Những lời về các chủ đề khác

Trích đoạn 79

Khi các ngươi hát xong bài thánh ca “Đấng nắm giữ quyền tối thượng trên vạn vật”, trong lòng các ngươi nghĩ gì? Trong lòng có ngộ ra điều gì không? Ai sống cũng phải chịu nhiều nỗi khổ, nhưng con người đều không biết vì sao lại thế, cũng không có ai suy ngẫm tường tận xem nguồn gốc của việc con người phải chịu những nỗi khổ này là gì, rốt cuộc có đáng không, cách sống này của con người rốt cuộc có đúng không? Khi còn nhỏ, người ta luôn muốn có quần áo đẹp để mặc, có thức ăn ngon để ăn, sống như thế mới vui vẻ. Lớn lên rồi, con người suy nghĩ rằng phải học hành nghiêm túc thì mới vượt lên người khác, được sống những ngày tháng tốt đẹp. Trưởng thành rồi, con người muốn kiếm được thật nhiều tiền, có danh, có lợi, có quyền, có thế, được ở trên người khác, còn luôn muốn làm quan, để người khác ngưỡng vọng, sùng bái. Có con cái rồi lại mong con cháu thịnh vượng, có thể không ngừng tiếp nối, hơn nữa luôn thịnh vượng, phát đạt. Tại sao con người lại phải đi từng bước như vậy? Tại sao con người lại nghĩ như thế? Tại sao con người đều sống như thế? Con người sống không có đường đi. Sao lại nói là không có đường đi? Là vì con người không biết người là từ đâu mà có, sẽ phải đi về đâu, không biết kiếp này con người đến để làm gì, nên sống ra sao, nên đi con đường đời như thế nào. Con người không biết những chuyện này. Tại sao con người lại có thể theo đuổi danh lợi, theo đuổi cuộc sống hạnh phúc không ngừng nghỉ, đến lúc chết cũng không quay đầu lại như thế? Chính bởi vì con người bị Sa-tan làm cho bại hoại, nảy sinh ra một loại tư tưởng và nhân sinh quan sai lầm. Họ đều coi cách sống như vậy là đúng, coi việc theo đuổi danh lợi là hành động chính đáng, tin rằng có được danh lợi chính là hạnh phúc. Họ sống dựa vào loại niềm tin này, cứ thế con người từng bước, từng bước chạy băng băng trên con đường theo đuổi danh lợi. Kết quả là đến khi chết cũng không được hạnh phúc. Ai cũng sống như thế, trên thế giới này không có con đường nào khác nữa. Ai cũng muốn kiếm tiền để có cuộc sống sung sướng, không có tiền sẽ sống trong đau khổ, có tiền có thể làm được nhiều việc, do đó ai cũng muốn kiếm được nhiều tiền hơn. Khi cuộc sống trở nên sung túc, con người lại muốn giữ gìn tài sản, để con cái kế thừa. Chẳng ai hiểu rõ rằng sống như thế là hư vô. Ai cũng sẽ rời bỏ thế gian với nỗi tiếc nuối, không hiểu và không nỡ. Con người sống trong kiếp này có giàu, có nghèo, tuổi thọ có thể dài hoặc ngắn, có người là dân thường, có người lại là quan lớn, quý tộc, người ở tầng lớp nào cũng có. Nhưng cách sống của con người cơ bản đều giống nhau. Đó là dựa vào tham vọng, dục vọng, dựa vào tâm tính của Satan để tranh giành danh lợi, không đạt được mục đích thì chết không nhắm mắt. Nhìn thấy tình hình như vậy, người ta bắt đầu nghĩ: “Tại sao mọi người lại sống như thế? Chẳng lẽ không có con đường thứ hai để đi hay sao? Chẳng lẽ con người sống chỉ để ăn uống sung sướng cho đến khi chết hay sao? Sau khi chết, con người lại đi về đâu? Bao nhiêu người qua từng thế hệ sao lại không có cách sống nào khác? Nguyên nhân ở đâu?” Con người không biết mình từ đâu đến, sứ mạng của kiếp này là gì, không biết ai là người quản lý tất cả, ai là người chủ tể tất cả. Từng thế hệ con người đến rồi lại đi, thế hệ nào cũng sống như thế, rồi lại chết đi như thế, đến cùng một cách, đi cùng một cách, chẳng có ai tìm ra cách sống, con đường chân chính cho cuộc đời, không ai tìm kiếm lẽ thật trong chuyện này. Từ xưa đến nay, con người đều sống cùng một cách, đều đang tìm kiếm, đều đang chờ đợi, đều muốn xem nhân loại sau này sẽ ra sao, nhưng không ai biết, không ai thấy được chuyện này. Xét cho cùng, con người không biết đấng chủ tể mọi sự, quản lý mọi sự là ai, đấng chủ tể mọi sự rốt cuộc có tồn tại không. Con người không biết đáp án này, không có cách nào khác đành phải sống như thế, mong ngóng năm này qua năm khác, chịu đựng hết ngày này đến ngày khác đến tận bây giờ. Nếu người ta biết được lý do của mọi chuyện này, liệu con đường sống của họ có rõ ràng hơn không? Có phải là có thể thoát khỏi sự khốn khổ này, không cần phải sống dựa vào mong ước, hy vọng nữa? Khi con người hiểu vì sao họ sống, vì sao họ phải chết, và ai là người quản lý thế giới này, khi họ có được câu trả lời rằng Đấng chủ tể mọi sự chính là Đấng Tạo Hoá, lúc đó con người sẽ có đường đi, biết cần tìm kiếm lẽ thật, tìm thấy con đường từ lời Đức Chúa Trời thì sẽ không còn phải sống dựa vào mong ước và hy vọng trong đau khổ như vậy nữa. Nếu con người tìm được đáp án về việc tại sao phải sống và tại sao lại phải chết đi, thì liệu toàn bộ đau khổ, khó khăn của con người có được giải quyết không? Như vậy, liệu con người có được giải thoát không? Khi đó, con người thật sự đạt được sự giải thoát, hoàn toàn tự do và được giải phóng.

Khi các ngươi nghe xong bài thánh ca “Đấng nắm giữ quyền tối thượng trên vạn vật”, trong lòng nên suy ngẫm về điều gì? Nếu con người hiểu được vì sao lại sinh ra, vì sao lại chết đi, biết rằng đấng chủ tể vạn vật của thế giới này, cũng chính là đấng quản lý mọi sự rốt cuộc là ai, rốt cuộc ở đâu, Ngài có yêu cầu gì với con người. Hiểu được tất cả những chuyện này, con người sẽ biết nên đối xử với Chúa của tạo vật ra sao, biết nên thờ phượng, vâng phục Chúa của tạo vật, trong lòng sẽ có chỗ dựa, thế là sẽ bình an, hạnh phúc, không cần phải sống trong giày vò, đau khổ như thế này nữa. Xét cho cùng, con người phải hiểu lẽ thật. Chọn một con đường để sống là rất quan trọng, con người sống ra sao cũng rất quan trọng. Con người sống ra sao, đi con đường nào sẽ quyết định cuộc đời của con người hạnh phúc hay đau khổ. Đây là điều mà con người nên hiểu rõ. Nghe xong bài thánh ca này, trong lòng người có thể xuất hiện những cảm xúc như thế này: “Loài người đều sống theo những quy luật nhất định như thế này, người xưa cũng không ngoại lệ, người hiện đại vẫn tiếp tục sống theo lề thói đó, vẫn như cũ, không thay đổi những cách thức này. Vậy trong cộng đồng loài người, liệu có tồn tại một vị chủ tể, một Đức Chúa Trời trong truyền thuyết đang quản lý mọi sự không nhỉ? Nếu tìm thấy Đức Chúa Trời, tìm thấy đấng quản lý mọi sự, liệu lòng người có cảm nhận được hạnh phúc không? Hiện tại, điều quan trọng là phải tìm ra gốc rễ của loài người. Gốc rễ này nằm ở đâu nhỉ? Nếu tìm thấy gốc rễ, cuộc sống của con người có thể trở thành một cảnh ngộ khác. Nếu không tìm thấy gốc rễ này, loài người vẫn tiếp tục theo đuổi cách sống này, thì loài người có thể đạt được hạnh phúc không?” Nếu con người không tin vào Đức Chúa Trời, thì dù có biết nhân loại quá bại hoại, liệu họ có thể làm được gì chứ? Có giải quyết được vấn đề thực tế của sự bại hoại hay không? Có con đường để được cứu rỗi không? Cho dù ngươi có muốn trở nên tốt hơn, muốn sống thể hiện ra hình tượng con người thì ngươi có làm được không? Ngươi không có con đường nào để thực hiện cả! Ví dụ, có những người sống vì con cái. Ngươi nói rằng ngươi không muốn sống vì con cái, liệu ngươi có làm được không? Có những người bôn ba, bận rộn vì tiền bạc và danh lợi. Ngươi nói mình không muốn bôn ba bận rộn vì những thứ này, liệu ngươi có làm được không? Ngươi sẽ bất giác đi vào con đường đó, muốn đổi cách sống cũng không làm được. Trong thế giới này, cách sống của ngươi không phải do ngươi quyết định! Gốc rễ của vấn đề này là gì? Đó là do con người chưa tin vào Đức Chúa Trời thật, chưa đạt được lẽ thật. Vậy tinh thần con người dựa dẫm vào đâu? Con người gửi gắm tinh thần của mình vào đâu? Tinh thần của con người đều dựa dẫm vào những chuyện như gia đình đoàn tụ, hôn nhân hạnh phúc, và cả sự hưởng thụ vật chất như tiền bạc, danh lợi, địa vị, tình cảm sự nghiệp, cùng cả hạnh phúc của thế hệ tiếp theo. Tinh thần của mỗi người không phải đều dựa dẫm vào những thứ này sao? Có con cái thì gửi gắm vào con cái, không có con cái thì gửi gắm vào sự nghiệp cá nhân, hôn nhân, gửi gắm vào địa vị xã hội, danh lợi của bản thân. Vậy nên cách sống phát sinh từ đó đều giống nhau, đều là dưới quyền của Sa-tan, dưới sự kiểm soát của Sa-tan, dù không muốn mà vẫn phải bôn ba bận rộn vì danh vọng, lợi ích, vì tiền đồ, vì sự nghiệp, hôn nhân, gia đình, thế hệ tiếp theo và sự thỏa mãn xác thịt của bản thân. Đây có phải con đường đúng đắn không? Dù trên thế giới này, con người có bận rộn, sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc, gia tộc to lớn, địa vị hiển hách đến đâu thì liệu họ có thể bước lên con đường đúng đắn của cuộc sống không? Liệu con người có thể thông qua việc theo đuổi danh vọng, chạy theo thế giới và sự nghiệp mà nhìn thấy sự thật về Đức Chúa Trời sáng tạo vạn vật, Đức Chúa Trời chủ tể vận mệnh loài người không? Chuyện đó là không thể. Cho dù con người theo đuổi điều gì, đi con đường như thế nào, nếu kẻ đó không công nhận rằng Đức Chúa Trời là đấng chủ tể số phận loài người thì hắn đang đi vào con đường sai lầm, không phải là con đường đúng đắn, mà là con đường sai lạc và tà đạo. Cho dù chỗ dựa tinh thần của ngươi có làm cho ngươi thỏa mãn hay không, cho dù chỗ dựa tinh thần của ngươi là ở đâu thì cũng đều không phải là niềm tin thật sự, không phải là con đường nhân sinh đúng đắn. Thế niềm tin thật sự là gì? Đó là việc tiếp nhận sự xuất hiện, công tác của Đức Chúa Trời, tiếp nhận mọi lẽ thật mà Ngài đã bày tỏ. Những lẽ thật này chính là con đường nhân sinh đúng đắn của cuộc sống, là những lẽ thật và sự sống mà con người nên mưu cầu. Đi theo con đường nhân sinh đúng đắn tức là đi theo Đức Chúa Trời, hiểu được lẽ thật dưới sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời, biết phân biệt thiện ác, biết thế nào là sự vật tích cực, thế nào là sự vật tiêu cực, biết được sự chủ tể của Đức Chúa Trời, sự toàn năng của Đức Chúa Trời. Khi lòng người thật sự hiểu rõ rằng Đức Chúa Trời không chỉ tạo ra trời đất và vạn vật, mà còn là chủ tể của vũ trụ, thì con người có thể vâng phục mọi sắp xếp và kế hoạch của Ngài, sống theo lời Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Như vậy sẽ bước lên con đường nhân sinh đúng đắn. Khi con người bước lên con đường nhân sinh đúng đắn của cuộc sống, sẽ hiểu rõ tại sao lại sống, nên sống thế nào mới là sống trong ánh sáng, mới nhận được sự khen ngợi, chúc phúc của Đức Chúa Trời.

Hiện giờ các ngươi đang sống vì điều gì? Các ngươi có hiểu không? (Thưa, sống để hoàn thành sứ mệnh và sự ủy thác của Đức Chúa Trời, và để làm trọn bổn phận của loài thọ tạo.) Muốn làm trọn bổn phận của loài thọ tạo, muốn hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời là mong muốn chủ quan của ngươi, cũng là con đường cuộc đời mà ngươi lựa chọn, như thế là đúng. Nhưng phải hiểu một sự thật, con người sống trên thế gian là do Đức Chúa Trời an bài. Ai đến thế gian này cũng có sứ mạng của mình chứ không phải là ngẫu nhiên mà đến, đều là do Đức Chúa Trời chủ tể, an bài và sắp đặt, không hề có một chút sai sót nào. Ai đến với thế gian này cho dù học gì, làm gì cũng là để đảm nhận một vai trong thế giới. Vai trò đó là gì? Chính là người đó đến thế giới này thì phải hoàn thành một nhiệm vụ, phải làm vài việc. Ví dụ như hai người kết hôn rồi sinh ra một đứa con, ba người này tạo thành một gia đình hoàn chỉnh. Trong gia đình này, người vợ sống để hoàn thành sứ mạng của mình, chính là chăm sóc chồng con và gia đình này cho thật tốt. Vậy đứa con sống vì điều gì? Nó đóng vai trò gì? Nó là một hậu duệ của gia đình, duy trì hương hỏa cho gia đình này, thuộc về thế hệ tiếp theo của gia đình này. Sự xuất hiện của đứa con làm gia đình trở nên hoàn chỉnh, đây là vai trò đầu tiên của nó. Đứa con này dù là con trai hay gái cũng có sứ mạng của mình. Sau này vận mệnh nó ra sao, lớn lên có học lực gì, có sở trường kỹ thuật gì, làm công việc gì, bao giờ thì tin Đức Chúa Trời, sau khi tin Đức Chúa Trời sẽ làm tròn bổn phận gì, từng bước này có phải đã được Đức Chúa Trời an bài và lên kế hoạch trước không? (Thưa, phải.) Con người có sự chọn lựa không? (Thưa, không có.) Từ lúc con người sinh ra trong một gia đình, mỗi bước trong vận mệnh của người đó đều không phải do bản thân lựa chọn mà là do Đức Chúa Trời an bài sẵn. Mọi sự này đều đã được Đức Chúa Trời sắp đặt sẵn, trong chuyện này có lẽ thật, liên quan đến con người sống vì điều gì. Ví dụ như ngươi học nhạc, ngươi có điều kiện này, có hoàn cảnh gia đình này, vậy học âm nhạc là do ngươi lựa chọn ư? (Thưa, không phải.) Ngươi sinh ra trong hoàn cảnh này, do sự hun đúc của môi trường mà ngươi học được một kỹ năng sở trường. Hoàn thành sứ mệnh như vậy, ngươi hoàn thành nhờ điều gì? Sự hoàn thành này là do sự tiền định của Đức Chúa Trời chứ không phải do bản thân ngươi lựa chọn. Hoàn thành chuyện này có phải là kết quả của sự sắp đặt của Đấng Tạo Hóa không? Đến bây giờ ngươi thực hiện bổn phận, ngươi dùng được những điều mình đã học và đã biết vào việc thực hiện bổn phận của mình, điều này do ai quyết định? (Thưa, do Đức Chúa Trời.) Là do Đức Chúa Trời quyết định, không phải do bản thân ngươi. Khách quan mà nói, hiện tại ngươi sống vì ai? (Thưa, sống vì Đức Chúa Trời.) Thật ra ai cũng giống ai, đều sống vì sự chủ tể, an bài của Đức Chúa Trời, bất kể ngươi tự cảm thấy được không, có ý thức được không. Con người cũng như một quân cờ, Đức Chúa Trời đặt ngươi ở đâu, để ngươi làm gì, để ngươi ở đó bao lâu, đều do Đức Chúa Trời sắp đặt. Nhìn từ góc độ sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, con người thật ra đều sống vì sự chủ tể, an bài và quản lý của Đức Chúa Trời, con người không tự quyết định được. Dù năng lực của ngươi lớn đến đâu, dù ngươi có ân tứ, cũng không thể thoát khỏi số phận mà Đức Chúa Trời đã tiền định cho ngươi, không ai có thể sống mà vượt qua phạm vi này, không thể thoát khỏi số phận và cuộc đời do Đấng Tạo Hóa ấn định và an bài. Thật ra tất cả những chuyện này, bản thân con người vốn dĩ không biết, sống dưới sự sắp đặt và chủ tể của Đức Chúa Trời đến tận bây giờ một cách không chủ tâm và vô thức. Nhìn việc này từ góc độ khách quan, con người đã nhận thức được điều gì? (Thưa, chuyện sống chết của con người không phải do chính họ quyết định, mà là do Đức Chúa Trời sắp đặt và chủ tể.) (Thưa, con người đừng nghĩ rằng mình có thể tự quản lý số phận của mình, mà phải tuân theo sự chủ tể và an bài của Đức Chúa Trời.) Biết được như thế là đã tiến bộ rồi. Để có thể vâng lời Đức Chúa Trời thì nên hiểu những lẽ thật nào? Dù ngươi sinh ra trong gia đình thế nào, bất kể tố chất, trí tuệ, tư tưởng các mặt của ngươi ra sao thì tóm lại, số phận và mọi sự về ngươi đều nằm trong sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, không phải do chính ngươi quyết định. Con đường mà con người nên chọn là: hiểu rằng mọi sự của bản thân đã được Đức Chúa Trời an bài, dẫn dắt ra sao, sau này Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt ra sao, tìm kiếm để hiểu ý định, mong muốn của Đức Chúa Trời, sau đó sống theo quỹ đạo số phận do Đấng Tạo Hóa chủ tể, sắp đặt chứ không phải là đi tranh giành, cướp đoạt, không phải nghiên cứu, chống lại mong muốn của Đấng Tạo Hóa, không phải nghiên cứu, chống lại mọi điều mà Đức Chúa Trời đã an bài cho ngươi. Như thế thì cuộc sống của con người chẳng phải đã danh chính ngôn thuận rồi sao? Điều này giải đáp những nghi ngờ như “Tại sao con người phải sống và tại sao lại phải chết đi”, cũng thoát khỏi nỗi đau như “những tạo vật chết đi mang theo bên mình những câu chuyện về sự sống, còn những kẻ đang sống thì lặp lại lịch sử bi thương của những kẻ đã mất.” Như thế thì con người đã thấy sống như thế này không còn khó khăn gì nữa, đã tìm ra gốc rễ của sinh mạng, biết được số phận con người là như thế nào, biết cách quy phục sự an bài của Đấng Tạo Hóa, không phản kháng nữa, sống như thế là có ý nghĩa. Con người không còn phải dùng đầu óc của mình để tưởng tượng, dùng sức mạnh của mình để đấu tranh, giành giật hạnh phúc. Con người biết được những điều đó đều là những cách hành động ngu muội, ngoan cố, không còn làm như thế nữa, họ học được cách tuân theo sự chủ tể và an bài của Đấng Tạo Hóa, giảm được biết bao đau khổ! Hiện tại, các ngươi có sống như vậy hay không? Có cảm thấy hiện nay bản thân sống tủi nhục, có tài mà không có đất dụng võ? Mặc dù cũng biết sở trường, bổn phận của bản thân là do Đức Chúa Trời trao cho, an bài cho nhưng vẫn cảm thấy bản thân khá tủi thân, làm tròn chút bổn phận này cũng không thể hiện được hoài bão của bản thân, thật ra mục tiêu của bản thân khá lớn, bây giờ mảnh đất làm tròn bổn phận này hơi không đủ dụng võ, các ngươi có suy nghĩ như thế này không? (Thưa, không có.) Không có dã tâm, dục vọng, không có yêu cầu xa xỉ, những điều nên bỏ đi cũng có thể bỏ đi, chỉ thiếu việc hiểu lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại mà thôi. Như vậy, con đường mà con người đi, phương hướng để tiến lên cũng càng ngày càng rõ, không còn phải hỏi những câu như “Tại sao phải sống và tại sao phải chết? Người quản lý tất cả chuyện này là ai?”. Dù con người theo đuổi điều gì, có nguyện vọng gì, chỉ cần quay về trước mặt Đấng Tạo Hóa nghiêm túc làm việc mình nên làm cho tốt, làm tròn và hoàn thành bổn phận của bản thân. Như thế thì đã yên lòng, danh chính ngôn thuận, không còn đau khổ gì nữa. Đó là ý nghĩa và giá trị của việc sống.

Trích đoạn 80

Ai cũng thừa nhận rằng Đức Chúa Trời tể trị vận mệnh con người, và rằng toàn bộ đời người nằm trong tay Đức Chúa Trời, nhưng nếu ngươi có thể thực sự trải nghiệm được chuyện mọi đại sự trong đời người bất kể là trong thời gian hay thời kỳ nào đều an bài dưới quyền tối thượng của Đức Chúa Trời và không tuân theo kế hoạch và sắp xếp của mình; nếu ngươi có thể thấy được rằng người ta không thể vượt lên vận mệnh hay những khổ nạn họ phải chịu; khi ngươi đủ khả năng trải nghiệm những điều này, đó là có đức tin đích thực. Điều đó khiến cho lời ngươi nói: “Đức Chúa Trời tể trị vận mệnh con người, và mọi sự nằm trong bàn tay của Đức Chúa Trời” chân thật hơn nhiều. Trải nghiệm quyền tối thượng của Đức Chúa Trời cùng sự sắp đặt và an bài của Ngài là một chuyện tinh vi. Đó là chuyện mà ngươi trải nghiệm, và chưa từng kinh qua thì không lý giải được, nhưng ngươi càng trải nghiệm nhiều và càng kinh qua nhiều, ngươi càng lý giải được rõ hơn. Có câu nói: “Ngũ thập tri thiên mệnh”. “Tri thiên mệnh” nghĩa là gì? Con người ở độ hai mươi tuổi chỉ mới bước ra đời. Họ trẻ người non dạ và không biết gì, và họ không hiểu được rằng đời người tất thảy đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Họ mải tranh đấu với vận mệnh và mải nghĩ mình có tài năng và thế mạnh, rồi họ mải phấn đấu gây dựng tên tuổi, chức tước và tiền tài. Dù có thất bại, họ cũng không nản lòng, luôn luôn cố thêm lần nữa. Rồi đến tuổi năm mươi, họ nhìn lại và nghĩ: “Hỡi ôi, cũng ba mươi năm lăn lộn trên đời làm đủ mọi trò đời quả là vất vả! Lấy vợ gả chồng, dựng xây cơ nghiệp, sanh con đẻ cái, không một bước nào trong số đó tuân theo kế hoạch và tính toán của riêng mình – tất thảy đều là vận mệnh.” Ấy là “tri thiên mệnh”; không còn đấu tranh chống lại vận mệnh. “Ngũ thập tri thiên mệnh” đơn giản tức là con người tới tuổi năm mươi và học cách chấp nhận với vận mệnh sau khi va vấp quá nhiều. Khi con người đã “tri thiên mệnh”, họ thôi đấu tranh với vận mệnh. Còn những thứ như đời người có ý nghĩa gì, quyền tối thượng của Đức Chúa Trời trên nhân loại là gì, con người nên sống vì cái gì, và nên sống ra sao, thì liệu con người có hiểu thấu không? Người ngoại đạo không thể hiểu được những điều này vì họ không tin Đức Chúa Trời, và nhiều nhất thì họ chỉ có thể chấp nhận vận mệnh và hiểu rằng chống lại vận mệnh là chuyện vô nghĩa. Rồi khi thấy con cháu mình đấu tranh với vận mệnh của chúng, họ bảo chúng rằng: “Cứ thuận theo tự nhiên, con cháu tự có phúc phần của con cháu. Cứ mặc chúng đi, tới tuổi ngũ tuần chúng sẽ thôi tranh đấu với vận mệnh. Đời nào cũng vậy. Chúng thảy đều chống lại chống phận tới khi có tuổi và không tranh đấu nổi nữa. Chúng sẽ tri thiên mệnh và biết điều. Chúng sẽ không còn ngông cuồng và cao ngạo, và chúng sẽ biết thân biết phận hơn.” Người ngoại đạo cùng lắm thì thấy được như vậy, nhưng họ có hiểu được lẽ thật không? Họ tuyệt đối không thể hiểu được vì họ không tin Đức Chúa Trời và không đọc lời Ngài. Làm sao họ hiểu lẽ thật được chứ? Ngũ thập tri thiên mệnh có đồng nghĩa với việc hiểu lẽ thật hay không? Người ta tin rằng “vận mệnh con người do Trời định” thì có đồng nghĩa với việc họ tuân theo ý Trời? (Thưa, không hề.) Chỉ tin thôi thì không được. Biết như thế chỉ đơn thuần là không đấu tranh với vận mệnh, song đó chưa phải là hiểu lẽ thật. Người ta phải đến trước Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài để hiểu được lẽ thật. Họ phải tiếp nhận sự phán xét của lời Ngài và tiếp nhận lẽ thật và sự sống vốn được ban cho thì mới hiểu được lẽ mầu nhiệm của tất thảy những điều này. Bằng không, người ta vẫn sẽ không biết đời người có ý nghĩa gì, vì sao người ta sống và vì sao họ chết, kể cả khi họ sống tới bảy mươi, tám mươi hay một trăm tuổi. Người ta cất bước ngắn ngủi, sống dăm ba thập kỉ mà mãi tới gần hết đời vẫn không ngộ ra được đời người có ý nghĩa gì. Vào phút lâm chung, họ thấy không cam tâm và day dứt chuyện này chuyện nọ, cuối cùng lìa đời trong hối tiếc và không đạt được gì. Nếu họ được tái sinh chuyển kiếp và cứ sống như vậy thì chẳng đáng thương sao? (Thưa, thật đáng thương.) Hết lớp người này đến lớp người khác cứ sống rồi chết hết sức đáng thương như vậy, người còn sống tiễn biệt người đã khuất và rồi chính họ được thế hệ tiếp theo tiễn đưa. Họ cứ tuần hoàn như thế, sống trong mê muội và không hiểu gì. Với các ngươi, những người đã chấp nhận lời của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, thì khác. Các ngươi đã bắt được cơ hội ngàn năm có một khi Đức Chúa Trời nhập thể để cứu rỗi con người trong thời kỳ sau rốt. Các ngươi có thể nhận được sự phán xét và hình phạt của những lời của Đức Chúa Trời và đạt được sự chăn dắt và dẫn dắt từ chính Ngài. Các ngươi hiểu nhiều lẽ mầu nhiệm và nhiều lẽ thật, và ngươi có thể thực hiện bổn phận của loài thọ tạo. Tâm tính bại hoại của các ngươi có thể được tinh sạch và thay đổi. Các ngươi đã đạt được rất nhiều, hơn cả những thánh đồ trong những thời đại đã qua. Đây chẳng phải điều phước hạnh nhất sao? Các ngươi là những người được ban phước hơn hết thảy.

Sau khi đọc những lời của Đức Chúa Trời và trải nhiều năm trong sự phán xét và hình phạt từ những lời của Đức Chúa Trời, các ngươi dần dần vô thức hiểu được mục đích của Đức Chúa Trời trong việc quản lí con người và lẽ mầu nhiệm của Ngài trong việc quản lí và cứu rỗi con người. Các ngươi đã hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời và biết được quyền tối thượng của Ngài. Lòng các ngươi nguyện ý vâng phục Đức Chúa Trời, và các ngươi có thể vâng phục Ngài. Các ngươi cảm thấy cuộc sống vững vàng và đầy đủ. Đức Chúa Trời cho các ngươi sống, các ngươi sống vì Đức Chúa Trời, các ngươi sống nhằm thực hiện bổn phận của loài thọ tạo. Đây là cách sống có ý nghĩa. Nếu người ta sống mà không tiếp nhận hay hiểu lẽ thật và sống chỉ vì xác thịt, thì như vậy chẳng có giá trị gì cả. Bây giờ hết thảy các ngươi đều đang vươn tới lẽ thật, đang sống với ngày càng nhiều lương tâm và lý trí. Các ngươi ngày càng trở thành thứ mà con người nên thành, và ngày càng hiểu lẽ thật. Các ngươi ngày càng biết vâng phục Đức Chúa Trời, và có thể theo bổn phận của một loài thọ tạo mà làm chứng cho Đức Chúa Trời. Sống như thế sẽ cho lòng các ngươi được đầy bình an và niềm vui, đây là cuộc sống có ý nghĩa nhất trên đời. Đây là điều phước hạnh mà trong toàn nhân loại chỉ các ngươi đạt được. Trong thế giới rộng lớn và trong toàn thể nhân loại, Đức Chúa Trời đã chọn chỉ số ít các ngươi và cho các ngươi sinh ra trong thời đại sau cùng này và trong quốc gia của con rồng lớn sắc đỏ. Các ngươi có thể lãnh nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình, có thể dâng mình cho Ngài. Các ngươi là những người được Đức Chúa Trời ưu ái và là những người Ngài đã chọn. Đây chẳng phải điều phước hạnh nhất sao? (Thưa, phải.) Đây quả là điều phước hạnh. Có những người tin Đức Chúa Trời song không thể gạt bỏ mọi sự để thực hiện bổn phận của mình, như thế thật đáng tiếc. Có những người không hiểu lẽ thật, và kể cả khi họ thực hiện bổn phận thì cũng chỉ có thể nói là họ đang phục vụ Đức Chúa Trời. Họ dâng lên sức mạnh họ có còn trong lòng ngầm giao dịch với Đức Chúa Trời và hi vọng được phước lành. Đến một ngày nào đó, khi hiểu được lẽ thật, họ sẽ có thể an tâm và tình nguyện thực hiện bổn phận. Hiện tại, sự sống của các ngươi và cuộc sống hằng ngày của các ngươi nhằm làm chứng cho Đức Chúa Trời và rao truyền Phúc Âm vương quốc của Đức Chúa Trời chính là cách sống mà Ngài chấp thuận. Nói trắng ra là, Đức Chúa Trời cho phép các ngươi sống như vậy, chính Đức Chúa Trời đã cho các ngươi cơ hội này. Đức Chúa Trời đã cho các ngươi cơ hội này và cho các ngươi sống, thực hiện bổn phận của mình và dâng mình cho Ngài, đây là điều có ý nghĩa nhất. Các ngươi phải tự hào, phải lấy làm vinh dự và trân quý cơ hội này. Các ngươi còn quá trẻ, và đây quả là một cơ hội hiếm hoi để các ngươi thực hiện bổn phận, đi theo Đức Chúa Trời và làm chứng cho Ngài giữa thảm họa và trong những hoàn cảnh và điều kiện khắc nghiệt. Việc Đức Chúa Trời nhập thể trong thời kỳ sau rốt và bày tỏ quá nhiều lẽ thật để cứu rỗi triệt để nhân loại hầu cho nhân loại có thể đạt được lẽ thật và được làm cho tinh sạch, đó chính là cơ hội hiếm hoi nhất. Thời gian không có nhiều, chớp mắt là đã hết. Các ngươi phải nắm bắt cơ hội này và đạt lấy mọi lẽ thật mà các ngươi vốn nên lấy được. Đây là điều phước hạnh to lớn nhất, đây là phước hạnh to lớn hơn phước hạnh của mọi thánh đồ trong những thời đại đã qua.

Trích đoạn 81

Những người đi theo Đức Chúa Trời ít nhất phải có thể từ bỏ mọi sự. Trong Thánh Kinh, Đức Chúa Trời đã phán: “Nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ Ta” (Lu-ca 14:33). Từ bỏ mọi sự có nghĩa là gì? Chính là từ bỏ gia đình, từ bỏ công việc, từ bỏ mọi vướng bận trần tục. Việc này có dễ dàng không? Quả thật không hề dễ dàng, nếu không có ý chí thì tuyệt đối không thể làm được. Có ý chí từ bỏ, đương nhiên sẽ có được ý chí chịu khổ, nếu không chịu đựng được đau khổ thì dù có muốn cũng không thể từ bỏ. Có những người đã từ bỏ gia đình, rời xa người thân, thực hiện bổn phận ở bên ngoài được một thời gian thì nhớ nhà, tới khi không nhịn được nữa thì lén chạy về thăm nhà, sau đó quay lại thực hiện bổn phận. Có những người đi khỏi nhà để thực hiện bổn phận, đến ngày lễ Tết lại không nhịn được mà nhớ tới người thân, buổi tối khi mọi người đều đã ngủ thì họ lại thầm khóc, khóc xong lại cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tới khi tâm trạng tốt hơn thì tiếp tục thực hiện bổn phận. Cho dù những người này có thể từ bỏ gia đình, nhưng họ không thể chịu đựng được nỗi đau lớn lao, nếu không thể buông bỏ tình cảm đối với người thân ruột thịt, vậy thì làm sao có thể thực tâm dâng mình cho Đức Chúa Trời đây? Mặc dù có những người có thể từ bỏ tất cả để đi theo Đức Chúa Trời, bỏ cả công việc và gia đình, nhưng mục đích họ từ bỏ mọi thứ là gì? Có người là vì để nhận được ân điển và phước lành, một số người giống như Phaolô, chỉ mưu cầu giành được mão triều thiên và phần thưởng, chỉ một số ít người từ bỏ mọi sự để đạt được lẽ thật, sự sống và sự cứu rỗi. Vậy mưu cầu điều gì mới hợp lòng Đức Chúa Trời đây? Đương nhiên là mưu cầu lẽ thật và đạt được sự sống, điều này hoàn toàn hợp lòng Đức Chúa Trời và cũng là điều quan trọng nhất khi tin vào Đức Chúa Trời. Nếu con người không thể từ bỏ thế giới, không thể từ bỏ tiền tài, liệu họ có thể đạt được lẽ thật không? Chắc chắn không thể. Mặc dù có những người đã từ bỏ mọi sự và thực hiện bổn phận của mình, nhưng họ không mưu cầu lẽ thật, khi thực hiện bổn phận thì luôn qua loa đối phó, cứ tạm bợ như thế vài năm, không có chút lời chứng trải nghiệm nào, cũng chẳng đạt được gì cả. Những kẻ chỉ theo đuổi danh lợi, địa vị và những kẻ đi theo con đường của kẻ địch lại Đấng Christ sẽ càng không thể đạt được lẽ thật. Có rất nhiều người tin Đức Chúa Trời mà chỉ cố thực hiện chút bổn phận của mình khi có thời gian rảnh, những người như thế có dễ dàng đạt được lẽ thật hay không? Ta thấy không hề dễ dàng. Đạt được lẽ thật lại không phải việc đơn giản, phải chịu rất nhiều khổ đau, phải trả giá rất nhiều, đặc biệt là phải trải qua những khổ đau của sự phán xét và hình phạt, của thử luyện và tinh luyện, của việc bị tỉa sửa và đối phó, những khổ đau này đều phải chịu đựng, bắt buộc phải chịu rất nhiều đau khổ mới có thể đạt được lẽ thật. Phải cầu nguyện và tìm kiếm lẽ thật bao nhiêu lần trong thời gian này, phải đổ bao nhiêu nước mắt ăn năn với Đức Chúa Trời, phải đọc bao nhiêu lời của Đức Chúa Trời mới có thể đạt được sự khai sáng và soi sáng, phải trải qua bao nhiêu cuộc chiến tâm linh mới có thể chiến thắng Sa-tan, những quá trình trải nghiệm này phải mất bao nhiêu thời gian, phải trải nghiệm bao nhiêu năm, để cuối cùng mới có thể đạt được lẽ thật và được Đức Chúa Trời khen ngợi? Về chuyện này, các ngươi nhìn trải nghiệm của Phi-e-rơ là sẽ biết. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, hoàn thiện con người liệu có đơn giản như con người nghĩ không? Từ bỏ mọi sự không phải là chuyện dễ dàng, nên hiểu thế nào là từ bỏ mọi sự? “Mọi sự” này không chỉ bao gồm những việc bên ngoài như gia đình, người thân, bạn bè, còn có sự nghiệp, tiền lương, tài sản, tiền đồ, ngoài những thứ này, còn có những thứ về khía cạnh tinh thần tư tưởng, bao gồm tri thức, học vấn, quan điểm nhìn nhận mọi sự, quy luật sinh tồn, thú vui xác thịt, lại và cả những thứ con người khao khát theo đuổi như: danh lợi, địa vị, v.v, chủ yếu bao gồm những thứ này, đây đều là nội dung của việc từ bỏ mọi sự. Với những thứ bên ngoài, thì có thể dễ dàng từ bỏ với một nỗ lực dứt khoát mạnh mẽ, nhưng sâu thẳm trong tâm linh con người thích thứ gì, mưu cầu thứ gì, bám chấp vào thứ gì đều là những thứ lòng họ trân quý nhất, xem trọng nhất, có thể tượng trưng cho mọi sự của họ, những thứ như vậy là khó từ bỏ nhất. Ngày nay, rất nhiều người không thể từ bỏ chủ yếu là do lòng họ không thể bỏ được những thứ này, vì chúng là những thứ mà con người xem trọng nhất, trân quý nhất. Ví dụ như: danh lợi địa vị, vinh hoa phú quý, còn có sự nghiệp yêu thích nhất và những thứ quý giá nhất của con người, đây là mọi sự của con người, là những thứ khó từ bỏ nhất. Có một vị chủ tịch ngân hàng tin Đức Chúa Trời, ông thấy lời của Đức Chúa Trời quả thực là lẽ thật, cũng thấy những gì Đức Chúa Trời đang làm chính là công tác cứu rỗi con người, nhưng đến lúc quyết định từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Chúa Trời, thì vẫn cứ phân vân về vị trí chủ tịch ngân hàng, có lúc thì nghĩ “Địa vị chủ tịch ngân hàng quý giá, có tiền có quyền”, có lúc lại nghĩ “Tin vào Đức Chúa Trời có thể đạt được lẽ thật, đạt được sự sống vĩnh hằng, cái này vẫn là quan trọng hơn”. Ông không ngừng đấu tranh tư tưởng, lúc thì muốn làm chủ tịch ngân hàng, lúc lại muốn tin Đức Chúa Trời, lúc thì muốn nắm bắt tiền tài, lúc lại muốn đạt được lẽ thật, lúc thì không thể từ bỏ địa vị, lúc lại muốn đạt được sự sống vĩnh hằng, lòng ông cứ dao động bất định. Địa vị chủ tịch ngân hàng trong lòng ông quá quý giá, ông mãi không thể từ bỏ được, không biết đã phải đấu tranh nội tâm hết mấy tháng trời, cuối cùng cũng miễn cưỡng từ bỏ, ông từ bỏ mọi sự thật không dễ dàng gì. Dù ông biết chức vụ chủ tịch ngân hàng chỉ là thoảng qua như mây khói, nháy mắt sẽ trôi qua, nhưng muốn từ bỏ vẫn không dễ dàng. Có người làm bác sĩ, làm luật sư, làm quản lý cấp cao, lương bổng cũng cao, từ bỏ những thứ này đều là việc không hề dễ dàng, cũng không biết đấu tranh mất mấy tháng mới có thể từ bỏ. Nếu như đấu tranh mất vài năm mới có thể từ bỏ, công tác của Đức Chúa Trời cũng kết thúc rồi, lúc đó mới từ bỏ có tác dụng gì? Chỉ có thể khóc lóc nghiến răng khi rơi vào thảm họa mà thôi. Nếu như ngươi có thể từ bỏ cả những thứ mà ngươi quý trọng nhất để đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, mưu cầu lẽ thật, đạt được sự sống thì ngươi mới có thể bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời. Bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời nghĩa là gì? Chính là ngươi có thể từ bỏ mọi sự mà đi theo Đức Chúa Trời, nghe lời của Đức Chúa Trời, tuân phục sự an bài của Đức Chúa Trời, mọi sự đều tuân phục Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời trở thành Chúa của ngươi, Đức Chúa Trời của ngươi, với Đức Chúa Trời thì như vậy chính là bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời rồi, sau này dù cho gặp phải bất cứ tai họa gì, ngươi cũng sẽ có được sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, có thể tiếp tục sống sót, ngươi chính là con dân của vương quốc Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời công nhận ngươi là người đi theo Ngài hoặc ban cho ngươi lời hứa sẽ hoàn thiện ngươi, nhưng bước đầu tiên là ngươi phải đi theo Đấng Christ, như vậy mới có thể có phần trong sự thao luyện của vương quốc, nếu ngươi không theo Đấng Christ thì ngươi ở ngoài vương quốc của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ không công nhận ngươi. Nếu Đức Chúa Trời không công nhận ngươi, mà ngươi muốn được cứu rỗi, muốn đạt được lời hứa của Đức Chúa Trời và sự hoàn thiện của Đức Chúa Trời, thì ngươi có thể đạt được không? Không thể nào đạt được. Để được Đức Chúa Trời chấp thuận, trước tiên ngươi phải có đủ tư cách để bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi có thể từ bỏ mọi sự để mưu cầu lẽ thật, có thể tìm kiếm lẽ thật khi thực hiện bổn phận, hành động theo nguyên tắc, có lời chứng trải nghiệm thực sự, thì ngươi sẽ có tư cách để bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời và đón nhận những lời hứa của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không thể từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Chúa Trời, thì đến tư cách bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời cũng không có, và ngươi sẽ chẳng liên quan gì đến những phước lành và lời hứa của Đức Chúa Trời. Ngày nay, mặc dù nhiều người đã từ bỏ mọi sự và đang thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, nhưng không phải tất cả họ đều có thể đạt được lẽ thật, họ phải yêu lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật mới đạt được lẽ thật, không mưu cầu lẽ thật thì không đạt được lẽ thật, huống chi là những người thực hiện bổn phận lúc rảnh rỗi, trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời quá hạn chế, và việc đạt được lẽ thật thậm chí còn khó khăn hơn. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, hoàn thiện con người, cơ hội tốt như vậy mà không thực hiện bổn phận, không mưu cầu lẽ thật thì sẽ bỏ lỡ. Một số người miệng nói tin Đức Chúa Trời nhưng không thực hiện bổn phận, vẫn theo đuổi thế gian, đây có phải là từ bỏ mọi sự không? Tin Đức Chúa Trời như vậy liệu có thể theo Ngài đến cuối con đường không? Hãy nhìn các môn đồ của Đức Chúa Jêsus, có ngư dân, có người thu thuế, cũng có nông dân, Đức Chúa Jêsus gọi họ: “Hãy đến mà theo Ta”, họ lập tức bỏ sinh kế trong tay và đi theo Chúa, họ không bận tâm đến vấn đề nghề nghiệp của mình, cũng không cần bận tâm vấn đề liệu sau này còn có đường sống trên đời hay không, họ lập tức đi theo Đức Chúa Jêsus. Phi-e-rơ toàn tâm toàn ý tham gia, luôn hoàn thành sự uỷ thác của Đức Chúa Jêsus đến cùng, giữ vững bổn phận của mình, ông mưu cầu tình yêu với Đức Chúa Trời trong suốt cuộc đời mình, cuối cùng đã được Đức Chúa Trời hoàn thiện. Ngày nay có một số người thậm chí không thể từ bỏ mọi sự, mà vẫn muốn bước vào Vương quốc, đây không phải là mơ mộng hão huyền sao?

