Chức trách của lãnh đạo và người làm công (25)

Mục 14. Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ (Phần 4)

Tiêu chuẩn và căn cứ để phân định các loại kẻ ác khác nhau

Hôm nay, chúng ta tiếp tục mối thông công về chức trách thứ 14 của lãnh đạo và người làm công: “Kịp thời phân định, thanh trừ và khai trừ các loại kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ”. Vài lần trước, chúng ta đã thông công về một số nội dung mà lãnh đạo và người làm công nên phân định, cũng như những lẽ thật chính mà họ nên hiểu, khi thực hiện công tác này; nghĩa là, chúng ta đã thông công về cách phân định các loại kẻ ác. Các loại kẻ ác được định nghĩa như thế nào? Chính là những người lấy danh nghĩa tin Đức Chúa Trời mà lẻn vào nhà Đức Chúa Trời, nhưng không tiếp nhận lẽ thật, lại còn có thể gây nhiễu loạn công tác của hội thánh; tất cả những người như vậy được xếp vào loại kẻ ác. Họ là những người mà hội thánh nên thanh trừ hoặc khai trừ; nghĩa là, họ không được phép tồn tại trong hội thánh. Chúng ta dùng ba điều chính làm tiêu chuẩn để phân chia và mổ xẻ các loại kẻ ác. Ba điều này là gì? Điều đầu tiên là mục đích khi tin Đức Chúa Trời. Điều thứ hai là nhân tính – bằng cách mổ xẻ nhân tính của một người, chúng ta có thể phân định và thấy rõ liệu họ có phải là người mà hội thánh nên thanh trừ không. Điều thứ ba là gì? (Thưa, là thái độ đối với bổn phận.) Thái độ đối với bổn phận chính là điều thứ ba. Trước đây, chúng ta đã thông công về điều đầu tiên rồi. Đối với điều thứ hai – nhân tính – đã thông công được hai điểm. Điểm đầu tiên là gì? (Thưa, là thích đâm bị thóc, chọc bị gạo.) Còn điểm thứ hai? (Thưa, là thích chiếm lợi.) Xét từ nội dung của hai điểm này, có vẻ như không đủ để coi đây là biểu hiện của kẻ ác, nhưng dựa trên biểu hiện chi tiết mà Ta đã thông công trước đây thì hai loại người này đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm nhưng vẫn chưa thực sự hối cải; đủ loại biểu hiện của họ đã gây ra sự nhiễu loạn và phá hoại đối với đời sống hội thánh, lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, và mối quan hệ giữa những dân được Đức Chúa Trời chọn. Dựa vào các biểu hiện và chiếu theo thực chất bản tính của họ, hai loại người này nên được phân loại là kẻ ác. Lãnh đạo hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn nên phân định và xác định tính chất họ, cũng như kịp thời thanh trừ họ. Làm như vậy có thích hợp không? (Thưa, có.) Hoàn toàn thích hợp. Biểu hiện của hai loại người này trong hội thánh có ảnh hưởng rất xấu; họ không hề có hứng thú với lẽ thật, cũng không hề thuận phục công tác của Đức Chúa Trời. Ở giữa anh chị em, những gì họ sống thể hiện ra dường như không khác gì người ngoại đạo; họ thường nói dối và lừa gạt người khác, làm bổn phận một cách qua loa chiếu lệ và không có chút trách nhiệm nào, cũng như không thay đổi mặc dù đã được cảnh báo nhiều lần. Họ không chỉ làm ảnh hưởng đến đời sống hội thánh mà còn gây nhiễu loạn nghiêm trọng công tác của hội thánh. Không nghi ngờ gì nữa, họ nằm trong số những người mà hội thánh nên thanh trừ hoặc khai trừ, và việc xác định tính chất họ là kẻ ác cũng như liệt họ vào hàng ngũ kẻ ác là hoàn toàn thích hợp, không hề quá đáng chút nào. Về loại đầu tiên, những người thích đâm bị thóc, chọc bị gạo, vấn đề của họ không chỉ đơn giản là nói những điều không thích hợp lắm hoặc gặp rào cản khi giao tiếp với người khác, v.v., mà còn có vấn đề về tâm tính. Ở mức độ sâu hơn, vấn đề về tâm tính là vấn đề về thực chất bản tính của họ. Ở mức độ nông hơn, đó là vấn đề về nhân tính của họ; nghĩa là, nhân tính của họ cực kỳ tồi tệ và đê tiện, khiến họ không có cách nào qua lại bình thường với người khác. Họ không những không có các biểu hiện tích cực như cung ứng, giúp đỡ, yêu thương, v.v. với người khác, mà mọi hành động và hành vi của họ chỉ gây nhiễu loạn, phá hoại, và phá huỷ. Nếu một số người từ đầu đến cuối toàn đâm bị thóc, chọc bị gạo, luôn làm như vậy dù lén lút hay công khai, gây ảnh hưởng rất xấu đến công tác của hội thánh và anh chị em, thì họ chính là những người mà hội thánh nên thanh trừ. Loại thứ hai là những người thích chiếm lợi. Bất kể trong tình huống nào, họ đều muốn chiếm lợi, mắt dán chặt vào lợi ích. Họ không chú trọng việc bước vào thực tế lẽ thật, cũng không chú trọng đến việc làm tốt bổn phận hay công tác mình đảm nhận. Họ càng không chú trọng vào việc hòa hợp bình thường với anh chị em, lấy mạnh bù yếu cho nhau và xây dựng các mối quan hệ bình thường, hoặc sống một đời sống hội thánh bình thường. Họ không chú trọng bất kỳ điều gì trong số này mà chỉ đến hội thánh và đến giữa anh chị em để kiếm lợi. Chỉ cần họ ở trong hội thánh, chỉ cần anh chị em tiếp xúc với họ, thì anh chị em sẽ cảm thấy không thoải mái. Anh chị em không chỉ cảm thấy phản cảm với hành động và hành vi của họ, mà chủ yếu là trong lòng thường cảm thấy bị quấy nhiễu và kìm kẹp ở mức độ đáng kể. “Mức độ đáng kể” có nghĩa là gì? Nghĩa là trong cuộc sống thực tế, khi bị kẻ chẳng tin hoặc kẻ ác quấy rối, một số người bị tình cảm kìm kẹp và không có cách nào thoát ra, trong khi những người khác dù thấy chướng mắt cũng không dám nói thẳng ra, mà luôn cảm thấy bị kìm kẹp và bất an trong lòng. Chẳng phải chuyện này gây ra sự nhiễu loạn nghiêm trọng cho anh chị em sao? (Thưa, phải.) Cho nên, dân được Đức Chúa Trời chọn phải phân định hai loại người này; hễ là kẻ ác thì đều nên bị hội thánh thanh trừ. Các nguyên tắc cụ thể để xử lý những người này đã được thông công trong buổi nhóm họp lần trước, nên lần này Ta sẽ không thông công chi tiết nữa. Tóm lại, hai loại người được thông công ở trên đã gây nhiễu loạn không chỉ đến đời sống hội thánh của anh chị em, mà còn đến việc làm bổn phận một cách có trật tự của anh chị em; hành vi của một vài người trong số họ thậm chí có thể khiến một vài người mới tin và chưa có nền tảng bị vấp ngã. Cho nên, xét phương thức và phương pháp họ hành động, cũng như đủ loại biểu hiện trong nhân tính của họ và mọi hậu quả xấu mà những biểu hiện này gây ra, thì hai loại người này chính là đối tượng mà hội thánh nên thanh trừ, và việc liệt họ vào hàng ngũ kẻ ác là không hề quá đáng. Mặc dù hành vi của những người thích đâm bị thóc, chọc bị gạo và những người thích chiếm lợi có thể không ngang ngược hay hung ác như những kẻ ác trong quan niệm của con người, không có những biểu hiện rõ ràng này, nhưng vì những hậu quả xấu do hành vi và nhân tính của họ gây ra, nên hội thánh phải thanh trừ họ. Đây là những biểu hiện của hai loại người này, và các nguyên tắc xử lý họ, mà chúng ta đã thông công lần trước.

II. Dựa vào nhân tính

C. Phóng đãng và không chịu sự ràng buộc

Hôm nay, chúng ta tiếp tục thông công về biểu hiện của một vài loại người khác nằm trong chuyện nhân tính, bắt đầu với loại người thứ ba. Một đặc trưng chính trong nhân tính của những người này là gì? Chính là phóng đãng và không chịu sự ràng buộc. Phóng đãng và không chịu sự ràng buộc thì rất dễ hiểu về mặt nghĩa đen; có nghĩa là hành vi, cử chỉ, và lời lẽ của những người này có vẻ không có khuôn phép – họ không phải là người đàng hoàng và đứng đắn. Đây là hiểu biết tối thiểu về biểu hiện của những người thuộc loại này. Trong hội thánh, không thể tránh khỏi chuyện một vài người có những sai lệch và sai lầm trong quan điểm về việc tin Đức Chúa Trời và phương thức mưu cầu. Lời lẽ và cử chỉ của họ không có chút gì là sùng kính, biểu hiện trong cuộc sống và phẩm chất nhân tính của họ hoàn toàn không đạt đến thể thống của thánh đồ, họ cũng không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời chút nào. Nhìn chung, lời lẽ, hành vi, và cử chỉ của họ chỉ có thể được mô tả là phóng đãng và không chịu sự ràng buộc. Tất nhiên, có rất nhiều biểu hiện cụ thể mà mọi người đều có thể nhìn thấy, cũng dễ dàng phân định. Những người này giống như những kẻ chẳng tin và người ngoại đạo; nói cụ thể là biểu hiện của họ đặc biệt phóng đãng. Trong các buổi nhóm họp, họ ăn mặc rất tùy tiện. Một số người không thèm chăm sóc cho bản thân gọn gàng trước khi ra khỏi nhà, họ đến các buổi nhóm họp trong tình trạng đầu bù tóc rối, tóc thì không chải, mặt thì không rửa. Một số người ăn mặc luộm thuộm, đi dép lê mòn rách hoặc thậm chí mặc đồ ngủ đến các buổi nhóm họp. Có những người thì sống luộm thuộm, không chú ý đến vệ sinh cá nhân, họ mặc quần áo bẩn đến các buổi nhóm họp mà cũng không thấy ngại. Họ tham gia các buổi nhóm họp một cách cực kỳ tùy tiện, như thể sang nhà hàng xóm chơi, chẳng coi trọng gì cả. Khi nhóm họp, lời lẽ và cử chỉ của họ cũng không chịu sự ràng buộc, họ nói to mà không có chút e dè nào, thậm chí khi nói đến lúc cao hứng thì kích động và múa may quay cuồng, đặc biệt phóng túng. Bất kể trước mặt bao nhiêu người, họ vẫn cười cười nói nói, khoa tay múa chân, ngồi vắt chéo chân và không coi ai ra gì; họ đặc biệt khoa trương, thậm chí là ngổ ngáo, khi nói chuyện với người khác thì không bao giờ nhìn thẳng vào mắt người ta mà chỉ liếc ngang liếc dọc. Làm như vậy chẳng phải là phóng đãng sao? (Thưa, phải.) Đặc biệt phóng túng và không có chút ràng buộc nào. Tất nhiên, người ngoại đạo cũng có thể quy những lời lẽ và cử chỉ của những người này là do không được dạy dỗ, nhưng chúng ta hiểu theo cách khác; đây không chỉ là vấn đề không được dạy dỗ. Là người trưởng thành thì phải biết rõ lời lẽ, cử chỉ và cách đối nhân xử thế như thế nào là đúng đắn và phù hợp – nhất là, phải biết làm như thế nào là phù hợp với thể thống thánh đồ, là đem lại sự gây dựng cho anh chị em, là điều mà nhân tính bình thường nên có – mà không cần được chỉ bảo. Nhất là khi sống đời sống hội thánh, tuy không cần phải ngụy trang trước mặt anh chị em, nhưng phải biết chịu sự ràng buộc. Vậy, mức độ và tiêu chuẩn cần đạt đến của sự ràng buộc này là gì? Chính là phù hợp với thể thống thánh đồ. Quần áo và cách ăn mặc phải đàng hoàng và đứng đắn, tránh ăn mặc quái dị, phải sùng kính trước mặt Đức Chúa Trời, không được khoa tay múa chân; tất nhiên, trước mặt người khác thì cũng phải sùng kính và có hình tượng giống con người, để mọi người cảm thấy thích hợp, có ích và đem lại sự xây dựng cho mọi người. Làm như vậy thì Đức Chúa Trời mới hài lòng. Những người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc thì không hề để tâm đến việc sống thể hiện ra những khía cạnh cơ bản nhất của nhân tính. Một trong những lý do chắc chắn khiến họ không để tâm đến chính là về cơ bản thì họ không biết cách để làm một người sùng kính hoặc người có nhân cách và tôn nghiêm, đáng được tôn trọng; họ không hiểu những điều này. Cho nên, mặc dù hội thánh đã nhiều lần quy định và yêu cầu mọi người phải ăn mặc chỉnh tề, đàng hoàng và đứng đắn trong các buổi nhóm họp, không được ăn mặc quái dị, nhưng họ vẫn không coi trọng những quy tắc này, vẫn thường đến buổi nhóm họp với đôi dép lê, đầu tóc rối bù hoặc thậm chí với bộ đồ ngủ. Đây là một trong những biểu hiện của người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc.

Một biểu hiện khác của những người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc là họ ăn mặc rất thời thượng, trang điểm đậm và bắt mắt khi đến các buổi nhóm họp. Hai ngày trước buổi nhóm họp, họ bắt đầu trang điểm và làm đẹp, suy nghĩ xem nên trang điểm như thế nào, đeo đồ trang sức gì, chọn kiểu tóc gì, mặc trang phục nào, mang túi gì và đi giày nào. Thậm chí một số phụ nữ còn tô son, phấn mắt và phấn mũi rất bắt mắt, tệ hơn nữa, một số người còn ăn mặc và trang điểm theo cách hấp dẫn quá mức, để lộ vai và lưng, ăn mặc quái dị. Lúc nhóm họp, họ không chăm chú lắng nghe mối thông công của anh chị em, cũng không cầu nguyện, càng không tham gia thông công hoặc chia sẻ nhận thức và lời chứng trải nghiệm cá nhân của mình. Thay vào đó, họ so sánh mình với mọi người khác, quan tâm việc ai ăn mặc đẹp hơn họ, ai ăn mặc không bằng họ, ai đang mặc quần áo hiệu đặc biệt thịnh hành, ai đang mặc quần áo rẻ tiền mua ở vỉa hè, giá của chiếc vòng tay mà ai đó đang đeo, v.v., họ chỉ quan tâm đến những chuyện này, thậm chí thường xuyên so sánh một cách công khai. Xét từ cách ăn mặc cũng như lời lẽ, hành vi, và cử chỉ của những người này, rõ ràng họ tham gia vào đời sống hội thánh và tiếp xúc với anh chị em không phải để hiểu lẽ thật, càng không phải để mưu cầu lối vào sự sống nhằm đạt được sự thay đổi trong tâm tính, mà là để lợi dụng thời gian nhóm họp nhằm khoe khoang sự hưởng thụ tiền bạc và cuộc sống vật chất của họ. Một số người mặc toàn hàng hiệu tới những nơi nhóm họp để khoe khoang, buông thả hết mình vào dục vọng về thời trang và trào lưu xã hội giữa anh chị em, dụ dỗ người khác mưu cầu những trào lưu này, cũng như khiến người khác ghen tị và xem trọng họ. Mặc dù có thể thấy một số anh chị em có ánh mắt và thái độ phản cảm đối với họ, nhưng họ vẫn chẳng thèm để ý, cứ làm theo ý mình, đi giày cao gót và mang túi hiệu. Thậm chí một số người còn cố tỏ ra giàu có và nhiều tiền, dùng nước hoa kém chất lượng đến các buổi nhóm họp, nên sau khi họ bước vào phòng, mùi nước hoa, phấn má hồng và dầu dưỡng tóc hòa quyện tạo thành một mùi hăng và khó chịu. Rất nhiều người tức giận nhưng không dám nói ra, trông thấy họ là ghê tởm, còn những người thật lòng tin Đức Chúa Trời thì tránh xa họ. Cho dù trang phục và cách trang điểm của họ thiên về sang trọng hay thiên về thoải mái, thì tóm lại đặc trưng của những người này là lời lẽ, hành vi, cử chỉ, và lối sống của họ đặc biệt tự do và bừa bãi không chỉ trong các buổi nhóm họp mà còn trong sự tiếp xúc hằng ngày với anh chị em hoặc trong cuộc sống thường ngày của họ. Nói một cách chính xác, họ đặc biệt phóng túng, không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào. Sinh hoạt không có quy luật; muốn nói gì thì nói, hành động tuỳ tiện và bừa phứa, không bao giờ nói về trải nghiệm cá nhân, hiếm khi chia sẻ nhận thức của mình về lời Đức Chúa Trời và hầu như không nói về những khó khăn gặp phải khi làm bổn phận. Họ chỉ nói về những điều gì? Trào lưu xã hội, thời trang, món ngon, cuộc sống riêng tư của những người nổi tiếng và thậm chí là các ngôi sao, cũng như những giai thoại kỳ lạ trong xã hội. Từ những sự bộc lộ tự nhiên này, không khó để thấy ra loại người này tin Đức Chúa Trời chỉ để sống qua ngày. Cuộc sống của họ tập trung hoàn toàn vào việc ăn, uống và vui chơi, thay vì vào những chuyện như sống đời sống hội thánh, làm bổn phận, hoặc mưu cầu lẽ thật. Cái gọi là “phóng đãng và không chịu sự ràng buộc” chính là nói đến chuyện lối sống của những người này, những gì họ sống thể hiện ra trong nhân tính, cũng như cách họ xử sự, cách họ đối nhân xử thế và qua lại với người khác, đều phóng đãng và không chịu sự ràng buộc. Họ thường bắt chước những cách nói thịnh hành trong xã hội; bất kể anh chị em có thích nghe hoặc có hiểu được hay không, họ vẫn cứ nói. Thậm chí, họ còn hay bắt chước lời của một số người nổi tiếng trong xã hội, cũng như ngôi sao âm nhạc và điện ảnh. Còn một số từ vựng tích cực thường mà nhà Đức Chúa Trời và anh chị em thường dùng thì họ lại chẳng bao giờ thấy hứng thú; họ chẳng bao giờ thông công về lẽ thật trong cuộc sống hằng ngày. Những gì họ sùng bái là trào lưu của thế gian; nhiều nhân vật và ngôi sao nổi tiếng là đối tượng mà họ sùng bái và bắt chước. Chẳng hạn như, họ nhanh chóng nắm bắt được một số từ ngữ và cách nói phổ biến trên mạng và áp dụng vào cuộc sống cũng như trong các cuộc trò chuyện với anh chị em. Tất nhiên, những từ ngữ này chắc chắn không phải là thứ tích cực có thể đem lại sự xây dựng cho người khác; những từ ngữ này đều là thứ tiêu cực, càng không có bất kỳ giá trị hoặc ý nghĩa nào đối với người tin Đức Chúa Trời. Những cách nói thịnh hành này thuộc về nhân loại bại hoại và tà ác, hoàn toàn đại diện cho tư tưởng và quan điểm của thế lực tà ác. Những kẻ chẳng tin trong hội thánh vốn thích trào lưu tà ác, thường để ý, tiếp nhận và sử dụng những lời nói này. Đối với những thuật ngữ và từ vựng thuộc linh của nhà Đức Chúa Trời, thì họ hoàn toàn nghe không vào, cũng không để tâm lắng nghe hoặc học hỏi. Ngược lại, họ học và vận dụng rất nhanh những thứ tiêu cực của thế giới ngoại đạo, và những thứ mà kẻ cặn bã chú ý đến. Do đó, dù xét theo cách ăn mặc bên ngoài, lời lẽ, và cử chỉ, hay là xét theo những suy nghĩ và quan điểm, cũng như thái độ đối với mọi sự mà họ bộc lộ, thì những người này rõ ràng là thứ lạc loài giữa anh chị em. Lạc loài có nghĩa là gì? Nghĩa là lời lẽ, hành vi, và cử chỉ của họ giống như của người ngoại đạo, chẳng thay đổi chút nào; họ chính là những kẻ chẳng tin. Ví dụ, có một số người hát hai bài thánh ca trên sân khấu nhà Đức Chúa Trời và được mọi người khen ngợi, thế là họ bắt đầu nghĩ mình là ngôi sao hoặc người nổi tiếng, luôn yêu cầu trang điểm đậm khi biểu diễn, khăng khăng phải để kiểu tóc của một người nổi tiếng nào đó và nhuộm tóc thành màu kỳ quái. Khi người khác nói: “Người tin Đức Chúa Trời phải ăn mặc đàng hoàng và đứng đắn; phong cách của chị không phù hợp với yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời”, thì họ phàn nàn rằng: “Quy định của nhà đức chúa trời quá nghiêm ngặt; thật sự phiền phức! Tại sao muốn làm một ngôi sao lại khó khăn đến vậy?”. Sau khi hát xong hai bài thánh ca, họ tự cho mình là ngôi sao ghê gớm lắm, mỗi khi rảnh rỗi đều nghĩ: “Những ngôi sao ngoại đạo dùng bao nhiêu ngón tay để cầm micrô khi hát? Họ bước bao nhiêu bước để lên sân khấu? Tại sao mình hát hay như vậy mà không được tặng hoa? Các ngôi sao trên thế giới đều có người quản lý và trợ lý; họ không cần tự mình xử lý hoặc đối phó với mấy chuyện xoàng xĩnh, trợ lý của họ làm hết. Còn mình làm ca sĩ trong nhà đức chúa trời, thì phải xử lý mọi chuyện vụn vặt của cuộc sống như lấy thức ăn, mặc quần áo, và mua đồ. Nhà đức chúa trời quá bảo thủ rồi!”. Trong lòng, họ luôn cảm thấy sống trong nhà Đức Chúa Trời chẳng vui, đặc biệt ấm ức, luôn không cam tâm và trong lòng chất chứa oán trách. Những người như vậy có thể yêu thích lẽ thật không? Họ sẽ thực hành lẽ thật sao? Tại sao họ không tự phản tỉnh? Quan điểm của họ về mọi thứ rất méo mó, giống như quan điểm của người ngoại đạo; sao họ không thể nhận ra vậy? Nhà Đức Chúa Trời không ngăn cản họ trở thành ngôi sao, nhưng những quan điểm và cách làm theo kiểu kẻ chẳng tin của họ mà làm trong nhà Đức Chúa Trời thì có ổn không? Về cơ bản là không thể nào ổn được. Lời lẽ và cử chỉ bình thường của họ khiến hầu hết mọi người cảm thấy khinh thường. Bởi vì những người này “suy nghĩ cởi mở” và đặc biệt phóng túng, nên họ nói gì, làm gì cũng đều phóng đãng và không chịu sự ràng buộc, đều bộc lộ tâm tính của Sa-tan.

Nhà Đức Chúa Trời nhiều lần nhấn mạnh rằng anh chị em nên phân rõ ranh giới giữa nam và nữ, không được vướng mắc với người khác giới. Tuy nhiên, một số người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc thì không hề nghe theo lời khuyên này, họ còn muốn lén lút tán tỉnh hoặc hẹn hò với người khác, gây nhiễu loạn đời sống hội thánh. Họ thích tiếp xúc với người khác giới, thậm chí tìm lý do hoặc lấy cớ để tiếp xúc và trêu đùa với người khác giới. Khi thấy người khác giới nào hấp dẫn hoặc nói chuyện hợp ý, họ bắt đầu hở ra là lôi lôi kéo kéo, liếc mắt đưa tình, kéo quần áo và giật tóc, thậm chí ném bóng tuyết vào quần áo người đó vào mùa đông; họ đùa giỡn với nhau như chó mèo chơi đùa, không có chừng mực hay liêm sỉ, không cảm thấy xấu hổ. Có một số người nói: “Sao có thể gọi là chơi đùa được? Họ đang thể hiện tình cảm; đó gọi là tình tứ, lãng mạn”. Nếu muốn lãng mạn thì ngươi chọn nhầm nơi rồi. Hội thánh là nơi anh chị em làm bổn phận, là nơi thờ phượng Đức Chúa Trời, không phải nơi liếc mắt đưa tình. Ngươi liếc mắt đưa tình công khai như vậy trước mặt mọi người khiến hầu hết mọi người thấy phản cảm và ghê tởm. Điều quan trọng là làm vậy không đem lại sự xây dựng cho người khác, ngươi cũng đánh mất nhân cách và tôn nghiêm của mình. Ngươi bao nhiêu tuổi rồi? Ngươi không phân biệt được tay phải với tay trái sao? Ngươi không hiểu sự khác biệt giữa nam và nữ là gì sao? Thế mà ngươi vẫn liếc mắt đưa tình! Trẻ con bảy hoặc tám tuổi chơi đùa là chuyện bình thường; ở độ tuổi đó có hành động và sở thích như vậy là bình thường, nhưng người lớn mà vẫn còn biểu hiện như vậy thì chẳng phải là ấu trĩ sao? Nói một cách đơn giản, thì làm như vậy là ấu trĩ. Xét về thực chất thì đây là gì? (Thưa, là phóng túng và phóng đãng.) Quá phóng đãng rồi! Tin Đức Chúa Trời thì phải biết xấu hổ. Ngay cả trong những người ngoại đạo cũng có rất ít người phóng đãng như vậy. Những người phóng đãng như vậy thật phù phiếm và hèn hạ! Họ ném bóng tuyết vào quần áo của người khác giới để gây kích thích, không chỉ đuổi bắt và chơi đùa, mà còn đá vào mông người khác giới. Có người vạch trần rằng việc họ làm là quá phóng đãng và không phân biệt ranh giới giữa nam và nữ, thì họ đáp trả: “Chúng tôi vì quá thân thiết nên mới chơi đùa như vậy; mọi người nên hiểu cho”. Họ phóng túng đến mức độ như vậy, không chỉ phóng túng bản thân mà còn dụ dỗ người khác cùng phóng túng với họ. Họ là thứ gì vậy? Các ngươi nói xem, những người như vậy có nên được ở lại trong hội thánh không? (Thưa, không nên.) Ở gần loại người này sẽ khiến mọi người luôn không thoải mái và gượng gạo. Khi gặp người khác, họ không chào hỏi theo cách thông thường, mà đến đấm người đó và nói: “Mấy năm nay anh ở chỗ quái nào thế? Tôi nghĩ anh đã bốc hơi rồi! Dạo này anh thế nào?”. Ngay cả cách họ chào hỏi cũng man rợ và ngổ ngáo, không chỉ nói năng man rợ mà còn dùng tay chân, chẳng phải có chút giống côn đồ hoặc kẻ cướp sao? Các ngươi có thích những người như vậy không? (Thưa, không thích.) Có thoải mái khi bị trêu chọc và đùa giỡn không? (Thưa, không thoải mái.) Ngươi không thoải mái nhưng không thể nói ra; chỉ có thể chịu đựng, lần sau thấy họ thì tránh xa. Tóm lại, phẩm chất nhân tính của loại người này như thế nào? (Thưa, không tốt.) Bất kể nhìn nhận theo mặt nào – dù là lời lẽ và cử chỉ, cách hành xử, cách họ đối nhân xử thế, cách nhìn nhận của họ về các trào lưu ngoại đạo, hoặc cách họ tin Đức Chúa Trời cũng như cách họ đối đãi với Đức Chúa Trời và với lời Ngài – không khó để thấy rằng những người này không hề có chút sùng kính hay lòng kính sợ Đức Chúa Trời nào. Người ta cũng không thấy được họ có bất kỳ sự chân thành nào trong việc mưu cầu hoặc tiếp nhận lẽ thật khi tin Đức Chúa Trời. Thứ mà mọi người thấy là sự phóng đãng và không chịu sự ràng buộc của họ, việc họ liên tục bắt chước các ngôi sao và thần tượng, cũng như việc họ không có ý định xoay chuyển dù được thông công lẽ thật như thế nào. Những đặc trưng về nhân tính của họ quy kết lại là gì? Là phóng đãng và không chịu sự ràng buộc. Cho nên, chúng ta có thể khẳng định rằng họ là những người ngoại đạo trà trộn vào nhà Đức Chúa Trời; họ là kẻ chẳng tin.

Người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc khi nói chuyện thì dùng từ giống như thổ phỉ và lưu manh ngoại đạo; họ đặc biệt thích bắt chước cách nói và phong cách của các ngôi sao và nhân vật phản diện trong xã hội, hầu hết lời nói của họ đều có tính vô lại, khiến người ta cảm thấy giống như lời nói của lưu manh, côn đồ. Ví dụ, một người ngoại đạo đến, sau khi gõ cửa thì thốt ra vài lời kỳ quái, anh chị em nghe thấy liền bảo: “Có gì đó không đúng; tại sao người này có vẻ giống do thám hay đặc vụ vậy?”. Mặc dù lúc đó họ không thể chắc chắn, nhưng hầu hết mọi người đều cảm thấy bất an trong lòng. Tuy nhiên, người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc lại nói một cách rất hùng hồn, còn có cả khí thế, rằng: “Do thám hả? Chẳng sợ! Tại sao phải sợ? Nếu sợ thì anh không cần ra ngoài. Để tôi đi xem có chuyện gì”. Hãy xem họ can đảm và có khí phách làm sao. Các ngươi có nói như vậy không? (Thưa, không. Đây không phải là lời của người bình thường, mà giống lời của thổ phỉ.) Thổ phỉ nói khác với người bình thường; họ đặc biệt ngang ngược. Người thuộc loại nào thì học ngôn ngữ thuộc loại đó; người trong xã hội chuyên môn sử dụng ngôn ngữ thịnh hành trong xã hội, kẻ thổ phỉ và lưu manh thì thích nói tiếng lóng của họ, kẻ chẳng tin thì giống như người ngoại đạo, toàn nói lời mà người ngoại đạo nói. Những người tốt, đàng hoàng và đứng đắn mà nghe lời nói của người ngoại đạo thì cảm thấy ghê tởm và chán ghét; chẳng ai cố gắng học theo loại lời nói đó. Một số kẻ chẳng tin, ngay cả khi đã tin Đức Chúa Trời mười hoặc hai mươi năm, vẫn nói lời lẽ của người ngoại đạo, họ chuyên môn tìm những lời như vậy mà nói, thậm chí khi nói còn bắt chước cử chỉ, ánh mắt, thần thái cũng như điệu bộ của người ngoại đạo. Liệu những người như vậy có thể khiến anh chị em trong hội thánh vừa mắt không? (Thưa, không.) Hầu hết anh chị em đều không thấy vừa mắt và trong lòng không thoải mái khi nhìn thấy họ. Các ngươi nói xem, Đức Chúa Trời cảm thấy như thế nào về họ? (Thưa, thấy chán ghét.) Câu trả lời rất rõ ràng: chán ghét. Xét từ cách họ sống thể hiện ra, điều họ mưu cầu, cũng như những con người, sự việc và sự vật mà họ sùng bái trong lòng, thì nhân tính của họ không đàng hoàng, đứng đắn, còn lâu mới đạt đến sự sùng kính và phù hợp với thể thống thánh đồ. Rất hiếm khi nghe từ miệng họ những lời mà người tin Đức Chúa Trời hoặc các thánh đồ nên nói, những lời đem lại sự xây dựng cho người khác cũng như những lời có nhân cách và tôn nghiêm; rất khó để nghe được những lời này. Bởi vì những gì họ sùng bái, khao khát, và mưu cầu trong lòng căn bản chẳng ăn nhập gì với những gì các thánh đồ nên mưu cầu và khao khát, cho nên rất khó để ràng buộc những gì họ sống thể hiện ra bên ngoài, cũng như lời lẽ và cử chỉ bên ngoài của họ. Nếu yêu cầu họ chịu sự ràng buộc, không phóng đãng hay phóng túng, cũng như trở nên đàng hoàng và đứng đắn thì họ sẽ rất khó đạt đến. Chưa nói đến việc sống như một người có nhân tính và lý trí, hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, ngay cả bảo họ làm một người bình thường, phù hợp với thể thống thánh đồ, có nhân cách và tôn nghiêm, biết khuôn phép và bề ngoài có vẻ có lý tính, thì họ cũng không đạt đến được. Trước đây, có một người về nông thôn để rao truyền phúc âm. Khi thấy một số anh chị em có điều kiện gia đình nghèo khó và sống trong những ngôi nhà tồi tàn, anh ta đã mỉa mai và chế giễu rằng: “Ngôi nhà này đổ nát như vậy rồi, không thích hợp cho người ở; làm chuồng lợn thì còn được. Mau dọn ra ngoài thôi!”. Người ta đáp lại: “Dọn ra thì dễ, nhưng ai sẽ cho chúng tôi ngôi nhà khác để ở?”. Anh ta nói mà không nghĩ đến hậu quả, chỉ theo ý mình, nghĩ gì nói nấy mà không cân nhắc xem nó sẽ ảnh hưởng thế nào đến người khác. Đây chính là tính vô lại. Khi người ta nói: “Khi chúng tôi dọn ra, ai sẽ cho chúng tôi ngôi nhà để ở? Anh có nhà không?”, thì anh ta không nói được gì cả. Khi thấy người ta gặp khó khăn, ngươi phải có thể giải quyết được khó khăn của họ thì mới nói chứ. Ngươi không giải quyết được khó khăn của người ta, lại còn nói năng bừa bãi, vậy sẽ dẫn đến hậu quả gì? Đây là vấn đề nói năng thẳng thắn và bộc trực quá mức sao? Hoàn toàn không phải. Đây là tính vô lại quá nghiêm trọng; phóng đãng và không chịu sự ràng buộc. Loại người này hoàn toàn không hiểu cái gì là nhân cách, tôn nghiêm, sự cảm thông, bao dung, bảo vệ, tôn trọng, thấu hiểu, đồng cảm, thương xót, quan tâm, giúp đỡ, v.v.. Những thứ thiết yếu trong nhân tính bình thường này là những gì con người đều nên có. Họ chẳng những không có những điều này, mà khi tiếp xúc người khác, khi thấy người gặp khó khăn, họ còn có thể cười nhạo, chế giễu, châm biếm, và chê cười. Họ không những không thể thông hiểu hoặc giúp đỡ người khác, mà còn có thể mang lại nỗi buồn đau, bất lực, đau khổ, và thậm chí là phiền phức cho người khác. Đối với những người có tính vô lại nghiêm trọng như vậy, hầu hết mọi người đều thấy rõ ràng, còn phải chịu đựng họ hết lần này đến lần khác. Các ngươi nói xem, những người như vậy có thể thực sự hối cải không? Ta thấy là không dễ đâu. Xét từ thực chất bản tính của họ, họ không phải là người yêu mến lẽ thật, vậy làm sao họ có thể tiếp nhận sự tỉa sửa và sửa dạy đây? Khi mô tả loại người này, người ngoại đạo có những từ ngữ như “việc ta ta làm” hoặc “đường ta ta đi, ai nói mặc kệ” – đây là loại logic vô lý gì vậy? Những cái được gọi là danh ngôn và thành ngữ này thường được coi là những điều tích cực trong xã hội này, như vậy là có chút bóp méo sự thật và đảo ngược trắng đen. Biểu hiện trong nhân tính của những người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc về cơ bản là những điều này.

Bất kể những người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc này có gây ảnh hưởng đến đời sống hội thánh, các mối quan hệ bình thường giữa anh chị em, hay việc làm bổn phận bình thường của dân được Đức Chúa Trời chọn hay không, tóm lại, chỉ cần biểu hiện và sự bộc lộ về nhân tính của họ gây ra ảnh hưởng và hậu quả xấu, gây nhiễu loạn anh chị em, thì những vấn đề như vậy nên được giải quyết, những người như vậy nên được xử lý thích đáng, không được buông lỏng mặc kệ họ. Đối với những trường hợp nhẹ, chúng ta có thể giúp đỡ và hỗ trợ họ, hoặc tỉa sửa và cảnh cáo họ. Đối với những trường hợp nghiêm trọng, nếu hành vi và cử chỉ của họ đặc biệt phóng đãng, giống như của người ngoại đạo hoặc kẻ chẳng tin, không có chút thể thống thánh đồ nào, thì lãnh đạo và người làm công trong hội thánh nên đưa ra những phương án giải quyết tương ứng để xử lý những người này. Nếu điều kiện cho phép, chỉ cần đa số anh chị em đồng ý, thì nên thanh trừ những người này; ít nhất, không nên cho phép họ ở lại hội thánh toàn thời gian để làm bổn phận. “Đối với những trường hợp nhẹ” là nói đến điều gì? Nghĩa là một số người mới tin Đức Chúa Trời, họ vốn là người ngoại đạo, chưa từng tin theo Cơ Đốc giáo và không hiểu tin Đức Chúa Trời có nghĩa là gì. Lời lẽ và cử chỉ của họ cho thấy tập tính của người ngoại đạo. Tuy nhiên, thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời, thông công lẽ thật, và sống đời sống hội thánh, họ dần dần xoay chuyển và thay đổi, trở nên giống như những người tin Đức Chúa Trời, có chút hình tượng giống con người. Không nên quy những người này vào hàng ngũ kẻ ác, mà nên quy vào đối tượng có thể được giúp đỡ. Loại thứ hai là những người trẻ tuổi khoảng hai mươi tuổi. Mặc dù đã tin Đức Chúa Trời ba đến năm năm, nhưng vì tuổi đời còn trẻ nên họ vẫn ham chơi, không ổn định lắm, lời nói và cử chỉ bề ngoài của họ có chút ấu trĩ – cách nói, hành vi, cách làm, đủ thứ của họ đều giống như trẻ con. Với những người này, chúng ta nên giúp đỡ và hỗ trợ họ bằng tình yêu thương, cho họ đủ thời gian để thay đổi dần dần, không cần yêu cầu quá nghiêm ngặt. Tất nhiên, nếu người trưởng thành đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, nhưng lời lẽ, cử chỉ, hành vi, và biểu hiện của họ vẫn phóng đãng và không chịu sự ràng buộc như những người ngoại đạo, dạy mãi không sửa, thì phải tiếp cận theo cách khác; phải xử lý họ theo quy định của nhà Đức Chúa Trời. Nếu lời lẽ, cử chỉ, và sự bộc lộ về nhân tính của người này gây nhiễu loạn đa số mọi người và gây ra ảnh hưởng xấu trong hội thánh, khiến nhiều người nhìn thấy thì thấy ác cảm, không muốn nghe họ nói, không muốn nhìn thấy biểu cảm của họ khi nói, cũng không muốn nhìn thấy cách họ ăn mặc, và họ mà không đến nhóm họp thì hầu hết mọi người đều thấy vui vẻ hơn và có trạng thái tốt hơn, chỉ cần những người này tham gia đời sống hội thánh, gia nhập vào giữa anh chị em, thì đa số mọi người sẽ cảm thấy không thoải mái và ác cảm, như thể có con rệp đang quấy rối họ, thì những người như vậy chắc chắn là kẻ ác. Nghĩa là, bất cứ khi nào họ sống đời sống hội thánh và làm bổn phận cùng anh chị em, thì đa số mọi người đều bị gây nhiễu loạn và cảm thấy đặc biệt ác cảm. Trong những trường hợp như vậy, thì nên xử lý loại người này càng sớm càng tốt, không nên để mặc họ làm gì tùy thích hay tiếp tục chú ý quan sát họ. Ít nhất, nên thanh lọc họ khỏi hội thánh toàn thời gian và gửi họ đến một hội thánh bình thường để họ hối cải. Tại sao lại xử lý như vậy? (Thưa, vì họ đã gây ra sự nhiễu loạn và hậu quả xấu cho hầu hết mọi người, gây nhiễu loạn đời sống hội thánh.) Bởi vì hậu quả và ảnh hưởng do những biểu hiện của họ gây ra quá tồi tệ! Dựa trên điều này, lãnh đạo và người làm công, cũng như dân được Đức Chúa Trời chọn, không nên nhắm mắt làm ngơ và một mực dung túng cho hành vi của họ. Lãnh đạo và người làm công không xử lý ngay cả khi những người như vậy gây nhiễu loạn cho phần lớn mọi người, như vậy là không thích hợp; những người này nên bị thanh lọc khỏi hội thánh theo quy định của nhà Đức Chúa Trời. Như vậy là lựa chọn sáng suốt nhất.

Trước đây, hội thánh đã từng xử lý những người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc chưa? (Thưa, đã từng.) Khi những người như vậy bị xử lý, có người đã khóc và nói rằng: “Tôi không cố ý. Tôi chỉ thỉnh thoảng có biểu hiện như vậy thôi; tôi không phải là loại người đó. Xin hãy cho tôi một cơ hội nữa! Nếu không để tôi làm bổn phận, tôi về nhà rồi thì sẽ không có cách nào tin đức chúa trời, mọi người ở nhà tôi đều là người ngoại đạo”. Họ nói rất dễ nghe và có vẻ thực sự khổ sở, nói rằng mình không sẵn lòng rời xa Đức Chúa Trời và cầu xin nhà Đức Chúa Trời cho họ một cơ hội khác để hối cải. Cho họ thêm một cơ hội nữa cũng được thôi, nhưng điều quan trọng là họ có thể thay đổi hay không. Nếu thấy rõ rằng người này không có chút nhân tính nào, không có lương tâm hay lý trí, về cơ bản họ là thứ không có tâm và không có linh, thì không nên cho họ cơ hội khác; làm như vậy cũng vô ích. Tuy nhiên, nếu thấy bản chất của người này tốt, chỉ là nhân tính của họ chưa chín chắn do tuổi còn trẻ, và họ chắc chắn sẽ thay đổi trong vài năm nữa, thì phải cho họ cơ hội để hối cải và tuyệt đối không được thanh trừ họ khỏi hội thánh; không thể huỷ hoại bất kỳ người tốt nào. Có những người sinh ra đã là kẻ chẳng tin, bẩm sinh đã là thứ phóng đãng, vô tri và ngu muội, bẩm sinh trong nhân tính đã không có khái niệm liêm sỉ, không biết xấu hổ là gì. Người bình thường mà làm chuyện không lịch sự ở nơi công cộng thì cảm thấy hối hận và xấu hổ khi gặp người khác. Hơn nữa, khi họ muốn làm những chuyện như vậy, họ có thể suy xét đến cảm xúc và cách nhìn của anh chị em, cũng như nhân cách và tôn nghiêm của chính mình, nên họ sẽ không làm như vậy; có lẽ họ chỉ làm ầm ĩ ở nhà với con cái hoặc anh chị em của mình. Khi ra ngoài và tiếp xúc với người ngoài, người ta phải biết thế nào là liêm sỉ, thể diện, khuôn phép, và tôn nghiêm. Một người ngay cả những khái niệm này cũng không hiểu, dù có được ngươi giúp đỡ, liệu họ có thể thay đổi được không? Cho dù bây giờ họ chịu sự ràng buộc, nhưng họ có thể chịu được bao lâu? Chẳng bao lâu sau, họ lại ngựa quen đường cũ. Bởi vì nhân tính của loại người này không có tôn nghiêm và liêm sỉ, không hiểu khuôn phép, thể diện, hay thể thống thánh đồ là gì, và nhân tính của họ bẩm sinh đã không có những thứ này, nên ngươi không có cách nào giúp đỡ họ được. Người không ai giúp đỡ nổi là người không có cách nào thay đổi, không thể giáo dục hay cảm hoá được. Dạng người như vậy phải bị thanh lọc càng nhanh càng tốt, càng sớm càng tốt, để họ khỏi gây nhiễu loạn giữa anh chị em, khỏi làm mất mặt ở đây. Nhà của Đức Chúa Trời không cần bất kỳ ai chỉ để cho đủ số lượng. Nếu Đức Chúa Trời không cứu rỗi người nào, thì họ đến cho đủ số lượng cũng vô ích. Những người không được Đức Chúa Trời công nhận thì nên bị thanh trừ – người không nên cho ở lại nhà Đức Chúa Trời thì nên bị thanh lọc nhanh chóng, đừng để vì một người họ mà ảnh hưởng đến nhiều người khác, như vậy thì không công bằng với đa số mọi người. Nếu các ngươi nhìn thấu thực chất của loại người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc, thì ngươi nên xử lý và thanh trừ họ càng sớm càng tốt, không thể một mực dung túng họ. Một số người nói: “Thỉnh thoảng họ làm bổn phận cũng có kết quả. Phương diện công tác đó vẫn cần họ. Họ cũng có chút tình yêu thương và có thể trả giá một chút”. Trong số những người còn lại trong nhà Đức Chúa Trời, ai không thể trả giá một chút chứ? Ai làm bổn phận mà không thể đạt được một vài kết quả chứ? Nếu ai cũng có thể đạt được một vài kết quả, thì tại sao chúng ta không chọn những người tốt, đàng hoàng và đứng đắn để làm bổn phận? Tại sao phải khăng khăng giữ cái loại vô lại, thổ phỉ và bộp chộp trong hội thánh toàn thời gian để họ gây nhiễu loạn? Tại sao phải khăng khăng giữ những kẻ chẳng tin sống như người ngoại đạo để họ đem sức lực phục vụ trong nhà Đức Chúa Trời? Nhà Đức Chúa Trời không thiếu người đem sức lực phục vụ; nhà Đức Chúa Trời chỉ muốn những người trung thực yêu thích lẽ thật, những người chính trực, và những người có thể mưu cầu lẽ thật, dâng mình cho Đức Chúa Trời.

Hầu hết những người hiện đang làm bổn phận đều đã tin Đức Chúa Trời hơn năm hoặc sáu năm, và đủ loại người đã bị tỏ lộ hoàn toàn trong khi làm bổn phận – hễ là kẻ chẳng tin, người hồ đồ, lãnh đạo giả, kẻ ác, và kẻ địch lại Đấng Christ thì đều bị tỏ lộ. Rất nhiều dân được Đức Chúa Trời chọn đã thấy rõ rằng hầu hết những người này là loại người dạy mãi không sửa, và đã gây ra sự nhiễu loạn và gián đoạn nghiêm trọng cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Đã đến lúc buộc phải thanh lọc những kẻ chẳng tin, kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ này. Không thanh lọc họ thì sẽ ảnh hưởng đến sự vận hành trong công tác của hội thánh và việc mở rộng phúc âm vương quốc của Đức Chúa Trời. Không thanh lọc họ thì sẽ ảnh hưởng đến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn; đời sống hội thánh sẽ tiếp tục bị gây nhiễu loạn và bất an. Cho nên, lãnh đạo và người làm công các cấp của hội thánh nên bắt đầu thanh lọc hội thánh theo tâm ý của Đức Chúa Trời và dựa vào lời Đức Chúa Trời. Ta thấy khá nhiều người chẳng có nhân tính gì cả. Trong các buổi nhóm họp, một số người làm đủ thứ trò quỷ quái, ngồi không ra ngồi, đứng không ra đứng. Họ để sẵn nước trà, điện thoại di động, kem dưỡng da và nước hoa một bên. Có vài người thích trông xinh đẹp thì liên tục soi gương và dặm lại lớp trang điểm, còn có người thì luôn uống nước, lướt điện thoại để đọc tin tức hoặc xem video ngoại đạo, khi nói năng và trò chuyện với mọi người thì ngồi vắt chéo chân, uốn người thành hai khúc, trông như con rắn, ngay cả hình dạng đàng hoàng cũng không có. Ta còn nghe nói có những người ban đêm về phòng ngủ thì nằm thẳng lên giường mà không cởi giày, ngủ mãi đến sáng. Sáng sớm mở mắt ra, họ không cầu nguyện hay tĩnh nguyện, mà việc đầu tiên là xem tin tức trên điện thoại di động. Đến giờ ăn mà thấy món ngon hoặc khi thấy thịt, thì họ sẽ ăn ngấu nghiến, không quan tâm người khác có được ăn hay không, chỉ cần họ no bụng là được, ăn xong lại đi ngủ ngay. Họ làm gì cũng chẳng có hình tượng giống con người, họ phóng đãng và không chịu sự ràng buộc hệt như người ngoại đạo, không có chút khuôn phép nào, cũng không nghe lời hay thuận phục gì, thật giống như súc sinh. Các ngươi nói xem, liệu loại người có tính vô lại nghiêm trọng như vậy có thể được cứu rỗi không? (Thưa, không.) Vậy họ tin Đức Chúa Trời còn có ý nghĩa gì không? Tố chất của họ kém đến nỗi không với tới được lẽ thật, vậy họ đọc lời Đức Chúa Trời thì có hiểu hay không? Họ không có chút khuôn phép làm người nào, thì khi đem sức lực phục vụ, liệu họ có đạt tiêu chuẩn hay không? Họ không có lương tâm và lý trí, thì khi nghe giảng đạo và thông công về lẽ thật, liệu họ có thể tiếp nhận hay không? (Thưa, không.) Loại người có biểu hiện như vậy căn bản không có chút nhân tính nào, còn nói gì đến chuyện đạt được lẽ thật chứ? Người không có nhân tính là súc sinh, là ma quỷ, là người chết không có linh, họ nghe mà không hiểu được lẽ thật, cũng không xứng để nghe lẽ thật. Bắt họ hiểu lẽ thật và đạt được lẽ thật giống như bắt vịt leo sào, bắt bò trèo cây – họ chẳng thể nào làm nổi! Trước đây, khi nói về những loại người là súc sinh, thì thường thêm từ “cẩu” trước từ “súc sinh”, gọi là “cẩu súc sinh”. Sau này, thông qua việc nuôi chó và tiếp xúc gần gũi với chó, Ta phát hiện ra rằng chó có những điều tốt nhất mà con người không có: Chúng biết khuôn phép, biết nghe lời và biết xấu hổ. Ngươi giới hạn phạm vi hoạt động của chúng, thì chúng sẽ chỉ hoạt động trong phạm vi đó, ngươi cấm nó đến chỗ nào thì chẳng bao giờ nó đến chỗ đó, không có ngoại lệ. Nếu vô tình vượt qua ranh giới, chúng sẽ nhanh chóng rút lui, vẫy đuôi liên tục, cầu xin sự tha thứ và nhận sai. Liệu con người có đạt đến điều này không? (Thưa, không.) Con người không đạt đến được. Mặc dù chó có thể không hiểu nhiều như con người, nhưng chúng hiểu một điều: “Đây là địa bàn của chủ nhân, và là nhà của chủ nhân. Chủ nhân cho mình đi đâu thì mình đi đó, chủ nhân không cho mình tới chỗ nào thì mình không tới chỗ đó”. Dù không bị đánh, chúng cũng không tới chỗ đó; chúng biết xấu hổ. Ngay cả chó cũng biết liêm sỉ, tại sao con người lại không? Xếp những người không có liêm sỉ vào hàng ngũ súc sinh thì có quá đáng không? (Thưa, không quá đáng.) Không quá đáng chút nào; hầu hết mọi người còn không có những điểm mạnh của loài chó. Từ nay về sau, khi nói một số người là súc sinh, chúng ta không thể gọi họ là “cẩu súc sinh” nữa; làm như vậy sẽ sỉ nhục loài chó, vì những người này, loại súc sinh này, thậm chí còn tệ hơn cả chó. Cho nên, một khi những người này gây nhiễu loạn đời sống hội thánh hoặc việc làm bổn phận của anh chị em, thì phải nhanh chóng thanh trừ họ – làm như vậy là hợp tình hợp lý, không hề quá đáng. Làm như vậy không phải là không có tình yêu thương, mà là làm việc theo nguyên tắc. Ngay cả khi những người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc này làm bổn phận có chút kết quả, thì họ có thể được cứu rỗi không? Họ có phải là người tiếp nhận lẽ thật không? Ngay cả hành vi của mình mà họ còn không ràng buộc nổi, thì nói gì đến chuyện tiếp nhận lẽ thật chứ? Ngay cả nhân cách và tôn nghiêm của mình mà còn không giữ được, thì họ còn có thể bước vào thực tế lẽ thật sao? Đây là chuyện bất khả thi. Cho nên, xử lý những người này theo cách như vậy là không hề quá đáng, hoàn toàn là làm theo nguyên tắc và hoàn toàn vì mục đích bảo vệ dân được Đức Chúa Trời chọn khỏi sự nhiễu loạn mà Sa-tan gây ra. Tóm lại, khi phát hiện những người này thì nên xử lý họ tương ứng theo một số nguyên tắc Ta vừa nêu. Với loại người thực sự phóng đãng và không chịu sự ràng buộc, thực sự phóng túng xác thịt và không có thể thống thánh đồ nào, chúng ta xếp họ vào hạng người ngoại đạo và kẻ chẳng tin, thì có quá đáng không? (Thưa, không.) Vì họ bị xếp vào hạng người ngoại đạo và kẻ chẳng tin, nên việc đưa họ vào hàng ngũ những loại kẻ ác mà hội thánh nên thanh trừ đương nhiên cũng không hề quá đáng. Người thậm chí không thể ràng buộc hành vi và cử chỉ của mình thì đương nhiên càng không thể tiếp nhận lẽ thật. Người không thể tiếp nhận lẽ thật chẳng phải là kẻ thù của lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Phân loại những người là kẻ thù của lẽ thật là kẻ ác thì có quá đáng không? (Thưa, không quá đáng.) Không hề quá đáng. Cho nên, các nguyên tắc để xử lý họ là hoàn toàn thích hợp.

D. Dễ trả thù

Chúng ta đã thông công xong về các biểu hiện của loại người thứ ba – những người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc. Ngoài những người thuộc loại này, còn có rất nhiều người khác nằm trong phạm trù kẻ ác, và hội thánh nên phân định cũng như thanh trừ hết mọi loại kẻ ác này. Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về loại người thứ tư. Trong số những kẻ ác mà hội thánh nên phân định và thanh trừ, loại người thứ tư rất khó xử lý, cũng rất phiền phức. Loại người này có thể là những ai? Họ là loại người dễ trả thù. Xét từ ba chữ “dễ trả thù”, thì rõ ràng những người này không phải là thứ tốt đẹp gì; nói một cách thông tục, họ là đồ tồi. Xét từ những biểu hiện và sự bộc lộ trước sau như một trong nhân tính của họ, cũng như nguyên tắc trong hành động của họ, thì tấm lòng của họ không lương thiện. Theo câu nói trong nhân gian, thì họ “không tốt đẹp gì”. Chúng ta nói rằng họ không phải loại người lương thiện; cụ thể hơn, tấm lòng họ không lương thiện, mà lại ác, độc và tàn nhẫn. Một khi có người nói gì hoặc làm gì động chạm đến lợi ích, thể diện, hay địa vị của họ, hoặc đắc tội với họ, thì một mặt, họ sẽ thù địch trong lòng, mặt khác, họ sẽ hành động dựa trên sự thù địch này. Mục tiêu và phương hướng trong hành động của họ là để đạt được mục đích trút hận và xả giận, dạng hành vi này được gọi là trả thù. Ở giữa mọi người, luôn có một bộ phận người như thế này. Bất kể mọi người gọi họ là hẹp hòi thiển cận, chuyên quyền bạo ngược, hay là quá nhạy cảm, bất kể dùng từ nào để mô tả hay khái quát nhân tính của họ, thì tóm lại biểu hiện thường thấy của họ khi chung sống với người khác là bất kể ai vô tình hay cố ý làm tổn thương hoặc đắc tội với họ thì phải chịu tai ương và nhận hậu quả tương ứng. Giống như có những người nói: “Đắc tội với họ thì sẽ không gánh nổi hậu quả. Nếu động chạm hoặc làm tổn thương họ, thì đừng nghĩ đến việc dễ dàng thoát được”. Giữa mọi người, có loại người như vậy không? (Thưa, có.) Chắc chắn là có. Bất kể xảy ra chuyện gì, bất kể chuyện đó có đáng để tức giận hay tính toán thiệt hơn hay không, thì những người dễ trả thù này đều đưa chúng vào những chuyện cần giải quyết hằng ngày của mình, và coi đó là chuyện quan trọng hàng đầu. Bất kể ai đắc tội với họ đều không được, và họ đều muốn đối phương phải trả cái giá tương ứng. Đây chính là nguyên tắc của họ khi đối đãi với mọi người và đối đãi với bất kỳ ai mà họ coi là kẻ thù. Ví dụ, trong đời sống hội thánh, một số người thông công về tình hình của bản thân hoặc thông công và chia sẻ trải nghiệm của mình một cách bình thường. Khi nói về tình trạng và sự bại hoại của mình, những người này vô tình động chạm đến tình trạng và sự bại hoại của người khác. Người nói có thể vô tâm nhưng người nghe thì hữu ý. Người này nghe xong thì không thể lĩnh hội hoặc tiếp cận những lời này một cách đúng đắn, thế là dễ dàng nảy sinh tâm lý trả thù. Nếu họ nghe xong mà nhớ mãi chuyện này trong lòng, nhất định phải đả kích và trả thù, thì sẽ gây phiền phức cho công tác của hội thánh, nên chuyện này phải được xử lý kịp thời. Chỉ cần hội thánh có kẻ ác thì tất nhiên sẽ nảy sinh sự nhiễu loạn, cho nên khi kẻ ác gây nhiễu loạn hội thánh thì không được dễ dàng bỏ qua. Dù cố ý hay không, chỉ cần ngươi động chạm hoặc làm tổn thương họ, thì họ sẽ không dễ dàng bỏ qua. Họ nghĩ: “Anh nói về sự bại hoại của anh mà lại nhắc đến tôi làm gì? Anh nói về nhận thức của chính mình mà tại sao lại vạch trần tôi? Anh vạch trần sự bại hoại của tôi khiến tôi mất mặt, mất tôn nghiêm, rơi vào thế khó xử trước mặt anh chị em, khiến tôi mất uy tín và huỷ hoại thanh danh của tôi. Vậy thì tôi sẽ trả thù anh, sẽ cho anh khổ đến chịu không nổi! Đừng nghĩ rằng tôi dễ bắt nạt. Đừng nghĩ rằng anh có thể tùy tiện bắt nạt tôi chỉ vì tôi có điều kiện gia đình không tốt và địa vị xã hội thấp. Đừng nghĩ tôi hiền lành, tôi không phải người dễ chọc vào đâu!”. Chúng ta tạm thời không nói đến việc họ thực hiện hành vi trả thù như thế nào, hãy chỉ xem xét bản thân những người này: Khi gặp những chuyện nhỏ như vậy, những chuyện thường gặp trong đời sống hội thánh, họ chẳng những không thể tiếp cận hay lĩnh hội cho đúng đắn, mà còn nảy sinh sự thù hận và chờ đợi thời cơ để trả thù, thậm chí còn không từ thủ đoạn nào để trả thù. Loại người này có nhân tính như thế nào? (Thưa, ác độc.) Họ có phải là người lương thiện không? (Thưa, không phải.) Loại người tốt nhất là những người có thể tiếp nhận lẽ thật. Khi họ nghe thấy người khác thông công và chia sẻ trải nghiệm, họ nghĩ: “Mình cũng có sự bại hoại này. Những gì họ nói có vẻ giống với tình trạng của mình. Cho dù họ cố ý vạch trần mình hay vô tình nói về điều gì đó tương tự với tình trạng của mình, thì mình cũng sẽ lĩnh hội một cách đúng đắn – mình sẽ nghe xem họ đã trải nghiệm như thế nào, cách họ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tình trạng này, cũng như cách họ thực hành và bước vào”. Đây là người thực sự tiếp nhận lẽ thật. Người kém hơn một chút khi nghe thấy điều này có lẽ sẽ nghĩ: “Sao tâm tính bại hoại mà họ nhận biết lại giống với tình trạng của mình như vậy? Họ đang nói về mình sao? Thôi thì cứ để họ nói. Dù sao mình cũng không bị tổn thất gì, hầu hết mọi người có lẽ cũng không biết. Cũng có thể họ chỉ đang nói về bản thân, chẳng qua là trùng hợp giống với tình trạng của mình thôi, mọi người đều có những tình trạng giống nhau mà”. Họ không đặt nặng chuyện đó, trong lòng cũng không nảy sinh sự thù hận hay tâm lý trả thù. Tuy nhiên, kẻ ác không lương thiện thì lại khác. Cùng một chuyện đó, những người khác đều có thể xử lý và tiếp cận nó như chuyện bình thường. Tất nhiên, những người tốt và tiếp nhận lẽ thật thì sẽ giải quyết chuyện này một cách tích cực và chủ động. Những người bình thường, mặc dù không dùng cách tích cực để giải quyết chuyện này, nhưng cũng không nảy sinh sự thù hận, càng không trả thù. Còn với loại người không lương thiện, thì một chuyện thông thường và tầm thường đến vậy lại có thể khiến họ sôi sục trong lòng, không thể bình tĩnh. Những thứ nảy sinh nơi họ không tích cực hay bình thường, mà hung ác và tà ác; họ muốn trả thù. Nguyên nhân trả thù là gì? Họ cho rằng người ta cố ý dùng lời lẽ ác ý mà làm tổn thương họ, vạch trần tình hình thực tế của họ, vạch trần bộ mặt xấu xa và sự bại hoại của họ. Họ coi những gì mọi người nói là cố ý, cho nên coi những người đó là kẻ thù. Sau đó, họ cảm thấy có lý do để dùng cách trả thù mà giải quyết chuyện đó, dùng đủ loại thủ đoạn để đạt được mục đích trả thù của mình. Đây chẳng phải là tâm tính hung ác sao? (Thưa, phải.) Trong đời sống hội thánh, khi anh chị em nói về tình trạng của mình, hầu hết người nghe đều có thể đồng cảm và đón nhận từ Đức Chúa Trời. Chỉ những người chán ghét lẽ thật và có tâm tính tà ác nghe xong mới nảy sinh sự thù hằn và thậm chí là tâm lý trả thù, chuyện này sẽ tỏ lộ hoàn toàn thực chất bản tính của họ. Một khi họ có thể nảy sinh tâm lý trả thù, thì một loạt hành vi và hành động trả thù sẽ theo sau. Sau khi hành vi trả thù diễn ra thì mối quan hệ giữa người với người sẽ như thế nào? Sẽ không còn là mối quan hệ chính đáng nữa. Ai là nạn nhân thực sự trong chuyện này? (Thưa, người mà họ muốn trả thù.) Đúng vậy. Nạn nhân thực sự là những người thông công lời chứng trải nghiệm của mình. Loại người dễ trả thù này sau đó sẽ dùng lời nói hoặc hành động trong nhiều loại trường hợp khác nhau để xét đoán, công kích, thậm chí là hãm hại hoặc bôi nhọ những người mà họ cho là đã vạch trần họ và thù địch với họ. Người dễ trả thù thì trong lòng không chỉ thù hận chốc lát là xong; họ muốn tìm đủ loại cơ hội, thậm chí còn tạo ra đủ loại cơ hội để trả thù những người mà họ muốn trả thù, những người mà họ thù hằn, và những người mà họ cho là bất lợi đối với họ. Ví dụ, trong cuộc bầu cử lãnh đạo, nếu người mà họ thù hằn phù hợp với nguyên tắc dùng người của nhà Đức Chúa Trời và đủ tư cách để được chọn làm lãnh đạo, thì họ sẽ vì thù hằn người đó mà xét đoán, lên án, và công kích người đó. Họ thậm chí có thể làm chuyện mờ ám sau lưng hoặc làm chuyện gây bất lợi cho người đó để trả thù. Tóm lại, họ có rất nhiều thủ đoạn để trả thù. Ví dụ, họ có thể tìm những thứ để nắm thóp và nói xấu ai đó, bịa đặt về người đó bằng cách thêm mắm dặm muối và nói chuyện vô căn cứ, hoặc gây xích mích giữa người đó và những người khác. Thậm chí, họ còn vu cáo người đó với lãnh đạo, nói rằng người đó không trung thành, rằng người đó tiêu cực và chống đối khi làm bổn phận. Tất cả những điều này thực ra đều là cố ý bịa đặt, nói không thành có. Ngươi thấy đấy, vì sự nghi ngờ và hiểu lầm người khác, mà họ đã nảy sinh rất nhiều hành vi và hành động không nên có; tất cả những cách làm này đều nảy sinh từ bản tính dễ trả thù của họ. Thực ra, khi chia sẻ lời chứng trải nghiệm, người ta hoàn toàn không nhắm vào họ, không có chút ác ý nào đối với họ. Chỉ vì họ chán ghét lẽ thật và có tâm tính hung ác dễ trả thù nên không cho phép người khác vạch trần họ, cũng không cho phép người khác nói về việc nhận biết bản thân, nói về tâm tính bại hoại, hoặc nói về bản tính Sa-tan của một người. Nghe người khác nói về những chủ đề này, thì họ nổi nóng và nghĩ rằng mọi người đang nhắm vào họ và vạch trần họ, cho nên họ nảy sinh và hình thành tâm lý trả thù. Biểu hiện của loại người thực hiện việc trả thù này hoàn toàn không chỉ giới hạn trong một trường hợp. Tại sao Ta nói như vậy? Bởi vì loại người này có bản tính hung ác, ai cũng không thể động đến họ hay chọc vào họ. Bẩm tính của họ là muốn tấn công bất kỳ người nào hay sự việc, sự vật nào, giống như bọ cạp hay rết vậy. Cho nên, dù lời nói của người ta cố ý hay vô ý động chạm hoặc làm tổn thương họ, chỉ cần họ cảm thấy mất mặt hoặc mất uy tín, thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để cứu vãn thể diện và uy tín của mình, từ đó sẽ nảy sinh một loạt hành vi trả thù.

Tiếp theo, Ta sẽ thông công về các biểu hiện khác của những người dễ trả thù. Có những người khi bị lãnh đạo tỉa sửa vì đã làm bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, thì trong lòng nuôi sự bất mãn. Các ngươi nói xem, việc tỉa sửa họ có chính đáng không? (Thưa, có.) Hoàn toàn chính đáng và bình thường. Nếu ngươi làm bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, gây tổn hại đến công tác của hội thánh, cũng như không hành động phù hợp với nguyên tắc, và có người đứng ra vạch trần, tỉa sửa ngươi, thì chuyện này là chính đáng và ngươi nên tiếp nhận. Tuy nhiên, loại người dễ trả thù chẳng những không tiếp nhận mà trong lòng còn bất mãn. Chờ đến khi lãnh đạo rời đi, họ bắt đầu chửi mắng: “Anh khoe khoang cái gì? Chẳng phải chỉ vì anh có chức vụ sao? Nếu tôi có chức vụ, tôi còn làm tốt hơn anh! Anh nghĩ mình là ai mà tỉa sửa tôi? Anh tỉa sửa tôi thì tôi hận anh. Tôi nguyền rủa anh ra đường bị xe cán chết, uống nước chết sặc, ăn cơm chết nghẹn. Tôi nguyền rủa anh phải chết thảm! Anh dám tỉa sửa tôi sao? Trên đời này không có ai dám tỉa sửa tôi đâu!”. Khi những lãnh đạo đã tỉa sửa họ bị lãnh đạo cấp trên tỉa sửa vì chuyện gì đó, thì họ cười trên nỗi đau của người khác, vô cùng vui mừng, ngâm nga và thầm nghĩ: “Thấy sao hả? Anh đã khoe khoang, giờ phải chịu báo ứng! Ai mà tỉa sửa tôi, thì tôi sẽ làm họ sống không yên!”. Ngươi nghĩ sao về những người này? (Thưa, họ ác độc.) Cho dù việc tỉa sửa họ có chính đáng đến đâu, thì họ đều không thể tiếp nhận. Họ liên tục nói phải trái và biện hộ cho mình, sau đó vẫn tiếp tục làm bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, dạy mãi không sửa. Nếu ngươi luôn qua loa chiếu lệ trong nhà Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ chỉ bị tỉa sửa; ngươi ra thế giới bên ngoài làm việc mà qua loa chiếu lệ, thì sẽ bị sa thải và mất công ăn việc làm. Trong nhà Đức Chúa Trời hầu như lúc nào cũng lấy việc thông công lẽ thật và hỗ trợ bằng tình yêu thương làm nguyên tắc, để hầu hết mọi người đều có thể mưu cầu lẽ thật và làm bổn phận một cách bình thường. Thực ra, trong số các lãnh đạo và người làm công, chỉ có một số ít phải chịu sự tỉa sửa lớn. Đa số còn lại đều hành động theo đức tin, sự tự giác, lương tâm và lý trí, họ tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời và không phạm bất kỳ sai lầm lớn nào, vì vậy họ cũng không gặp phải sự tỉa sửa lớn. Tuy nhiên, được tỉa sửa là một chuyện tốt; có mấy người được tỉa sửa, đặc biệt là được Bề trên tỉa sửa? Đó đều là cơ hội tốt để mọi người nhận biết bản thân và tiến bộ trong sự sống. Người tin Đức Chúa Trời ít nhất phải biết ý nghĩa của việc bị tỉa sửa, biết đây là một chuyện tốt. Ngay cả khi có một vài người cá biệt tỉa sửa người ta theo kiểu không phù hợp với nguyên tắc cho lắm, còn pha tạp cả ý riêng và huyết khí, thì ngươi vẫn nên tự kiểm điểm xem trong việc ngươi làm có khía cạnh nào không phù hợp với nguyên tắc và hãy đón nhận một cách tích cực; làm như vậy sẽ có ích cho ngươi. Nhưng ngay cả với việc tỉa sửa chính đáng thì những kẻ ác này cũng không thể tiếp nhận. Cho dù không có hành động trả thù, thì trong lòng họ cũng cực kỳ bất mãn, còn nguyền rủa và chửi mắng. Khi những người đã tỉa sửa họ cũng phải chịu sự tỉa sửa hoặc gặp chuyện không thuận lợi, thì họ vui mừng hơn cả trẻ con đón Tết. Đây chính là biểu hiện của kẻ ác. Còn có một số người cạnh tranh háo thắng trong việc làm bổn phận; họ thường không làm việc theo nguyên tắc, còn qua loa chiếu lệ, dẫn đến việc làm bổn phận không có kết quả. Khi lãnh đạo thông công về vấn đề của những người dễ trả thù này và tỉa sửa họ, thì họ không thể tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn. Mặc dù trong lòng cũng thừa nhận rằng bản thân đã làm bổn phận một cách qua loa chiếu lệ và không theo nguyên tắc, họ vẫn có thể nảy sinh ý nghĩ và hành động trả thù đối với việc tỉa sửa này. Sau đó, họ viết thư vu cáo lãnh đạo này, nắm lấy một vài cách làm và sự bộc lộ của lãnh đạo này rồi thêm mắm dặm muối mà phản ánh lên trên, với ý đồ loại bỏ lãnh đạo này. Nếu không đạt được mục tiêu, họ sẽ âm thầm phá đám và gây nhiễu loạn, khăng khăng không làm những gì mà lãnh đạo sắp xếp. Họ không suy xét đến công tác của hội thánh, nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, hay hiệu quả của việc làm bổn phận của mình, họ chỉ cần bản thân trút giận là được. Họ không lắng nghe bất kỳ ai, thậm chí không tiếp nhận lời của lãnh đạo và người làm công. Dù trước mặt, họ không tranh cãi hoặc phản kháng, nhưng sau lưng, họ có thể trút ra sự tiêu cực, bỏ ngang việc đang làm để phản đối, cũng như nắm thóp đối với bất kỳ sự sắp xếp công tác nào của nhà Đức Chúa Trời hoặc đối với lãnh đạo và người làm công. Họ thậm chí còn lan truyền các quan niệm; bản thân họ tiêu cực và không muốn làm bổn phận, lại còn tìm cách lôi kéo thêm nhiều người trở nên tiêu cực, lười biếng và không làm bổn phận cùng họ. Nguyên tắc của họ là gì? “Tôi không sợ chết; tôi cần tìm người chịu tội chung. Lãnh đạo tỉa sửa tôi, nói rằng tôi làm bổn phận không đạt tiêu chuẩn – vậy tôi sẽ khiến cho tất cả những người khác đều không làm tốt bổn phận của họ. Nếu tôi không làm tốt thì ai cũng đừng hòng làm tốt! Lãnh đạo tỉa sửa tôi, còn các anh đều cười nhạo tôi; tôi sẽ làm cho các anh phải khó sống!”. Khi họ làm bổn phận một cách qua loa chiếu lệ hoặc đi ngược lại nguyên tắc, và có người phản ánh chuyện này lên lãnh đạo, thì họ sẽ truy xét: “Ai phản ánh tôi? Ai đã báo cáo tôi với lãnh đạo? Ai có mối quan hệ thân thiết với lãnh đạo? Nếu phát hiện ra người đã phản ánh tôi với lãnh đạo cấp trên thì tôi sẽ không khách khí với họ! Tôi sẽ xử người đó đến cùng!”. Họ không chỉ có thể nói những lời tàn nhẫn mà còn có thể làm những chuyện tàn nhẫn. Loại người này có rất nhiều chiêu xấu xa và cay độc để trả thù, không chỉ bằng cách nắm thóp để xét đoán và lên án người khác thôi đâu. Một số người còn cố ý ăn cắp bộ sạc máy tính xách tay của người mà họ muốn trả thù, khiến người này không sạc được máy tính và chậm trễ trong việc làm bổn phận. Còn có những người cố ý thêm nhiều muối vào thức ăn của người khác để họ không thể ăn được. Những thủ đoạn trả thù thô thiển này rất phổ biến trong những người ngoại đạo, kẻ ác ở trong hội thánh cũng có thể làm ra những chuyện như vậy. Thủ đoạn mà họ dùng để trả thù không chỉ có vậy, còn có cả những cách làm thất đức mà chúng ta chưa từng thấy; chúng ta chỉ đưa ra một vài ví dụ đơn giản thôi. Trong số họ, có một số người cố ý gây phiền phức, trở ngại, và khó khăn cho người khác; đây là chuyện thường thấy. Trong mọi nhóm người, trong các trường hợp và hoàn cảnh khác nhau, tâm tính hung ác của những người dễ trả thù không ngừng bộc lộ. Biểu hiện trả thù của kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ còn rõ ràng hơn. Chỉ cần có kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ trong hội thánh, thì những dân Đức Chúa Trời chọn thật tâm tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật, sẽ bị gây nhiễu loạn. Ngày nào còn kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ thì ngày đó hội thánh không bình yên, người tốt sẽ bị đả kích và bài xích; nhất là, những người mưu cầu lẽ thật sẽ bị kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ thù hằn và trả thù. Kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ trừng trị và trả thù người khác như thế nào? Đầu tiên, họ nhắm vào những người mưu cầu lẽ thật và giữ nguyên tắc. Những kẻ ác này biết rõ trong lòng rằng chỉ những người mưu cầu lẽ thật mới gây bất lợi nhất cho họ. Thứ nhất, người hiểu lẽ thật biết phân định họ; chỉ cần họ làm gì xấu thì sẽ bị người hiểu lẽ thật nhìn thấu. Thứ hai, khi có người hiểu lẽ thật hiện diện, thì việc hành ác của họ sẽ phần nào bị hạn chế, khiến họ khó đạt được mục đích. Xét từ điểm này, chỉ người mưu cầu lẽ thật mới là người bảo vệ công tác của hội thánh. Có người hiểu lẽ thật, thì kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác không dám hoành hành ngang ngược và phải kiềm chế bản thân đôi chút. Do đó, người mưu cầu lẽ thật trở thành cái gai trong mắt kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác, là nỗi phiền toái của họ, và đó là lý do tại sao họ tìm đủ mọi cách để trả thù.

Khi kẻ ác trả thù, họ biểu hiện tâm tính hung ác, bất chấp lý lẽ và không có lý tính. Những người sống chung với họ một thời gian và hiểu họ thì sẽ sợ họ ba phần, nói chuyện với họ phải cẩn thận từng li từng tí, khách khí, và phải đặc biệt tôn trọng họ. Những người này phải liên tục xoa dịu và chiều theo họ; không thể trực tiếp chỉ ra vấn đề hoặc tật xấu của họ, mà phải khéo léo bàn bạc những chuyện này, nói theo cách xoa dịu, nói xong rồi còn phải khen ngợi họ rằng: “Mặc dù có tật xấu hoặc thiếu sót này, nhưng anh học kỹ thuật nhanh hơn chúng tôi, năng lực nghiệp vụ của anh mạnh hơn những người khác, hiệu suất công tác của anh cao hơn chúng tôi. Tôi thấy tật xấu của anh là điểm mạnh”. Những người này thậm chí phải tâng bốc họ. Tại sao phải làm thế? Chính là vì sợ họ trả thù. Làm như vậy sẽ khiến họ vui vẻ, cảm thấy xoa dịu trong lòng. Để tránh bị trả thù, hầu hết mọi người phát hiện ra họ có vấn đề gì cũng không dám nói thẳng với họ, cũng không dám phản ánh. Ngay cả khi thấy rõ ràng rằng họ đang làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, và công tác của hội thánh đang bị chậm trễ vì họ khăng khăng cố chấp và bừa phứa, thậm chí thấy họ có một số sai lệch về phương hướng và nguyên tắc, thì cũng không một ai dám đưa ra ý kiến hoặc phản ánh lên cấp trên. Bởi vì tâm tính hung ác và nhân tính dễ trả thù của họ, nên những người khác sợ họ ba phần, giận thầm chứ không dám nói ra. Nói chuyện với họ thì phải đặc biệt khách khí và khéo léo, thái độ phải đặc biệt tốt, nhẹ nhàng và nhã nhặn. Nếu có người nói chuyện với họ một cách tôn trọng và khách khí, chiều theo họ, thì họ sẽ cảm thấy thoải mái trong lòng. Tuy nhiên, nếu có người nói chuyện thẳng thắn, vạch trần vấn đề của họ và đưa ra kiến nghị với họ, thì họ sẽ thấy ác cảm. Họ cho rằng làm như vậy là không tôn trọng họ, là có ý kiến hoặc thù địch với họ, nên họ muốn trả thù và trừng trị người đó; không bôi xấu và hạ bệ người đó thì họ không chịu được. Nếu người đó rơi vào tay họ thì sẽ không có kết cục tốt đẹp. Loại người này có đáng sợ không? (Thưa, có.) Nếu ngươi không hiểu họ và thực sự đắc tội với họ, thì trong lòng họ sẽ ghi hận với ngươi, nghĩ cách trả thù ngươi ngay cả khi trong lúc ăn, lúc ngủ. Một khi họ đã dí ngươi rồi, thì sớm muộn gì cũng sẽ có chuyện, vì họ quyết tâm trả thù ngươi rồi. Mặc dù ở bề ngoài, họ vẫn có thể nói chuyện với ngươi như cũ, nhưng khi họ đã ngẫm nghĩ về chuyện trả thù ngươi, thì mọi thứ ngươi đã làm hoặc nói với họ sẽ trở thành cái thóp cho họ nắm. Họ sẽ đối đãi với ngươi như kẻ thù, trả thù ngươi từng chút một cho đến khi cảm thấy hả giận và hoàn toàn thoả mãn thì mới dừng tay. Đây chính là kết quả khi qua lại với kẻ ác.

Nhìn vào các loại hành vi, nhìn vào nguyên tắc, phương thức làm người và hành động của loại người dễ trả thù, thì họ là mối đe dọa đối với hầu hết mọi người, ngoại trừ những người có lòng tốt và thân thiện hòa đồng với bất kỳ ai, chẳng dùng nguyên tắc với bất kỳ ai – người như vậy sẽ an toàn khi ở chung sống với những người hung ác. Tuy nhiên, những người dù chỉ có chút lương tri hoặc tinh thần chính nghĩa thì đều sẽ cảm thấy bị đe dọa dù ít hay nhiều, dù lớn hay nhỏ, khi chung sống với những người dễ trả thù. Trong trường hợp nghiêm trọng, họ có thể bị tổn hại về thân thể hoặc thậm chí bị đe dọa đến tính mạng. Trong trường hợp nhẹ, họ có thể bị công kích bằng lời nói, bị phỉ báng hoặc bị hãm hại. Đủ mọi chuyện kiểu như vậy đều là sự bộc lộ và biểu hiện tổng thể của tâm tính hung ác nơi những người dễ trả thù. Xét từ biểu hiện tổng thể của họ, họ cũng sẽ gây nhiễu loạn giữa các anh chị em và trong hội thánh. Hầu như bất kỳ ai qua lại với những người này đều sẽ trở thành đối tượng trả thù của họ, và hầu như đều sẽ trở thành người bị hại. Loại người dễ trả thù này có tâm tính hung ác, họ là quả bom hẹn giờ có thể phát nổ bất kỳ lúc nào. Mặc dù họ có thể đi theo đám đông để làm bổn phận và sống đời sống hội thánh bình thường, nhưng xét từ nhân tính của họ, thì bất kỳ lúc nào, họ đều có thể trả thù và gây ra mối đe dọa cho người khác, đều có thể khiến mọi người nảy sinh cảm giác sợ hãi và cảnh giác đối với họ. Như vậy chẳng phải đã gây nhiễu loạn cho hầu hết mọi người rồi sao? (Thưa, phải.) Để tránh đắc tội với họ, để lấy lòng họ, và để tránh bị họ ghi thù và trả thù thì khi họ nói chuyện, mọi người luôn phải nhìn sắc mặt họ và lắng nghe ẩn ý trong lời họ nói, cố gắng nghe cho ra ý đồ, mục tiêu và phương hướng trong lời nói của họ. Xét từ điểm này, chẳng phải hầu hết mọi người không chỉ bị họ gây nhiễu loạn mà còn bị họ khống chế sao? (Thưa, phải.) Vậy xét từ tính chất của vấn đề này, chẳng phải những người dễ trả thù là kẻ ác sao? (Thưa, phải.) Rõ ràng là chúng ta nên xác định họ là kẻ ác. Nếu có người muốn tìm hiểu tình hình của loại người này, thì hầu hết mọi người đều không dám nói sự thật, được hỏi gì cũng chỉ trả lời qua quýt bằng hai chữ “cũng được”, chẳng ai dám phản ánh vấn đề của họ, chẳng ai dám bàn tán hay là đánh giá họ. Đây chẳng phải là chuyện rất phiền phức sao? Có người nói: “Những kẻ ác như vậy có thể trả thù bất kỳ lúc nào và ở đâu, ai dám chọc vào họ chứ? Hơn nữa, họ luôn nói họ kết giao với cả hai giới hắc bạch, lại còn đe dọa rằng ai đắc tội với họ sẽ không có kết cục tốt, họ sẽ dạy cho người đó một bài học và khiến cả nhà người đó không được chết một cách tử tế. Vậy nên không ai dám chọc vào họ. Họ làm gì cũng mặc kệ họ đi, chúng ta chỉ hi vọng điều tốt đẹp nhất cho mình”. Ngươi xem, cục diện như vậy có thể hình thành trong hội thánh, rõ ràng như vậy nghĩa là họ đã khống chế những người này rồi. Bởi vì mọi người đều thấy được tâm tính hung ác của họ khi trả thù người khác nên không ai dám chỉ trích hay tỉa sửa họ, cũng không ai dám nói ra đánh giá chân thật về họ. Mọi người phải nói vòng vo về họ vì sợ đắc tội họ, thậm chí nếu phải nói cụ thể về biểu hiện thực sự của họ đằng sau lưng họ, người ta vẫn sợ chết khiếp. Vậy mọi người sợ điều gì? Mọi người sợ những gì mình nói sẽ đến tai của họ và họ sẽ trả thù. Sau khi nói xong, người đó còn phải tự vả vào miệng mình và nói: “Toang rồi, hôm nay tôi nói sai rồi. Cứ chờ đi, tôi sẽ gặp rắc rối cho xem. Tại sao tôi lại không biết giữ mồm giữ miệng chứ?”. Từ đó trở đi, mỗi ngày người đó đều sống trong nỗi hoang mang lo sợ, sống thấp tha thấp thỏm. Mỗi khi ở bên cạnh kẻ đó, người đó đều phải quan sát và ngẫm nghĩ: “Anh ta có biết những gì mình đã nói không nhỉ? Chuyện đã đến tai anh ta chưa? Thái độ của anh ta với mình có còn như trước không?”. Càng nghĩ, trong lòng người đó càng thấy mông lung. Thời gian càng trôi qua, người đó càng sợ hãi. Vậy nên người đó quyết định nên dứt khoát tránh xa kẻ đó thì tốt hơn, và nghĩ rằng: “Mình không chọc vào anh ta được, nhưng ít nhất thì mình có thể tránh xa anh ta. Bất kể anh ta đã biết những gì mình nói hay chưa, chẳng phải mình cứ tránh xa anh ta là được hay sao?”. Người đó sợ đến nỗi không dám tham gia một buổi nhóm họp nào, không dám đến bất kỳ nơi nào có người hung ác này, ngay cả khi đó là nơi họ làm bổn phận. Họ cảm thấy sợ chết khiếp.

Chúng ta nên xử lý những kẻ ác dễ trả thù như thế nào? (Thưa, nên thanh trừ họ.) Rất đơn giản, chỉ hai từ thôi – thanh trừ, thế là xong. Nếu họ bị thanh trừ mà hầu hết mọi người đều vỗ tay tán thưởng và cảm thấy hả lòng hả dạ, thì thanh trừ họ là đúng. Trước đây, khi có kẻ ác trong các buổi nhóm họp, thì hầu hết mọi người đều sẽ bị kìm kẹp trong lúc thông công. Họ sợ nói sai thì sẽ đắc tội với kẻ ác, nên mỗi khi nói chuyện, họ đều đề phòng và né tránh những kẻ đó. Từ đó, các buổi nhóm họp hình thành một quy định bất thành văn: chỉ cần có ai đó đưa mắt ra hiệu thì phải mau mau đổi đề tài câu chuyện. Cục diện đã trở thành như vậy. Một khi những kẻ dễ trả thù này bị thanh trừ, thì hội thánh sẽ yên ổn, đời sống hội thánh sẽ diễn ra bình thường và mối quan hệ giữa mọi người cũng sẽ trở nên bình thường. Lúc đó, các anh chị em có thể tự do chia sẻ và cầu nguyện-đọc lời Đức Chúa Trời, cũng như tự do chia sẻ lời chứng trải nghiệm của mình mà không bị ai khống chế, không phải sợ bất kỳ ai và không phải để ý đến sắc mặt của bất kỳ ai. Xét từ kết quả này, việc thanh trừ những kẻ ác đó là đúng hay sai? (Thưa, đúng.) Quá đúng rồi, nên thanh trừ họ đi. Nếu không thanh trừ họ, mọi người sẽ không thể có cuộc sống tốt đẹp và rất nhiều người sẽ không dám đến nhóm họp. Một số người nhát gan thậm chí còn gặp ác mộng vào ban đêm, luôn mơ thấy bị ác quỷ bóp cổ. Trong các buổi nhóm họp, họ sẽ luôn cẩn thận dè dặt, không bao giờ dám lên tiếng, không bao giờ có cảm giác tự do và được giải phóng. Từ khi kẻ ác bị thanh trừ, họ hoàn toàn thay đổi: Giờ đây, khi nhóm họp họ dám lên tiếng, thông công cũng tích cực hơn và cảm thấy tự do, được giải phóng. Đây chẳng phải là chuyện tốt sao? (Thưa, phải.) Rất dễ phân định loại người hay trả thù có tâm tính hung ác này. Nói chung, sau khi tiếp xúc với ai đó hơn nửa năm, mọi người sẽ có thể cảm nhận và thấy rõ người này có phải loại người đó hay không. Chỉ cần qua lại với người này một thời gian là có thể biết rõ. Các lãnh đạo và người làm công trong hội thánh không nên bị động khi xử lý loại kẻ ác này. Không bị động nghĩa là sao? Tức là không đợi đến khi họ mê hoặc một số người và làm việc xấu, khiến tất cả mọi người căm giận rồi mới xử lý họ. Như thế thì quá bị động. Vậy khi nào là thời điểm tốt nhất để xử lý kẻ ác? Đó là khi có một số ít người bị họ hãm hại và cảm thấy hết sức ác cảm cũng như đề phòng họ, và khi đã hoàn toàn xác định được rằng họ là kẻ ác. Lúc này, nên xử lý và thanh trừ họ càng sớm càng tốt để tránh chuyện họ làm hại thêm những người khác, đồng thời tránh cho những người nhát gan bị họ làm cho sợ chết khiếp hoặc vấp ngã. Điều mấu chốt ở đây là gì? Nếu kẻ ác gây nhiễu loạn tại hội thánh trong thời gian dài, thì kết quả sau cùng là họ sẽ khống chế hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn. Nếu đến mức độ này, thì tất cả mọi người đều sẽ bị hại. Để mọi người không bị hại thì khi có một số người bị hại, hoặc khi một số người đã nảy sinh cảm giác cực kỳ ác cảm, đã nhìn thấu và đã xác định được rằng những người như vậy là kẻ ác dễ trả thù, thì lãnh đạo hội thánh phải kịp thời xử lý bằng cách thanh trừ họ. Lãnh đạo hội thánh không được đợi đến khi kẻ ác đã làm nhiều việc ác và khiến toàn thể mọi người đều phẫn nộ rồi mới quyết định xử lý. Như thế thì quá bị động. Những lãnh đạo hội thánh như vậy chẳng phải là quá kém cỏi sao? (Thưa, phải.) Khi làm công tác này, lãnh đạo hội thánh phải đặc biệt nhạy cảm với tình trạng, biểu hiện và sự bộc lộ của loại người này, phải nhìn thấu tâm tính của họ nhanh nhất có thể, sau đó xác định tính chất họ là kẻ ác cần bị thanh trừ và xử lý họ càng sớm càng tốt. Nếu mới đầu ngươi vẫn chưa xác định tính chất họ được, thì nên tập trung quan sát. Hãy quan sát lời nói và hành động của họ, tìm hiểu suy nghĩ và xu hướng hành động của họ. Một khi phát hiện ra họ muốn trả thù ai đó, ngươi phải áp dụng những biện pháp kịp thời để thanh trừ họ, tránh việc có thêm nhiều người khác bị họ hại và trả thù.

Một số lãnh đạo hội thánh nói rằng: “Chúng tôi không sợ kẻ ác, ngoại trừ Đức Chúa Trời thì chúng tôi không sợ ai cả. Kẻ ác có là gì chứ? Chúng tôi thậm chí còn chẳng sợ Sa-tan, cũng không sợ bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ và bách hại, vậy thì cớ gì chúng tôi phải sợ kẻ ác? Kẻ ác chỉ là một con tiểu quỷ, tại sao phải sợ? Chúng tôi sẽ cứ để kẻ đó ở lại hội thánh, để hầu hết các anh chị em bị hại. Sau khi bị hại, các anh chị em sẽ phát triển sự phân định. Có sự phân định rồi, họ sẽ không còn bị những kẻ ác như vậy kìm kẹp và trói buộc nữa. Như thế thì quá tốt rồi!”. Liệu hầu hết mọi người có thể đạt đến vóc giạc này không? (Thưa, không thể.) Họ không thể đạt đến được. Đức tin của họ quá nhỏ, lẽ thật họ hiểu được quá có hạn, và vóc giạc của họ quá nhỏ bé. Hễ nhìn thấy kẻ ác là họ tránh xa, không dám đắc tội. Ngoại trừ sợ chết và trân quý mạng sống của mình, hầu hết mọi người còn bảo toàn đủ loại lợi ích xác thịt. Họ không đạt đến việc phát triển sự phân định hay rút ra bài học từ những chuyện mà kẻ ác làm. Do đó, ý tưởng này về căn bản không thực tế và không mang lại kết quả gì. Nếu trong hội thánh nào đó xuất hiện kẻ ác, khi hầu hết mọi người đã nhận ra và khẳng định được rằng người đó là kẻ ác, thì có bao nhiêu người có tinh thần chính nghĩa có thể đứng ra, đoạn tuyệt và đấu tranh với kẻ ác, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời? Tỉ lệ phần trăm này là bao nhiêu? Có phải là 10% không? Nếu không phải 10%, thì có phải 5% không? (Thưa, khoảng chừng đó.) Như thế có nghĩa là trong một nhóm gồm 20 người, có thể có một người đứng ra đấu tranh chống lại kẻ ác, vạch trần và đọ sức với kẻ đó bằng lời Đức Chúa Trời, tranh luận với kẻ đó, và thanh trừ kẻ đó khỏi hội thánh. Những nhân tài này chính là anh hùng trong số dân được Đức Chúa Trời chọn, là công thần của hội thánh. Một số lãnh đạo và người làm công không dám xử lý kẻ ác. Những người như vậy có xứng đáng làm lãnh đạo và người làm công không? Họ có tư cách làm chứng cho Đức Chúa Trời không? Khi nghe tin có một kẻ ác xuất hiện và hội thánh cần thanh trừ kẻ đó, họ nói: “Thanh trừ anh ta thì có chút phiền phức. Anh ta và tôi vốn quen biết nhau rất rõ. Anh ta biết nhà tôi ở đâu và trong nhà tôi có những ai tin vào Đức Chúa Trời. Nếu tôi khai trừ anh ta, chắc chắn anh ta sẽ trả thù tôi”. Các ngươi nói xem, những người như vậy có xứng làm lãnh đạo và người làm công không? (Thưa, không xứng.) Sau khi phát hiện ra một kẻ ác cần bị thanh trừ, điều đầu tiên họ nghĩ đến là lợi ích của bản thân, họ sợ sẽ bị kẻ ác đó trả thù. Họ không nghĩ xem liệu kẻ ác đã biết một số địa điểm nhóm họp và phương thức liên lạc của các anh chị em, sau khi bị thanh trừ thì có bán đứng hội thánh hoặc các anh chị em hay không, cũng như nên làm thế nào để ngăn chặn chuyện này. Điều đầu tiên họ nghĩ đến không phải là lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thay vào đó họ nghĩ đến chuyện kẻ ác biết được hoàn cảnh gia đình họ, sợ kẻ ác có thể bán đứng họ và gây ảnh hưởng xấu đến gia đình họ. Những lãnh đạo và người làm công như vậy có lời chứng không? (Thưa, không có.) Một số lãnh đạo và người làm công nhìn thấy kẻ ác hoành hành ngang ngược và cố gắng khống chế hội thánh, nhưng chẳng bao giờ dám lên tiếng. Thay vào đó, họ thỏa hiệp và trốn tránh, không dám xử lý kẻ ác. Khi nhìn thấy kẻ ác, họ sợ chết khiếp như thể nhìn thấy ác quỷ ba đầu sáu tay, họ không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Trong lúc ấy, một số anh chị em bình thường vẫn có chút tinh thần chính nghĩa, khi phát hiện kẻ ác thì có can đảm và đức tin, dám đứng ra vạch trần kẻ ác, không sợ bị kẻ ác trả thù. Tuy nhiên, tỉ lệ những người như vậy trong hội thánh quá nhỏ. Tỉ lệ 5% mà các ngươi vừa nói đến có thể hơi phóng đại, không phải là cách nói dè dặt đâu. Vậy xét từ điểm này, thái độ của hầu hết mọi người đối với những người có tâm tính hung ác và dễ trả thù là gì? (Thưa, hầu hết mọi người đều bảo vệ bản thân.) Họ nghĩ đến việc bảo vệ bản thân trước tiên, chứ không nghĩ cách đứng ra và đấu tranh chống lại kẻ ác để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và của các anh chị em. Họ chỉ tập trung bảo vệ bản thân. Việc bảo vệ bản thân này cho thấy vấn đề gì? (Thưa, cho thấy dạng người này rất ích kỷ.) Một mặt, cho thấy nhân tính họ quá ích kỷ, mặt khác, cho thấy hầu hết mọi người có đức tin nơi Đức Chúa Trời quá nhỏ. Ngoài miệng thì họ nói: “Đức Chúa Trời tể trị hết thảy. Đức Chúa Trời là hậu thuẫn của chúng ta”. Nhưng khi đối mặt với thực tế, họ lại cảm thấy không thể dựa vào Đức Chúa Trời mà phải dựa vào chính mình, ưu tiên bảo vệ bản thân – điều mà họ coi là sáng suốt nhất. Hàm ý là: “Không ai bảo vệ tôi được, ngay cả Đức Chúa Trời cũng không đáng tin cậy. Đức Chúa Trời ở đâu? Chúng tôi không nhìn thấy Ngài! Hơn nữa, tôi còn không biết liệu Đức Chúa Trời có bảo vệ tôi hay không. Lỡ như Ngài không bảo vệ tôi thì sao?”. Đức tin của mọi người thật đáng thương hại. Họ cứ luôn miệng tuyên bố: “Đức Chúa Trời tể trị hết thảy. Đức Chúa Trời là hậu thuẫn của chúng ta”, nhưng khi chuyện xảy ra, họ chỉ tìm cách bảo vệ bản thân, chứ không thể đứng ra đấu tranh chống lại Sa-tan và đứng vững làm chứng. Ngay cả một chút đức tin này họ cũng không có. Đức tin của người ta thật quá đáng thương hại, và chuyện này cũng đã phơi bày hoàn toàn điều đó. Vóc giạc của họ chỉ nhỏ bé vậy thôi. Đối với loại kẻ ác dễ trả thù, nếu có một số cá nhân muốn vạch trần họ nhưng lại cảm thấy mình thân cô thế cô và sợ bị họ áp chế, thì những cá nhân đó nên liên hợp với một vài lãnh đạo và người làm công hoặc các anh chị em biết phân định. Sau khi đoàn kết lại, họ sẽ nắm chắc phần thắng. Sau đó, họ sẽ có thể vạch trần và mổ xẻ hành động cũng như hành vi của những kẻ ác này, để hầu hết mọi người đều có thể phân định và thấy rõ bộ mặt thật của kẻ ác, từ đó đồng tâm hợp ý và hợp sức thanh trừ kẻ ác. Ban nãy các ngươi nói rằng khi kẻ ác xuất hiện, giữa dân được Đức Chúa Trời chọn, trong hai mươi người thì có khoảng một người có thể có chút tinh thần chính nghĩa để dám nói ra chút lời công đạo và dám đứng ra thanh trừ kẻ ác đó. Một trong hai mươi người thì hơi ít. Nếu hội thánh chỉ có mười người, thì họ làm sao thanh lọc kẻ ác đây? Họ sẽ không thanh lọc nổi. Mười người đó sẽ bị kẻ ác khống chế và ngược đãi. Đây là chuyện không thể chấp nhận được. Sẽ tốt biết bao nếu có thể phấn đấu đạt đến mức cứ mười người hoặc thậm chí năm người thì có một người dám đứng ra đấu tranh chống lại kẻ ác. Ngươi luôn muốn bảo toàn bản thân, kết quả là chẳng những đánh mất lời chứng trước mặt Sa-tan, mà tệ hơn nữa còn mất đi cơ hội đạt được lẽ thật trước Đức Chúa Trời. Nếu hội thánh nào đó có một kẻ ác thì ít nhất sẽ có một số người bị hại. Nếu có hai kẻ ác, thì hầu hết mọi người sẽ bị hại. Còn nếu có một kẻ địch lại Đấng Christ nắm quyền, cùng vài tên đồng lõa và tay sai dưới quyền, thì toàn bộ dân được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh sẽ bị hại. Có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Một người đứng lên chống lại kẻ ác sẽ là một phần lực lượng, còn mười người đứng lên chống lại kẻ ác sẽ là mười phần lực lượng. Vậy các ngươi nghĩ kẻ ác sợ một người hay sợ mười người hơn? (Thưa, sợ mười người hơn.) Vậy nếu hai mươi, ba mươi, hay năm mươi người đều đứng lên chống lại kẻ ác thì cuối cùng ai sẽ thắng? (Thưa, các anh chị em sẽ thắng.) Cuối cùng, các anh chị em sẽ thắng. Chẳng phải như thế thì việc thanh trừ kẻ ác sẽ dễ dàng hơn nhiều sao? Người đông thì lực lớn, tất cả các ngươi nên hiểu đạo lý đơn giản này. Vì vậy, việc phân định và thanh trừ kẻ ác tuyệt đối không chỉ là trách nhiệm của một lãnh đạo hay người làm công nào đó, mà là trách nhiệm chung của toàn thể dân được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh. Thông qua nỗ lực của các lãnh đạo và người làm công, cùng với sự phối hợp của dân được Đức Chúa Trời chọn trong việc thanh trừ kẻ ác, thì mọi người đều có thể tận hưởng cuộc sống tốt đẹp. Nếu không thanh trừ kẻ ác, mà để họ ở lại hội thánh với hi vọng họ sẽ hối cải, nhưng kết quả là qua nửa năm hoặc một năm mà họ vẫn không cải thiện, còn tiếp tục gây nhiễu loạn dân được Đức Chúa Trời chọn đến mức không thể chịu nổi, thì đây chính là kết quả của việc thương xót kẻ ác. Nếu ngươi dung túng cho kẻ ác hoành hành ngang ngược và khống chế hội thánh, thì chẳng khác nào ngươi đang đặt mình vào tay kẻ ác, làm vậy cũng là giao các anh chị em vào tay họ, cho phép họ tùy ý khống chế và tàn hại dân được Đức Chúa Trời chọn. Trong môi trường mà kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ nắm quyền, liệu ngươi có thể dễ dàng hiểu được và đạt được lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Thời gian quý giá mà, càng sớm thanh trừ kẻ ác, ngươi càng sớm khôi phục được sự bình yên và tận hưởng đời sống hội thánh chính đáng, lại càng có thể hiểu thêm về lẽ thật. Nếu ngươi không thanh trừ kẻ ác, họ sẽ gây nhiễu loạn và phá hoại giữa mọi người như chó điên, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm. Như vậy, thời gian để ngươi đạt được lẽ thật sẽ bị cướp đoạt, đồng nghĩa với thời gian và việc làm bổn phận của ngươi sẽ bị kẻ ác khống chế. Đây là chuyện tốt hay xấu? (Thưa, chuyện xấu.) Về lý thì ai cũng biết đây là chuyện xấu, nhưng khi đối mặt với kẻ ác đang gây nhiễu loạn hội thánh, mọi người không còn suy xét như vậy nữa mà chỉ chăm chăm làm sao để không bị kẻ ác bày mưu tính kế hoặc tàn hại là được rồi. Nếu toàn bộ dân được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh đều sợ hãi kẻ ác như vậy, thì hội thánh đó sẽ dễ dàng bị kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ khống chế, đồng thời dân được Đức Chúa Trời chọn cũng sẽ bị họ khống chế. Như vậy thì dân được Đức Chúa Trời chọn còn có thể đạt đến được Đức Chúa Trời cứu rỗi không? Chuyện này khó nói lắm. Nếu hội thánh nào đó không có hai hay ba người hiểu lẽ thật và đồng tâm hợp ý làm chứng và phụng sự Đức Chúa Trời, thì hội thánh đó chẳng còn hy vọng. Như vậy thì thật đáng buồn.

Dễ trả thù là một biểu hiện của việc ác, cũng là một dạng hành vi và biểu hiện nảy sinh từ tâm tính hung ác. Nếu loại người này có dạng biểu hiện cụ thể này thì nên bị xác định tính chất là kẻ ác. Tất nhiên, một số người vì hẹp hòi thiển cận, thiếu kiến thức hoặc là mới tin và không hiểu lẽ thật nên luôn so đo từng tý, nuôi lòng thù hận những người gây bất lợi cho mình hay là làm hại mình, hoặc dùng một vài thủ đoạn để trả thù một vài người nào đó. Nhưng khi nghe tin loại người dễ trả thù là kẻ ác và là đối tượng cần bị thanh trừ khỏi hội thánh, thì họ thay đổi suy nghĩ, lòng họ âm thầm xoay chuyển và hành vi của họ có phần kiềm chế, có sự ràng buộc. Các ngươi nói xem, loại người này có được xếp vào hàng ngũ kẻ ác không? (Thưa, không.) Điều gì cho thấy như vậy? (Thưa, họ có thể xoay chuyển.) Họ có thể xoay chuyển thì chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ họ có thể tiếp nhận lẽ thật, đó là một hiện tượng tốt. Tại sao lại nói rằng họ có thể tiếp nhận lẽ thật? Bởi vì sau khi nghe được lẽ thật ở phương diện này và biết rằng trả thù là biểu hiện của kẻ ác, họ có thể phản tỉnh về tình trạng bại hoại của chính mình, thừa nhận thực chất bại hoại của mình, sau đó hối cải trước Đức Chúa Trời, có thể hành động dựa theo lời Đức Chúa Trời và ràng buộc hành vi của bản thân. Đây là biểu hiện cho thấy họ tiếp nhận lẽ thật. Những kẻ ác mà chúng ta nói đến ở đây thì không tiếp nhận lẽ thật. Bất kể ngươi có thông công về lẽ thật rõ ràng đến đâu, họ cũng không tiếp nhận. Họ vẫn khăng khăng làm theo ý mình và không chịu nghe lời ai. Ngay cả khi ngươi cảnh báo họ rằng: “Anh mà làm như vậy thì sẽ bị thanh trừ đấy”, thì họ cũng không quan tâm và vẫn khăng khăng giữ cách làm của mình, không ai thay đổi họ được. Nếu ngươi vạch trần họ thì họ sẽ không thừa nhận mình sai. Nếu ngươi bảo họ là người dễ trả thù, là kẻ ác và nên bị thanh trừ, thì họ vẫn không buông bỏ việc ác trong tay và nhất định sẽ không xoay chuyển. Đây là loại người gì? Đây là những người chán ghét lẽ thật. Họ hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật. Bất kể thực chất tâm tính của họ được xác định tính chất thế nào, những việc ác họ làm bị vạch trần ra sao hay họ bị xử lý như thế nào, thì họ cũng không bị lay động, tuyệt đối sẽ không cúi đầu nhận sai, cũng tuyệt đối sẽ không buông tay. Như vậy là họ không thể xoay chuyển bản thân. Vậy thực chất của việc không xoay chuyển bản thân là gì? Chính là không chịu tiếp nhận lẽ thật. Nếu họ có thể tiếp nhận dù chỉ một câu đúng đắn hay một phương diện của lẽ thật, họ sẽ không mải miết đi theo con đường sai lầm. Họ sẽ xoay chuyển, thừa nhận sai lầm và ít nhiều buông bỏ những gì họ đã khăng khăng trước đó. Chính vì họ là kẻ ác, chính vì họ là kẻ ác có tâm tính hung ác, nên sau khi ở trong tâm tính như vậy mà nảy sinh hành vi trả thù, họ chẳng những không tiếp nhận những gì lời Đức Chúa Trời vạch rõ, sự tỉa sửa hay sự xác định tính chất như vậy, mà ngược lại, họ một mực kiên trì đến cùng. Họ không có ý định tiếp nhận việc mình bị xác định tính chất hay bị vạch rõ, cũng không có ý định thừa nhận sự bại hoại của mình. Tất nhiên, trên cơ sở không thừa nhận sự bại hoại của mình, họ cũng không có ý định từ bỏ hành vi và cách làm dễ trả thù hay nguyên tắc làm người của mình. Họ là kẻ ác tuyệt đối, một trăm phần trăm. Loại kẻ ác này chẳng phải là ma quỷ sao? (Thưa, phải.) Họ là ma quỷ hoàn toàn có thực chất của Sa-tan. Ngươi không thay đổi họ được đâu. Tại sao không thay đổi họ được? Căn nguyên nằm ở chỗ họ tuyệt đối không thể tiếp nhận lẽ thật. Họ không tiếp nhận dù chỉ một chút lẽ thật. Họ cũng không tiếp nhận bất kỳ lời đúng đắn, lời tích cực hay những điều tích cực nào. Ngay cả khi ngoài miệng họ thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là điều tích cực, thì trong lòng họ cũng không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Họ cũng không có ý định thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời để thay đổi cách làm người và hành động của mình. Có lúc họ có thể thừa nhận ngoài miệng rằng hành động của họ hoàn toàn dựa trên triết lý của Sa-tan, nhưng họ vẫn tuyệt đối sẽ không tiếp nhận lẽ thật. Hễ có ai thông công về lẽ thật với họ là họ sẽ thấy cực kỳ ác cảm, còn có thể còn thù hận và xét đoán người ta. Họ thù hận và trả thù bất kỳ ai vạch trần và phân định họ, dù cho người đó là ai. Đến cả cha mẹ họ cũng không phải ngoại lệ. Chẳng phải là họ hết thuốc chữa rồi sao? (Thưa, phải.) Họ đã hết thuốc chữa. Thanh trừ họ có phải là một chuyện đáng tiếc không? (Thưa, không đáng tiếc.) Những người như vậy buộc phải bị thanh trừ hoặc khai trừ. Về cơ bản, đây là những biểu hiện của những người dễ trả thù. Đặc trưng, tâm tính, phương thức và phương pháp hành động của họ, tư tưởng của họ, cũng như thái độ của họ đối với lẽ thật về cơ bản là vậy. Chúng ta đã nói về ảnh hưởng của họ đối với hội thánh và đối với anh chị em trước đây nên không cần thông công lại nữa. Đến đây, chúng ta đã thông công xong về các biểu hiện của loại người thứ tư: người dễ trả thù.

E. Không thể giữ mồm giữ miệng

Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công về loại người thứ năm. Đó là loại người không thể giữ mồm giữ miệng. Đây có phải là vấn đề lớn không? Xét theo nghĩa đen, việc không thể giữ mồm giữ miệng dường như không phải là vấn đề lớn. Nếu xem những người như vậy là kẻ ác, thì có lẽ vài người sẽ có chút ý kiến: “Người ta có miệng, thì phải nói mọi nơi mọi lúc, phải bàn chuyện mọi nơi mọi lúc. Người ta không thể giữ mồm giữ miệng mà bị liệt vào số kẻ ác cần bị thanh trừ, thì chẳng phải có chút quá đáng sao?”. Các ngươi nghĩ sao về chuyện này? (Thưa, nếu họ gây gián đoạn và nhiễu loạn cho đời sống hội thánh hoặc công tác của hội thánh, gây ra hậu quả xấu, thì họ cũng là đối tượng cần bị thanh trừ.) Vấn đề của những người như vậy không phải là họ không thể giữ mồm giữ miệng, mà là vấn đề về nhân tính. Nếu họ gây nhiễu loạn cho các anh chị em, cho đời sống hội thánh và cho công tác của hội thánh, hoặc họ nói những lời phản bội và bán đứng hội thánh, thậm chí còn làm ô nhục nhà Đức Chúa Trời và danh Đức Chúa Trời, thì họ nên bị xử lý. Trước tiên, chúng ta hãy nói về các biểu hiện của những người không thể giữ mồm giữ miệng, sau đó bàn về cách xử lý họ. Liệu chúng ta có thể gọi những người không thể giữ mồm giữ miệng là “người nhiều chuyện” không? (Thưa, có thể.) Vậy sao? Đây có phải là một đặc trưng của loại người này không? Người nhiều chuyện có phải là người ngu ngốc, không biết cái gì nên nói và cái gì không nên nói, nghĩ gì nói đấy mà không cân nhắc hậu quả không? Có phải không thể giữ mồm giữ miệng chỉ là như vậy không? (Thưa, không phải.) Một số người rất giỏi ăn nói và giao tiếp. Họ nhanh mồm nhanh miệng, cũng tương đối đơn sơ, trung thực. Họ thường chia sẻ với người khác những lời từ đáy lòng, những ý nghĩ của mình, những sự bộc lộ bại hoại của mình, những gì họ đã trải qua và thậm chí những sai lầm họ mắc phải. Nhưng loại người này không hẳn là ngu ngốc, hay là không thể giữ mồm giữ miệng. Ngươi thấy họ có vẻ chuyện gì cũng nói ra được, khá đơn sơ và trung thực, nhưng với những chuyện then chốt, những chuyện có thể làm ô nhục Đức Chúa Trời hoặc nhà Đức Chúa Trời, hay những chuyện có thể bán đứng anh chị em hoặc hội thánh rồi thành Giu-đa, thì họ không nói một lời nào. Đây gọi là giữ mồm giữ miệng. Cho nên, không phải nói thẳng ruột ngựa, nhiều chuyện hoặc giỏi ăn nói nghĩa là người ta không thể giữ mồm giữ miệng. Vậy không thể giữ mồm giữ miệng là nói đến điều gì? Không thể giữ mồm giữ miệng có nghĩa là nói năng vô nguyên tắc, nói bậy nói bạ bất kể đối tượng, tình huống hay bối cảnh. Hơn nữa, họ không hề biết bảo vệ công tác của hội thánh và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cũng không hề quan tâm xem lời của họ có lợi cho các anh chị em hay đời sống hội thánh hay không, bạ cái gì họ cũng nói. Hậu quả của việc “bạ cái gì cũng nói” là gì? Đó là vô tình bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của các anh chị em. Họ vô tình nói bậy nói bạ và không thể giữ mồm giữ miệng, mà đã để cho những người ngoại đạo nắm được thóp của nhà Đức Chúa Trời, để người ngoại đạo chế nhạo một số anh chị em và để người ngoại đạo cũng như những người không tin Đức Chúa Trời biết nhiều điều không nên biết. Kết quả là những người này chỉ tay năm ngón và nói những lời tầm bậy tầm bạ về chuyện của nhà Đức Chúa Trời và chuyện nội bộ của hội thánh, cũng như nói những lời bôi nhọ và báng bổ Đức Chúa Trời. Họ thậm chí còn tung tin đồn nhảm về các anh chị em, hội thánh và công tác của nhà Đức Chúa Trời, gây ra những hậu quả xấu. Việc này gây ra sự nhiễu loạn cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và là hành ác. Một số người còn đặc biệt chú trọng tìm hiểu và điều tra xem lãnh đạo và người làm công trong hội thánh là ai, địa chỉ nhà ở đâu, thông tin cá nhân của các anh chị em, cả công tác tài vụ và kế toán của hội thánh, nhân sự kế toán, và danh sách những người đã bị thanh trừ hoặc khai trừ khỏi hội thánh. Họ còn đặc biệt chú trọng tìm hiểu sự sắp xếp công tác của hội thánh. Người nào có dạng biểu hiện này thì cực kỳ đáng nghi, có khả năng họ là gian tế hoặc đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ. Nếu những chuyện này bị rò rỉ ra cho ma quỷ ngoại đạo, để cho con rồng lớn sắc đỏ nắm rõ, thì hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi. Một số người, vì ngu muội và vô tri, có thể tiết lộ tình hình hoặc một phần tình hình cho những người thân không tin Đức Chúa Trời ở nhà. Sau đó những người thân này lại truyền hoặc cung cấp thông tin cho đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ. Chuyện này có thể gây tai họa tiềm tàng và mang lại rất nhiều rắc rối cho công tác của hội thánh, hậu quả thì không thể tưởng tượng nổi. Một số người thường vô tình kể những chuyện nội bộ này của hội thánh với những người thân không tin Đức Chúa Trời ở nhà, lại còn tiết lộ hết sạch, không chừa chuyện gì. Họ thậm chí còn kể với những người họ hàng và bạn bè không tin Đức Chúa Trời, khiến chuyện nội bộ của hội thánh liên tục bị tiết lộ ra bên ngoài thông qua cái miệng của họ. Hậu quả của việc rò rỉ là gì? Nhiều người nhà, họ hàng và bạn bè không tin Đức Chúa Trời của họ biết được rất nhiều chuyện nội bộ của hội thánh mà rất nhiều các anh chị em còn không biết, hoặc biết được địa chỉ nhà, tên thật và chuyện hôn nhân cá nhân của các anh chị em. Làm sao những chuyện này của hội thánh lại bị tiết lộ ra ngoài? Làm sao những người ngoại đạo lại biết được? Do có “thông tín viên” trong hội thánh! Loại người này được gọi là gì? (Thưa, họ là người không thể giữ mồm giữ miệng.) Đúng vậy. Họ kể với người nhà không tin Đức Chúa Trời của mình mọi chuyện xảy ra trong đời sống hội thánh hằng ngày hoặc chuyện của các anh chị em, chẳng hạn như chuyện người chị em nào đó đã ly hôn, chồng của người chị em nào đó làm ăn thua lỗ hoặc con trai không vâng lời, hoặc một anh chị em nào đó mua nhà, v.v.. Họ còn kể về anh chị em nào đã bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ và trở thành Giu-đa, hoặc anh chị em nào đã đứng vững làm chứng. Thậm chí, họ còn kể với người nhà chuyện các lãnh đạo hội thánh tỉa sửa họ. Khi về đến nhà, họ toàn bàn luận những chuyện này. Người nhà của họ thậm chí còn bày mưu tính kế để giúp họ đối phó lãnh đạo, anh chị em hay bất kỳ ai trong hội thánh không hợp với họ, làm khó họ hoặc đã vạch trần họ. Trong các buổi nhóm họp giữa các anh chị em, loại người này trông có vẻ đặc biệt thật thà, khôn khéo, không nói nhiều, không giỏi nói chuyện, không bao giờ nói về tâm tính bại hoại của bản thân, cũng không bao giờ thông công về nhận thức trải nghiệm của mình, thậm chí rất hiếm khi cầu nguyện. Họ coi các anh chị em là đối tượng cần đề phòng, nhưng lại đối xử với những người nhà ngoại đạo như thể họ là người trong nhà Đức Chúa Trời. Họ kể cho người nhà của mình toàn bộ tình hình về hội thánh mà không bỏ sót điều gì. Chuyện gì họ cũng kể với người nhà, kể cả chuyện hội thánh in sách về lời Đức Chúa Trời, trong hội thánh ai có sở trường gì, v.v.. Những chuyện này, họ đều nói với người nhà và những người không tin Đức Chúa Trời. Cho dù mục đích của họ là gì thì kết quả cuối cùng chính là họ bán đứng công tác của hội thánh và các anh chị em. Họ biết rõ tình hình của từng thành viên chủ chốt trong hội thánh. Tất nhiên, những người này cũng là đối tượng bị họ bàn tán, phán xét sau lưng, còn có thể trở thành đối tượng bị họ ngấm ngầm bán đứng. Ai có quan hệ tốt với họ, thì họ sẽ không ngừng khen ngợi người đó trước mặt người nhà của mình. Còn ai có quan hệ không tốt với họ, thì họ sẽ không ngừng chửi rủa người đó trước mặt người nhà của mình, thậm chí còn chửi đến mức người nhà cũng chung giọng chửi với họ, chửi các anh chị em là đồ ngu, là thứ không ra gì. Người ngoại đạo chửi rủa như thế nào thì họ cũng chửi rủa các anh chị em bằng những lời như vậy. Họ giống như những người ngoại đạo, hoàn toàn là kẻ chẳng tin, chẳng có gì tốt đẹp. Loại người này cần bị thanh trừ ngay lập tức.

Ở đất nước của con rồng lớn sắc đỏ, thông tin của tất cả những người tin Đức Chúa Trời đều phải được giữ bí mật. Ngay cả khi dân được Đức Chúa Trời chọn ra nước ngoài, thông tin của họ vẫn phải được giữ bí mật. Lý do là vì đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ có mặt ở mọi quốc gia trên thế giới, chỗ nào chúng cũng nhúng tay vào, và chúng chuyên thu thập thông tin về những người tin Đức Chúa Trời. Ở Trung Quốc đại lục, tình cảnh của tất cả các anh chị em đi theo Đức Chúa Trời đều rất gian nan và nguy hiểm. Ngay cả khi họ ra nước ngoài thì cũng có những nguy hiểm nhất định. Nếu đặc vụ của con rồng lớn sắc đỏ thu thập được thông tin của họ thì một mặt, họ sẽ có nguy cơ bị dẫn độ. Mặt khác, ít nhất người nhà và người thân của họ ở Trung Quốc đại lục có thể sẽ bị liên lụy. Vì lý do an toàn và tôn trọng cá nhân, bất kỳ ai cũng nên giữ bí mật thông tin riêng tư của các anh chị em và không nên nói cho những người không tin Đức Chúa Trời. Ngay cả giữa những người tin Đức Chúa Trời với nhau, ngươi cũng không nên tùy tiện tiết lộ thông tin riêng tư của ai đó cho người khác khi chưa có sự đồng ý của họ. Đừng bao giờ coi bất kỳ thông tin nào về các anh chị em, công tác của hội thánh, những bổn phận cá nhân, những trải nghiệm chia sẻ khi thông công hoặc những thông tin tương tự khác là câu chuyện trà dư tửu hậu để bàn tán với người ngoại đạo. Hậu quả của việc bàn tán những chuyện này với người ngoại đạo là gì? Liệu có tác dụng tốt hay tích cực nào không? (Thưa, không có.) Hậu quả của việc bàn tán những chuyện này là đám ma quỷ ngoại đạo sẽ nắm thóp, chế nhạo, xét đoán, thậm chí là chửi bới và phỉ báng. Như vậy có tốt không? (Thưa, không.) Các ngươi phải xem trong nội bộ hội thánh có người nào có dụng ý xấu hay không. Đó là người có thể đem tình hình thực tế của đời sống hội thánh và công tác của hội thánh – cũng như chuyện ai thực sự tin Đức Chúa Trời, ai mưu cầu lẽ thật, ai làm bổn phận, ai không làm bổn phận, ai thường hay tiêu cực, ai tin một cách hồ đồ, và thậm chí là tình hình và thông tin riêng tư của các anh chị em – mà bàn tán chi tiết, không chừa lại chút gì với những người ngoại đạo và người nhà không tin Đức Chúa Trời. Hãy kiểm tra xem có người như vậy hay không. Có một số chuyện mà ngay cả những người trong hội thánh cũng không nhất thiết phải biết, thế mà người nhà không tin Đức Chúa Trời của những người như vậy lại biết rõ về những chuyện này hơn người trong hội thánh. Sao mà chuyện lại thành ra như vậy? Đây chính là “công lao” của kẻ nội gián. Kẻ nội gián này coi người nhà mình như thể là lãnh đạo hội thánh. Hễ thấy chuyện gì trong hội thánh là họ lại về nhà báo cáo cho “lãnh đạo” của họ nhằm lấy lòng và thắt chặt thêm mối quan hệ tình cảm với người nhà. Hiển nhiên là tất cả những chuyện này của hội thánh đã bị những kẻ nội gián không thể giữ mồm giữ miệng bán đứng hết. Họ không tôn trọng các anh chị em, không bảo vệ công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Họ coi nhà Đức Chúa Trời và hội thánh như xã hội hoặc một nơi công cộng, tùy tiện bình luận và xét đoán anh chị em như thể là người ngoại đạo, thậm chí còn cùng những kẻ chẳng tin và người ngoại đạo tùy ý xét đoán anh chị em. Thậm chí có một số người, sau khi bị lãnh đạo tỉa sửa hoặc sau khi nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp hoặc không hòa hợp với các anh chị em, thì về nhà khóc lóc và làm ầm ĩ để mọi người trong nhà biết chuyện. Hậu quả là nhà họ tìm cách trả thù lãnh đạo hoặc các anh chị em, muốn bán đứng và hủy hoại hội thánh. Đây có phải là một hiện tượng tốt không? (Thưa, không phải.) Đem chuyện nội bộ của hội thánh, những chuyện như có bao nhiêu anh chị em sống đời sống hội thánh và mọi người thực hiện những bổn phận gì, mà kể hết, không chừa lại chút gì với người nhà, họ hàng và bạn bè của mình – họ là thứ gì vậy? Họ có thực sự tin Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Họ có phải là thành viên trong nhà Đức Chúa Trời không? Liệu chúng ta có thể gọi họ là anh chị em không? (Thưa, không thể.) Nếu những kẻ nội gián và kẻ trộm trong nhà đó còn ở trong hội thánh, thì bất kể là trong quá khứ, hiện tại hay tương lai, họ cũng sẽ gây rắc rối lớn cho nhà Đức Chúa Trời và các anh chị em. Ngay cả khi họ có vẻ không làm nhiều việc ác trong đời sống hội thánh, thì hậu quả và ảnh hưởng của việc họ truyền đạt sau lưng đủ loại thông tin về nhà Đức Chúa Trời cho người ngoại đạo, Sa-tan và ma quỷ, cũng vô cùng tồi tệ! Liệu chúng ta có nên cho phép phần tử cặn bã như vậy được ở lại hội thánh không? (Thưa, không.) Liệu họ có xứng được gọi là thành viên của nhà Đức Chúa Trời không? Liệu họ có xứng được coi là anh chị em không? (Thưa, không.) Chúng ta nên xử lý loại người này thế nào? (Thưa, thanh trừ họ càng sớm càng tốt.) Phải thanh trừ họ càng sớm càng tốt! Hãy đuổi họ ra khỏi hội thánh! Lý do để thanh trừ họ là: “Anh không thể giữ mồm giữ miệng, không biết phân biệt tốt xấu, ăn cây táo rào cây sung. Anh tin Đức Chúa Trời và hưởng thụ ân điển của Ngài, hưởng thụ sự giúp đỡ, yêu thương, nhẫn nại và quan tâm của các anh chị em, thế mà anh vẫn bán đứng anh chị em và hội thánh như vậy. Anh là thứ không ra gì. Hãy biến đi!”. Chuyện của các anh chị em, chuyện của hội thánh và bất kỳ công tác nào của nhà Đức Chúa Trời đều không nên để người ngoại đạo biết, cũng không nên để họ xem đó như chuyện phiếm mà bàn luận. Họ không xứng! Bất kỳ ai lan truyền những thông tin như vậy đều sẽ trở thành đối tượng bị nguyền rủa và đối tượng mà hội thánh phải thanh trừ. Các anh chị em nên từ bỏ họ. Chỉ cần dựa vào hành động bán đứng các anh chị em và hội thánh, loan truyền chuyện nội bộ của hội thánh với người ngoại đạo để những người đó tùy ý bàn tán, thì chúng ta đã có thể chắc chắn trăm phần trăm rằng họ là phản đồ, nội gián và kẻ ác cần bị thanh trừ khỏi hội thánh. Các anh chị em có thể thông công và tranh luận bao nhiêu tùy thích về bất kỳ công tác nào được thực hiện trong nội bộ hội thánh, chẳng hạn như ai cần bị thanh trừ hoặc có chuyện gì phát sinh, nhưng không được loan truyền cho người ngoại đạo và không được nói với người thân không tin Đức Chúa Trời ở nhà. Nhất là không được nói cho người ngoài biết hoàn cảnh cá nhân và hoàn cảnh gia đình của các anh chị em mới tin và có vóc giạc nhỏ. Nếu không kiềm chế nổi mà nhất quyết phải nói ra, thì ngươi nên cầu nguyện với Đức Chúa Trời và dựa vào Ngài để học cách khắc chế bản thân, cũng như làm những việc có ý nghĩa. Nếu ngươi thực sự không thể kiềm chế bản thân, thì trước tiên ngươi cần báo cáo với hội thánh để tìm cách giải quyết, ngăn ngừa hậu quả xấu, vì loan truyền những thông tin như vậy thường dễ gây chuyện rắc rối nhất. Ví dụ, số điện thoại cá nhân, địa chỉ nhà, số năm tin Đức Chúa Trời, hoàn cảnh gia đình và tình trạng hôn nhân, v.v. đều là những chủ đề nhạy cảm. Những chủ đề này không liên quan gì đến lẽ thật hay lối vào sự sống mà thuộc về quyền riêng tư cá nhân. Chỉ có những tên đặc vụ và nội gián mới chuyên điều tra những chuyện này. Nếu ngươi thích tìm hiểu và loan truyền những chuyện này, thì đây là loại tâm tính gì? Là tâm tính có phần tà môn! Thay vì mưu cầu lẽ thật, ngươi lại chuyên đâm bị thóc, chọc bị gạo, làm nội gián hoặc đặc vụ mà phục vụ cho con rồng lớn sắc đỏ. Đây chẳng phải là con đường bất chính sao? Hễ ai chuyên tìm hiểu, điều tra và loan truyền lung tung về những chủ đề nhạy cảm và chuyện riêng tư của người khác thì đều có dụng ý xấu và là kẻ chẳng tin. Dân được Đức Chúa Trời chọn phải cực kỳ đề phòng những người như vậy. Nếu những người như vậy không hối cải, thì nên cấm họ tham gia đời sống hội thánh, vì bán đứng các anh chị em là hành vi vô đạo đức, đê tiện và vô sỉ nhất. Dân được Đức Chúa Trời chọn nên tránh xa những người như vậy. Trong đời sống hội thánh, cũng nên hạn chế mọi người tìm hiểu và bàn tán những chuyện này, vì những chuyện này không liên quan gì đến việc thông công lẽ thật và nói về những chuyện này chẳng mang lại lợi ích gì cho người khác.

Nhà Đức Chúa Trời có những sắc lệnh quản trị và quy định khác nhau mà dân được Đức Chúa Trời chọn buộc phải tuân thủ. Hễ là sự vụ nội bộ của hội thánh, việc điều chỉnh nhân sự đối với lãnh đạo và người làm công, công tác thanh lọc của hội thánh, những sự an bài của Bề trên, v.v. thì đều không được tùy tiện loan truyền trong hội thánh, để tránh bị những kẻ chẳng tin và kẻ ác bán đứng cho Sa-tan. Lý do là vì nhà Đức Chúa Trời khác với xã hội. Đức Chúa Trời yêu cầu người ta mưu cầu lẽ thật, đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn, nghiền ngẫm nhiều hơn và thông công nhiều hơn. Chỉ có loan truyền lời Đức Chúa Trời và làm chứng cho Đức Chúa Trời mới là nếp sống đúng đắn. Chỉ có trao đổi nhiều lời chứng trải nghiệm hơn mới là nếp sống đúng đắn. Ngoài ra, trong nhà Đức Chúa Trời có rất nhiều người mới và họ chỉ mới tin Đức Chúa Trời trong một thời gian ngắn, nên khó tránh khỏi chuyện một số kẻ chẳng tin vẫn chưa bị tỏ lộ. Nhất là, năm hoặc mười năm đầu tin Đức Chúa Trời là khoảng thời gian tỏ lộ người ta. Trong thời gian này, chúng ta không biết ai có thể đứng vững và ai không, cũng không biết có bao nhiêu kẻ ác có thể gây nhiễu loạn cho hội thánh vẫn tồn tại. Nếu luôn loan truyền lung tung thông tin cá nhân và những chuyện bên ngoài đó, cũng như những chuyện không liên quan đến việc thông công lẽ thật, thì sẽ dẫn đến rất nhiều hậu quả xấu. Ví dụ, có người hỏi: “Lãnh đạo nào đó là người quê ở đâu? Nhà ở đâu?”. Những vấn đề nhạy cảm này không phải điều mà dân được Đức Chúa Trời chọn nên biết. Có người lại hỏi: “Nhà Đức Chúa Trời tốn bao nhiêu tiền để in một cuốn sách lời Đức Chúa Trời?”. Biết chuyện này thì có ích gì không? (Thưa, không.) Chi phí in ấn có phải là việc của ngươi không? Ngươi phải trả chi phí này à? Chuyện này hình như không liên quan đến ngươi, phải không? Có người thì hỏi: “Hiện tại ai là lãnh đạo cấp cao trong nhà Đức Chúa Trời?”. Nếu người đó không trực tiếp lãnh đạo ngươi, thì việc không biết chuyện này có ảnh hưởng gì đến ngươi không? (Thưa, không.) Ở Trung Quốc đại lục, ngươi biết những chuyện này thì còn thêm phiền phức. Lỡ như con rồng lớn sắc đỏ bắt được ngươi và dùng cực hình để tra tấn ngươi, nếu ngươi không biết những chuyện này thì bất kể chúng có đánh đập ngươi ra sao, ngươi cũng không thể nói ra bất kỳ điều gì, nhờ đó ngươi sẽ không trở thành Giu-đa. Nhưng nếu ngươi biết chuyện và bị đánh đến mức không thể chịu đựng nổi, thì có thể ngươi sẽ nói ra, từ đó trở thành Giu-đa. Lúc đó, có thể ngươi sẽ nghĩ: “Tại sao lúc đó mình lại hỏi bừa những câu hỏi đó? Không biết thì tốt hơn nhiều. Cho dù có đánh chết mình thì mình cũng không biết. Ngay cả khi muốn bịa ra câu trả lời, mình cũng không bịa được gì. Như thế thì mình sẽ không trở thành Giu-đa. Giờ thì mình đã rút ra một bài học. Tốt hơn hết là đừng biết quá nhiều về những chuyện không liên quan đến lẽ thật. Nghe ngóng những chuyện như thế không có ích gì cả, không biết thì tốt hơn”. Còn có một số người khác hỏi rằng: “Tổng cộng có bao nhiêu nhóm trong nhà Đức Chúa Trời làm công tác nghiệp vụ?”. Chuyện này có liên quan gì đến ngươi à? Ngươi đang ở nhóm nào thì cứ làm công tác đó. Không biết chuyện này cũng không ảnh hưởng gì đến việc ngươi làm bổn phận bình thường, tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật, cũng không ảnh hưởng việc ngươi sống đời sống hội thánh, chẳng ảnh hưởng chuyện gì cả. Việc ngươi không biết chuyện này hoàn toàn không cản trở ngươi tin Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật hoặc đạt được sự cứu rỗi, vậy ngươi nghe ngóng thì có ích gì? “Hầu hết các anh chị em là dân thành thị hay nông thôn? Họ có học vấn hay không có học vấn?”. Biết những chuyện này có ích gì không? (Thưa, không.) Nếu họ đều là dân nông thôn thì có vấn đề gì? Nếu họ đều là dân thành thị thì sao? Những chuyện này không liên quan gì đến lẽ thật. Có người lại hỏi: “Hiện tại công tác phúc âm mở rộng như thế nào rồi?”. Hỏi một chút về chuyện này thì không sao, nhưng có một số người hiếu kỳ đến mức hỏi cụ thể về chuyện công tác phúc âm đã mở rộng đến bao nhiêu quốc gia, đâu cần thiết phải hỏi vậy, họ biết thì sao chứ? Họ có thể đạt được lợi ích gì? Nếu không có thực tế lẽ thật thì dù có biết, ngươi vẫn không có thực tế đó. Chuyện này không hề giúp ngươi làm tốt bổn phận hay phụ trợ cho lối vào sự sống của ngươi. Có một số chuyện mang tính sự vụ chung mà ngươi không nghe ngóng cũng không sao, không biết lại càng tốt, biết quá nhiều lại thành gánh nặng. Một khi thông tin lộ ra ngoài thì sẽ trở thành rắc rối và vi phạm. Biết những chuyện này không có gì tốt cả. Càng biết nhiều, ngươi càng gặp nhiều rắc rối. Những người hiểu lẽ thật biết điều gì nên nói và điều gì không nên nói. Còn những người hồ đồ không có hiểu biết thuộc linh thì khi nói chuyện không phân biệt được trong ngoài, chỉ toàn nói bậy nói bạ. Vì vậy, ngươi không nên báo cáo những chuyện này cho những người không hiểu lẽ thật trong hội thánh. Việc họ biết những chuyện này chẳng mang lại lợi ích gì. Thứ nhất, họ không thể giúp giải quyết vấn đề. Thứ hai, họ không thể bảo vệ công tác của hội thánh. Và thứ ba, không cần họ nói những lời hay ho về nhà Đức Chúa Trời. Mọi lời Đức Chúa Trời phán đều là lẽ thật và mọi việc Đức Chúa Trời làm đều công chính. Còn cần những kẻ chẳng tin và người ngoại đạo không có hiểu biết thuộc linh đó a dua và tâng bốc sao? Không cần. Ngay cả khi toàn thế giới không có sinh vật nào đi theo Đức Chúa Trời hay thờ phượng Ngài, thì địa vị và thực chất của Đức Chúa Trời vẫn không thay đổi. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, vĩnh viễn bất biến, không thay đổi vì bất kỳ sự thay đổi hoàn cảnh nào. Thân phận và địa vị của Đức Chúa Trời vĩnh viễn không thay đổi. Đây là lẽ thật mà những người tin Đức Chúa Trời nên hiểu. Những kẻ chẳng tin và người ngoại đạo nói chuyện và làm việc mà không phân biệt trong ngoài. Vậy họ biết quá nhiều thì có ích lợi gì cho công tác của nhà Đức Chúa Trời không? Công tác của nhà Đức Chúa Trời cần để cho họ biết sao? Họ không xứng được biết! Có thể một số người sẽ hỏi: “Có phải những chuyện này đều là chuyện bí mật nên không thể cho họ biết?”. Đã tin Đức Chúa Trời đến thời điểm này, các ngươi có nghĩ rằng những chuyện này có bí mật gì không? (Thưa, không.) Nhưng dân được Đức Chúa Trời chọn đều có nhân cách và tôn nghiêm. Chúng ta không được để họ trở thành đề tài bàn tán hoặc chế nhạo của những người ngoại đạo. Nhà Đức Chúa Trời, hội thánh và các anh chị em, dù là tập thể hay cá nhân, cũng đều có tôn nghiêm, đều là những điều tích cực và bất kỳ ai cũng đừng tính chuyện bôi nhọ họ. Bất kỳ ai làm điều gì để cho Sa-tan và ma quỷ tùy ý bôi nhọ, tùy ý phỉ báng hoặc làm tổn hại thanh danh của nhà Đức Chúa Trời hay của các anh chị em, thì đều bị nguyền rủa! Vì vậy, hội thánh tuyệt đối không cho phép những người không thể giữ mồm giữ miệng như vậy tồn tại. Một khi phát hiện những người như vậy, thì buộc phải thanh trừ họ! Cách xử lý này có phù hợp với nguyên tắc không? (Thưa, có.)

Một số người đặc biệt cẩn thận và dè dặt khi nói chuyện, giao lưu, tiếp xúc hoặc qua lại với anh chị em, nhưng khi về đến nhà, họ lại trở nên lắm lời, bạ chuyện gì cũng nói, thậm chí nói cả thông tin cá nhân của anh chị em, đến nỗi người nhà họ, những người ngoại đạo không tin Đức Chúa Trời, và những người chỉ tin trên danh nghĩa, biết rất nhiều chuyện về hội thánh. Người như vậy là nội gián, là kẻ phản bội – một Giu-đa – và chính là loại người mà hội thánh nên thanh trừ. Họ càng ở lâu trong hội thánh thì càng biết nhiều thông tin về anh chị em, càng bán đứng nhiều hơn, những chuyện bị người ngoại đạo nắm thóp và phỉ báng cũng nhiều hơn. Nếu ngươi không sợ họ bán đứng thông tin này cho người ngoại đạo thì hãy giữ họ lại; nếu ngươi không muốn thông tin cá nhân của mình và chuyện nội bộ của hội thánh bị lan truyền từ miệng của họ thì nên thanh trừ những nội gián này càng sớm càng tốt. Làm như vậy có thích hợp không? (Thưa, có.) Đối với loại người này thì không thể khách khí; họ không có ý định tốt và bản thân họ cũng chẳng tốt đẹp gì. So với hai loại người đã đề cập trước đó là người dễ trả thù và người phóng đãng và không chịu sự ràng buộc, thì loại người này thế nào? Họ tốt hơn hay tệ hơn? (Thưa, tệ hơn.) Những người này có thể cũng làm bổn phận, bỏ ra chút sức, chịu đựng chút khổ; nhà Đức Chúa Trời yêu cầu chuyện gì họ cũng có thể phối hợp và không từ chối, nhưng có một điều: Nhà Đức Chúa Trời có chuyện gì, họ đều đi nói cho người ngoại đạo. Ngày ngày họ đóng vai trò của một kẻ phản bội, một nội gián. Chỉ cần một điểm này thôi là hội thánh đã không thể chịu đựng họ và phải thanh trừ họ. Các ngươi có hiểu không? (Thưa, có.) Khi ở trong hội thánh, bất kể họ vui hay không vui, ai đụng chạm họ, ai hòa hợp với họ, họ trúng cử làm lãnh đạo hội thánh hay bị cách chức – bất kể xảy ra chuyện gì, họ đều nói tường tận chi tiết cho người nhà không tin của họ. Họ phải để cho người nhà không tin và người ngoại đạo được biết ngay lập tức và nắm bắt kịp thời tình hình nội bộ của hội thánh. Đối với dạng người như vậy, ngươi tuyệt đối không được khách khí hay nương tay; hễ phát hiện người nào thì phải thanh trừ người đó. Làm như vậy thì thế nào? (Thưa, thích hợp.) Làm như vậy có tàn nhẫn không? (Thưa, không.) Không tàn nhẫn. Ngươi đối xử với họ như anh chị em, nhưng họ không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời hay lợi ích của anh chị em chút nào. Thay vào đó, họ bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của anh chị em suốt. Ngươi xem họ là người nhà, nhưng họ có xem ngươi là người nhà không? (Thưa, không.) Vậy thì đừng khách khí với họ; nên thanh trừ thì hãy thanh trừ. Cho đến giờ, các ngươi đã phát hiện ra người nào như thế này chưa? (Thưa, đã từng gặp qua. Họ kể cho người nhà mọi chuyện của anh chị em, có lúc còn cho người nhà biết về một số chuyện và sự an bài cụ thể trong hội thánh ngay khi có cơ hội. Sau đó, người nhà của họ đã nắm thóp để đàm tiếu sau lưng hội thánh.) Những người này đã bị thanh trừ chưa. (Thưa, đã bị thanh trừ rồi.) Sau khi bị thanh trừ, họ có oán trách không? Họ còn cảm thấy không công bằng, nghĩ rằng: “Mình đâu có làm chuyện gì; chuyện này cũng đâu vi phạm các sắc lệnh quản trị, mình cũng không gây gián đoạn hay nhiễu loạn, tại sao mình bị thanh trừ?”. Các ngươi nói xem, có phải tính chất của chuyện họ làm còn nghiêm trọng hơn cả gây gián đoạn và nhiễu loạn không? (Thưa, phải.) Dạng người như vậy còn cứu được không? Có dễ thay đổi không? (Thưa, không dễ.) Tại sao ngươi lại nói là không dễ? Điểm nào cho thấy họ không dễ thay đổi? (Thưa, họ không phải người trong nhà Đức Chúa Trời, không phải là anh chị em; thực chất của họ là của kẻ chẳng tin và người ngoại đạo.) Đây là thực chất của họ. Vậy, làm sao ngươi có thể biết họ là người ngoại đạo và kẻ chẳng tin? (Thưa, bất kể có cảm xúc gì trong hội thánh, họ đều trút ra với người nhà, điều này cho thấy dù chuyện gì xảy ra thì họ cũng không đón nhận từ Đức Chúa Trời, càng không học được bất kỳ bài học nào. Những người như vậy không trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và không tiếp nhận lẽ thật, nên thực chất của họ là của kẻ chẳng tin.) Thực chất kẻ chẳng tin này của họ đã được làm rõ. Họ trút cảm xúc của mình với người nhà và đối đãi với mọi chuyện dựa trên cảm xúc. Làm sao ngươi thấy ra được họ không phải người của nhà Đức Chúa Trời, mà là người ngoại đạo trà trộn vào nhà Đức Chúa Trời? (Thưa, bởi vì họ có thể bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đóng vai trò là kẻ phản bội và nội gián, và bởi vì họ hoàn toàn không phải là người bảo vệ công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Cho nên, những người này không một lòng với nhà Đức Chúa Trời.) Nói như vậy là chưa đúng trọng tâm. Để Ta nói cho ngươi biết. Mặc dù loại người này tham gia đời sống hội thánh và làm bổn phận, nhưng họ có bao giờ xem anh chị em như người nhà không? Nói kiểu thông tục, họ có coi anh chị em như là người của mình không? (Thưa, không.) Vậy họ coi anh chị em là gì? (Thưa, là người ngoài.) Đúng vậy, là người ngoài, là đối thủ. Vậy thì họ coi nhà Đức Chúa Trời và hội thánh là gì? Chẳng phải chỉ là nơi làm việc của họ sao? (Thưa, phải.) Họ coi nhà Đức Chúa Trời và hội thánh như là công ty hoặc đoàn thể của người ngoại đạo, coi anh chị em như là người ngoài, là đối tượng để đề phòng, là đối thủ. Cho nên, họ có thể dễ dàng tiết lộ đủ loại thông tin và đủ loại tình hình thực tế về anh chị em cho những người hoàn toàn không tin Đức Chúa Trời. Họ cũng biết rằng những kẻ chẳng tin này sẽ không nói điều gì tốt đẹp, thậm chí có thể bôi nhọ anh chị em, phỉ báng nhà Đức Chúa Trời – họ biết hết chuyện này mà vẫn tiết lộ tình hình của anh chị em và hội thánh cho những người ngoại đạo này một cách không chút kiêng dè, không chừa lại gì cả. Rõ ràng, họ coi anh chị em như người ngoài, như đối thủ, ngay khi nảy sinh bất kỳ chuyện khó chịu nào, họ sẽ lập tức bắt tay với người ngoại đạo để chế giễu, phỉ báng, và đối phó với anh chị em ở sau lưng, từ đó thỏa mãn dục vọng cá nhân. Họ cảm thấy việc xét đoán bất kỳ anh chị em nào khi ở trong hội thánh là chuyện bất khả thi, bởi vì họ cảm thấy nếu thảo luận về chuyện của hội thánh hoặc của anh chị em trước mặt chính các anh chị em, thì bản thân họ sẽ phải gánh chịu hậu quả bất lợi. Nhưng thảo luận những chuyện này với người nhà thì hoàn toàn có thể thỏa mãn huyết khí, dục vọng, và cảm xúc của họ mà không cần phải chịu bất kỳ hậu quả nào, vì suy cho cùng người nhà thì vẫn là người nhà, sẽ không thể nào bán đứng họ. Nhưng anh chị em thì không như vậy. Bất kỳ lúc nào và ở đâu, anh chị em đều có thể tố giác họ, vạch trần họ, tỉa sửa họ, và thậm chí có thể khiến họ mất đi bổn phận và chức vụ. Cho nên, nói rằng họ coi anh chị em là đối thủ của mình thì hoàn toàn là thật. Đối thủ là người mà chúng ta phải đề phòng. Do đó, họ không nói chuyện với anh chị em, không thông công, cũng không vạch trần điều gì với anh chị em. Thay vào đó, họ “sống đời sống hội thánh” với người thân không tin trong nhà mình, với người nhà thì họ chuyện gì cũng nói, trút hết tâm sự. Họ không chút e dè bày tỏ những cách nghĩ, quan điểm, những điều không vừa ý, sự bất mãn, và mọi quan điểm sai lệch của mình, cảm thấy được giải thoát và vui vẻ khi làm như vậy. Người nhà không ghét bỏ mà còn giúp đỡ và phối hợp với họ. Nếu họ nói như vậy trong hội thánh, thì chân tướng kẻ chẳng tin của họ sẽ bộc lộ hoàn toàn, và hội thánh sẽ phải thanh trừ họ. Vì vậy, họ không coi anh chị em là người nhà mà là đối thủ. Một mặt là vậy. Mặt khác, họ không bao giờ coi mình là một phần của hội thánh, nên bất kỳ chuyện gì xảy ra với hội thánh, cho dù là bị giới tôn giáo phỉ báng và báng bổ, bị người ngoại đạo tung tin đồn và chế giễu, hoặc bị chính phủ quốc gia vu oan và bách hại, thì đều không liên quan và không quan trọng đối với cá nhân họ. Giả sử họ thực sự cảm thấy rằng: “Nếu hình ảnh của hội thánh bị tổn hại và danh Đức Chúa Trời bị sỉ nhục, thì sự tôn nghiêm của người tin Đức Chúa Trời như chúng ta bị thách thức nghiêm trọng. Vì lý do này, tôi sẽ không bao giờ nói về chuyện của hội thánh hoặc của nhà Đức Chúa Trời với người ngoại đạo để họ đem ra bàn tán và cười nhạo. Thậm chí để bảo vệ bản thân, tôi cũng không tùy ý nói về chuyện của nhà Đức Chúa Trời với người nhà không tin của mình” – nếu họ có ý thức như vậy thì chẳng phải họ sẽ có thể giữ mồm giữ miệng sao? Vậy, tại sao họ không làm được? Hiển nhiên là họ hoàn toàn không coi mình là một phần của nhà Đức Chúa Trời, cũng không coi mình là người tin Đức Chúa Trời. Một số người nói: “Ngài nói vậy không đúng. Nếu họ không coi mình là một phần của nhà Đức Chúa Trời, tại sao họ vẫn có thể đến nhóm họp?”. Trong số những người tin Đức Chúa Trời, loại người nào cũng có. Chẳng phải chúng ta đã thông công rồi sao? Có nhiều người tin Đức Chúa Trời với đủ loại động cơ và mục đích xấu, và loại người này là một trong số đó. Tin Đức Chúa Trời để tìm thú vui, để giải sầu, hoặc để tìm chỗ dựa tinh thần – chẳng phải những kẻ chẳng tin như vậy rất phổ biến sao? Có nhiều người như vậy phải không? (Thưa, phải.) Họ còn không thừa nhận mình là người tin Đức Chúa Trời. Tất nhiên, mọi công tác của hội thánh và việc dân được Đức Chúa Trời chọn làm bổn phận đều không liên quan đến họ, họ không để vào lòng. Cho nên, họ có thể tùy tiện và xem nhẹ mà nói cho người ngoại đạo về tình hình công tác của hội thánh, chuyện nội bộ của hội thánh, thậm chí là bất kỳ vấn đề nào nảy sinh giữa anh chị em. Sau khi họ nói xong, những người ngoại đạo lại tiếp tục xoi mói, bôi nhọ, và châm biếm, nhưng họ chẳng thấy khó chịu trong lòng chút nào. Họ thậm chí còn cùng người ngoại đạo mắng chửi anh chị em, xét đoán nhà Đức Chúa Trời, bình phẩm về công tác cũng như sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời. Họ mà là người tin Đức Chúa Trời sao? (Thưa, không phải.) Người thực sự tin Đức Chúa Trời thì tuyệt đối không làm những chuyện như vậy. Ngay cả khi bảo vệ tôn nghiêm và lợi ích của bản thân, thì họ cũng không bao giờ ăn cây táo rào cây sung, đứng về phía người ngoài. Có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Cho nên, loại người này là kẻ ác và kẻ chẳng tin, phải bị thanh trừ. Thanh trừ họ càng sớm thì hội thánh càng sớm yên bình.

Hãy nói về bản thân các ngươi. Nếu cha mẹ, anh chị em ruột hoặc bạn bè thân thiết nhất của ngươi không tin Đức Chúa Trời, nhưng họ không phản đối mà còn rất ủng hộ việc ngươi tin Đức Chúa Trời, thì ngươi có đem hết mọi chuyện xảy ra trong hội thánh mà kể với họ không? Nếu một người bạn nữ của ngươi hỏi: “Trong hội thánh của anh, có người đàn ông nào đang tìm bạn đời không? Có ai đặc biệt thật thà, còn cao ráo, giàu có, và đẹp trai không?”. Trong dân ngoại đạo có một vài người đàng hoàng cũng muốn tìm người đàng hoàng để chung sống. Người bạn nữ của ngươi muốn tìm người tin Đức Chúa Trời, thì ngươi có sẵn lòng nói cho cô ta biết không? (Thưa, không.) Ngươi nên nói với cô ta rằng: “Chị có thiện cảm với người tin Đức Chúa Trời thì cũng vô ích. Chị là kẻ chẳng tin, căn bản không tương hợp với những người có đức tin; không chung ngôn ngữ, không chung con đường! Nhìn chị xem, ăn mặc thật lòe loẹt – anh em nào trong hội thánh của tôi thấy chị vừa mắt được chứ?”. Ngươi còn không thấy cô ta vừa mắt, thì liệu ngươi có thể nói cho cô ta về chuyện hội thánh không? (Thưa, không thể.) Nói với nhau vài câu là hết chuyện, quan điểm đôi bên hoàn toàn không nhất trí được. Ngay cả khi một số người ngoại đạo có thiện cảm với những người tin Đức Chúa Trời, và cho dù sau khi ngươi tin Đức Chúa Trời mà họ vẫn giữ tình bạn với ngươi như cũ, thì ngươi có sẵn lòng nói cho họ chuyện nội bộ của hội thánh hoặc những khó khăn mà ngươi gặp phải khi làm bổn phận không? (Thưa, không.) Ngay cả khi họ ủng hộ ngươi tin Đức Chúa Trời, thì việc ngươi nói chuyện của hội thánh với họ có ích gì chứ? Ví dụ, một số anh chị em bị con rồng lớn sắc đỏ tra tấn và thẩm vấn mà vẫn tuyệt nhiên không trở thành Giu-đa. Đây là lời chứng mà ngay cả người ngoại đạo cũng khâm phục – liệu ngươi có sẵn lòng nói cho họ biết không? (Thưa, không.) Tại sao ngươi không sẵn lòng nói cho họ biết? (Thưa, chuyện này không liên quan gì đến họ, họ cũng không thể hiểu được những lời chứng trải nghiệm này.) Họ sẽ không thể hiểu được. Khi nói những chuyện này thì có thể gây ra những tác động tiêu cực nào? (Thưa, có khả năng họ sẽ xét đoán hội thánh.) Họ sẽ xét đoán: “Tại sao các anh lại tự làm khổ mình như vậy? Tại sao lại chống lại chính phủ quốc gia?”. Các ngươi xem, chỉ một câu nói đã để lộ bản tính của họ. Sao có thể gọi như vậy là chống lại chính phủ quốc gia? Rõ ràng là tên quỷ vương thống trị quốc gia đang tàn hại những người được Đức Chúa Trời chọn, không cho những người này con đường sống. Họ thấy được như vậy rồi mà vẫn giả vờ không biết. Rõ ràng là họ đang nói năng theo kiểu đổi trắng thay đen, bóp méo sự thật. Ngươi còn có thể bàn luận điều gì với họ nữa? Bất kỳ điều gì liên quan đến chuyện tin Đức Chúa Trời, ngươi đều không được nói với họ, không được để họ biết. Những người không thể giữ mồm giữ miệng có thể nói mọi chuyện của hội thánh cho người ngoại đạo. Họ rõ ràng là những kẻ chẳng tin; họ là ma quỷ đến sống qua ngày đoạn tháng trong nhà Đức Chúa Trời, là súc sinh ăn cây táo rào cây sung mà không có chút lương tâm và lý trí nào. Bất kỳ sự tổn thất nào về lợi ích hay thanh danh của nhà Đức Chúa Trời hoặc của hội thánh đều không liên quan hay quan trọng với họ, không liên quan đến bất kỳ lợi ích nào của họ, và họ không buồn chút nào; cho nên, họ có thể tùy ý nói bừa không chút kiêng dè về chuyện nội bộ của hội thánh cho người ngoại đạo và người không tin Đức Chúa Trời. Dạng người này có đáng ghét không? (Thưa, đáng ghét!) Liệu một kẻ chẳng tin hoàn toàn không coi anh chị em như người nhà mà coi người ngoại đạo như người nhà, thì có thể tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Liệu họ có thể thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Liệu một người không coi mình là thành viên của hội thánh, khi nghe những lời Đức Chúa Trời cứu rỗi con người này, thì có thể buông bỏ lợi ích riêng để mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Việc làm hằng ngày của họ toàn là bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đứng về phía người ngoài, làm nội gián, làm Giu-đa, làm kẻ phản bội, như thể đây là sứ mạng của họ. Họ không đi theo con đường đúng đắn, thay vào đó ngày ngày họ sống để hành ác; họ đáng chết và đáng bị nguyền rủa! Loại Giu-đa, kẻ phản bội, và sai dịch của Sa-tan ăn cây táo rào cây sung này đều là những thứ tiêu cực, có hại cho nhân loại, và bị mọi người khinh bỉ. Vậy, hội thánh xử lý và thanh trừ họ chẳng phải là chuyện đương nhiên nên làm sao? (Thưa, phải.) Đương nhiên phải vậy! Các ngươi sẵn lòng bị người ta bán đứng sao? Nếu hội thánh hoặc nhà Đức Chúa Trời bị bán đứng, có khả năng hầu hết mọi người không đồng cảm sâu sắc hoặc quá buồn; họ chỉ có chút khó chịu trong lòng vì suy cho cùng thì họ cũng là thành viên trong đó. Nhưng nếu bản thân ngươi bị người trong hội thánh bán đứng cho người ngoại đạo, và vì họ bán đứng ngươi mà ngươi bị người ngoại đạo bóp méo sự thật, phỉ báng, chế giễu, xét đoán, và lên án, thì ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Chẳng phải ngươi sẽ cảm nhận được sự sỉ nhục và tủi nhục mà hội thánh và nhà Đức Chúa Trời phải chịu sao? (Thưa, phải.) Xét từ điểm này, việc thanh trừ những người đó có thích hợp hay không? (Thưa, thích hợp.) Phải thanh trừ họ; đừng khách khí với họ. Về loại người không thể giữ mồm giữ miệng, dựa trên các loại biểu hiện về cách làm người và sống thể hiện ra, thì họ chính là kẻ chẳng tin trong hội thánh, một loại kẻ ác mà hội thánh nên thanh trừ. Bất kể cách thức hành động của họ là bí mật hay công khai, một khi phát hiện ra người nào không thể giữ mồm giữ miệng và thực chất nhân tính của họ là của người không tin chính cống, thì hãy thông báo ngay cho lãnh đạo và người làm công, cũng như báo cho anh chị em biết. Cần phân định chính xác và kịp thời những người như vậy, sau đó nên thanh trừ họ khỏi hội thánh càng sớm càng tốt. Đừng để họ có bất kỳ liên quan gì đến hội thánh, công tác của hội thánh, và anh chị em; triệt để thanh trừ họ là đúng đắn. Mối thông công về biểu hiện này của nhân tính – không thể giữ mồm giữ miệng – nói đến đây là xong.

Ba loại người mà chúng ta thông công hôm nay có phải là những trường hợp nghiêm trọng hơn hai loại người đã thông công trước đây không? (Thưa, phải.) Tình tiết nghiêm trọng hơn, nhân tính của họ tồi tệ và đê tiện hơn, tổn hại và ảnh hưởng mà họ gây ra cho lợi ích của hội thánh và tất cả anh chị em cũng lớn hơn. Cho nên, đối với ba loại người này, không được xem nhẹ, mà phải nghiêm túc đề phòng và không được nể quá hóa hỏng. Nếu phát hiện bất kỳ ai thuộc một trong ba loại này, hãy vạch trần và phân định họ ngay lập tức, sau đó xử lý họ càng nhanh càng tốt. Nếu họ đang thực hiện một bổn phận quan trọng, hãy nhanh chóng tìm người khác tiếp nhận bổn phận của họ, chuyển họ ra khỏi bổn phận đó rồi thanh trừ họ. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Các tình trạng khác nhau và các biểu hiện khác nhau trong các thời kỳ khác nhau của anh chị em trong hội thánh, còn có công tác của hội thánh, thậm chí một số chuyện nội bộ của hội thánh, những chuyện này chỉ được phép bàn luận và thông công giữa anh chị em. Làm như vậy sẽ giúp dân được Đức Chúa Trời chọn có nhận thức và cái nhìn rõ ràng hơn về các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, để từ đó họ đạt đến việc có thể làm việc theo nguyên tắc lẽ thật. Tuy nhiên, có một nguyên tắc phải nắm rõ: Bất kể là lẽ thật hay nguyên tắc liên quan đến lối vào sự sống của người được Đức Chúa Trời chọn, hay là quy định về sự vụ chung, thì tuyệt đối không được nói cho người ngoại đạo, tạo điều kiện cho người ngoại đạo bình luận và soi mói. Chuyện này hoàn toàn không được phép. Có một số người nói: “Nếu hoàn toàn không được phép thì đây chẳng phải là sắc lệnh quản trị sao?”. Có thể nói như vậy; bất kỳ ai tiết lộ thông tin sẽ phải chịu hậu quả tương ứng. Tại sao họ phải chịu hậu quả tương ứng? Bởi vì những người tiết lộ chuyện nội bộ của hội thánh không bảo vệ hội thánh hay anh chị em, và có thể tùy ý bán đứng hội thánh và anh chị em. Vì họ đóng vai trò là kẻ phản bội và Giu-đa, nên chúng ta không nên tiếp tục khách khí với họ hoặc coi họ là anh chị em hay người nhà nữa. Chúng ta nên xử lý họ như một kẻ phản bội và Giu-đa, cũng như trực tiếp thanh trừ họ khỏi hội thánh. Có một số người nói: “Con từng có tật xấu là nhiều chuyện, dễ nói năng bừa bãi. Hôm nay, con thấy hậu quả của chuyện này nên không dám nói năng bừa bãi nữa”. Được. Nếu ngươi đã nói như vậy thì để quan sát xem biểu hiện của ngươi ra sao. Nếu ngươi thực sự hối cải và xoay chuyển, không còn lan truyền bừa bãi hoặc bán đứng lợi ích của anh chị em, và có thể giữ mồm giữ miệng, thì nhà Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi một cơ hội. Nếu phát hiện ngươi lại làm như vậy một lần nữa, rằng ngươi đã lan truyền một số thông tin, thì tuyệt đối không khách khí với ngươi nữa – anh chị em trong hội thánh sẽ liên hợp với nhau để thanh trừ ngươi. Đến lúc đó, đừng khóc hay oán trách rằng ngươi không được cảnh báo trước. Bây giờ, mọi chuyện đều đã được nói rõ, nếu chuyện này xảy ra một lần nữa, nhà Đức Chúa Trời sẽ tuyệt đối không tha thứ. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Nếu các ngươi thấy ai không hiểu, hãy phổ biến cho họ; hãy chỉ bảo cho họ bằng những nội dung mà chúng ta đã thông công hôm nay. Nếu các ngươi thấy ai có dấu hiệu của hành vi này hoặc đã từng làm chuyện này, hãy truyền đạt và cảnh cáo họ, cho họ biết về tính chất và hậu quả của những chuyện này, cũng như cho họ biết thái độ của nhà Đức Chúa Trời đối với chuyện này và những người như vậy. Sau khi nói rõ ràng, hãy quan sát xem họ có thể hối cải không và về sau họ hành động như thế nào. Nếu họ thay đổi và không còn làm như vậy nữa, ngươi có thể tiếp nhận lại và đối xử với họ như anh chị em. Nhưng nếu họ ngoan cố không hối cải, còn muốn lén lút làm như vậy, thì phát hiện được ai phải thanh trừ người đó. Nếu phát hiện được hai người, thì thanh trừ cả hai; phát hiện được một nhóm, thì thanh trừ cả nhóm. Không được khách khí. Có một số người hỏi: “Con nói chuyện với người nhà đã từng tin nhưng sau đó bị thanh trừ, thì có được không?”. Có vẻ như những người thích buôn chuyện và đâm bị thóc, chọc bị gạo không dễ khống chế chính mình, không hỏi thì không chịu được. Các ngươi nói xem, làm như vậy có được hay không? (Thưa, không.) Nói với ai cũng không được, vì làm như vậy dễ dẫn đến hậu quả. Những người như vậy đều phải bị xử lý như Giu-đa. Đối với những kẻ chẳng tin, người đã bị thanh trừ, người gần gũi với ngươi, người đáng tin cậy, người ủng hộ ngươi tin Đức Chúa Trời, người có thiện cảm với việc tin Đức Chúa Trời, cũng như người chỉ tin trên danh nghĩa, người chỉ sống đời sống hội thánh và đọc chút lời Đức Chúa Trời nhưng không làm bổn phận nào, thì ngươi đều không được nói với họ – nếu ngươi nói thì sẽ bị xử lý như Giu-đa. Các ngươi đã hiểu chứ? (Thưa, đã hiểu.) Người không làm bổn phận còn bao gồm những ai nữa? Có bao gồm những người trong hội thánh bình thường không? (Thưa, có.) Các ngươi đừng quên chuyện này; đừng ngu ngốc, mà phải nắm vững các nguyên tắc. Đừng cứ tin để rồi trở thành Giu-đa bán đứng nhà Đức Chúa Trời và anh chị em mà không hề hay biết, thậm chí còn đắc ý về việc đó. Không thể giữ mồm giữ miệng, thậm chí còn bán đứng công tác của hội thánh và bán đứng anh chị em là một vi phạm nghiêm trọng. Bất kỳ ai làm chuyện ác như vậy cũng đều bị Đức Chúa Trời ghi lại. Đến giờ, mọi chuyện đã được nói rõ ràng với ngươi, và ngươi cũng đã hiểu. Nếu ngươi còn tiếp tục làm như vậy, thì đó sẽ không còn là vi phạm thông thường nữa mà là vi phạm sắc lệnh quản trị, ngươi sẽ là đối tượng bị thanh trừ, bị tước đi quyền lợi được cứu rỗi. Các ngươi đã hiểu chứ? (Thưa, đã hiểu.)

Ngày 11 tháng 12 năm 2021

Trước: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (24)

Tiếp theo: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (26)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger