33. Sau khi chứng kiến nhiều người bị tỏ lộ và loại bỏ
Tháng 2 năm 2023, do sự phản bội của Giu-đa, cảnh sát đã đến nhà tôi để thẩm vấn về đức tin của tôi với Đức Chúa Trời. Thấy tôi không thể đi lại được do hoại tử xương đùi, nên họ đã không đưa tôi đi. Thời điểm đó, tôi không thể thực hiện bất kỳ bổn phận nào, và do môi trường xung quanh nguy hiểm, anh chị em cũng không thể đến nhà tôi. Ban đầu, tôi cũng biết rằng hoàn cảnh như vậy là do Đức Chúa Trời cho phép, nhưng khi nghĩ đến việc mình không thể thực hiện bổn phận, cũng chẳng thể phục vụ, tôi tự hỏi liệu Đức Chúa Trời có đang dùng hoàn cảnh này để tỏ lộ và loại bỏ tôi không. Tôi cũng nghĩ đến việc nhiều người trong hội thánh đã lần lượt bị tỏ lộ và loại bỏ trong những năm qua. Chẳng hạn như Vương Đào. Anh ấy làm bổn phận liên quan đến văn bản. Anh ấy đã nhiều năm tin Đức Chúa Trời, vứt bỏ cả tuổi trẻ và hôn nhân, thậm chí đến khi đã ngoài bốn mươi, năm mươi tuổi vẫn chưa từng kết hôn, lúc nào cũng làm bổn phận xa nhà, nhưng cuối cùng lại bị tỏ lộ là người không tin và bị thanh trừ. Hay như Lý Lệ, chỉ sau một thời gian ngắn tin Đức Chúa Trời, chị đã từ bỏ công việc kinh doanh của gia đình để tập trung vào đức tin. Dù có bị thế gian vu khống và chế giễu, hay bị chính con trai mình phản đối, chị vẫn thực hiện bổn phận của mình. Chị đã chịu nhiều đau khổ, trả giá để rao giảng phúc âm và còn thu phục được một số người. Nhưng cuối cùng, chị lại bị tiết lộ là kẻ ác và bị thanh trừ. Cũng có không ít người bị thanh trừ vì hành động như Giu-đa sau khi bị bắt. Nhìn những gương mặt quen thuộc lần lượt bị tiết lộ và loại bỏ, tôi nhận ra công tác của Đức Chúa Trời đã thật sự bước vào giai đoạn quy định theo từng loại người. Và dù hội thánh không thanh trừ tôi nhưng việc Đức Chúa Trời loại bỏ tôi qua hoàn cảnh này, đồng nghĩa với việc Ngài không còn cần tôi nữa. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy vô cùng tiêu cực, buồn bã, và bối rối. Chẳng phải Đức Chúa Trời chọn nhiều người như vậy là để cứu rỗi họ hay sao? Vậy tại sao cuối cùng họ lại lần lượt bị tiết lộ và loại bỏ? Cứ như vậy, đến khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, sẽ chẳng còn lại bao nhiêu người. Đây thật sự là tâm ý của Đức Chúa Trời sao? Nhất là khi đọc lời Đức Chúa Trời về việc thực hiện bổn phận, tôi thầm nghĩ: “Giờ mình thậm chí còn không thể đi lại, thì làm sao có thể thực hiện bổn phận đây? Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng người, chắc hẳn Ngài biết mình quá bại hoại, nên đã dùng bệnh tật để loại bỏ mình. Chăm chỉ mưu cầu lẽ thật thì có ích gì cho mình chứ? Sau này sẽ chẳng có sự cứu rỗi nào cho mình, cũng chẳng có kết cục hay đích đến tốt đẹp nào nữa”. Tôi trở nên tiêu cực đến mức không muốn làm gì cả. Tôi không muốn đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không biết phải nói gì khi cầu nguyện với Ngài. Tôi thường xuyên khóc vì cảm thấy tiêu cực. Tôi biết tình trạng của mình không ổn, và tôi không muốn tiếp tục tiêu cực như vậy. Nên tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, tình trạng của con rất tệ. Con cảm thấy như Ngài đã loại bỏ và không còn cần con nữa. Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy dẫn dắt con hiểu được tâm ý của Ngài và đưa con ra khỏi tình trạng tiêu cực này”. Tôi cứ liên tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời.
Rồi tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Trong những năm gần đây, công tác của hội thánh vô cùng bận rộn, vì thế nhân sự trong các nhóm được điều động, điều chỉnh, cũng như tỏ lộ, đào thải và thanh lọc tương đối thường xuyên. Trong quá trình thực hiện những công tác này, sự điều động nhân sự là lớn nhất và phạm vi cũng rộng nhất, nhưng cho dù điều động thế nào, biến động thế nào, thì với những người thật lòng tin Đức Chúa Trời, thật lòng muốn Đức Chúa Trời, ý chí mưu cầu lẽ thật của họ không thay đổi, nguyện vọng mưu cầu được cứu rỗi của họ không thay đổi, đức tin của họ vào Đức Chúa Trời cũng không hề giảm, họ luôn phát triển theo chiều hướng tốt hơn và vẫn kiên trì thực hiện bổn phận cho đến ngày hôm nay. Có những người còn tốt hơn một chút, trải qua việc điều chỉnh liên tục, họ tìm được vị trí phù hợp, học biết cách tìm kiếm các nguyên tắc và thực hiện bổn phận. Còn về phần những người không mưu cầu lẽ thật, không yêu thích những điều tích cực, chán ghét lẽ thật, biểu hiện của họ lại không tốt cho lắm. Có một số người hiện nay vẫn miễn cưỡng ra sức thực hiện bổn phận, nhưng thực ra tình hình bên trong họ đã rối tinh rối mù, họ đã chán nản và tiêu cực đến một mức độ nhất định rồi, nhưng họ vẫn không rời khỏi. Bề ngoài, họ vẫn đang tin Đức Chúa Trời, vẫn đang thực hiện bổn phận, nhưng thực ra lòng họ đã thay đổi, họ đã xa cách và từ bỏ Đức Chúa Trời rồi. Có người đã tìm bạn đời, về nhà chung sống cùng nhau.… Có người tiếp tục mưu cầu ước mơ trở nên giàu có. Có người tiếp tục mưu cầu con đường làm quan và thực hiện giấc mộng đẹp làm quan, thành quan lớn. Có người mưu cầu con đàn cháu đống, nên họ lấy vợ sinh con. Có người tin Đức Chúa Trời và bị truy bắt, bị bách hại trong nhiều năm, đến khi thân thể yếu ớt và bệnh tật, họ vứt bỏ việc thực hiện bổn phận và về nhà dưỡng già. Tình huống của mỗi người mỗi khác. Có người tự động rời đi và bị xóa tên khỏi danh sách, có người là người không tin và bị thanh trừ, có người làm nhiều việc ác và bị khai trừ. Điều gì ẩn giấu trong xương tủy của những người này? Thực chất của họ là gì? Các ngươi có nhìn thấu được không? … Lúc bắt đầu tin Đức Chúa Trời thì lòng họ đầy nhiệt tình, bỏ lại gia đình, vứt bỏ công việc, còn có thể thường xuyên dâng hiến, có thể đảm đương một số công tác nguy hiểm cho nhà Đức Chúa Trời. Nhìn kiểu gì cũng là thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, sao hiện tại lại biến thành như thế này? Có phải ban đầu Đức Chúa Trời không thích họ, chỉ lợi dụng họ thôi không? (Thưa, không phải.) Đức Chúa Trời đối đãi với ai cũng công bằng, bình đẳng, với ai cũng cho cơ hội như nhau. Họ cũng sống đời sống hội thánh, ăn uống lời Đức Chúa Trời, sống dưới sự cung ứng, chăm tưới, nuôi dưỡng của Đức Chúa Trời, tại sao họ lại thay đổi nhiều đến vậy? Biểu hiện của họ lúc mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời tới cuối cùng thật giống như của hai người khác nhau, là Đức Chúa Trời khiến họ thất vọng sao? Là nhà Đức Chúa Trời, việc Đức Chúa Trời làm khiến lòng họ thất vọng đau xót sao? Là Đức Chúa Trời, lời Ngài phán, công tác Ngài làm gây tổn thương đến tôn nghiêm của họ sao? (Thưa, không phải.) Vậy thì là chuyện gì? Ai có thể nói rõ ràng được chuyện này? … (Thưa Đức Chúa Trời, con cảm thấy những người này khi mới tin Đức Chúa Trời, họ dựa vào sự nhiệt tình và lòng tốt của mình cũng có thể làm một vài việc, nhưng hiện tại, nhà Đức Chúa Trời càng ngày càng nghiêm túc với các hạng mục công tác, yêu cầu con người làm việc tuân theo nguyên tắc lẽ thật, những người này không tiếp nhận lẽ thật, làm bổn phận thì lúc nào cũng làm xằng làm bậy, thường xuyên bị tỉa sửa, thế là họ ngày càng cảm thấy không thể làm bừa được nữa, cuối cùng họ rời nhà Đức Chúa Trời. Con cảm thấy đây cũng là một nguyên nhân.) Không thể làm bừa được nữa, lời này có xác thực không? (Thưa, có.) Không thể làm bừa được nữa, đây là nói đến những người bừa bãi. Có những người khi tới tin Đức Chúa Trời thì không bừa bãi, khá là nghiêm túc, đối đãi chuyện này cũng khá nghiêm túc, sao họ lại không thể tiếp tục kiên trì? (Thưa, vì bản tính những người này là không yêu thích lẽ thật, họ tới tin Đức Chúa Trời là để được phúc lành. Họ thấy nhà Đức Chúa Trời luôn giảng lẽ thật, mà họ thì chán ghét lẽ thật, chống đối lẽ thật, ngày càng không sẵn lòng nhóm họp, không sẵn lòng nghe giảng đạo, cho nên bị tỏ lộ như vậy.) Một tình huống là vậy, người như thế này khá nhiều. Lại có một số người luôn qua loa chiếu lệ khi làm bổn phận, cho dù làm bổn phận gì cũng làm không tốt, làm không được, không phải là họ không có năng lực, không phải là tố chất của họ không đủ, mà là vì họ không nghe lời, không căn cứ theo yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời mà làm, lúc nào cũng làm theo tính khí của mình, cuối cùng làm xằng làm bậy, gây ra sự quấy nhiễu và gián đoạn, được tỉa sửa thế nào cũng không hối cải, thế là bị đuổi đi. Những người bị đuổi đi này, tâm tính của họ đặc biệt tồi tệ, nhân tính thì kiêu ngạo, đi đến đâu cũng muốn là người có tiếng nói quyết định, chẳng xem ai ra gì, hoành hành ngang ngược, cuối cùng bị thanh lọc ra ngoài. Có người sau khi bị cách chức, đào thải, thì cảm thấy đến đâu cũng không thể suôn sẻ, không còn ai xem trọng mình, để ý đến mình, không thể được người khác coi trọng, bản thân cũng không thể có tiếng nói quyết định, không đạt được những gì mình muốn, hy vọng đạt được địa vị cũng không còn, chuyện được phúc lành lại càng khó nói, thế là họ cảm thấy việc lăn lộn trong hội thánh không có hy vọng, chẳng thích thú chút nào, vậy là họ chọn rời khỏi. Dạng người như vậy cũng không ít” (Cách mưu cầu lẽ thật (4), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). “Con đường tin vào Đức Chúa Trời chông gai, gập ghềnh. Đó là do Đức Chúa Trời định đoạt. Cho dù chuyện gì xảy đến, bất kể nó có như mong muốn của con người, có phù hợp với những quan niệm và tưởng tượng của họ, hoặc có thể dự kiến được đối với họ hay không, thì việc nó xảy đến cũng không thể tách rời khỏi quyền tối thượng của Đức Chúa Trời và sự sắp đặt của Ngài. Việc Đức Chúa Trời làm tất cả những gì Ngài làm có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó cho phép con người rút ra bài học từ đó và biết được quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Mục đích của việc biết quyền tối thượng của Đức Chúa Trời không phải là để con người chống lại Đức Chúa Trời, cũng không phải là để sau khi đã hiểu Đức Chúa Trời, con người sẽ có nhiều sức mạnh và vốn liếng hơn để so đo với Ngài. Mà đó là để khi có chuyện xảy đến, con người sẽ học được cách chấp nhận nó như là một điều đến từ Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật để hiểu được lẽ thật, sau đó thực hành lẽ thật để đạt được sự quy phục thực sự và hình thành đức tin thực sự nơi Ngài. Các ngươi đã hiểu điều này chưa? (Thưa, rồi.) Vậy thì các ngươi đã đưa nó vào thực hành như thế nào? Con đường thực hành của các ngươi đối với những điều như vậy đã đúng đắn hay chưa? Các ngươi có xử lý mọi việc xảy đến với mình bằng tấm lòng quy phục và thái độ tìm kiếm lẽ thật không? Nếu ngươi là người mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ có một tâm thái như vậy. Bất kể chuyện gì xảy đến với ngươi, ngươi sẽ đều chấp nhận nó như là một việc đến từ Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ tiếp tục tìm kiếm lẽ thật, nắm bắt ý muốn của Ngài, và nhìn nhận con người, sự việc trên cơ sở lời Ngài. Trong mọi chuyện xảy đến, ngươi sẽ đều có thể trải nghiệm và biết công tác của Đức Chúa Trời, cũng như có thể quy phục Ngài. Nếu ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật, thì bất kể chuyện gì xảy đến, ngươi cũng sẽ không xử lý nó dựa trên lời Đức Chúa Trời, cũng như không tìm kiếm lẽ thật. Ngươi sẽ chỉ lơ mơ cho qua chuyện, và kết quả là hoàn toàn không đạt được bất kỳ lẽ thật nào. Đức Chúa Trời hoàn thiện con người bằng cách sắp đặt nhiều điều không phù hợp với những quan niệm của họ, nhằm tập cho họ tìm kiếm lẽ thật, hiểu được những việc làm của Ngài, và nhìn thấy được sự toàn năng cũng như sự khôn ngoan của Ngài, để sự sống của họ dần dần trưởng thành. Tại sao những người mưu cầu lẽ thật thì biết trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, đạt được lẽ thật và được Đức Chúa Trời hoàn thiện, trong khi những người không mưu cầu lẽ thật lại bị đào thải? Đó là bởi vì những người mưu cầu lẽ thật có thể tìm kiếm lẽ thật trong bất kể chuyện gì xảy đến với họ, nên họ có được công tác và sự khai sáng của Đức Thánh Linh, nhờ đó có thể thực hành lẽ thật, bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời và được Ngài hoàn thiện; trong khi đó, những người không yêu lẽ thật thấy công tác của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm của họ, nhưng lại không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, thậm chí có thể trở nên tiêu cực và oán trách. Theo thời gian, những quan niệm của họ về Đức Chúa Trời ngày càng nhiều, và họ bắt đầu nghi ngờ, chối bỏ Ngài. Kết quả là họ bị công tác của Đức Chúa Trời vứt bỏ và đào thải” (Mưu cầu lẽ thật là gì (11), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được tâm ý của Ngài. Dù Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh ra sao, Ngài đều hy vọng mọi người học hỏi từ đó, tìm kiếm lẽ thật, và phân định đủ loại con người, sự việc, sự vật, rồi qua đó hoàn thiện những ai thực sự tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật. Còn với những kẻ không mưu cầu lẽ thật, không sẵn lòng tìm kiếm lẽ thật hay học hỏi từ những hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt, mà thay vào đó lại tiêu cực và phàn nàn về Ngài, thì cuối cùng sẽ bị Ngài loại bỏ. Bây giờ, khi thấy từng người trong hội thánh lần lượt bị tiết lộ và loại bỏ, cộng thêm việc mình không thể thực hiện bổn phận vì bệnh tật, tôi đã tưởng rằng Đức Chúa Trời đang tiết lộ và loại bỏ mình, điều này khiến tôi cảm thấy tiêu cực. Tất cả những điều này cần được giải quyết bằng cách tìm kiếm lẽ thật, tôi không thể tiếp tục chìm trong tiêu cực nữa. Tôi bắt đầu phản tỉnh về những gì mình đã bộc lộ. Tôi tưởng rằng Đức Chúa Trời sắp đặt những hoàn cảnh này để tiết lộ và loại bỏ con người, rằng Ngài đã đơn phương không còn cần họ nữa. Quan điểm này liệu có đúng đắn không? Khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi đã nhận ra một điều rằng: Đức Chúa Trời công chính trong cách Ngài đối xử với tất cả mọi người. Ngài đã bày tỏ nhiều lẽ thật để chu cấp cho chúng ta, Ngài giải thích rõ ràng các nguyên tắc và con đường trong mọi phương diện, và cũng cho chúng ta biết hậu quả của việc sống theo tâm tính bại hoại và đi sai đường. Rồi Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh để thử thách con người, để xem liệu họ có thể hành động phù hợp với nguyên tắc lẽ thật và đứng vững làm chứng hay không. Trong quá trình này, Đức Chúa Trời không ép buộc hay cưỡng bách con người chọn một con đường nhất định, Ngài cho họ sự tự do. Nếu con người có thể tìm kiếm lẽ thật và thuận phục trong hoàn cảnh Đức Chúa Trời sắp đặt, có thể phản tỉnh, biết mình, và thực hành theo lời Đức Chúa Trời, thì hoàn cảnh họ gặp phải sẽ là phương tiện để hoàn thiện họ. Nhưng nếu họ kháng cự hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt và không tìm kiếm lẽ thật, thì hoàn cảnh đó sẽ tiết lộ và loại bỏ họ. Kết cục cuối cùng của một người phụ thuộc vào lựa chọn của chính họ và con đường họ đi. Như lời Đức Chúa Trời phán: “Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi” (Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nghĩ về những người đã bị tiết lộ và loại bỏ khỏi hội thánh, tất cả đều liên quan đến lựa chọn cá nhân của họ và vì họ đã không mưu cầu lẽ thật. Như Vương Đào, dù ban đầu đã vứt bỏ mọi thứ để thực hiện bổn phận, nhưng anh ấy liên tục từ chối đón nhận lẽ thật, luôn phân tích quá mức con người và sự việc. Anh ấy không lắng nghe lãnh đạo thông công, cũng không sẵn sàng thực hiện bổn phận của mình. Thậm chí, anh còn từng mất kiên nhẫn mà nói: “Ngày nào họ cũng nói về việc công tác của Đức Chúa Trời sắp kết thúc, nhưng ai biết bao giờ điều đó mới xảy ra! Tôi muốn làm việc để kiếm chút tiền”. Lãnh đạo đã thông công về ý nghĩa của việc tin vào Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, nhưng Vương vẫn kiêu ngạo, và nói rằng: “Vậy thì cách chức tôi đi. Tôi chẳng thể làm nổi bổn phận này nữa đâu”. Sau khi bị cách chức, một số anh chị em đã thông công với anh về việc thực hiện bổn phận, nhưng anh đáp: “Dù các anh chị thông công thế nào, tôi cũng không làm bổn phận nữa đâu, muốn khai trừ tôi thì cứ làm”. Còn về Lý Lệ, dù chị đã có thể vứt bỏ mọi thứ, dành trọn bản thân và thực hiện bổn phận, nhưng chị lại không đón nhận những gì đến từ Đức Chúa Trời, cũng không chấp thuận lẽ thật và luôn phân tích quá mức con người và sự việc. Chị thậm chí còn phán xét anh chị em và gây nhiễu loạn đời sống hội thánh. Dù anh chị em nhiều lần cố gắng thông công nhưng chị vẫn không chịu thay đổi. Sau đó, việc rao giảng phúc âm của chị không mang lại kết quả, và chị còn lan truyền tiêu cực, gây nhiễu loạn trong công tác phúc âm. Khi bị lãnh đạo tỉa sửa, chị có vẻ như chấp thuận, nhưng sau đó lại lan truyền sự bất mãn với lãnh đạo, lôi kéo người khác về phía mình và khiến họ nảy sinh định kiến với lãnh đạo, và hoàn toàn không hề tỏ ra ăn năn. Tôi nhận ra họ bị tiết lộ và loại bỏ bởi vì họ liên tục từ chối lẽ thật, không chịu phản tỉnh và biết mình qua những tình huống họ gặp phải, hành động theo tâm tính bại hoại của mình, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh. Thế mà tôi lại lầm tưởng rằng Đức Chúa Trời đơn phương muốn loại bỏ con người, rằng Ngài không cần chúng ta nữa. Đây là một sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời, thậm chí còn có thể xem là sự báng bổ đối với Ngài. Tôi cũng suy nghĩ về việc việc bệnh tật đã khiến tôi không thể ra ngoài thực hiện bổn phận, và vì những nguy hiểm từ môi trường xung quanh, các anh chị em cũng khó có thể liên lạc với tôi. Tôi tưởng rằng Đức Chúa Trời đã tiết lộ và loại bỏ mình, nhưng đây cũng là một sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Thực tế, Đức Chúa Trời đã sắp đặt hoàn cảnh như vậy để thử thách tôi, để xem tôi sẽ chọn con đường nào. Nếu tôi cứ tiếp tục phàn nàn, hiểu lầm và chìm trong tiêu cực, không đọc lời Đức Chúa Trời, không cầu nguyện hay đến gần Ngài, thậm chí còn nghĩ đến việc vứt bỏ Ngài, thì chắc chắn hoàn cảnh này sẽ tiết lộ và loại bỏ tôi. Nhưng nếu tôi có thể thuận phục trong hoàn cảnh này, phản tỉnh và nhận ra sự bại hoại mình đang bộc lộ, và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng, thì hoàn cảnh này sẽ hoàn thiện tôi. Hiểu được những điều này khiến lòng tôi sáng tỏ hơn rất nhiều. Bây giờ trong hoàn cảnh này, dù không thể thực hiện bổn phận, nhưng tôi cần phải thuận phục, tìm kiếm lẽ thật và giải quyết tâm tính bại hoại của mình.
Tôi tự hỏi: Tại sao tôi lại trở nên tiêu cực đến vậy khi đối mặt với hoàn cảnh này? Rồi tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Mọi người tin Đức Chúa Trời hòng để được ban phước, được tưởng thưởng, được đội mão triều thiên. Chẳng phải điều này tồn tại trong lòng mọi người sao? Thật sự là như vậy. Mặc dù mọi người không thường nói về nó, và thậm chí còn che đậy động cơ và ham muốn được phước, nhưng khao khát và động cơ sâu thẳm trong lòng người này luôn bất di bất dịch. Dù con người có hiểu được bao nhiêu lý thuyết thuộc linh, họ có trải nghiệm hay nhận thức gì, có thể thực hiện bổn phận gì, phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ, hay phải trả giá thế nào, họ cũng không bao giờ buông bỏ được động lực muốn có phước lành ẩn giấu sâu trong lòng, và luôn âm thầm lao nhọc phục vụ động lực đó. Chẳng phải đây là điều sâu kín nhất trong lòng người sao? Nếu không có động cơ nhận được phước lành này, các ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Các ngươi sẽ thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời với thái độ ra sao? Con người sẽ ra sao nếu động cơ được nhận phước lành ẩn sâu trong lòng họ bị dẹp bỏ? Có lẽ nhiều người sẽ trở nên tiêu cực, trong khi một số người sẽ trở nên mất động lực làm bổn phận. Họ sẽ mất hứng thú trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, như thể linh hồn của họ đã tan biến. Trông họ như thể bị mất hồn. Đó là lý do tại sao Ta phán động cơ được nhận phước lành là điều được ẩn giấu sâu kín trong lòng người. Có lẽ, khi họ thực hiện bổn phận của mình hay sống đời sống hội thánh, họ sẽ cảm thấy mình có thể vứt bỏ gia đình và vui vẻ dâng mình cho Đức Chúa Trời, và cảm thấy rằng giờ họ có nhận thức về động cơ được nhận phước lành của mình, và đã gạt bỏ động cơ này sang một bên, thôi không còn bị nó chi phối hay kìm kẹp nữa. Lúc đó họ nghĩ họ không còn động cơ được ban phước nữa, nhưng Đức Chúa Trời thì nghĩ khác. Con người chỉ nhìn nhận vấn đề một cách nông cạn. Nếu không có những thử luyện, họ sẽ cảm thấy hài lòng về bản thân. Miễn là họ không rời khỏi hội thánh hay chối bỏ danh Đức Chúa Trời, và họ kiên định dâng mình cho Đức Chúa Trời, thì họ tin rằng mình đã thay đổi. Họ cảm thấy không còn bị chi phối bởi nhiệt huyết cá nhân hay những bốc đồng nhất thời trong lúc thực hiện bổn phận của mình. Thay vào đó, họ tin họ có thể mưu cầu lẽ thật, và tin họ có thể liên tục tìm kiếm và thực hành lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận, để những tâm tính bại hoại của họ được làm tinh sạch và họ đạt được chút thay đổi thực sự nào đó. Tuy nhiên, khi có những việc xảy ra liên hệ trực tiếp đến đích đến và kết cục của con người, thì họ hành xử như thế nào? Toàn bộ sự thật đều bị tỏ lộ” (Sáu dấu chỉ của sự phát triển trong sự sống, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra mình tin Đức Chúa Trời chỉ vì muốn nhận được phước lành. Trước đây, khi không có chuyện gì xảy ra, tôi có thể tích cực làm bổn phận của mình. Tôi sẵn sàng đảm nhận bất kỳ công tác nào mà hội thánh giao, kể cả khi bị bệnh, tôi vẫn kiên trì thực hiện bổn phận của mình. Nhưng giờ khi bệnh nặng, tôi không thể thực hiện bổn phận, các anh chị em cũng chẳng thể liên lạc với tôi. Tôi cảm thấy như Đức Chúa Trời đã loại bỏ mình, và rằng tôi không còn kết cục hay đích đến tốt đẹp nào nữa. Tôi trở nên tiêu cực đến mức không muốn làm bất kỳ bổn phận nào, không muốn mưu cầu lẽ thật hay cố gắng vươn lên nữa. Tôi thậm chí không muốn đọc lời Đức Chúa Trời, và chìm trong trạng thái tiêu cực. Hóa ra tôi tích cực thực hiện bổn phận chỉ để có được phước lành, đổi lấy kết cục và đích đến tốt đẹp từ Đức Chúa Trời. Khi nhận ra không còn hy vọng nhận được phước lành, tôi liền mất đi động lực để tin Đức Chúa Trời. Làm sao tôi có thể chân thành mà tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình? Tôi từng nghĩ rằng mình có đức tin chân thành vào Đức Chúa Trời, rằng tôi là người mưu cầu lẽ thật, và mỗi khi gặp chuyện, tôi đều nhanh chóng tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Trải nghiệm lần này đã hoàn toàn tỏ lộ tôi. Khi thấy rằng không còn hy vọng nhận được phước lành, tôi trở nên tiêu cực và ngừng tìm kiếm lẽ thật. Tôi như vậy mà là người mưu cầu lẽ thật sao? Ngay cả khi không gặp hoàn cảnh này và có thể tiếp tục thực hiện bổn phận, nếu tâm tính bại hoại của tôi không thay đổi, động cơ cũng như quan niệm về niềm tin vào Đức Chúa Trời và việc làm bổn phận không đúng đắn, thì cuối cùng tôi vẫn sẽ là đối tượng bị Đức Chúa Trời loại bỏ vì không đạt được lẽ thật. Tôi cảm thấy hối hận và mắc nợ trong lòng, vì vậy tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con thật sự thiếu lương tâm. Con không chân thành tin Ngài, mà lại chỉ mong nhận được phước lành. Lạy Đức Chúa Trời, con sẵn sàng ăn năn và thay đổi. Dù kết cục tương lai của con có ra sao, con vẫn sẽ hết lòng tin Ngài, tuân theo Ngài và chăm chỉ mưu cầu lẽ thật”.
Rồi tôi đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời và hiểu thêm về quan điểm của mình. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Có những người nói: ‘Chẳng phải Đức Chúa Trời muốn vạn người được cứu, không muốn bất kỳ ai trầm luân hay sao? Nếu Đức Chúa Trời làm theo cách này thì có bao nhiêu người có thể được cứu chứ?’. Ngài sẽ hỏi ngược lại con người một câu: ‘Có mấy ai nghe lời Ta và tuân theo con đường của Ta?’. Có mấy người thì tính là mấy người, đây chính là quan điểm của Đức Chúa Trời, cũng là cách thức làm việc của Ngài, Ngài chỉ làm đến đây thôi. Quan niệm của con người trong chuyện này là gì? ‘Đức Chúa Trời thương xót và bận lòng về nhân loại này thì Ngài phải chịu trách nhiệm đến cùng, người đi theo đến cùng tất nhiên sẽ được cứu rỗi’. Loại quan niệm này có đúng hay không? Có hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời không? Trong Thời đại Ân điển, con người có những quan niệm này là bình thường, bởi vì lúc đó họ chưa nhận biết Đức Chúa Trời. Vào thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đã nói cho con người biết hết mọi lẽ thật, cũng đã nói rõ ràng cho họ về nguyên tắc công tác cứu rỗi con người của Ngài, nếu trong lòng họ vẫn có những quan niệm này thì quá vô lý. Đức Chúa Trời đã nói với ngươi hết mọi lẽ thật này, thế mà cuối cùng ngươi vẫn nói rằng ngươi không hiểu tâm ý của Ngài, không biết thực hành thế nào, còn nói ra những lời đại nghịch bất đạo, những người như vậy có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi sao? Có vài người luôn nghĩ: ‘Đức Chúa Trời thực hiện công tác lớn như vậy, hẳn là phải thu nhận hơn một nửa số người trên toàn cầu, dùng nhân số đông, thế lực lớn, đông đảo nhân vật ở tầng lớp trên để làm chứng cho Đức Chúa Trời được quang vinh thì thật tốt biết bao!’. Đây chính là quan niệm của con người. Theo ghi chép trong Kinh Thánh, dù là Tân Ước hay Cựu Ước thì có tổng cộng bao nhiêu người được cứu rỗi và hoàn thiện? Cuối cùng người có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác có những ai? (Thưa, là Gióp và Phi-e-rơ.) Chỉ có hai người họ. Ở nơi Đức Chúa Trời, tiêu chuẩn của việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác đạt đến, thực ra chính là nhận thức Đức Chúa Trời, nhận thức Đấng Tạo Hóa. Trong mắt Đức Chúa Trời, người giống như Áp-ra-ham và Nô-ê cũng được coi là con người công chính nhưng vẫn kém hơn Gióp và Phi-e-rơ một bậc. Đương nhiên, vào thời điểm đó Đức Chúa Trời không làm nhiều công tác như vậy, không chu cấp cho nhân loại như bây giờ, không nói nhiều lời rõ ràng và thực hiện công tác cứu rỗi quy mô lớn như vậy, mặc dù thu nhận được ít người, nhưng chuyện đó cũng nằm trong dự định của Đức Chúa Trời. Vậy từ việc này thấy được phương diện tâm tính nào của Đấng Tạo Hóa? Đức Chúa Trời cũng hy vọng thu nhận được nhiều người, nhưng nếu như trên thực tế không thể thu nhận được những người này, nhân loại trong lúc Đức Chúa Trời làm công tác cứu rỗi không thể được Đức Chúa Trời thu nhận, vậy Đức Chúa Trời thà rằng vứt bỏ, không cần, đây chính là tiếng lòng và quan điểm của Đấng Tạo Hóa. Con người có yêu cầu hay quan niệm gì đối với Đức Chúa Trời ở phương diện này không? ‘Ngài đã cứu rỗi con thì nhất định phải chịu trách nhiệm đến cùng, nếu Ngài đã hứa ban phúc cho con thì nhất định phải ban cho con, để con có được nó’. Bên trong con người có rất nhiều cái ‘nhất định phải’, có rất nhiều yêu cầu, đây là một loại quan niệm trong đó. Lại có người nói: ‘Đức Chúa Trời làm công tác lớn như vậy, kế hoạch quản lý sáu ngàn năm, cuối cùng nếu chỉ thu nhận được hai người thì thật đáng tiếc, đây chẳng phải là đã làm việc vô ích sao?’. Con người cho rằng không nên như vậy, nhưng đối với Đức Chúa Trời, cho dù thu nhận được hai người cũng đáng mừng rồi. Thực ra, mục đích của Đức Chúa Trời không phải chỉ để thu nhận được hai người này, mà là để thu nhận được nhiều người hơn, nhưng nếu như con người ai cũng không thông suốt, hiểu lầm Đức Chúa Trời, chống đối Ngài, như thứ bùn nhão không thể trát tường, thì Đức Chúa Trời thà không cần, đó chính là tâm tính của Đức Chúa Trời. Có vài người nói: ‘Không được, như vậy Sa-tan không cười nhạo sao?’, Sa-tan chẳng phải là bại tướng dưới tay Đức Chúa Trời sao? Đức Chúa Trời vẫn thu nhận được nhân loại, vẫn thu nhận được một số người có thể chống lại Sa-tan từ trong nhân loại, không bị Sa-tan kiểm soát, Đức Chúa Trời đã thu nhận được con người thọ tạo chân chính. Vậy thì những người không được Đức Chúa Trời thu nhận đã bị Sa-tan bắt đi rồi sao? Bây giờ các ngươi chưa được hoàn thiện, vậy các ngươi có thể đi theo Sa-tan hay không? (Thưa, không thể.) Có vài người nói rằng: ‘Đức Chúa Trời không cần tôi thì tôi cũng không đi theo Sa-tan, dầu Sa-tan có ban phúc cho tôi, tôi cũng không cần’. Những người chưa được Đức Chúa Trời thu nhận đều không đi theo Sa-tan, đây chẳng phải là Đức Chúa Trời được vinh hiển sao? Con người có quan niệm về số lượng hoặc quy mô của những người mà Đức Chúa Trời thu nhận, cho rằng Đức Chúa Trời không nên chỉ thu nhận số ít những người đó. Con người có thể nảy sinh loại quan niệm này, một mặt là do con người đoán không thấu tâm tư của Đức Chúa Trời, cũng nhìn không thấu Ngài muốn thu nhận người như thế nào, giữa con người và Đức Chúa Trời luôn luôn có khoảng cách; mặt khác, trong lòng con người có loại quan niệm đó là một dạng tự an ủi, tự giải thoát đối với tiền đồ và số phận của mình. Con người cho rằng: ‘Số người mà Đức Chúa Trời thu nhận quá ít, nếu như thu nhận được chúng ta, vậy Đức Chúa Trời sẽ vinh hiển biết mấy! Nếu như Đức Chúa Trời không vứt bỏ bất cứ ai, ai cũng được Đức Chúa Trời chinh phục, hơn nữa cuối cùng còn được Đức Chúa Trời hoàn thiện, lời nói Ngài tuyển chọn con người, cứu rỗi con người này không vô ích, công tác quản lý của Ngài cũng không vô ích, vậy thì không phải Sa-tan sẽ càng nhục nhã, còn Đức Chúa Trời càng được vinh hiển hơn sao?’. Họ có thể nói lời này, một mặt là vì họ không có nhận thức về Đấng Tạo Hóa, mặt khác họ có tư tâm của mình, họ lo lắng cho tiền đồ của mình, nên họ gắn liền tương lai của mình với vinh hiển của Đấng Tạo Hóa, như vậy trong lòng họ mới yên ổn, cảm thấy đây là chuyện vẹn cả đôi đường. Ngoài ra, họ còn cảm thấy ‘Con người được Đức Chúa Trời thu nhận, khiến cho Sa-tan phải nhục nhã, đó là bằng chứng mạnh mẽ của việc đánh bại Sa-tan, đây là chuyện một công ba việc’. Con người thật biết cách tính toán, quan niệm này thật tài tình phải không? Con người có tư tâm, trong tư tâm này có mang theo sự phản nghịch hay không? Có mang theo yêu cầu đối với Đức Chúa Trời hay không? Trong đó có một loại phản kháng vô thanh đối với Đức Chúa Trời, nói rằng: ‘Nếu Ngài đã tuyển chọn chúng con, Ngài đã dẫn dắt chúng con, Ngài đã tốn nhiều công sức ở trên người chúng con như vậy, Ngài đem sự sống và mọi sự của Ngài ban cho chúng con, đem lời nói và lẽ thật của Ngài ban cho chúng con, hơn nữa còn để cho chúng con đi theo Ngài nhiều năm như vậy, đến cuối cùng nếu như Ngài không thu nhận được chúng con thì Ngài bị thiệt thòi quá rồi’. Họ lấy cớ này để uy hiếp Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời nhất định phải thu nhận họ, nếu như Ngài không thu nhận họ, vậy thì không phải là chuyện họ chịu thiệt, mà là Đức Chúa Trời lỗ vốn, câu nói này đúng không? Trong chuyện này, một mặt có yêu cầu của con người, mặt khác cũng có quan niệm và tưởng tượng của con người, tức là Đức Chúa Trời làm công tác lớn như vậy thì nhất định phải thu nhận bao nhiêu người. Cái ‘nhất định phải’ này đến từ đâu? Đến từ quan niệm và tưởng tượng của con người, đến từ yêu cầu vô lý, lòng tham hư vinh của con người, đồng thời cũng có sự cương ngạnh và tâm tính hung ác của con người trộn lẫn trong đó” (Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình thì mới có thể tiến vào đúng hướng của đức tin nơi Đức Chúa Trời (2), Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Nhờ lời Đức Chúa Trời, tôi đã phân định được một số quan niệm của mình. Trước đây, tôi cho rằng Đức Chúa Trời không nên tiết lộ và loại bỏ con người, mà nên thu phục nhiều người hơn, để Ngài nhận được nhiều vinh quang hơn. Nên khi thấy người trong hội thánh lần lượt bị tiết lộ và loại bỏ, tôi cảm thấy bối rối: Nhiều người bị tiết lộ và loại bỏ như vậy, cuối cùng sẽ còn lại bao nhiêu người được cứu rỗi chứ? Đặc biệt khi không thể làm bổn phận vì bệnh tật, tôi cũng cảm thấy Đức Chúa Trời đang tiết lộ và loại bỏ mình. Tôi đã hiểu lầm Đức Chúa Trời, thậm chí còn thầm tranh cãi với Ngài trong lòng: “Chẳng phải công tác của Đức Chúa Trời là cứu rỗi con người sao? Tại sao cuối cùng chúng con đều bị loại bỏ?”. Điều này cho thấy tôi thiếu hiểu biết về công tác của Đức Chúa Trời. Thực ra, tâm ý cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời không hề thay đổi, và Ngài vẫn hy vọng thu phục được nhiều người hơn. Chỉ cần con người sẵn lòng trung thành đem sức lực phục vụ Đức Chúa Trời, Ngài sẽ không dễ dàng loại bỏ họ. Nhưng nếu con người không trân trọng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, không tìm kiếm lẽ thật khi đối diện với mọi chuyện, không thực hiện bổn phận theo yêu cầu của Ngài, rốt cục phục vụ mà mang lại nhiều hại hơn lợi, thì Đức Chúa Trời thà từ bỏ những người đó còn hơn. Tâm tính của Đức Chúa Trời công chính và thánh khiết. Ngài không quan tâm đến số lượng, mà là chất lượng của con người. Điều Ngài muốn có được là những loài thọ tạo chân chính, chân thành thờ phượng và tương hợp với Ngài, dù chỉ là số ít. Hơn nữa, tôi hy vọng rằng Đức Chúa Trời sẽ cứu rỗi nhiều người hơn thay vì tỏ lộ và loại bỏ họ, trong đó có cũng có sự ích kỷ của riêng tôi. Bởi như vậy, tôi sẽ không bị loại bỏ, và triển vọng cũng như đích đến của tôi sẽ được đảm bảo. Vì vậy, khi cảm thấy mình bị Đức Chúa Trời tiết lộ và loại bỏ, tôi đã trở nên tiêu cực và không muốn mưu cầu lẽ thật nữa. Tôi thầm lý luận với Đức Chúa Trời trong lòng: “Chẳng phải Đức Chúa Trời chọn chúng con để cứu rỗi hay sao? Vậy tại sao chúng con lại lần lượt bị tỏ lộ và loại bỏ?”. Ý của tôi là Đức Chúa Trời không nên loại bỏ mà nên cứu rỗi chúng tôi đến cùng. Chẳng phải điều này giống với bản chất lời của Phao-lô sao: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:7-8)? Đây chính là sự chống lại Đức Chúa Trời! Thật là một tâm tính hung ác. Thực ra, bất kể hoàn cảnh nào do Đức Chúa Trời sắp đặt, đều là để chúng ta tìm kiếm lẽ thật trong đó và đạt được lẽ thật, để chúng ta có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại và được cứu rỗi. Cũng giống như hoàn cảnh này, dù nó không phù hợp với quan niệm của tôi và mang lại đau khổ cho tôi, nhưng nó đã tiết lộ động cơ tìm kiếm phước lành trong tôi. Nó khiến tôi nhận ra những động cơ xen lẫn trong đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời cũng như trong việc thực hiện bổn phận, và cho tôi cơ hội để quay lại và thay đổi. Tôi hiểu ra hoàn cảnh này chính là sự cứu rỗi dành cho mình. Đức Chúa Trời đã nỗ lực hết lòng để cứu rỗi chúng ta. Ngài không chỉ bày tỏ lẽ thật để chu cấp cho chúng ta, mà còn sắp đặt những hoàn cảnh khác nhau để chúng ta trải nghiệm, làm tinh sạch và hoàn thiện. Vậy mà tôi lại kháng cự và phàn nàn về hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt. Tôi thật sự đã không biết trân quý điều đó! Việc Đức Chúa Trời chọn tôi để đón nhận công tác của Ngài trong thời kỳ sau rốt đã là ân điển của Ngài. Tôi nên biết ơn Ngài mới phải. Dù cuối cùng tôi không nhận được phước lành hay không có kết cục tốt đẹp, tôi vẫn nên thuận phục Đức Chúa Trời và không tranh cãi với Ngài.
Sau đó, tôi đọc thêm được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Bắt đầu mưu cầu lẽ thật một cách nghiêm túc từ bây giờ, nhưng phải mưu cầu lẽ thật như thế nào? Ngươi cần phản tỉnh về những chuyện mà mình thường phản nghịch với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã hết lần này đến lần khác sắp đặt cho ngươi những hoàn cảnh để dạy cho ngươi một bài học, để thay đổi ngươi thông qua những chuyện này, để đưa lời Ngài vào trong ngươi, để khiến ngươi bước vào một phương diện của thực tế lẽ thật, để ngăn ngươi sống theo tâm tính bại hoại của Sa-tan trong những chuyện này, và thay vào đó, sống theo lời Đức Chúa Trời, để lời Ngài được khắc sâu vào trong ngươi và trở thành sự sống của ngươi. Nhưng ngươi thường xuyên phản nghịch Đức Chúa Trời trong những chuyện này, không quy phục Đức Chúa Trời, cũng không tiếp nhận lẽ thật, không xem lời Ngài là nguyên tắc mà ngươi phải tuân thủ, không sống thể hiện ra lời Ngài. Điều này khiến Đức Chúa Trời đau lòng, và hết lần này đến lần khác, ngươi đánh mất cơ hội được cứu rỗi của mình. Vậy ngươi phải xoay chuyển bản thân như thế nào? Bắt đầu từ hôm nay, trong những chuyện mà ngươi có thể nhận ra thông qua phản tỉnh và cảm nhận rõ ràng, ngươi phải vâng phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, tiếp nhận lời Ngài như là thực tế lẽ thật, tiếp nhận lời Ngài như là sự sống, và thay đổi cách sống của ngươi. Khi gặp những chuyện như thế này, ngươi phải phản bội xác thịt và những sở thích của mình, phải hành động theo các nguyên tắc lẽ thật. Đây chẳng phải là con đường thực hành sao? (Thưa, phải.) … Tuy nhiên, nếu ngươi muốn đạt được sự cứu rỗi, muốn thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, đạt được lẽ thật và sự sống, thì ngươi phải đọc thêm lời Đức Chúa Trời, đạt đến việc hiểu lẽ thật, có thể thực hành và quy phục lời Ngài, bắt đầu từ việc thực hành lẽ thật và giữ vững các nguyên tắc lẽ thật. Đây chỉ là vài câu đơn giản, thế mà người ta chẳng biết cách thực hành hay trải nghiệm chúng. Bất kể tố chất hay học vấn, bất kể tuổi đời hay thâm niên trong đức tin, bất kể thế nào đi nữa, nếu ngươi đi trên con đường đúng đắn của việc thực hành lẽ thật, có những mục tiêu và phương hướng đúng đắn, nếu những gì ngươi mưu cầu và dốc sức đều là để thực hành lẽ thật, thì cuối cùng những gì ngươi thu hoạch được chắc chắn là thực tế lẽ thật và lời Đức Chúa Trời trở thành sự sống của ngươi. Trước hết, hãy xác định mục tiêu, rồi dần dần thực hành theo con đường này, đến cuối cùng, chắc chắn ngươi sẽ có thu hoạch. Các ngươi có tin như vậy không? (Thưa, có.)” (Cách mưu cầu lẽ thật (20), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Lời Đức Chúa Trời đã chỉ cho tôi con đường thực hành. Nếu tôi muốn mưu cầu lẽ thật và được cứu rỗi, tôi phải thuận phục những hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt, tìm kiếm lẽ thật, và thực hành theo lời Ngài. Dù bây giờ tôi không thể làm bổn phận hay tiếp xúc với anh chị em, nhưng tôi đã thấy được sự bảo vệ của Đức Chúa Trời trong hoàn cảnh này. Dù tôi bị bệnh nặng, nhưng Đức Chúa Trời vẫn ban cho tôi từng hơi thở, và tôi vẫn còn sống. Tôi vẫn có thể đọc lời Đức Chúa Trời tại nhà, Ngài đã không tước đi quyền được đọc lời Ngài của tôi. Vậy mà tôi không biết đường cảm kích. Thay vì trân trọng sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, tôi lại tiêu cực và hiểu lầm Ngài. Tôi thật sự đã mất lý trí. Tôi cần phản tỉnh và biết mình hơn, tìm kiếm những lời liên quan của Đức Chúa Trời để giải quyết sự bại hoại của chính mình. Đó mới là biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật.
Sau một thời gian, tôi lại có thể thực hiện bổn phận của mình, lựa chọn các bài giảng phúc âm. Tôi biết ơn Đức Chúa Trời sâu sắc vì đã ban cho tôi thêm một cơ hội để làm bổn phận. Khi thực hiện bổn phận, tôi chú ý đến việc kiểm điểm tâm tính bại hoại mà mình bộc lộ. Đôi khi, tôi cũng không khỏi cảm thấy tự mãn khi đạt được một số kết quả trong bổn phận, nghĩ rằng mình cũng khá giỏi giang. Nhưng khi việc thực hiện bổn phận không đạt được kết quả hoặc đi sai hướng, tôi lại trở nên tiêu cực và bận tâm về cách người khác nhìn nhận mình. Trước sự tiết lộ này về bản thân, tôi hướng đến lời Đức Chúa Trời để tìm giải pháp. Sau một thời gian thực hành như vậy, tôi cảm thấy lòng mình rất mãn nguyện. Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự dẫn dắt của Ngài!