Tin Đức Chúa Trời mà chỉ có nhiệt tâm thôi thì không được, ngươi phải hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, hiểu cách thức Đức Chúa Trời hoàn thiện con người, Đức Chúa Trời hoàn thiện những ai, và hiểu con người nên có thái độ, quan điểm như thế nào đối với việc Đức Chúa Trời hoàn thiện con người. Ngoài ra, những người đi theo Đức Chúa Trời còn phải biết việc vâng theo đường lối của Đức Chúa Trời quan trọng như thế nào, nó liên quan đến vấn đề liệu con người có thể đạt được lẽ thật hay không. Vâng theo đường lối của Đức Chúa Trời có nghĩa là thực hành lẽ thật. Thực hành lẽ thật mới là thực sự vâng phục Đức Chúa Trời. Vì vậy, thực hành lẽ thật là điều mấu chốt để đạt được lẽ thật. Nếu ngươi không thể hiểu lẽ thật và thực hành lẽ thật, ngươi sẽ không thể nào đạt được lẽ thật. Vậy nên mới nói, điều quan trọng nhất khi tin vào Đức Chúa Trời là thực hành lẽ thật, chỉ những ai thực hành lẽ thật mới có thể đạt đến độ vâng phục Đức Chúa Trời, chỉ những ai thực hành lẽ thật mới có thể hoàn toàn hiểu được lẽ thật, chỉ những người hoàn toàn hiểu được lẽ thật mới là biết Đức Chúa Trời. Đây đều là những kết quả đạt được nhờ thực hành lẽ thật. Dù có bao nhiêu người tin vào Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ xem xét ai vâng theo con đường của Ngài, ai thực hành lẽ thật và ai thực sự vâng phục Ngài. Những người tin vào Đức Chúa Trời phải hiểu lẽ thật và thực hành lẽ thật mới có thể trở thành những người vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời và vâng phục Đức Chúa Trời. Những người mưu cầu lẽ thật trước tiên phải hiểu: tại sao con người khi còn sống phải tin vào Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ thực hiện công tác cứu rỗi con người như thế nào khi Ngài đến, việc mưu cầu lẽ thật phải đạt được hiệu quả gì để được cứu rỗi và đủ tư cách nhận được những lời hứa và phước lành của Đức Chúa Trời. Trước đây, không ai hiểu được những lẽ thật này, tất cả họ đều tin vào Đức Chúa Trời dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của con người, cho rằng tin vào Đức Chúa Trời là để đạt được phước lành, mão triều thiên và phần thưởng, kết quả đều trái với ý muốn của Đức Chúa Trời, đi chệch khỏi con đường thật và dấn thân vào con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Vì vậy, nếu ngươi muốn hiểu lẽ thật, đạt được lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi, thì ngươi phải chỉnh đốn những quan điểm sai lầm của mình trong quá khứ về việc tin Đức Chúa Trời. Đặc biệt là quan niệm và trí tưởng tượng tôn giáo của con người. Quan điểm thần học của con người đều hoang đường cả, chúng đều đối nghịch với lẽ thật và đều là những luận điệu sai trái tưởng đúng mà sai. Đức Chúa Trời căn bản không tán thành cách tin của người trong tôn giáo. Giờ đây, nếu con người vẫn tuân theo cách tin của người trong tôn giáo, vẫn mưu cầu được phước lành, vương miện, phần thưởng, vẫn tin vào Đức Chúa Trời với thái độ như vậy, liệu họ có thể đạt được lẽ thật và sự sống không? Tuyệt đối không thể. Rốt cuộc con người nên có quan điểm như thế nào khi tin vào Đức Chúa Trời? Trước hết, ngươi phải hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời và thấy rõ Đức Chúa Trời cứu rỗi con người như thế nào. Nếu ngươi không tìm kiếm lẽ thật, vẫn tin vào Đức Chúa Trời dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của mình, và ngươi vẫn theo đuổi danh lợi, địa vị, tiền bạc và thế gian, thì ngươi sẽ giành được cả thế gian, nhưng cuối cùng thứ ngươi mất đi sẽ là mạng sống của mình, nó có đáng không? Một số người nói: “Đợi tôi kiếm đủ tiền, có sự nghiệp thành công, thực hiện được lý tưởng và hoàn thành ước mơ của mình, tôi mới tin vào Đức Chúa Trời thật đàng hoàng”. Đức Chúa Trời chờ đợi ngươi không? Công tác của Đức Chúa Trời có chờ đợi ngươi không? Nếu hiện giờ ngươi không thể buông bỏ, Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi phải buông bỏ ngay lập tức, nhưng ngươi phải tập buông bỏ, nếu thực sự không thể buông bỏ, hãy cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nương tựa vào Đức Chúa Trời và để Đức Chúa Trời dẫn dắt. Ngoài ra, con người cũng phải hợp tác và thực hiện bổn phận của mình. Mục đích của việc thực hiện bổn phận là gì? Trên thực tế, đó là để chuẩn bị việc lành, cho dù cuối cùng ngươi không thể hoàn toàn đạt được sự hoàn thiện, thì ít nhất ngươi cũng phải chuẩn bị một số việc lành để có thể khai trình với Đức Chúa Trời khi Ngài thưởng thiện phạt ác. Một ngày nào đó, khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, Ngài sẽ bắt đầu thưởng thiện phạt ác, Ngài yêu cầu ngươi trình ra những việc lành, ngươi chẳng có việc lành nào cả thì ngươi xong đời rồi, chắc chắn sẽ bị trừng phạt. Ví dụ, ngươi đã tin vào Đức Chúa Trời hơn mười năm và bổn phận quý giá nhất mà ngươi thực hiện là thu phục được một vài người nhờ rao giảng Phúc Âm trong thời gian rảnh rỗi, cuối cùng, ngươi thậm chí không biết liệu những người mà ngươi đã rao giảng có đứng vững được không, như vậy ngươi có thể khai trình với Đức Chúa Trời không? Đương nhiên là không thể khai trình. Ngươi phải suy ngẫm xem bản thân nên đạt được thành quả thế nào mới có thể khai trình với Đức Chúa Trời, ngươi phải có loại lời chứng trải nghiệm nào mới có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời và khiến Đức Chúa Trời công nhận ngươi là người đi theo của Ngài, thay vì chỉ hài lòng với việc thừa nhận rằng sự nhập thể của Đức Chúa Trời lần này là sự thật, trong lòng tiếp nhận Đấng Christ của thời kỳ sau rốt là xong. Điều Đức Chúa Trời muốn thấy là lời chứng trải nghiệm thực sự của ngươi, là thành quả của sự vâng phục công tác Đức Chúa Trời của ngươi. Điều cuối cùng mà Đức Chúa Trời muốn kiểm tra là liệu ngươi đã đạt được lẽ thật hay chưa và liệu ngươi có sự thật sự sống hay không. Ngươi nên hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chỉ có tên trong Hội thánh, hoặc chỉ là thực hiện bổn phận của mình mà không mưu cầu lẽ thật, tin vào Đức Chúa Trời mấy năm mà không có bất kỳ lời chứng trải nghiệm nào, liệu Đức Chúa Trời có còn công nhận ngươi không? Nếu Đức Chúa Trời không công nhận ngươi thì ngươi vẫn là kẻ đứng ngoài nhà Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chỉ tin vào Đức Chúa Trời bằng lời nói mà không mưu cầu lẽ thật, thì cuối cùng ngươi sẽ đạt được gì khi tin vào Đức Chúa Trời? Ngươi đang cách rất xa so với tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời! Đạt được lẽ thật không đơn giản như con người nghĩ, phải trải nghiệm nhiều hoạn nạn đau khổ, trải nghiệm nhiều thử luyện và tinh luyện mới có thể đạt được lẽ thật và biết đến Đức Chúa Trời. Khi ngươi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời như thế này, liệu có thể đạt được sự cứu rỗi mà không cần từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Chúa Trời không? Liệu có thể trải nghiệm công việc của Đức Chúa Trời chỉ bằng cách tin vào Đức Chúa Trời trong thời gian rảnh rỗi không? Ngươi tin vào Đức Chúa Trời ở nhà thì trải nghiệm như thế nào? Ngươi sống trong thế tục thì trải nghiệm như thế nào? Vì thế, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Đức Chúa Trời, nếu không thể từ bỏ mọi sự, ngươi tuyệt đối sẽ không thể đạt được lẽ thật, nếu không đạt được lẽ thật, ngươi sẽ không đủ tư cách để bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời. Đây là sự thật không ai có thể thay đổi được.

Trích đoạn 83

Hiện tại phàm là người tin Đức Chúa Trời vài năm, mặc dù đã đặt được nền móng, nhưng vẫn tồn tại một vấn đề hiện thực nhất định phải giải quyết, hầu hết mọi người đều có một vài hiểu biết về mọi phương diện của lẽ thật, lời đúng đắn, giáo lý đúng đắn ai cũng nói được, cũng giảng giải được, nhưng trong cuộc sống hiện thực họ vẫn chưa trải nghiệm được tính chính xác của những lời nói đó, vẫn chưa từng thật sự trải nghiệm được ý nghĩa thực sự và mặt thực tế của lẽ thật trong những lời nói đó rốt cuộc là gì. Để bước vào thực tế lẽ thật thì cần môi trường thích hợp, bên cạnh cần có đúng người, cần có con người sự việc sự vật thích hợp khiến sự sống của ngươi có thể phát triển, như vậy, tất cả những lẽ thật, những giáo lý ngươi hiểu được kia mới được chứng thực, giúp ngươi đạt được trải nghiệm. Nếu một hạt giống có sự sống gieo xuống mảnh đất tốt, nhưng thiếu ánh mặt trời chiếu rọi, thiếu nước mưa chăm tưới, mầm mọc lên có phải sẽ khô héo không? (Phải.) Cho nên mới nói, khi ngươi nghe rất nhiều bài giảng, nghe rất nhiều lẽ thật, rất nhiều lời của Đức Chúa Trời thì ngươi đã có thể nhìn nhận chính xác con đường này là đúng đắn, là chính đạo đời người, vậy lúc này ngươi cần gì? Cần cầu xin Đức Chúa Trời sắp xếp một môi trường thích hợp để bồi dưỡng và hỗ trợ cho sự sống của ngươi, giúp sự sống của ngươi có thể phát triển. Môi trường này có thể không an nhàn đến thế, xác thịt của con người phải chịu khổ, con người phải từ bỏ và buông bỏ rất nhiều thứ. Hiện tại, các ngươi đều đã trải nghiệm được những điều này rồi. Ví dụ, bị bức hại không về được nhà, không gặp được con cái, chồng (vợ), không thể liên lạc với họ, không thể gặp mặt người thân bạn bè, cũng không có được tin tức của họ, lúc đêm khuya vắng vẻ, ngươi bắt đầu suy nghĩ những chuyện trong nhà: “Cha mình thế nào rồi? Cha già rồi, mình chẳng thể báo hiếu được gì nữa. Sức khỏe mẹ mình không tốt lắm, cũng chẳng biết bây giờ thế nào.” Có phải ngươi luôn nghĩ đến những chuyện này không? Nếu trong lòng luôn bị những chuyện này chi phối, thì sẽ dẫn đến hậu quả gì cho việc thực hiện bổn phận? Bớt xen vào, bớt quan tâm đến những chuyện thế tục xác thịt này sẽ có lợi cho việc phát triển sự sống của con người. Lo lắng và sự nhọc lòng của ngươi chẳng có tác dụng gì, những chuyện này đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, số mệnh của họ có là gì thì ngươi cũng không thể thay đổi. Ngươi nhất định phải biết, ưu tiên hàng đầu của ngươi khi tin Đức Chúa Trời là cần quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, thực hiện bổn phận của con người, có được đức tin đích thực, bước vào thực tế lời của Đức Chúa Trời, để sự sống của bản thân phát triển, đạt được lẽ thật, đây mới là điều quan trọng nhất. Nhìn từ bên ngoài là con người chủ động bỏ lại thế giới, gia đình, nhưng thực sự thì là sao? (Thưa, là Đức Chúa Trời chủ tể, Đức Chúa Trời sắp đặt.) Đây là do Đức Chúa Trời sắp đặt, Đức Chúa Trời khiến ngươi không thấy được họ, nói chính xác hơn thì là Đức Chúa Trời tước đoạt cho ngươi. Lời này có phải lời thực tế nhất không? (Thưa, phải.) Người ta luôn nói Đức Chúa Trời chủ tể, Đức Chúa Trời sắp đặt, vậy thì trong chuyện này Đức Chúa Trời chủ tể thế nào? Ngài đưa ngươi ra khỏi nhà, không để họ trở thành phiền toái của ngươi, liên lụy đến ngươi, vậy Ngài muốn đưa ngươi đến đâu? Đức Chúa Trời đưa ngươi đến một môi trường không có sự vướng bận của xác thịt, không thấy được người thân. Ngươi bận tâm đến họ, ngươi muốn làm một chút gì đó cho họ nhưng cũng không thể làm được, muốn dâng một chút lòng hiếu thảo cho họ cũng không thể, họ không thể khiến ngươi vướng bận nữa rồi. Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho họ tách ra rồi, tước đoạt tất cả vướng bận của ngươi, nếu không ngươi vẫn sẽ báo hiếu họ, dốc sức vì họ, bán mạng vì họ. Đức Chúa Trời sắp đặt cho ngươi tách ra khỏi những vướng bận bên ngoài này, đây là chuyện tốt hay chuyện xấu? (Thưa, chuyện tốt.) Đây là chuyện tốt, không cần phải hối hận. Nếu đã là chuyện tốt, thì con người nên làm thế nào đây? Con người nên cảm ơn Đức Chúa Trời, nên nói rằng: “Đức Chúa Trời yêu tôi quá rồi!” Ngươi không thể thắng được sự trói buộc của tình cảm nếu dựa vào chính mình, bởi vì trái tim con người đều bị tình cảm chi phối, đều mong muốn gia đình đoàn tụ, cả nhà già trẻ lớn bé đều ở bên cạnh, bình an, khỏe mạnh, vui vẻ, ngày nào cũng trôi qua như thế, mãi mãi không xa nhau. Nhưng chuyện này cũng có điểm không tốt, tinh lực và tâm huyết cả cuộc đời của ngươi, tuổi trẻ của ngươi, thời gian tươi đẹp của ngươi, những thứ tốt nhất cả cuộc đời của ngươi đều sẽ dâng hiến cho họ, nếu ngươi hy sinh cả cuộc đời mình vì xác thịt, vì gia đình, vì người thân, vì công việc, vì danh lợi, vì các mối quan hệ phức tạp, ngươi sẽ hoàn toàn hủy hoại bản thân. Cho nên, Đức Chúa Trời yêu con người thế nào? Đức Chúa Trời nói: “Ngươi đừng để bị hủy hoại trong vũng bùn, nếu đôi chân ngươi mắc kẹt trong đó, thì dù ngươi có kiệt sức cũng không rút ra được đâu. Ngươi chẳng có vóc giạc đó, cũng chẳng có dũng khí đó, càng chẳng có đức tin đó, Ta đưa ngươi ra ngoài.” Đức Chúa Trời đã làm như thế, còn không bàn bạc với ngươi nữa. Vì sao Đức Chúa Trời không trưng cầu ý kiến của con người? Có người nói: “Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, Ngài muốn thế nào thì làm thế ấy, loài người giống như con kiến, giống như con rệp, chẳng là gì trong mắt Đức Chúa Trời cả.” Nói thì nói như vậy, nhưng Đức Chúa Trời đối đãi với con người như vậy sao? Không phải. Đức Chúa Trời bày tỏ nhiều lẽ thật và ban cho loài người như vậy, để sự bại hoại của loài người được tinh sạch, để loài người đạt được sự sống mới từ Ngài, tình yêu của Ngài với loài người quá lớn lao, đây đều là điều con người có thể nhìn thấy. Đức Chúa Trời có ý định dành cho ngươi, mục đích Đức Chúa Trời đưa ngươi ra ngoài chính là để ngươi đi trên chính đạo của cuộc đời, sống cuộc đời có ý nghĩa, chỉ dựa vào bản thân ngươi, ngươi sẽ không lựa chọn con đường này. Ý muốn chủ quan của con người là muốn bình an sống hết một đời, cho dù không phải giàu sang phú quý, nhưng ít nhất cả gia đình sum vầy mãi mãi bên nhau, hưởng thụ niềm vui gia đình như vậy, không biết cách quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, cũng không biết lo nghĩ cho đích đến sau này, cho ý muốn cứu rỗi loài người của Đức Chúa Trời. Con người không hiểu, Đức Chúa Trời cũng không tính toán, cũng không cần nói với con người quá nhiều, bởi vì ngươi không hiểu, bởi vì vóc giạc của ngươi quá nhỏ bé, có bàn bạc với ngươi cũng chẳng thông suốt được. Tại sao lại bàn bạc không thông suốt? Bởi vì chuyện lớn như kế hoạch quản lý cứu rỗi loài người của Đức Chúa Trời không thể nói rõ với con người chỉ bằng đôi ba lời, nếu đã không thể nói rõ, Đức Chúa Trời sẽ trực tiếp làm chủ, Đức Chúa Trời sẽ trực tiếp thực hiện, đến một ngày ngươi sẽ hiểu thôi.

Đức Chúa Trời đưa những người dân được chọn ra khỏi môi trường tồi tệ ở Đại Lục, ở đây có ý tốt của Ngài, hiện tại con người đều đã nhìn thấy, con người phải thường xuyên biết ơn chuyện này, cảm ơn ân huệ đối đãi của Ngài. Ngươi bước ra khỏi môi trường gia đình như vậy, thoát ra khỏi tất cả các mối quan hệ xác thịt phức tạp giữa người và người thoát khỏi tất cả vướng bận thế tục, vướng bận xác thịt, Đức Chúa Trời đưa ngươi ra khỏi một mạng lưới phức tạp, đưa ngươi tới trước mặt Ngài, đưa ngươi tới nhà Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nói: “Ở đây thanh tịnh, nơi này rất tốt, thích hợp để ngươi phát triển. Ở đây có lời của Đức Chúa Trời, có sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, có sự cầm quyền của lẽ thật, cũng có ý muốn cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, trung tâm công tác cứu rỗi đều ở đây, ngươi hãy phát triển thỏa thích ở đây đi.” Đức Chúa Trời đưa ngươi tới một môi trường như vậy, ở trong môi trường này cũng có thể không có sự an ủi của người nhà, lúc ngươi bị bệnh không có con cái ở bên cạnh chăm sóc, cũng không có ai nói lời thân thiết, khi ngươi chỉ có một mình, nghĩ về những khó khăn và đau khổ của xác thịt, nghĩ về việc sau này sẽ còn gặp phải điều gì, lúc đó ngươi sẽ cảm thấy cô đơn. Vì sao ngươi có thể cảm thấy cô đơn? Vóc giạc của con người quá nhỏ bé, đây là nguyên nhân khách quan. Vậy nguyên nhân chủ quan là gì? (Thưa, con người không hoàn toàn buông bỏ được người thân, xác thịt.) Đúng vậy, là do con người không buông bỏ được. Con người sống trong xác thịt lấy các mối quan hệ và tình cảm gia đình xác thịt này làm vui thú. Họ cho rằng con người không thể sống thiếu những người thân của mình. Vậy tại sao ngươi không nghĩ đến việc ngươi đã đến nhân gian như thế nào? Ngươi đến một mình, ngươi và họ vốn không hề có mối quan hệ gì. Đức Chúa Trời mang từng con người một đến đây; trên thực tế, khi ngươi đến, ngươi chỉ có một mình. Lúc đó ngươi không cảm thấy cô đơn, bây giờ Đức Chúa Trời đưa ngươi ra ngoài, vì sao ngươi lại cảm thấy cô đơn? Ngươi cảm thấy thiếu đi một người đồng hành có thể nói những lời thân thiết với ngươi, người đồng hành này có thể là con cái của ngươi, có thể là bố mẹ của ngươi, cũng có thể là nửa kia của ngươi – chồng hoặc vợ, cho nên ngươi cảm thấy cô đơn. Vậy khi ngươi cô đơn, sao ngươi không nghĩ đến Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời có phải bạn đồng hành của con người không? (Thưa, có.) Lúc ngươi đau khổ nhất, buồn bã nhất, ai có thể thật sự an ủi trái tim của ngươi? Ai có thể thật sự giải quyết khó khăn của ngươi? (Thưa, Đức Chúa Trời.) Chỉ có Đức Chúa Trời có thể thật sự giải quyết khó khăn của con người. Một mình ngươi bị bệnh, con cái ở bên cạnh bưng trà rót nước phục vụ, ngươi vẫn rất vui vẻ nhưng thời gian lâu dần con cái sẽ phiền chán, không ai muốn hục vụ nữa, lúc đó mới là thật sự cô đơn! Ngươi cảm thấy bây giờ không có người đồng hành, là không có người đồng hành thật sao? Thực ra không phải, Đức Chúa Trời vẫn luôn đồng hành với ngươi! Đức Chúa Trời không rời khỏi con người, Đức Chúa Trời là chỗ dựa cho con người bất cứ lúc nào, là chỗ tránh nạn cho con người bất cứ lúc nào, Đức Chúa Trời là tri kỷ duy nhất của con người. Cho nên, bất kể ngươi gặp phải khó khăn gì, đau khổ gì, bất kể ngươi gặp phải chuyện ấm ức gì, chuyện yếu đuối tiêu cực gì, ngươi hãy mau chóng tới cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời, lời của Đức Chúa Trời sẽ an ủi ngươi, lời của Đức Chúa Trời sẽ giải quyết khó khăn của ngươi, sẽ giải quyết các loại vấn đề của ngươi. Trong môi trường như thế, sự cô đơn của ngươi sẽ trở thành điều kiện cơ bản để trải nghiệm lời của Đức Chúa Trời, đạt được lẽ thật. Ngươi trải nghiệm nhiều rồi, dần dần sẽ cảm thấy: “Rời xa cha mẹ mình vẫn sống tốt như thường, rời xa chồng mình vẫn sống đầy đủ như thường, rời xa con cái mình vẫn sống rất bình an, rất vui vẻ như thường, mình không còn trống rỗng nữa, không còn dựa vào con người nữa, mình sẽ dựa vào Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ cung cấp cho mình bất cứ lúc nào, giúp đỡ mình bất cứ lúc nào. Mặc dù mình không chạm được vào Ngài, không nhìn thấy Ngài, nhưng mình biết Ngài ở bên mình bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu, chỉ cần mình cầu nguyện Ngài, chỉ cần mình kêu cầu Ngài, Ngài sẽ làm cho mình cảm động, sẽ cho mình biết ý muốn của Ngài, khiến mình nhìn thấy con đường nên đi”, khi đó Đức Chúa Trời sẽ thật sự trở thành Đức Chúa Trời của ngươi, tất cả vấn đề của ngươi đều được giải quyết rồi.

Trích đoạn 84

Đài Loan là quốc gia dân chủ với xã hội ổn định và đời sống sung túc. Các khía cạnh như an ninh xã hội, dân sinh, nếp sống đều tốt hơn Trung Quốc đại lục rất nhiều. Cuộc sống của người dân vô cùng an nhàn. Tuy rằng sống an nhàn là tốt, nhưng rất nhiều người tin vào Đức Chúa Trời, có được cuộc sống an nhàn rồi thì không sẵn lòng đi theo Đức Chúa Trời nữa, càng không sẵn lòng chịu đựng gian khổ và trả giá, khó vứt bỏ tất cả để dâng mình cho Ngài. Đây có phải tình trạng thực tế không? Nhiều người có cuộc sống an nhàn liền chỉ nghĩ đến ăn uống, chơi bời và làm sao để hưởng thụ xác thịt, hưởng thụ đời người. Điều này ảnh hưởng nhất định tới những người tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật. Cho nên, rất nhiều người sống trong hoàn cảnh an nhàn như vậy muốn thực hiện một chút bổn phận nhưng đều chật vật và cũng không vui lòng chịu đựng chút gian khổ. Hiệu suất của họ khi thực hiện bổn phận và làm các công tác cho hội thánh rất thấp, đôi khi tiến độ công tác của họ cũng bị ảnh hưởng, điều này có liên quan nhất định tới hoàn cảnh xã hội mà họ đang sống. Khi thấy các ngươi có thể ngồi đây để nghe bài giảng, mỗi buổi nhóm họp đều nghe từ đầu đến cuối, không hề bỏ sót, Ta rất cảm động. Trong số những người ở Đại lục có thể tin vào Đức Chúa Trời, có người bị hoàn cảnh xung quanh chèn ép, phải chịu áp bức, bị xã hội kỳ thị, bách hại quá nghiêm trọng, và cũng có người tin vào Đức Chúa Trời chỉ vì muốn tìm sự công bằng, hợp lý, muốn tìm chỗ dựa tinh thần, tìm nơi để cậy dựa. Nhiệt tâm, đức tin và lòng trung thành của một số người được kích động dưới sự bách hại tàn khốc của con rồng lớn sắc đỏ. Có người không còn cách nào khác, buộc phải bỏ trốn ra nước ngoài, vì chuyện tin Đức Chúa Trời ở Đại lục quá khó khăn. Rất nhiều người bị truy lùng, không còn chỗ nào để ẩn nấp nên mới bỏ trốn ra nước ngoài. So với hoàn cảnh sống ức chế và khốn khổ của Đại lục, thì hoàn cảnh sống của người Đài Loan quá an nhàn. Khi cuộc sống quá an nhàn, những người tin vào Đức Chúa Trời liền không sẵn lòng chịu khổ và trả giá, một khi chịu đựng bức bách, khổ nạn thì không sẵn lòng thực hiện bổn phận nữa. Khi cuộc sống quá an nhàn, con người liền ham thích ăn uống, chơi bời, luôn chỉ nghĩ đến “Ăn gì nhỉ? Đi du lịch đâu nhỉ? Còn quốc gia nào mình chưa đi tới? Đời người chỉ có vài chục năm, nếu không đi tới các nước khác trên thế giới để có thêm kiến thức thì chẳng phải là sống vô ích ư?” Những người nghĩ như vậy thì tâm trí đã quá ngang ngược, không thể kiềm chế nữa. Khi đó còn có thể tĩnh tâm trước Đức Chúa Trời và ăn uống lời Ngài không? Có thể chuyên tâm lắng nghe bài giảng không? Chắc chắn sẽ rất khó. Cho nên, nếu để những người này tin vào Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật và thực hiện bổn phận, họ sẽ cảm thấy uất ức, ấm ức và luôn cho rằng mình sống vô ích. Những cám dỗ và trở ngại mà hoàn cảnh cực tốt mang lại cho con người có lớn không? Rất lớn. Con người đều ham mê tận hưởng sự an nhàn về xác thịt, nhưng đối với những người tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật, an nhàn không phải là chuyện tốt ở góc độ tiến bộ của sự sống. Phần lớn mọi người chỉ chịu đựng chút gian khổ là sẽ tiêu cực, yếu đuối, không có nghị lực, điều này chẳng phải do hoàn cảnh an nhàn tạo thành hay sao? Những đoạn phim về chứng ngôn trải nghiệm khi phải ngồi tù chịu tra tấn, bị kết tội và giam giữ của anh chị em ở Đại lục, các ngươi đã xem chưa? (Thưa, đã xem.) Vậy các ngươi có cảm nhận gì sau khi xem chúng? (Thưa Đức Chúa Trời, con xin nói ra chút cảm nhận của mình. Con đã trông thấy anh chị em Đại lục trải qua những tra tấn, bách hại đó. Trong hoàn cảnh gian khổ, họ vẫn có thể cầu nguyện, dựa vào Đức Chúa Trời và giữ vững đức tin vào Ngài, từng bước đứng vững để làm chứng dưới sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, không phản bội Ngài. Con cảm thấy họ có đức tin, có vóc giạc hơn chúng con, nếu bản thân con gặp phải hoàn cảnh như vậy, chưa chắc con có thể đứng vững được như họ. Con cảm thấy vóc giạc của mình rất nhỏ.) Trong hoàn cảnh bị con rồng lớn sắc đỏ bách hại tàn khốc, anh chị em ở Đại Lục vẫn có thể vững tin vào Đức Chúa Trời, kiên trì nhóm họp, thực hiện bổn phận. Đây chính là chứng ngôn, một chứng ngôn mạnh mẽ. Họ có thể đứng vững trong hoàn cảnh ác liệt như vậy thì đấy là chứng ngôn, vậy nếu các ngươi ở trong hoàn cảnh an nhàn này thì nên suy nghĩ để làm sao tạo ra một dạng chứng ngôn khác biệt. Trước tiên, cần quý trọng mọi thứ trong cuộc sống và những hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã ban cho; ngoài ra, trong hoàn cảnh thế này, phải suy nghĩ cách đứng vững để làm chứng, không làm nhục Đức Chúa Trời và trở thành người đắc thắng. Khi tin vào Đức Chúa Trời ở các quốc gia dân chủ bên ngoài, tuy không bị chính phủ của quốc gia đó trấn áp, tra tấn, bách hại, nhưng vẫn có sự bức bách từ gia đình và người thân, cho nên người ta vẫn cần phải trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, đạt được lẽ thật và đứng vững làm chứng. Cho dù tin vào Đức Chúa Trời ở hoàn cảnh nào, việc đạt được lẽ thật cũng đều không dễ dàng, đều phải chịu khổ và trả giá mới có thể hiểu lẽ thật, bước vào thực tế. Làm chứng cho Đức Chúa Trời thì buộc phải đạt tới việc hiểu lẽ thật trong trải nghiệm ở mọi khía cạnh, không phải chỉ mỗi rao truyền Phúc Âm và danh của Đức Chúa Trời, mà chủ yếu là những lời chứng từ trải nghiệm sự sống. Nếu như con người căn cứ vào lẽ thật mà sống, làm một người trung thực và vâng phục Đức Chúa Trời, thì trong bất cứ nhóm người nào, ở bất cứ chế độ xã hội của quốc gia nào, người đó cũng phải chịu một vài lần kỳ thị, bài xích hoặc chèn ép, bởi vì các quốc gia dân chủ cũng đâu phải là quốc gia vâng phục Đức Chúa Trời, cũng do các chính đảng vô thần nắm quyền, cũng loại trừ lẽ thật, loại trừ Đức Chúa Trời. Nếu tin vào Đức Chúa Trời ở một đất nước như vậy, cho dù không có chèn ép, khổ nạn, thì ngươi cũng sẽ gặp những hạn chế nhất định, hoặc chịu vài lần bị kỳ thị, phỉ báng, phán xét, kết tội trong việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Đấy đều là sự thật. Nếu ngươi không thể nhìn thấu những việc này, thì ngươi chưa phải người hiểu lẽ thật. Tiếp nhận và đi theo Đấng Christ ở bất cứ quốc gia nào, ít nhiều sẽ gặp phải chèn ép, khổ nạn, ngươi cần phải hành động một cách thận trọng, phải cầu nguyện, ngưỡng vọng Đức Chúa Trời và cần có sự thông minh, sáng suốt. Dù ở quốc gia hay hoàn cảnh xã hội nào, thì cũng có Đức Chúa Trời an bài, sắp đặt hoàn cảnh thích hợp cho con người, điều này là để xem con người có mưu cầu lẽ thật hay không. Hoàn cảnh an nhàn là cám dỗ đối với con người. Tra tấn, bách hại cũng là cám dỗ và có sự thử luyện. Vậy ở trong hoàn cảnh an nhàn có thử luyện nào không? Vẫn sẽ có sự thử luyện của Đức Chúa Trời. Ngài an bài cho ngươi ở hoàn cảnh an nhàn này là để xem ngươi trải nghiệm ra sao, ngươi có mắc kẹt trong chiếc lưới hay cám dỗ của Sa-tan không, hay sẽ chiến thắng nó để làm chứng cho Đức Chúa Trời và giữ vững lòng trung thành cùng bổn phận của mình trong mọi phương diện. Vậy phải xem ngươi trải nghiệm và lựa chọn ra sao. Hoàn cảnh mà anh chị em ở Đại lục trải nghiệm gian nan hơn, thì gánh trọng trách mà Đức Chúa Trời trao cho họ cũng nặng hơn. Hoàn cảnh mà họ được sắp đặt gian khổ hơn, thì những thứ mà Đức Chúa Trời ban cho họ cũng nhiều hơn. Hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt càng gian nan và thử luyện càng lớn thì con người càng đạt được nhiều. Nhưng trong hoàn cảnh an nhàn, con người cũng trải nghiệm cám dỗ và thử luyện ở khắp nơi, đồng thời thứ mà Đức Chúa Trời cho ngươi cũng không hề ít. Nếu như mỗi lần gặp cám dỗ mà ngươi đều có thể chiến thắng, thì thứ mà ngươi đạt được không hề ít hơn các anh chị em phải trải qua tra tấn và bách hại. Điều này cũng cần ngươi phải mưu cầu lẽ thật, phải có vóc giạc thì mới có thể giành chiến thắng. Chẳng hạn, những việc tụ họp, ăn uống, chơi bời hưởng thụ trong gia đình, hay một số trào lưu xã hội khiến xác thịt an nhàn, sa đọa… đều là những cám dỗ đối với ngươi. Khi những cám dỗ này đến với ngươi, một mặt ngươi có thể trông thấy chúng bằng mắt thường, mặt khác lòng ngươi sẽ bị chúng quấy nhiễu, lay động. Khi ngươi đi theo thế tục và trào lưu, thì cám dỗ của Sa-tan sẽ tới, hay có thể nói là sự thử luyện của Đức Chúa Trời sẽ tới. Ngươi phải lựa chọn cách đối xử với cám dỗ và sự thử luyện như thế nào, đây chính là lúc Đức Chúa Trời kiểm nghiệm và phơi bày con người. Đây là lúc những lời Đức Chúa Trời phán với ngươi và lẽ thật mà ngươi hiểu nên phát huy tác dụng. Nếu ngươi là ngươi mưu cầu lẽ thật, lòng ngươi có đức tin chân thực vào Đức Chúa Trời, thì ngươi có thể chiến thắng cám dỗ này, đứng vững trước thử luyện mà Đức Chúa Trời sắp đặt cho ngươi và làm chứng cho Ngài. Nếu ngươi không yêu lẽ thật mà yêu thế giới, trào lưu, thích tham hưởng an nhàn và thỏa mãn xác thịt, yêu cuộc sống rỗng tuếch, thì ngươi đã đi theo thế tục, lòng ngươi đã ngưỡng mộ những thứ này và bị chúng thu hút, chiếm hữu. Sau đó, lòng ngươi sẽ dần dần mất hứng thú với việc tin vào Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ chán ghét lẽ thật. Khi gặp cám dỗ, ngươi sẽ bị Sa-tan bắt giữ, và khi gặp thử luyện như thế này, ngươi sẽ mất đi chứng ngôn. Rất nhiều ngươi tuy đã nghe rất nhiều bài giảng và cũng đang thực hiện bổn phận, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy trống rỗng, vẫn thích theo đuổi thần tượng, trào lưu và người nổi tiếng, thích xem các chương trình văn nghệ trên ti-vi, rồi miệt mài xem phim đến mức trở thành cú đêm, thậm chí một số người trẻ còn chơi trò chơi điện tử. Tóm lại, những người này đều điên cuồng theo đuổi những thứ thuộc về trào lưu mà không tiếc bất cứ giá nào. Vì sao lại như vậy? Bởi vì họ chưa đạt được lẽ thật. Những người chưa đạt được lẽ thật sẽ có một loại cảm giác, cho rằng việc tin vào Đức Chúa Trời gần giống như không tin vậy, trong lòng họ vẫn cảm thấy trống rỗng và sống một cách vô nghĩa. Nếu như theo đuổi trào lưu mà cảm thấy cuộc sống đầy đủ hơn, phong phú hơn và cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ hơn mỗi ngày, nếu như tin vào Đức Chúa Trời và ngừng theo đuổi trào lưu mà vẫn cảm thấy cuộc sống vô nghĩa, trống rỗng, thì đó là bởi con người không yêu lẽ thật, và còn có thể khẳng định rằng, những người đó không hề hiểu chút nào về lẽ thật, không có thực tế lẽ thật, nên họ không thể sống nổi nếu không theo đuổi trào lưu. Một số người chưa hề mưu cầu lẽ thật, cho dù đã thực hiện bổn phận cũng không an tâm lắm, một khi gặp phải cám dỗ sẽ không thể đứng vững, sớm muộn cũng phải rút lui. Một số người khác lại rất nhiệt tình và cũng có quyết tâm khi mới thực hiện bổn phận, nhưng khi gặp phải cám dỗ thì không muốn thực hiện bổn phận nữa, làm việc qua loa chiếu lệ và không có sự tận tâm, như vậy là không có chứng ngôn. Nếu gặp phải cám dỗ mà có thể rũ bỏ bổn phận, chọn những thứ mình yêu thích, thì họ không chứng ngôn, nếu gặp thêm một cám dỗ nữa, thì có thể sẽ phủ nhận Đức Chúa Trời và muốn chạy theo trào lưu thế giới, rời khỏi hội thánh; nếu thêm một cám dỗ nữa, người đó sẽ bắt đầu nghi ngờ Đức Chúa Trời, không thể xác định được rốt cuộc trong lòng có Đức Chúa Trời hay không, và sẽ tin rằng mình được tiến hóa từ loài khỉ, vậy là đã bị Sa-tan bắt giữ hoàn toàn. Trong mỗi lần gặp cám dỗ, người đó không cầu nguyện với Đức Chúa Trời, không tìm kiếm lẽ thật, mà chỉ xem xét đến vận mệnh của xác thịt, kết quả là không thể đứng vững để làm chứng, từng bước bị Sa-tan kéo xuống địa ngục, xuống vực thẳm chết chóc, nghĩa là người đó đã bị Đức Chúa Trời đã giao cho Sa-tan, chẳng còn cơ hội được cứu rỗi nữa. Các ngươi nói xem, mưu cầu lẽ thật có quan trọng không? (Thưa, quan trọng.) Lẽ thật rất quan trọng. Lẽ thật có tác dụng gì? Chí ít là khi ngươi gặp cám dỗ, lẽ thật có thể nhìn thấu quỷ kế của Sa-tan, biết ngươi nên làm gì, không nên làm gì, ngươi nên lựa chọn điều gì, chí ít có thể khiến ngươi biết được những điều này. Điều quan trọng nhất chính là lẽ thật giúp ngươi khi gặp phải cám dỗ có thể đứng vững, một cách chắc chắn, không thể lay chuyển, cũng như giữ vững bổn phận mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi, trung thành với bổn phận của ngươi và có thể vứt bỏ Sa-tan, khi gặp thử luyện, có thể đứng vững làm chứng như Gióp, đây là điều tối thiểu mà con người cần đạt được.

Trích đoạn 87

Nếu ngay bây giờ mà các ngươi vẫn chưa tìm thấy cảm giác và các nguyên tắc để trở thành một thánh đồ, thì điều này chứng tỏ lối vào sự sống của các ngươi còn quá nông cạn và các ngươi chưa hiểu được lẽ thật. Trong cách cư xử và hành vi bình thường của các ngươi và trong môi trường các ngươi sống mỗi ngày, các ngươi phải nếm náp và suy ngẫm thấu đáo, thông công với nhau, động viên nhau, nhắc nhở nhau, giúp đỡ và quan tâm lẫn nhau cũng như hỗ trợ và cung cấp cho nhau. Phải có nguyên tắc để các anh chị em tương tác với nhau. Đừng luôn nhìn vào lỗi người, mà hãy thường xuyên kiểm điểm bản thân, sau đó chủ động thừa nhận với người khác những gì các ngươi đã làm mà gây trở ngại hoặc tổn hại cho họ, và học cách mở lòng và thông công. Như thế, các ngươi sẽ có thể hiểu biết lẫn nhau. Hơn nữa, bất kể điều gì xảy đến với ngươi, ngươi cũng nên nhìn nhận mọi sự dựa trên lời Đức Chúa Trời. Nếu người ta có thể hiểu được các nguyên tắc lẽ thật và tìm được con đường thực hành, họ sẽ trở nên đồng tâm đồng lòng, và mối quan hệ giữa các anh chị em sẽ bình thường, họ sẽ không hờ hững, lạnh lùng và tàn nhẫn như người ngoại đạo, và họ sẽ rũ bỏ tâm lý nghi kỵ và cảnh giác với nhau. Các anh chị em sẽ trở nên thân thiết với nhau hơn; họ sẽ có thể hỗ trợ lẫn nhau và yêu thương nhau; trong lòng họ sẽ có thiện chí, và họ sẽcó khả năng khoan dung và nhân từ với nhau, sẽ hỗ trợ và giúp đỡ nhau, thay vì xa lánh nhau, đố kỵ nhau, so đo lẫn nhau và âm thầm cạnh tranh và chống đối nhau. Làm sao mọi người có thể làm tròn bổn phận nếu họ giống như những người ngoại đạo chứ? Điều này không chỉ ảnh hưởng đến lối vào sự sống của họ mà còn gây tổn hại và ảnh hưởng đến người khác. Ví dụ như, ngươi sẽ tức giận khi mọi người nhìn nhận sai về ngươi hoặc khi họ nói điều gì đó trái ý muốn của ngươi, và khi có người làm điều gì đó ngăn cản ngươi được nổi bật, thì có lẽ ngươi bực tức họ, đồng thời cảm thấy khó chịu, không vui, và luôn nghĩ cách làm sao để lấy lại thể diện của mình. Phụ nữ và người trẻ đặc biệt không có khả năng vượt qua điều này. Họ ám ảnh với những tranh cãi và bất đồng nhỏ nhặt, có xu hướng hành động tùy ý, sống trong tình trạng tiêu cực. Họ không sẵn lòng cầu nguyện với Đức Chúa Trời hoặc ăn uống lời Ngài, và việc đó ảnh hưởng đến lối vào sự sống của họ. Khi con người sống theo những tâm tính bại hoại, họ rất khó bình an được trước Đức Chúa Trời, rất khó để họ thực hành được lẽ thật và sống theo lời Đức Chúa Trời. Để sống trước Đức Chúa Trời, trước hết ngươi phải học cách tự phản tỉnh và nhận biết chính mình, thực sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và sau đó ngươi phải học cách hòa thuận với các anh chị em. Ngươi phải khoan dung, độ lượng với nhau, phải có thể nhìn ra điểm mạnh và giá trị của nhau, và ngươi phải học cách chấp nhận ý kiến của người khác và những điều đúng đắn. Đừng nuông chiều bản thân, đừng có những tham vọng và dục vọng, và luôn nghĩ rằng mình giỏi hơn người khác, rồi tự cho mình là một vĩ nhân nào đó, buộc người khác phải làm theo lời ngươi, tuân lệnh ngươi, kính nể ngươi, tán dương ngươi – điều này chính là lệch lạc. Nếu tâm tính kiêu ngạo của người ta không được giải quyết, nó lại đi kèm với những tham vọng và dục vọng ngông cuồng, thì có thể dễ dàng dẫn đến sự lệch lạc. Do đó, những ai không thể tiếp nhận lẽ thật và không thể phản tỉnh, biết mình, thì đang gặp nguy hiểm rất lớn. Họ luôn nuôi tham vọng, luôn khao khát trở thành vĩ nhân, siêu nhân, đây là lầm lạc, đây là kiêu ngạo tột cùng. Họ đã mất hết lý trí, không còn là con người bình thường, họ là kẻ biến thái, là ma quỷ. Bị những tâm tính kiêu ngạo chi phối, trong lòng họ xem thường người khác, thấy người khác là tầm thường và vô tri. Họ không nhìn ra được những điểm mạnh của người khác mà chỉ toàn phóng đại bất tận những thiếu sót của người khác; họ khinh thị người khác trong lòng, lúc nào cũng trưng ra và chê bai những thiếu sót, làm người khác tổn thương và đau buồn, cuối cùng khiến người khác vâng phục họ, nghe lời họ, hoặc sợ họ và tránh mặt họ. Các ngươi muốn có mối quan hệ như thế giữa người với người sao? Các ngươi có chấp nhận nó nổi không? (Thưa, không). Ví dụ như, giả dụ ngươi cao hơn và có diện mạo đẹp hơn người khác một chút, khiến một số người ngưỡng mộ ngươi. Kết quả là ngươi cảm thấy hài lòng với bản thân và từ đó xem thường những ai thấp hơn và kém sắc hơn mình. Dạng tâm tính nào đang bộc lộ trong chuyện này vậy? Có người nhìn những người không đẹp bằng mình, thấp hơn mình, hơi ngu mội và kém nhanh nhạy, bằng ánh mắt khinh thị, thậm chí còn dùng lời mỉa mai để chế giễu họ. Đây mà là cách đối xử đúng đắn với người khác sao? Đây mà là biểu hiện của nhân tính bình thường sao? Chắc chắn là không. Vậy đâu là cách đối xử đúng đắn nhất trong những tình huống như vậy? (Thưa, không giễu cợt người khác vì thiếu sót của họ, phải tôn trọng người khác). Đó là nguyên tắc. Có vẻ các ngươi đã hiểu được phần nào rồi. Vậy Đức Chúa Trời đối xử với con người như thế nào? Đức Chúa Trời không quan tâm người ta trông như thế nào, họ cao hay thấp. Thay vào đó, Ngài xem xét lòng họ có tử tế hay không, họ có yêu mến lẽ thật hay không, họ có yêu mến và vâng lời Đức Chúa Trời hay không. Đây là điều mà Đức Chúa Trời dùng làm căn cứ cho cách đối xử của Ngài đối với con người. Nếu con người cũng có thể làm được điều này, họ sẽ có thể đối xử công bằng với người khác, và do đó sẽ phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật. Trước hết, ngươi phải hiểu ý muốn của Đức Chúa Trờivà biết cách Đức Chúa Trời đối xử với con người, rồi cũng phải có một nguyên tắc và con đường để cư xử với con người. Thường thì người ta ai cũng có chút tham hư vinh. Khi được khen ngợi đôi ba câu, họ cảm thấy khá hài lòng với bản thân, miệng hát ngân nga, ngẩng cao đầu mà bước đi. Đây là biểu lộ của tâm tính Sa-tan. Nếu họ còn thêm phán xét và xem thường người khác nữa, thì đây là dạng tâm tính gì? Là tâm tính tà ác, kiêu ngạo và ác độc. Nếu người ta không nhận ra và thấy được sự xấu xí khi sống theo những tâm tính bại hoại của mình, thì họ khó lòng rũ bỏ những tâm tính bại hoại này, và họ không thể sống thể hiện ra hình tượng giống con người thật sự.

Trích đoạn 89

Trong quá trình Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, bất kể họ phản nghịch đến mức nào, hay tâm tính họ bại hoại sâu sắc đến đâu, Ngài vẫn cho họ giới hạn tối thiểu nào? Tức là, trong những hoàn cảnh nào thì Đức Chúa Trời ruồng bỏ con người và đào thải họ? Tiêu chuẩn thấp nhất mà ngươi phải đạt được để Đức Chúa Trời giữ ngươi lại và không đào thải ngươi là gì? Đây là điều mà hết thảy dân sự được Đức Chúa Trời chọn đều phải hiểu rõ. Thứ nhất, không chối bỏ Đức Chúa Trời – đây là điều kiện cơ bản nhất. Trong việc không chối bỏ Đức Chúa Trời có nội dung thực tế. Đó là không phải chỉ thừa nhận rằng có một Ông Trời, rằng Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt, hay danh Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Như thế là chưa đủ, như thế chưa đáp ứng được tiêu chuẩn trong việc tin Đức Chúa Trời. Chí ít, ngươi phải nhận thức được rằng Đức Chúa Trời nhập thể là Đức Chúa Trời thực tế; ngươi không được nghi ngờ hay phán xét; ngươi phải có thể quy phục ngay cả khi có những quan niệm – đây là tiêu chuẩn trong việc tin Đức Chúa Trời. Chỉ khi ngươi đạt tiêu chuẩn này, Đức Chúa Trời mới công nhận ngươi là người tin Ngài. Đức Chúa Trời có ít nhất ba giới hạn tối thiểu cho con người. Thứ nhất, họ phải công nhận Ngài, tin Ngài, và đi theo Ngài. Họ phải là những người thật tâm tin Đức Chúa Trời, thực hiện bổn phận với hết khả năng của mình, không được hành ác hay gây nhiễu loạn. Đây là giới hạn tối thiểu đầu tiên. Thứ hai, trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời, chí ít, họ không được bỏ bổn phận của mình. Họ phải vâng lời và quy phục khi thực hiện bổn phận, đạt được kết quả ở mức trung bình, và chí ít là dâng sự phục vụ theo tiêu chuẩn có thể chấp nhận được. Đây là giới hạn tối thiểu thứ hai. Thứ ba, nhân tính của họ phải đạt tiêu chuẩn. Họ phải được coi là người tốt, hoặc chí ít là người có lương tâm và lý trí. Về cơ bản, họ phải có thể hòa hợp với hầu hết những dân sự được Đức Chúa Trời chọn, và không trở thành một con sâu trong nồi canh. Những người như thế này chí ít không phải là người xấu hay kẻ ác. Đây là giới hạn tối thiểu thứ ba. Nếu người ta không thể tiếp nhận lẽ thật và dù có thế nào cũng không chịu thực hiện bổn phận, thì họ không phải là người thật tâm tin Đức Chúa Trời – chí ít, nhân tính của họ không đạt tiêu chuẩn. Điều này có nghĩa là họ đã ở dưới mức giới hạn tối thiểu và phải bị đào thải. Tất cả những người có nhân tính xấu, những người không thể tiếp nhận chút lẽ thật nào, những người gây nhiễu loạn và gián đoạn, không đóng vai trò tích cực trong hội thánh, đều có thể bị xếp vào loại kẻ ác. Người không thể hòa hợp với hầu hết mọi người thì là con sâu làm rầu nồi canh, một kẻ ác, và hơn thế nữa, họ là kẻ ở dưới mức giới hạn tối thiểu và cần phải bị đào thải. Những kẻ ác và những kẻ địch lại Đấng Christ có thực hiện bổn phận thì cũng chỉ gây ra sự gián đoạn, nhiễu loạn, phá hoại, và hành ác – Đức Chúa Trời có thể nào muốn những người như thế này không? Họ có đang thực hiện bổn phận không? (Thưa, không). Trong mắt Đức Chúa Trời, những hành động của họ đã vượt qua giới hạn tối thiểu. Họ không có khả năng thực hiện bổn phận, và khi họ làm bổn phận thì lợi bất cập hại, vì vậy họ phải bị thanh lọc hội thánh. Đây chẳng phải là nguyên tắc dùng để đối đãi với mọi người trong nhà Đức Chúa Trời sao? Có ai từng bị thanh trừ vì họ nhất thời ở trong tình trạng xấu, cảm thấy tiêu cực và yếu đuối không? Có ai từng bị buộc phải ngừng thực hiện bổn phận chỉ vì thỉnh thoảng hơi bất cẩn và không làm tròn bổn phận không? Có ai từng bị thanh trừ vì đạt kết quả kém trong bổn phận, hoặc vì họ đã bộc lộ một số suy nghĩ hay ý tưởng xấu không? Có ai từng bị thanh trừ vì họ có vóc giạc nhỏ bé, vì họ nảy sinh những quan niệm cũng như sự hoài nghi về Đức Chúa Trời không? (Thưa, không). Vậy thì nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời trong việc thanh trừ con người là gì? Những người nào bị thanh trừ và bị đình chỉ thực hiện bổn phận? (Thưa, những người mà sự phục vụ của họ lợi bất cập hại, thường xuyên gây gián đoạn, nhiễu loạn). Loại người này không xứng đáng để thực hiện bổn phận. Điều này không có nghĩa là ai đó có thiên kiến với họ hoặc kìm kẹp và thanh trừ họ vì thù oán cá nhân, mà có nghĩa là họ không đạt được bất kỳ kết quả nào trong bổn phận của mình, và họ gây ra sự gián đoạn, nhiễu loạn. Họ bị thanh trừ vì thực sự không xứng đáng để thực hiện bổn phận. Điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật. Các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời dùng để xử lý và đối đãi với mọi người đều công bằng. Nhà Đức Chúa Trời không cố bắt lỗi người ta, không làm cho chuyện bé xé ra to hoặc làm ầm chuyện chẳng đáng. Các ngươi phải tin rằng nhà Đức Chúa Trời được cai trị bởi lẽ thật. Tất nhiên, một số người đã bị thanh trừ vẫn có thể có hy vọng được cứu rỗi nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật và chân thành ăn năn với Đức Chúa Trời. Nhưng những kẻ chẳng tin và những kẻ ác không thể tiếp nhận nhận dù chỉ một chút lẽ thật, những kẻ không có lương tâm và lý trí, thì sẽ bị đào thải vĩnh viễn sau khi bị vạch trần. Đây là sự công chính của Đức Chúa Trời.

Trích đoạn 90

Tại sao Đức Chúa Trời yêu cầu người ta phải nhận thức Ngài? Tại sao Đức Chúa Trời yêu cầu người ta phải biết mình? Mục đích của việc biếtmình là gì? Đâu là kết quả mong muốn? Và đâu là mục tiêu của việc nhận thức Đức Chúa Trời? Sẽ đạt được hiệu quả gì nơi con người qua việc họ nhận thức Đức Chúa Trời? Ngươi có từng cân nhắc những câu hỏi này chưa? Đức Chúa Trời dùng nhiều phương thức để giúp con người biết mình. Ngài đã chuẩn bị đủ loại hoàn cảnh để phơi bày sự bại hoại của con người, và giúp họ nhận biết bản thân mình một cách tiệm tiến thông qua trải nghiệm. Cho dù đó là sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời hoặc sự phán xét và hình phạt của Ngài, ngươi có hiểu được mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời trong công tác này là gì không? Khi Đức Chúa Trời công tác theo cách này, mục đích tối hậu là để cho phép mỗi người đã trải qua công tác của Ngài mà biết con người là gì. Và “biết con người là gì” liên quan đến những điều gì? Liên quan đến việc làm cho con người nhận thức thân phận, vị trí, bổn phận và trách nhiệm của mình. Nghĩa là cho ngươi biết ý nghĩa của việc làm một con người, cho ngươi hiểu ngươi là ai. Đây là mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời trong việc giúp cho con người biết mình. Vậy, tại sao Đức Chúa Trời làm cho con người nhận thức Ngài? Đây là sự ân đãi đặc biệt Ngài ban cho loài người, bởi vì khi nhận biết Ngài, con người có thể hiểu nhiều lẽ thật và nhìn thấu được những lẽ mầu nhiệm. Người ta đạt được rất nhiều thông qua việc nhận thức Đức Chúa Trời. Khi con người nhận thức Đức Chúa Trời, họ học được cách sống sao cho ý nghĩa nhất, do vậy, làm cho con người mưu cầu sự hiểu biết về Đức Chúa Trời chính là tình yêu vĩ đại nhất, sự chúc phúc to lớn nhất từ Đức Chúa Trời. Và Đức Chúa Trời dùng nhiều phương thức để người ta nhận biết Ngài, chính yếu nhất là sự phán xét và trừng phạt, hướng dẫn và cung cấp lời của Đức Chúa Trời. Đương nhiên, Ngài cũng cho con người biết được tâm tính của Ngài thông qua sự phán xét và trừng phạt – đây là đường tắt để nhận biết Đức Chúa Trời. Mục đích cuối cùng của việc làm cho người ta thấy và nhận thức tâm tính của Đức Chúa Trời là gì? Là để làm cho con người biết Đức Chúa Trời là ai, thực chất của Ngài là gì, thân phận và địa vị của Ngài, Ngài có gì và là gì, và tâm tính của Ngài là gì. Là để làm cho mỗi con người thấy rõ rằng họ là loài thọ tạo, và chỉ có một mình Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá, và loài thọ tạo phải vâng phục Đấng Tạo Hoá như thế nào. Bằng việc hiểu biết tất cả những điều trên, con đường nhân sinh của con người trở nên hoàn toàn sáng tỏ. Khi con người thực sự biết mình, chẳng phải họ có thể dần dần từ bỏ các dục vọng ngông cuồng và những ý đồ bất chính sao? (Thưa, phải.) Để rồi họ có thể đạt được tới mức độ có thể hoàn toàn từ bỏ chúng? Điều này còn tuỳ thuộc vào mỗi cá nhân. Người ta chỉ có thể từ bỏ dục vọng ngông cuồng của bản thân và những đòi hỏi khác nhau đối với Đức Chúa Trời khi họ thông qua công tác của Ngài mà đạt được nhận thức về Đức Chúa Trời và có được nhận thức và định nghĩa đúng đắn về thực chất, thân phận, và địa vị của Ngài. Chỉ có loại người này mới có thể, giống như Phi-e-rơ, bày tỏ tiếng lòng và mong muốn chân thành được yêu Đức Chúa Trời từ tận đáy tim mình, và đưa tình yêu đó ra thực hành. Do đó, việc nhận thức Đức Chúa Trời và biết mình không thể tách rời được. Ngươi nói ngươi muốn yêu kính Đức Chúa Trời, nhưng ngươi không nhận thức được Ngài thì làm sao yêu kính Ngài? Những phần nào của Ngài là đáng mến? Những phương diện nào của Ngài là đáng mến nhất? Nếu ngươi không nhận thức những điều này, ngươi không thể yêu kính Ngài. Ngươi có muốn cũng không thể yêu kính Ngài, thậm chí ngươi có thể dù không muốn mà vẫn cứ nảy sinh quan niệm về Ngài, phản nghịch với Ngài và từ đó dẫn đến sự tiêu cực. Loại người này có được Đức Chúa Trời chấp thuận hay không? Họ sẽ không được Ngài chấp thuận. Khi người ta không nhận thức Đức Chúa Trời mà vẫn nói họ yêu kính Ngài, thì cái gọi là “yêu kính” này chỉ là một lý thuyết sáo rỗng phát xuất từ logic và lập luận của con người. Nó không phát xuất từ sự nhận thức Đức Chúa Trời, và đối với Ngài, nó không có căn cứ gì cả. Những gì ta nói về hai vấn đề này, các ngươi đã thấy rõ hay chưa? (Thưa, có.) Vậy tại sao mới đây, các ngươi đã không thể nói ra như vậy? Chứng tỏ rằng sự biết mình của các ngươi trong trải nghiệm thực tế vẫn còn hồ đồ, và các ngươi không có nhận thức thật sự về Đức Chúa Trời. Các ngươi có biết vấn đề ở đây là gì không? (Thưa, chúng con vẫn chưa tìm ra được con đường thực hành đúng đắn. Chúng con không thể đồng thời bước vào hai phương diện là nhận thức Đức Chúa Trời và biết mình. Chúng con chỉ chú trọng bước vào một phương diện đơn độc, do đó hạn chế sự phát triển sự sống của chúng con.) Tình trạng hiện tại của các ngươi là thế, vậy vóc giạc của các ngươi thì sao? Có phải còn non nớt không? Có phải các ngươi không còn xa với yêu cầu và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời trong việc biết mình? Ít nhất, ngươi vẫn không thể từ bỏ dục vọng và ý định cá nhân của mình. Sự vâng phục của ngươi đối với Đức Chúa Trời có tuân theo lẽ thật không? Ngươi có thể nhận thức được liệu Đức Chúa Trời có vị trí nào trong lòng người hay không? Vẫn có rất nhiều người hoài nghi sự nhập thể của Đức Chúa Trời là con người hay là Đức Chúa Trời; họ lưỡng lự giữa hai phe, lúc này họ tin vào Đức Chúa Trời ở trên đất, lúc khác họ tin vào Đức Chúa Trời mơ hồ ở trên trời. Lại còn có người thậm chí hoài nghi thực chất của Đức Chúa Trời, họ nói, “Làm sao Đức Chúa Trời nhập thể và Đức Chúa Trời ngự trên trời cùng là một Đức Chúa Trời được? Nếu Ngài thực sự là Đức Chúa Trời, tại sao Ngài không làm lạ hay dấu kỳ nào?” Điều này chứng tỏ các ngươi cực kỳ kém thông linh. Với vóc giạc như thế này, dù Đức Chúa Trời có nói nhiều với các ngươi đi chăng nữa, các ngươi cũng vẫn không hiểu. Giờ các ngươi chỉ công nhận rằng Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt, các ngươi chỉ công nhận lẽ thật do Đức Chúa Trời nhập thể bày tỏ; nhưng về thực chất, thân phận và địa vị của Đức Chúa Trời thì các ngươi không nhận thức được nhiều. Có thể nói rằng, trong lòng ngươi, nhận thức này bằng không, đúng không? (Thưa, đúng.) Điều này có thể được chứng minh bằng sự thật rằng: Trước khi ta thông công về các phương diện của lẽ thật như thực chất hoặc ý muốn của Đức Chúa Trời, ngươi nghĩ nhận thức của ngươi về Đức Chúa Trời đã thâm sâu rồi, và ngươi nghĩ rằng niềm tin của ngươi nơi Đức Chúa Trời đã vững vàng và kiên định rồi. Nhưng khi ta thông công với các ngươi về những lẽ thật như là chính Đức Chúa Trời, tâm tính và thực chất của Ngài, những lời và nội dung này khơi gợi một phản ứng mạnh mẽ từ trong lòng các ngươi. Phản ứng này thật mãnh liệt, và thật khó khăn để ngươi tiếp nhận, tạo ra một sự xung đột với Đức Chúa Trời ngươi đã tưởng tượng trong lòng. Đây không phải là sự thật sao? (Thưa phải.) Vậy, khi Ta nói những điều các ngươi chưa từng nghe trước đây, trước tiên các ngươi sẽ thấy không thể tiếp nhận, như thể các ngươi nghe mà không hiểu Ta đang nói gì. Điều này chứng tỏ vóc giạc của các ngươi quá nhỏ bé, đến mức các ngươi nghe mà không hiểu được lời của Đức Chúa Trời, không đủ tiêu chuẩn để hiểu. Các ngươi sẽ cần vài năm trải nghiệm thì mới có thể hiểu được.

Trích đoạn 91

Đánh giá của Đức Chúa Trời về Gióp đã được ghi chép trong Kinh Thánh Cựu Ước rằng: “Thế gian chẳng có người nào giống như nó, vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác” (Gióp 1:8). Ở thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời không chỉ làm chứng rằng Phi-e-rơ là người thực sự yêu kính Đức Chúa Trời, mà còn làm chứng cả việc Gióp là người có đức tin thực sự vào Đức Chúa Trời và yêu cầu những người được Ngài chọn chí ít cần có đức tin như Gióp mới có thể đi theo Ngài tới cuối con đường. Vậy trong tưởng tượng của các ngươi, trong phạm vi từ ngữ có hạn mà các ngươi có thể hiểu được, Gióp là kiểu người nào? Có phải là người tốt không? (Thưa, phải.) Việc Gióp là người tốt chủ yếu được thể hiện ở đâu? Trước hết, Gióp là người kính sợ Đức Chúa Trời và chưa từng làm điều ác, đây là biểu hiện và dấu hiệu chính yếu nhất của người tốt. Ngoài ra, Gióp cũng có nguyên tắc trong việc làm người, ông cũng có nguyên tắc trong việc đối xử với con cái, với người nhà, ông không bao che khuyết điểm của con cái, mà còn cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, đem con cái phó thác cho Ngài, để người khác trông thấy thái độ của ông đối với con cái là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Làm con của một người cha như vậy, các ngươi cảm thấy thế nào? Như vậy có phải là hạnh phúc không? Nhưng vài người bạn kia của Gióp là người như thế nào? Khi Gióp gặp phải sự thử luyện và hoạn nạn, bạn bè ông đã đối xử với ông như thế nào? Không ai thấu hiểu cho ông, và còn phán xét ông rằng, “Ông đã đắc tội với Đức Chúa Trời, ông đã bị Đức Chúa Trời nguyền rủa, ông xem ông tin Đức Chúa Trời đến mức lâm vào cảnh này có khốn khổ không!” Thậm chí vợ của Gióp còn nói rằng, “Ông hãy còn bền đỗ trong sự hoàn toàn mình sao? Hãy phỉ báng Ðức Chúa Trời, và chết đi!” (Gióp 2:9). Trong tình huống đau đớn cực độ này, việc bị bạn bè và vợ đối xử như vậy khiến Gióp phải chịu đựng sự tổn thương và đau đớn vô cùng. Nhưng sự thực là, không có mấy người hiểu được Gióp. Giờ đây xem câu chuyện của Gióp, chúng ta cảm thấy chính ra người như Gióp mới đáng tin cậy và đáng tín nhiệm nhất và chính ra người như vậy mới là người tốt thực sự. Người đó sẽ không bao giờ lừa dối hay làm hại ngươi và luôn tuân thủ nguyên tắc khi đối xử với ngươi. Nếu ngươi là người đúng đắn, người đó sẽ không lên án và nói xấu ngươi vì ngươi đã làm một điều xấu hoặc vì người khác nói xấu ngươi, người đó sẽ không quay lưng lại với sự thật và nói lời vu khống người khác, không nói chuyện dựa trên cảm tình hay sở thích. Thời gian trôi qua, ngươi sẽ thấy được rằng, “Đây mới là người tốt, chúng ta đối mặt với chút khó khăn liền đặt bổn phận sang một bên, còn người ta dù gặp phải thử luyện và hoạn nạn to lớn đến mấy thì cũng không từ bỏ danh Đức Chúa Trời, chẳng trách Đức Chúa Trời lại thích người như vậy. Nếu ta có một người như vậy ở bên cạnh, thì dù ta có mắc phải bệnh tật hay gặp phải hoạn nạn, họ vẫn sẽ luôn giúp đỡ, phù trợ, yêu quý, bao dung ta như trước, người như vậy thật tốt biết bao. Ngay cả khi có lúc bản thân ta không ưa họ hay không thể hòa thuận với họ, thì ta vẫn muốn ở bên cạnh họ hơn là ở cạnh một tên ma quỷ Sa-tan!” Ma quỷ Sa-tan thường hay nói ngoài mặt rằng “Bạn thật tốt, tôi yêu bạn lắm, tôi quan tâm tới bạn lắm”, nhưng chỉ cần ngươi gặp phải khó khăn, kẻ đó sẽ phớt lờ ngươi, khi đó ngươi sẽ biết được thế nào là người tốt và đáng tin cậy. Người đáng tin cậy, người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác mới là người tốt thực sự, người tốt đáng quý biết bao, nếu xung quanh có một tá người như Gióp thì tốt biết mấy, nhưng giờ đây lại chẳng có nổi một người! Khi đó, ngươi sẽ cảm thấy người tốt thật hiếm thấy, ai cũng cần người tốt như vậy, ai cũng thích người chính nghĩa, người lương thiện, thích người có trái tim nhân hậu, hành động theo nguyên tắc, chuộng chính nghĩa, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác và người đáng để tín nhiệm.

Khi ngươi đối mặt với hoạn nạn, ốm đau, cũng chính là lúc tinh thần ngươi đau khổ nhất, ngươi sẽ cần kiểu người như thế nào ở bên cạnh mình? Cần người chuyên nói lời đường mật giả dối? Hay cần người phán xét, lên án, chỉ trích ngươi? (Thưa, không cần.) Vậy ngươi cần kiểu người như thế nào nhất? Đó chính là người có thể thông cảm cho khó khăn của ngươi, có thể an ủi ngươi, lắng nghe ngươi bày tỏ nỗi khổ tâm, sau đó giúp đỡ ngươi gượng dậy từ tiêu cực, yếu đuối và đau khổ. Người đó có thể giúp đỡ ngươi, không xem ngươi là trò cười, không thêm dầu vào lửa, không bỏ mặc khi ngươi gặp khó khăn. Cũng có nghĩa là, ngươi cần được người đó an ủi, ngươi có thể nói với người đó về nỗi khó khăn, sự yếu đuối và chuyện thầm kín của mình. Người đó sẽ không tung tin sau lưng, chê cười ngươi, nhạo báng ngươi, không phá hỏng việc của ngươi, người đó có thể đối xử đúng đắn nỗi khó khăn, sự yếu đuối, sự tiêu cực của ngươi và cả điểm yếu trong nhân tính của ngươi nữa. Đối xử đúng đắn chẳng phải là nguyên tắc sao? Đây chẳng phải là biểu hiện làm người tốt ư? Người như vậy có thể thấu hiểu, bao dung, yêu quý ngươi, còn có thể phù trợ, cung cấp, giúp đỡ ngươi thoát khỏi đau khổ, yếu đuối, giúp đỡ ngươi rất nhiều. Người như vậy quý giá biết bao, thế mới là người tốt! Nếu có người thấy ngươi khó khăn mà phớt lờ ngươi, rồi còn nhạo báng, chế giễu ngươi, lòng ngươi có điều muốn nói với người đó nhưng lại cân nhắc, “Không được nói, nói rồi sẽ để lại hậu họa, biết đâu người này sẽ kể chuyện của mình cho ai đó sau lưng mình, sau đó ai nấy đều cười nhạo mình, biết đâu người này sẽ bịa đặt, gièm pha chuyện gì đó về mình thì sao.” Ngươi có dám nói cho người như vậy không? Lòng ngươi không dám chắc, nói không chừng kẻ này có thể gây ra chuyện gì đó. Kẻ này không những không thể giúp đỡ, phù trợ ngươi, mà còn có thể làm hỏng chuyện của ngươi, có thể lừa dối, hãm hại ngươi, thì ngươi có dám nói lời trong lòng mình với họ không? Tới khi đó, ngươi sẽ biết, người tốt quan trọng biết bao, có giá trị biết bao, quý báu biết bao, bất kể làm người thế nào cũng không có giá trị bằng việc làm người tốt. Ngay cả cha mẹ ngươi, khi ngươi đau khổ và khó chịu, thì cũng chưa chắc họ đã thực sự hiểu nỗi khó khăn và nhu cầu của ngươi, họ sẽ không thể an ủi ngươi. Nhiều người con bươn chải, làm thuê ở bên ngoài, nhất là có người nữ còn phải làm thân với người chủ, thậm chí buôn bán xác thịt để kiếm chút tiền, trong khi cha mẹ không bao giờ hỏi họ bươn chải ở ngoài khó khăn thế nào, kiếm được ngần ấy tiền gian nan đến mức nào, nếu mang về ít tiền, họ còn không vừa ý, còn so sánh với người khác, khi đó trong lòng con cái họ sẽ có cảm giác gì? (Thưa, là chua xót, nguội lạnh.) Lòng họ nguội lạnh, cảm thấy thế giới này quá đen tối, đến cha mẹ mình còn như vậy thì người ta có còn đường sống không? Cho nên, phải làm người tốt, ai cũng cần người tốt. Vậy người tốt từ đâu mà có? Có thể từ trên trời rơi xuống không? Hay có thể mọc thẳng từ dưới đất lên không? Có phải là loài động vật nào đó tiến hóa mà ra không? Có phải do trường học cao cấp nào đó bồi dưỡng mà thành không? Có phải do tu luyện, tu đạo mà nên không? Tất cả đều không phải, tuyệt đối không có khả năng như vậy. Chỉ khi đi theo Đức Chúa Trời, được thực hành lẽ thật và tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, người ta mới có thể biến thành một người tốt. Người tốt được tạo ra nhờ trải qua việc tin vào Đức Chúa Trời và được Ngài cứu rỗi, nhờ mưu cầu lẽ thật, đạt được công tác của Đức Thánh Linh và được hoàn thiện mà ra, chứ không phải được biến ra nhanh chóng từ loài người bại hoại. Ai cũng cần có người tốt bên cạnh để làm bạn, làm tri kỷ, ngươi nói xem Đức Chúa Trời liệu có cần không? (Thưa, có.) Đức Chúa Trời cũng cần người tốt, con người cũng cần người tốt. Hiểu được việc này sẽ có tác dụng gì với ngươi? Ngươi phải có được quyết tâm này, có khát vọng để cố gắng làm một người tốt, ngươi nói rằng: “Làm người tốt khó khăn, tốn sức, nhưng mình phải có quyết tâm để phấn đấu làm người tốt. Người ta rất cần người tốt, mình cũng cần người tốt, vậy thì bản thân mình trước hết cần làm một người tốt để giúp đỡ, phù trợ người khác, nỗ lực giúp Đức Chúa Trời có thêm nhiều người tốt”, như vậy là đúng, nếu người ta đều mưu cầu làm người tốt, thì loài người mới có hy vọng. Nếu như ngươi nói, “Loài người bại hoại, gian ác như vậy, chỉ vài người tin vào Đức Chúa Trời làm người tốt thì chẳng có tác dụng, vẫn phải chịu ức hiếp, vì kẻ ác quá nhiều”, nói vậy là ngu muội. Ngươi tin vào Đức Chúa Trời là để đạt được sự cứu rỗi, người đã trở thành người tốt, người chính nghĩa rồi thì Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho ngươi, loài người có gian ác, bại hoại đến mấy cũng sẽ có cách để xử lý, không cần con người bận tâm. Ngươi chỉ cần lo việc mưu cầu lẽ thật, đạt tới sự cứu rỗi từ Đức Chúa Trời, vậy là phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời rồi. Nô-ê đóng tàu lớn nhưng cuối cùng chỉ có tám người được cứu, những người không tin vào lời Đức Chúa Trời, không đi vào chính đạo cuối cùng đều bị Đức Chúa Trời hủy diệt bằng trận đại hồng thủy, sự thực này đã được công nhận. Vì sao ngươi không thể biết đến sự toàn năng của Đức Chúa Trời? Vì sao ngươi không thể biết rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công chính? Khi công tác của Đức Chúa Trời đã xong, bất kể có bao nhiêu người đạt được cứu rỗi, thì thời đại này cũng phải kết thúc, đại họa sẽ phải giáng xuống, Đức Chúa Trời cần giải quyết tất cả những vấn đề này. Ngươi mưu cầu lẽ thật để trở thành người chính nghĩa là vì bản thân ngươi, vì có lợi cho bản thân ngươi và cũng là có lợi cho con người. Có người nói rằng: “Người tốt sẽ không gặp điều lành”, câu nói này không đúng. Ngươi xem những người mưu cầu lẽ thật cuối cùng đều có chỗ trong thiên quốc. Những người xấu kia dù khi tại thế có thuận lợi thế nào, thì cuối cùng cũng bị hủy diệt, xuống địa ngục, đây chẳng phải là thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo sao? Lời trong Kinh Thánh đã từng nói thế nào? “Nầy, ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” (Khải Huyền 22:12).

Những việc Gióp làm được ghi chép trong “Sách Gióp” thực ra chiếm rất ít câu chữ, rất đơn giản, không có mấy sự việc. Nhưng từ vài việc này, người ta chắc hẳn có thể tìm thấy một vài đầu mối, tìm được nguyên tắc và con đường thực hành làm một người tốt của Gióp. Trước tiên, nguyên tắc của ông khi đối xử với con cái và người thân cận nhất là gì? Không phụ thuộc vào cảm tình, tuân thủ nguyên tắc, không vì những chuyện này mà đắc tội với Đức Chúa Trời. Đây là tiêu chuẩn đầu tiên của ông về việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, bắt đầu từ việc đối xử với người trong gia đình mình. Thứ hai, khi xử lý tài sản, Gióp biết rằng những tài sản này tuy là vật ngoài thân, nhưng lại đến từ Đức Chúa Trời, nhờ Ngài ban phước, ban tặng cho. Người ta cần chú tâm quản lý, chăm sóc cho tốt. Chăm sóc tốt không có nghĩa là chiếm giữ, hưởng thụ một cách tham lam, càng không phải sống vì những thứ này, mà là cảm tạ Đức Chúa Trời, từ đó thấy được sự sắp đặt từ bàn tay Đức Chúa Trời, thấy được quyền tối thượng của Ngài, từ đó biết Ngài. Người ta đã biết Đức Chúa Trời và đã có thể quy phục trước quyền tối thượng của Ngài thì đây mới là một tiêu chuẩn quan trọng nhất của người tốt. Nếu như ngươi đối đãi với ai cũng có thể tuân thủ nguyên tắc, nhưng lại không thể vâng phục Đức Chúa Trời, thì có phải là người tốt thật không? Hoàn toàn không phải. Hơn thế nữa, trên phương diện đối đãi với quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, Gióp có thể vâng phục mọi quyền tối thượng và sự an bài từ Ngài. Sự an bài của Đức Chúa Trời bao gồm việc tước đoạt và thử luyện của Ngài, đôi khi là tước đoạt, đôi khi là thử luyện. Thử luyện gồm những việc gì? Đó là đôi khi ban cho ngươi ốm đau, hoặc gia đình có chút hoàn cảnh, hoặc cho ngươi gặp phải một vài khó khăn, bị tỉa sửa và xử lý, bị Ngài sửa phạt và sửa dạy, phán xét và trừng phạt trong khi thực hiện bổn phận. Tất cả đều là sự an bài của Đức Chúa Trời, ngươi nên đối đãi với chúng như thế nào? Nếu ngươi không thể vâng phục, mà luôn muốn tránh thoát, thì không phải là trải nghiệm công việc của Đức Chúa Trời nữa. Ngoài ra, ngươi ta phải trung thành đối đãi với bổn phận, phải trung thành hết mức có thể. Trung thành ở đây nghĩa là gì? Dâng hiến hết thảy khả năng của mình và mọi thứ mình sở hữu mới là trung thành! Đây mới chính là tiêu chuẩn của người tốt. Nếu hiện giờ trong số các ngươi có một người như Gióp, không cần nhiều, chỉ cần một người thôi, thì trong số các ngươi đã có trụ cột rồi, gặp phải chuyện gì thì người đó sẽ ở bên cạnh để làm gương cho các ngươi mọi lúc, các ngươi thấy người đó làm thế nào thì các ngươi làm theo thế ấy, dần dần các ngươi sẽ thay đổi, sẽ ngày một tốt lên từ suy nghĩ tới hành vi, từ việc mưu cầu lẽ thật tới việc thực hành lẽ thật. Trạng thái này sẽ tăng theo chiều thẳng, theo hướng tích cực, thế là có thể bước trên con đường đúng đắn của đức tin nơi Đức Chúa Trời rồi. Sau khi trải nghiệm công việc của Đức Chúa Trời bao nhiêu năm như vậy, các ngươi cũng sẽ đạt tới sự kính sợ Đức Chúa Trời, lánh khỏi điều ác giống như Gióp, và trở thành người hoàn thiện.

Trích đoạn 92

Các ngươi sinh ra trong thời kỳ cuối cùng này. Cuộc sống gia đình của đa số đều giàu có hơn trước, vật chất trong mọi khía cạnh của cuộc sống đều khá dồi dào. Các ngươi cảm thấy như thế nào? Chỉ là một chút hạnh phúc về thể xác, nhưng điều này có gì khác với hạnh phúc trong tâm hồn? Các ngươi đều có một số trải nghiệm và có thể nhìn thấu một số chuyện. Việc mưu cầu đức tin vào Đức Chúa Trời của các ngươi trở nên thực tế hơn trước. Các ngươi đều có thể cảm nhận được rằng mưu cầu hưởng thụ xác thịt là hư vô, và các ngươi đều sẵn lòng nỗ lực hướng về lẽ thật. Có phải các ngươi đều đã có trải nghiệm như thế không? Sự hưởng thụ xác thịt trong đủ loại vật chất có thể mang lại sự an ủi tinh thần cho con người không? Cảm giác vượt trội trong cuộc sống, cuộc sống vật chất dồi dào có thể mang lại điều gì cho con người? Chúng chỉ khiến con người sa đọa, khiến họ lạc lối. Như vậy, con người sẽ dễ dàng đánh mất lý trí, trở nên không biết đúng sai, bất chấp lý lẽ, dần đánh mất nhân tính. Con người sẽ càng ngày càng tham hưởng sự thoải mái, càng ngày càng không biết trời cao đất dày. Thậm chí một số người sẽ mất khả năng tự lo liệu cho cuộc sống của mình, hoàn toàn không thể sống độc lập, không thể tự lực cánh sinh, đều trở thành kẻ phụ thuộc vào bố mẹ. Họ cũng sẽ ngày càng trở nên tham lam vô độ, không biết xấu hổ. Tóm lại, điều kiện sống vượt trội và cuộc sống vật chất dồi dào chỉ làm con người sa đọa, khiến họ siêng ăn nhác làm, tham lam vô độ, không biết xấu hổ, chứ không mang lại lợi ích gì cho con người cả. Thể xác là thứ mà ngươi càng đối xử tốt với nó thì nó càng tham lam. Thể xác phù hợp với việc chịu một chút khổ. Con người khổ sở một chút thì đi con đường đúng đắn, làm việc chính đáng. Nếu thể xác không chịu khổ, tham hưởng sự thoải mái và lớn lên trong một tổ ấm hạnh phúc, con người chỉ có thể trở thành kẻ vô tích sự và không thể đạt được lẽ thật. Nếu gặp phải thiên tai nhân họa, họ trở nên không biết đúng sai, bất chấp lý lẽ. Lâu dần, con người chỉ có thể ngày càng sa đọa hơn. Có nhiều ví dụ về chuyện này không? Ngươi nhìn xem giữa những người ngoại đạo, có nhiều ca sĩ, diễn viên nổi tiếng khi chưa thành danh thì giỏi chịu khổ, kính nghiệp. Nhưng khi thành danh, kiếm được nhiều tiền và phát tài thì họ không đi theo con đường đúng đắn nữa. Một số dùng ma túy, một số tự sát và đều trở thành những kẻ những đoản mệnh. Nguyên nhân là gì? Đó là do họ hưởng thụ vật chất quá mức, quá thoải mái, không biết làm thế nào để được hưởng thụ, để được kích thích. Có người bắt đầu dùng ma túy, tìm kiếm sự kích thích và lạc thú lớn hơn, lâu dần họ không thể thiếu được nó. Có người sử dụng ma túy quá liều mà chết, có người không biết cách nào để giải thoát, cuối cùng trực tiếp tự sát. Có quá nhiều ví dụ như vậy. Dù ngươi ăn ngon mặc đẹp, nhà cao cửa rộng ra sao, hưởng thụ thế nào, cuộc sống thoải mái đến đâu, dục vọng của ngươi được thỏa mãn đến đâu, cuối cùng chỉ là sự trống rỗng chồng chất, kết quả chính là sự diệt vong. Liệu rằng hạnh phúc mà người ngoại đạo tìm kiếm có phải là hạnh phúc thực sự không? Thật ra, đó không phải là hạnh phúc mà chỉ là tưởng tượng của con người, là một phương thức sa đọa, một con đường làm người ta sa đọa. Thứ gọi là hạnh phúc mà con người mưu cầu thực tế lại là sự khổ đau. Đó không phải là mục tiêu mà người ta nên mưu cầu, cũng không phải là giá trị của cuộc sống con người. Một số phương thức, thủ đoạn của Sa-tan để làm bại hoại con người chính là khiến họ lấy sự thỏa mãn về xác thịt, buông thả về tình dục làm mục tiêu. Dùng cách này làm tê liệt, dụ dỗ, làm bại hoại con người, khiến họ cảm thấy đó là hạnh phúc và mưu cầu mục tiêu đó. Con người cứ thế tin rằng đạt được những thứ đó là đạt được hạnh phúc, vì vậy họ cố gắng hết sức để mưu cầu những mục tiêu đó. Kết quả là sau khi đạt được, họ không hề thấy hạnh phúc mà lại thấy trống rỗng và đau đớn. Điều này chứng tỏ rằng đó không phải là con đường đúng đắn mà là con đường dẫn đến cái chết. Vì sao những người tin vào Đức Chúa Trời không đi theo con đường đó như những người ngoại đạo? Hạnh phúc mà những người tin vào Đức Chúa Trời cảm nhận như thế nào? Khác biệt như thế nào với điều mà những người ngoại đạo mưu cầu? Sau khi tin vào Đức Chúa Trời, hầu hết mọi người không mưu cầu phát tài, mọi sự suôn sẻ, sự nghiệp thành công, trở thành người nổi tiếng trên thế gian, mà thay vào đó, họ lặng lẽ thực hiện bổn phận của mình, sống thật giản dị, không đặt ra yêu cầu quá cao về chất lượng cuộc sống, thậm chí có những người còn thấy rằng chỉ cần ấm no là đủ rồi. Trong một thế giới đen tối, tà ác thế này, tại sao họ vẫn có thể chọn con đường như vậy? Ngươi có thể nói rằng tất cả anh em chị em tin vào Đức Chúa Trời đều không có bản lĩnh để kiếm được nhiều tiền không? Hoàn toàn không. Đó là vì sau khi những người này tin vào Đức Chúa Trời, ít nhiều sâu trong tâm hồn họ đã cảm nhận được rằng đi theo Đức Chúa Trời là điều hạnh phúc nhất. Đây là niềm hạnh phúc mà không có thứ gì trên đời thay thế được. Thậm chí có những người đã thử. Lăn lộn trên thế gian vài năm, thấy khá mệt mỏi, khổ sở. Tuy rằng kiếm được một ít tiền, cũng đã hưởng thụ những niềm vui xác thịt, nhưng họ sống mà không có tôn nghiêm, càng sống càng trống rỗng, khổ sở. Họ thấy rằng sống như thế thà chết đi còn hơn. Họ đã nhìn thấu những chuyện này. Họ tin vào Đức Chúa Trời không phải vì không có lựa chọn nào khác mà vì họ đã thực sự cảm nhận được rằng: Đi theo Đức Chúa Trời trên con đường mưu cầu lẽ thật, dâng cả cuộc đời mình cho Đức Chúa Trời là sự an ủi lớn nhất cho tâm hồn họ, là điều quan trọng nhất trong cuộc đời của họ; đạt được Đức Chúa Trời và lẽ thật là điều hạnh phúc nhất và là điều khiến tâm hồn con người trở nên bình an, hạnh phúc và vững vàng nhất. Họ đã cảm nhận được hạnh phúc này, nó không phải là chuyện tưởng tượng. Có thể nói rằng một số người được Đức Chúa Trời chọn đã trải qua những hoạn nạn và thử luyện, đã hiểu lẽ thật và nhìn thấu nhiều chuyện. Họ đã chứng thực rằng tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật là con đường đúng đắn, trên đời không có con đường nào khác. Chỉ có lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, họ đã quyết tâm mưu cầu con đường này. Người như vậy đã có đức tin chân thật và những năm tháng khổ sở của họ không vô ích. Cho dù lời chứng trải nghiệm của họ sâu sắc hay nông cạn thì rõ ràng một điều rằng: Nếu ngươi cố gắng ngăn họ tin vào Đức Chúa Trời, khiến họ trở về thế giới thì dù nói gì họ cũng không đi. Cho dù thế giới có một núi vàng thu hút họ, có lẽ lúc đó họ cũng bị lung lạc, nhưng khi nghiền ngẫm lại thì: “Có được núi vàng, núi bạc cũng không làm cho tôi hạnh phúc bằng dâng mình cho Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình. Lúc có được vàng bạc châu báu có thể rất hạnh phúc, nhưng tâm hồn sẽ bị hành hạ và đau khổ, nói gì cũng không thể đi con đường đó. Khó khăn lắm mới tìm được Đức Chúa Trời, nếu quay lại, sau này phải đi đâu để tìm Đức Chúa Trời? Cơ hội đi theo Đức Chúa Trời nghìn năm khó gặp! Thời gian không nhiều, không chú ý sẽ bỏ lỡ mất! Đây thực sự là một cơ hội hiếm có!” Họ đã thấy sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời, nắm lấy Đức Chúa Trời chính giống như nắm được cọng rơm cứu mạng. Các ngươi hãy nói xem, một người đang chết đuối mà nắm được chiếc phao cứu sinh sẽ có cảm giác gì? (Thưa, người đó sẽ cảm thấy như có hy vọng sống sót, sẽ nắm thật chặt và không bao giờ buông ra.) Chính là cảm giác như thế. Khi nắm được chiếc phao cứu sinh, trong lòng người đó nghĩ gì? “Bây giờ chưa phải chết, cuối cùng cũng có hy vọng sống sót rồi! Khi cái chết đến gần, chỉ cần có một chút hy vọng sống sót thì dù có phải dùng hết sức lực của toàn thân thì cũng không thể buông tay. Cho dù có khó khăn, đau đớn thế nào cũng không thể để nó trôi đi. Cho dù chỉ còn chút sức lực cuối cùng, cũng phải nắm chặt lấy chiếc phao cứu sinh này.” Khi con người cảm nhận được hy vọng sống sót, họ có cảm thấy hạnh phúc không? Bây giờ, các ngươi im lặng suy nghĩ, suy ngẫm, cầu nguyện hoặc tĩnh nguyện, nhìn thấy bản thân đã nhận được quá nhiều khi đi theo Đức Chúa Trời, trong lòng có phải nảy sinh cảm xúc hạnh phúc này không? Các ngươi hãy nói một chút cảm giác thật lòng đi. (Thưa, nếu chúng con không theo Đấng Christ, bây giờ chúng con đã rơi vào thảm họa, không dám nghĩ đến hậu quả. Bây giờ, bằng cách ăn uống lời Đức Chúa Trời, thực hiện bổn phận, chúng con đã hiểu được không ít lẽ thật. Chúng con đã có đức tin chân thật, trong lòng có thể kính sợ Ngài, cũng học được cách quy phục Ngài. Chúng con đã nhận được nhiều điều, thật sự cảm tạ sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời.) Đúng vậy, các ngươi đã đạt được nhiều từ việc theo Đức Chúa Trời thực hiện bổn phận. Những điều này chính là do Đức Chúa Trời mang lại, nên biết ơn và chúc tụng Đức Chúa Trời thật tốt.

Những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời có thể mưu cầu lẽ thật khi gặp phải vấn đề. Sau khi có một số trải nghiệm, họ sẽ thu được một số lẽ thật. Hạnh phúc mà những lẽ thật này mang lại đủ để thay thế sự hưởng thụ mà vật chất và sự thoải mái mang lại. Những thứ đó, ngươi có được càng nhiều thì càng thấy không đủ, càng trở nên không biết đúng sai. Còn lẽ thật, con người hiểu càng triệt để, có được càng nhiều thì càng biết cảm tạ Đức Chúa Trời, càng biết ơn, trong lòng càng khao khát yêu kính Ngài, càng có khả năng vâng phục, kính sợ Ngài. Đây mới là hạnh phúc chân thực. Mưu cầu sự hưởng thụ về mặt vật chất mang lại cho người ta điều gì? Chính là sự trống rỗng, sa đọa. Chúng chỉ khiến cho sự mưu cầu và dục vọng của con người đối với vật chất lớn dần lên. Con người rất khó vượt qua sự thử thách về địa vị, danh lợi. Những người tin vào Đức Chúa Trời mà buông bỏ được những hưởng thụ về mặt vật chất này thì như thế nào? Có phải bằng cách cầu nguyện, kiềm chế mỗi ngày không? (Thưa không, là bằng cách nhìn thấu những thứ đó.) Làm thế nào để nhìn thấu chúng? (Thưa, một mặt là thông qua sự tỏ lộ của lời Đức Chúa Trời, mặt khác là thông qua một số trải nghiệm, lĩnh hội của bản thân mà dần dần hiểu được một số lẽ thật, có thể nhìn thấu những điều này.) Ngươi hiểu được lẽ thật là có thể buông bỏ, chứng tỏ rằng ngươi đã tiếp nhận lẽ thật. Đối với lời Đức Chúa Trời, những lời Ngài đã nói với con người, những điều Ngài yêu cầu ở con người, sâu trong thâm tâm, ngươi đã tiếp nhận và biến thành thực tế của ngươi. Thực tế này có phải sự sống của ngươi không? Nó đã trở thành sự sống của ngươi. Trong khi thực hiện bổn phận, từ lúc nào không hay, ngươi đã có được lẽ thật làm sự sống của mình. Có thể ngươi chưa cảm nhận được gì, nghĩ rằng vóc giạc của mình hình như còn nhỏ bé lắm, có nhiều chuyện vẫn chưa hiểu. Nhưng ngươi có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, chứng tỏ rằng sự sống của Ngài đã làm việc trên ngươi. Sự trưởng thành sự sống là điều rất tự nhiên, không cần ngươi có cảm nhận gì đặc biệt. Ngay cả khi ngươi không thể diễn đạt thành lời rõ ràng, thực tế là ngươi đã có tiến bộ, đã có biến đổi rồi. Do đó, lúc ngươi tiếp nhận lẽ thật sự sống của Ngài, từ lúc nào không hay, lòng ngươi đã thân cận với Ngài, đồng thời Đức Chúa Trời cũng đang xem xét ngươi, kiểm tra lòng ngươi. Bây giờ nghĩ kỹ về quá trình này, có phải khá hạnh phúc không? Quá hạnh phúc đi chứ! Các ngươi rất may mắn khi sinh ra trong thời kỳ sau rốt, may mắn được tiếp nhận công tác Ngài trong của thời kỳ sau rốt. Theo Đức Chúa Trời thực hiện bổn phận, lời Đức Chúa Trời đã được trực tiếp làm việc trên ngươi, giúp các ngươi thu được lẽ thật làm sự sống. Có được lời Đức Chúa Trời, lẽ thật làm sự sống thực tế, cuộc sống của con người chẳng phải đã có giá trị rồi sao? Chẳng phải không biết từ lúc nào mà ngươi đã trở nên tôn quý rồi sao? Chẳng phải ngươi từ từ sống có phẩm giá rồi sao? Lúc này người ta mới cảm nhận được rằng họ đã thu hoạch được rất nhiều khi tin vào Đức Chúa Trời. Hiểu được một số lẽ thật có thể mang lại sự biến đổi như vậy. Những chuyện trước đây không nhìn thấu, bây giờ đã hiểu được toàn bộ. Hóa ra, trong mình đã có lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời làm sự sống rồi. Lẽ thật đã bén rễ trong lòng, khai hoa kết quả, đó chính là sự sống, là quả ngọt kết tinh từ việc hiểu rõ lẽ thật. Đây là điều không gì thay thế được. Sau này khi trải qua một số sự sửa dạy, sửa phạt, phán xét và hành phạt, các ngươi lại có thể tiếp nhận, vâng phục. Sau khi hiểu biết nhiều lẽ thật bất giác sẽ đạt được nhận biết Đức Chúa Trời, sự sống sẽ ngày càng tiến bộ. Chẳng phải đó là sự trưởng thành từ từ sao? Các ngươi có đang mong đợi đến ngày đó không? (Thưa, có.) Thế thì các ngươi phải cố gắng hết sức hướng về lẽ thật.

Trích đoạn 93

Những người không hiểu lẽ thật, họ dựa vào đâu khi làm mọi việc? Họ dựa vào những phương pháp của con người, trí tuệ của con người và một chút sự khéo léo của con người. Dùng những thứ đó mà làm xong hoàn chỉnh mọi việc, con người trở nên kiêu ngạo. Họ cảm thấy mình đã có vốn liếng, và có thể khoe khoang và phô trương thâm niên của mình. Thế này gọi là thiếu lý trí. Thực ra, họ chẳng biết rằng liệu những gì mình đã làm có thật sự hợp lòng Đức Chúa Trời hay không. Họ không hiểu biết, họ thiếu sự thông sáng. Thế nên, khi có chuyện xảy ra, những người như vậy thường hay bới lông tìm vết. Khi thực hiện bổn phận của mình mà phạm sai lầm và bị xử lý, họ tìm kiếm lý do ở bên ngoài, đổ lỗi cho cái này cái kia. Họ đổ lỗi cho hoàn cảnh xấu, họ đổ lỗi cho bản thân vì đã không suy nghĩ thấu đáo vào lúc đó. Họ chỉ tìm kiếm lý do ở bên ngoài thay vì thừa nhận rằng mình không hiểu lẽ thật, hay rằng mình không nắm được các nguyên tắc lẽ thật. Lòng họ tiêu cực và chứa đầy những hiểu biết sai lầm về Đức Chúa Trời, và họ tin rằng Đức Chúa Trời đã vạch trần họ. Có đúng là như vậy không? Khi thực hiện bổn phận của mình, họ đã để lộ ra các tâm tính bại hoại. Họ làm việc chẳng có nguyên tắc gì, cũng chẳng có sự liên quan nào tới lẽ thật. Thật đáng thương làm sao. Những người như vậy thực hiện bổn phận mà không có sự vâng phục; chẳng thể nói rằng họ có lòng trung thành hay sự tận tâm, và việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác lại càng không thể. Họ lúc nào cũng dựa vào các phương pháp của con người để làm việc, chỉ ra vẻ hành động và nỗ lực cho có, nhưng thực chất họ vẫn không hiểu được lẽ thật. Liệu có sự thay đổi nào trong tâm tính sự sống của những người này không? Mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời có bình thường không? Liệu sự vâng lời và kính sợ Đức Chúa Trời của họ có thể nào tiến bộ không? (Thưa, không). Chẳng có sự tiến bộ nào trong đời sống của họ, cũng chẳng có sự thay đổi nào trong các tâm tính bại hoại của họ cả. Họ chỉ trở nên mưu chước và quỷ quyệt hơn, dùng nhiều thủ đoạn lừa dối hơn, và thậm chí còn kiêu ngạo hơn nữa. Dù đối mặt với chuyện gì, họ vẫn sẽ sống theo triết lý của Sa-tan, liên tục đúc kết kinh nghiệm và bài học nhận được, ghi nhận những chỗ mà mình đã vấp ngã và thất bại, cũng như những bài học phải rút ra để tránh vấp ngã và thất bại lần nữa. Họ cứ đúc kết kinh nghiệm và bài học như vậy mà chẳng tìm kiếm lẽ thật. Liệu một người sống theo triết lý của Sa-tan thì có thể từ bỏ tâm tính bại hoại của mình được không? Nếu tâm tính bại hoại này không từ bỏ được, họ có được cứu rỗi không? Rất nguy hiểm khi không hiểu được những chuyện này, vì sẽ chẳng có cách nào mà bước vào được con đường đúng đắn, là tin vào Đức Chúa Trời. Sau ngần ấy năm tin một cách u mê như vậy vào Đức Chúa Trời, liệu họ có thể nào nhận được lẽ thật không? Lương tâm và lý trí của họ có bao giờ trở nên bình thường hơn không? Họ có thể sống thể hiện ra một nhân tính bình thường không? (Thưa, không). Đúc rút kinh nghiệm và bài học như thế này và thay đổi hành vi có thể hạn chế phạm sai lầm, nhưng có được tính là thực hành lẽ thật không? (Thưa, không). Người này có thể bước vào thực tế lẽ thật không? (Thưa, không). Một người như vậy thì có dành chỗ trong lòng cho Đức Chúa Trời không? (Thưa, không). Những người hành động mà chẳng màng tới lẽ thật hoặc Đức Chúa Trời, đều là những kẻ chẳng tin, đều chẳng thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi! Các ngươi có thể phân biệt được những người như vậy không?

Khi ai đó làm điều gì đó, bất kể là họ đang thực hiện bổn phận hay đang lo việc cá nhân, hãy để ý những gì mà họ đang tập trung vào. Nếu họ tập trung vào những triết lý sống thì điều này cho thấy họ không yêu hay mưu cầu lẽ thật. Nếu một người cố gắng hướng tới lẽ thật bất kể điều gì xảy đến với họ, nếu họ luôn hướng tới lẽ thật trong khi suy ngẫm, nghĩ rằng: “Làm điều này có phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời không? Những yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì? Làm như vậy có phạm tội với Đức Chúa Trời không? Liệu điều đó có xúc phạm tâm tính của Ngài không? Liệu điều đó có làm tổn thương Đức Chúa Trời không? Liệu Đức Chúa Trời có ghê tởm điều đó không? Làm như vậy có hợp lý không? Liệu điều đó có làm nhiễu loạn hay phá vỡ công việc của hội thánh không? Liệu điều đó có làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không? Liệu điều đó có làm ô danh Đức Chúa Trời không? Đó có phải là thực hành lẽ thật không? Đó có phải là hành ác không? Đức Chúa Trời sẽ nghĩ gì về điều đó?”, nếu họ luôn cân nhắc về những câu hỏi này, thì đây là dấu hiệu của điều gì? (Là dấu hiệu cho thấy họ đang tìm kiếm và mưu cầu lẽ thật). Đúng vậy. Đó là dấu hiệu cho thấy họ đang tìm kiếm lẽ thật, và rằng Đức Chúa Trời ở trong lòng họ. Những người không có Đức Chúa Trời trong lòng xử lý những chuyện xảy ra với mình như thế nào? (Thưa, họ hành động dựa trên trí não và ân tứ của bản thân, chẳng liên quan gì tới Đức Chúa Trời, và hành động của họ đặc biệt bị pha trộn ý định riêng). Không những hành động bị pha trộn ý định riêng, mà khi hành động theo ý định riêng, họ còn chẳng hề xem lại hoặc phản tỉnh bản thân. Họ không chịu nhượng bộ, cứng đầu cứng cổ bám lấy cách làm riêng của mình. Họ làm việc theo ý mình, không cầu nguyện với Đức Chúa Trời và không tìm kiếm lẽ thật. Họ không có mối quan hệ nào với Đức Chúa Trời. Chẳng phải những người như vậy dễ phạm sai lầm và xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải điều này là cực kỳ nguy hiểm sao? Những người không mưu cầu lẽ thật thể hiện những nét tính cách nào trong cuộc sống thường nhật, cả trong cách hành xử lẫn tâm tính họ bộc lộ? (Thưa, họ mặc sức hành động bừa bãi, coi thường người khác, cực kỳ kiêu ngạo, phóng đãng, và ra quyết định một chiều.) Chủ yếu là những nét sau: họ kiêu ngạo, tự đại, bừa bãi một cách ương ngạnh, phóng đãng và không biết kiềm chế; họ hành động thiếu lý trí, làm việc theo ý thích, và luôn ngông cuồng, vô lại. Không được tỉa sửa, xử lý thì họ nhe nanh múa vuốt. Còn khi phải đối mặt với việc bị tỉa sửa, xử lý thì họ tiêu cực, chống đối, thách thức và dấy loạn, quỷ tính của họ hoàn toàn bộc lộ. Những người không mưu cầu lẽ thật này, khi không làm gì hay nói gì thì có vẻ là người bình thường. Nhưng hễ làm gì đó là tâm tính bại hoại lộ ra, và nó man rợ, thú tính. Những người này được mô tả như thế nào trong lời Đức Chúa Trời? (“Những gì bộc lộ nơi các ngươi không phải là sự tinh nghịch của những đứa trẻ lạc khỏi cha mẹ, mà là thú tính bùng phát từ những con thú lạc khỏi ngọn roi của chủ” (Ngươi hiểu gì về Đức Chúa Trời? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời)). Những tâm tính mà những người như vậy bộc lộ có thể được mô tả là thú tính, và họ không có nhân tính bình thường. Nếu có những người như vậy lẫn trong đám đông, các ngươi có thể phân biệt được họ không? (Thưa, có một chút). Những người tìm kiếm lẽ thật và những người không tìm kiếm lẽ thật hoàn toàn khác nhau trong cách cư xử và những gì họ bộc lộ. Biểu hiện rõ ràng của những người không tìm kiếm lẽ thật là thiếu lý trí, vô lương tâm và hành động bất chấp các nguyên tắc lẽ thật. Họ hành động bừa bãi, liều lĩnh, họ táo tợn đến cực đoan. Những người không mưu cầu lẽ thật vừa đáng thương, vừa đáng ghét. Họ tự biến mình thành kẻ ngốc, chẳng mang lợi ích gì cho người khác. Nếu họ không mang lại lợi ích gì cho người khác thì chẳng phải Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm họ sao? (Thưa, phải). Bản thân họ có nhận thức được điều này không? (Thưa, không). Vì sao Ta nói họ đáng thương? Đó là vì họ như vậy mà ngay cả bản thân họ cũng chẳng nhận ra. Họ chẳng có một chút hình tượng giống con người nào mà vẫn cho rằng mình ổn, vẫn dám hành động liều lĩnh bốc đồng. Như thế chẳng phải đáng thương sao? Khi phân định con người, điều quan trọng là phải phân định liệu họ có thực hành lẽ thật, tìm kiếm lẽ thật và tiếp nhận lẽ thật hay không. Đây là cách phân định con người chính xác, là cách nhìn thấu mọi loại người.

Các ngươi có phải là người mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, trước đây chúng con không mưu cầu lẽ thật, nhưng giờ chúng con đang phấn đấu để đạt được lẽ thật). Trong vài năm qua, khi các ngươi không mưu cầu lẽ thật, các ngươi có bộc lộ những hành vi mà Ta vừa nhắc đến không? (Thưa, có). Khi bộc lộ những hành vi đó, các ngươi có thấy đau lòng khi sống trong tình trạng như vậy không? (Thưa, có. Chúng con đau khổ nhưng không nhận ra). Không nhận ra thì thật đáng thương! Không hiểu lẽ thật và không có thực tế lẽ thật là điều đáng thương và đáng tiếc nhất. Bám vào những lẽ thật này, thường xuyên nghe giảng mà lại không thu nhận được gì, và vẫn sống trong sự ràng buộc của Sa-tan, hành động và nói năng thiếu lý trí, rõ ràng là vô nhân tính – như vậy quả thật đáng thương! Vì thế, mưu cầu lẽ thật là điều tối quan trọng! Các ngươi giờ đã nhận ra điều này rồi, phải không? (Thưa, phải.) Các ngươi đã nhận ra điều này thì tốt. Thờ ơ, trì độn và không thể nhận ra được điều này là đáng lo ngại đấy. Không mưu cầu lẽ thật và không nhận thức được lẽ thật chưa phải là vấn đề gì lớn. Đáng lo ngại nhất là nhận ra điều đó rồi mà vẫn không mưu cầu lẽ thật, và hoàn toàn không ăn năn. Như vậy chính là cố tình vi phạm. Những người cố tình vi phạm và tuyệt đối không chịu tiếp nhận lẽ thật, thì đều cương ngạnh và độc ác từ trong tâm, và chán ghét lẽ thật. Người cương ngạnh thì có kính sợ Đức Chúa Trời không? Nếu không kính sợ Đức Chúa Trời, họ có đạt được sự tương hợp với Đức Chúa Trời không? (Thưa, không). Người mà trong lòng cương ngạnh thì có thái độ gì đối với Đức Chúa Trời? Họ chống đối, bất tuân và không ăn năn, tuyệt đối không thừa nhận Đức Chúa Trời là lẽ thật. Họ không tiếp nhận lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời đến tận cùng! Kết cục của những người như vậy là gì? (Thưa, họ sẽ bị Đức Chúa Trời trừng phạt và hủy diệt). Đức Chúa Trời không cứu rỗi những người đó. Có phải 250 thủ lĩnh mà Kinh Thánh nhắc tới đều là những kẻ cương ngạnh và phản nghịch không? Cuối cùng thì chuyện gì đã xảy đến với họ? (Thưa, họ bị mặt đất nuốt chửng). Đó là kết cục. Bất kể đã tin vào Đức Chúa Trời được bao lâu, nếu người ta không biết tầm quan trọng của việc mưu cầu lẽ thật, nếu họ không hiểu sự đáng ghê tởm và hậu quả của việc chán ghét lẽ thật, thì kết cục của họ sẽ là gì? Chắc chắn họ sẽ bị loại trừ. Những tín hữu mới thì ngu muội và vô tri, chưa biết cách làm đúng công việc của mình hay con đường đúng đắn để đi. Đó chính là khía cạnh đáng thương của con người. Nếu ngươi đã tin vào Đức Chúa Trời được vài năm và có thể thực hiện bổn phận của mình, nhưng lại không mưu cầu lẽ thật, thì như vậy chỉ đơn thuần là dâng sự phục vụ mà thôi. Nếu ngươi có thể thực hiện bổn phận một cách trung tín, sẵn lòng dâng sự phục vụ, không hành ác và không gây nhiễu loạn, gián đoạn, thì dù ngươi chưa mưu cầu lẽ thật đi nữa, nhưng bởi vì ngươi có thể thực hiện bổn phận một cách trung tín, nên Đức Chúa Trời vẫn sẽ không kết tội ngươi. Nhưng nếu người ta hiểu được một ít lẽ thật và nhận ra tầm quan trọng của việc mưu cầu lẽ thật, nhưng vẫn không mưu cầu lẽ thật, thì sẽ không dễ được cứu rỗi đâu. Giỏi lắm thì họ chỉ có thể tiếp tục làm kẻ phục vụ tận tụy. Còn những người không sẵn lòng dâng sự phục vụ, tranh quyền đoạt lợi, gây nhiễu loạn cho đời sống và công tác của hội thánh, thì kết cục của họ đã được ấn định. Họ đã rơi vào thảm họa rồi và chờ chết, nên chuẩn bị đi là vừa!

Trích đoạn 94

Có những người vừa mới tin Đức Chúa Trời, thường xuyên tiêu cực và yếu đuối. Đấy là bởi họ không hiểu lẽ thật, vóc giạc của họ quá nhỏ bé, và họ không hiểu gì về các lẽ thật khác nhau liên quan đến đức tin vào Đức Chúa Trời. Họ vì thế mà nghĩ rằng mình có tố chất kém, không thể theo kịp và có nhiều khó khăn – ý nghĩ này làm nảy sinh sự tiêu cực và thậm chí khiến họ càng mặc cảm tự ti, thế là họ quyết định bỏ cuộc, không mưu cầu lẽ thật nữa. Họ tự đào thải mình. Họ nghĩ rằng: “Dù sao đi nữa, Đức Chúa Trời sẽ không khen ngợi mình vì đức tin của mình vào Ngài. Đức Chúa Trời cũng không thích mình. Mình cũng không có nhiều thời gian để đến các nhóm họp. Cuộc sống gia đình mình khó khăn và mình cần phải kiếm tiền”, vân vân… Tất cả những điều này trở thành lý do khiến họ không thể đến nhóm họp. Nếu không kịp thời tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra, ngươi sẽ dễ dàng xếp họ vào loại không yêu lẽ thật và thuộc loại người không thật sự tin Đức Chúa Trời, không thì ngươi cũng sẽ xếp họ vào loại tham hưởng an nhàn xác thịt, theo đuổi trần tục và không thể buông bỏ những thứ thế tục – bởi vì lý do này, ngươi sẽ ruồng bỏ họ. Điều này có hợp với nguyên tắc lẽ thật không? Những lý do này có thật sự đại diện cho thực chất bản tính của họ không? Thật ra, chính bởi những khó khăn và vướng mắc này mà họ trở nên tiêu cực; nếu ngươi có thể giải quyết những vấn đề này thì họ sẽ không quá tiêu cực như vậy, và sẽ có thể theo Đức Chúa Trời. Vào những lúc họ yếu đuối và tiêu cực đang cần sự hỗ trợ của mọi người, nếu ngươi đưa tay giúp đỡ, họ sẽ có thể đứng vững trở lại. Nhưng nếu ngươi thờ ơ với họ, họ sẽ rất dễ bỏ cuộc bởi sự tiêu cực. Điều này phụ thuộc vào việc những người làm công tác của hội thánh có tình yêu thương hay không, vào việc họ có mang trọng trách này hay không. Việc một số người không thường xuyên đến nhóm họp không có nghĩa là họ không thực sự tin Đức Chúa Trời, không tương đương với việc họ không thích lẽ thật, không có nghĩa là họ tham hưởng an nhàn xác thịt, không thể gác chuyện gia đình và công việc sang một bên – họ càng không nên bị đánh giá là quá cảm tính hoặc ham mê tiền bạc. Chỉ là trong những vấn đề này, vóc giạc và nguyện vọng của mỗi người mỗi khác. Một số người yêu lẽ thật và có thể theo đuổi lẽ thật; họ sẵn lòng chịu đựng để từ bỏ những điều này. Một số người có chút ít đức tin, và khi đối mặt với những khó khăn thực tế, họ bất lực và không thể thắng vượt chúng. Nếu không ai giúp đỡ hoặc hỗ trợ họ, họ sẽ mặc cảm tự ti và tự bỏ cuộc; vào những lúc như vậy, họ cần sự hỗ trợ, chăm sóc và trợ giúp của mọi người. Trừ khi họ là một người không tin, không có tình yêu đối với lẽ thật và là một người xấu – trong trường hợp như vậy có thể bỏ qua họ. Nếu họ là người thực sự tin vào Đức Chúa Trời và không thường xuyên đến nhóm họp bởi một vài khó khăn thực sự, thì không được ruồng bỏ mà phải giúp đỡ và hỗ trợ họ bằng lòng yêu thương. Nếu họ là người tốt, có khả năng tiếp nhận và có tố chất tốt, thì họ càng đáng được giúp đỡ và hỗ trợ.

Trích đoạn 95

Khi thực hiện bổn phận, chỉ dốc sức thôi thì chưa đủ, ngươi còn phải dốc lòng. Chỉ có dốc lòng mới có thể dốc hết sức, nếu đã không dốc lòng thì sẽ không thể dốc hết sức. Chỉ dốc sức mà không dốc lòng, đó chính là chỉ bỏ sức mà không có tâm. Cách thực hiện bổn phận này không được Đức Chúa Trời chấp nhận. Khi thực hiện bổn phận, ngươi phải luôn làm tốt nhất có thể để thỏa mãn Đức Chúa Trời với tất cả trái tim, sức lực và trí lực của mình. Nếu ngươi chỉ làm phân nửa sức lực và giữ lại phân nửa, nghĩ bụng: “Mình chẳng muốn mệt mỏi. Ai sẽ nuôi mình khi mình kiệt sức chứ?”. Thái độ này có đúng không? (Thưa, không.) Nếu ngươi thực hiện bổn phận của mình với tâm thái như vậy thì ngươi có mất mát gì không? (Thưa, có). Mất mát kiểu gì? (Đức Chúa Trời sẽ ghét bỏ con, và con sẽ dần đánh mất công tác của Đức Thánh Linh.) Không có được công tác của Đức Thánh Linh là một mất mát. Nếu ai tin Đức Chúa Trời đã vài năm mà không có công tác của Đức Thánh Linh thì sự mất mát của họ sẽ lớn đến nỗi họ chẳng đạt được gì, như thể họ đã tin một cách hoài công vô ích. Có nhiều người không mưu cầu lẽ thật và bị đào thải sau khi tin được vài năm. Như vậy nghĩa là, nếu ngươi không dốc lòng thì cho dù có nỗ lực nhiều đến mấy khi thực hiện bổn phận, ngươi cũng sẽ không thể đạt được lẽ thật. Như vậy có phải là mất mát không? Ngươi có nhận ra đây là một mất mát không? Nếu ngươi là người thật sự hiểu lẽ thật, thì ngươi có thể thấy được rằng mất mát này là quá to lớn. Trong số những người đã tin Đức Chúa Trời được năm hay mười năm, có một số người đã đạt được thực tế lẽ thật, trong khi số khác thì vẫn đang rao giảng các câu chữ giáo lý. Sự khác biệt này có lớn khôngphải không? (Thưa, lớn.) Làm thế nào những người đã đạt được lẽ thật lại đạt được điều đó? Điều đó đến từ trải nghiệm và thực hành. Có phải do Đức Chúa Trời ban cho không? (Thưa, phải.) Chuyện gì đang diễn ra với những người chưa đạt được lẽ thật và vẫn còn đang rao giảng câu chữ giáo lý? Họ tin Đức Chúa Trời đã nhiều năm mà vẫn không đạt được lẽ thật bởi họ không mưu cầu lẽ thật, và họ thực hiện bổn phận chỉ bằng sức lực mà không phải bằng trái tim. Tin Đức Chúa Trời mà không đạt được lẽ thật thì là phúc hay họa? (Thưa, đó là họa.) Tại sao lại là họa? Ngươi có thể nhìn thấu điều này không? Việc ngươi chưa đạt được lẽ thật là vấn đề lớn hay nhỏ? (Thưa, là vấn đề lớn). Vấn đề lớn này liên quan đến việc gì? Nó có liên quan gì đến sự cứu rỗi không? (Thưa, có.) Khi ngươi suốt ngày rao giảng câu chữ giáo lý thì điều này có nghĩa là gì? Nó đặt ra dấu hỏi về việc được cứu rỗi và khiến việc này khó mà đạt được. Có những người đã tin Đức Chúa Trời cả chục năm mà vẫn còn đang rao giảng câu chữ giáo lý. Những người khác thì đã tin cả hai chục năm mà vẫn chưa bước vào thực tế lẽ thật và vẫn không biết thực tế lẽ thật nghĩa là gì. Những người này có đang gặp nguy hiểm không? Việc họ có thể được cứu rỗi hay không có phải vẫn chưa rõ ràng? (Thưa, phải.) Nói Ta nghe, trong số những người đã tin Đức Chúa Trời lâu như nhau thì kiểu người nào có cơ hội lớn hơn và nhiều hy vọng được cứu rỗi hơn? Là những người rao giảng câu chữ và giáo lý, hay là những người có thực tế lẽ thật? (Thưa, là những người có thực tế lẽ thật). Đây là chuyện rõ ràng. Vậy thì các ngươi muốn làm loại người nào? (Thưa, người có thực tế lẽ thật). Làm thế nào để một ai đó có thể là người có thực tế lẽ thật? (Thưa, bằng cách thật sự thực hành theo lời Đức Chúa Trời.) (Thưa, bằng cách thực hiện bổn phận với cả tấm lòng, sức lực và trí lực theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và làm hết sức mình để thỏa mãn Ngài.) Đúng vậy. Nếu ngươi làm tất cả những gì Đức Chúa Trời yêu cầu, ngươi sẽ đạt được lẽ thật. Điều này liên quan đến việc gì? Nó liên quan tới kết cục và đích đến của con người. Có những người ngu xuẩn và tự mãn, họ thậm chí còn không biết mình đã mất mát bao nhiêu, hay đã chịu những tổn thất gì. Họ cứ ngồi đó liếng thoắng và rao giảng câu chữ giáo lý, và vẫn không biết rằng mình đang trên bờ vực nguy hiểm. Kết cục cho những ai không thể được cứu rỗi là gì? Trước tiên thì họ sẽ bị Đức Chúa Trời đào thải, và trông xa hơn nữa thì kết cục của họ sẽ là gì? (Thưa, sự hư mất và hủy diệt.) Đây là kết cục của họ, là đích đến của họ. Nếu người ta tin Đức Chúa Trời và kết cục là vậy, thì đây có phải ý định ban đầu của họ khi tin Ngài không? (Thưa, không phải.) Không ai muốn có kết cục như vậy. Nếu ngươi không muốn một kết cục như vậy, thì đừng đi theo con đường đó. Ngươi phải đi theo con đường mưu cầu lẽ thật, và chỉ như vậy thì ngươi mới có thể đạt được sự cứu rỗi.

Nếu người ta không thể đạt được công tác trong thời kỳ sau rốt, thì họ hoàn toàn coi như xong và sẽ không có cơ hội nào nữa. Không như công tác trong Thời đại Ân Điển, nếu ai đó không nhận được nó thì họ vẫn có thể chờ đợi cơ hội nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, cho dù họ sinh ra ở đất nước nào đi nữa. Sự kết thúc công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt cũng là sự kết thúc kế hoạch quản lý của Ngài, và sự kết thúc có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là Ngài sắp định đoạt kết cục của từng người; kết cục của vạn vật và của nhân loại đang đến gần. Công tác của Đức Chúa Trời đã đến giai đoạn này, nếu người ta không có được khải tượng này trong lòng, luôn hồ đồ và thực hiện bổn phận một cách đối phó và chiếu lệ, không mưu cầu lẽ thật một cách nghiêm túc, nghĩ rằng miễn sao mình tin thì sẽ được cứu rỗi, thế thì họ sẽ bỏ lỡ cơ hội cuối cùng để được cứu rỗi. Đến ngày đại họa ập tới, và công tác đã hoàn tất triệt để, thì Đức Chúa Trời sẽ không còn làm công tác chăm tưới và chu cấp lẽ thật cho con người nữa. Đức Chúa Trời sẽ đối diện với nhân loại bằng loại tâm tính nào, ngươi có biết không? Cơn thịnh nộ của Ngài sẽ rất to lớn, còn tâm tính công chính của Ngài sẽ tỏ lộ ra với toàn nhân loại, theo cách chưa từng có bao giờ. Đây sẽ là đại họa cuối cùng của nhân loại. Bây giờ đây là giai đoạn Đức Chúa Trời công tác để cứu rỗi con người. Ngài vẫn luôn kiên nhẫn, bao dung và chờ đợi. Chờ đợi điều gì đây? Chờ đợi những con người đã được định trước của Ngài, chờ đợi dân sự được chọn của Ngài, chờ đợi những người Ngài muốn cứu rỗi đến trước Ngài, tiếp nhận sự phán xét và hành phạt của Ngài, và tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Khi những con người này đã được làm cho hoàn thiện, thì công tác vĩ đại của Đức Chúa Trời cũng sẽ được hoàn tất, và Đức Chúa Trời sẽ không còn làm công tác cứu rỗi nhân loại nữa. Đây đâu phải là thời của Nô-ê, cũng chẳng phải thời hủy diệt thành Sô-đôm hay thời sáng thế. Mà đúng hơn, đây là thời tận thế. Nhiều người vẫn còn đang mơ mộng, họ không biết công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời đã đến giai đoạn nào rồi. Dù họ đã tiếp nhận sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời, nhưng họ vẫn không vội vàng, họ vẫn cứ hồ đồ và không xem trọng nó. Một khi giai đoạn công tác này kết thúc, thì kết cục của một người sẽ là như thế, và sẽ không thay đổi. Con người xuẩn ngốc và vẫn nghĩ rằng: “Ổn cả thôi, Đức Chúa Trời sẽ cho chúng ta cơ hội khác!” Các cơ hội được trao trong suốt giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời. Làm sao có thể còn cơ hội nào khác khi thời đại này đã qua đi? Chẳng phải đấy chỉ là giấc mơ sao?

Trước: Những lời về cách Đức Chúa Trời quyết định kết cục của con người

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger