Chức trách của lãnh đạo và người làm công (2)

Chúng ta hãy cùng nhìn lại nội dung chủ yếu được thông công trong buổi nhóm họp lần trước nào. (Thưa, lần trước Ngài đã liệt kê ra mười lăm chức trách của lãnh đạo và người làm công, và chủ yếu đã thông công về hai chức trách đầu tiên: Mục thứ nhất là dẫn dắt mọi người ăn uống và hiểu lời Đức Chúa Trời, bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời; mục thứ hai là nắm rõ tình trạng của từng loại người, và giải quyết những khó khăn khác nhau liên quan đến lối vào sự sống mà họ gặp phải trong cuộc sống hiện thực. Dựa vào hai mục này, Ngài đã mổ xẻ về những biểu hiện của lãnh đạo giả có liên quan.) Các ngươi đã bao giờ ngẫm nghĩ xem nếu mình là lãnh đạo thì có thể làm được điều nào trong hai điều này chưa? Rất nhiều người luôn cảm thấy mình có chút tố chất, có đầu óc, có chút gánh nặng, liền muốn tranh giành làm lãnh đạo, không muốn làm một người đi theo bình thường. Vậy thì trước tiên phải xem các ngươi có thể làm được hai điều này không đã, phải xem trong hai hạng mục công tác này thì ngươi có thể đảm đương được hơn và gánh vác được hạng mục nào. Chưa nói đến việc ngươi có tố chất để làm lãnh đạo, hay có năng lực và cảm giác gánh nặng của công tác này không, trước tiên hãy xem ngươi có thể làm tốt hai công tác này không đã. Các ngươi có từng nghiền ngẫm về vấn đề này chưa? Có một số người nói rằng: “Con đâu có định làm lãnh đạo thì nghiền ngẫm về vấn đề này để làm gì chứ? Con cứ làm tốt đống công việc của mình là được rồi, còn vấn đề này thì không liên quan đến con. Cả đời này con đều không muốn làm lãnh đạo, không muốn đảm đương chức trách của lãnh đạo hay người làm công. Vậy thì cả đời này con không cần phải nghiền ngẫm về vấn đề như vậy”. Lời này có đúng không? (Thưa, không đúng.) Cho dù ngươi không muốn làm lãnh đạo, nhưng chẳng phải ngươi vẫn cần biết người dẫn dắt ngươi làm hai công tác này như thế nào, người đó có làm hết trách nhiệm không, có tố chất này không, có năng lực và cảm giác gánh nặng này không, có phù hợp với hai yêu cầu này không sao? Nếu ngươi không hiểu và không nhìn thấu được, thì cho dù người đó đưa ngươi xuống hố thì ngươi có thể biết được không? Nếu ngươi chỉ đi theo một cách hồ đồ, là một kẻ hồ đồ, họ là lãnh đạo giả mà ngươi cũng không biết, để họ dẫn ngươi đi sai đường, dẫn ngươi đi đâu mà ngươi cũng không biết, vậy thì ngươi gặp nguy hiểm rồi. Vì ngươi không hiểu rõ về phạm vi chức trách của lãnh đạo và người làm công, không có sự phân định đối với lãnh đạo giả, vì vậy ngươi chỉ có thể đi theo một cách hồ đồ. Họ bảo ngươi làm gì thì ngươi cũng có thể làm, ngươi cũng không biết những điều mà họ thông công với ngươi có phù hợp với lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời và có phải là thực tế không. Ngươi tưởng rằng họ có sự nhiệt tình, thức khuya dậy sớm để bôn ba, vất vả và có thể trả giá, ai gặp khó khăn thì họ cũng có thể chìa tay ra giúp đỡ, không hề bỏ mặc, thì đây chính là lãnh đạo đạt tiêu chuẩn. Ngươi không biết rằng những lãnh đạo giả này không hề có năng lực lĩnh hội lời Đức Chúa Trời, dẫn dắt con người bao lâu thì con người cũng không hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, không biết yêu cầu của Ngài là gì, không biết cả cách phân định cái nào là đạo lý và cái nào là thực tế lẽ thật, con người không biết mình lĩnh hội một cách lệch lạc những lời Đức Chúa Trời nào, cũng không biết phải ăn uống lời Đức Chúa Trời như thế nào. Họ thông công với ngươi xong, làm việc cho có lệ xong, nhưng ngươi đang ở trong tình trạng nào, có khó khăn gì, rốt cuộc có giải quyết được không, họ đều không rõ, mà bản thân ngươi cũng không biết. Bề ngoài thì họ đã đọc lời Đức Chúa Trời và cũng đã thông công với ngươi về lẽ thật, nhưng ngươi vẫn sống trong tình trạng sai lầm mà không hề có sự xoay chuyển. Bất luận ngươi gặp phải khó khăn gì, bề ngoài họ đều có thể làm hết trách nhiệm, nhưng không có bất kỳ khó khăn nào của ngươi được giải quyết thông qua sự thông công và giúp đỡ của họ, vấn đề vẫn cứ tồn tại. Lãnh đạo như vậy có phải là lãnh đạo đạt tiêu chuẩn không? (Thưa, không.) Vậy ngươi phải hiểu những lẽ thật nào thì mới có thể phân định được những chuyện này? Mỗi một công tác mà lãnh đạo hay người làm công làm và mỗi một vấn đề mà họ xử lý có phải căn cứ theo yêu cầu của lời Đức Chúa Trời mà làm không, mỗi một lời mà họ nói có phải thực tế không, có phù hợp với lẽ thật của lời Đức Chúa Trời không, ngươi phải hiểu về những điều này. Ngoài ra, khi gặp phải các loại khó khăn, đường lối mà họ giải quyết vấn đề là dẫn dắt ngươi hiểu lời Đức Chúa Trời và đạt được con đường thực hành, hay là chỉ giảng một chút câu chữ và đạo lý, hô hào khẩu hiệu hay giáo huấn mà thôi? Có một số lãnh đạo và người làm công thích dùng cách thức khuyến khích để giúp đỡ con người, có những người lại thích dùng cách khích lệ, còn một số thì thích cách vạch trần, chỉ trích và tỉa sửa. Bất luận là dùng cách gì, nếu thật sự có thể dẫn dắt ngươi bước vào thực tế lẽ thật, thật sự có thể giải quyết khó khăn tồn tại trong hiện thực của ngươi, để ngươi hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, rồi từ đó có thể nhận biết bản thân, có con đường thực hành, vậy thì sau này khi lại gặp phải loại chuyện này, ngươi sẽ có đường lối khả thi. Vậy nên, có thể dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, khó khăn của con người hay không, có thể khiến con người hiểu được lẽ thật và có con đường thực hành hay không, đây là tiêu chuẩn tối thiểu để đánh giá xem một lãnh đạo hoặc một người làm công có đạt tiêu chuẩn hay không.

Lần trước chúng ta đã thông công đại khái về mục thứ nhất và thứ hai trong các chức trách của lãnh đạo và người làm công, và đã mổ xẻ một số biểu hiện của lãnh đạo giả về hai khía cạnh này. Biểu hiện chủ yếu của họ chính là lĩnh hội lời Đức Chúa Trời một cách nông cạn, bề mặt, không thể hiểu được lẽ thật. Rõ ràng họ không thể dẫn dắt con người hiểu được lời Đức Chúa Trời và đạt đến việc hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Khi con người gặp phải khó khăn, lãnh đạo giả không thể dựa vào nhận thức trải nghiệm của mình để dẫn dắt người khác hiểu lẽ thật và bước vào thực tế, đạt đến việc giúp cho người ta có đường lối khả thi, cũng không thể giúp con người phản tỉnh và nhận thức bản thân từ trong các phương diện khó khăn, đồng thời đạt đến giải quyết được khó khăn. Vậy hôm nay, trước hết chúng ta sẽ thông công một chút về việc khó khăn của lối vào sự sống là gì, có những khó khăn của lối vào sự sống nào mà con người thường gặp phải hay thường thấy trong cuộc sống. Chúng ta hãy đưa ra một tổng kết cụ thể về điều này. Chúng ta có cần phải thông công về điều này không? (Thưa, cần.) Bây giờ thì các ngươi đã có chút hứng thú đối với những chủ đề liên quan đến phương diện lối vào sự sống rồi, đúng không? Khi mới bắt đầu tiếp xúc với các ngươi và nói chuyện với các ngươi, bất luận Ta có nói gì thì các ngươi cũng đều đờ đẫn và ngu ngốc, phản ứng chậm, không nhạy bén. Khi đó Ta thấy các ngươi không hiểu gì cả, không có chút vóc giạc nào càng không nói đến chuyện có lối vào sự sống. Còn bây giờ khi nói đến những chuyện liên quan đến sự thay đổi tâm tính sự sống, đa số mọi người đã tương đối có hứng thú đối với phương diện chủ đề này rồi, có chút phản ứng rồi. Đây là hiện tượng tốt. Nếu các ngươi không làm bổn phận thì có thể đạt được những điều này không? (Thưa, chúng con không thể đạt được.) Đây là sự ban ân điển của Đức Chúa Trời, đều là sự ưu ái của Ngài.

Mục 2: Nắm rõ tình trạng của từng loại người, và giải quyết những khó khăn khác nhau liên quan đến lối vào sự sống mà họ gặp phải trong cuộc sống hiện thực (Phần hai)

Tám phương diện khó khăn trong lối vào sự sống của con người

I. Khó khăn trong phương diện làm bổn phận

Liên quan đến những khó khăn của lối vào sự sống, về mặt tổng quan, trước hết chúng ta hãy xem có những khó khăn nào thuộc phương diện làm bổn phận. Khi gặp phải khó khăn trong việc làm bổn phận mà có liên quan đến thực hành lẽ thật, ngươi có thể xử lý mọi việc theo nguyên tắc không, đây có phải là khó khăn của lối vào sự sống không? (Thưa, phải.) Nói thẳng ra thì cũng chính là các loại tình trạng, cách nghĩ, quan điểm và cả một số phương thức tư duy không chính xác được nảy sinh khi làm bổn phận. Vậy về phương diện này, cụ thể có những khó khăn nào? Chẳng hạn, luôn muốn qua loa chiếu lệ, giở mánh lới để lười biếng khi làm bổn phận, đây có phải là những tình trạng thường được biểu hiện và bộc lộ ra khi làm bổn phận không? Còn nữa, không tham gia vào công việc chính đáng mà luôn so bì với người khác khi làm bổn phận, coi nơi làm bổn phận như nơi để chơi đùa và tranh đấu. Mỗi lần đến lúc làm bổn phận, ngươi liền suy nghĩ về việc tìm một “vật tham chiếu”, “xem ai mạnh hơn mình, có thể kích thích ý chí chiến đấu của mình, mình sẽ thi đấu với người đó, tranh đoạt và so đo một lần, để xem kết quả làm bổn phận của ai tốt hơn, hiệu suất của ai cao hơn, xem ai có thể được lòng người hơn”. Còn nữa, dù hiểu được nguyên tắc làm bổn phận nhưng ngươi không muốn tuân thủ, không muốn làm theo lẽ thật của lời Đức Chúa Trời và yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời. Ngươi luôn muốn uế tạp việc làm bổn phận với sở thích cá nhân, nói rằng: “Con thích làm thế này, con thích làm thế kia. Con sẵn lòng làm thế này, con muốn làm thế kia”. Như vậy là tùy hứng, luôn muốn làm theo ý mình, dựa theo sở thích của mình mà muốn làm gì thì làm. Bất luận nhà Đức Chúa Trời yêu cầu thế nào, ngươi cũng đều nghe không lọt tai, chỉ thích chạy lệch khỏi con đường đúng đắn. Đây có phải là biểu hiện chân thực của đa số mọi người khi làm bổn phận không? Rất rõ ràng là những vấn đề này đều liên quan đến khó khăn ở phương diện làm bổn phận. Các ngươi bổ sung tiếp đi. (Thưa, chúng con không thể phối hợp hài hòa với người khác khi làm bổn phận, mà luôn muốn chuyên quyền độc đoán.) Đây cũng là một phương diện khó khăn. Không thể phối hợp hài hòa với người khác khi làm bổn phận, luôn muốn chuyên quyền độc đoán, muốn mình có tiếng nói quyết định. Khi gặp phải vấn đề, mặc dù cũng muốn hạ mình mà trưng cầu và nghe ý kiến của người khác nhưng ngươi lại không thực hành được, muốn thực hành nhưng trong lòng khó chịu. Đây chính là vấn đề. (Thưa, chúng con luôn bảo vệ lợi ích của bản thân khi làm bổn phận, ích kỷ và đê tiện. Thực ra khi gặp phải vấn đề cũng biết giải quyết như thế nào, nhưng trong lòng luôn cảm thấy chuyện này không liên quan đến mình, sợ làm sai và phải chịu trách nhiệm nên không dám ra mặt.) Nhìn thấy vấn đề nhưng không chịu giải quyết, xem chuyện đó chẳng liên quan đến mình, phớt lờ nó. Đây cũng được xem là không có lòng trung thành khi làm bổn phận. Bất luận có phải là công tác do ngươi phụ trách hay không, nếu ngươi đã nhìn thấu được cách giải quyết vấn đề thì nên làm hết trách nhiệm này. Đây là bổn phận của ngươi và cũng là chuyện trong bổn phận của ngươi. Nếu người phụ trách có thể giải quyết thì ngươi có thể không cần quan tâm tới. Nhưng nếu người phụ trách không giải quyết được thì ngươi nên đứng ra giải quyết, đừng phân chia xem là phạm vi phụ trách của ai. Phân chia phạm vi như vậy là không có lòng trung thành đối với Đức Chúa Trời. Còn gì nữa không? (Thưa, chỉ dựa vào đầu óc và ân tứ để làm việc khi thực hiện bổn phận, chứ không tìm kiếm lẽ thật.) Loại người này rất nhiều, luôn cảm thấy bản thân có đầu óc, có tố chất, gặp chuyện gì cũng không quan tâm, không hề tìm kiếm lẽ thật mà chỉ hành động theo ý mình. Kết quả là họ không làm tốt được bất cứ bổn phận nào. Đây đều là khó khăn của con người trong phương diện thực hiện bổn phận.

II. Vấn đề liên quan đến cách tiếp cận với tiền đồ và số phận

Việc tiếp cận với tiền đồ và số phận cũng liên quan đến một vấn đề lớn liên quan đến lối vào sự sống. Có người cảm thấy có hy vọng được cứu rỗi thì mới chịu trả giá, còn cảm thấy không có hy vọng thì lại tiêu cực. Nếu nhà Đức Chúa Trời không đề bạt và bồi dưỡng thì họ không sẵn lòng trả giá, chỉ làm cho có lệ khi làm bổn phận, và không chịu trách nhiệm. Bất luận làm gì, họ đều suy xét đến tiền đồ và số phận của mình, tự hỏi: “Rốt cuộc mình có đích đến tốt không? Trong lời hứa của Đức Chúa Trời có nói đến tiền đồ và đích đến của loại người như mình rốt cuộc là gì không?”. Nếu không có được đáp án chính xác, làm việc gì họ cũng không có tinh thần. Còn nếu đạt được sự đề bạt và bồi dưỡng của nhà Đức Chúa Trời, họ liền trở nên hăng hái, làm chuyện gì cũng đặc biệt tích cực. Nhưng nếu họ không làm tốt bổn phận và bị cách chức, thì họ lập tức tiêu cực, mặc kệ và hành động tùy tiện. Khi bị tỉa sửa, họ cho rằng: “Có phải Đức Chúa Trời không thích con nữa rồi không? Không thích thì Ngài nói sớm đi chứ, đừng làm lỡ chuyện mưu cầu thế giới của con!”. Khi bị cách chức, họ lại cảm thấy: “Có phải Ngài chướng mắt con rồi không? Là ai đã phản ánh về con sao? Có phải con là đối tượng bị đào thải rồi không? Nếu là như vậy thì Ngài nói sớm đi chứ!”. Còn nữa, trong lòng họ tràn đầy giao dịch, đòi hỏi và yêu cầu vô lý đối với Đức Chúa Trời. Hội thánh sắp xếp cho họ làm gì thì họ luôn xem việc có tiền đồ và số phận tốt đẹp hay không, có sự chúc phúc của Đức Chúa Trời hay không để làm tiền đề. Ít nhất là mọi người phải có sắc mặt tốt, thái độ tốt đối với họ và có thể công nhận họ, với tiền đề như vậy thì họ mới có thể tiếp nhận và thuận phục. Đây có phải là một số biểu hiện của việc tiếp cận với tiền đồ và số phận không? Các ngươi tiếp tục bổ sung đi. (Thưa, khi làm bổn phận mà xuất hiện sai lầm hay vấn đề và bị tỉa sửa thì họ oán trách Đức Chúa Trời và phòng bị Ngài, sợ mình sẽ bị tỏ lộ và đào thải, luôn chừa đường lui cho mình.) Sợ bị tỏ lộ và đào thải, luôn chừa đường lui cho mình, đây cũng là một phương diện biểu hiện trong cách tiếp cận với tiền đồ và số phận. (Thưa, khi nhìn thấy lời Đức Chúa Trời vạch rõ và xác định tính chất trùng khớp với bản thân, hoặc khi bị tỉa sửa và thấy xấu hổ, họ liền nhận định rằng mình là người hồ đồ, là ma quỷ và Sa-tan, là người không thể tiếp nhận lẽ thật. Họ liền chắc chắn rằng bản thân không còn hy vọng được cứu rỗi nữa, và trở nên tiêu cực.) Khi tiếp cận với tiền đồ và số phận, con người không thể hoàn toàn buông bỏ được ý định và dục vọng của mình, luôn coi nó là chuyện quan trọng nhất để mưu cầu, coi nó là động lực và tiền đề trong việc mưu cầu tất cả mọi thứ của mình. Khi bị phán xét và hành phạt, gặp thử luyện và tinh luyện, khi bị tỏ lộ hoặc gặp phải một số hoàn cảnh nguy hiểm, chuyện đầu tiên mà họ nghĩ đến là: “Có phải Đức Chúa Trời không còn muốn con nữa rồi không? Có phải Ngài chán ghét con rồi không? Giọng điệu phán lời của Đức Chúa Trời đối với con nghiêm khắc như vậy, có phải Ngài không muốn cứu rỗi con không? Có phải Ngài muốn đào thải con không? Muốn đào thải thì nói sớm đi chứ, tranh thủ bây giờ lúc con còn trẻ, Ngài đừng làm lỡ việc mưu cầu thế giới của con chứ”, họ nảy sinh tiêu cực, chống đối, đối đầu và chây lười. Những điều này đều liên quan đến một số tình trạng và biểu hiện trong cách con người tiếp cận với tiền đồ và số phận. Đây là một phương diện khó khăn lớn liên quan đến lối vào sự sống.

III. Khó khăn liên quan đến quan hệ giữa người với người

Hãy xem phương diện tiếp theo – quan hệ giữa người với người. Đây cũng là một khó khăn lớn liên quan đến lối vào sự sống. Đối đãi thế nào với người mình chướng mắt, đối đãi thế nào với người bất đồng ý kiến với mình, đối đãi thế nào với người mình không quen, đối đãi thế nào với người có mối quan hệ thân tình với mình hay người có ân với mình, đối đãi thế nào đối với người luôn có thể nhắc nhở kịp thời và nói lời thật lòng với mình, có thể giúp đỡ được mình, ngươi có thể đối đãi với mỗi người một cách công bằng hay không, thực hành như thế nào khi nảy sinh tranh chấp với người khác, còn nữa, giữa người và người nảy sinh đố kị và phân tranh, không thể chung sống hòa thuận, thậm chí không thể phối hợp một cách hài hòa khi làm bổn phận, đây đều là những tình trạng và biểu hiện liên quan đến phương diện mối quan hệ giữa người với người. Còn gì nữa? (Thưa, làm người ba phải, lúc phát hiện vấn đề của người khác lại không dám nói vì sợ đắc tội người khác.) Đây là tình trạng được sinh ra khi ngươi sợ đắc tội với người khác. (Thưa, cách đối đãi với lãnh đạo, người làm công và người có quyền thế, có địa vị.) Đối đãi với lãnh đạo, người làm công hoặc người có quyền thế, có địa vị thì ngươi lấy lòng, nịnh bợ, ton hót hay là đối đãi một cách đúng đắn. Đây là biểu hiện cụ thể về cách đối đãi với người có quyền có thế. Khó khăn trong phương diện mối quan hệ giữa người với người đại khái bao gồm những điều này.

IV. Vấn đề liên quan đến phương diện tình cảm của con người

Hãy nói một chút về phương diện tình cảm của con người. Có những vấn đề nào liên quan đến tình cảm? Trước tiên là cách ngươi đánh giá người nhà của mình và tiếp cận mọi việc họ làm. Cái “mọi việc họ làm” này đương nhiên bao gồm cả việc người nhà ngươi gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, xét đoán sau lưng người ta, có một vài cách làm của người không tin, v.v.. Ngươi có thể tiếp cận một cách công bằng với những chuyện này không? Lúc cần ngươi viết bài đánh giá thì ngươi có thể đánh giá họ một cách khách quan và công bằng, không bị tình cảm ảnh hưởng hay không? Đây là phương diện đối đãi như thế nào với người nhà của mình. Ngoài ra, đối với những người hòa hợp với ngươi hơn, hoặc những người từng giúp đỡ ngươi, thì ngươi có tình cảm với họ không? Đối với cách hành động và cư xử của họ, ngươi có thể nhìn nhận một cách khách quan, công bằng và chuẩn xác không? Nếu như họ gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh, ngươi phát hiện ra rồi thì có thể kịp thời phản ánh hoặc vạch trần họ không? Còn nữa, những người có quan hệ thân thiết hơn với ngươi hoặc hợp sở thích với ngươi, thì ngươi có tình cảm với họ không? Ngươi có sự đánh giá, định nghĩa và phương thức xử lý khách quan, công bằng đối với mọi hành vi, việc làm của những người này hay không? Khi hội thánh dựa vào nguyên tắc mà xử lý những người có liên hệ tình cảm với ngươi, mà kết quả của việc xử lý lại không hợp với quan niệm của ngươi, thì ngươi tiếp cận chuyện này thế nào? Ngươi có thể thuận phục không? Liệu ngươi có thể vẫn dây dưa mập mờ với họ sau lưng mọi người, vẫn bị họ mê hoặc, thậm chí bị họ xúi giục mà phân bua biện bạch cho họ, đứng ra lên tiếng bênh vực họ hay không? Liệu ngươi có thể vì những người có ơn với mình mà ra tay cứu giúp, xả thân quên mình, bất chấp nguyên tắc lẽ thật và mặc kệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không? Đây có phải là những vấn đề đủ mọi mặt liên quan đến tình cảm hay không? Có vài người nói: “Tình cảm không phải là chuyện liên quan đến người nhà và người thân hay sao? Không phải phạm vi chỉ là cha mẹ, anh chị em và người trong gia tộc hay sao?”. Không phải, phạm vi liên quan của tình cảm rất lớn. Có những người, đừng nói đến chuyện đánh giá công bằng người nhà của mình, ngay cả khi đánh giá những bạn bè tốt và anh em chí cốt của mình, họ cũng không công bằng, luôn có thể nói những lời bóp méo sự thật. Chẳng hạn như, anh em chí cốt của họ khi làm bổn phận lúc nào cũng không chuyên tâm vào việc chính, lại còn bày trò bất chính, thì họ nói rằng đây là do ham chơi, nhân tính người này chưa trưởng thành, chưa ổn định. Nói như vậy có phải là có ảnh hưởng của tình cảm không? Như vậy chính là nói năng theo tình cảm. Nếu người không có quan hệ với ngươi mà không chuyên tâm vào việc chính và bày trò bất chính, thì ngươi sẽ nói nghiêm trọng hơn, thậm chí còn lên án người đó. Đây chẳng phải là biểu hiện của việc nói năng, hành động theo tình cảm sao? Người sống theo tình cảm thì có sự công bằng không? Có phải là người chính trực không? (Thưa, không phải.) Người nói năng theo tình cảm thì có vấn đề gì? Tại sao lại không thể đối đãi với người khác một cách công bằng? Tại sao lại không thể nói năng dựa theo nguyên tắc lẽ thật? Những người miệng lưỡi không xương, chẳng bao giờ có thể nói năng dựa trên sự thật, thì chính là người tà ác. Nói năng lúc nào cũng không công bằng, luôn nói theo tình cảm và vì bản thân, chứ không nói theo nguyên tắc lẽ thật, không nghĩ cho công tác của nhà Đức Chúa Trời, chỉ biết bảo vệ tình cảm, danh lợi và địa vị của riêng mình, đây chính là tính chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ nói năng như vậy, nói gì cũng tà môn, toàn gây gián đoạn và nhiễu loạn. Người sống trong những sở thích và lợi ích của xác thịt là người sống theo tình cảm. Người sống theo tình cảm đều không hề tiếp nhận lẽ thật, không thực hành lẽ thật. Người nói năng và hành động theo tình cảm thì chẳng hề có chút thực tế lẽ thật nào. Dạng người như vậy mà làm lãnh đạo thì chắc chắn là lãnh đạo giả hoặc kẻ địch lại Đấng Christ. Họ chẳng những không làm được công tác thực tế, mà còn có thể làm rất nhiều việc ác, chắc chắn sẽ bị đào thải và trừng phạt.

V. Vấn đề liên quan đến phương diện tham hưởng an nhàn xác thịt

Tham hưởng an nhàn xác thịt cũng là một vấn đề nghiêm trọng. Các ngươi nói thử xem, việc tham hưởng an nhàn xác thịt có những biểu hiện nào? Từ những gì các người nhìn thấy trong trải nghiệm của mình, các ngươi có thể liệt kê ra ví dụ nào không? Việc hưởng thụ ích lợi của địa vị có được tính không? (Thưa, có.) Còn gì nữa? (Thưa, chọn việc nhẹ, tránh việc nặng trong khi làm bổn phận, luôn muốn chọn làm những việc nhẹ nhàng.) Khi thực hiện bổn phận, mọi người luôn chọn việc nhẹ nhàng, việc không mệt mỏi, việc không cần phải dầm mưa dãi nắng. Đây là chọn việc dễ né việc khó, và là biểu hiện của việc tham hưởng an nhàn xác thịt. Còn gì nữa? (Thưa, họ luôn có những lời oán thán khi bổn phận của họ khổ một chút, mệt một chút, khi nó cần phải trả giá đôi chút.) (Thưa, bình thường họ chú trọng chuyện ăn mặc và hưởng thụ xác thịt.) Đây đều là những biểu hiện của việc tham hưởng an nhàn xác thịt. Khi một người như vậy thấy công tác nào quá vất vả hoặc rủi ro, họ liền đẩy nó sang cho người khác làm; bản thân họ chỉ làm công việc nhàn hạ, họ còn tìm lý do, nói mình tố chất kém và không có năng lực làm việc, không đảm đương nổi –trên thực tế, đó là bởi vì họ tham hưởng an nhàn xác thịt. Bất luận là làm việc gì hay làm bổn phận gì, họ đều không muốn chịu khổ. Nếu ngươi bảo họ rằng làm xong việc sẽ có thịt kho để ăn thì họ sẽ làm rất nhanh, năng suất rất cao, không cần hối thúc, không cần ép và cũng không cần trông coi họ. Còn nếu không có thịt kho mà còn phải tăng ca để làm bổn phận, thì họ liền chậm rì rì, tìm đủ lý do và viện đủ cớ để thoái thác, làm một chút liền nói: “Tôi chóng mặt, chân tê rồi, mệt quá! Cả người tôi đều khó chịu, có thể nghỉ ngơi không?”. Đây là vấn đề gì? Đây chính là tham hưởng an nhàn xác thịt. Cũng có khi người ta luôn phàn nàn về khó khăn trong lúc thực hiện bổn phận, khi họ không sẵn lòng bỏ công sức, thì ngay lúc có chút thời gian rỗi, họ nghỉ ngơi một lát, tán gẫu hay thư giãn giải trí. Và khi công việc bận rộn, phá vỡ nhịp điệu và quy luật cuộc sống của họ, họ cảm thấy không vui vẻ và không hài lòng trong lòng. Họ oán thán và kêu ca, thực hiện bổn phận thì qua loa chiếu lệ. Đây là tham hưởng sự an nhàn xác thịt, phải không nào? Chẳng hạn, có những người phụ nữ vì duy trì vóc dáng nên mỗi ngày đều tập thể dục nhịp điệu và đi ngủ sớm đúng giờ. Một khi công việc bận rộn hơn và những chuyện này được đảm bảo thì họ không vừa ý, bảo rằng: “Không được, làm công tác này làm lỡ việc của tôi quá. Nếu ảnh hưởng đến việc của tôi thì không được, ai hối thúc tiến độ thì tôi cũng không để ý, tôi phải làm theo nhịp điệu của mình. Khi nào phải đi tập yoga thì đi tập yoga, khi nào cần ngủ sớm thì phải ngủ sớm, nên làm thế nào thì vẫn làm thế nấy. Tôi không ngốc, không gắng sức như các anh chị đâu, qua vài năm thì tôi sẽ thành phụ nữ luống tuổi rồi, vóc dáng cũng sẽ thay đổi, không thon thả nữa, không ai thèm nhìn. Khi đó tôi sẽ sống mà chẳng có tự tin”. Để thỏa mãn sự hưởng thụ xác thịt của mình, vì sắc đẹp, để cho mọi người đều thích mình, để sống tự tin hơn, thì bất luận làm bổn phận có bận rộn thế nào, cô ta cũng không từ bỏ sự hưởng thụ và sở thích của xác thịt. Đây chính là tham hưởng an nhàn xác thịt. Có người nói: “Đức Chúa Trời nóng lòng, chúng ta phải quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời”. Cô ta liền nói: “Đức Chúa Trời nóng lòng nhưng tôi đâu có nhìn thấy, chỉ cần tôi không nóng lòng là được. Tôi quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời thì ai quan tâm đến tâm ý của tôi?”. Người nói những lời này thì có nhân tính không? Có phải là ma quỷ không? Còn có một số người, bất luận công việc bận rộn thế nào, gấp rút thế nào cũng sẽ không ảnh hưởng đến việc ăn mặc trang điểm của họ. Mỗi ngày họ đều phải tốn mấy tiếng đồng hồ để trang điểm, mỗi ngày mặc quần áo nào phối với giày dép nào, đi thẩm mỹ giờ nào, đi mát-xa giờ nào, họ nhớ rất rõ những chuyện này như lòng bàn tay, không hồ đồ chút nào. Còn về chuyện mình hiểu được bao nhiêu lẽ thật, còn những lẽ thật nào mình vẫn chưa bước vào được, làm những chuyện nào vẫn còn qua loa chiếu lệ và chưa có lòng trung thành, mình còn bộc lộ những tâm tính bại hoại nào, v.v., họ không hề biết những vấn đề liên quan đến lẽ thật mà đề cập đến lối vào sự sống của mình, hoàn toàn không biết gì cả. Còn đối với những chủ đề liên quan đến xác thịt và ăn uống chơi đùa thì họ nói thao thao bất tuyệt, ngươi chẳng thể ngắt lời họ được. Cho dù công việc của hội thánh bận rộn đến đâu hay bổn phận của họ bận rộn đến đâu, quy luật và tình trạng bình thường trong cuộc sống của họ cũng không bao giờ bị phá vỡ. Họ không bao giờ qua loa với bất kỳ chi tiết nhỏ nào của đời sống xác thịt và kiểm soát chúng một cách hoàn hảo, rất nghiêm khắc và nghiêm túc. Nhưng, khi xử lý công việc của nhà Đức Chúa Trời, bất kể là chuyện lớn đến đâu và ngay cả khi nó liên quan đến sự an toàn của các anh chị em, họ vẫn có thể xử lý một cách cẩu thả. Họ thậm chí không quan tâm đến những điều liên quan đến sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời hay bổn phận mà họ phải làm. Họ không chịu trách nhiệm chút nào. Đây có phải là tham hưởng an nhàn xác thịt không? Những người tham hưởng sự an nhàn xác thịt có phù hợp để thực hiện bổn phận không? Chỉ cần nhắc đến việc thực hiện bổn phận, nhắc đến việc trả giá và chịu đựng gian khổ, họ liền lắc đầu không ngừng: họ có rất nhiều khó khăn, họ đầy một bụng những lời oán thán, họ toàn là sự tiêu cực. Loại người này là vô dụng, họ không có tư cách thực hiện bổn phận và phải bị đào thải. Trong phạm vi liên quan của sự ham muốn những tiện nghi xác thịt, chúng ta sẽ gác lại điều này ở đây.

VI. Khó khăn liên quan đến phương diện nhận biết bản thân

Liên quan đến phương diện lối vào sự sống thì việc nhận biết bản thân là quan trọng nhất, nhưng đa số mọi người vì không yêu thích lẽ thật, không mưu cầu lẽ thật, nên việc nhận biết bản thân đã trở thành khó khăn lớn nhất. Vì thế có thể xác định, phàm là người không yêu thích lẽ thật thì đều không thể thật sự nhận biết bản thân. Có những phương diện nào trong việc nhận biết mình? Trước hết là nhận biết được những tâm tính bại hoại nào đã được bộc lộ trong lời nói và việc làm của mình. Đôi khi đó là sự kiêu ngạo, lúc khác thì lại là sự giả dối, hay có lẽ là sự tà ác, sự cương ngạnh hoặc phản bội, v.v. Ngoài ra, khi gặp chuyện, người ta nên tự kiểm điểm bản thân mình xem có những ý định hay động cơ nào không phù hợp với lẽ thật không. Họ cũng nên tự kiểm điểm xem liệu có chỗ nào trong lời nói hay hành động của mình chống đối hay phản nghịch Đức Chúa Trời không, đặc biệt là họ có gánh nặng, có trung thành đối với bổn phận của mình không, họ có chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời không, và liệu họ có đang giao dịch hay qua loa chiếu lệ không. Nhận biết bản thân cũng có nghĩa là nhận biết xem liệu mình có những quan niệm và tưởng tượng, những đòi hỏi xa xỉ hay có những hiểu lầm và oán trách đối với Đức Chúa Trời không, và liệu mình có thể có chủ tâm thuận phục không. Tức là nhận biết xem liệu mình có thể tìm kiếm lẽ thật, lĩnh hội từ Đức Chúa Trời và có tấm lòng thuận phục Ngài khi tiếp cận với những tình huống, con người, sự việc, sự vật mà Ngài sắp đặt không. Tức là nhận biết xem liệu mình có lương tâm và lý trí và liệu mình có phải là người yêu thích lẽ thật không. Tức là nhận biết xem liệu mình có thuận phục hay nói phải trái khi có chuyện ập đến, và liệu mình có dựa vào những quan niệm và tưởng tượng hay dựa vào việc tìm kiếm lẽ thật khi tiếp cận những vấn đề này. Đây là phạm vi của việc nhận biết bản thân. Người ta nên phản tỉnh xem mình có yêu thích lẽ thật và có đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời hay không qua thái độ của mình đối với những tình huống, con người, sự việc và sự vật khác nhau. Nếu người ta có thể nhận biết được tâm tính bại hoại của mình và thấy được sự phản nghịch Đức Chúa Trời của mình là quá lớn, như vậy thì họ đã có tiến bộ. Hơn nữa, đối với những chuyện liên quan đến cách đối đãi với Đức Chúa Trời, người ta nên phản tỉnh xem liệu mình có quan niệm nào không, có sự kính sợ và thuận phục đối với danh và sự nhập thể của Đức Chúa Trời không, và đặc biệt là thái độ của họ đối với lẽ thật là gì. Người ta cũng nên nhận biết được những thiếu sót của bản thân, vóc giạc của mình, liệu mình có được thực tế lẽ thật không, cũng như liệu sự mưu cầu và con đường mình đi có đúng và phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời không. Đây là tất cả những điều con người nên nhận biết. Nói tóm lại, những phương diện khác nhau của việc nhận biết bản thân về cơ bản bao gồm những điều sau: nhận biết xem tố chất của mình cao hay thấp, nhận biết về những phẩm chất nhân tính của bản thân, nhận biết về những ý định và động cơ khi mình làm việc, nhận biết về phẩm chất nhân tính và tâm tính bại hoại mà mình bộc lộ, nhận biết về sở thích và sự mưu cầu của mình, nhận biết về con đường mình đang đi, nhận biết về quan điểm nhìn nhận mọi sự của bản thân, nhận biết về nhân sinh quan và giá trị quan của bản thân và nhận biết về thái độ của mình đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật. Sự nhận biết bản thân chủ yếu bao gồm những phương diện này.

VII. Các loại biểu hiện trong việc con người đối đãi với Đức Chúa Trời

Nội dung tiếp theo liên quan đến phương diện lối vào sự sống chính là các loại biểu hiện trong việc con người đối đãi với Đức Chúa Trời. Chẳng hạn, ngươi có quan niệm với Đức Chúa Trời, nảy sinh sự hiểu lầm đối với Ngài, phòng bị Ngài, có những yêu cầu vô lý đối với Ngài, trong lòng ngươi lúc nào cũng né tránh Ngài, không thích những lời Ngài phán, luôn muốn nghiên cứu Ngài. Còn nữa, ngươi không nhìn thấu và cũng không nhận thức rõ ràng được sự toàn năng của Đức Chúa Trời, luôn có thái độ hoài nghi đối với sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời và đối với thẩm quyền của Ngài, không có chút nhận thức nào. Ngươi không những không tránh né, không phủ nhận sự báng bổ và phỉ báng của người ngoại đạo và của thế giới đối với Đức Chúa Trời, mà còn muốn nghe ngóng xem đó có phải tình hình thực tế không, có phải sự thật không. Như vậy có phải là hoài nghi Đức Chúa Trời không? Ngoài những điều này ra thì còn gì nữa? (Thưa, nghi kị và thử thách Đức Chúa Trời.) (Thưa, lấy lòng và nịnh bợ Đức Chúa Trời.) (Thưa, không muốn tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời.) Không muốn tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, đồng thời còn hoài nghi việc Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng người. (Thưa, còn việc đối đầu với Đức Chúa Trời nữa.) Còn việc đó nữa. Đối đầu, kêu gào với Đức Chúa Trời. Dùng thái độ khinh mạn và xem thường để đối đãi với Đức Chúa Trời, đối thoại với Ngài và giải quyết công việc với Ngài. Còn nữa không? (Thưa, qua loa chiếu lệ với Đức Chúa Trời, lừa gạt Đức Chúa Trời.) (Thưa, oán trách Đức Chúa Trời.) Khi gặp chuyện thì luôn không thuận phục, cũng không tìm kiếm lẽ thật, luôn nói lý lẽ của mình, luôn oán trách. (Thưa, còn xét đoán và phỉ báng Đức Chúa Trời nữa.) (Thưa, tranh đoạt địa vị với Đức Chúa Trời.) (Thưa, giao dịch với Đức Chúa Trời và lợi dụng Ngài.) (Thưa, phủ nhận, vứt bỏ và phản bội Đức Chúa Trời.) Đây đều là vấn đề mang tính thực chất, đều là các loại tình trạng và tâm tính bại hoại nảy sinh trong cách con người đối đãi với Đức Chúa Trời. Các loại biểu hiện trong việc con người đối đãi với Đức Chúa Trời về cơ bản là bao gồm những điều này.

VIII. Thái độ và các loại biểu hiện của con người trong việc tiếp cận lẽ thật

Một nội dung khác liên quan đến lối vào sự sống chính là phương diện tiếp cận với lẽ thật. Phương diện này có những biểu hiện nào? Đó là coi lẽ thật như lý luận, khẩu hiệu, quy định, coi lẽ thật là vốn liếng để mình kiếm ăn nhờ tôn giáo và hưởng thụ lợi ích của địa vị. Các ngươi bổ sung tiếp xem nào. (Thưa, coi lẽ thật là một kiểu gửi gắm tinh thần.) Coi lẽ thật là một kiểu gửi gắm tinh thần của mình, thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần của mình. (Thưa, không tiếp nhận lẽ thật và chán ghét lẽ thật.) Đây là thái độ đối với lẽ thật. (Thưa, cho rằng lời Đức Chúa Trời vạch rõ người khác chứ không liên quan đến bản thân, coi bản thân là chủ nhân của lẽ thật.) Ngươi đã nói về loại biểu hiện này khá thỏa đáng. Họ cho rằng mình hiểu tất cả những lẽ thật mà Đức Chúa Trời phán này, nhưng những tâm tính bại hoại, thực chất bại hoại của con người mà Đức Chúa Trời vạch rõ đều là nói về người khác chứ không phải nói về bản thân họ. Họ coi mình là chủ nhân của lẽ thật, thường dùng lời Đức Chúa Trời để đi giáo huấn người khác, cứ như bản thân họ chẳng có tâm tính bại hoại, cứ như họ đã là hóa thân của lẽ thật và người phát ngôn của lẽ thật vậy. Đây là thứ gì vậy? Muốn làm hóa thân của lẽ thật, vậy họ chẳng phải là Phao-lô sao? Phao-lô phủ nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, là Đức Chúa Trời, bản thân ông ta muốn làm Đấng Christ, muốn làm con trai của Đức Chúa Trời. Loại người này giống như Phao-lô, họ chính là người cùng loại với Phao-lô, là kẻ địch lại Đấng Christ. Còn nữa không? (Thưa, đối đãi lời Đức Chúa Trời như lời của người bình thường, không coi đó là lẽ thật để thực hành, và có thái độ không coi trọng và qua quít khi đối đãi với lời Đức Chúa Trời.) Không coi lời Đức Chúa Trời như lẽ thật để tiếp nhận, thực hành, mà tiếp cận với lẽ thật như lời của con người, đây cũng là một dạng. (Thưa, liên hệ lời Đức Chúa Trời với các triết lý và lý luận ngoại đạo.) Liên hệ lời Đức Chúa Trời với các triết lý, coi lời Đức Chúa Trời như một thứ trang trí, như những lời sáo rỗng, trong khi đó lại coi những danh ngôn của danh nhân và vĩ nhân là lẽ thật, coi tri thức, văn hóa truyền thống và phong tục tập quán là lẽ thật để thay thế lời Đức Chúa Trời. Khi gặp chuyện, họ luôn mồm nói rằng phải thực hành lẽ thật, làm chứng và rao truyền lời Đức Chúa Trời, nhưng trong lòng thì họ lại sùng bái những danh nhân và vĩ nhân từ thế giới thế tục, thậm chí còn tâng bốc Bao Công của triều Tống cổ đại, nói rằng: “Đó là một vị quan thanh liêm, công chính nghiêm minh, chưa bao giờ không công chính trong khi xử án. Trong tay ông không có án oan, và dưới dao cầu của ông cũng không có oan hồn”. Như thế có phải là đang tâng bốc, sùng bái danh nhân và thánh hiền không? Muốn dùng những lời danh nhân nói, những việc danh nhân làm để giả mạo lẽ thật, đây là sự bôi nhọ và phỉ báng đối với lẽ thật! Trong hội thánh thì luôn mồm bảo rằng phải thực hành lẽ thật, phải rao truyền lời Đức Chúa Trời, nhưng những gì trong lòng họ nghĩ và những gì bình thường họ nói lại là những tục ngữ, ngạn ngữ của dân gian đó, họ nói một cách thành thục và lưu loát, mà chưa bao giờ thấy họ nói ra được một câu về nhận thức trải nghiệm đối với lời Đức Chúa Trời, càng không nghe thấy những lời Đức Chúa Trời đó là tiêu chí, căn cứ cho hành xử và hành động của họ. Họ mở miệng hay ngậm miệng thì đều là: “Chim đi để tiếng, người đi để danh”, “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”, “Người đáng thương thì chắc chắn có chỗ đáng hận”, “Làm người thì phải biết chừa đường lui”, “Không có công lao cũng có khổ lao, không có khổ lao cũng đã chịu mệt”, “Không thể qua cầu rút ván, xay cối xong thì giết lừa”, “Giết một người răn trăm người, giết gà dọa khỉ”, “Quan mới nhậm chức thì hăng hái”, v.v.. Đây toàn là những luận điệu hoang đường, không có câu nào là lẽ thật. Còn có người sẽ học thuộc một ít lời của thi nhân đương đại, còn đăng chúng lên khung bình luận của những video của nhà Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là biểu hiện của việc không có hiểu biết thuộc linh sao? Những lời đó có phải lẽ thật không? Có liên quan đến lẽ thật không? Có người cứ hở ra là nói: “Trên đầu ba thước có thần linh”, “Thiện ác hữu báo, không phải không có báo ứng mà chẳng qua chưa đến lúc mà thôi”, lời này có phải là lẽ thật không? (Thưa, không.) Lời này từ đâu mà ra? Có trong lời Đức Chúa Trời không? Đây là văn hóa Phật giáo, không liên quan đến đức tin nơi Đức Chúa Trời. Không liên quan nhưng người ta cứ lôi chúng vào cùng với lẽ thật, đây chính là biểu hiện của việc không có hiểu biết thuộc linh. Có người dâng mình cho Đức Chúa Trời và có chút ý chí, nói rằng: “Nhà Đức Chúa Trời đề bạt con, Đức Chúa Trời đề cao con, vậy thì con phải làm được đến mức ‘kẻ sĩ vì tri kỷ mà chết’”. Ngươi đâu có phải kẻ sĩ, Đức Chúa Trời cũng đâu bảo ngươi chết. Làm bổn phận có cần sĩ khí lớn đến mức đó không? Ngươi sống mà còn làm chưa tốt bổn phận, chết rồi thì còn có thể có hy vọng gì không? Còn làm bổn phận gì nữa? Còn có người nói rằng: “Con người con trời sinh đã chú trọng đến nghĩa khí, là người trọng tình cảm. Con thích xả thân vì bạn bè. Đối với Đức Chúa Trời cũng vậy, Đức Chúa Trời đã chọn con, đề bạt và đề cao con, vậy thì con phải báo đáp ơn của Đức Chúa Trời. Con nhất định sẽ xả thân vì Ngài, cho đến ngày con chết mới thôi”. Đây có phải là lẽ thật không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời phán nhiều lời như vậy, sao họ lại không nhớ được câu nào nhỉ? Lúc nào họ cũng chỉ thông công rằng: “Không cần nói gì khác cả, kẻ sĩ vì tri kỷ mà chết, phải xả thân vì bạn bè, phải trọng nghĩa khí”, đến cả câu “báo đáp tình yêu thương của Đức Chúa Trời” mà họ cũng không nói ra được. Nghe giảng đạo và đọc lời Đức Chúa Trời nhiều năm như thế, vậy mà một chút lẽ thật họ cũng không biết, đến chút thuật ngữ thuộc linh mà họ cũng không biết nói. Đât chính là sự nhận thức và định nghĩa trong lòng họ đối với lẽ thật. Các ngươi nói xem, họ có đáng thương không? Có buồn cười không? Đây có phải là biểu hiện của việc không có hiểu biết thuộc linh không? Nghe giảng đạo nhiều như vậy mà không hiểu lẽ thật, không biết lẽ thật là gì, còn công khai dùng những lời của quỷ, những lời hoang đường và vô lý, buồn cười đến cùng cực kia để thay thế lẽ thật. Họ không những tự nghĩ và tiếp thu như thế ở trong lòng, mà còn không ngừng truyền giảng, truyền thụ cho những người khác, để những người khác cũng có sự tiếp thu giống như họ. Việc này có phải có chút tính chất gây nhiễu loạn và gián đoạn không? Xem ra những người không hiểu lẽ thật và không có hiểu biết thuộc linh này rất nguy hiểm, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng có thể làm ra những chuyện gây nhiễu loạn và gián đoạn, những chuyện hoang đường và vô lý. Còn những biểu hiện nào trong phương diện tiếp cận với lẽ thật nữa không? (Thưa, xem thường lẽ thật, tiếp nhận những gì hợp với quan điểm của mình, và không tiếp nhận, không thực hành những gì không hợp với quan điểm của mình.) Tiếp nhận và thực hành những gì hợp với quan điểm của mình, và chống đối, lên án tất cả những gì không hợp với quan điểm của mình, đây cũng là một kiểu thái độ. (Thưa, không tin rằng lẽ thật có thể giải quyết tâm tính bại hoại của bản thân và có thể thay đổi bản thân.) Không thừa nhận, không tin tưởng lẽ thật, đây cũng là một kiểu thái độ. Còn có một loại biểu hiện nữa, đó là thái độ, quan điểm trong việc tiếp cận với lẽ thật thay đổi tùy theo tâm trạng, hoàn cảnh và cảm xúc. Hôm nay tâm trạng tốt, cảm xúc dâng trào thì cảm thấy: “Lẽ thật tốt quá! Lẽ thật là thực tế của tất cả mọi điều tích cực, là thứ đáng được nhân loại thực hành và rao truyền nhất”. Còn nếu tâm trạng không tốt, họ lại cảm thấy: “Lẽ thật là gì chứ? Thực hành lẽ thật thì có lợi ích gì? Có thể kiếm ra tiền không? Lẽ thật thì có thể thay đổi được gì chứ? Thực hành lẽ thật thì có thể thế nào? Tôi không thực hành đấy, thì có thể thế nào?”. Tính quỷ của họ liền xuất hiện. Những biểu hiện này đều là tâm tính và các loại tình trạng mà con người bộc lộ ra trong cách họ tiếp cận với lẽ thật. Còn những biểu hiện cụ thể nào nữa? (Thưa, không coi lời Đức Chúa Trời như lẽ thật và sự sống, mà luôn nghiên cứu, phân tích.) Dùng tâm thái của một học giả để đối đãi với lời Đức Chúa Trời, luôn căn cứ vào tri thức để phân tích và nghiên cứu lẽ thật, không có chút thái độ tiếp nhận và thuận phục nào. Đây đại khái chính là những khó khăn trong phương diện tiếp cận với lẽ thật mà chúng ta có thể định nghĩa và nêu thành tiêu đề mang tính khái quát.

Nội dung về khó khăn liên quan đến phương diện lối vào sự sống có tổng cộng có tám phương diện, và tám phương diện này đều liên quan đến khó khăn chủ yếu trong lối vào sự sống và việc đạt đến được cứu rỗi. Những tình trạng và tâm tính mà con người bộc lộ ra thuộc tám phương diện này đều được vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cũng đưa ra yêu cầu đối với con người và chỉ ra con đường thực hành cho con người. Nếu con người có thể bỏ công sức vào lời Đức Chúa Trời, có thái độ nghiêm túc và khao khát, có gánh nặng đối với lối vào sự sống của bản thân, vậy thì họ có thể tìm thấy lẽ thật tương quan để giải quyết tám phương diện vấn đề này trong lời Đức Chúa Trời, và có con đường thực hành. Đây đều không phải là những vấn đề nan giải không thể giải quyết được, không phải lẽ mầu nhiệm gì cả. Còn nếu con người không có bất kỳ gánh nặng nào đối với lối vào sự sống của bản thân, không có chút hứng thú nào đối với lẽ thật và sự thay đổi tâm tính, vậy thì cho dù lời Đức Chúa Trời có được phán một cách rõ ràng và chính xác đến đâu thì đối với ngươi, đó cũng chỉ là văn tự và đạo lý mà thôi. Ngươi không mưu cầu và cũng không thực hành, vậy thì ngươi không thể đạt được sự giải quyết cho bất kỳ phương diện vấn đề nào, và rất khó để ngươi được cứu rỗi. Có lẽ ngươi sẽ mãi mãi dừng lại ở giai đoạn làm một người đem sức lực phục vụ, có lẽ sẽ mãi mãi dừng lại ở giai đoạn không thể được cứu rỗi và bị Đức Chúa Trời chán ghét, đào thải mà thôi.

Ảnh hưởng và hậu quả không tốt mà công tác của lãnh đạo giả mang lại

Đối với những khó khăn gặp phải trong lối vào sự sống, lãnh đạo giả làm gì? Khi con người gặp phải bất kỳ một loại tình trạng nào trong số các khó khăn thuộc tám phương diện này, liệu lãnh đạo giả có thể đối chiếu được, dùng lời Đức Chúa Trời và nhận thức trải nghiệm của mình để giải quyết những vấn đề này của con người không? Không may là khi con người gặp phải những khó khăn, những lãnh đạo giả này chỉ làm một số biện pháp bề ngoài, nói những lời nông cạn, hời hợt, không quan trọng và căn bản không liên quan đến tâm tính và khó khăn thực tế để giải quyết vấn đề của con người. Ví dụ, lãnh đạo giả thường hay nói rằng: “Anh không yêu thích lẽ thật!”. Họ hay nói như vậy để giải quyết khó khăn thực tế và xác định tính chất thực chất của một người nào đó. Cho dù là một vấn đề hoặc một tình trạng rất nhỏ, họ cũng không thể giúp đỡ ngươi tìm kiếm đáp áp trong lời Đức Chúa Trời, không thể giải quyết thông qua việc thông công về lẽ thật, thay vào đó họ nói một số lời mang tính đạo lý và không quan trọng, hoặc là cứ túm lấy vấn đề và thổi phồng nó lên, rồi phủ định toàn bộ một người nào đó mà không cho người đó cơ hội hối cải. Thật ra, nếu con người có năng lực lĩnh hội lời Đức Chúa Trời và thuộc dạng người có hiểu biết thuộc linh, thì họ sẽ có thể tìm thấy trong lời Đức Chúa Trời sự vạch rõ của Ngài đối với tám phương diện tình trạng này, điều này không khó. Nhưng vì lãnh đạo giả không có hiểu biết thuộc linh, tố chất lại kém, không có năng lực lĩnh hội, cộng thêm một số lãnh đạo giả căn bản là người nhiệt tình hay làm, giả hình, giả mạo thuộc linh, căn bản không giải quyết được vấn đề của con người. Đối với các loại vấn đề mà con người gặp phải, lãnh đạo giả sẽ khuyên bảo rằng: “Công tác của Đức Chúa Trời đã làm đến lúc nào rồi mà anh còn làm những trò đố kị và phân tranh? Anh còn thời gian cho điều đó à? Tranh giành cái đó thì có ích gì? Không tranh thì có thể thế nào?”, “Công tác của Đức Chúa Trời đã đến lúc nào rồi mà tình cảm của anh còn nặng nề như vậy. Anh vẫn chưa buông bỏ được, sớm muộn gì cũng chết ở mặt tình cảm mà thôi!”, “Công tác của Đức Chúa Trời đã đến lúc nào rồi mà chị còn để tâm đến chuyện ăn mặc như vậy chứ? Không mặc một cái đầm thì có thể thế nào? Không mua một đôi giày da thì có thể thế nào? Chị phải bỏ nhiều tâm tư hơn vào lời Đức Chúa Trời và việc làm bổn phận đi!”, “Khi gặp chuyện thì chị cầu nguyện với Đức Chúa Trời nhiều hơn. Bất luận gặp phải chuyện gì thì chỉ có một bài tập: học cách thuận phục Đức Chúa Trời, nhận biết sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời”. Khuyên như vậy thì có thể giải quyết vấn đề thực tế sao? Căn bản là không giải quyết được. Nếu không thì họ bảo: “Con người bị Sa-tan làm bại hoại sâu sắc, anh nặng tình cảm thì chẳng phải chính là phản nghịch Đức Chúa Trời sao? Anh không nhận biết bản thân thì chẳng phải chính là phản nghịch Đức Chúa Trời sao?”. Bất luận là gặp phải vấn đề gì, lãnh đạo giả đều không biết thông công về lẽ thật để giải quyết thực chất và tình trạng của con người. Họ không nhìn thấu được tình trạng của con người được nảy sinh như thế nào, sau đó căn cứ vào tình trạng của con người để thông công về lẽ thật và giải quyết vấn đề, cho con người sự giúp đỡ và cung ứng thích hợp. Mà lại rập theo một khuôn khổ mà nói: “Yêu kính Đức Chúa Trời đi! Làm bổn phận cho tốt, phải có lòng trung thành đối với Đức Chúa Trời, gặp chuyện thì cầu nguyện nhiều hơn đi!”, “Chuyện gì cũng là do Đức Chúa Trời tể trị và an bài, tất cả đều nằm trong tay Đức Chúa Trời!”, “Anh không tìm kiếm lẽ thật thì không được đâu, phải đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn. Lời Đức Chúa Trời phán rõ ràng mọi chuyện rồi, chỉ là con người không yêu thích lẽ thật!”, “Tai họa ở trước mắt rồi, kết cục của vạn vật đã cận kề, công tác của Đức Chúa Trời sắp đến hồi kết. Anh còn không sốt ruột gấp gáp lên đi, ngày tháng của con người còn được bao nhiêu đâu? Vương quốc của Đức Chúa Trời sắp đến rồi!”. Lãnh đạo giả chỉ nói những lời hời hợt này, chứ không bao giờ phân tích và mổ xẻ một cách cụ thể nhắm vào các loại vấn đề, cho con người sự giúp đỡ và cung ứng thực tế. Họ tìm cho con người một vài đoạn lời Đức Chúa Trời để đọc, hoặc là họ nói một vài lời khuyên bảo không quan trọng để đối phó một chút. Cuối cùng thì sao? Dưới sự hãm hại của lãnh đạo giả, con người không những không nhận biết được tâm tính bại hoại của bản thân, cũng không biết được nhân phẩm của mình như thế nào, mình thuộc loại người gì, thực chất bản tính của mình là gì, tức là không rõ tố chất của mình như thế nào, mình có năng lực lĩnh hội không, mình đang đi con đường nào, họ không buông bỏ được những thứ thế tục và trào lưu mà trong lòng mình chú trọng và yêu thích, cũng không có ai giúp đỡ họ nhận biết, mổ xẻ và phân tích những thứ này. Đây chính là hậu quả công tác của lãnh đạo giả. Khi gặp chuyện nếu không giáo huấn người ta tới tập một trận, chụp mũ và định tội bừa bãi, thì họ sẽ khuyên bảo, giáo dục một cách vô thưởng vô phạt, không nữa thì họ đối chiếu một cách miễn cưỡng phụ họa bằng lời Đức Chúa Trời, người nghe sẽ cảm thấy: “Dường như hiểu mà dường như cũng không hiểu, cảm thấy hiểu được rồi nhưng lại cũng như chưa hiểu được, chuyện này là sao? Lời lãnh đạo nói đều đúng, những sao mình lại không loại bỏ được vấn đề trong lòng? Sao khó khăn của mình lại không được giải quyết? Sao mình vẫn nghĩ như vậy, sao mình vẫn muốn làm như vậy? Sao mình vẫn chưa nhận biết được thực chất và căn nguyên của vấn đề rốt cuộc nằm ở đâu? Lãnh đạo nói mình không yêu thích lẽ thật, mình cũng thừa nhận mình không yêu thích lẽ thật, nhưng sao mình lại không bước ra được nhỉ?”. Lãnh đạo có tác dụng gì không? Tuy rằng họ đã nói chuyện, cũng đã làm công tác của mình, nhưng mọi chuyện vẫn là một mớ hỗn độn lớn, họ không có được tác dụng như họ phải có, không đạt đến khiến người ta hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, cũng không đạt đến khiến người ta đối chiếu được bản thân với lời Đức Chúa Trời, hiểu rõ tâm tính của mình một cách chính xác và giải quyết được khó khăn của mình. Đối với những “con cáo già” không hề tiếp nhận lẽ thật kia, khi họ nghe thấy lãnh đạo khuyên bảo mình hết nước hết cái thì họ cảm thấy có ác cảm cực độ. Đồng thời họ cũng học vẹt những lời lãnh đạo nói, lãnh đạo nói phần trước xong thì họ đều có thể tiếp phần sau, họ đã mất kiên nhẫn từ lâu, bảo rằng: “Anh đừng nói nữa. Những điều anh nói tôi đều hiểu cả. Anh còn nói nữa là tôi buồn nôn, tôi sẽ nôn ra đấy!”. Lãnh đạo vẫn nói: “Anh không yêu thích lẽ thật. Nếu anh yêu thích lẽ thật thì anh sẽ hiểu được tất cả những lời mà tôi nói”. Người đó liền nói: “Bất kể tôi có yêu thích lẽ thật hay không, anh đã lặp đi lặp lại những lời này bao nhiêu lần rồi, chẳng có thứ gì mới mẻ cả. Tôi nghe chán rồi!”. Lãnh đạo giả làm công tác như vậy đấy, bám vào quy định một cách cứng nhắc, cắn chặt lấy câu chữ, căn bản không thể giải quyết khó khăn thực tế của con người. Nếu con người có quan niệm với Đức Chúa Trời thì họ bảo người đó không nhận biết bản thân. Nếu có người nào nhân tính không tốt, không biết chung sống với người khác, không có quan hệ bình thường giữa người với người, thì họ bảo rằng một cây làm chẳng nên non, giáo huấn cả hai một trận, đánh cho mỗi người năm mươi gậy lớn: “Được rồi, hai người cân bằng rồi. Chúng ta làm việc công bằng hợp lý, xử lý công việc công bằng, không thiên vị bên phải mà cũng chẳng thiên vị bên trái. Ai nói có lý thì là người yêu thích lẽ thật, ai nói không có lý thì sau này ngậm mồm lại, ít nói lại mà làm nhiều hơn. Ai nói đúng thì các anh chị nghe người đó nhiều hơn”. Đây có phải là đang giải quyết vấn đề không? Có phải là làm công tác không? Đây chẳng phải là dỗ dành con nít và lừa bịp người ta sao? Trông thì có vẻ lãnh đạo giả rất bận rộn, nhưng họ không thể giải quyết vấn đề của ai cả. Họ làm công tác này như thế nào? Không có chút giá trị nào, hoang đường! Đây là cách làm của người ngoại đạo.

Trong trải nghiệm tin Đức Chúa Trời của mình, con người thường xuyên gặp phải một số khó khăn, và lãnh đạo giả không thể giải quyết bất kỳ khó khăn nào trong số đó. Thậm chí đến cả một số khó khăn rõ là dễ thấy và chỉ cần vài câu nói là có thể giải quyết được mà họ cũng không giải quyết được, đã vậy còn làm to chuyện, chuyện nhỏ hóa to. Có người chẳng phải kẻ ác, chỉ là về phương diện nhân tính, họ có hơi thiếu giáo dưỡng, không hiểu quy củ, có hơi lỗ mãng. Vậy mà lãnh đạo giả lại đem chuyện nhỏ như thế ra để làm rùm beng lên, để anh chị em thảo luận, phê phán, định tội. Mục đích của họ chính là để người này có ấn tượng sâu sắc, để người này về sau không dám làm như vậy nữa. Có cần phải như vậy không? Đây là biện pháp giải quyết vấn đề sao? Đây là dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề sao? (Thưa, không phải.) Chỉ cần không có vấn đề lớn về phương diện nhân tính, chỉ cần người này không phải là kẻ ác, có thể chân thành dâng mình, vậy thì trong tình huống anh ta còn có thể tiếp nhận, ngươi hãy tiếp tục làm công tác, nhắc nhở, giúp đỡ, thông công và dìu dắt người này là được. Nếu người ta luôn biểu hiện như vậy thì đều là vấn đề về phẩm chất nhân tính, cũng là vấn đề về tâm tính hung ác, vậy thì phải tỉa sửa một cách nghiêm khắc và tiến hành sửa dạy. Nếu người ta không tiếp nhận thì phải chấm dứt bổn phận của họ hoặc thanh trừ ra ngoài. Lãnh đạo giả không nhìn thấu chuyện này và cũng sẽ không làm như vậy. Khi gặp kẻ ác như thế, họ lại coi như anh chị em để dìu dắt và giúp đỡ. Đây có phải là đang làm công tác không? Có phải là dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề không? (Thưa, không phải.) Lãnh đạo giả làm công tác một cách hoang đường, ấu trĩ, buồn cười, không có thứ gì là phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời. Họ làm chuyện gì cũng trông như tay ngang, không có hiểu biết thuộc linh, làm xằng làm bậy và không có nguyên tắc. Tương tự, đối với các loại khó khăn gặp phải khi con người bước vào sự sống, họ cũng nhìn không thấu và không nắm bắt được chính xác, vì vậy cách giải quyết của họ trông có vẻ đặc biệt vụng về, ngu xuẩn, tay ngang. Người tiếp nhận sự giúp đỡ của họ cũng cảm thấy khó chịu, bức bối. Lâu dần thậm chí có người còn mất đi đức tin, nói rằng: “Lãnh đạo thông công với mình nhiều lần như thế rồi, sao mình lại chẳng thay đổi nhỉ? Sao mình vẫn mắc lại sai lầm cũ? Có phải nhân tính của mình vô cùng kém, không thể được cứu rỗi không?”. Thậm chí còn có người hoài nghi: “Có phải linh hồn của mình có vấn đề không? Có phải tà linh đang công tác nơi mình không? Có phải Đức Chúa Trời không cứu rỗi mình không? Vậy chẳng phải là mình hết hy vọng rồi sao?”. Đây chính là hậu quả của công tác của lãnh đạo giả. Lãnh đạo giả làm công tác theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia, hoang đường và vô lý, ngu xuẩn và vụng về, cuối cùng dẫn đến việc các loại khó khăn của một số người thật sự mưu cầu lẽ thật không thể được giải quyết kịp thời, khiến những người này nảy sinh một số sự tiêu cực và yếu đuối, cũng nảy sinh một số quan niệm và hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời và đối với công tác của Ngài, nói rằng: “Mình đã đọc nhiều lời Đức Chúa Trời như vậy, tại sao vấn đề này của mình không giải quyết được nhỉ? Lời Đức Chúa Trời rốt cuộc là có thể cứu rỗi được con người không? Có thể thay đổi con người không?”. Trong lòng họ nảy sinh sự hoài nghi, và họ rơi vào hoang mang. Vì vậy, kết quả tích cực trong công tác của lãnh đạo giả không nhiều, mà những thứ tiêu cực, không tốt thì lại không ít. Khi làm công tác, họ không những không thể xóa bỏ quan niệm, sự hoài nghi và xét đoán của con người đối với Đức Chúa Trời, mà ngược lại còn làm tăng sự hiểu lầm và phòng bị của con người đối với Đức Chúa Trời. Nói cách khác, cho dù con người đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm thì những vấn đề của họ đều không thể được giải quyết. Dưới sự mê hoặc và dắt mũi của lãnh đạo giả, sự hiểu lầm và phòng bị của con người đối với Đức Chúa Trời càng trầm trọng thêm, họ còn có thể có lối vào sự sống không?

Cách hiểu của lãnh đạo giả đối với những điều tích cực như lẽ thật, sự thay đổi tâm tính của con người, v.v. sẽ ảnh hưởng đến quan điểm và thái độ của rất nhiều người đối với những điều tích cực. Họ không làm công tác thì thôi, nhưng chỉ cần họ làm công tác liền xuất hiện sai lầm, nảy sinh hậu quả không tốt, trong hội thánh sẽ nảy sinh bầu không khí bất chính, nói cách khác là thường xuyên nảy sinh những câu nói sai lầm và vô lý, con người không hiểu và cũng không biết vận dụng những thuật ngữ thuộc linh thường xuyên được nhắc đến trong lời Đức Chúa Trời. Ngược lại, cái gọi là thuật ngữ và câu nói thuộc linh mà lãnh đạo giả thường nói lại được lưu truyền rộng rãi trong hội thánh. Những thứ này gây ra ảnh hưởng không nhỏ đối với con người, không những không thể giúp con người có nhận thức thực tế và chính xác hơn đối với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, không thể giúp con người tìm được con đường thực hành chính xác trong lời Đức Chúa Trời, mà ngược lại khiến cho nhận thức của con người đối với lẽ thật trở nên lệch lạc hơn, càng lý luận hóa và đạo lý hóa hơn, đồng thời cũng khiến cho họ càng mơ hồ hơn đối với con đường thực hành của mình. Nói cách khác, lãnh đạo giả làm như vậy là gây nhiễu loạn tầm nhìn của con người, ảnh hưởng đến sự lĩnh hội thuần túy của họ đối với lẽ thật. Việc lãnh đạo giả làm những chuyện này đã gây ra ảnh hưởng gì? Họ đóng vai trò gì? Nếu xác định tính chất của nó là gây gián đoạn và nhiễu loạn thì có chút quá đáng, nhưng nói những người này là tên hề chỉ biết nhảy loạn xạ khắp nơi thì không quá đáng chút nào. Khi vừa mới làm bước công tác này, Ta có tiếp xúc với một số người. Trong lúc đang nghe họ trò chuyện thì có người hỏi đến tình hình của một người nọ, thế là có người đột nhiên thốt ra một câu: “Họ bị thiêu đốt thành tro rồi”. Ta nói: “Thiêu đốt thành tro? Ý là sao?”. Người đó nói: “Thiêu đốt thành tro chính là bị cách chức, có lẽ không còn tin Đức Chúa Trời nữa rồi”. Ta nói: “Các anh dùng từ này nghe ác độc quá, không cho người ta đường sống. Ta từng nói lời này sao? Sao Ta lại không biết có từ này nhỉ? Ta chưa từng xác định tính chất của bất kỳ ai như vậy cả, chưa bao giờ nói một người không làm bổn phận nữa và rời khỏi Đức Chúa Trời là bị thiêu đốt thành tro cả. Câu này của các anh bắt nguồn từ đâu?”. Sau này Ta mới nghe ngóng được rằng lời này xuất phát từ miệng của một tín đồ già, một lão hủ nho. Ông ta có học vấn cao, tin Đức Chúa Trời nhiều năm, có thâm niên lâu năm. Ông ta nói ra lời như vậy, thì đám người hồ đồ kia đều không biết phân định mà học theo, và thế là nó thành thuật ngữ thịnh hành. Các ngươi nói xem, lời này có đúng không? Có căn cứ không? Có chính xác không? (Thưa, không chính xác.) Vậy phải xử lý như thế nào? Có nên để nó tồn tại trong hội thánh không? (Thưa, không nên.) Vậy thì phải vạch trần, phê phán, giải quyết nó từ gốc rễ. Sau đó, thông qua việc phê phán và mổ xẻ, những người hồ đồ này không dám nói nữa, nhưng cá biệt có một số người không hiểu rõ tình hình có lẽ vẫn nói lén lút ở sau lưng mọi người. Họ cảm thấy lời này rất thuộc linh, được thốt ra từ miệng của một “danh nhân”, bắt buộc phải tiếp tục sử dụng. Lãnh đạo của các ngươi có từng làm những chuyện tương tự như vậy không? Họ có gây ra ảnh hưởng tiêu cực gì đến lối vào sự sống, sự thay đổi tâm tính của các ngươi, cùng con đường mà các ngươi đi không? (Thưa, trước đây khi đi rao truyền phúc âm, có một lãnh đạo giả nói rằng: “Đức Chúa Trời chinh phục chúng ta bằng hình phạt và sự phán xét, vì vậy khi chúng ta rao truyền phúc âm cho người trong tôn giáo thì giọng điệu cũng phải ghê gớm một chút, phải giáo huấn họ. Như vậy mới có thể chinh phục họ”.) Lời này nghe có vẻ rất hợp lý, nhưng nó có phù hợp với nguyên tắc lẽ thật không? Đức Chúa Trời có bảo con người làm như vậy không? Lời Đức Chúa Trời có phán: “Khi rao truyền phúc âm, ngươi phải đứng dậy và dùng gậy sắt để quản lý người ta, dùng sự phán xét và hình phạt để rao truyền phúc âm rộng rãi” không? (Thưa, không.) Vậy lời này từ đâu mà ra? Rõ ràng đây là một lý luận do lãnh đạo giả không có hiểu biết thuộc linh tưởng tượng ra dựa vào trí óc của mình. Bề ngoài thì lời này có vẻ không có vấn đề gì: “Toàn nhân loại đều phải tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Họ không thể trực tiếp tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời từ lời Ngài, tiếp nhận một cách gián tiếp không được sao? Tóm lại đó đều là hiệu quả mà lời Đức Chúa Trời muốn đạt đến – chinh phục toàn nhân loại. Họ tiếp nhận sớm thì chẳng phải là hiệu quả sẽ tốt hơn là tiếp nhận muộn sao? Trước khi Đức Chúa Trời công tác, chúng ta hãy tiêm cho họ một mũi dự phòng trước, thế là con người sẽ có khả năng miễn dịch. Đợi khi Đức Chúa Trời thật sự hành phạt và phán xét thì con người sẽ không đến mức phản nghịch, đối đầu và phản bội Đức Chúa Trời, cũng tránh làm cho Ngài đau lòng. Đây chẳng phải là chuyện tốt sao?”. Bề ngoài chúng ta thấy rằng những lời này đều đúng, hợp lô-gic về mặt đạo lý, nhưng đây có phải là nguyên tắc lẽ thật không? Nhà Đức Chúa Trời quy định như thế nào về chuyện rao truyền phúc âm? Nhà Đức Chúa Trời có yêu cầu con người làm như vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì lý luận này không có cơ sở, và người khởi xướng lý luận này chính là lãnh đạo giả.

Lãnh đạo giả thường giả vờ thuộc linh, nói một số những luận điệu hoang đường tưởng đúng mà lại sai để mê hoặc và dắt mũi con người. Bề ngoài thì những luận điệu hoang đường này nghe có vẻ chẳng có vấn đề gì, nhưng chúng sinh ra ảnh hưởng xấu đến lối vào sự sống của con người, hình thành nên sự quấy nhiễu, mê hoặc và cản trở đối với việc con người đi con đường mưu cầu lẽ thật. Vì những lời giả thuộc linh này mà có một số người đã nảy sinh sự hoài nghi, chống đối đối với lời Đức Chúa Trời, nảy sinh quan niệm đối với Đức Chúa Trời, và thậm chí là nảy sinh sự hiểu lầm, phòng bị, và thế là con người rời xa Đức Chúa Trời. Đây chính là ảnh hưởng mà những câu nói giả thuộc linh của lãnh đạo giả mang tới cho con người. Dưới sự mê hoặc và ảnh hưởng của người lãnh đạo giả, hội thánh trở thành một tôn giáo, giống như Cơ Đốc giáo hay Công giáo, trong đó mọi người chỉ tuân thủ những câu nói và lời dạy của con người. Tất cả bọn họ đều tôn thờ lời dạy của Phao-lô, thậm chí cònc dùng lời ông thay cho lời của Đức Chúa Jêsus, thay vì tuân theo con đường của Đức Chúa Trời. Kết quả là, tất cả bọn họ đều trở thành những người Pha-ri-si giả hình và những kẻ địch lại Đấng Christ. Vì vậy, họ bị Đức Chúa Trời nguyền rủa và định tội. Giống như Phao-lô, các lãnh đạo giả tự tôn cao và làm chứng cho bản thân mình, họ mê hoặc và làm nhiễu loạn mọi người. Họ dẫn người ta đi lạc lối và dẫn người ta vào các nghi lễ tôn giáo, và cách những người này tin Đức Chúa Trời trở nên giống hệt như những người trong tôn giáo, làm cho con người trì trệ không thể bước vào con đường đúng đắn trong đức tin nơi Đức Chúa Trời của họ. Các lãnh đạo giả liên tục mê hoặc và quấy nhiễu con người, và rồi những con người này nảy sinh một loạt các lý thuyết và câu nói giả thuộc linh. Những lý thuyết, câu nói và cách làm này hoàn toàn trái ngược với lẽ thật, và không liên quan gì đến lẽ thật cả. Nhưng dưới sự mê hoặc và dắt mũi của lãnh đạo giả, con người đều xem những thứ này là điều tích cực, coi chúng là lẽ thật. Con người đều sai lầm mà cho rằng những thứ này chính là lẽ thật, chỉ cần tin tưởng chúng trong lòng, có thể nói về chúng một cách hùng hồn và được mọi người tán thành thì con người đã đạt được lẽ thật rồi. Bị dắt mũi bởi những tư tưởng và quan điểm này, con người không những không thể hiểu được lẽ thật mà họ còn không thể thực hành hay trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, chứ đừng nói đến bước vào thực tế lẽ thật. Ngược lại, họ càng ngày càng xa rời lời Đức Chúa Trời, và càng xa rời lối vào thực tế lẽ thật hơn nữa. Về mặt lý thuyết thì những lời các lãnh đạo giả nói và những khẩu hiệu họ hô hào không có gì là sai lầm cả, tất cả đều đúng cả. Thế thì, tại sao họ không đạt được kết quả? Điều này là do những điều các lãnh đạo giả hiểu và lĩnh hội là quá nông cạn. Tất cả đều là những thứ mang tính đạo lý, không dính dáng đến thực tế của lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, không dính dángl đến những yêu cầu của Đức Chúa Trời hay tâm ý của Ngài. Trên thực tế, tất cả những đạo lý mà các lãnh đạo giả giảng còn xa mới đạt tới thực tế lẽ thật – nói một cách chính xác thì chúng đều là những lời chẳng liên quan gì đến lẽ thật hay liên quan gì đến lời Đức Chúa Trời cả. Vậy, khi các lãnh đạo giả có thể thường giảng những câu chữ và đạo lý này thì nó có liên quan gì? Tại sao họ mãi không thể bước vào thực tế lẽ thật? Điều này liên quan trực tiếp đến tố chất của các lãnh đạo giả. Hoàn toàn có thể khẳng định rằng các lãnh đạo giả có tố chất kém cỏi và thiếu khả năng lĩnh hội lẽ thật. Dù cho họ có tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm đi nữa thì họ cũng sẽ không hiểu lẽ thật, sẽ không có lối vào sự sống, và cũng có thể nói rằng dù cho họ có tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm đi nữa thì họ cũng không dễ bước vào được thực tế lẽ thật. Nếu một lãnh đạo giả không bị cách chức và vẫn tiếp tục được làm lãnh đạo thì hậu quả sẽ thế nào? Cách dẫn dắt này của họ sẽ lôi kéo ngày càng nhiều người hơn vào các nghi lễ và quy định tôn giáo, vào những câu chữ và đạo lý và vào những quan niệm, tưởng tượng mơ hồ. So với những kẻ địch lại Đấng Christ, tuy các lãnh đạo giả không đưa người ta đến trước mặt họ hoặc Sa-tan, nhưng nếu họ không thể đưa những dân được Đức Chúa Trời chọn bước vào thực tế lẽ thật của lời Ngài, thì liệu dân được Đức Chúa Trời chọn có thể đạt đến được Ngài cứu rỗi không? Liệu họ có thể được Đức Chúa Trời hoàn thiện không? Chắc chắn là không. Nếu dân được Đức Chúa Trời chọn không thể bước vào thực tế lẽ thật, chẳng phải họ vẫn đang sống dưới quyền thế của Sa-tan sao? Chẳng phải họ vẫn là những kẻ suy đồi dưới quyền thế của Sa-tan như cũ sao? Như thế chẳng phải là họ sẽ bị hủy hoại trong tay của một lãnh đạo giả sao? Cho nên mới nói, hậu quả của công tác của các lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ cơ bản là như nhau. Cả hai đều không thể khiến dân được Đức Chúa Trời chọn hiểu được lẽ thật, bước vào thực tế và đạt đến được cứu rỗi. Cả hai đều làm hại dân được Đức Chúa Trời chọn và khiến họ bị hủy hoại. Hậu quả là hoàn toàn giống nhau.

Tà thuyết và luận điệu hoang đường của lãnh đạo giả bao gồm những gì, sau này chúng ta sẽ tổng kết lại. Bài tập này Ta để lại cho các ngươi, để xem các ngươi có biết phân định không. Lãnh đạo bên cạnh các ngươi đã từng nói qua một số lời thuộc linh và phù hợp với tình người, bề ngoài trông có vẻ rất chính xác, là những lời phù hợp với lẽ thật, nhưng những lời này lại không thể cung ứng cho lối vào sự sống của các ngươi, cũng như không thể giải quyết vấn đề thực tế của các ngươi, có phải vậy không? Nếu ngươi không có sự phân định đối với những lời này, còn xem chúng là của quý và để ở trong lòng, để chúng chiếm giữ và chỉ đạo ngươi mọi lúc, để chúng chi phối tư tưởng, hành vi của ngươi mọi lúc, hậu quả này chẳng phải là khá nghiêm trọng sao? (Thưa, đúng vậy.) Vậy thì các ngươi rất cần đào bới ra được căn nguyên của những vấn đề này, tìm xem có những thứ nào là những tà thuyết và luận điệu hoang đường có thể khiến con người sa đọa đến mức biến đức tin nơi Đức Chúa Trời trở thành tín ngưỡng, dẫn đến việc họ chống đối Đức Chúa Trời và bị Đức Chúa Trời vứt bỏ. Chẳng hạn, có người nói rằng: “Đừng mưu cầu việc làm lãnh đạo. Sau khi làm lãnh đạo mà có bị cách chức và đào thải, thì đến cơ hội làm tín đồ bình thường cũng chẳng còn đâu”. Lời kiểu này có phải là tà thuyết và luận điệu hoang đường của lãnh đạo giả không? (Thưa, phải.) Vậy sao? Tà thuyết và luận điệu hoang đường của lãnh đạo giả phải được phân biệt với tà thuyết và luận điệu hoang đường của kẻ địch lại Đấng Christ, không được nói nhập làm một. Lời người đó nói có ý gì? Lời đó mang ý định gì bên trong? Có thứ nào mờ ám bên trong chúng không? Rất rõ ràng là bên trong có quỷ kế mê hoặc con người, chúng có nghĩa là bảo con người đừng mưu cầu làm lãnh đạo, làm lãnh đạo không có kết cục tốt. Mục đích người đó nói như vậy chính là để con người đều từ bỏ ý nghĩa làm lãnh đạo, như vậy thì sẽ không còn ai tranh đoạt danh dự và địa vị với họ nữa, họ sẽ có thể yên tâm thoải mái mà làm lãnh đạo mãi mãi. Đồng thời họ cũng bảo người khác rằng: “Nhà Đức Chúa Trời đối xử với lãnh đạo và người làm công như vậy đó. Lúc cần anh thì nâng anh lên, lúc không cần thì một cẳng đạp anh xuống đáy. Như vậy thì đến cơ hội để làm một tín đồ bình thường anh cũng không còn đâu”. Lời này mang tính chất gì? (Thưa, phỉ báng Đức Chúa Trời.) Lời phỉ báng Đức Chúa Trời được nói ra bởi loại người nào? (Thưa, kẻ địch lại Đấng Christ.) Trong lời nói này có hai ý đồ, có thể dẫn đến hai hậu quả: Một là bảo người khác tuyệt đối đừng tranh giành địa vị, như vậy thì địa vị của họ được củng cố; còn lại là khiến ngươi hiểu lầm Đức Chúa Trời, không tin Đức Chúa Trời nữa mà tin họ. Đây chính là kẻ địch lại Đấng Christ rõ ràng nhất. Xem ra các ngươi không có năng lực lĩnh hội. Ta đã từng nói về ví dụ của phương diện này rồi, các ngươi không những không có trí nhớ tốt mà còn vô tâm, năng lực lĩnh hội còn kém. Kẻ địch lại Đấng Christ rõ ràng như vậy mà các ngươi cũng không phân định được. Lãnh đạo giả có nói lời như vậy không? Họ có mê hoặc con người hay chống đối Đức Chúa Trời một cách công khai và có ý thức không? (Thưa, không.) Bề ngoài tuy rằng những gì lãnh đạo giả nói và làm có vẻ không có vấn đề gì, nhưng họ làm công tác không theo nguyên tắc, không đạt được kết quả. Con người có vấn đề gì thì họ đều không giải quyết được, không thể đưa con người vào con đường đúng đắn của đức tin nơi Đức Chúa Trời và đưa con người đến trước Đức Chúa Trời. Những lời họ nói đều đúng, họ cũng làm không ít công tác, có nhiệt tâm và tình cảm mãnh liệt, bề ngoài trông có vẻ cũng có đức tin và có ý chí, sẵn lòng chịu khổ và trả giá, còn đặc biệt có lòng nhẫn nại, cực khổ hay khó khăn cỡ nào thì họ đều có thể kiên trì. Nhưng tố chất của họ kém, năng lực lĩnh hội cũng kém. Họ không có sự lĩnh hội đúng đắn đối với lẽ thật. Không có năng lực lĩnh hội thì làm sao? Thì họ dùng quy định và đạo lý để giải quyết, dùng những lý luận thuộc linh mà mình thường nói để giải quyết. Như vậy thì sau vài năm họ làm lãnh đạo, giữa con người hình thành đủ loại đạo lý, quy định và cách làm bề ngoài. Con người chỉ tuân giữ những đạo lý, quy định và cách làm đó liền tưởng rằng mình đang thực hành lẽ thật và đang bước vào thực tế lẽ thật, nhưng thật ra họ còn cách thực tế lẽ thật xa lắm! Một khi lòng người bị những thứ này lấp đầy và chiếm giữ, hay bị những thứ này chiếm thế chủ đạo, thì muốn giải quyết cũng rất phiền phức. Từng thứ một phải được mổ xẻ và phân tích để con người nhận biết, sau đó lại nói cho con người biết cái gì là lẽ thật, cái gì là đạo lý, khẩu hiệu và quy định, cái gì là sự lĩnh hội đúng đắn đối với lẽ thật, cái gìlà cách nói chính xác, cái gì là nguyên tắc lẽ thật. Những thứ này phải được giải quyết lần lượt từng cái một, nếu không những người mưu cầu thuộc linh mà tương đối thật thà và quy củ sẽ bị lãnh đạo giả mê hoặc và hủy hoại. Bề ngoài trông những người này rất ngoan đạo, có thể chịu khổ và trả giá, khi gặp chuyện cũng có thể cầu nguyện. Nhưng cũng giống như người trong tôn giáo, khi Đức Chúa Trời đến, không ai nhận biết được, không ai thừa nhận rằng Đức Chúa Trời lại làm công tác mới, và ai cũng chống đối Ngài. Chuyện này là sao? Chính là do lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc con người mà ra. Không biết họ đã hãm hại và hủy hoại bao nhiêu người thật lòng tin Đức Chúa Trời rồi.

Lãnh đạo giả chỉ biết giảng câu chữ và đạo lý, khiến con người chỉ hiểu được đạo lý chứ không phải là lẽ thật, khiến con người chỉ thấy được những thứ giả thuộc linh. Hậu quả của việc giảng câu chữ và đạo lý là gì? Là giả thuộc linh, hiểu giả, nhận biết giả, thực hành giả, tuân thủ giả, toàn bộ đều là giả. Chữ “giả” này đến từ đâu? Đó là do sự lĩnh hội sai lệch, phiến diện và nông cạn của lãnh đạo giả đối với lẽ thật, do họ căn bản không lĩnh hội được thực chất lẽ thật mà ra. Lãnh đạo giả đem đến rất nhiều khuôn sáo, câu chữ và đạo lý cho con người, còn có một số khẩu hiệu, lý luận nữa. Con người căn bản là không hiểu được tâm ý thật sự của Đức Chúa Trời. Khi gặp phải những hoàn cảnh phức tạp khác nhau, phải xử lý và tiếp cận như thế nào, nắm bắt tâm ý của Đức Chúa Trời như thế nào, con người đều không biết. Những người như vậy có thể đến trước Đức Chúa Trời không? Họ có thể tiếp nhận Đức Chúa Trời và đạt đến việc không chống đối Đức Chúa Trời không? Không thể. Vậy nên, để các ngươi tổng kết các tà thuyết và luận điệu hoang đường của lãnh đạo giả, rồi đạt đến biết phân định lãnh đạo giả là rất quan trọng và cũng rất cần thiết. Khi tổng kết nhất định phải phân biệt chúng với những luận điệu hoang đường mà kẻ địch lại Đấng Christ dùng để mê hoặc con người. Đối với mục thứ hai trong các chức trách của lãnh đạo và người làm công – nắm rõ tình trạng của từng loại người, và giải quyết những khó khăn khác nhau liên quan đến lối vào sự sống mà họ gặp phải trong cuộc sống hiện thực – chúng ta sẽ kết thúc mối thông công về việc mổ xẻ đủ loại cách làm và thực chất vấn đề của lãnh đạo giả ở đây.

Mục 3. Thông công những nguyên tắc lẽ thật cần được hiểu để làm tốt các bổn phận (Phần 1)

Lãnh đạo giả chỉ biết giảng câu chữ và đạo lý để khuyên nhủ con người

Tiếp theo chúng ta sẽ thông công về mục thứ ba trong các chức trách của lãnh đạo và người làm công – thông công những nguyên tắc lẽ thật cần hiểu để làm tốt các bổn phận. Đây là một hạng mục công tác quan trọng và cơ bản của lãnh đạo và người làm công. Chúng ta sẽ căn cứ vào mục chức trách này của lãnh đạo và người làm công để thông công và mổ xẻ về biểu hiện của lãnh đạo giả. Đối với lãnh đạo và người làm công mà nói, việc họ có thể thông công rõ ràng về nguyên tắc lẽ thật nên được hiểu để làm tốt bổn phận hay không là việc cho thấy tốt nhất liệu họ có thực tế lẽ thật hay không, và nó cũng là điểm mấu chốt để xác định liệu rằng lãnh đạo hay người làm công đó có thể làm tốt công tác thực tế hay không. Chúng ta tiếp tục xem xem lãnh đạo giả làm hạng mục công tác này như thế nào nhé. Lãnh đạo giả có một đặc trưng, chính là họ không thể giảng thấu đáo và nói rõ ràng về bất kỳ vấn đề liên quan đến nguyên tắc lẽ thật nào. Nếu có người tìm kiếm từ họ, họ cũng chỉ có thể giảng một vài đạo lý và lời sáo rỗng. Khi gặp phải vấn đề cần giải quyết, họ thường nói một câu như thế này: “Các anh chị làm bổn phận này đều là người trong ngành. Nếu có vấn đề thì các anh chị nên tự mình nghiên cứu, đừng hỏi tôi. Tôi là tay ngang, tôi không hiểu đâu. Các anh chị tự mình giải quyết đi”. Có người liền nói: “Chúng tôi không giải quyết được vấn đề này nên mới hỏi anh, chứ nếu chúng tôi có thể giải quyết thì sẽ không hỏi anh làm gì. Đây là vấn đề liên quan đến nguyên tắc lẽ thật, chúng tôi không hiểu”. Lãnh đạo giả nói: “Chẳng phải tôi đã nói cho anh chị biết hết về nguyên tắc rồi sao? Làm tốt bổn phận cá nhân, đừng gây gián đoạn và nhiễu loạn, các anh chị còn hỏi gì nữa? Phải xử lý thế nào thì cứ xử lý như vậy thôi! Lời Đức Chúa Trời không phải đều đã nói rồi sao, đặt lợi ích của nhà Đức Chúa Trời lên trên hết”. Mọi người nghe xong thì bối rối, lòng thầm nghĩ: “Đây đâu phải là biện pháp để giải quyết vấn đề!”. Lãnh đạo giả đối đãi với công việc như vậy đấy. Họ chỉ thị sát công việc, chạy theo hình thức, chứ không hề giải quyết vấn đề. Bất luận người khác đưa ra vấn đề gì thì họ đều bảo người đó tự mình tìm kiếm lẽ thật. Họ thường hỏi người khác: “Có vấn đề gì không? Lối vào sự sống của anh chị thế nào rồi? Anh chị có làm bổn phận qua loa chiếu lệ không?”. Người kia đáp: “Thỉnh thoảng cũng có một ít tình trạng qua loa chiếu lệ, nhưng đã giải quyết và xoay chuyển thông qua việc cầu nguyện. Chỉ là chúng tôi vẫn chưa hiểu nguyên tắc lẽ thật của việc làm bổn phận”. Lãnh đạo giả nói: “Chẳng phải trong buổi nhóm họp lần trước tôi đã thông công cho các anh chị về nguyên tắc cụ thể rồi sao? Tôi còn tìm cho các anh chị mấy đoạn lời Đức Chúa Trời, chẳng phải các anh chị nên hiểu rồi sao?”. Thật ra, đạo lý thì người ta đều hiểu, nhưng vấn đề vẫn không giải quyết được. Lãnh đạo giả còn nói lời hoa mỹ suông rằng: “Sao lại không giải quyết được? Vậy là anh chị không đọc lời Đức Chúa Trời cho đàng hoàng. Cầu nguyện và đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn thì vấn đề gì cũng giải quyết được. Các anh chị phải học được cách cùng nhau thương lượng, tìm cách, thì vấn đề sẽ luôn được giải quyết. Đừng hỏi tôi về vấn đề nghiệp vụ, trách nhiệm của tôi là kiểm tra công việc. Nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành rồi, chỉ còn lại chuyện nghiệp vụ thôi, cái đó thì tôi không hiểu”. Lãnh đạo giả luôn dùng “tôi không hiểu, tôi chưa từng học qua, tôi là tay ngang” làm cái cớ và lý do để qua quýt, thoái thác. Trông có vẻ khiêm tốn, nhưng ở đây đã bộc lộ ra một vấn đề nghiêm trọng của loại người như lãnh đạo giả, họ không hiểu gì về vấn đề liên quan đến phương diện tri thức nghiệp vụ trong một số công tác, cảm thấy bất lực, biểu hiện vô cùng ngượng nghịu và khó xử. Vậy thì làm sao đây? Họ chỉ có thể tìm thêm mấy đoạn lời Đức Chúa Trời để thông công cho mọi người trong các buổi nhóm họp, giảng chút đạo lý để khích lệ người ta. Lãnh đạo mà có chút lòng tốt thì còn có thể quan tâm mọi người, có khi còn hỏi mọi người: “Khoảng thời gian này, anh chị có gặp khó khăn gì trong cuộc sống không? Quần áo có đủ mặc không? Có bướng bỉnh gây sự không?”. Nghe mọi người nói rằng không có, họ liền nói: “Vậy thì không có vấn đề gì hết, các anh chị cứ tiếp tục với công việc của mình đi. Tôi còn có việc khác”, và thế là vội vã đi mất. Họ rất sợ có người lại nêu lên vấn đề để họ giải quyết và đặt họ vào tình huống khó xử. Lãnh đạo giả làm công tác như vậy đấy, không giải quyết được vấn đề thực tế nào cả. Làm sao họ có thể làm tốt công tác của hội thánh được chứ? Kết quả là vấn đề tích tụ ngày càng nhiều và không được giải quyết, ảnh hưởng đến công tác của hội thánh. Đây chính là một đặc trưng và biểu hiện nổi bật trong cách làm công tác của lãnh đạo giả.

Khi làm công tác, lãnh đạo giả chỉ đam mê với việc giảng đạo. Họ thích nhất là giảng câu chữ và đạo lý, nói những lời khích lệ và an ủi người ta. Họ tưởng rằng chỉ cần khiến cho con người có năng lượng trong việc làm bổn phận và cỏ thể trở nên bận rộn thì đồng nghĩa với việc họ đã làm tốt công tác. Ngoài ra, lãnh đạo giả còn đam mê với việc quan tâm đến trạng thái cuộc sống của mỗi một cá nhân, thường hỏi xem mọi người có khó khăn gì trong cuộc sống không, nếu thật sự có khó khăn thì họ sẵn lòng giải quyết giúp. Họ thực sự bận rộn với những chuyện mang tính sự vụ này, có lúc ăn cơm không đúng giờ, thường xuyên thức khuya dậy sớm. Thấy họ bận rộn và dốc sức đến vậy, nhưng tại sao vấn đề xuất hiện trong công tác của hội thánh thì lại không được giải quyết, và tại sao khó khăn mà dân được Đức Chúa Trời chọn gặp phải trong khi làm bổn phận cũng không được giải quyết? Chính là vì lãnh đạo giả không bao giờ nói rõ ràng về nguyên tắc lẽ thật liên quan đến việc làm bổn phận. Những câu chữ và đạo lý, những lời khích lệ con người mà họ nói ra đều không có một chút tác dụng gì, không hề giải quyết được vấn đề thực tế chút nào. Bất luận họ nói bao nhiêu lời, bận rộn và mệt mỏi đến đâu, thì công tác của hội thánh từ đầu đến cuối vẫn không có tiến triển gì cả. Bề ngoài thì mọi người đều đang làm bổn phận, nhưng lại không có bao nhiêu kết quả thực tế, đó là vì lãnh đạo giả không thể thông công về nguyên tắc lẽ thật liên quan đến việc làm bổn phận, không thể dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề thực tế, vì thế mà họ không thể giải quyết được rất nhiều vấn đề tồn tại trong việc làm bổn phận. Chẳng hạn nhà Đức Chúa Trời cần in ấn sách lời Đức Chúa Trời, lãnh đạo phải tìm hai người để phụ trách hạng mục công tác này. Tiêu chuẩn tìm người là gì? Đó là người có nhân tính tương đối tốt, đáng tin, có thể chịu nguy hiểm. Sau khi tìm được người, lãnh đạo này nói: “Hôm nay tôi tìm hai anh đến để giao phó một chuyện, nhà Đức Chúa Trời cần in ấn một quyển sách. Các anh phải tìm xưởng in, sau khi in xong thì phải kịp thời phát đến tay dân được Đức Chúa Trời chọn, để dân được Đức Chúa Trời chọn có thể kịp thời ăn uống được lời Đức Chúa Trời. Các anh có quyết tâm không? Các anh có sẵn lòng mang gánh nặng này, chịu nguy hiểm này không?”. Hai người này cảm thấy đây là một sự đề cao của Đức Chúa Trời nên liền nói rằng mình sẵn lòng. “Vậy các anh có ý chí hoàn thành sự ủy thác này của Đức Chúa Trời không? Các anh có sẵn lòng lập lời thề không?”. Hai người này liền thề thốt: “Nếu không thể hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời mà làm hỏng công tác này, để công tác của nhà Đức Chúa Trời chịu tổn thất, thì chúng tôi sẵn lòng bị sấm sét từ thiên đường đánh. Amen!”. Lãnh đạo nói: “Ngoài ra, chúng ta phải thông công về lẽ thật. Hiện tại làm công tác này có phải là buôn bán không? Có phải là bảo các anh đi làm không?”. Hai người kia trả lời: “Không phải, đây là bổn phận của chúng tôi”. Lãnh đạo nói: “Nếu đây là bổn phận của các anh thì các anh phải đền đáp tình yêu thương của Đức Chúa Trời, không thể khiến cho Đức Chúa Trời đau lòng, không thể khiến cho Đức Chúa Trời lo lắng. Sẵn lòng chịu nguy hiểm thôi là chưa đủ, các anh còn phải có lòng trung thành khi làm bổn phận. Khi gặp chuyện phải cầu nguyện nhiều hơn, phải thương lượng với nhau. Đừng tùy hứng hay tự mình quyết định. Tại sao tôi lại để hai anh phối hợp với nhau? Để có chuyện gì thì hai anh cùng nhau bàn bạc, làm việc không khó khăn. Nếu không đạt được thỏa thuận thì hãy cầu nguyện, mỗi người hãy buông bỏ ý kiến cá nhân. Cuối cùng, đợi khi nào thống nhất được ý kiến với nhau rồi hãy làm tiếp. Hy vọng hai anh có thể hoàn thành tốt công tác này!”. Cuối cùng, lãnh đạo này còn tìm một đoạn lời Đức Chúa Trời có liên quan đến cách làm tốt bổn phận, ba người cầu nguyện-đọc mấy lần, chuyện này coi như đã được giao phó xong. Trách nhiệm của lãnh đạo coi như đã làm hết. Công tác này được làm như thế nào? Trong lòng lãnh đạo rất hài lòng mà hai người kia cũng rất hài lòng, còn người ngoài cuộc thì thấy: “Lãnh đạo này làm công tác cũng thật là có bản lĩnh, nói chuyện có lớp có lang, có căn cứ, làm việc cũng có trình tự. Trước tiên là phân công công tác cho hai người họ, tiếp theo là giải quyết vấn đề về tư tưởng và quan điểm của họ, rồi tiếp theo là nói những lời ghê gớm để họ thề thốt đảm bảo. Người này làm công tác thật có bài bản, thật không hổ là lãnh đạo, có kinh nghiệm và cả gánh nặng”. Cuối cùng lãnh đạo nói với hai người kia: “Các anh hãy nhớ một điều. In sách không phải là chuyện dễ hoàn thành, không phải là chuyện người bình thường có thể đảm đương nổi. Công tác này không phải là tôi giao phó cho hai anh, cũng không phải là nhà Đức Chúa Trời giao phó cho hai anh, mà đây là sự ủy thác của Đức Chúa Trời dành cho hai anh. Các anh phải xứng đáng với Đức Chúa Trời. Chỉ cần các anh hoàn thành tốt công tác này, thì sự sống của các anh sẽ có tiến bộ, và các anh sẽ có thực tế”. Về mặt lý thuyết thì những lời này không có vấn đề mang tính nguyên tắc, về cơ bản thì nó được xem là đúng. Vậy chúng ta cùng phân tích chuyện này. Cái “giả” của lãnh đạo giả được biểu hiện ở đâu? Lãnh đạo giả có đưa ra bất kỳ dặn dò nào về các vấn đề chi tiết liên quan đến phương diện nghiệp vụ, kỹ thuật, v.v. của hạng mục công tác này không? Có thông công bất kỳ nguyên tắc lẽ thật cụ thể và tiêu chuẩn yêu cầu nào không? (Thưa, không.) Họ chỉ nói một số lời sáo rỗng, vô ích, chính là một số lời mà người bình thường hay nói, không có trọng lượng gì cả. Vì đích thân lãnh đạo đã nói và căn dặn, nên người ta cảm thấy rằng trọng lượng của lời này không bình thường nữa, nhưng thật ra đó đều là một số lời không quan trọng, không có tác dụng chút nào đến việc giải quyết vấn đề thực tế của chuyện in ấn sách. Vậy có những vấn đề cụ thể nào liên quan đến chuyện in ấn sách? Chúng ta phải nói về những điều này, để xem những công tác mà lãnh đạo này đã làm có phải là công tác của lãnh đạo giả không.

Việc in ấn sách đầu tiên là liên quan đến sắp chữ, sau đó là hiệu đính văn bản, còn cả quy cách của mục lục và nội dung chính, thêm một cái nữa là trọng lượng, màu sắc và chất lượng của giấy, còn có chất liệu của bìa sách, là bìa mềm hay bìa cứng, cùng với thiết kế của trang bìa, màu sắc, hình ảnh và phông chữ như thế nào, cuối cùng còn liên quan đến việc đóng sách, là dán keo hay khâu chỉ. Đây đều là những vấn đề trong phạm vi in ấn sách. Lãnh đạo này có nói về những chuyện này không? (Thưa, không.) Ngoài ra còn vấn đề tìm xưởng in, máy móc in ấn và đóng sách của xưởng in có phải loại tiên tiến không, chất lượng in ấn và đóng sách như thế nào, giá cả thế nào. Có phải lãnh đạo cần dặn dò cả những chuyện này, cần đưa ra nguyên tắc và phạm vi cho chúng không? Nếu lãnh đạo nói rằng: “Những chuyện này thì tôi cũng không hiểu, các anh cứ tìm đại đi”, vậy thì lãnh đạo này còn hữu dụng không? Nói vài câu chẳng quan trọng đó có thể thay thế được cho đủ loại vấn đề chi tiết liên quan đến việc in ấn sách không? (Thưa, không thể.) Lãnh đạo giả cho rằng có thể thay thế được: “Tôi đã thông công nhiều lẽ thật như vậy rồi, cũng đã cho các anh biết nguyên tắc rồi. Thế thì các anh nên hiểu những chuyện đó chứ!”. Cái “nên” này chính là lô-gic của lãnh đạo giả, là cách thức giải quyết vấn đề của lãnh đạo giả. Cuối cùng khi sách được in xong, vì chất lượng giấy quá kém và quá mỏng khiến cho chữ mặt này bị hằn lên mặt sau, người lớn tuổi hoặc mắt kém rất vất vả và phí sức để đọc sách. Ngoài ra, còn một vấn đề của bước cuối cùng, quy trình đóng sách – đóng sách có đạt tiêu chuẩn không liên quan tới chất lượng và tuổi thọ của cả quyển sách. Vì lãnh đạo không dặn dò gì, người làm việc cũng không có nguyên tắc hay kinh nghiệm, cộng thêm việc ép giá bừa bãi một cách không chịu trách nhiệm, dẫn đến việc xưởng in để hòa vốn mà cắt xén nguyên vật liệu, cuối cùng khi sách được phát đến tay của anh chị em thì chưa xem được đến hai tháng đã bung chỉ, bìa sách và các trang sách đều đã rơi ra cả. Sách in ra vô ích rồi. Trách nhiệm này thuộc về ai? Nếu truy cứu, người chịu trách nhiệm trực tiếp chính là hai người phụ trách in sách, nhưng người gián tiếp chịu trách nhiệm chính là lãnh đạo giả kia. Lãnh đạo giả lại còn có lý do: “Công tác này làm không được tốt cũng đâu thể trách tôi chứ, tôi cũng đâu có hiểu! Tôi chưa in sách bao giờ, cũng không mở xưởng in, làm sao tôi hiểu được những thứ này chứ?”. Lý do này có hợp lý không? Là một lãnh đạo, đây là công việc trong phạm vi chức trách của ngươi. Bất luận liên quan đến nghiệp vụ, kỹ thuật, tri thức hay là liên quan đến lẽ thật, đều không cần ngươi phải hiểu hết, nhưng ngươi có học tập về những việc ngươi không hiểu không? Ngươi có nghiêm túc phụ trách và làm hết trách nhiệm của mình không? Có một số người nói: “Tôi cũng muốn làm hết bổn phận chứ, nhưng tôi cũng không hiểu chuyện này, có học thể nào cũng không hiểu được!”. Vậy thì người lãnh đạo như ngươi không đạt tiêu chuẩn, ngươi là một lãnh đạo giả danh xứng với thực. Vì chất lượng sách quá kém, các anh chị em cảm thấy có chút oán giận trong lòng, bảo rằng: “Tuy rằng cuốn sách này không tốn tiền của chúng tôi, nhưng chất lượng quá kém! Lãnh đạo này làm lãnh đạo thế nào vậy? Anh ta đã làm công tác này như thế nào vậy?”. Lãnh đạo nghe những lời này còn nói rằng: “Chuyện đó có thể trách tôi sao? Tôi đâu có mở xưởng in đó, tôi đâu có tiếng nói quyết định đâu. Ngoài ra, chuyện này không phải là để tiết kiệm tiền cho nhà Đức Chúa Trời sao? Tiết kiệm tiền cho nhà Đức Chúa Trời là sai sao?”. Lời anh ta nói đều đúng, cũng không sai gì cả, anh ta cũng không phải chịu trách nhiệm pháp luật. Nhưng có một điều, là tiền in sách đã tiêu tốn vô ích. Sách phát đến tay anh chị em, chưa xem được đến hai tháng thì đã bung chỉ, rớt trang. Ai chịu trách nhiệm cho hậu quả này đây? Đây có phải là trách nhiệm của lãnh đạo không? Đây là chuyện xảy ra trong phạm vi công tác của ngươi và trong thời gian ngươi làm lãnh đạo, vậy có phải ngươi nên chịu trách nhiệm không? Ngươi phải chịu chỉ trách, không thể trốn tránh trách nhiệm được! Có người còn nói lời ngang ngược rằng: “Tôi chưa từng làm qua công tác này, chưa từng làm mà không cho tôi phạm chút sai sót sao?”. Chỉ dựa vào câu nói này thôi thì ngươi cũng không xứng đáng với chức vụ của mình, ngươi đáng bị cách chức, ngươi không có khiếu làm lãnh đạo. Ngươi chính là lãnh đạo giả không hơn không kém. Nói một đống lời dễ nghe, nhưng không làm được một chút công tác thực tế nào cả, đây chính là biểu hiện rõ ràng nhất của lãnh đạo giả.

Có một số lãnh đạo giả không thể làm tốt và làm cụ thể các công tác thực tế một cách đến nơi đến chốn. Họ chỉ biết làm một số công tác mang tính sự vụ thì liền cảm thấy mình là lãnh đạo đạt tiêu chuẩn, liền cảm thấy mình giỏi giang rồi, còn thường xuyên khoe khoang rằng: “Chuyện gì của hội thánh tôi cũng phải lo, vấn đề gì tôi cũng phải xử lý. Hội thánh có thể không có tôi sao? Nếu không có tôi tổ chức nhóm họp cho mọi người, chẳng phải các anh chị đều sẽ trở nên mất đoàn kết sao? Nếu tôi không theo dõi công tác phim ảnh, không giúp đỡ giữ gìn nó thì không phải là sẽ luôn có người quấy nhiễu sao? Thế thì công tác phim ảnh có thể tiến hành thuận lợi không? Tuy rằng tôi là tay ngang trong công tác thánh ca, nhưng nếu không phải là tôi thường xuyên đến thị sát ở chỗ anh chị, giữ đội hình và tổ chức nhóm họp cho các anh chị, vậy thì các anh chị có sáng tác được những thánh ca đó không? Các anh chị phải lần mò đến lúc nào chứ?”. Những lời này nghe có vẻ là đúng và có lý, nhưng các ngươi nhìn kỹ xem, các hạng mục công tác nghiệp vụ do lãnh đạo giả phụ trách tiến triển như thế nào? Họ có thể thông công một cách rõ ràng về nguyên tắc lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Có một lần, có một nhóm làm phim tìm kiếm về vấn đề liên quan đến màu sắc phục trang. Họ đã chụp vài tấm ảnh, bối cảnh quay phim khác nhau, người cũng khác nhau, nhưng màu sắc phục trang về cơ bản thì cùng một tông màu, toàn là màu vàng đất và xám đất. Ta nói: “Thế này là sao? Tại sao lại mặc quần áo có những màu này?”. Họ nói rằng họ đã đặc biệt tìm quần áo có những màu này, rằng họ đã dùng công sức và nỗ lực lớn để lục tìm được ở ngoài chợ. Ta nói: “Tại sao lại tìm những màu này? Bề trên đã dặn dò chưa? Chẳng phải Bề trên yêu cầu có nhiều màu sắc, đoan trang và đứng đắn sao? Sao kết quả này lại có thể xảy ra?”. Cuối cùng sau khi nghe ngóng, có người nói rằng: “Những màu sắc khác mặc vào đều không đủ đoan trang và đứng đắn, không giống người tin Đức Chúa Trời, không giống thánh đồ. Chỉ có tông màu này mới giống thứ mà người tin Đức Chúa Trời nên mặc, vì vậy mọi người nhất trí cho rằng mặc quần áo màu này mới là tôn vinh Đức Chúa Trời nhất, mới có thể đại diện cho hình tượng của nhà Đức Chúa Trời nhất”. Ta nói: “Ta đâu có bảo các ngươi mặc quần áo màu này chứ. Màu sắc đoan trang và đứng đắn thì nhiều lắm, các ngươi xem cầu vồng mà Đức Chúa Trời lập giao ước với nhân loại đẹp biết bao nhiêu, đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím, màu nào cũng có. Chỉ duy nhất không có màu mà các ngươi đang mặc trên người. Sao các ngươi lại chọn những màu này kia chứ?”. Đối với loại chuyện này, lãnh đạo không làm công tác kiểm định cụ thể sao? Ta dám nói là tuyệt đối không có. Nếu lãnh đạo lĩnh hội được một cách thuần túy, thật sự hiểu lẽ thật, thật sự hiểu yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì người của nhóm làm phim sẽ không chọn phục trang như vậy mà đã đến trưng cầu ý kiến của Bề trên. Vấn đề phục trang này vốn dĩ có thể được giải quyết ở bên dưới, nhưng lãnh đạo giả lại không giải quyết được, còn mặt dày mà đem đến hỏi Bề trên. Người như vậy có đáng bị tỉa sửa không? Đến vấn đề đơn giản nhất mà lãnh đạo giả cũng không giải quyết được, vậy thì còn cần họ để làm gì? Nói thẳng ra thì ngươi chính là phế vật! Bảo ngươi tôn vinh Đức Chúa Trời, làm chứng cho Đức Chúa Trời, nhưng ngươi đã sỉ nhục Ngài. Không phải là ngươi hiểu rất nhiều chuyện sao? Không phải ngươi có thể giảng rất nhiều tri thức và đạo lý sao? Vậy thì tại sao tất cả tri thức và đạo lý mà ngươi giảng đó lại không có tác dụng ở đây chứ? Tại sao đến cả vấn đề về trang phục mà ngươi cũng không giải quyết được, không kiểm soát được? Ngươi có vai trò của một lãnh đạo mà người nên có không? Ngươi đã làm hết trách nhiệm của lãnh đạo chưa? Đây chính là biểu hiện của lãnh đạo giả. Lãnh đạo giả không hiểu nguyên tắc của bất kỳ một hạng mục công tác cụ thể nào cả, họ cũng không thể cung cấp sự chỉnh sửa và giải quyết kịp thời cho bất kỳ vấn đề của sự lĩnh hội sai lệch về lẽ thật nào, khiến con người có thể tìm thấy phương hướng và đường đi từ đó. Ngoài việc giảng một số câu chữ và đạo lý, hô hào khẩu hiệu ra thì lãnh đạo giả không thể làm được công tác cụ thể nào cả.

Lãnh đạo giả không làm công tác thực tế và không tập trung vào việc chính đáng

Có lãnh đạo giả không làm bất kỳ công tác cụ thể nào, mà lại làm một số công tác mang tính sự vụ không quan trọng. Họ cho rằng họ đang làm công tác cụ thể, rằng đó là chuyện trong phạm vi chức trách của bản thân, hơn nữa còn làm một cách rất nghiêm túc và bỏ rất nhiều công sức, thực hiện chúng một cách đàng hoàng. Chẳng hạn, trong hội thánh có một người trước đây từng làm đầu bếp chuyên các món điểm tâm và bánh ngọt. Một ngày nọ lòng yêu thương của anh ta trỗi dậy và anh ta nhất quyết làm điểm tâm cho Ta và chuẩn bị bắt tay vào làm trong tình huống không thông báo cho Ta biết. Anh ta hỏi lãnh đạo có thể làm không, lãnh đạo nói: “Anh làm đi, làm ngon thì dâng cho Đức Chúa Trời ăn, còn không ngon thì chúng ta ăn”. Được sự cho phép của lãnh đạo, công tác này liền danh chính ngôn thuận. Anh ta bèn nhanh chóng mua đủ nguyên liệu và nướng ra một mẻ bánh, nói rằng: “Cũng không biết là có ngon hay không, có thể làm Đức Chúa Trời vừa lòng không, không biết có hợp khẩu vị của Đức Chúa Trời không”. Lãnh đạo nói: “Vậy thì dễ thôi, chúng ta hy sinh chút thời gian và hy sinh chút sức khỏe của bản thân, chịu một chút nguy hiểm vì Đức Chúa Trời. Chúng ta thử trước, kiểm định thay Đức Chúa Trời. Nếu thật sự không ngon mà đem cho Đức Chúa Trời ăn thì Ngài sẽ phiền lòng và thất vọng vì chúng ta biết mấy. Vì vậy làm lãnh đạo, chúng ta có trách nhiệm và nghĩa vụ kiểm định thật tốt. Đây gọi là công tác cụ thể”. Tiếp theo, tất cả những người có đầu óc và có chút “tinh thần trách nhiệm” thì đều nếm thử. Sau khi nếm thử xong, mọi người đều nhận xét một phen: “Mẻ này nướng quá lửa rồi, nhiệt độ nướng quá cao, ăn xong bị nóng người, còn hơi đắng nữa, không được đâu! Chúng ta phải mang thái độ chịu trách nhiệm mà nướng lại một mẻ nữa và nếm thửlại lần nữa!”. Sau khi nếm thử xong, những người này lại nói: “Mẻ này cũng được, có mùi bơ, trứng, còn có vừng, thật không hổ là đầu bếp chuyên làm bánh ngọt! Anh nướng nhiều như vậy, một mình Đức Chúa Trời cũng ăn không hết, tìm một cách lọ nhỏ đựng mười cái, hai mươi cái làm vật mẫu và dâng cho Đức Chúa Trời ăn thử, nếu Đức Chúa Trời cảm thấy ngon thì sau đó hẵng tiếp tục làm một mẻ thật lớn”. Họ bèn mang cho Ta một lọ. Ta ăn thử hai cái, ngẫm nghĩ rằng điểm tâm này để ăn chơi thì được, chứ không thể làm bữa chính, thế là Ta không ăn nữa. Có người còn cảm thấy đây là đồ ăn mà đích thân người nhà làm, chứa đựng tràn ngập tình yêu thương, lòng trung thành và sự kính sợ, tuy rằng có thể ăn cũng bình thường thôi nhưng ý nghĩa thì phi thường. Sau đó Ta trả lại lọ bánh đó cho họ, Ta không thèm gì những thứ này, không có hứng thú với chúng. Thêm nữa, nếu Ta muốn ăn điểm tâm thì ra chợ có thể mua đủ loại điểm tâm từ các nước khác nhau với đủ mùi vị, cũng chẳng tốn bao nhiêu tiền. Sau đó Ta bảo họ: “Ta nhận tâm ý của các ngươi, nhưng sau này đừng làm nữa, Ta không ăn đâu. Nếu muốn ăn thì tự Ta sẽ đi mua. Nếu cần thì lúc nào Ta bảo làm, các ngươi hãy làm tiếp. Nếu Ta không thông báo cho các ngươi thì không cần phải làm nữa đâu”. Ta nói lời này đã đủ rõ ràng chưa? Nếu người ta thật thà và nghe lời thì sẽ ghi nhớ lời này, không bao giờ làm nữa. Lời Đức Chúa Trời phán, đúng là đúng, sai là sai, không cho làm là không cho làm. Nhưng một khoảng thời gian sau, họ lại tặng cho Ta hai lọ điểm tâm. Ta nói: “Không phải là Ta không cho các ngươi làm nữa rồi sao?”. Họ nói: “Lần này khác lần trước ạ”. Ta nói: “Khác thì cũng là điểm tâm, là điểm tâm thì không cần làm. Không phải là Ta khách sáo với các ngươi, nếu Ta muốn ăn thì Ta sẽ nói cho các ngươi biết. Sao các ngươi nghe không hiểu tiếng người vậy chứ? Đừng làm nữa đấy”. Lời này có dễ hiểu không? (Thưa, có.) Nhưng tại sao người làm lại luôn không ghi nhớ được thế? Nếu lãnh đạo có thể kiểm định tốt trong chuyện này, không phối hợp với họ một cách tích cực và không khuyến khích họ làm chuyện này, có thể kịp thời hạn chế họ, thì người làm điểm tâm còn dám làm sao? Ít nhất là họ sẽ không làm một cách trắng trợn như thế. Vậy những lãnh đạo này có tác dụng gì trong tình huống này không? Chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng muốn nhúng tay vào, phụ trách kiểm định thay cho Ta. “Lòng yêu thương” của họ lớn đến nỗi không cách nào miêu tả được. Chuyện này có phải công tác mà họ nên làm không? Trong nguyên tắc công tác của nhà Đức Chúa Trời không hề dặn dò về những chuyện này, Ta cũng không giao phó cho họ làm như vậy. Chuyện này là do người ta khởi xướng, chứ không phải do Ta yêu cầu. Vậy tại sao những lãnh đạo này lại có thể làm chuyện này một cách tích cực như vậy? Đây chính là biểu hiện của lãnh đạo giả – không hướng về việc chính đáng. Hội thánh có biết bao việc cần họ theo dõi, kiểm tra và đôn đốc, có biết bao vấn đề hiện thực cần họ thông công về lẽ thật để giải quyết, nhưng họ không làm việc nào cả, rảnh rỗi đến nỗi không có việc gì làm và còn vào bếp nếm thử điểm tâm giúp Ta. Trong chuyện này thì họ lại khá nghiêm túc, bỏ khá nhiều công sức. Đây có phải là chuyện mà lãnh đạo giả làm không? Chuyện này đã rất ghê tởm rồi, đúng không? Thật không ngờ là sau mấy ngày thì chuyện này lại xuất hiện, người làm điểm tâm kia lại bắt đầu làm điểm tâm cho Ta. Ta bèn đặc biệt căn dặn một lãnh đạo rằng: “Ngươi đi giải quyết chuyện này đi. Ngươi phải nói rõ ràng với anh ta rằng, nếu anh ta còn làm nữa thì Ta sẽ tìm ngươi để tính sổ!”. Công việc trong hội thánh nhiều như vậy, hạng mục nào cũng khiến ngươi bận rộn một khoảng thời gian. Sao ngươi lại rảnh rỗi đến thế? Ngươi đến đây là để vỗ béo hay là để tán dóc? Đây không phải là chỗ vỗ béo hay tán dóc của ngươi. Sau đó không có thêm tin tức gì về chuyện này nữa. Sau khi Ta bàn giao việc này xong thì lãnh đạo đó cũng không có bất kỳ báo cáo nào cả. Dù sao cũng không còn ai dâng điểm tâm cho Ta nữa, Ta khá yên tâm. Xét từ chuyện này, có phải những lãnh đạo này không hướng đến việc chính đáng không? (Thưa, phải.) Chuyện này cũng chưa tính là nghiêm trọng, vẫn còn chuyện nghiêm trọng hơn.

Ta thường đến một số hội thánh để xem xét, gặp gỡ các lãnh đạo, bàn giao một số công tác, giải quyết một số vấn đề. Có khi buổi trưa Ta phải dùng bữa ở các hội thánh này, thế là chuyện này lại dẫn đến vấn đề ai nấu bữa ăn đó. Nhóm lãnh đạo này rất có trách nhiệm, họ đã chọn một người tự xưng là đầu bếp. Ta bảo: “Có phải đầu bếp không cũng không quan trọng, quan trọng là Ta ăn đồ ăn đơn giản, Ta muốn ăn đồ nguyên vị, không được quá mặn, quá dầu mỡ, cũng không được quá kích thích. Mùa đông thì phải ăn chút đồ nóng. Ngoài ra, phải là đồ ăn chín kỹ, không được nấu nửa sống nửa chín, phải dễ tiêu hóa”. Có phải là Ta đã dặn dò rõ ràng về mấy nguyên tắc này rồi không? Có dễ làm được không? Những nguyên tắc này dễ làm và cũng dễ nhớ. Nếu là một người phụ nữ nội trợ đã nấu ăn ba đến năm năm, thì người đó có thể nắm chắc và có thể đạt đến các nguyên tắc này. Vì vậy không cần thiết phải tìm đầu bếp để nấu ăn cho Ta, tìm người có thể nấu cơm gia đình là được rồi. Nhưng “lòng yêu thương” của những lãnh đạo này lại lớn, họ nhất quyết tìm một “đầu bếp” nấu ăn cho Ta để tiếp đãi Ta. Trước khi đầu bếp chính thức nấu ăn cho Ta, lãnh đạo còn phải kiểm định. Kiểm định như thế nào? Họ bảo đầu bếp làm một mẻ sủi cảo, một nồi mì có nước sốt đậm đặc, xào thêm mấy món ăn, rồi những lãnh đạo và người đứng đầu này đều phụ trách nếm thử một lượt. Họ cảm thấy đầu bếp nấu khá ngon, nên cuối cùng đã để đầu bếp này đảm nghiệm công tác nấu cơm cho Ta. Tạm thời không nói tới kết quả nếm thử của những lãnh đạo này như thế nào hay tính chất vấn đề ở đây là gì, hãy nói xem bữa cơm mà người đầu bếp này nấu như thế nào trước đã. Khi Ta đến lần đầu tiên, người đầu bếp làm vài món ăn, mọi người đều khá hài lòng. Khi Ta đến lần thứ hai, người đầu bếp này làm một mẻ sủi cảo. Ta ăn cái đầu tiên thì đã cảm thấy không ổn, hơi bị cay, người bên cạnh Ta cũng bảo hơi cay, cảm thấy đầu lưỡi như sắp sưng lên, nhưng món chính chỉ có sủi cảo, nên cay thì vẫn phải ăn. Vì không nhìn thấy có ớt trong nhân sủi cảo, nên Ta đã không để ý xem thứ đã gây ra vị cay này là gì, mà cứ ăn hết như thế. Kết quả là đến tối, cơ thể Ta bắt đầu dị ứng, khắp người nhiều chỗ bị ngứa ngáy không ngừng, Ta phải gãi liên tục, gãi đến mức chảy máu mới đỡ ngứa một chút. Ta bị ngứa như vậy đến ba ngày mới dần dần giảm bớt. Sau trận dị ứng này Ta mới nhận ra, chắc chắn là trong sủi cảo đã thêm hạt tiêu, nếu không thì sẽ không cay như vậy. Ta đã bảo họ đừng bỏ những thứ cay như tiêu, Ta không ăn được. Nhưng để thỏa mãn khẩu vị của bản thân, họ vẫn bỏ rất nhiều hạt tiêu, vượt qua liều lượng bình thường, ăn vào liền có cảm giác cay. Đến cả tỷ lệ nêm nếm này mà đầu bếp cũng không kiểm soát được tốt, bỏ tiêu nhiều đến nỗi người ăn bị dị ứng. Sau đó Ta bảo người đó rằng: “Tuyệt đối đừng bỏ những thứ cay vào đồ ăn nữa, Ta không ăn được. Nếu thật sự có chút nhân tính thì ngươi đừng làm như vậy. Ngươi nấu cơm cho mình ăn thì ngươi ăn gì Ta cũng không can thiệp, nhưng nếu ngươi nấu cơm cho Ta thì đừng bỏ những thứ đó vào. Ngươi hãy làm theo tiêu chuẩn và yêu cầu của Ta”. Anh ta có thể làm được chuyện này không? Lãnh đạo có phải nên làm công tác này không? Đáng tiếc là không ai hỏi han và quản lý, công tác cần làm thì họ không làm chút nào cả. Rồi có một lần lại phải làm cơm, người đầu bếp này lại cầm tiêu định bỏ vào, bên cạnh có người nhìn thấy nên đã chặn lại. Dưới sự trông coi chặt chẽ, anh ta đã không bỏ tiêu vào được. Đến cả một vấn đề bé như hạt vừng thế kia mà lãnh đạo cũng không giải quyết được, thì họ còn có thể làm gì? Họ đã khá tích cực nếm thử đồ ăn khi đầu bếp nấu, cả đám người đều đi nếm thử. Đều là những món ăn gia đình bình thường, có gì đáng để nếm thử chứ? Các ngươi là chuyên gia ẩm thực à? Làm lãnh đạo rồi thì cái gì các ngươi cũng hiểu sao? Các ngươi có hiểu nguyên tắc sức khỏe không? Nhà Đức Chúa Trời đã sắp xếp cho các ngươi làm chuyện này sao? Ta đã căn dặn các ngươi hay giao phó cho các ngươi nếm đồ ăn giúp Ta bao giờ thế? Các ngươi thật quá thiếu lý trí, một chút liêm sỉ cũng không có! Chỉ cần là người có chút liêm sỉ thì sẽ không làm những chuyện lộ liễu, những chuyện khiến người khác ghê tởm và những chuyện không có lý trí như vậy. Việc này chứng tỏ mấy người này không có chút liêm sỉ nào, còn nếm đồ ăn thay Ta! Những nguyên tắc mà Ta đã nói cho các ngươi biết thì các ngươi không tuân thủ và cũng không làm được điều nào cả. Món nào ngon và hợp khẩu vị các ngươi thì các ngươi bảo đầu bếp làm món đó, vậy là nấu cơm cho Ta sao? Đó chẳng phải là nấu cơm cho chính bản thân các ngươi sao? Ngươi làm lãnh đạo như vậy à? Nắm bắt mọi cơ hội để chiếm lợi, lợi dụng sơ hở, còn đến lấy lòng Ta. Muốn lấy lòng Ta thì đừng hại Ta chứ! Đây có phải là thất đức không? Có phải là mưu đồ bất chính không? Không biết xấu hổ, mưu đồ bất chính, vậy mà còn cảm thấy bản thân rất có lòng trung thành! Trong mấy chuyện mà họ làm này, có cái nào là chuyện mà một lãnh đạo thật sự nên làm không? (Thưa, không.) Họ làm gì cũng không có tiêu chuẩn, bản thân họ cũng không biết ăn gì là tốt cho sức khỏe, ăn gì là không tốt cho sức khỏe, vậy mà còn muốn đến chỗ Ta giữ chức chuyên gia dưỡng sinh, chuyên gia ẩm thực! Ai quy định rằng nấu cơm cho Ta thì phải để ngươi kiểm định? Hội thánh có quy định này không? Nhà Đức Chúa Trời đã truyền đạt sự sắp xếp này xuống dưới sao? Các hạng mục công tác của hội thánh xuất hiện bao nhiêu sơ hở, bao nhiêu người hiểu lầm Đức Chúa Trời và không hề hiểu lẽ thật thì các ngươi không đi giải quyết, mà lại bỏ công sức vào một nơi nhỏ bé như cái bếp và làm “bổn phận” của mình. Đây đúng là lãnh đạo giả danh xứng với thực, là giả hình! Kiểm định mọi thứ ngay trước mặt Ta, các ngươi thì hiểu cái gì chứ? Các ngươi đã hỏi Ta chưa? Các ngươi nói xem, đó rốt cuộc là ý của các ngươi hay là ý của Ta? Nếu là ý của Ta và Ta bảo các ngươi truyền đạt xuống dưới thì việc các ngươi làm là đúng, đây chính là trách nhiệm của các ngươi. Còn nếu đó không phải là ý của Ta, mà là ý của các ngươi, và các ngươi vẫn muốn cưỡng ép bắt người khác nghe và tiếp nhận, thì việc này mang tính chất gì? Các ngươi nói xem, Ta có ghê tởm chuyện này không? Ta đang ở trước mặt họ, thế mà Ta ăn gì, Ta yêu cầu cái gì, họ lại không thèm hỏi Ta một câu, họ tự mình quyết định, khoa tay múa chân sau lưng Ta. Họ muốn đại diện cho Ta sao? Đây là lãnh đạo giả đang làm xằng làm bậy, giả mạo thuộc linh, giả vờ quan tâm đến gánh nặng của Đức Chúa Trời, giả vờ hiểu lẽ thật, toàn làm những chuyện giả hình. Chuyện này đủ quá đáng chưa? Có phải chuyện này đã rất ghê tởm, rất khiến người ta chán ghét rồi không? (Thưa, phải.) Các ngươi đã tăng thêm hiểu biết về chuyện này chưa? Các ngươi đã học được bài học nào từ chuyện này chưa? Mỗi một chuyện trong số những chuyện này đều ghê tởm hơn chuyện trước đó, và còn một chuyện còn ghê tởm hơn nữa.

Mùa đông năm nay, có một người có tấm lòng yêu kính mua cho Ta một chiếc áo khoác lông ngỗng “đẹp đẽ”. Nguyên nhân nó đẹp không phải nằm ở màu sắc hay kiểu dáng của cái áo, mà vì giá của nó rất đắt, rất cao cấp, là món đồ tốt. Người ngoại đạo có câu “Ngàn dặm tặng áo lông, của ít lòng nhiều”, ở đây không chỉ có tình cảm mà quả thực là rất đắt đỏ. Trước khi nhìn thấy chiếc áo đó, Ta đã nghe nói rằng nó rất đẹp, kiểu dáng không tệ, màu đỏ và sờ vào còn thấy rất dày dặn. Ta đã nghe nói, vậy thì không tránh được việc có một số người đã nhìn thấy món đồ thực tế rồi. Nói cách khác là không ít người đã nhìn thấy chiếc áo này, đã đo đạc và ngắm nghía nó, bảo rằng: “Tôi biết thương hiệu này”, “Màu này không tệ, khá đẹp đấy!”, “Anh xem xong thì mang đến cho tôi xem nhé”, chuyện này đã được lan truyền như thế. Không biết đã mất bao lâu mới lan truyền đến tai Ta, Ta mới biết được chút thông tin như thế. Các ngươi nghe xem trong chuyện này có vấn đề gì? Ta còn chưa nhìn thấy chiếc áo này mà đồ của Ta đã bị rất nhiều người xem đi xem lại, truyền tới truyền lui, đã được trưng bày rồi. Đây có phải là vấn đề không? Đồ của Ta có thể để người khác xem, sờ vào và trưng bày một cách tùy tiện không? (Thưa, không thể.) Người ta có thể tùy tiện sờ vào hay xem đồ của ai? (Thưa, không ai mong muốn chuyện này. Không ai nên làm thế cả.) Vậy đồ của Ta thì lại càng không nên, đúng không? Có người nói: “Sao lại không nên chứ? Ngài là nhân vật của công chúng, Ngài xem cuộc sống riêng tư của những người nổi tiếng và ngôi sao kia, không phải đều bị phơi bày ra hết sao? Họ chơi bóng ở đâu, làm đẹp ở đâu, đang hẹn hò với ai, mặc quần áo hiệu gì, không phải những chuyện này đều bị phơi bày hết sao? Dựa vào cái gì mà Ngài lại không bị phơi bày chứ?”. Ta là người nổi tiếng sao? Ta không phải là người nổi tiếng, ngươi cũng không phải là người hâm mộ của Ta. Ngươi là ai? Ngươi là một người bình thường, ngươi là một loài thọ tạo, ngươi là một con người bị làm cho bại hoại. Còn Ta là ai? (Thưa, Đức Chúa Trời.) Ta không phải là nhân vật của công chúng. Ta không có nghĩa vụ phơi bày mọi chuyện ra và báo cáo với ngươi, để ngươi biết mọi chuyện. Vậy tại sao ngươi lại động vào đồ của Ta? Làm như vậy có đáng ghê tởm không? Ta có giao phó để ngươi xem xét và kiểm định sao? Không hề. Nhưng có người lại dám trắng trợn lấy đồ của Ta mà xem xét một cách tùy tiện như thế, còn lan truyền khắp nơi. Ngươi dựa vào cái gì mà lan truyền? Ngươi có nghĩa vụ đó không? Nếu ngươi không phải là người tin Đức Chúa Trời thì cả hai chúng ta đều là người lạ mặt. Chính vì ngươi tin Đức Chúa Trời nên Ta mới biết ngươi là ai. Nhưng tình trạng gia đình, tình trạng cuộc sống và tình trạng kinh tế của ngươi như thế nào, Ta đều không biết, và Ta không thèm biết. Chúng ta rất thân thiết sao? Ta không phải là bạn thân của ngươi, không phải anh em của ngươi, cũng không phải là chiến hữu của ngươi. Chúng ta còn chưa thân quen, vẫn chưa đến mức Ta phải đem thứ gì đó cho ngươi xem qua. Ngươi có đem đồ của mình cho Ta xem qua hết một lượt, hay trưng bày ra để mọi người xem và sờ vào không? Khi ngươi tùy tiện mua một thứ đồ nào đó ở ngoài chợ đem về nhà, ngươi còn phải rửa vài lần để khử trùng nữa kìa! Thứ đồ đã bị người khác tùy tiện sờ vào thì có ghê tởm không? Có phải ngươi không xem mình là người ngoài không? Ai giao phó bảo ngươi phải đi kiểm tra quần áo của Ta? Người ta có tin được ngươi không? Ngươi đã rửa tay sạch trước khi tùy tiện sờ vào quần áo của Ta chưa? Ta có ghê tởm ngươi không? Trong lòng ngươi có rõ về chuyện này không? Sao ngươi lại không biết xấu hổ như vậy chứ? Người quá không có lý trí rồi! Ngươi đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm và nghe biết bao bài giảng đạo, tại sao đến một chút lý trí như vậy mà ngươi cũng không có chứ? Tùy tiện mở của lễ thuộc về Đức Chúa Trời, tùy tiện sờ vào quần áo và đồ đạc của Ta, đây là vấn đề gì? Ta thấy bao bì của những món đồ này đều bị mở ra và vứt đi hết, trong lòng Ta có thể không bực bội được sao? Ta ghê tởm những chuyện này, Ta ghê tởm những người này, Ta không muốn nhìn thấy những người này nữa, càng không muốn chung sống với những người không bằng súc vật như vậy! Các ngươi phải nhớ, con người đều có tôn nghiêm, Ta càng có tôn nghiêm hơn. Các ngươi không được dính dáng đến đồ thuộc về Ta, nếu không Ta sẽ ghê tởm và căm ghét các ngươi!

Nhìn từ bề ngoài thì lãnh đạo giả không làm chuyện ác gì lớn cả, họ cũng không phải là người đại gian đại ác. Nhưng chuyện khiến người ta căm ghét nhất chính là mắt thấy công tác thực tế nhưng họ lại không làm, rõ ràng biết rằng bản thân không thể giải quyết vấn đề nhưng cũng không tìm kiếm lẽ thật, nhìn thấy kẻ ác quấy nhiễu cũng không xử lý, mà toàn làm những công tác mang tính sự vụ bên ngoài kia. Đối với một số chi tiết và chuyện nhỏ, họ theo dõi khá sát sao và quản lý khá nghiêm ngặt, nhưng đối với những công tác liên quan đến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, họ lại không làm chút gì. Họ không hề quan tâm đến những chuyện đi ngược lại với nguyên tắc lẽ thật, toàn làm một số công tác không liên quan gì đến lẽ thật. Đây chính là lãnh đạo giả chính cống. Lãnh đạo giả dốt đặc cán mai đối với nguyên tắc lẽ thật liên quan đến các hạng mục công tác khác nhau của hội thánh. Nếu đánh giá theo tiêu chuẩn và nguyên tắc của lãnh đạo và người làm công, thì lãnh đạo giả chính là một kẻ ngu ngốc, một kẻ đần độn. Bất luận công tác của hội thánh xuất hiện vấn đề nghiêm trọng thế nào, cho dù là chuyện xảy ra ngay dưới mí mắt họ thì họ cũng không nhìn thấy và không giải quyết được, vẫn phải để cho Bề trên đích thân giải quyết. Những người này có phải là lãnh đạo giả không? (Thưa, phải.) Họ đích thực là lãnh đạo giả. Chẳng hạn như công tác văn tự của hội thánh, phải hiệu đính cuốn sách nào, phải dịch cuốn sách nào, đây đều là công tác then chốt của hội thánh. Phải hiệu đính và phiên dịch thế nào, có nguyên tắc cho những việc này không? Hạng mục công tác này có nguyên tắc vô cùng, tính nguyên tắc của nó rất lớn, rất cần được thông công và hướng dẫn cụ thể, nhưng lãnh đạo giả lại không thể làm những công tác này. Nhìn thấy các anh chị em bận rộn làm bổn phận thì họ giả bộ nói rằng: “Công tác văn tự và công tác phiên dịch đặc biệt quan trọng, các anh chị nên hết lòng làm cho tốt, có vấn đề gì tôi cũng sẽ giải quyết cho các anh chị”. Đến khi người ta thật sự nêu lên vấn đề, thì lãnh đạo giả liền nói: “Tôi không hiểu chuyện này, tôi là tay ngang trong việc phiên dịch ngoại ngữ. Các anh chị đi cầu nguyện và tìm kiếm với Đức Chúa Trời đi”. Có người lại nêu lên vấn đề khác: “Có loại ngôn ngữ không tìm được người phiên dịch thích hợp thì phải làm sao?”. Lãnh đạo giả lại nói: “Tôi là tay ngang trong chuyện này, các anh chị tự xử lý đi”. Nói như vậy thì có thể giải quyết được vấn đề không? Tìm một cái cớ và che giấu chân tướng của việc mình không làm công tác, nói một câu: “Tôi là tay ngang, không hiểu nghiệp vụ” liền thoái thác vấn đề mình cần phải giải quyết. Đây chính là cách thức làm việc của lãnh đạo giả. Khi có người nêu lên vấn đề, lãnh đạo giả nói: “Các anh chị cầu nguyện và tìm kiếm với Đức Chúa Trời đi, tôi không hiểu nghiệp vụ, nhưng các anh chị hiểu”. Họ có vẻ rất khiêm tốn, thừa nhận bản thân không giỏi, không hiểu nghiệp vụ, nhưng trên thực tế thì căn bản là họ không làm được công tác của lãnh đạo. Đương nhiên, làm lãnh đạo không nhất thiết phải hiểu hết mọi phương diện nghiệp vụ. Nhưng bất luận đó là vấn đề thuộc phương diện nghiệp vụ nào, lãnh đạo cũng phải thông công một cách rõ ràng về nguyên tắc lẽ thật để giải quyết vấn đề, chỉ cần con người hiểu được nguyên tắc lẽ thật thì vấn đề có thể được giải quyết một cách tương ứng. Lãnh đạo giả dùng “tôi là tay ngang, không hiểu nghiệp vụ” làm lý do để không thông công một chút nào về nguyên tắc lẽ thật để giải quyết vấn đề, đây là không làm công tác thực tế. Nếu lãnh đạo giả luôn dùng “tôi là tay ngang, không hiểu nghiệp vụ” làm lý do để không giải quyết vấn đề, thì họ không xứng làm công tác của lãnh đạo. Việc họ nên làm nhất chính là tự nhận lỗi và từ chức, để người khác thay thế họ. Nhưng lãnh đạo giả có lý trí này không? Họ sẽ tự nhận lỗi và từ chức không? Họ làm không được. Họ còn cho rằng: “Sao tôi lại không làm công tác chứ? Mỗi ngày tôi đều tổ chức nhóm họp, bận rộn đến nỗi không ăn cơm đúng giờ, thời gian để ngủ cũng ít đi. Ai nói vấn đề không được giải quyết? Tôi đã tổ chức nhóm họp và thông công vớ họ rồi, tôi đã tìm lời Đức Chúa Trời cho họ rồi”. Nếu ngươi hỏi họ: “Người ta nói có loại ngôn ngữ không tìm được người thích hợp để phiên dịch, vấn đề cụ thể này anh đã giải quyết thế nào?”. Họ sẽ nói: “Tôi đã bảo họ rằng tôi không hiểu nghiệp vụ, bảo họ tự thương lượng và xử lý rồi”. Ngươi lại hỏi họ: “Vấn đề này liên quan đến việc chi tiêu của lễ, liên quan đến tiến độ công tác của hội thánh. Họ không thể tự quyết định được, cần anh đưa ra chủ ý, tìm ra nguyên tắc lẽ thật để giải quyết. Anh có làm như vậy chưa?”. Họ liền nói: “Sao lại chưa? Tôi không làm chậm trễ công tác nào cả. Nếu chưa tìm được người để phiên dịch loại ngôn ngữ đó thì cứ phiên dịch ngôn ngữ khác!”. Các ngươi xem, lãnh đạo giả không làm được công tác thực tế lại còn viện ra một đống lý do, thật là mặt dày vô sỉ, khiến người ta ghê tởm! Tố chất kém như vậy, nghiệp vụ gì cũng không hiểu, nguyên tắc lẽ thật liên quan đến bất kỳ hạng mục công tác nghiệp vụ nào cũng không hiểu, vậy thì còn cần lãnh đạo như ngươi để làm gì? Nói thẳng ra ngươi chính là một kẻ đần độn, đồ ăn hại! Ngươi không làm được công tác thực tế thì tại sao còn muốn làm lãnh đạo hội thánh chứ? Đây là không có lý trí. Ngươi không tự mình biết mình, vậy thì ngươi nên nghe phản ánh của dân được Đức Chúa Trời chọn, đánh giá xem bản thân có đủ tiêu chuẩn để làm lãnh đạo không. Nhưng lãnh đạo giả lại không bao giờ nghĩ về những chuyện này. Bất luận họ đã làm lãnh đạo bao nhiêu năm và đã làm chậm trễ biết bao nhiêu công tác của hội thánh, lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn đã chịu bao nhiêu tổn thất, thì họ cũng không quan tâm. Đây chính là diện mạo xấu xí của lãnh đạo giả chính cống.

Các ngươi xem xem lãnh đạo và người làm công làm công tác như thế nào, có ăn khớp với những điều mà Ta nói không? Có ai không làm công tác thực tế không, và ngươi có thể phân định ra được rằng họ là lãnh đạo giả không? Nếu phân định được rằng họ là lãnh đạo giả, vậy thì bắt đầu từ hôm nay, ngươi không được coi họ là lãnh đạo nữa. Ngươi nên đối xử với họ như một người bình thường. Đây chính là nguyên tắc thực hành chính xác. Có lẽ có người sẽ nghĩ rằng: “Đây chẳng phải là kỳ thị, hạ thấp và bài xích họ vì họ là lãnh đạo giả sao?”. Không phải, họ không làm được công tác thực tế, chỉ biết giảng chút câu chữ và đạo lý, nói một ít lời sáo rỗng để làm lấy lệ, qua quít với ngươi. Việc này cho ngươi biết một chuyện: Họ không phải là lãnh đạo của ngươi, gặp phải vấn đề và khó khăn gì trong công tác, ngươi cũng không cần phải xin ý kiến của họ, nếu cần thì ngươi có thể vượt cấp mà phản ánh lên Bề trên và trưng cầu ý kiến xem xử lý, giải quyết như thế nào. Ta đã dạy cho các ngươi con đường thực hành rồi, còn việc làm như thế nào thì phụ thuộc vào bản thân các ngươi. Ta không bảo rằng tất cả lãnh đạo đều được Đức Chúa Trời tiền định, rằng ngươi bắt buộc phải nghe, phải thuận phục, cho dù ngươi phân định ra người đó là lãnh đạo giả thì vẫn phải nghe theo. Ta không bảo các ngươi như vậy. Bây giờ Ta đang thông công về cách phân định lãnh đạo giả, khi ngươi phân định ra được họ là lãnh đạo giả rồi, thì những điều mà họ nói, nếu đúng và phù hợp với lẽ thật thì ngươi có thể tiếp nhận và thuận phục, nhưng nếu họ không thể giải quyết vấn đề mà còn làm lấy lệ và qua quít với ngươi, ảnh hưởng đến tiến độ công tác, thì ngươi có thể không tiếp nhận sự dẫn dắt của họ. Nếu bản thân các ngươi có thể nắm vững được nguyên tắc thì cứ làm theo nguyên tắc, còn nếu không nắm vững được, không xác định và không nắm được chính xác nguyên tắc, thì các ngươi nên tìm kiếm lẽ thật, thương lượng với những người khác mà làm. Nếu sau khi thương lượng mà vẫn không quyết định được thì hãy phản ánh lên Bề trên, trưng cầu ý kiến Bề trên. Đây đều là biện pháp tốt để giải quyết, không có vấn đề khó khăn nào là không thể giải quyết được cả.

Hôm nay chúng ta thông công đến đây thôi. Tạm biệt!

Ngày 16 tháng 1 năm 2021

Trước: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (1)

Tiếp theo: Chức trách của lãnh đạo và người làm công (3)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger