, nhưng liệu những quan điểm và cách làm này của họ – là của những người không tin – có thể thực hiện được trong nhà Đức Chúa Trời không? Về cơ bản là không thể có chỗ đứng. Lời lẽ và cử chỉ bình thường của họ khiến hầu hết mọi người cảm thấy khinh thường. Bởi vì những người này “suy nghĩ cởi mở” và đặc biệt phóng túng, nên những gì họ nói hoặc làm đều phóng đãng và không ràng buộc, chỉ bộc lộ tâm tính của Sa-tan.
Nhà Đức Chúa Trời nhiều lần nhấn mạnh rằng anh chị em nên phân rõ ranh giới giữa nam và nữ, và không được vướng vào người khác giới. Tuy nhiên, một số người phóng đãng và không ràng buộc thì không hề nghe theo lời khuyên này, thậm chí còn lén lút tư tình hoặc hẹn hò với người khác, gây nhiễu loạn đời sống hội thánh. Họ thích tiếp xúc với người khác giới, thậm chí tìm lý do hoặc lấy cớ để tiếp xúc và tương tác một cách vui vẻ. Khi thấy người khác giới hấp dẫn hoặc người mà họ có thể nói chuyện, họ bắt đầu lôi lôi kéo kéo, liếc mắt đưa tình, kéo quần áo và giật tóc, thậm chí ném bóng tuyết vào quần áo người đó vào mùa đông; họ đùa giỡn với nhau như động vật, không có chừng mực hay ý thức tôn trọng, không cảm thấy xấu hổ. Có một số người nói: “Sao có thể gọi là chơi đùa được? Họ đang thể hiện tình cảm; đó gọi là tình tứ, lãng mạn”. Nếu ngươi muốn lãng mạn thì đã chọn nhầm nơi rồi. Hội thánh là nơi anh chị em thực hiện bổn phận, là nơi thờ phụng Đức Chúa Trời, không phải nơi liếc mắt đưa tình. Ngươi liếc mắt đưa tình công khai như vậy trước mặt mọi người khiến hầu hết mọi người thấy phản cảm và ghê tởm. Điều quan trọng là việc này không bồi dưỡng người khác, và ngươi cũng mất đi tư cách và danh dự của mình. Ngươi bao nhiêu tuổi rồi? Ngươi không phân biệt được tay phải với tay trái sao? Ngươi không hiểu sự khác biệt giữa nam và nữ là gì sao? Thế mà ngươi vẫn liếc mắt đưa tình! Trẻ con bảy hoặc tám tuổi chơi đùa là chuyện bình thường; ở độ tuổi đó có hành động và sở thích như vậy là bình thường, nếu người lớn vẫn còn biểu hiện như vậy thì chẳng phải là trẻ con sao? Nói một cách đơn giản, thì làm như vậy thật trẻ con. Xét về thực chất thì đây là gì? (Thưa, là phóng túng và phóng đãng.) Quá phóng đãng! Tin vào Đức Chúa Trời thì phải biết xấu hổ. Ngay cả trong những người ngoại đạo, có rất ít người phóng đãng như vậy. Những người phóng đãng như vậy thật phù phiếm và hèn hạ! Họ ném bóng tuyết vào quần áo của người khác giới để gây phấn khích, không chỉ đuổi bắt và chơi đùa với họ, mà còn đá vào mông họ. Một số người vạch trần rằng việc họ làm là quá phóng đãng và không phân biệt ranh giới giữa nam và nữ, thì họ đáp trả: “Chúng tôi vì quá thân thiết nên mới chơi đùa như vậy; mọi người nên hiểu cho”. Họ phóng túng đến mức độ như vậy, không chỉ phóng túng bản thân mà còn dụ dỗ người khác cùng phóng túng với họ. Họ là thể loại gì? Các ngươi nói xem, những người như vậy có nên ở lại trong hội thánh không? (Thưa, không.) Ở gần loại người này sẽ khiến mọi người luôn không thoải mái và khó chịu. Khi gặp người khác, họ không chào hỏi theo cách thông thường, mà đến đấm người đó và nói: “Mấy năm nay anh ở chỗ quái nào thế? Tôi nghĩ anh đã bốc hơi rồi! Dạo này anh thế nào?”. Ngay cả cách họ chào hỏi cũng man rợ và kiêu ngạo, không chỉ nói năng man rợ mà còn dùng tay chân, chẳng phải giống những kẻ côn đồ hoặc kẻ cướp sao? Các ngươi có thích những người như vậy không? (Thưa, không.) Có thoải mái khi bị trêu chọc và đùa giỡn không? (Thưa, không.) Ngươi không thoải mái nhưng không thể nói ra; ngươi phải chịu đựng và tránh xa nếu thấy họ lần sau. Tóm lại, điều này nói lên điều gì về phẩm chất nhân tính của những người như vậy? (Thưa, là không tốt.) Bất kể nhìn nhận theo góc độ nào – dù là lời lẽ và cử chỉ, cách hành xử, cách họ đối nhân xử thế, cách nhìn của họ với các trào lưu ngoại đạo, hoặc cách họ tin vào Đức Chúa Trời cũng như cách họ đối đãi với Đức Chúa Trời và với lời Ngài – không khó để thấy rằng những người này không hề có chút sùng đạo hay lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Người ta cũng không thể thấy họ có bất kỳ sự chân thành nào trong việc mưu cầu hoặc tiếp nhận lẽ thật. Thứ mà mọi người thấy là sự phóng đãng và không ràng buộc của họ, việc họ liên tục bắt chước các ngôi sao và thần tượng, cũng như việc họ không có ý định quay lại dù lẽ thật được thông công như thế nào. Những đặc điểm về nhân tính của họ có thể được tóm tắt như thế nào? Phóng đãng và không ràng buộc. Cho nên, chúng ta có thể khẳng định rằng họ là những người ngoại đạo đã chui vào nhà Đức Chúa Trời; họ là những người không tin.
Người phóng đãng và không ràng buộc sử dụng những từ giống như những kẻ thổ phỉ và lưu manh ngoại đạo; họ đặc biệt thích bắt chước cách nói và phong cách của các ngôi sao và nhân vật tiêu cực trong xã hội, hầu hết ngôn ngữ của họ đều mang bản tính côn đồ, giống như những gì một kẻ lưu manh hoặc tên vô lại sẽ nói. Ví dụ, một người ngoại đạo đến, sau khi gõ cửa thì thốt ra vài lời kỳ quái, anh chị em nghe thấy và nói: “Có gì đó không đúng; tại sao người này có vẻ giống một giáp điệp hoặc đặc vụ?”. Mặc dù lúc đó họ không thể chắc chắn, nhưng hầu hết mọi người đều cảm thấy bất an trong lòng. Tuy nhiên, người phóng đãng và không ràng buộc lại nói một cách rất hùng hồn, và có khí thế rằng: “Gián điệp ư? Đừng sợ! Tạo sao phải sợ họ? Nếu sợ thì anh không phải ra ngoài. Để tôi xem có chuyện gì”. Hãy xem họ can đảm và hăng hái làm sao. Các ngươi có nói như vậy không? (Thưa, không. Đây không phải là những gì một người bình thường sẽ nói, mà giống những gì một kẻ thổ phỉ sẽ nói.) Kẻ thổ phỉ nói khác với người bình thường; họ đặc biệt thô lỗ. Người thuộc loại nào thì học ngôn ngữ thuộc loại đó; người trong xã hội đặc biệt sử dụng ngôn ngữ thịnh hành trong xã hội, kẻ thổ phỉ và lưu manh thích nói tiếng lóng của họ, và người không tin cũng giống như người ngoại đạo, nói mọi thứ mà người ngoại đạo nói. Những người tốt, đoan trang, đứng đắn cảm thấy ghê tởm và chán ghét khi nghe thấy lời nói của người ngoại đạo; không ai trong số họ cố gắng bắt chước loại lời nói đó. Một số người không tin, ngay cả sau khi tin mười hoặc hai mươi năm, vẫn dùng ngôn ngữ của người ngoại đạo, đặc biệt lựa chọn lời nói như vậy, và trong khi nói thì họ thậm chí còn bắt chước cử chỉ, ánh mắt, thần thái cũng như điệu bộ của người ngoại đạo. Liệu những người như vậy có thể khiến anh chị em trong hội thánh vừa mắt không? (Thưa, không.) Hầu hết anh chị em đều không thấy vừa mắt và trong lòng không thoải mái khi nhìn thấy họ. Các ngươi nghĩ Đức Chúa Trời cảm thấy như thế nào về họ? (Thưa, thấy chán ghét.) Câu trả lời rất rõ ràng: chán ghét. Xét từ cách họ sống thể hiện ra, mục tiêu họ theo đuổi, cũng như những người, sự việc và sự vật mà họ sùng bái trong lòng, thì rõ ràng nhân tính của họ không đoan trang hay đứng đắn, còn lâu mới đạt đến sự sùng đạo và phù hợp với chuẩn mực của các thánh. Thật hiếm khi nghe từ miệng họ những lời mà người tin vào Đức Chúa Trời hoặc các thánh nên nói, những lời bồi dưỡng người khác cũng như những lời có nhân cách và danh dự; rất khó để nghe được những lời này. Những gì họ sùng bái, khao khát, và theo đuổi trong lòng về cơ bản là không phù hợp với những gì các thánh nên theo đuổi và khao khát, nên rất khó để ràng buộc những gì họ sống thể hiện ra bên ngoài, lời lẽ và cử chỉ của họ. Nếu yêu cầu họ phải bị ràng buộc, không phóng đãng hay phóng túng, cũng như trở nên đoan trang và đứng đắn thì họ sẽ rất khó đạt được. Chưa nói đến việc sống như một người có nhân tính và lý trí, hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, họ thậm chí còn không thể là một người bình thường có nhân cách và danh dự, phù hợp với chuẩn mực của các thánh, hiểu quy tắc và có vẻ lý trí ở bề ngoài. Trước đây, có một người về nông thôn để rao truyền phúc âm. Khi thấy một số anh chị em có điều kiện gia đình nghèo khó và sống trong những ngôi nhà tồi tàn, ông ta đã mỉa mai và chế giễu rằng: “Ngôi nhà này đổ nát quá, không thích hợp cho người ở; làm chuồng lợn thì còn được. Mau dọn ra ngoài thôi!”. Anh chị em đáp lại: “Dọn ra thì dễ, nhưng ai sẽ cho chúng tôi ngôi nhà khác để ở?” Ông ta nói mà không nghĩ đến hậu quả và nói bừa phứa, nói bất cứ điều gì mình muốn mà không cân nhắc đến ảnh hưởng có thể có đối với người khác. Đây chính là bản tính côn đồ. Khi anh chị em nói: “Khi chúng tôi dọn ra, ai sẽ cho chúng tôi một ngôi nhà để ở?”, thì ông ta không nói gì cả. Khi thấy mọi người gặp khó khăn, ông ta phải giải quyết được khó khăn của họ trước khi nói. Việc ông ta nói bừa bãi mà không giải quyết được khó khăn của họ thì có hậu quả gì? Đây có phải là vấn đề của sự thẳng thắn và bộc trực quá mức không? Hoàn toàn không. Vấn đề là bản tính côn đồ của ông ta quá nghiêm trọng; ông ta phóng đãng và không ràng buộc. Loại người này hoàn toàn không hiểu gì về nhân cách, danh dự, sự thông cảm, bao dung, bảo vệ, tôn trọng, thấu hiểu, đồng cảm, thương xót, săn sóc, giúp đỡ, v.v. Những phẩm chất thiết yếu đối với nhân tính bình thường này là những gì con người nên có. Họ không những không có các phẩm chất này, mà khi tiếp xúc người khác, khi thấy người gặp khó khăn, họ còn cười nhạo, chế giễu, châm biếm, và chê cười. Họ không chỉ không có khả năng hiểu hoặc giúp đỡ mọi người mà còn có thể mang lại nỗi buồn, sự bất lực, đau khổ, và thậm chí là phiền phức cho mọi người. Đối với những người có bản tính côn đồ nghiêm trọng như vậy, hầu hết mọi người đều thấy rõ ràng và chịu đựng họ nhiều lần. Các ngươi nói xem, những người như vậy có thể thực sự ăn năn không? Ta không nghĩ là dễ đâu. Xét từ bản tính và thực chất của họ, họ không phải những người yêu mến lẽ thật, vậy làm sao họ có thể tiếp nhận sự tỉa sửa và sửa dạy? Khi mô tả loại người này, người ngoại đạo có những từ ngữ như “làm theo ý mình” hoặc “đi con đường của mình, mặc kệ người khác nói gì” – đây là loại logic vô lý nào vậy? Những câu nói và thành ngữ được gọi là nổi tiếng này thường được coi là những điều tích cực trong xã hội này, đây là một sự bóp méo sự thật và đảo ngược đúng sai. Về biểu hiện trong nhân tính của những người phóng đãng và không ràng buộc, thì về cơ bản là bao gồm điều này.
Bất kể những người phóng đãng và không ràng buộc này có ảnh hưởng đến đời sống hội thánh, các mối quan hệ bình thường giữa anh chị em, hay việc thực hiện các bổn phận bình thường của người được Đức Chúa Trời chọn hay không, miễn là các biểu hiện và sự bộc lộ về nhân tính của họ gây ra ảnh hưởng và hậu quả xấu, làm nhiễu loạn anh chị em, thì những vấn đề như vậy cần được giải quyết, những người như vậy cần được xử lý thích đáng, không được để mặc họ. Đối với những trường hợp nhỏ, chúng ta có thể giúp đỡ và hỗ trợ họ, hoặc tỉa sửa và cảnh cáo họ. Đối với những trường hợp nghiêm trọng, nếu hành vi và cử chỉ của họ đặc biệt phóng đãng, giống như của người ngoại đạo hoặc người không tin, không có chút chuẩn mực nào của thánh, thì lãnh đạo và người làm công trong hội thánh nên đưa ra những giải pháp tương ứng để xử lý những người này. Nếu phần lớn anh chị em đồng ý và điều kiện cho phép, thì nên thanh trừ những người này; ít nhất, không nên cho phép họ ở lại hội thánh toàn thời gian để thực hiện bổn phận của mình. “Đối với những trường hợp nhỏ” đề cập đến điều gì? Nghĩa là một số người mới tin vào Đức Chúa Trời, ban đầu là người ngoại đạo, chưa từng tin vào Cơ Đốc giáo và không hiểu tin vào Đức Chúa Trời có nghĩa là gì. Lời lẽ và cử chỉ của họ cho thấy tập tính của người ngoại đạo. Tuy nhiên, qua việc đọc lời Đức Chúa Trời, thông công lẽ thật, và sống đời sống hội thánh, họ dần dần quay lại và thay đổi, trở nên giống như những người tin vào Đức Chúa Trời, có chút giống con người. Không nên xếp những người này vào hàng ngũ kẻ ác, nhưng họ có thể được giúp đỡ. Loại thứ hai là những người trẻ tuổi khoảng hai mươi tuổi. Mặc dù đã tin vào Đức Chúa Trời ba đến năm năm, nhưng họ vẫn ham chơi, không ổn định lắm, lời nói và cử chỉ bề ngoài của họ có chút trẻ con – cách nói, hành vi, và cách làm của họ giống như trẻ con – v.v., bởi vì họ vẫn còn trẻ. Với những người này, chúng ta nên giúp đỡ và hỗ trợ họ bằng tình yêu thương, cho họ đủ thời gian để thay đổi dần dần mà không áp đặt những yêu cầu quá nghiêm ngặt. Tất nhiên, nếu người trưởng thành đã tin vào Đức Chúa Trời trong nhiều năm, nhưng lời lẽ, cử chỉ, hành vi, và biểu hiện của họ vẫn phóng đãng và không ràng buộc như những người ngoại đạo, dạy mãi không sửa, thì phải tiếp cận theo cách khác; phải xử lý họ theo quy định của nhà Đức Chúa Trời. Nếu lời lẽ, cử chỉ, và sự bộc lộ về nhân tính của người này làm nhiễu loạn phần lớn mọi người và tạo ra ảnh hưởng xấu trong hội thánh, khiến nhiều người thấy phản cảm khi nhìn thấy họ, không muốn nghe họ nói, không muốn nhìn thấy biểu cảm của họ khi họ nói, cũng không muốn nhìn thấy cách họ ăn mặc, và hầu hết mọi người đều thấy vui vẻ hơn, ở trạng thái tốt hơn khi những người như vậy không tham dự các buổi tụ họp, chỉ cần những người này tham gia đời sống hội thánh, gia nhập vào anh chị em, thì đa số mọi người sẽ cảm thấy không thoải mái và phản cảm, như thể có con rệp đang gây nhiễu loạn họ, thì những người như vậy chắc chắn là kẻ ác. Nghĩa là, bất cứ khi nào họ sống đời sống hội thánh và thực hiện bổn phận của mình với anh chị em, thì hầu hết mọi người đều cảm thấy bị làm nhiễu loạn và đặc biệt phản cảm. Trong những trường hợp như vậy, người này nên được xử lý càng sớm càng tốt, không nên để mặc họ làm gì tuỳ thích hay tiếp tục chú ý quan sát họ. Ít nhất, chúng ta nên thanh lọc họ khỏi hội thánh toàn thời gian và gửi họ đến một hội thánh bình thường để họ hối cải. Tại sao lại xử lý theo cách này? (Thưa, họ đã gây ra sự nhiễu loạn và hậu quả xấu cho hầu hết mọi người, làm nhiễu loạn đời sống hội thánh.) Bởi vì hậu quả và ảnh hưởng của những biểu hiện của họ quá tồi tệ! Theo đó, lãnh đạo và người làm công, cũng như người được Đức Chúa Trời chọn, không nên nhắm mắt làm ngơ và một mực dung túng cho hành vi của họ. Việc lãnh đạo và người làm công không xử lý ngay cả khi những người như vậy gây nhiễu loạn cho phần lớn mọi người là không phù hợp; những người này phải bị thanh lọc khỏi hội thánh theo quy định của nhà Đức Chúa Trời. Đây là lựa chọn sáng suốt nhất.
Hội thánh đã từng xử lý những người phóng đãng và không ràng buộc chưa? (Thưa, đã từng.) Khi những người như vậy bị xử lý, một số người đã khóc và nói rằng: “Tôi không cố ý. Tôi chỉ thỉnh thoảng có biểu hiện như vậy thôi; tôi không phải là loại người đó. Xin hãy cho tôi một cơ hội nữa! Nếu không được phép thực hiện bổn phận của mình, tôi sẽ không thể tin vào đức chúa trời khi tôi trở về nhà, mọi người ở nhà đều là người ngoại đạo”. Họ nói rất dễ nghe và có vẻ thực sự đau khổ, nói rằng mình không cam lòng rời xa Đức Chúa Trời và cầu xin nhà Đức Chúa Trời cho họ một cơ hội khác để hối cải. Cho họ thêm một cơ hội nữa cũng được thôi, nhưng điều quan trọng là họ có thể thay đổi hay không. Nếu thấy rõ rằng người này không có chút nhân tính nào, không có lương tâm hay lý trí, về cơ bản họ là thứ không có tâm và không có linh, thì không nên cho họ cơ hội khác; làm như vậy sẽ vô ích. Tuy nhiên, nếu bản chất của người này là tốt, chỉ là nhân tính của họ chưa trưởng thành do tuổi còn trẻ, và họ chắc chắn sẽ thay đổi trong vài năm nữa, thì phải cho họ cơ hội để hối cải và tuyệt đối không được thanh lọc họ khỏi hội thánh; không thể huỷ hoại bất kỳ người tốt nào. Một số người sinh ra đã là người không tin, sinh ra đã là thứ phóng đãng, vô tri, và ngu muội, sinh ra thì trong nhân tính đã không có khái niệm liêm sỉ, không biết xấu hổ là gì. Một số người sau khi làm chuyện không lịch sự ở nơi công cộng thì cảm thấy hối hận và xấu hổ khi gặp người khác. Hơn nữa, khi họ muốn làm những chuyện như vậy, họ có thể cân nhắc đến cảm xúc và cách nhìn của anh chị em, cũng như nhân cách và danh dự của chính mình, và họ sẽ không làm như vậy; họ có lẽ sẽ chỉ làm ầm ĩ ở nhà với con cái hoặc anh chị em của mình. Khi ra ngoài và tiếp xúc với người lạ, con người phải biết thế nào là liêm sỉ, thể diện, quy tắc, và danh dự. Liệu một người không hiểu những khái niệm này có thể thay đổi ngay cả khi ngươi giúp đỡ không? Ngay cả bây giờ họ bị ràng buộc, thì họ có thể chịu được bao lâu? Chẳng bao lâu sau, họ lại ngựa quen đường cũ. Bởi vì nhân tính của những người này không có danh dự và liêm sỉ, không hiểu quy tắc, thể diện, hay chuẩn mực của thánh là gì, và nhân tính của họ sinh ra đã không có những phẩm chất này, nên ngươi không thể nào giúp đỡ họ. Người không ai giúp đỡ được là người không thể thay đổi, không thể giáo dục hay cảm hoá. Những người như vậy phải được thanh lọc càng sớm càng tốt, để họ không gây nhiễu loạn giữa anh chị em, không làm mất mặt ở đây. Nhà của Đức Chúa Trời không cần bất kỳ ai chỉ để cho đủ số lượng. Nếu Đức Chúa Trời không cứu rỗi người nào, thì họ đến cho đủ số lượng cũng vô ích. Những người không được Đức Chúa Trời công nhận thì nên bị thanh trừ – người không nên ở lại nhà Đức Chúa Trời thì nên bị thanh lọc nhanh chóng, đừng để sự xuất hiện của họ ảnh hưởng xấu đến nhiều người khác, như vậy sẽ không công bằng với phần lớn mọi người. Nếu ngươi nhìn thấu thực chất của những người phóng đãng và không ràng buộc, thì ngươi nên xử lý và thanh trừ họ càng sớm càng tốt, thay vì một mực dung túng họ. Một số người nói: “Thỉnh thoảng họ cũng mang lại một số kết quả khi thực hiện bổn phận của mình. Phương diện công tác đó vẫn cần họ. Họ cũng có chút tình yêu thương và có thể trả một cái giá nhỏ”. Trong số những người còn lại trong nhà Đức Chúa Trời, ai không thể trả một cái giá nhỏ? Ai không thể đạt được kết quả nào đó khi thực hiện bổn phận của mình? Nếu ai cũng có thể mang lại một vài kết quả, thì tại sao không chọn những người tốt, đoan trang và đứng đắn để thực hiện bổn phận? Tại sao phải khăng khăng giữ những loại người côn đồ, thổ phỉ, và nóng tính trong hội thánh toàn thời gian để họ gây nhiễu loạn? Tại sao phải khăng khăng giữ những người không tin sống như người ngoại đạo để họ đem sức lực phục vụ trong nhà Đức Chúa Trời? Nhà Đức Chúa Trời không thiếu người đem sức lực phục vụ; nhà Đức Chúa Trời chỉ muốn những người trung thực yêu mến lẽ thật, những người ngay thẳng, và những người có thể mưu cầu lẽ thật, dâng mình cho Đức Chúa Trời.
Hầu hết những người hiện đang thực hiện bổn phận của mình đều tin vào Đức Chúa Trời hơn năm hoặc sáu năm, và đủ loại người đã bị vạch trần hoàn toàn trong khi họ thực hiện bổn phận của mình – người không tin, người hồ đồ, lãnh đạo giả, kẻ ác, và kẻ địch lại Đấng Christ đều đã bị vạch trần. Nhiều người được Đức Chúa Trời chọn đã thấy rõ rằng hầu hết những người này đều dạy mãi không sửa, và đã gây ra sự nhiễu loạn và gián đoạn nghiêm trọng cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Đã đến lúc thanh lọc những người không tin, kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ này. Việc không thanh lọc họ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động trong công tác của hội thánh và việc rao truyền phúc âm vương quốc của Đức Chúa Trời. Việc không thanh lọc họ sẽ ảnh hưởng đến lối vào sự sống của người được Đức Chúa Trời chọn; đời sống hội thánh sẽ tiếp tục bị làm nhiễu loạn và bất an. Cho nên, lãnh đạo và người làm công của hội thánh ở mọi cấp độ nên bắt đầu thanh lọc hội thánh theo tâm ý của Đức Chúa Trời và dựa vào lời Đức Chúa Trời. Ta thấy khá nhiều người không có nhân tính. Trong các buổi tụ họp, một số người thể hiện đủ mọi hành vi không đứng đắn, và không có cử chỉ đúng mực dù ngồi hay đứng. Trà, điện thoại di động, kem dưỡng da và nước hoa được chuẩn bị sẵn bên cạnh họ. Một số người thích trông xinh đẹp thì liên tục xem ngoại hình của mình trong gương và dặm lại lớp trang điểm, những người khác thì luôn uống nước, lướt điện thoại để đọc tin tức hoặc xem video ngoại đạo, ngồi vắt chéo chân khi nói và trò chuyện với mọi người, uốn cong cơ thể thành hai khúc như con rắn, và thậm chí không có hình dạng phù hợp. Ta cũng nghe nói rằng một số người về phòng ngủ vào ban đêm, nằm trên giường mà không cởi giày, ngủ đến lúc bình minh. Sáng sớm mở mắt ra, họ không cầu nguyện hay tĩnh nguyện, mà việc đầu tiên là xem tin tức trên điện thoại di động. Trong giờ ăn, khi thấy món ngon, hoặc khi thấy thịt, họ sẽ ăn ngấu nghiến, không quan tâm người khác có được ăn hay không, miễn là họ no bụng, rồi lại đi ngủ ngay. Họ không cư xử như con người trong mọi chuyện mình làm, họ phóng đãng và không ràng buộc như người ngoại đạo, không có quy tắc nào cả, cũng không nghe lời hay thuận phục gì cả, chỉ giống như súc vật. Các ngươi nói xem, liệu loại người có bản tính côn đồ nghiêm trọng như vậy có thể được cứu rỗi không? (Thưa, không.) Vậy thì việc họ tin vào Đức Chúa Trời có ý nghĩa gì không? Tố chất của họ kém đến nỗi không đủ trình độ để hiểu lẽ thật, liệu họ có thể hiểu lời Đức Chúa Trời khi đọc lời Ngài không? Họ không có bất kỳ nguyên tắc làm người nào, thì việc họ đem sức lực phục vụ có đạt tiêu chuẩn không? Không có lương tâm và lý trí, liệu họ có thể tiếp nhận khi nghe bài giảng đạo và nghe mối thông công về lẽ thật không? (Thưa, không.) Những người có biểu hiện như vậy về cơ bản là không có chút nhân tính nào, làm sao họ có thể đạt được lẽ thật? Người không có nhân tính là súc vật, là ma quỷ, là người chết không có linh, không thể hiểu được lẽ thật, cũng không xứng đáng để nghe lẽ thật. Bắt họ hiểu lẽ thật và đạt được lẽ thật giống như việc bắt một con cá sống trên cạn hoặc bắt lợn phải bay – điều đó là không thể! Trước đây, khi nói về những loại người là súc vật, từ “chó” thường được đặt trước từ “súc vật”, gọi là “chó súc vật”. Sau này, thông qua việc nuôi chó và tiếp xúc gần gũi với chó, Ta phát hiện ra rằng chó có những điều tốt nhất mà con người không có: Chúng biết quy tắc, nghe lời và có liêm sỉ. Ngươi giới hạn phạm vi hoạt động của chúng, thì chúng sẽ chỉ hoạt động trong phạm vi đó, và không có ngoại lệ, chúng tuyệt đối sẽ không đến những nơi ngươi cấm chúng đến. Nếu vô tình vượt qua ranh giới, chúng sẽ nhanh chóng rút lui, vẫy đuôi liên tục, cầu xin sự tha thứ và thừa nhận lỗi lầm của mình. Liệu con người có đạt được điều này không? (Thưa, không.) Con người không thể đạt được. Mặc dù chó có thể không hiểu nhiều như con người, nhưng chúng hiểu một điều: “Đây là lãnh thổ của chủ nhân, và là nhà của chủ nhân. Mình sẽ đến những nơi chủ nhân cho đi và không đến những nơi chủ nhân không cho phép”. Ngay cả khi bị đánh, chúng cũng không đến nơi đó; chúng có lòng tự trọng. Ngay cả chó cũng có liêm sỉ, tại sao con người không có? Xếp những người không có liêm sỉ vào hàng ngũ súc vật thì có quá đáng không? (Thưa, không.) Không quá đáng chút nào; hầu hết mọi người còn không có những điểm mạnh của loài chó. Từ nay về sau, khi nói một số người là súc vật, chúng ta không thể gọi họ là “chó súc vật” nữa; làm như vậy sẽ sỉ nhục loài chó, vì những người này, những súc vật này, thậm chí còn tệ hơn cả chó. Cho nên, một khi những người này gây nhiễu loạn đời sống hội thánh hoặc việc thực hiện bổn phận của anh chị em, thì phải nhanh chóng thanh trừ họ – điều này là hợp tình hợp lý, và không hề quá đáng. Làm như vậy không phải là không có tình yêu thương, mà là hành động theo nguyên tắc. Ngay cả khi những người phóng đãng và không ràng buộc này thực hiện bổn phận của mình một cách hiệu quả, thì liệu họ có được cứu rỗi không? Họ có phải là người tiếp nhận lẽ thật không? Làm sao họ có thể tiếp nhận lẽ thật khi thậm chí không thể ràng buộc hành vi của chính mình? Họ không giữ được nhân cách và danh dự thì làm sao có thể bước vào thực tế lẽ thật? Điều đó là không thể. Cho nên, xử lý những người này theo cách như vậy là không hề quá đáng, hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc và hoàn toàn vì mục đích bảo vệ người được Đức Chúa Trời chọn khỏi sự nhiễu loạn mà Sa-tan gây ra. Tóm lại, khi phát hiện những người này thì nên xử lý họ theo một số nguyên tắc Ta vừa nêu. Xếp loại người thực sự phóng đãng và không ràng buộc, và người thực sự phóng túng trong xác thịt mà không có chuẩn mực nào của thánh, vào người ngoại đạo và người không tin, thì có quá đáng không? (Thưa, không.) Vì họ bị xếp vào người ngoại đạo và người không tin, nên việc đưa họ vào hàng ngũ những loại kẻ ác mà hội thánh nên thanh trừ cũng không hề quá đáng. Người không thể ràng buộc hành vi và cử chỉ của mình thì chắc chắn không thể tiếp nhận lẽ thật. Chẳng phải người không thể tiếp nhận lẽ thật là kẻ thù của lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Phân loại những người là kẻ thù của lẽ thật là kẻ ác thì có quá đáng không? (Thưa, không.) Không hề quá đáng. Cho nên, các nguyên tắc xử lý họ là hoàn toàn phù hợp.
D. Thích trả thù
Chúng ta đã kết thúc mối thông công về các biểu hiện của loại người thứ ba – những người phóng đãng và không ràng buộc. Ngoài những người thuộc loại này, còn có rất nhiều người khác thuộc loại kẻ ác, và hội thánh nên phân định cũng như thanh trừ tất cả những loại kẻ ác này. Tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về loại người thứ tư. Trong số những kẻ ác mà hội thánh nên phân định và thanh trừ, loại người thứ tư là sự thách thức và phiền phức đáng kể. Những người này có thể là ai? Họ là người thích trả thù. Xét từ cụm từ “thích trả thù”, rõ ràng những người này không phải là người tốt; nói một cách thông tục, họ là kẻ xấu. Xét từ những biểu hiện và sự bộc lộ nhất quán về nhân tính của họ, cũng như nguyên tắc trong hành động của họ, thì tấm lòng của họ không lương thiện. Theo câu nói trong nhân gian, họ “không tốt đẹp gì”. Chúng ta nói rằng họ không phải loại người lương thiện; cụ thể hơn, họ không có tấm lòng lương thiện mà mang sự hung ác, độc ác, và tàn nhẫn. Một khi có người nói hoặc làm gì động chạm đến lợi ích, thể diện, hay địa vị của họ hoặc đắc tội với họ, thì một mặt, họ sẽ thù địch trong lòng, nhưng mặt khác, họ sẽ hành động dựa trên sự thù địch này. Mục tiêu và phương hướng của hành động của họ là trút giận và giải tỏa cơn giận, và hành vi này được gọi là trả thù. Luôn có những người như thế này trong số mọi người. Bất kể mọi người gọi họ là hẹp hòi thiển cận, bạo ngược hay quá nhạy cảm, bất kể dùng từ nào để mô tả hay khái quát nhân tính của họ, thì biểu hiện chung của họ khi tương tác với những người khác là bất cứ ai vô tình hay cố ý làm tổn thương hoặc đắc tội với họ thì phải chịu và tai ương và nhận hậu quả tương ứng. Giống như một số người nói: “Đắc tội với họ thì sẽ không gánh nổi hậu quả. Nếu động chạm hoặc làm tổn thương họ, thì đừng nghĩ đến việc dễ dàng trốn thoát”. Có những người như vậy trong đám đông không? (Thưa, có.) Chắc chắn là có. Bất kể chuyện gì xảy ra, bất kể chuyện đó có đáng để tức giận hay tính toán không, những người thích trả thù này đều đưa vào chuyện cần giải quyết hằng ngày của mình, và coi đó là chuyện quan trọng hàng đầu. Bất kể ai đắc tội với họ thì cũng không được, và họ đều muốn đối phương phải trả giá tương ứng. Đây chính là nguyên tắc của họ khi đối đãi với mọi người, đối đãi với bất kỳ ai mà họ coi là kẻ thù. Ví dụ, trong đời sống hội thánh, một số người thông công về tình hình của bản thân hoặc thông công và chia sẻ trải nghiệm của mình một cách bình thường. Khi nói về tình hình và sự bại hoại của mình, những người này vô tình liên quan đến tình hình và sự bại hoại của người khác. Người nói có thể vô ý nhưng người nghe thì cố tình. Sau khi nghe, người này không thể đón nhận hoặc đối đãi một cách đúng đắn, và họ dễ dàng nảy sinh tâm lý trả thù. Nếu họ không bỏ qua chuyện này, khăng khăng tấn công và trả thù, thì sẽ gây phiền phức cho công tác của hội thánh, nên phải chuyện này phải được xử lý kịp thời. Chừng nào hội thánh còn kẻ ác thì chắc chắn sẽ nảy sinh sự nhiễu loạn, nên không được dễ dàng bỏ qua khi kẻ ác làm nhiễu loạn hội thánh. Dù ngươi có cố ý hay không, chỉ cần ngươi động chạm hoặc làm tổn thương họ, họ sẽ không dễ dàng bỏ qua cho ngươi. Họ nghĩ: “Anh nói về sự bại hoại của anh, thì nói về tôi làm gì? Anh nói về sự nhận biết của chính mình, tại sao lại vạch trần tôi? Anh vạch trần sự bại hoại của tôi khiến tôi mất mặt, mất danh dự, xấu hổ trước anh chị em, mất uy tín và huỷ hoại danh tiếng của tôi. Vậy thì, tôi sẽ trả thù anh; anh sẽ không gánh nổi hậu quả! Đừng nghĩ rằng tôi dễ bắt nạt. Đừng nghĩ rằng anh có thể bắt nạt tôi chỉ vì điều kiện gia đình tôi không tốt và tôi có địa vị xã hội thấp. Đừng nghĩ tôi hiền lành; tôi không phải người dễ động vào!”. Chúng ta không nói đến việc họ thực hiện hành vi trả thù như thế nào; hãy chỉ xem xét bản thân những người này: Khi họ gặp những chuyện nhỏ như vậy – những chuyện bình thường trong đời sống hội thánh – họ không chỉ không đối đãi hay đón nhận đúng đắn, mà còn nảy sinh sự thù hận và chờ thời cơ để trả thù, thậm chí dùng mọi thủ đoạn để trả thù. Loại người này có nhân tính như thế nào? (Thưa, là độc ác.) Họ có phải là người lương thiện không? (Thưa, không.) Loại người tốt nhất là những người có thể tiếp nhận lẽ thật. Khi họ nghe thấy người khác thông công và chia sẻ trải nghiệm, họ nghĩ: “Mình cũng có sự bại hoại này. Những gì họ nói có vẻ giống như tình hình của mình. Cho dù họ cố tình vạch trần mình hay vô tình nói về điều gì đó tương tự với tình hình của mình, thì mình cũng sẽ đón nhận một cách đúng đắn – mình sẽ nghe xem họ đã trải nghiệm như thế nào, cách họ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tình hình này, cũng như cách họ thực hành và bước vào ra sao”. Đây là người thực sự tiếp nhận lẽ thật. Người kém cỏi hơn đôi chút khi nghe thấy điều này có thể nghĩ: “Sao tâm tính bại hoại mà họ nhận biết lại giống tình hình của mình như vậy? Họ đang nói về mình sao? Thôi thì cứ để họ nói. Dù sao mình cũng không tổn thất gì, và hầu hết mọi người có lẽ cũng không biết. Có thể họ chỉ đang nghĩ về chính họ, và chẳng qua là trùng hợp với tình hình của mình; mọi người đều có tình hình như nhau”. Họ không coi đó là chuyện quan trọng, trong lòng cũng không nảy sinh sự thù hận hay tâm lý trả thù. Tuy nhiên, đối với kẻ ác, không lương thiện thì khác. Cùng một chuyện đó, những người khác sẽ coi là bình thường, xử lý và đối đãi với chuyện này một cách phù hợp. Tất nhiên, những người tốt, tiếp nhận lẽ thật, sẽ giải quyết chuyện này một cách tích cực và chủ động. Những người bình thường, mặc dù không dùng cách tích cực để giải quyết chuyện này, nhưng họ không nảy sinh sự thù hận, càng không trả thù. Nhưng đối với những người không lương thiện, thì chuyện thông thường và hoàn toàn bình thường có thể khiến họ sôi sục trong lòng, không thể bình tĩnh. Những thứ nảy sinh từ họ không tích cực hay bình thường mà là hung ác và tà ác; họ trả thù. Nguyên nhân trả thù là gì? Họ cho rằng mọi người cố tình vu khống ác ý, vạch trần những tình huống thực tế về họ, cũng như bộ mặt xấu xa và sự bại hoại của họ. Họ coi những gì mọi người nói là cố ý, cho nên coi những người đó là kẻ thù. Sau đó, họ cảm thấy có lý khi sử dụng sự trả thù để giải quyết mọi chuyện, dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để đạt được mục đích trả thù của mình. Đây chẳng phải là tâm tính hung ác sao? (Thưa, phải.) Trong đời sống hội thánh, khi anh chị em nói về tình hình của mình, hầu hết người nghe đều có thể đồng cảm và tiếp nhận từ Đức Chúa Trời. Chỉ những người chán ghét lẽ thật, có tâm tính tà ác thì mới nảy sinh sự thù địch và thậm chí tâm lý trả thù sau khi nghe, bộc lộ hoàn toàn thực chất bản tính của họ. Một khi nảy sinh tâm lý trả thù, một loạt các hành vi và hành động trả thù sẽ theo sau. Điều gì sẽ xảy ra với mối quan hệ giữa mọi người khi hành vi trả thù diễn ra? Mối quan hệ không còn chính đáng nữa. Ai là nạn nhân thực sự trong chuyện này? (Thưa, người mà họ trả thù.) Đúng vậy. Nạn nhân thực sự là những người thông công lời chứng trải nghiệm của mình. Những người thích trả thù này sau đó sẽ dùng lời nói hoặc hành động trong nhiều trường hợp khác nhau để xét đoán, tấn công, thậm chí là hãm hại hoặc bôi nhọ những người mà họ cho là đã vạch trần và thù địch với họ. Những người thích trả thù này không chỉ có sự thù hận chốc lát trong lòng là xong; họ tìm mọi thời cơ và thậm chí còn tạo ra mọi thời cơ để trả thù những người mà họ muốn trả thù, những người họ thù địch, và những người mà họ cho là bất lợi đối với họ. Ví dụ, trong cuộc bầu cử lãnh đạo, nếu người họ thù địch phù hợp với nguyên tắc dùng người của nhà Đức Chúa Trời và đủ tư cách để được lựa chọn làm lãnh đạo, nhưng vì thù địch người đó nên họ sẽ xét đoán, lên án, và tấn công người đó. Họ thậm chí có thể làm chuyện mờ ám sau lưng hoặc làm chuyện gây bất lợi cho người đó để trả thù. Tóm lại, họ có rất nhiều thủ đoạn để trả thù. Ví dụ, họ có thể tìm những thứ để nắm thóp và nói xấu ai đó, bịa đặt về người đó bằng cách thêm mắm thêm muối và nói vô căn cứ, hoặc gây xích mích giữa người đó và những người khác. Thậm chí, họ còn vu cáo người đó trước lãnh đạo, nói rằng người này không trung thành, tiêu cực và chống đối khi thực hiện bổn phận. Trên thực tế, tất cả những điều này đều là cố ý bịa đặt, nói không thành có. Ngươi thấy đấy, vì sự nghi ngờ và hiểu lầm người đó, họ đã nảy sinh rất nhiều hành vi và hành động không đúng đắn; tất cả những cách này đều nảy sinh từ bản tính thích trả thù của họ. Trên thực tế, khi người đó chia sẻ lời chứng trải nghiệm thì không hề nhắm vào họ; không có chút ác ý nào đối với họ. Chỉ vì họ chán ghét lẽ thật và có tâm tính hung ác thích trả thù nên không cho phép bất kỳ ai vạch trần họ, cũng không cho phép người khác nói về việc nhận biết chính mình, nói về tâm tính bại hoại, hoặc nói về bản tính Sa-tan của một người. Khi nghe mọi người nói về những chủ đề này, họ nổi nóng và nghĩ rằng mọi người đang nhắm vào và vạch trần họ, cho nên họ nảy sinh và hình thành tâm lý trả thù. Biểu hiện của loại người thực hiện việc trả thù này không chỉ giới hạn ở một trường hợp. Tại sao Ta nói như vậy? Bởi vì những người này có bản tính hung ác; không ai có thể động vào hoặc khiêu khích họ. Họ vốn có bản tính hung hăng đối với bất kỳ ai và bất kỳ thứ gì, giống như bọ cạp hay rết. Cho nên, dù lời nói của ai đó có động chạm hoặc làm tổn thương họ theo cách cố ý hay vô ý, chỉ cần họ cảm thấy mất mặt hoặc mất uy tín, thì họ sẽ tìm mọi cách để cứu vãn thể diện và uy tín của mình, điều này sẽ nảy sinh một loạt hành vi trả thù.
Tiếp theo, Ta sẽ thông công các biểu hiện khác của những người thích trả thù. Bị lãnh đạo tỉa sửa vì đã thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, một số người đã trở nên bất mãn. Các ngươi nói xem, việc tỉa sửa họ có chính đáng không? (Thưa, có.) Hoàn toàn chính đáng và bình thường. Nếu ngươi thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, gây tổn hại đến công tác của hội thánh, cũng như không hành động phù hợp với nguyên tắc, và có người đứng ra vạch trần, tỉa sửa ngươi, thì chuyện này là chính đáng và ngươi nên tiếp nhận. Tuy nhiên, những người thích trả thù không những không tiếp nhận mà trong lòng còn bất mãn. Khi lãnh đạo rời đi, họ bắt đầu chửi mắng: “Anh khoe khoang cái gì? Chẳng phải chỉ vì anh có chức vụ sao? Nếu tôi có chức vụ, tôi còn làm tốt hơn anh! Anh nghĩ mình là ai mà tỉa sửa tôi? Anh tỉa sửa tôi thì tôi hận anh. Tôi nguyền rủa anh bị xe cán chết, uống nước chết sặc, ăn cơm chết nghẹn. Tôi nguyền rủa anh phải chết thảm! Anh dám tỉa sửa tôi sao? Trên đời này không có ai dám tỉa sửa tôi!”. Khi những lãnh đạo này bị lãnh đạo cấp trên tỉa sửa vì chuyện gì đó, thì họ cười trên nỗi đau của người khác, vô cùng vui mừng, ngân nga một giai điệu, tự nghĩ: “Thấy thế nào? Anh đã khoe khoang và bây giờ phải chịu báo ứng! Bất cứ ai tỉa sửa tôi, tôi sẽ làm cho cuộc sống của họ trở nên khốn khổ!” Ngươi nghĩ sao về những người này? (Thưa, họ độc ác.) Cho dù việc tỉa sửa có họ chính đáng đến đâu thì họ cũng không thể tiếp nhận. Họ liên tục nói phải trái và tự biện hộ, và sau đó vẫn tiếp tục thực hiện bổn phận của mình một cách qua loa chiếu lệ, dạy mãi không sửa. Nếu ngươi luôn hành động qua loa chiếu lệ trong nhà Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ chỉ bị tỉa sửa; nếu ngươi làm việc ở thế giới bên ngoài và hành động qua loa chiếu lệ, thì ngươi sẽ bị sa thải và mất công ăn việc làm. Hầu hết thời gian trong nhà Đức Chúa Trời, nguyên tắc là để thông công lẽ thật và hỗ trợ bằng tình yêu thương, để hầu hết mọi người có thể mưu cầu lẽ thật và thực hiện bổn phận của mình một cách bình thường. Trên thực tế, chỉ có một số ít lãnh đạo và người làm công phải chịu sự tỉa sửa lớn. Hầu hết mọi người đều làm mọi chuyện dựa trên đức tin, sự tự giác, lương tâm và lý trí, tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, cũng như không phạm bất kỳ sai lầm lớn nào, vì vậy họ sẽ không gặp phải sự tỉa sửa lớn. Tuy nhiên, được tỉa sửa là một chuyện tốt; có bao nhiêu người được tỉa sửa, đặc biệt là được Bề trên tỉa sửa? Đây đều là cơ hội tốt để mọi người nhận biết chính mình và tiến bộ trong cuộc sống. Người tin vào Đức Chúa Trời ít nhất phải hiểu tầm quan trọng của việc bị tỉa sửa, nhận ra đây là một chuyện tốt. Ngay cả khi việc tỉa sửa từ một số người không hoàn toàn phù hợp với lẽ thật, pha trộn với kỳ vọng và tính khí nóng nảy của cá nhân, thì ngươi vẫn nên tự kiểm điểm xem khía cạnh nào trong việc ngươi làm không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật và hãy tiếp nhận một cách tích cực; làm như vậy sẽ giúp ích cho ngươi. Nhưng ngay cả với việc tỉa sửa chính đáng thì những kẻ ác này cũng không thể tiếp nhận. Cho dù không trả thù, thì trong lòng cũng sẽ cực kỳ bất mãn, họ nguyền rủa và chửi mắng. Khi những người đã tỉa sửa họ phải chịu sự tỉa sửa của chính mình hoặc gặp chuyện bất lợi, thì họ vui hơn cả trẻ em đón Tết. Đây chính là biểu hiện của kẻ ác. Cũng có một số người cạnh tranh trong việc thực hiện bổn phận của mình; họ thường không tuân theo nguyên tắc và hành động qua loa chiếu lệ, dẫn đến việc thực hiện bổn phận không hiệu quả. Khi lãnh đạo thông công về vấn đề của họ và tỉa sửa họ, thì những người thích trả thù này không thể đối đãi với chuyện này một cách đúng đắn. Mặc dù trong lòng thừa nhận rằng bản thân đã thực hiện nhiệm vụ của mình một cách qua loa chiếu lệ và không theo nguyên tắc, họ vẫn nảy sinh suy nghĩ và hành động trả thù đối với việc tỉa sửa này. Sau đó, họ viết thư vu cáo lãnh đạo, phản ánh lên cấp trên thông tin thêu dệt về một số cách làm và sự bộc lộ bại hoại của những lãnh đạo này với ý đồ loại bỏ những người này. Nếu không đạt được mục tiêu, họ sẽ âm thầm phá đám và gây nhiễu loạn, khăng khăng không làm những gì mà lãnh đạo an bài. Họ không xem xét đến công tác của hội thánh, nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, hay hiệu quả của việc thực hiện bổn phận của mình, họ chỉ quan tâm đến việc trút giận. Họ không lắng nghe bất kỳ ai, thậm chí không tiếp nhận lời của lãnh đạo và người làm công. Dù không tranh luận hoặc phản kháng trực tiếp, nhưng sau lưng, họ có thể giải phóng sự tiêu cực, từ bỏ trách nhiệm của mình để phản đối, cũng như nắm thóp đối với bất kỳ việc an bài công tác nào của nhà Đức Chúa Trời hoặc đối với lãnh đạo và người làm công. Họ thậm chí lan truyền các quan niệm; bản thân họ tiêu cực và miễn cưỡng thực hiện bổn phận, nhưng họ cũng tìm cách lôi kéo thêm nhiều người trở nên tiêu cực, lười biếng và bỏ bê bổn phận. Nguyên tắc của họ là gì? “Tôi không sợ chết; tôi cần tìm người chịu tội chung. Lãnh đạo tỉa sửa tôi, nói rằng tôi thực hiện bổn phận không đạt tiêu chuẩn – thì tôi sẽ đảm bảo rằng tất cả những người khác đều không thực hiện tốt bổn phận của họ. Nếu tôi không thực hiện tốt thì các anh cũng đừng hòng! Lãnh đạo tỉa sửa tôi, còn các anh đều cười nhạo tôi; tôi sẽ làm cho cuộc sống của tất cả các anh trở nên khó khăn!”. Khi họ thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ hoặc đi ngược lại nguyên tắc, và có người phản ánh chuyện này cho lãnh đạo, thì họ sẽ truy xét: “Ai phản ánh tôi? Ai đã báo cáo tôi với lãnh đạo? Ai có mối quan hệ chặt chẽ với lãnh đạo? Nếu phát hiện ra người đã phản ánh tôi với cấp trên thì tôi sẽ không khách khí với họ! Chuyện này chưa xong đâu!”. Họ không chỉ có thể nói những lời độc ác mà còn có thể làm những chuyện độc ác. Loại người này có rất nhiều cách xấu xa và cay độc để trả thù, không chỉ bằng cách xét đoán và lên án người khác; một số người cố tình ăn cắp bộ sạc máy tính xách tay của người mà họ muốn trả thù, khiến người này không sạc được máy tính và chậm trễ trong việc thực hiện bổn phận. Còn có những người cố tình thêm nhiều muối vào thức ăn của người khác để họ không thể ăn được. Những thủ đoạn trả thù thô thiển này rất phổ biến trong những người ngoại đạo, và cũng được kẻ ác trong hội thánh thực hiện. Thủ đoạn mà họ dùng để trả thù không chỉ có vậy, gồm cả những cách làm thất đức mà chúng ta chưa từng thấy; chúng ta chỉ đưa ra một vài ví dụ đơn giản. Trong số họ, có một số người cố tình gây phiền phức, trở ngại, và khó khăn cho người khác; đây là chuyện thường thấy. Trong mọi nhóm người, nhiều trường hợp và hoàn cảnh khác nhau, tâm tính hung ác của những người thích trả thù luôn bộc lộ. Biểu hiện trả thù của kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ còn rõ ràng hơn. Chỉ cần có kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ trong hội thánh, thì người được Đức Chúa Trời chọn, những người chân thành tin vào Ngài và mưu cầu lẽ thật, sẽ bị gây nhiễu loạn. Ngày nào còn kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ thì ngày đó hội thánh không bình yên, người tốt sẽ bị tấn công và bài xích; đặc biệt, những người mưu cầu lẽ thật sẽ bị kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ thù địch và trả thù. Kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ trừng trị và trả thù người khác như thế nào? Đầu tiên, họ nhắm vào những người mưu cầu lẽ thật và giữ nguyên tắc. Những người tà ác này biết rõ trong lòng rằng chỉ những người mưu cầu lẽ thật mới là bất lợi nhất đối với họ. Thứ nhất, người hiểu lẽ thật có thể phân định họ; chỉ cần họ làm gì xấu thì người hiểu lẽ thật sẽ nhìn thấu họ. Thứ hai, khi người hiểu lẽ thật hiện diện, thì việc họ hành ác sẽ phần nào bị hạn chế, khiến họ khó đạt được mục đích. Xét từ điểm này, chỉ người mưu cầu lẽ thật mới là người bảo vệ công tác của hội thánh. Khi người hiểu lẽ thật hiện diện, kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác không dám hoành hành ngang ngược và phải ràng buộc bản thân đôi chút. Do đó, người mưu cầu lẽ thật trở thành cái gai trong mắt kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác, là nỗi phiền toái của họ, và đó là lý do tại sao họ tìm mọi cách để trả thù.
Khi kẻ ác trả thù, họ biểu hiện nhân tính hung ác, bất chấp lý lẽ và không có lý trí. Những người ở bên họ một thời gian và hiểu họ thì sẽ sợ họ ở mức độ nào đó, nói chuyện với họ phải cẩn thận từng li từng tí, khách khí, và phải đặc biệt tôn trọng họ. Những người này phải liên tục xoa dịu và chiều theo họ; không thể trực tiếp chỉ ra vấn đề hoặc sai lầm của họ, mà phải khéo léo bàn bạc những chuyện này, nói theo cách xoa dịu, sau đó phải khen ngợi họ rằng: “Mặc dù có khuyết điểm hoặc thiếu sót này, nhưng anh học công nghệ nhanh hơn chúng tôi, năng lực nghiệp vụ của anh mạnh hơn những người khác, năng suất công tác của anh cao hơn chúng tôi. Tôi thấy khuyết điểm của anh là điểm mạnh”. Những người này thậm chí phải tâng bốc họ. Tại sao phải làm thế? Chính là vì sợ họ trả thù. Làm như vậy sẽ khiến những người tà ác vui vẻ, cảm thấy xoa dịu trong lòng. Để tránh bị trả thù, hầu hết mọi người sợ trực tiếp nêu ra bất kỳ vấn đề gì mình phát hiện được với họ, không dám phản ánh những vấn đề này. Ngay cả khi thấy rõ ràng rằng họ đang làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, và công tác của hội thánh đang bị trì hoãn vì họ khăng khăng cố chấp và bừa phứa, thậm chí thấy họ có một số sai lệch về phương hướng và nguyên tắc, thì cũng không một ai dám đưa ra ý kiến hoặc phản ánh lên cấp trên. Bởi vì tâm tính hung ác và nhân tính của họ là thích trả thù, nên những người khác có phần sợ họ, giận thầm chứ không dám nói ra. Nói chuyện với họ thì phải đặc biệt khách khí và khéo léo, thái độ phải đặc biệt tốt, nhẹ nhàng và nhã nhặn. Nếu có người nói chuyện với họ một cách tôn trọng và khách khí, và chiều theo họ, thì họ sẽ cảm thấy thoải mái trong lòng. Tuy nhiên, nếu có người nói chuyện thẳng thắn, vạch trần vấn đề của họ và đưa ra đề xuất với họ, thì họ sẽ thấy phản cảm. Họ cho rằng làm như vậy là không tôn trọng họ, có ý kiến hoặc thù địch với họ, khiến họ muốn trả thù và trừng trị người đó; họ phải hạ bệ và làm mất uy tín của người đó. Nếu người đó rơi vào tay họ thì sẽ không có kết cục tốt đẹp. Loại người này có đáng sợ không? (Thưa, có.) Nếu ngươi không hiểu họ và thực sự đắc tội với họ, thì trong lòng họ sẽ hận ngươi, nghĩ cách trả thù ngươi ngay cả khi họ đang ăn và đang ngủ. Một khi họ đã để mắt đến ngươi thì sớm muộn gì điều tồi tệ cũng xảy ra, vì họ quyết tâm trả thù ngươi. Mặc dù ở bề ngoài, họ có thể nói chuyện với ngươi như trước đây, nhưng khi họ nghĩ đến việc trả thù ngươi, mọi thứ ngươi đã làm hoặc nói với họ sẽ trở thành vũ khí của họ. Họ sẽ đối đãi với ngươi như kẻ thù, trả thù ngươi từng chút một cho đến khi cảm thấy hả giận và hoàn toàn thoả mãn. Đây chính là hậu quả khi giao lưu với kẻ ác.
Xét theo các loại hành vi và nguyên tắc cũng như phương thức đối nhân xử thế của loại người thích trả thù, họ là mối đe dọa đối với hầu hết mọi người, ngoại trừ những người có lòng tốt, thân thiện hòa đồng với tất cả mọi người và thiếu nguyên tắc khi đối xử với bất cứ ai – người như vậy sẽ an toàn khi ở cùng một chỗ với những kẻ hung ác. Tuy nhiên, những người dù chỉ hơi có chút lương tri hoặc chính nghĩa thì đều sẽ cảm thấy bị đe dọa dù ít hay nhiều, dù lớn hay nhỏ khi ở cùng những người thích trả thù. Ở mức độ lớn, họ có thể bị tổn hại về thân thể hoặc thậm chí bị đe dọa đến tính mạng. Ở mức độ nhỏ, họ có thể bị công kích bằng lời nói, bị phỉ báng hoặc bị hãm hại. Đây là một trong những sự bộc lộ và biểu hiện tổng thể cho thấy tâm tính hung ác của những người thích trả thù. Xét theo biểu hiện tổng thể của họ, họ cũng sẽ gây nhiễu loạn giữa các anh chị em và trong hội thánh. Hầu như bất cứ ai tiếp xúc với những người hay trả thù này đều sẽ trở thành đối tượng trả thù của họ, và hầu như đều sẽ trở thành nạn nhân. Kiểu người thích trả thù này có tâm tính hung ác, họ là quả bom hẹn giờ có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Mặc dù họ có thể đi theo đám đông để thực hiện bổn phận và trải qua đời sống hội thánh bình thường, nhưng xét theo nhân tính của họ, họ có thể trả thù và gây ra mối đe dọa cho người khác bất cứ lúc nào, cũng như khiến mọi người nảy sinh cảm giác sợ hãi và cảnh giác đối với họ. Điều này chẳng phải đã gây nhiễu loạn cho hầu hết mọi người rồi sao? (Thưa, phải). Để tránh đắc tội với họ, để lấy lòng họ, và để tránh bị họ ghi thù và trả thù thì khi họ nói chuyện, mọi người luôn phải nhìn sắc mặt họ và lắng nghe ẩn ý trong lời họ nói, cố gắng tìm ra xem họ có ý đồ, mục tiêu và phương hướng ra sao. Theo quan điểm này, chẳng phải hầu hết mọi người không chỉ bị họ gây nhiễu loạn mà còn bị họ kiểm soát sao? (Thưa, phải). Vậy xét theo tính chất của vấn đề này, chẳng phải những người thích trả thù là kẻ ác sao? (Thưa, phải). Rõ ràng là chúng ta nên coi họ là kẻ ác. Nếu có một người muốn hỏi thăm tình hình của những người như vậy, hầu hết mọi người đều không dám nói sự thật và chỉ trả lời qua loa bằng hai từ “cũng được” trước mọi câu hỏi chứ không dám phản ánh vấn đề hay bàn tán hoặc đánh giá họ. Việc này chẳng phải rất phiền phức sao? Có một số người nói: “Những kẻ ác như vậy có thể trả thù bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu, ai dám chọc giận họ chứ? Hơn nữa, họ luôn nói họ kết giao với cả hai giới hắc bạch, lại còn đe dọa rằng ai đắc tội với họ sẽ không có kết cục tốt, họ sẽ dạy cho người đó một bài học và khiến cả nhà người đó không được chết một cách tử tế. Vậy nên không ai dám chọc giận họ. Hãy cứ để họ làm bất cứ điều gì họ muốn, chúng tôi chỉ hi vọng điều tốt đẹp nhất cho mình”. Ngươi thấy đấy, cục diện như vậy đã hình thành trong hội thánh, hệt như họ đã kiểm soát những người này. Bởi vì mọi người đều thấy được tâm tính trả thù hung ác của họ nên không ai dám chỉ trích hay tỉa sửa họ, cũng không ai dám nói ra đánh giá chân thật về họ. Mọi người phải nói vòng vo về họ vì sợ đắc tội họ, thậm chí còn sợ phát khiếp nếu phải nói cụ thể về biểu hiện thực sự của họ đằng sau lưng họ. Vậy mọi người sợ điều gì? Mọi người sợ những gì mình nói sẽ đến tai của họ và họ sẽ trả thù. Sau khi nói xong, người đó phải tự vả vào miệng mình và nói: “Toang rồi, hôm nay tôi nói sai rồi. Cứ chờ đi, tôi sẽ gặp rắc rối cho xem. Tại sao tôi lại không biết giữ mồm giữ miệng chứ?”. Từ đó trở đi, mỗi ngày người đó đều sống trong nỗi hoang mang lo sợ, sống thấp tha thấp thỏm. Mỗi khi ở bên cạnh kẻ kia, người đó đều phải quan sát và suy xét: “Anh ta có biết những gì mình đã nói không nhỉ? Chuyện đã đến tai anh ta chưa? Thái độ của anh ta với mình có còn như trước không?”. Càng nghĩ, trong lòng người đó càng thấy mông lung. Thời gian càng trôi qua, người đó càng sợ hãi. Vậy nên người đó quyết định nên dứt khoát tránh xa anh ta thì tốt hơn, và nghĩ rằng: “Mình không thể mạo hiểm chọc giận anh ta, nhưng ít nhất thì mình có thể tránh xa anh ta. Bất kể anh ta đã biết những gì mình nói hay chưa, chẳng phải mình cứ tránh xa anh ta là được hay sao?”. Người đó sợ đến nỗi không dám tham gia một buổi nhóm họp nào, không dám đến bất cứ nơi nào có kẻ hung ác này, ngay cả khi đó là nơi họ phải thực hiện bổn phận. Họ cảm thấy sợ chết khiếp.
Chúng ta nên xử lý như thế nào đối với những kẻ ác thích trả thù? (Thưa, chúng ta nên thanh trừ họ). Rất đơn giản, chỉ cần thanh trừ họ là xong. Nếu họ bị thanh trừ mà hầu hết mọi người đều vỗ tay tán thưởng và cảm thấy hả lòng hả dạ, thì thanh trừ họ là quyết định đúng đắn. Trước đây, khi có kẻ ác trong các buổi nhóm họp, hầu hết mọi người đều sẽ bị kìm kẹp trong lúc thông công. Họ sợ nói sai sẽ đắc tội kẻ ác nên mỗi khi nói chuyện, họ đều đề phòng và tránh xa những kẻ đó. Từ đó, các buổi nhóm họp hình thành một quy tắc bất thành văn: Nếu có ai đó đưa mắt ra hiệu thì phải mau mau đổi đề tài câu chuyện. Cục diện đã trở thành như vậy. Một khi những kẻ thích trả thù này bị thanh trừ, hội thánh sẽ yên ổn, đời sống hội thánh sẽ diễn ra bình thường và mối quan hệ giữa mọi người cũng sẽ trở nên bình thường. Lúc đó, các anh chị em có thể tự do chia sẻ và cầu nguyện-đọc lời Đức Chúa Trời, cũng như tự do chia sẻ lời chứng trải nghiệm của mình mà không bị ai kiểm soát, không phải sợ bất cứ ai và không phải để ý đến sắc mặt của bất cứ ai. Dựa trên kết quả này, việc thanh trừ những kẻ ác đó có phải là việc làm đúng không? (Thưa, phải). Đúng vậy, chúng ta cần thanh trừ họ. Nếu không thanh trừ họ, mọi người sẽ không thể có cuộc sống tốt đẹp và rất nhiều người sẽ không dám đến các buổi nhóm họp. Một số người nhát gan thậm chí còn gặp ác mộng vào ban đêm. Họ luôn mơ thấy bị ác quỷ bóp cổ. Trong các buổi nhóm họp, họ sẽ luôn cẩn thận dè dặt, không bao giờ dám nói, không có cảm giác tự do và được giải phóng. Từ khi kẻ ác bị thanh trừ, họ hoàn toàn thay đổi: Giờ đây, họ dám nói trong các buổi nhóm họp, chủ động hơn trong quá trình thông công và cảm thấy tự do, được giải phóng. Đây chẳng phải là việc tốt sao? (Thưa, phải). Loại người hay trả thù có tâm tính hung ác này rất dễ phân định. Nói chung, sau khi tiếp xúc với một người hơn sáu tháng, mọi người sẽ có thể cảm nhận và thấy rõ người này có phải loại người đó hay không. Chỉ cần tiếp xúc với người này một thời gian là có thể biết rõ. Các lãnh đạo và người làm công trong hội thánh không nên thụ động khi xử lý những kẻ ác như vậy. Không thụ động nghĩa là sao? Tức là không đợi đến khi họ mê hoặc một số người và làm việc xấu, khiến tất cả mọi người căm giận rồi mới xử lý họ. Như thế thì quá thụ động. Vậy khi nào là thời điểm tốt nhất để xử lý kẻ ác? Đó là khi có một số ít người bị họ hãm hại và cảm thấy hết sức chán ghét cũng như phòng bị họ, và khi đã hoàn toàn xác định được rằng họ là kẻ ác. Lúc này, chúng ta cần xử lý và thanh trừ họ càng sớm càng tốt để ngăn họ làm hại thêm những người khác, đồng thời tránh cho những người nhát gan bị họ làm cho sợ chết khiếp hoặc vấp ngã. Điều mấu chốt ở đây là gì? Nếu kẻ ác được phép gây nhiễu loạn tại hội thánh trong thời gian quá dài, thì kết quả sau cùng là họ sẽ kiểm soát hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn. Nếu đến mức độ này, tất cả mọi người đều sẽ bị tổn hại. Để mọi người không bị tổn hại thì khi có một số người bị hại, hoặc khi một số người đã nảy sinh cảm giác cực kỳ ác cảm, đã nhìn thấu và đã xác định được rằng những người như vậy là kẻ ác thích trả thù, lãnh đạo hội thánh phải kịp thời thanh trừ họ. Lãnh đạo hội thánh không được đợi đến khi kẻ ác đã làm nhiều việc ác và khiến công chúng phẫn nộ rồi mới quyết định xử lý. Như thế thì quá thụ động. Những người lãnh đạo hội thánh như vậy chẳng phải là quá kém cỏi sao? (Thưa, phải). Khi thực hiện công tác này, lãnh đạo hội thánh phải đặc biệt nhạy cảm với tình hình, biểu hiện và sự bộc lộ của loại người đó, phải sớm nhìn thấu tâm tính của họ, sau đó xác định rằng họ là kẻ ác cần bị thanh trừ và xử lý họ càng sớm càng tốt. Nếu mới đầu ngươi vẫn chưa xác định được, thì ngươi cần tập trung quan sát. Hãy quan sát lời nói và hành động của họ, tìm hiểu suy nghĩ và xu hướng hành động của họ. Một khi phát hiện ra họ muốn trả thù ai đó, ngươi phải áp dụng những biện pháp kịp thời để thanh trừ họ, tránh việc có thêm nhiều người khác bị họ hãm hại và trả thù.
Một số lãnh đạo hội thánh nói rằng: “Chúng tôi không sợ kẻ ác, ngoại trừ Đức Chúa Trời thì chúng tôi không sợ ai cả. Kẻ ác được tính là gì với chúng tôi chứ? Chúng tôi thậm chí còn chẳng sợ Sa-tan, cũng không sợ bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ và hãm hại, vậy thì cớ gì chúng tôi phải sợ kẻ ác? Kẻ ác chỉ là một con quỷ nhỏ, tại sao phải sợ? Chúng tôi sẽ cứ để kẻ đó ở lại hội thánh, để hầu hết các anh chị em bị tổn hại. Sau khi bị tổn hại, các anh chị em sẽ phát triển sự phân định. Có sự phân định, họ sẽ không còn bị những kẻ ác như vậy kìm kẹp và trói buộc nữa. Như thế thì thật tuyệt vời!”. Liệu hầu hết mọi người có thể đạt tới tầm vóc này không? (Thưa, không thể). Họ không thể đạt được. Lòng tin của họ quá ít ỏi, họ hiểu được quá ít lẽ thật và tầm vóc của họ quá nhỏ bé. Hễ cứ nhìn thấy kẻ ác là họ tránh xa, không dám đắc tội. Ngoại trừ sợ chết và trân trọng mạng sống của mình, hầu hết mọi người còn bảo toàn các lợi ích vật chất. Họ không thể có được sự phân định hay rút ra bài học từ những việc mà kẻ ác làm. Do đó, ý tưởng này về căn bản không thực tế và không mang lại kết quả gì. Nếu một kẻ ác xuất hiện trong hội thánh, khi hầu hết mọi người đã nhận ra và khẳng định được rằng người đó là kẻ ác, thì có bao nhiêu người có tinh thần chính nghĩa để đứng ra, đoạn tuyệt với kẻ ác, đấu tranh chống lại kẻ đó, và bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời? Tỉ lệ phần trăm này là bao nhiêu? Có phải là 10% không? Nếu không phải 10%, thì có phải 5% không? (Thưa, khoảng chừng đó). Như thế có nghĩa là trong một nhóm gồm 20 người, có thể có một người đứng ra đấu tranh chống lại kẻ ác, vạch trần và đọ sức với kẻ đó bằng lời Đức Chúa Trời, tranh luận với kẻ đó, và thanh trừ kẻ đó khỏi hội thánh. Những nhân tài này chính là người hùng trong số dân được Đức Chúa Trời chọn, là công thần của hội thánh. Một số lãnh đạo và người làm công sợ phải xử lý kẻ ác. Những người như vậy có xứng đáng với vai trò của mình không? Họ có đủ tư cách làm chứng cho Đức Chúa Trời không? Khi họ nghe tin có một kẻ ác xuất hiện và hội thánh cần thanh trừ kẻ đó, họ nói: “Thanh trừ anh ta thì hơi phiền phức. Trước đây tôi rất quen thuộc với anh ta. Anh ta biết nhà tôi ở đâu và trong nhà tôi có những ai tin vào Đức Chúa Trời. Nếu tôi khai trừ anh ta, anh ta nhất định sẽ trả thù tôi”. Các ngươi nghĩ sao, liệu những người như vậy có xứng đáng làm lãnh đạo và người làm công không? (Thưa, họ không xứng đáng). Sau khi phát hiện ra một kẻ ác cần bị thanh trừ, điều đầu tiên họ nghĩ đến là lợi ích của bản thân, họ sợ sẽ bị kẻ ác đó trả thù. Họ không nghĩ xem liệu kẻ ác đã biết một số địa điểm nhóm họp và phương thức liên lạc của các anh chị em đó có bán đứng hội thánh hoặc các anh chị em sau khi bị thanh trừ hay không, cũng như nên làm thế nào để ngăn chặn chuyện này. Điều đầu tiên họ nghĩ đến không phải là lợi ích của nhà Đức Chúa Trời mà họ sợ rằng kẻ ác biết được hoàn cảnh gia đình họ có thể bán đứng và gây ảnh hưởng xấu đến gia đình họ. Những lãnh đạo và người làm công như vậy có làm chứng không? (Thưa, họ không làm chứng). Một số lãnh đạo và người làm công nhìn thấy kẻ ác hoành hành ngang ngược và cố gắng kiểm soát hội thánh, nhưng họ không dám lên tiếng. Thay vào đó, họ thỏa hiệp và trốn tránh, không dám xử lý kẻ ác. Khi nhìn thấy kẻ ác, họ sợ chết khiếp như thể nhìn thấy ác quỷ ba đầu sáu tay, họ không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Trong lúc ấy, một số anh chị em bình thường vẫn có chút tinh thần chính nghĩa, có dũng khí và lòng tin để đứng ra vạch trần kẻ ác sau khi phát hiện kẻ đó mà không sợ kẻ đó trả thù. Tuy nhiên, tỉ lệ những người như vậy trong hội thánh quá nhỏ. Tỉ lệ 5% mà các ngươi vừa nói đến có thể hơi phóng đại và là câu nói thiếu thận trọng. Vậy theo quan điểm này, thái độ của hầu hết mọi người đối với những người có tâm tính hung ác và thích trả thù là gì? (Thưa, hầu hết mọi người đều tự bảo vệ mình). Họ nghĩ đến việc bảo vệ bản thân trước tiên, chứ không nghĩ đến việc phải đứng ra và đấu tranh chống lại kẻ ác để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời cũng như các anh chị em. Họ chỉ tập trung bảo vệ bản thân. Hành vi tự bảo vệ này cho thấy vấn đề gì? (Thưa, hành vi này cho thấy những người như vậy rất ích kỷ). Một mặt, hành vi này phản ánh một nhân tính quá ích kỷ. Còn mặt khác, hành vi này cho thấy hầu hết mọi người có quá ít lòng tin vào Đức Chúa Trời. Ngoài miệng thì họ nói: “Đức Chúa Trời tể trị mọi thứ. Đức Chúa Trời là hậu phương của chúng ta”. Nhưng khi đối mặt với thực tế, họ lại cảm thấy không thể dựa vào Đức Chúa Trời mà phải dựa vào chính mình, ưu tiên bảo vệ bản thân – điều mà họ coi là sáng suốt nhất. Hàm ý là: “Không ai có thể bảo vệ tôi, ngay cả Đức Chúa Trời cũng không đáng tin cậy. Đức Chúa Trời ở đâu? Chúng tôi không nhìn thấy Ngài! Hơn nữa, tôi còn không biết liệu Đức Chúa Trời có bảo vệ tôi hay không. Nếu Ngài không bảo vệ tôi thì sao?”. Lòng tin của mọi người thật quá ít ỏi. Họ cứ luôn miệng tuyên bố: “Đức Chúa Trời tể trị mọi thứ. Đức Chúa Trời là hậu phương của chúng ta”, nhưng khi chuyện xảy ra, họ chỉ tìm cách bảo vệ bản thân chứ không có khả năng đứng ra đấu tranh chống lại Sa-tan và đứng vững làm chứng. Ngay cả một chút lòng tin này họ cũng không có. Lòng tin của mọi người thật quá ít ỏi và vấn đề này cũng đã hoàn toàn phơi bày điều đó. Tầm vóc của họ chỉ thấp bé vậy thôi. Đối với những kẻ ác thích trả thù, nếu có một số cá nhân muốn vạch trần chúng nhưng lại cảm thấy mình thế đơn lực mỏng và sợ bị chúng áp chế, thì những cá nhân đó nên đoàn kết với một số lãnh đạo và người làm công hoặc anh chị em biết phân định. Sau khi đoàn kết lại, họ sẽ có niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi. Khi đó, họ sẽ có thể vạch trần và mổ xẻ hành động cũng như hành vi của những kẻ ác này, để hầu hết mọi người đều có thể phân định và thấy rõ bộ mặt thực sự của kẻ ác, từ đó đồng tâm hợp ý và cùng thanh trừ kẻ ác. Ban nãy các ngươi nói rằng khi kẻ ác xuất hiện, trong hai mươi người dân được Đức Chúa Trời chọn thì có khoảng một người có tinh thần chính nghĩa để nói lên công đạo và dám đứng ra thanh trừ kẻ ác đó. Một trong hai mươi người thì hơi ít. Nếu hội thánh chỉ có mười người, thì họ làm sao có thể thanh lọc kẻ ác? Họ sẽ không thể làm được. Mười người đó sẽ bị kẻ ác kiểm soát và ngược đãi. Đây là việc không chấp nhận được. Sẽ tốt biết bao nếu có thể phấn đấu đạt đến mức cứ mười người hoặc thậm chí năm người thì có một người có dũng khí đứng ra đấu tranh chống lại kẻ ác. Hành vi luôn tìm cách bảo vệ bản thân của một người không chỉ khiến họ đánh mất lời chứng trước Sa-tan mà còn tệ hơn nữa là mất đi cơ hội đạt được lẽ thật trước Đức Chúa Trời. Nếu trong hội thánh có một kẻ ác thì ít nhất sẽ có vài người bị tổn hại. Nếu có hai kẻ ác, thì hầu hết mọi người sẽ bị tổn hại. Còn nếu có một kẻ địch lại Đấng Christ nắm quyền, cùng vài tên đồng lõa và tay sai dưới quyền, thì tất cả dân được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh sẽ bị tổn hại. Có phải như vậy không? (Thưa, phải). Một người đứng lên chống lại kẻ ác sẽ là một lực lượng, còn mười người đứng lên chống lại kẻ ác sẽ là mười lực lượng. Vậy các ngươi nghĩ kẻ ác sợ một người hay sợ mười người hơn? (Thưa, kẻ ác sợ mười người hơn). Vậy nếu hai mươi, ba mươi, hay năm mươi người đều đứng lên chống lại kẻ ác thì cuối cùng ai sẽ thắng? (Thưa, các anh chị em sẽ thắng). Cuối cùng, các anh chị em sẽ thắng. Chẳng phải như thế thì việc thanh trừ kẻ ác sẽ dễ dàng hơn nhiều sao? Số lượng sẽ đem lại sức mạnh, tất cả các ngươi nên hiểu đạo lý đơn giản này. Vì vậy, việc phân định và thanh trừ kẻ ác không chỉ là chức trách của một lãnh đạo hay người làm công nào đó mà là chức tranh chung của tất cả dân được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh. Thông qua nỗ lực của các lãnh đạo và người làm công, cùng với sự phối hợp của dân được Đức Chúa Trời chọn trong việc thanh trừ kẻ ác, mọi người đều có thể tận hưởng cuộc sống tốt đẹp. Nếu chúng ta không thanh trừ kẻ ác mà để chúng ở lại hội thánh với hi vọng chúng sẽ hối cải, nhưng kết quả là sau sáu tháng hoặc một năm chúng vẫn không cải thiện và tiếp tục gây nhiễu loạn đến mức không thể chịu nổi cho dân được Đức Chúa Trời chọn, thì đây chính là kết quả của việc thương xót kẻ ác. Nếu ngươi dung túng cho kẻ ác hoành hành ngang ngược và kiểm soát hội thánh thì chẳng khác nào ngươi đang đặt mình vào tay kẻ ác, cũng như giao các anh chị em vào tay chúng, cho phép chúng tùy ý kiểm soát và làm thương tổn dân được Đức Chúa Trời chọn. Trong một môi trường mà kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ nắm quyền, liệu ngươi có thể dễ dàng hiểu được và đạt được lẽ thật không? (Thưa, không thể). Thời gian là vô giá. Càng sớm thanh trừ kẻ ác, ngươi càng sớm khôi phục được sự bình yên và tận hưởng đời sống hội thánh đúng đắn, cũng như hiểu được thêm về lẽ thật. Nếu ngươi không thanh trừ kẻ ác, chúng sẽ gây nhiễu loạn và phá hoại mọi người như những con chó điên, chúng sẽ nói và làm bất cứ điều gì chúng muốn. Như vậy, thời gian để ngươi đạt được lẽ thật sẽ bị cướp đoạt, tức là thời gian và việc thực hiện bổn phận của ngươi sẽ bị kẻ ác kiểm soát. Đây là chuyện tốt hay xấu? (Thưa, đây là chuyện xấu). Về lý thì ai cũng biết đây là chuyện xấu, nhưng khi đối mặt với kẻ ác đang gây nhiễu loạn cho hội thánh, mọi người không còn nghĩ như vậy nữa mà chỉ chăm chăm làm sao để không bị kẻ ác tính kế hoặc làm thương tổn. Nếu tất cả dân được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh đều sợ hãi kẻ ác như vậy, hội thánh sẽ dễ dàng bị kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ kiểm soát, đồng thời dân được Đức Chúa Trời chọn cũng sẽ bị chúng kiểm soát. Liệu họ còn có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi không? Điều đó rất khó nói. Nếu hội thánh không có hai hay ba người hiểu lẽ thật và đồng tâm hợp ý làm chứng và phụng sự Đức Chúa Trời, thì hội thánh đó sẽ không còn hy vọng. Và đó sẽ là một chuyện đáng buồn.
Thích trả thù là một biểu hiện của hành xi xấu xa, đồng thời cũng là một trong những hành vi và biểu hiện nảy sinh từ tâm tính hung ác. Nếu những người như vậy thể hiện loại hành vi cụ thể này, thì chúng ta nên xác định họ là kẻ ác. Tất nhiên, một số người vì hẹp hòi thiển cận, thiếu kiến thức hoặc là tín hữu mới không hiểu lẽ thật nên luôn so đo từng tý, nuôi lòng thù hận với những người không có lợi cho mình, làm hại những người đó hoặc từng dùng một số thủ đoạn để trả thù một số người nhất định. Nhưng khi nghe tin những người thích trả thù là kẻ ác và là đối tượng cần bị thanh trừ khỏi hội thánh, họ lại thay đổi suy nghĩ, lòng họ âm thầm hồi chuyển và hành vi của họ có phần thu liễm, kiềm chế. Các ngươi nghĩ loại người này có được tính là thuộc hàng ngũ kẻ ác không? (Thưa, không). Điều gì cho thấy như vậy? (Thưa, họ có thể hồi chuyển). Khả năng hồi chuyển của họ chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ họ có thể tiếp nhận lẽ thật, đó là một hiện tượng tốt. Tại sao lại nói rằng họ có thể tiếp nhận lẽ thật? Bởi vì sau khi nghe được lẽ thật ở phương diện này và biết rằng trả thù là biểu hiện của kẻ ác, họ phản tỉnh về tình trạng bại hoại của chính mình, thừa nhận thực chất bại hoại của mình, sau đó hối cải trước Đức Chúa Trời, hành động dựa theo lời Đức Chúa Trời và kiểm soát hành vi của bản thân. Đây là biểu hiện cho thấy họ tiếp nhận lẽ thật. Những kẻ ác mà chúng ta nói đến ở đây không tiếp nhận lẽ thật. Bất kể ngươi có thông công về lẽ thật rõ ràng đến đâu, chúng cũng không tiếp nhận. Chúng vẫn khăng khăng làm theo ý mình và không chịu nghe lời ai. Ngay cả khi ngươi cảnh báo chúng rằng: “Anh mà làm như vậy thì sẽ bị thanh trừ đấy”, thì chúng cũng không quan tâm và vẫn khăng khăng giữ cách làm của mình, không ai có thể thay đổi được chúng. Nếu ngươi vạch trần chúng thì chúng sẽ không thừa nhận mình sai. Nếu ngươi nói với chúng rằng chúng là người thích trả thù, là kẻ ác và cần bị thanh trừ, chúng vẫn sẽ không buông bỏ việc ác trong tay và nhất định sẽ không hồi chuyển. Đây là loại người gì? Đó là những người chán ghét lẽ thật. Họ hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật. Bất kể thực chất tâm tính của họ được xác định ra sao, những việc ác họ làm bị vạch trần như thế nào hay họ bị xử lý như thế nào, thì họ cũng không bị lay động, họ tuyệt đối sẽ không cúi đầu nhận sai và nhất định sẽ không buông tay. Đây là họ không thể xoay chuyển bản thân. Vậy thực chất của việc không xoay chuyển bản thân là gì? Đó là không chịu tiếp nhận lẽ thật. Nếu họ có thể tiếp nhận dù chỉ một lời nói đúng đắn hay một phương diện của lẽ thật, họ sẽ không tiếp tục đi theo con đường sai lầm mà không quay lại. Họ sẽ hồi chuyển, thừa nhận sai lầm và ít nhiều buông bỏ những gì họ đã khăng khăng trước đó. Chính vì họ là kẻ ác, chính vì họ là kẻ ác có tâm tính hung ác, nên sau khi họ nảy sinh hành vi trả thù từ tâm tính như vậy, họ không những không tiếp nhận những gì lời Đức Chúa Trời vạch rõ, việc tỉa sửa hay việc xác định tính chất như vậy mà ngược lại, họ một mực kiên trì đến cùng. Họ không có ý định tiếp nhận việc bị xác định tính chất hay vạch rõ, cũng không có ý định thừa nhận sự bại hoại của mình. Tất nhiên, trên cơ sở không thừa nhận sự bại hoại, họ cũng không có ý định từ bỏ hành vi và hành động trả thù hay nguyên tắc làm người của mình. Họ là kẻ ác tuyệt đối, một trăm phần trăm. Những kẻ ác như vậy chẳng phải là ma quỷ sao? (Thưa, phải). Họ là ma quỷ hoàn toàn có thực chất của Sa-tan. Ngươi không thể thay đổi họ. Tại sao không thể thay đổi họ? Căn nguyên nằm ở chỗ họ tuyệt đối không thể tiếp nhận lẽ thật. Họ không tiếp nhận dù chỉ một chút lẽ thật. Họ cũng không tiếp nhận bất cứ lời nói đúng đắn, lời nói tích cực hay sự vật, sự việc tích cực nào. Ngay cả khi ngoài miệng họ thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là điều tích cực, thì trong lòng họ cũng không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Họ cũng không có ý định thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời để thay đổi cách làm người, làm việc. Đôi khi họ có thể thừa nhận ngoài miệng rằng hành động của họ hoàn toàn dựa trên triết lý của Sa-tan, nhưng họ vẫn nhất định không tiếp nhận lẽ thật. Hễ có ai thông công về lẽ thật với họ là họ sẽ cực kỳ ác cảm, thậm chí còn thù hận và phán xét. Họ thù hận và trả thù bất cứ ai vạch trần và phân định họ, dù cho người đó là ai. Đến cả cha mẹ họ cũng không phải ngoại lệ. Chẳng phải là họ hết thuốc chữa rồi sao? (Thưa, phải). Họ đã hết thuốc chữa. Thanh trừ họ có phải là một việc đáng tiếc không? (Thưa, không phải). Những người như vậy cần bị thanh trừ hoặc khai trừ. Về cơ bản, đây là tất cả biểu hiện của những người thích trả thù. Đặc điểm, tâm tính, cách họ làm việc và suy nghĩ, cũng như thái độ của họ đối với lẽ thật về cơ bản là vậy. Chúng ta đã thảo luận về ảnh hưởng của họ đối với hội thánh và đối với anh chị em trước đây nên không cần thông công lại nữa. Đến đây, chúng ta đã thông công xong về các biểu hiện của loại người thứ tư: người thích trả thù.
E. Không giữ được lời ăn tiếng nói
Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công về loại người thứ năm. Đó là loại người không giữ được lời ăn tiếng nói. Đây có phải là một vấn đề lớn không? Xét theo nghĩa đen, việc không giữ được lời ăn tiếng nói dường như không phải là vấn đề lớn. Có thể một số người sẽ có những suy nghĩ nhất định về việc coi những người như vậy là kẻ ác: “Con người có miệng, nên họ có thể nói bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu. Họ có thể bàn luận mọi chuyện bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu. Chẳng phải sẽ hơi quá đáng nếu liệt những người không giữ được lời ăn tiếng nói vào danh sách kẻ ác cần bị thanh trừ sao?”. Các ngươi nghĩ sao về chuyện này? (Thưa, nếu họ làm gián đoạn và gây nhiễu loạn cho đời sống hội thánh hoặc công tác của hội thánh, gây ra hậu quả xấu, thì họ cũng là đối tượng cần bị thanh trừ). Vấn đề của những người như vậy không phải là họ không giữ được lời ăn tiếng nói, mà là vấn đề về nhân tính. Nếu họ gây nhiễu loạn cho các anh chị em, cho đời sống hội thánh và cho công tác của hội thánh, hoặc lời nói của họ có hàm ý phản bội và bán đứng hội thánh, thậm chí còn làm nhục nhà Đức Chúa Trời và danh tiếng của Đức Chúa Trời, thì họ phải bị xử lý. Trước tiên, chúng ta hãy nói về các biểu hiện của những người không giữ được lời ăn tiếng nói, sau đó bàn về cách xử lý họ. Liệu chúng ta có thể gọi những người không giữ được lời ăn tiếng nói là “người nhiều chuyện” không? (Thưa, có thể). Vậy sao? Đây có phải là một đặc điểm của loại người này không? Người nhiều chuyện có phải là người ngu ngốc, không biết nên nói gì hoặc không nên nói gì, và nghĩ gì nói đấy mà không cân nhắc hậu quả không? Có phải không giữ được lời ăn tiếng nói là như vậy không? (Thưa, không phải). Một số người rất giỏi ăn nói và giao tiếp. Họ nhanh mồm nhanh miệng và tương đối đơn thuần, thành thực. Họ thường chia sẻ với người khác những suy nghĩ và ý nghĩ nội tâm, việc bộc lộ sự bại hoại của chính mình, những gì họ đã trải qua và thậm chí sai lầm họ mắc phải. Tuy nhiên, loại người này không hẳn là ngu ngốc hay không giữ được lời ăn tiếng nói. Có vẻ như chuyện gì họ cũng nói và họ khá đơn thuần, thành thực. Nhưng với những chuyện then chốt, những chuyện có thể làm nhục Đức Chúa Trời hoặc nhà Đức Chúa Trời, hay những chuyện có thể liên quan đến việc phản bội các anh chị em hoặc hội thánh và do đó khiến họ trở thành Ju-đa, thì họ không nói một lời nào. Đây gọi là giữ được lời ăn tiếng nói. Cho nên, người thẳng tính, nhiều chuyện hoặc giỏi ăn nói không có nghĩa là họ không giữ được lời ăn tiếng nói. Vậy không giữ được lời ăn tiếng nói ở đây có nghĩa là gì? Người không giữ được lời ăn tiếng nói có nghĩa là người nói năng vô nguyên tắc, nói bậy nói bạ bất kể đối tượng, tình huống hay bối cảnh. Hơn nữa, họ không hề biết cách bảo vệ công tác của hội thánh và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cũng không hề quan tâm liệu điều đó có lợi cho các anh chị em hay đời sống hội thánh hay không, mà chỉ thích gì nói đó. Hậu quả của việc “thích gì nói đó” là gì? Đó là vô tình phản bội lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của các anh chị em. Vô tình, vì nói bậy nói bạ và không giữ được lời ăn tiếng nói, họ đã để những người ngoại đạo nắm được thóp của nhà Đức Chúa Trời, để người ngoại đạo chế nhạo một số anh chị em và để người ngoại đạo cũng như những người không tin vào Đức Chúa Trời biết nhiều điều mà họ không nên biết. Kết quả là những người này tự do chỉ tay năm ngón và nói những lời không đàng hoàng về chuyện của nhà Đức Chúa Trời và công việc nội bộ của hội thánh, cũng như nói những lời bôi nhọ và báng bổ Đức Chúa Trời. Họ thậm chí còn tung tin đồn nhảm về các anh chị em, hội thánh và công tác của nhà Đức Chúa Trời, gây ra những hậu quả xấu. Việc này cấu thành hành vi gây nhiễu loạn cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và tương đương với làm điều ác. Một số người còn đặc biệt chú ý hỏi thăm và điều tra xem ai là lãnh đạo và người làm công trong hội thánh, địa chỉ nhà họ, thông tin cá nhân của các anh chị em, công tác tài vụ và kế toán của hội thánh, nhân viên kế toán, và danh sách những người đã bị thanh trừ hoặc khai trừ khỏi hội thánh. Họ cũng đặc biệt chú ý hỏi thăm việc bố trí công tác của hội thánh. Hành vi này cực kỳ đáng nghi và có thể cho thấy họ là gian tế hoặc đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ. Nếu những chuyện này bị rò rỉ ra cho ma quỷ ngoại đạo, để cho con rồng lớn sắc đỏ nắm rõ, thì hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi. Một số người, vì ngu muội và vô tri, có thể tiết lộ tình huống hoặc một phần tình huống cho những người thân không tin vào Đức Chúa Trời ở nhà. Sau đó những người thân này lại truyền hoặc cung cấp thông tin cho đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ. Việc này có thể gây tai họa ngầm và mang lại rất nhiều rắc rối cho công tác của hội thánh, và hậu quả thì không thể tưởng tượng nổi. Một số người thường vô tình kể những chuyện nội bộ này của hội thánh với những người thân không tin vào Đức Chúa Trời ở nhà. Họ tiết lộ mọi chuyện mà không hề che giấu. Họ thậm chí còn kể với những người họ hàng và bạn bè không tin vào Đức Chúa Trời, khiến chuyện nội bộ của hội thánh liên tục bị rò rỉ ra bên ngoài qua miệng họ. Hậu quả của việc rò rỉ là gì? Nhiều người nhà, họ hàng và bạn bè không tin vào Đức Chúa Trời của họ biết được rất nhiều chuyện nội bộ của hội thánh mà ngay cả các anh chị em cũng không biết, hoặc biết được địa chỉ nhà, tên thật và chuyện hôn nhân riêng của các anh chị em. Làm sao những chuyện này của hội thánh lại bị rò rỉ ra ngoài? Làm sao những người ngoại đạo lại biết được? Có “thông tín viên” trong hội thánh! Những người như vậy được gọi là gì? (Thưa, họ là người không giữ được lời ăn tiếng nói). Đúng vậy. Họ kể với người nhà không tin vào Đức Chúa Trời của mình mọi chuyện xảy ra trong đời sống hội thánh hằng ngày hoặc chuyện liên quan đến các anh chị em, chẳng hạn như chuyện người chị nào đó đã ly hôn, chồng của người chị nào đó làm ăn thua lỗ hoặc con trai không vâng lời, hoặc một anh chị nào đó mua nhà, v.v. Họ cũng kể về các anh chị em đã bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ và trở thành Ju-đa, hoặc các anh chị em đã đứng vững làm chứng. Thậm chí, họ còn nhắc đến chuyện các lãnh đạo hội thánh tỉa sửa họ. Tất cả những gì họ bàn luận khi về đến nhà là những chuyện này. Các thành viên trong gia đình họ thậm chí còn bày mưu tính kế để giúp họ đối phó với lãnh đạo, các anh chị em hay bất cứ ai trong hội thánh bất hòa với họ, làm khó họ hoặc đã vạch trần họ. Trong các buổi nhóm họp giữa các anh chị em, loại người này trông có vẻ đặc biệt thật thà, khôn khéo, không nói nhiều, không giỏi nói chuyện, không bao giờ nói về tâm tính bại hoại của bản thân, không bao giờ thông công về nhận thức trải nghiệm của mình và thậm chí còn hiếm khi cầu nguyện. Họ coi các anh chị em là đối tượng cần phòng bị, nhưng lại đối xử với những thành viên gia đình ngoại đạo như thể họ là thành viên trong nhà Đức Chúa Trời. Họ kể cho các thành viên trong gia đình toàn bộ tình hình về hội thánh mà không bỏ sót điều gì. Chuyện gì họ cũng kể, kể cả chuyện hội thánh in sách về lời Đức Chúa Trời, ai có sở trường gì trong hội thánh, v.v. Họ nói tất cả những chuyện này với các thành viên trong gia đình và những người không tin vào Đức Chúa Trời. Cho dù mục đích của họ là gì thì kết quả cuối cùng vẫn là họ đã phản bội công tác của hội thánh và các anh chị em. Họ biết rõ tình hình của từng thành viên chủ chốt trong hội thánh. Tất nhiên, những thành viên này cũng là đối tượng bị họ bàn tán, phán xét sau lưng và thậm chí còn có thể trở thành đối tượng bị họ ngấm ngầm phản bội. Nếu ai đó có quan hệ tốt với họ, thì họ sẽ không ngừng khen ngợi người đó trước mặt gia đình mình. Trái lại, nếu ai đó có quan hệ không tốt với họ, họ sẽ không ngừng chửi rủa người đó trước mặt gia đình mình, thậm chí còn khiến gia đình cùng chửi rủa, gọi các anh chị em là đồ ngu hoặc nói họ là đồ không ra gì. Người ngoại đạo chửi rủa như thế nào thì họ cũng chửi rủa các anh chị em bằng những lời như vậy. Họ giống như những người ngoại đạo, họ hoàn toàn là người không tin, họ không có gì tốt. Những người như vậy cần bị thanh trừ ngay lập tức.
Ở đất nước của con rồng lớn sắc đỏ, thông tin của tất cả những người tin vào Đức Chúa Trời đều phải được giữ bí mật. Ngay cả khi dân được Đức Chúa Trời chọn ra nước ngoài, thông tin của họ vẫn phải được giữ bí mật. Lý do là vì đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ có mặt ở mọi quốc gia trên thế giới, chỗ nào cũng nhúng tay vào, chuyên thu thập thông tin về những người tin vào Đức Chúa Trời. Ở Trung Quốc đại lục, tình cảnh của các anh chị em đi theo Đức Chúa Trời rất gian nan và nguy hiểm. Ngay cả khi họ ra nước ngoài thì cũng có những nguy hiểm nhất định. Nếu đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ thu thập thông tin của họ thì một mặt, họ sẽ có nguy cơ bị dẫn độ. Còn mặt khác, ít nhất người nhà và người thân của họ ở Trung Quốc đại lục có thể sẽ bị liên lụy. Xuất phát từ lý do an toàn và tôn trọng cá nhân, mọi người nên giữ bí mật thông tin riêng tư của các anh chị em và không nên nói cho những kẻ không tin vào Đức Chúa Trời. Ngay cả giữa những người tin vào Đức Chúa Trời, ngươi cũng không nên tùy tiện tiết lộ thông tin riêng tư của một người cho người khác khi chưa có sự đồng ý của người đó. Đừng bao giờ coi bất cứ thông tin nào về các anh chị em, công tác của hội thánh, những bổn phận cá nhân, những trải nghiệm đã chia sẻ khi thông công hoặc những thông tin tương tự khác là câu chuyện trà dư tửu hậu để bàn tán với người ngoại đạo. Hậu quả của việc bàn tán những chuyện này với người ngoại đạo là gì? Liệu có tác dụng tốt hay tích cực nào không? (Thưa, không có). Hậu quả của việc bàn tán những chuyện này là lũ ma quỷ ngoại đạo sẽ nắm thóp, chế nhạo, phán xét, thậm chí là chửi bới và phỉ báng. Điều này có tốt không? (Thưa, không). Các ngươi phải xem xem trong hội thánh có người nào có dụng ý xấu hay không. Đó là người hay bàn tán về những chuyện như tình hình thực tế của đời sống hội thánh và công tác của hội thánh – cũng như ai thực sự tin vào Đức Chúa Trời, ai mưu cầu lẽ thật, ai thực hiện bổn phận của mình, ai không thực hiện bổn phận của mình, ai thường hay tiêu cực, ai có niềm tin mơ hồ, và thậm chí là tình hình và thông tin riêng tư về các anh chị em – với những người ngoại đạo và thành viên gia đình không tin vào Đức Chúa Trời mà không hề che giấu điều gì. Hãy kiểm tra xem có người như vậy hay không. Có một số chuyện mà ngay cả những người trong hội thánh cũng không cần phải biết, thế mà người nhà không tin vào Đức Chúa Trời của những người như vậy lại còn biết rõ về những chuyện này hơn người trong hội thánh. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Đây chính là “công lao” của một kẻ nội gián. Kẻ nội gián này coi người nhà mình như thể đó là lãnh đạo hội thánh. Cứ hễ thấy chuyện gì trong hội thánh là họ lại về nhà báo cáo cho “lãnh đạo” nhằm lấy lòng và thắt chặt thêm mối quan hệ tình cảm với người nhà. Hiển nhiên là tất cả những chuyện này của hội thánh đã bị những kẻ nội gián không giữ được lời ăn tiếng nói bán đứng. Họ không tôn trọng các anh chị em, không bảo vệ công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Họ coi nhà Đức Chúa Trời và hội thánh như xã hội hoặc một nơi công cộng, tùy tiện bình luận và phán xét các anh chị em như thể họ là người ngoại đạo, và thậm chí còn cùng những người không tin và người ngoại đạo tùy tiện phán xét các anh chị em. Thậm chí có một số người, sau khi bị lãnh đạo tỉa sửa hoặc sau khi nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp hoặc không hòa hợp với các anh chị em, còn về nhà khóc lóc và làm ầm ĩ để mọi người trong gia đình biết chuyện. Hậu quả là gia đình họ tìm cách trả thù lãnh đạo hoặc các anh chị em, hòng bán đứng và lật đổ hội thánh. Đây có phải là một hiện tượng tốt không? (Thưa, không). Kể chuyện nội bộ của hội thánh, và những chuyện như có bao nhiêu anh chị em sống đời sống hội thánh và mọi người thực hiện những bổn phận gì, với thành viên gia đình, họ hàng và bạn bè của mình mà không che giấu điều gì – họ là cái thứ gì vậy? Họ có thực sự tin vào Đức Chúa Trời không? (Thưa, không). Họ có phải là thành viên trong nhà Đức Chúa Trời không? Liệu chúng ta có thể gọi họ là anh chị em không? (Thưa, không thể). Nếu những kẻ nội gián và kẻ trộm trong nhà đó còn ở trong hội thánh, thì bất kể là trong quá khứ, hiện tại hay tương lai, họ cũng sẽ gây rắc rối lớn cho nhà Đức Chúa Trời và các anh chị em. Ngay cả khi họ có vẻ không làm nhiều việc ác trong đời sống hội thánh, thì hậu quả và ảnh hưởng của việc họ truyền đạt sau lưng đủ loại thông tin về nhà Đức Chúa Trời cho người ngoại đạo, Sa-tan và ma quỷ cũng vô cùng tồi tệ! Liệu chúng ta có nên cho phép phần tử cặn bã như vậy ở lại hội thánh không? (Thưa, không). Liệu họ có xứng được gọi là thành viên của nhà Đức Chúa Trời không? Liệu họ có xứng được coi là anh chị em không? (Thưa, không). Chúng ta nên xử lý loại người này thế nào? (Thưa, chúng ta nên thanh trừ họ càng sớm càng tốt). Chúng ta phải thanh trừ họ càng sớm càng tốt! Hãy đá họ ra khỏi hội thánh! Đây là lý do để thanh trừ họ: “Anh không giữ được lời ăn tiếng nói, anh không biết phân biệt tốt xấu, ăn cây táo rào cây sung. Anh tin vào Đức Chúa Trời và hưởng thụ ân điển của Ngài, cũng như sự giúp đỡ, yêu thương, nhẫn nại và chiếu cố của các anh chị em, thế mà anh vẫn bán đứng các anh chị em và hội thánh như vậy. Anh là đồ không ra gì. Hãy biến đi!”. Chuyện của các anh chị em, chuyện của hội thánh và bất kỳ công tác nào của nhà Đức Chúa Trời đều không nên để người ngoại đạo biết, cũng không nên bị họ xem như chuyện phiếm. Họ không xứng! Bất kỳ ai lan truyền những thông tin như vậy đều sẽ trở thành đối tượng bị nguyền rủa và đối tượng mà hội thánh phải thanh trừ. Các anh chị em nên loại bỏ họ. Chỉ cần dựa vào hành động bán đứng các anh chị em và hội thánh, loan truyền chuyện nội bộ của hội thánh với người ngoại đạo để những người đó tùy ý bàn tán, thì chúng ta đã có thể chắc chắn trăm phần trăm rằng họ là phản đồ, nội gián và kẻ ác cần bị thanh trừ khỏi hội thánh. Các anh chị em có thể thông công và tranh luận bao nhiêu tùy thích về bất cứ công tác nào được thực hiện trong hội thánh, chẳng hạn như ai cần bị thanh trừ hoặc có chuyện gì phát sinh, nhưng không được loan truyền cho người ngoại đạo và không được nói với người thân không tin vào Đức Chúa Trời ở nhà. Đặc biệt, không được nói cho người ngoài biết hoàn cảnh cá nhân và hoàn cảnh gia đình của các anh chị em mới có tầm vóc nhỏ bé. Nếu không kiềm chế nổi mà nhất quyết phải nói ra, ngươi nên cầu nguyện với Đức Chúa Trời và dựa vào Ngài để học cách khắc chế bản thân, cũng như làm những chuyện có ý nghĩa. Nếu ngươi thực sự không thể kiềm chế bản thân, thì trước tiên ngươi phải báo cáo với hội thánh để tìm cách giải quyết, ngăn ngừa hậu quả xấu, vì việc truyền bá những thông tin như vậy thường dễ gây rắc rối nhất. Ví dụ, số điện thoại cá nhân, địa chỉ nhà, số năm tin vào Đức Chúa Trời, hoàn cảnh gia đình riêng và tình trạng hôn nhân, v.v. đều là những chủ đề nhạy cảm. Những chủ đề này không liên quan gì đến lẽ thật hay lối vào sự sống mà thuộc về quyền riêng tư cá nhân. Chỉ có những tên đặc vụ và nội gián mới chuyên điều tra những chuyện này. Nếu ngươi thích tìm hiểu và truyền bá những chuyện này, thì đây là loại tâm tính gì? Đó là tâm tính có phần xấu xa! Thay vì mưu cầu lẽ thật, ngươi lại chuyên đâm bị thóc, chọc bị gạo, làm nội gián hoặc đặc vụ và phục vụ cho con rồng lớn sắc đỏ. Đây chẳng phải là con đường bất chính sao? Bất cứ ai chuyên tìm hiểu, điều tra và loan truyền lung tung về những chủ đề nhạy cảm và chuyện riêng của người khác đều có dụng ý xấu và là người không tin. Dân được Đức Chúa Trời chọn phải cực kỳ phòng bị những người như vậy. Nếu những người như vậy không hối cải thì nên cấm họ tham gia đời sống hội thánh, vì bán đứng các anh chị em là hành vi vô đạo đức, đê tiện và vô sỉ nhất. Dân được Đức Chúa Trời chọn nên tránh xa những người như vậy. Trong đời sống hội thánh, mọi người nên hạn chế tìm hiểu và bàn tán những chuyện này, vì những chuyện này không liên quan gì đến việc thông công lẽ thật và việc nói về những chuyện này không mang lại lợi ích gì cho người khác.
Nhà Đức Chúa Trời có những sắc lệnh hành chính khác nhau mà dân được Đức Chúa Trời chọn phải tuân thủ. Hễ là sự vụ nội bộ của hội thánh, việc điều chỉnh nhân sự đối với lãnh đạo và người làm công, công tác thanh lọc của hội thánh và sự an bài của Bề trên, v.v. thì đều không được tùy tiện truyền bá trong hội thánh, để tránh bị những người không tin và kẻ ác bán đứng cho Sa-tan. Lý do là vì nhà Đức Chúa Trời khác với xã hội. Đức Chúa Trời yêu cầu con người mưu cầu lẽ thật, đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn, nghiền ngẫm nhiều hơn và thông công nhiều hơn. Chỉ có loan truyền lời Đức Chúa Trời và làm chứng cho Đức Chúa Trời mới là lối sống đúng đắn. Chỉ có trao đổi nhiều lời chứng trải nghiệm hơn mới là lối sống đúng đắn. Ngoài ra, có rất nhiều người mới trong nhà Đức Chúa Trời và họ chỉ mới tin vào Đức Chúa Trời trong một thời gian ngắn. Việc một số người không tin vẫn chưa tỏ lộ là khó tránh khỏi. Đặc biệt, năm hoặc mười năm đầu tiên tin vào Đức Chúa Trời là khoảng thời gian tỏ lộ bản chất thực sự của con người. Trong thời gian này, chúng ta không biết ai có thể đứng vững và ai không, hay có bao nhiêu kẻ ác có thể gây nhiễu loạn cho hội thánh vẫn tồn tại. Nếu luôn loan truyền lung tung thông tin cá nhân và những chuyện bên ngoài đó, cũng như những chuyện không liên quan đến việc thông công lẽ thật, thì sẽ dẫn đến nhiều hậu quả xấu. Ví dụ, một số người có thể sẽ hỏi: “Lãnh đạo nào đó đến từ đâu? Họ sống ở đâu?”. Vấn đề nhạy cảm này không phải điều mà dân được Đức Chúa Trời chọn cần biết. Có người lại hỏi: “Nhà Đức Chúa Trời tốn bao nhiêu tiền để in một cuốn sách về lời Đức Chúa Trời?”. Biết điều này thì có ích gì không? (Thưa, không). Chi phí in ấn có phải là việc của ngươi không? Ngươi phải trả chi phí này à? Chuyện này hình như không liên quan đến ngươi phải không? Một số người có thể sẽ hỏi: “Hiện tại ai là lãnh đạo cấp cao trong nhà Đức Chúa Trời?”. Nếu người đó không trực tiếp lãnh đạo ngươi, thì việc không biết chuyện này có ảnh hưởng gì đến ngươi không? (Thưa, không). Ở Trung Quốc đại lục, ngươi có thể gặp rắc rối nếu biết những chuyện này. Trong trường hợp con rồng lớn sắc đỏ bắt được ngươi và dùng cực hình để tra tấn ngươi, nếu ngươi không biết những chuyện này thì bất kể chúng có đánh đập ngươi ra sao, ngươi cũng không thể nói ra bất cứ điều gì, nhờ đó ngươi sẽ không trở thành Ju-đa. Nhưng nếu ngươi biết chuyện và bị đánh đến mức không thể chịu đựng nổi, thì có thể ngươi sẽ nói ra, từ đó trở thành Ju-đa. Lúc đó, có thể ngươi sẽ nghĩ: “Tại sao lúc đó mình lại liều lĩnh hỏi những câu hỏi đó? Không biết thì tốt hơn nhiều. Cho dù có đánh chết mình thì mình cũng không biết. Ngay cả khi muốn bịa ra câu trả lời, mình cũng không bịa được gì. Như thế thì mình sẽ không trở thành Ju-đa. Giờ thì mình đã rút ra một bài học. Tốt hơn hết là đừng biết quá nhiều về những chuyện không liên quan đến lẽ thật. Tìm hiểu những chuyện như thế không có ích gì cả, không biết thì tốt hơn”. Còn có một số người khác hỏi rằng: “Có bao nhiêu nhóm trong nhà Đức Chúa Trời thực hiện công tác nghiệp vụ?”. Chuyện này có liên quan gì đến ngươi? Ngươi hãy cứ làm bất cứ công tác gì mà nhóm của chính ngươi được giao. Không biết chuyện này cũng không ảnh hưởng gì đến việc ngươi thực hiện bổn phận bình thường, tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật, hoặc sống đời sống hội thánh. Việc ngươi không biết không ảnh hưởng gì cả. Việc ngươi không biết chuyện này sẽ không cản trở ngươi tin vào Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật hoặc đạt được sự cứu rỗi, vậy thì tại sao ngươi phải hỏi? “Hầu hết các anh chị em đến từ khu vực thành phố hay nông thôn? Họ có học vấn hay không có học vấn?”. Biết những chuyện này có ích gì không? (Thưa, không). Nếu họ đều đến từ nông thôn thì có vấn đề gì? Nếu họ đều đến từ thành phố thì sao? Chuyện này không liên quan gì đến lẽ thật. Một số người có thể sẽ hỏi: “Hiện tại công tác phúc âm mở rộng như thế nào rồi?”. Hỏi một chút về chuyện này thì không sao, nhưng có một số người hiếu kỳ đến mức hỏi cụ thể việc công tác phúc âm đã mở rộng đến bao nhiêu quốc gia. Đây là điều không cần thiết. Ngay cả khi họ biết thì chuyện này có ảnh hưởng gì đến họ? Họ có thể mang lại lợi ích gì? Nếu không có thực tế lẽ thật thì dù có biết, ngươi vẫn không có thực tế đó. Chuyện này không hề giúp ngươi thực hiện tốt bổn phận hay phụ trợ cho lối vào sự sống của ngươi. Có một số sự vụ chung chung mà ngươi không hỏi cũng không sao. Trên thực tế, ngươi không biết thì tốt hơn. Biết quá nhiều lại thành gánh nặng. Một khi thông tin lộ ra ngoài thì sẽ trở thành rắc rối và vi phạm. Biết những chuyện này không có gì tốt cả. Càng biết nhiều, ngươi càng gặp nhiều rắc rối. Những người hiểu lẽ thật biết điều gì nên nói và không nên nói. Còn những người hồ đồ không có hiểu biết thuộc linh thì không phân biệt được trong ngoài khi nói chuyện, chỉ toàn nói bậy nói bạ. Vì vậy, ngươi không nên báo cáo những chuyện này cho những người không hiểu lẽ thật trong hội thánh. Việc họ biết những chuyện này chẳng mang lại lợi ích gì. Thứ nhất, họ không thể giúp giải quyết vấn đề. Thứ hai, họ không thể bảo vệ công tác của hội thánh. Và thứ ba, họ không cần phải nói những lời tốt đẹp về nhà Đức Chúa Trời. Tất cả lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật và mọi chuyện Đức Chúa Trời làm đều là công chính. Vậy thì có cần những người không tin và người ngoại đạo không có hiểu biết thuộc linh đó a dua và tâng bốc không? Không cần. Ngay cả khi toàn thế giới không có sinh vật nào đi theo Đức Chúa Trời hay thờ phượng Ngài, thì địa vị và thực chất của Đức Chúa Trời vẫn không thay đổi. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, vĩnh viễn bất biến, không thay đổi trước mọi sự thay đổi về hoàn cảnh. Thân phận và địa vị của Đức Chúa Trời vĩnh viễn không thay đổi. Đây là lẽ thật mà những người tin vào Đức Chúa Trời nên hiểu rõ. Những người không tin và người ngoại đạo nói chuyện và làm việc mà không phân biệt trong ngoài. Vậy thì việc họ biết quá nhiều có ích cho công tác của nhà Đức Chúa Trời không? Họ có cần biết về công tác của nhà Đức Chúa Trời không? Họ không đáng được biết! Có thể một số người sẽ hỏi: “Có phải những chuyện này đều là chuyện bí mật nên không thể cho họ biết không?”. Đã tin vào Đức Chúa Trời đến thời điểm này, các ngươi có nghĩ rằng những chuyện này có bí mật gì không? (Thưa, không). Nhưng dân được Đức Chúa Trời chọn đều có nhân cách và tôn nghiêm. Chúng ta không được để họ trở thành đề tài bàn tán hoặc chế nhạo của những người ngoại đạo. Nhà Đức Chúa Trời, hội thánh và các anh chị em, dù là tập thể hay cá nhân, cũng đều có tôn nghiêm. Họ đều là những điều tích cực và bất cứ ai cũng đừng nghĩ đến chuyện bôi nhọ họ. Bất cứ ai làm điều gì để cho Sa-tan và ma quỷ tùy ý bôi nhọ, tùy ý phỉ báng hay làm tổn hại thanh danh của nhà Đức Chúa Trời hoặc của các anh chị em đều bị nguyền rủa! Vì vậy, hội thánh tuyệt đối không cho phép những những kẻ không giữ được lời ăn tiếng nói như vậy tồn tại. Một khi phát hiện những người như vậy, chúng ta phải thanh trừ họ! Cách xử lý này có phù hợp với nguyên tắc không?
Một số người đặc biệt cẩn thận và dè dặt khi nói chuyện, giao lưu, tiếp xúc hoặc giao du với anh chị em, nhưng khi trở về nhà, họ trở nên lắm lời, nói ra mọi thứ, thậm chí cả thông tin cá nhân của anh chị em, đến nỗi người nhà họ, những người ngoại đạo không tin vào Đức Chúa Trời, và những người chỉ tin trên danh nghĩa biết rất nhiều về chuyện về hội thánh. Người như vậy là nội gián, là kẻ phản bội – một Giu-đa – và chính là loại người mà hội thánh nên thanh trừ. Họ càng ở lâu trong hội thánh thì càng biết nhiều thông tin về anh chị em, càng bán đứng mọi người, và càng có nhiều chuyện bị người ngoại đạo nắm thóp và phỉ báng. Nếu ngươi không sợ họ bán thông tin này cho người ngoại đạo thì hãy giữ họ lại; nếu ngươi không muốn thông tin cá nhân của mình và chuyện nội bộ của hội thánh bị truyền đi từ miệng của họ thì nên thanh trừ những nội gián này càng sớm càng tốt. Làm như vậy có phù hợp không? (Thưa, có.) Đối với loại người này thì không thể khách khí; họ không có ý định tốt và bản thân họ cũng chẳng tốt đẹp gì. Loại người này so sánh như thế nào với hai loại người đã đề cập trước đó là người thích trả thù và người phóng đãng và không ràng buộc? Họ tốt hơn hay tệ hơn? (Thưa, tệ hơn.) Những người này có thể cũng thực hiện bổn phận của mình, đóng góp một chút, chịu đựng chút đau khổ; họ có thể phối hợp về bất cứ chuyện gì nhà Đức Chúa Trời yêu cầu và không từ chối, nhưng có một điều: Họ nói mọi thứ về nhà Đức Chúa Trời cho người ngoại đạo. Họ đóng vai trò như một kẻ phản bội, một nội gián, mỗi ngày. Vì lý do này, hội thánh không thể khoan dung cho họ và phải thanh trừ họ. Ngươi có hiểu không? (Thưa, có.) Bất kể họ vui hay không vui trong hội thánh, ai đụng chạm họ, ai hoà hợp với họ, họ trúng cử làm lãnh đạo hội thánh hay bị cách chức – bất kể chuyện gì xảy ra, họ luôn nói mọi chi tiết cho người nhà không tin của họ. Họ đảm bảo người nhà không tin và người ngoại đạo được biết ngay lập tức và nắm bắt kịp thời tình hình nội bộ của hội thánh. Đối với những người như vậy, ngươi tuyệt đối không được khách khí hay thương xót; phát hiện được thì phải thanh trừ họ. Làm như vậy thì thế nào? (Thưa, là phù hợp.) Làm như vậy có tàn nhẫn không? (Thưa, không.) Không tàn nhẫn. Ngươi đối xử với họ như anh chị em, nhưng họ không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời hay lợi ích của anh chị em chút nào. Thay vào đó, họ bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của anh chị em ở khắp nơi. Ngươi đối xử với họ như người nhà, nhưng họ có đối xử với ngươi như người nhà không? (Thưa, không.) Vậy thì đừng khách khí với họ; cần thanh trừ thì hãy thanh trừ họ. Cho đến giờ, các ngươi đã gặp loại người này chưa? (Thưa, đã gặp. Họ đã nói mọi chuyện về anh chị em với người nhà, và đôi khi họ cũng cho người nhà biết về một số chuyện và sự an bài cụ thể trong hội thánh ngay khi có cơ hội. Sau đó, người nhà của họ đã nắm thóp để nói xấu sau lưng hội thánh.) Những người này đã bị thanh trừ chưa. (Thưa, đã bị thanh trừ.) Sau khi bị thanh trừ, họ có phàn nàn không? Họ có thể cảm thấy không công bằng, nghĩ rằng: “Mình chưa làm gì cả; chuyện này không vi phạm các sắc lệnh quản trị, mình cũng không gây ra sự gián đoạn hay nhiễu loạn, tại sao mình bị thanh trừ?”. Các ngươi có nghĩ tính chất của chuyện họ làm còn nghiêm trọng hơn là gây gián đoạn và nhiễu loạn không? (Thưa, có.) Liệu những người như vậy có thể biến chuyển không? Có dễ thay đổi không? (Thưa, không dễ.) Tại sao ngươi lại nói là không dễ? Điểm nào cho thấy họ không dễ thay đổi? (Thưa, họ không phải người trong nhà Đức Chúa Trời, không phải là anh chị em; thực chất của họ là của người không tin và người ngoại đạo.) Đây là thực chất của họ. Vậy, làm sao ngươi có thể biết họ là người ngoại đạo và người không tin? (Thưa, bất kể có cảm xúc gì trong hội thánh, họ đều trút lên người nhà, điều này cho thấy dù chuyện gì xảy ra thì họ cũng không tiếp nhận từ Đức Chúa Trời, càng không học được bất kỳ bài học nào. Những người như vậy không trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và không tiếp nhận lẽ thật, nên thực chất của họ là của người không tin.) Thực chất này của họ đã được làm rõ. Họ trút cảm xúc của mình lên người nhà và đối đãi với mọi chuyện dựa trên cảm xúc. Làm sao ngươi biết rằng họ không phải người của nhà Đức Chúa Trời, mà là người ngoại đạo đã chui vào nhà Đức Chúa Trời? (Thưa, bởi vì họ có thể bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đóng vai trò là kẻ phản bội và nội gián, và bởi vì họ cơ bản không phải là người bảo vệ công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Cho nên, nhũng người này không một lòng với nhà Đức Chúa Trời.) Cách giải thích này không đúng trọng tâm. Để Ta nói cho ngươi biết. Mặc dù loại người này tham gia đời sống hội thánh và thực hiện bổn phận của mình, nhưng họ có đối xử với anh chị em như người nhà không? Nói một cách đơn giản, họ có coi anh chị em như anh chị em của mình không? (Thưa, không.) Vậy họ coi anh chị em là gì? (Thưa, là người ngoài.) Đúng vậy, là người ngoài, là đối thủ. Vậy thì họ coi nhà Đức Chúa Trời và hội thánh là gì? Chẳng phải chỉ là nơi làm việc của họ sao? (Thưa, phải.) Họ coi nhà Đức Chúa Trời và hội thánh như là công ty hoặc đoàn thể của người ngoại đạo, coi anh chị em như là người ngoài, là đối tượng để phòng bị, là đối thủ. Cho nên, họ có thể dễ dàng tiết lộ đủ loại thông tin và đủ loại tình hình thực tế về anh chị em cho những người về cơ bản không tin vào Đức Chúa Trời. Họ cũng biết rằng những người không tin này không nói điều gì tốt đẹp, thậm chí có thể chửi bới anh chị em, phỉ báng nhà Đức Chúa Trời – họ biết tất cả những điều này nhưng vẫn trắng trợn tiết lộ tình hình của anh chị em và hội thánh cho những người ngoại đạo này mà không có chút kiêng dè nào. Rõ ràng, họ coi anh chị em như người ngoài, như đối thủ, và một khi nảy sinh bất kỳ chuyện khó chịu nào, họ sẽ ngay lập tức bắt tay với người ngoại đạo để chế giễu, phỉ báng, và đối phó với anh chị em ở sau lưng, qua đó thoả mãn dục vọng cá nhân. Họ cảm thấy rằng việc xét đoán bất kỳ anh chị em nào trong hội thánh là không thể vì nếu họ thảo luận về chuyện của hội thánh hoặc của anh chị em trước mặt chính các anh chị em, họ cảm thấy mình sẽ phải gánh chịu hậu quả gây bất lợi cho họ. Nhưng thảo luận những chuyện này với người nhà thì hoàn toàn thoả mãn sự bốc đồng, dục vọng, và tình cảm của họ, vì suy cho cùng người nhà thì vẫn là người nhà và sẽ không bán đứng họ. Nhưng anh chị em thì không như vậy. Bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu, anh chị em đều có thể tố giác họ, vạch trần họ, tỉa sửa họ, và thậm chí khiến họ mất đi bổn phận và chức vụ. Cho nên, không hề sai khi nói rằng họ coi anh chị em là đối thủ của mình. Đối thủ là người mà chúng ta phải phòng bị. Do đó, họ không nói chuyện với anh chị em, không thông công và không vạch trần điều gì với anh chị em. Thay vào đó, họ “sống đời sống hội thánh” với người nhà không tin mà họ nói mọi thứ và trút bầu tâm sự. Họ vô tư bày tỏ những cách nghĩ, quan điểm, những điều không vừa ý, sự bất mãn, và mọi quan điểm sai lệch của mình mà không hề kiêng dè, cảm thấy được giải thoát và vui vẻ khi làm như vậy. Người nhà không ghét bỏ mà còn giúp đỡ và hợp tác với họ. Nếu họ nói như vậy trong hội thánh, chân tướng là người không tin sẽ bộc lộ hoàn toàn, và hội thánh sẽ phải thanh trừ họ. Vì vậy, họ không coi anh chị em là người nhà mà là đối thủ. Đây là một phương diện. Phương diện khác là họ không bao giờ coi mình là một phần của hội thánh, nên bất cứ điều gì xảy ra với hội thánh, cho dù là bị cộng đồng tôn giáo phỉ báng và báng bổ, bị người ngoại đạo tung tin đồn và chế giễu, hoặc bị chính phủ quốc gia vu oan và bách hại, thì đều không liên quan và không quan trọng đối với cá nhân họ. Giả sử họ thực sự cảm thấy rằng: “Nếu hình ảnh của hội thánh bị tổn hại và danh Đức Chúa Trời bị xúc phạm, thì danh dự của người tin vào Đức Chúa Trời như chúng ta bị thách thức nghiêm trọng. Vì lý do này, tôi sẽ không bao giờ thảo luận về chuyện của hội thánh hoặc của nhà Đức Chúa Trời với người ngoại đạo để họ bàn tán và cười nhạo. Thậm chí để bảo vệ bản thân, tôi sẽ không tuỳ ý nói về chuyện của nhà Đức Chúa Trời với người nhà không tin của mình” – nếu họ có nhận thức như vậy thì chẳng phải họ sẽ có thể giữ lời ăn tiếng nói sao? Vậy, tại sao họ không làm được? Rõ ràng là về cơ bản họ không coi mình là một phần của nhà Đức Chúa Trời, cũng không coi mình là người tin vào Đức Chúa Trời. Một số người nói: “Lời Ngài nói không đúng. Nếu họ không coi mình là một phần của nhà Đức Chúa Trời, tại sao họ vẫn đến các buổi tụ họp?”. Có đủ loại người trong số những người tin vào Đức Chúa Trời. Chẳng phải chúng ta đã thông công rồi sao? Có nhiều người tin vào Đức Chúa Trời với đủ loại động cơ và mục đích xấu, và loại người này là một trong số đó. Tin vào Đức Chúa Trời để tìm thú vui, để giải sầu, hoặc để tìm chỗ dựa tinh thần – chẳng phải những người không tin như vậy rất phổ biến sao? Có nhiều người như vậy phải không? (Thưa, phải.) Họ thậm chí còn không thừa nhận mình là người tin vào Đức Chúa Trời. Tất nhiên, mọi công tác của hội thánh và việc những người được Đức Chúa Trời chọn thực hiện bổn phận của mình đều không liên quan đến họ, họ không để tâm đến. Cho nên, họ có thể tuỳ tiện và dễ dàng nói cho người ngoại đạo về tình hình công tác của hội thánh, chuyện nội bộ của hội thánh, và thậm chí là bất kỳ vấn đề nào nảy sinh giữa anh chị em. Sau khi họ nói xong, những người ngoại đạo lại tiếp tục xoi mói, chửi bới, và châm biếm, nhưng điều đó không khiến họ bận tâm chút nào. Họ thậm chí còn cùng người ngoại đạo mắng chửi anh chị em, xét đoán nhà Đức Chúa Trời, và đánh giá công tác cũng như sự an bài công tác của nhà Đức Chúa Trời. Họ có phải là người tin vào Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Người chân thành tin vào Đức Chúa Trời không bao giờ làm như vậy. Ngay cả khi bảo vệ danh dự và lợi ích của bản thân thì họ cũng không bao giờ ăn cây táo rào cây sung, đứng về phía người ngoài. Có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Cho nên, loại người này là kẻ ác và người không tin, phải bị thanh trừ. Thanh trừ họ càng sớm thì hội thánh càng sớm yên bình.
Hãy nói về bản thân các ngươi. Nếu cha mẹ, anh chị em ruột hoặc bạn thân của ngươi không tin vào Đức Chúa Trời, nhưng họ không phản đối mà còn khá ủng hộ việc ngươi tin vào Đức Chúa Trời, thì ngươi có nói với họ mọi chuyện xảy ra trong hội thánh không? Nếu một người bạn nữ của ngươi hỏi: “Trong hội thánh của anh, có người đàn ông nào đang tìm bạn đời không? Có ai đặc biệt thật thà, cao ráo, giàu có, và đẹp trai không?”. Một số người đàng hoàng trong số những người không tin cũng muốn tìm người đàng hoàng để sống cùng. Người bạn nữ của ngươi muốn tìm người tin vào Đức Chúa Trời, thì ngươi có sẵn lòng nói cho cô ta biết không? (Thưa, không.) Ngươi nên nói với cô ta rằng: “Chị có thiện cảm với người tin vào Đức Chúa Trời thì cũng vô ích. Chị là người không tin và về cơ bản là không phù hợp với những người có đức tin; không chung ngôn ngữ, không chung con đường! Nhìn chị xem, ăn mặc thật loè loẹt – anh em nào trong hội thánh thấy chị vừa mắt được chứ?”. Ngươi còn không thấy cô ta vừa mắt, thì liệu ngươi có thể nói cho cô ta về chuyện hội thánh không? (Thưa, không thể.) Chỉ cần nói vài lời là cuộc trò chuyện sẽ tan vỡ, với quan điểm hoàn toàn khác biệt. Ngay cả khi một số người ngoại đạo có thiện cảm về những người tin vào Đức Chúa Trời, và cho dù sau khi ngươi trở thành người tin vào Đức Chúa Trời mà họ vẫn giữ gìn tình bạn với ngươi, thì ngươi có sẵn lòng nói cho họ chuyện nội bộ của hội thánh hoặc những khó khăn mà ngươi gặp phải khi thực hiện bổn phận của mình không? (Thưa, không.) Ngay cả khi họ ủng hộ ngươi tin vào Đức Chúa Trời, thì việc ngươi nói chuyện của hội thánh với họ có ích gì? Ví dụ, một số anh chị em bị con rồng lớn sắc đỏ tra tấn và khảo vấn mà nhất định không trở thành Giu-đa. Đây là lời chứng mà ngay cả người ngoại đạo cũng khâm phục – liệu ngươi có sẵn lòng nói cho họ biết không? (Thưa, không.) Tại sao ngươi không sẵn lòng nói cho họ biết? (Thưa, chuyện này không liên quan gì đến họ, và họ không thể hiểu được những lời chứng trải nghiệm này.) Họ sẽ không thể hiểu được. Khi nói những chuyện này thì có thể gây ra những tác động tiêu cực nào? (Thưa, có khả năng họ sẽ xét đoán hội thánh.) Họ sẽ xét đoán: “Tại sao anh lại tự làm khổ mình như vậy? Tạo sao lại chống lại chính phủ quốc gia?”. Các ngươi thấy đấy, chỉ một câu nói đã bộc lộ bản tính của họ. Làm sao điều này lại gọi là chống lại chính phủ quốc gia? Rõ ràng là tên ma vương thống trị quốc gia đang tàn hại những người được Đức Chúa Trời chọn, không cho những người này con đường sống. Ngay cả khi chứng kiến điều này, thì họ vẫn giả vờ không biết. Rõ ràng là họ nói theo cách đảo lộn đúng sai, bóp méo sự thật. Ngươi còn có thể bàn luận điều gì với họ nữa? Ngươi không thể nói với họ bất kỳ điều gì liên quan đến đức tin vào Đức Chúa Trời; ngươi không thể nói cho họ biết. Những người không thể giữ lời ăn tiếng nói có thể nói mọi thứ về hội thánh cho người ngoại đạo. Họ rõ ràng là những người không tin; họ là ma quỷ đến sống qua ngày đoạn tháng trong nhà Đức Chúa Trời, là súc vật ăn cây táo rào cây sung mà không có chút lương tâm và lý trí nào. Đối với họ, bất kỳ sự tổn thất nào về lợi ích hay danh tiếng của nhà Đức Chúa Trời hoặc của hội thánh đều không quan trọng với họ, không liên quan đến bất kỳ lợi ích nào của họ, và họ không buồn chút nào; cho nên, họ có thể trắng trợn nói về chuyện nội bộ của hội thánh cho người ngoại đạo và người không tin vào Đức Chúa Trời, mà không hề kiêng dè. Những người này có đáng ghét không? (Thưa, đáng ghét!) Liệu một người không tin, không coi anh chị em như người nhà mà coi người ngoại đạo như người nhà, thì có thể tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Liệu họ có thể thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Liệu một người không coi mình là thành viên của hội thánh, khi nghe lời Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, thì có thể gạt bỏ lợi ích của riêng mình để mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Công việc họ thực hiện hằng ngày chỉ là bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đứng về phía người ngoài, đóng vai trò như nội gián, Giu-đa, kẻ phản bội, như thể đây là sứ mệnh của họ. Họ không đi theo con đường đúng đắn mà sống để hành ác; họ đáng chết và đáng bị nguyền rủa! Những tên Giu-đa, kẻ phản bội, và sai dịch của Sa-tan ăn cây táo rào cây sung này đều là những thứ tiêu cực, có hại cho nhân loại, và bị mọi người khinh bỉ. Vậy, chẳng phải việc hội thánh xử lý và thanh trừ họ là hoàn toàn đúng đắn sao? (Thưa, phải.) Hoàn toàn đúng đắn! Chẳng phải các ngươi không thích bị bán đứng sao? Nếu hội thánh hoặc nhà Đức Chúa Trời bị bán đứng, có khả năng hầu hết mọi người không đồng cảm sâu sắc hoặc quá buồn; họ chỉ có chút khó chịu trong lòng vì suy cho cùng thì họ cũng là thành viên. Nhưng nếu ngươi bị người trong hội thánh bán đứng cho người ngoại đạo, và vì họ bán đứng ngươi nên người ngoại đạo đã bóp méo sự thật, phỉ báng, chế giễu, xét đoán, và lên án ngươi thì sao? Khi đó ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Chẳng phải ngươi sẽ cảm nhận sự sỉ nhục và xấu hổ mà hội thánh và nhà Đức Chúa Trời phải chịu sao? (Thưa, phải.) Xét từ điểm này, chẳng phải việc thanh trừ những người đó là phù hợp sao? (Thưa, phải.) Phải thanh trừ họ; đừng tỏ ra khách khí với họ. Về những người không thể giữ lời ăn tiếng nói, dựa trên nhiều biểu hiện về cách họ cư xử và sống thể hiện ra, thì họ chính là người không tin trong hội thánh, một loại kẻ ác mà hội thánh nên thanh trừ. Bất kể cách thức họ làm mọi chuyện là bí mật hay công khai, một khi phát hiện ra người không thể giữ lời ăn tiếng nói và thực chất nhân tính của họ là của người hoàn toàn không tin, thì hãy thông báo ngay cho lãnh đạo và người làm công, cũng như báo cho anh chị em biết. Cần phân định chính xác và kịp thời những người như vậy, sau đó nên thanh trừ họ khỏi hội thánh càng sớm càng tốt. Đừng để họ có bất cứ liên quan gì đến hội thánh, công tác của hội thánh, hoặc anh chị em; việc thanh trừ họ hoàn toàn là điều đúng đắn. Mối thông công về biểu hiện này của nhân tính – không thể giữ lời ăn tiếng nói – sẽ kết thúc ở đây.
Ba loại người mà chúng ta thông công hôm nay có phải là những trường hợp nghiêm trọng hơn hai loại người đã thông công trước đây không? (Thưa, phải.) Tình tiết của họ nghiêm trọng hơn, nhân tính của họ tồi tệ và đê tiện hơn, tổn hại và ảnh hưởng mà họ gây ra cho lợi ích của hội thánh và tất cả anh chị em là lớn hơn. Cho nên, không được xem thường ba loại người này; chúng ta phải nghiêm túc đề phòng và không được nuông chiều sinh hư. Nếu phát hiện bất kỳ ai thuộc một trong ba loại này, hãy vạch trần và phân định họ ngay lập tức, sau đó xử lý họ càng nhanh càng tốt. Nếu họ đang thực hiện một bổn phận quan trọng, hãy nhanh chóng tìm người khác tiếp nhận bổn phận của họ, chuyển họ ra khỏi bổn phận đó rồi thanh trừ họ. Ngươi đã hiểu chứ? (Thưa, đã hiểu.) Các tình hình khác nhau của anh chị em trong hội thánh, biểu hiện khác nhau của anh chị em trong các thời kỳ khác nhau, công tác của hội thánh, thậm chí một số chuyện nội bộ của hội thánh chỉ được phép bàn luận và thông công giữa anh chị em. Làm như vậy sẽ giúp người được Đức Chúa Trời chọn có sự nhận biết và cái nhìn rõ ràng hơn về các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, để họ có thể đạt được khả năng hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Tuy nhiên, có một nguyên tắc phải nắm rõ: Dù đó là lẽ thật hay nguyên tắc liên quan đến lối vào sự sống của người được Đức Chúa Trời chọn, hay là quy định về công việc chung, thì tuyệt đối không được nói cho người ngoại đạo, khiến người ngoại đạo bình luận và xoi mói. Điều đó hoàn toàn không được phép. Có một số người nói: “Nếu hoàn toàn không được phép thì chẳng phải đây là sắc lệnh quản trị sao?”. Có thể nói như vậy; bất kỳ ai tiết lộ thông tin sẽ phải chịu hậu quả tương ứng. Tại sao họ phải chịu hậu quả? Bởi vì những người tiết lộ chuyện nội bộ của hội thánh không bảo vệ hội thánh hay anh chị em, và có thể tuỳ ý bán đứng hội thánh và anh chị em. Vì họ đóng vai trò là kẻ phản bội và Giu-đa, nên chúng ta không nên khách khí với họ hoặc coi họ là anh chị em hay người nhà nữa. Chúng ta nên xử lý họ như một kẻ phản bội và Giu-đa, cũng như trực tiếp thanh trừ họ khỏi hội thánh. Có một số người nói: “Con từng có tật xấu là nhiều chuyện, dễ nói năng bừa bãi. Hôm nay, con thấy hậu quả của chuyện này nên không dám nói năng bừa bãi nữa”. Được. Nếu ngươi đã nói như vậy thì để quan sát xem biểu hiện của ngươi ra sao. Nếu ngươi thực sự hối cải và quay lại, không còn trắng trợn lan truyền thông tin hoặc bán đứng lợi ích của anh chị em, và có thể giữ lời ăn tiếng nói, thì nhà Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi một cơ hội. Nếu phát hiện ngươi lại làm như vậy một lần nữa, rằng ngươi đã lan truyền một số thông tin, thì sẽ không ai khách khí với ngươi nữa – anh chị em trong hội thánh sẽ đoàn kết với nhau để thanh trừ ngươi. Đến lúc đó, đừng khóc hay phàn nàn rằng ngươi không được cảnh báo trước. Bây giờ, mọi thứ đã được nói rõ, nếu điều này xảy ra một lần nữa, nhà Đức Chúa Trời sẽ tuyệt đối không tha thứ. Ngươi đã hiểu chứ? (Thưa, đã hiểu.) Nếu các ngươi thấy bất cứ ai không hiểu, hãy phổ biến cho họ; hãy chỉ bảo cho họ bằng những nội dung mà chúng ta đã thông công hôm nay. Nếu các ngươi thấy người có dấu hiệu của hành vi này hoặc đã từng làm chuyện này, hãy truyền đạt, cảnh cáo, và cho họ biết về tính chất và hậu quả của những chuyện này, cũng như cho họ biết thái độ của nhà Đức Chúa Trời đối với chuyện này và những người như vậy. Sau khi nói rõ ràng, hãy quan sát xem họ có thể hối cải không và họ sẽ làm gì sau này. Nếu họ thay đổi và không còn làm như vậy nữa, ngươi có thể tiếp nhận họ lần nữa và đối xử với họ như anh chị em. Nhưng nếu họ ngoan cố không hối cải và tiếp tục lén lút làm như vậy, thì phát hiện được ai phải thanh trừ người đó. Nếu phát hiện được hai người, thì thanh trừ cả hai; phát hiện được một nhóm, thì thanh trừ cả nhóm. Không được khách khí. Có một số người hỏi: “Con có thể nói chuyện với người nhà đã từng tin nhưng sau đó bị thanh trừ không?”. Có vẻ như những người thích buôn chuyện và đâm bị thóc, chọc bị gạo không dễ khống chế chính mình, luôn phải hỏi xem có được hay không. Các ngươi nói xem, làm như vậy có được hay không? (Thưa, không.) Không được phép nói với bất kỳ ai, vì làm như vậy dễ dẫn đến hậu quả. Những người như vậy đều phải bị đối xử như Giu-đa. Đối với những người không tin, người đã bị thanh trừ, người gần gũi với ngươi, người đáng tin cậy, người ủng hộ ngươi tin vào Đức Chúa Trời, người có thiện cảm với việc tin vào Đức Chúa Trời, cũng như người chỉ tin vào danh Đức Chúa Trời, người chỉ sống đời sống hội thánh và đọc chút lời Đức Chúa Trời nhưng không thực hiện bổn phận nào, thì ngươi không được nói với họ – nếu ngươi nói thì sẽ bị đối xử như Giu-đa. Ngươi đã hiểu chứ? (Thưa, đã hiểu.) Còn ai khác trong số những người không thực hiện bổn phận của họ? Có bao gồm những người của hội thánh bình thường không? (Thưa, có.) Đừng quên chuyện này; đừng giả ngu ngốc. Các ngươi phải nắm vững các nguyên tắc. Đừng cứ tin mà trở thành Giu-đa bán đứng nhà Đức Chúa Trời và anh chị em mà không hề nhận ra, thậm chí còn đắc ý về việc đó. Không thể giữ lời ăn tiếng nói, thậm chí còn bán đứng công tác của hội thánh và bán đứng anh chị em là một tội nghiêm trọng. Bất cứ ai làm chuyện ác như vậy cũng đều bị Đức Chúa Trời ghi lại. Mọi chuyện đã được nói rõ ràng với ngươi, và ngươi cũng đã hiểu. Nếu ngươi tái phạm, thì đó sẽ không còn là tội thông thường nữa mà là vi phạm sắc lệnh quản trị, ngươi sẽ là đối tượng bị thanh trừ, bị tước đi quyền lợi được cứu rỗi. Ngươi đã hiểu chứ? (Thưa, đã hiểu.)
Ngày 11 tháng 12 năm 2021