Những lời về cách giải quyết tâm tính bại hoại

Trích đoạn 49

Những gì tâm tính bại hoại của con người bao hàm, không gì khác ngoài những thứ tà ác và phi lý. Thứ nghiêm trọng nhất trong số đó chính là tâm tính kiêu ngạo của con người và những thứ tuôn ra từ nó, cụ thể là đặc biệt tự nên công chính và tự cao, tin rằng mình mạnh hơn người khác, không chịu khuất phục bất kỳ ai, lúc nào cũng nhất quyết giành quyền ra phán quyết cuối cùng, việc gì cũng phô trương bản thân, làm gì cũng tìm kiếm sự tâng bốc và ca tụng, không ngừng thèm muốn có người khác vây quanh mình, luôn xem mình là trung tâm, luôn nuôi những tham vọng và dục vọng, và luôn muốn có mão triều thiên và phần thưởng, muốn cai trị như vua – tất cả những vấn đề này đều được xếp vào loại những tâm tính bại hoại nghiêm trọng nhất. Những cái còn lại chỉ là vấn đề thường. Ví dụ như, có những quan điểm sai lầm, suy nghĩ vô lý, lươn lẹo và giả dối, ghen tị và ích kỷ, hay tranh cãi, hành động không có nguyên tắc, vân vân. Đây đều là những tâm tính bại hoại thông thường nhất. Có nhiều loại tâm tính bại hoại có trong tâm tính Sa-tan, nhưng rõ ràng nhất và nổi bật nhất là tâm tính kiêu ngạo. Sự kiêu ngạo là gốc rễ của tâm tính bại hoại ở con người. Con người càng kiêu ngạo thì họ càng vô lý, và họ càng vô lý thì càng có khả năng chống đối Đức Chúa Trời. Vấn đề này nghiêm trọng đến mức nào? Không chỉ những người có tâm tính kiêu ngạo coi người khác bên dưới họ, mà, tệ nhất là họ thậm chí còn ra vẻ kẻ cả với Đức Chúa Trời, và trong lòng không kính sợ Đức Chúa Trời. Mặc dù người ta có thể có vẻ tin Đức Chúa Trời và theo Ngài, nhưng họ không hề coi Ngài là Đức Chúa Trời. Họ luôn cảm thấy rằng họ sở hữu lẽ thật và tự cao tự đại. Đây là thực chất và gốc rễ của tâm tính kiêu ngạo, và nó đến từ Sa-tan. Do đó, vấn đề kiêu ngạo phải được giải quyết. Cảm thấy mình tốt hơn những người khác – là chuyện nhỏ. Vấn đề quan trọng là tâm tính kiêu ngạo của một người ngăn họ vâng phục Đức Chúa Trời, sự trị vì của Ngài và sự sắp đặt của Ngài; người như vậy luôn muốn cạnh tranh với Đức Chúa Trời để nắm quyền và kiểm soát những người khác. Loại người này không tôn kính Đức Chúa Trời dù chỉ một chút, nói chi đến việc yêu Đức Chúa Trời hay vâng phục Ngài. Những người kiêu ngạo và tự phụ, đặc biệt là những ai kiêu ngạo đến mức mất hết cả ý thức, không thể vâng phục Đức Chúa Trời trong niềm tin của họ vào Ngài, và thậm chí còn đề cao và làm chứng cho chính mình. Những người như vậy chống đối Đức Chúa Trời nhiều nhất và tuyệt đối không kính sợ Đức Chúa Trời. Nếu mọi người muốn đi đến chỗ họ tôn kính Đức Chúa Trời, thì trước tiên họ phải giải quyết tâm tính kiêu ngạo của mình. Ngươi càng giải quyết triệt để tâm tính kiêu ngạo của ngươi, thì ngươi sẽ càng tôn kính Đức Chúa Trời hơn, và chỉ khi đó ngươi mới có thể vâng phục Ngài và có được lẽ thật và biết Ngài. Chỉ những người đạt được lẽ thật mới là con người đích thực.

Trích đoạn 50

Những tâm tính bại hoại của con người như kiêu ngạo, tự nên công chính và cương ngạnh, là những dạng bệnh khó trị. Chúng như khối u ác tính phát triển trong cơ thể con người, nếu không chịu đau đớn phần nào thì không thể giải quyết chúng. Không như các bệnh nhất thời vài ngày là khỏi, chứng bệnh khó trị này không phải là bệnh nhẹ, và phải dùng cách điều trị quyết liệt mới được. Tuy nhiên, có một sự thật mà các ngươi phải biết, đó là không có vấn đề nào mà không thể giải quyết. Các tâm tính bại hoại của các ngươi sẽ dần giảm bớt khi các ngươi mưu cầu lẽ thật, trưởng thành trong sự sống, khi hiểu biết và trải nghiệm về lẽ thật của các ngươi trở nên sâu sắc hơn. Những tâm tính bại hoại phải giảm bớt đến mức độ nào thì mới được xem là đã nên tinh sạch? Khi ngươi không còn bị chúng kìm kẹp và ngươi có thể phân định, từ bỏ chúng. Dù đôi khi chúng có thể ngoi lên, nhưng ngươi vẫn có thể làm bổn phận và thực hành lẽ thật như thường lệ, vẫn mẫn cán và có trách nhiệm, không bị chúng kìm kẹp. Lúc đó, những tâm tính bại hoại không còn là vấn đề với ngươi, và ngươi đã thắng được chúng, đã vượt lên trên chúng. Đây chính là có sự trưởng thành trong sự sống, là khi ở trong những hoàn cảnh bình thường, ngươi không còn bị kìm kẹp hay trói buộc bởi những tâm tính bại hoại của mình. Có người dù bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại đi nữa, vẫn không chịu tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Kết quả là dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, mà những tâm tính của họ vẫn không thay đổi. Họ nghĩ: “Hễ làm gì mình cũng bộc lộ những tâm tính bại hoại, nếu mình kiềm chế không làm gì cả thì sẽ không bộc lộ tâm tính bại hoại. Như thế chẳng phải vấn đề đã được giải quyết hay sao?”. Như thế chẳng giống sợ nghẹn mà nhịn ăn à? Kết quả sẽ thế nào? Chỉ có thể dẫn đến cảnh chết đói. Nếu người ta bộc lộ những tâm tính bại hoại mà không giải quyết chúng, thì cũng tương đương với không tiếp nhận lẽ thật rồi gục chết. Tin Đức Chúa Trời mà không mưu cầu lẽ thật thì hậu quả sẽ là gì? Là ngươi sẽ tự đào mộ chôn mình. Những tâm tính bại hoại là kẻ thù đối với đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời, chúng cản trở ngươi thực hành lẽ thật, trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và quy phục Ngài. Kết quả là cuối cùng ngươi sẽ không đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Như thế chẳng phải là tự đào mộ chôn mình sao? Những tâm tính Sa-tan ngăn cản ngươi tiếp nhận và thực hành lẽ thật. Ngươi không được tránh né chúng, mà phải đương đầu với chúng. Nếu ngươi không thắng được chúng thì chúng sẽ kiểm soát ngươi. Nếu ngươi thắng được chúng thì ngươi sẽ không còn bị chúng kìm kẹp và ngươi sẽ được tự do. Nhiều lúc, những tâm tính bại hoại vẫn sẽ trỗi lên trong lòng ngươi và bộc lộ ra, khiến ngươi nảy sinh những tâm tư và ý niệm sai lầm, những suy nghĩ tà ác, khiến ngươi cảm thấy tự mãn hoặc thấy mình vĩ đại, tuôn ra những suy nghĩ như vậy; tuy nhiên, khi hành động, tay chân ngươi không còn bị chúng trói buộc, lòng ngươi không còn bị chúng kiểm soát. Ngươi sẽ nói: “Ý định của tôi là quan tâm đến lợi ích nhà Đức Chúa Trời, làm những việc thỏa mãn Đức Chúa Trời, thực hiện bổn phận và sự dâng hiến của một tạo vật. Dù đôi khi tôi vẫn bộc lộ dạng tâm tính này, nhưng nó tuyệt đối không có ảnh hưởng gì lên tôi”. Như thế là đủ. Dạng tâm tính bại hoại này như thế là đã được giải quyết về căn bản. Sự thay đổi tâm tính này của con người là thứ mơ hồ và không thể thấy rõ sao? (Thưa, không.) Nó thực tế như vậy đấy. Có người nói: “Dù đã hiểu chút lẽ thật, tôi vẫn có những tâm tư và ý niệm bại hoại, vẫn bộc lộ những tâm tính bại hoại. Tôi phải làm gì đây?”. Nếu ngươi thật sự là người mưu cầu lẽ thật, thì mỗi khi có những tâm tư và ý niệm sai lầm hoặc bộc lộ những tâm tính bại hoại, ngươi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Đây là nguyên tắc thực hành căn bản nhất, ngươi sẽ không quên đâu nhỉ? Ngoài ra, ngươi cũng phải biết rằng, mỗi khi có những tâm tư và ý niệm sai lầm thì ngươi phải cự tuyệt chúng, không được để chúng kìm kẹp và trói buộc, càng không được thuận theo chúng. Chỉ cần hiểu được một chút lẽ thật thì ngươi sẽ dễ dàng làm được việc này. Nếu có bộc lộ những tâm tính bại hoại, thì ngươi phải dốc sức tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Ngươi không được nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con lại bộc lộ tâm tính bại hoại, xin Ngài sửa dạy con! Con không kiểm soát được những tâm tính bại hoại của mình”. Nếu ngươi cầu nguyện như thế, thì nó cho thấy ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật. Nó cho cho thấy ngươi tiêu cực và bị động, đã buông bỏ bản thân – như thế thì ngươi liệu mà chuẩn bị quan tài, lo hậu sự đi là vừa. Ngươi nói xem, dạng người nào thì cầu nguyện như thế? Chỉ có kẻ vô dụng mới cầu nguyện với Đức Chúa Trời như thế. Người yêu mến lẽ thật thì không bao giờ thốt lên những lời đó. Nếu là người yêu mến lẽ thật, thì ngươi phải chọn con đường mưu cầu lẽ thật và cũng phải hiểu rõ về cách thực hành. Nếu như gặp những vấn đề rất bình thường này mà ngươi còn không biết cách thực hành, thì ngươi quá vô dụng rồi. Giải quyết các tâm tính bại hoại là chuyện cả đời, không phải là chuyện có thể đạt được chỉ trong vòng vài năm. Tại sao ngươi lại nuôi những ảo tưởng trong chuyện đạt được lẽ thật và sự sống? Đấy chẳng phải là quá ngu muội và vô tri sao?

Trong quá trình mưu cầu sự thay đổi trong tâm tính sự sống, với tất cả mọi người mà nói, khó khăn lớn nhất là từ những sự kìm kẹp của các tâm tính bại hoại. Khi người ta bộc lộ một chút tâm tính bại hoại, hoặc bộc lộ nó hết lần này đến lần khác, khi họ cảm thấy không thể kiểm soát được nó, thì họ tự lên án chính mình, xác định rằng mình coi như xong rồi, không thể thay đổi. Đây là sự mơ hồ và hiểu lầm mà hầu như ai cũng có. Hiện giờ, một số người mưu cầu lẽ thật đã nhận ra rằng chỉ cần những tâm tính bại hoại còn tồn tại trong con người thì họ có thể thường xuyên bộc lộ chúng, ảnh hưởng đến việc làm bổn phận và cản trở họ thực hành lẽ thật, nếu họ không thể phản tỉnh bản thân để giải quyết vấn đề về những tâm tính bại hoại thì họ sẽ không thể làm bổn phận cho thỏa đáng. Do đó, những ai luôn làm bổn phận một cách tiêu cực, bất cẩn và chiếu lệ, thì phải nghiêm túc phản tỉnh bản thân và đào bới cho ra căn nguyên vấn đề của mình để giải quyết. Tuy nhiên, có những người có nhận thức méo mó, họ nghĩ: “Hễ ai bộc lộ tâm tính bại hoại khi đang làm bổn phận thì phải dừng ngay lại và giải quyết chúng cho triệt để rồi mới được tiếp tục làm bổn phận”. Quan điểm này có vững không? Đây là tưởng tượng của con người, quan điểm này hoàn toàn không thể đứng vững. Kỳ thực, với hầu hết mọi người, bất kể họ bộc lộ tâm tính bại hoại nào trong khi làm bổn phận, chỉ cần họ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng thì những bộc lộ sự bại hoại của họ ngày càng ít đi và cuối cùng họ làm bổn phận một cách thỏa đáng. Đây là quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Ngay khi bộc lộ tâm tính bại hoại, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó, phân định và mổ xẻ tâm tính Sa-tan của mình. Đây là quá trình chiến đấu chống lại tâm tính Sa-tan của ngươi, và nó là điều thiết yếu cho trải nghiệm sự sống của ngươi. Trong khi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và thay đổi tâm tính của mình, ngươi dùng những lẽ thật mà ngươi đã hiểu để đấu với tâm tính Sa-tan của ngươi, cuối cùng giải quyết được những tâm tính bại hoại của mình và chiến thắng Sa-tan, từ đó đạt được sự thay đổi trong tâm tính. Quá trình thay đổi tâm tính của người ta chính là quá trình tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật để trục xuất những quan niệm và tưởng tượng của con người, những câu chữ giáo lý, những triết lý sống và những tà thuyết, ngụy biện khác nhau từ Sa-tan, dần dần thay thế chúng bằng lẽ thật và lời Đức Chúa Trời. Đây là quá trình đạt được lẽ thật và thay đổi tâm tính của một con người. Nếu ngươi muốn biết tâm tính của mình đã thay đổi được chừng nào, thì ngươi phải thấy rõ mình hiểu bao nhiêu lẽ thật, đã thực hành bao nhiêu lẽ thật, và có thể sống thể hiện ra bao nhiêu lẽ thật. Ngươi phải thấy rõ bao nhiêu tâm tính bại hoại của mình đã được thay thế bằng những lẽ thật mà ngươi đã hiểu và đạt được, thấy những lẽ thật đó có thể khống chế những tâm tính bại hoại trong ngươi đến mức nào, nghĩa là những lẽ thật mà ngươi đã hiểu đó có thể dẫn dắt suy nghĩ và ý định, đời sống thường nhật và việc thực hành của ngươi đến mức nào. Ngươi phải thấy rõ liệu khi ngươi gặp chuyện, những tâm tính bại hoại của ngươi chiếm thế thượng phong hay là những lẽ thật mà ngươi đã hiểu chiếm thế thượng phong và dẫn dắt ngươi. Đây là tiêu chuẩn để đánh giá vóc giạc và lối vào sự sống của ngươi.

Trích đoạn 53

Khi người ta không có trách nhiệm đối với bổn phận của họ, thực hiện bổn phận một cách bất cẩn và làm chiếu lệ, hành xử như người dễ dãi, và không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì đó là tâm tính gì? Đây là mưu chước, đây là tâm tính của Sa-tan. Khía cạnh nổi bật nhất trong triết lý sống của con người là sự mưu chước. Con người nghĩ rằng nếu họ không mưu chước, họ sẽ có khả năng xúc phạm người khác và không thể bảo vệ bản thân; họ nghĩ mình phải đủ mưu chước để không làm tổn thương hay xúc phạm bất kỳ ai, nhờ đó giữ cho bản thân mình an toàn, bảo vệ sinh kế của mình, và đạt được chỗ đứng vững vàng giữa mọi người. Tất cả những người ngoại đạo đều sống theo triết lý của Sa-tan. Họ đều là những người dễ dãi và không làm phật lòng ai cả. Ngươi đã đến nhà Đức Chúa Trời, đọc lời Đức Chúa Trời, và nghe các bài giảng của nhà Đức Chúa Trời. Vậy tại sao ngươi không thể thực hành lẽ thật, không thể nói lời thực lòng và làm người trung thực? Tại sao ngươi luôn là người dễ dãi? Người dễ dãi chỉ bảo vệ tư lợi, chứ không phải lợi ích của hội thánh. Khi họ thấy ai đó hành ác và làm tổn hại đến lợi ích của hội thánh, họ lờ đi. Họ thích làm người dễ dãi, và không làm phật lòng ai cả. Đây là vô trách nhiệm, và kiểu người này rất mưu chước, không đáng tin. Để bảo vệ thể diện của bản thân, cũng như duy trì danh tiếng và địa vị của mình, một số người vui vẻ giúp đỡ người khác và hy sinh vì bạn bè bằng bất kể giá nào. Nhưng khi họ cần phải bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, lẽ thật và công lý, thì những thiện ý đó lại hoàn toàn tan biến. Khi phải thực hành lẽ thật, họ lại không hề làm. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Để bảo vệ thể diện của bản thân mình, họ sẽ trả bất cứ giá nào và chịu bất cứ đau khổi nào. Nhưng khi họ cần làm công tác thực tế, xử lý những chuyện thực tế, bảo vệc công tác của hội thánh và những điều tích cực, bảo vệ cũng như cung cấp cho dân sự được Đức Chúa Trời chọn, tại sao họ lại không còn sức mạnh để trả giá hay chịu khổ chút nào? Không thể tưởng tượng nổi. Thật ra, họ có kiểu tâm tính chán ghét lẽ thật. Tại sao Ta nói tâm tính họ chán ghét lẽ thật? Bởi vì bất cứ khi nào có điều gì liên quan đến việc làm chứng cho Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật, bảo vệ dân sự được Đức Chúa Trời chọn, chống lại mưu chước của Sa-tan, hay bảo vệ công tác của hội thánh, họ lại bỏ trốn, ẩn náu, và không quan tâm đến những chuyện chính. Tinh thần anh hùng và chịu khổ của họ đâu rồi? Họ dùng chúng ở đâu chứ? Điều này rất dễ thấy. Ngay cả khi có người khiển trách họ và nói họ không nên quá ích kỷ, đáng khinh và bảo vệ bản thân mình, mà nên bảo vệ công tác của hội thánh, thì họ cũng chẳng thực sự quan tâm. Họ tự nhủ: “Mình không làm những điều đó, và chúng không liên can gì đến mình. Làm như vậy thì có lợi gì cho việc mưu cầu danh lợi của mình chứ?”. Họ không phải là người mưu cầu lẽ thật. Họ thích theo đuổi danh lợi, địa vị, và không hề làm công tác Đức Chúa Trời giao phó. Thế nên khi cần họ thực hiện công tác của hội thánh, họ đơn giản là chọn cách bỏ trốn. Như thế nghĩa là trong thâm tâm, họ không thích những điều tích cực và không quan tâm đến lẽ thật. Điều này là biểu hiện rõ ràng của sự chán ghét lẽ thật. Chỉ những ai yêu lẽ thật và sở hữu thực tế lẽ thật mới có thể bước lên khi được yêu cầu bởi công tác của nhà Đức Chúa Trời và dân sự được Đức Chúa Trời chọn, chỉ họ mới có thể đứng lên, can đảm và tận tụy với bổn phận, để chứng thực cho Đức Chúa Trời và thông công lẽ thật, dẫn dắt những người được Đức Chúa Trời chọn đi đúng đường, và cho phép họ đạt được sự vâng phục đối với công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ có như thế mới là một thái độ có trách nhiệm và là biểu hiện của việc quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu các ngươi không có thái độ này và không có gì khác ngoài sự cẩu thả khi xử lý mọi việc, nghĩ rằng: “Tôi sẽ làm việc trong phạm vi bổn phận của riêng mình chứ không quan tâm đến bất cứ điều gì khác. Nếu anh hỏi tôi điều gì đó, tôi sẽ trả lời anh – nếu tâm trạng tôi tốt. Nếu không thì tôi sẽ không trả lời. Đây là thái độ của tôi”, vậy thì đây là một loại tâm tính bại hoại, phải không? Chỉ bảo vệ địa vị, danh tiếng, thể diện của riêng mình và chỉ bảo vệ những điều liên quan đến lợi ích riêng mình – đây mà là bảo vệ chính nghĩa sao? Đây mà là bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời sao? Đằng sau những động cơ nhỏ nhen, ích kỷ này là tâm tính chán ghét lẽ thật. Đa số các ngươi thường bộc lộ những dạng biểu hiện này, và cứ hễ đối mặt với điều gì liên quan đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, là các ngươi quanh co bằng cách nói rằng: “Tôi không thấy”, hoặc “Tôi không biết” hoặc “Tôi chưa nghe”. Cho dù ngươi thực sự không hay biết hay chỉ đang giả vờ, nếu vào thời điểm quan trọng nhất, ngươi phơi bày loại tâm tính bại hoại này, thì thật khó để nói ngươi có phải là người thực sự tin Đức Chúa Trời hay không; với Ta, ngươi hoặc là người đang bối rối trong đức tin hoặc là kẻ chẳng tin. Ngươi tuyệt đối không phải là người yêu lẽ thật.

Có lẽ các ngươi hiểu chán ghét lẽ thật là gì, nhưng tại sao Ta lại nói chán ghét lẽ thật là một tâm tính? Tâm tính thì không liên quan gì đến những biểu hiện nhất thời và thi thoảng, những biểu hiện nhất thời và thi thoảng thì không được xem là vấn đề về tâm tính. Bất kể người ta có dạng tâm tính bại hoại nào, nó cũng sẽ bộc lộ ra nơi họ một cách thường xuyên, thậm chí là liên tục, hễ gặp bối cảnh phù hợp thì sẽ bộc lộ. Do đó, ngươi không thể tùy tiện xác định một vấn đề về tâm tính dựa trên những biểu hiện nhất thời và thi thoảng. Vậy tâm tính là gì? Tâm tính thì liên quan đến các ý định và động cơ, liên quan đến suy nghĩ và quan điểm của người ta. Ngươi dường như có thể cảm thấy chúng đang chi phối và ảnh hưởng ngươi, nhưng những tâm tính bại hoại cũng có thể ẩn giấu và che đậy, không thể thấy được qua những hiện tượng bề ngoài. Nói tóm lại, chỉ cần trong ngươi có tâm tính, thì nó sẽ quấy nhiễu ngươi, kìm kẹp và kiểm soát ngươi, khiến ngươi nảy sinh nhiều hành vi và biểu hiện – như thế chính là tâm tính. Tâm tính chán ghét lẽ thật thường khiến người ta nảy sinh những hành vi, suy nghĩ, quan điểm và thái độ nào? Một đặc tính chính trong biểu hiện của sự chán ghét lẽ thật chính là không cảm thấy hứng thú với những điều tích cực và lẽ thật, đồng thời không hứng thú, thờ ơ, thiếu khát khao vươn đến lẽ thật, nghĩ rằng về chuyện gì liên quan đến thực hành lẽ thật thì như thế là ổn rồi. Ta sẽ cho một ví dụ đơn giản. Một thường thức mà người ta hay nói về chuyện sức khỏe chính là ăn thêm rau củ và hoa quả, ăn những món thanh đạm và bớt ăn thịt, nhất là đừng ăn đồ chiên, đây là một hướng dẫn tích cực cho sức khỏe và sống khỏe của người ta. Ai cũng có thể hiểu và tiếp thu chuyện nên ăn thêm món gì, giảm món gì, vậy đây là chuyện tiếp thu trên lý thuyết hay trong thực hành? (Thưa, trên lý thuyết.) Sự tiếp thu trên lý thuyết biểu hiện như thế nào? Nó là một dạng công nhận cơ bản. Là sau khi phân định dựa trên phán đoán của mình, ngươi nghĩ rằng phát biểu này đúng và tốt đẹp. Nhưng ngươi có luận chứng nào cho phát biểu này không? Ngươi có căn cứ nào để tin nó không? Không thông qua thể nghiệm, không có nền tảng hay căn cứ gì để chứng minh liệu phát biểu này đúng hay sai, càng không có bài học nào rút ra từ sai lầm quá khứ, không có bất kỳ ví dụ đời thực nào, ngươi cứ thế tiếp thu quan điểm này thôi, đây chính là sự tiếp thu về lý thuyết. Bất kể ngươi tiếp thu về mặt lý thuyết hay thực hành, trước hết ngươi phải xác định rằng phát biểu “ăn thêm rau bớt thịt” là đúng và tích cực. Vậy, làm sao để thấy được tâm tính chán ghét lẽ thật của ngươi? Dựa trên cách tiếp cận của ngươi với phát biểu đó và cách ngươi vận dụng nó vào đời mình, qua đó sẽ thấy được thái độ của ngươi đối với phát biểu đó, cho thấy ngươi tiếp thu nó về mặt lý thuyết và giáo điều, hay ngươi áp dụng nó vào đời thực và biến nó thành thực tế của mình. Nếu ngươi chỉ tiếp thu phát biểu này về mặt giáo điều, nhưng việc ngươi làm trong đời thực thì lại hoàn toàn trái ngược với nó, hoặc ngươi chẳng hề vận dụng thực tế phát biểu này, vậy thì ngươi yêu thích hay là chán ghét nó? Ví dụ như, trong bữa ăn mà ngươi thấy có một ít rau, ngươi nghĩ: “Rau tốt cho sức khỏe, nhưng vị lại không ngon, thịt ngon hơn, vậy thì mình sẽ ăn chút thịt trước”, rồi ngươi chỉ ăn thịt mà không ăn rau – chuyện này cho thấy dạng tâm tính gì? Là tâm tính không tiếp thu những phát biểu đúng đắn, chán ghét những điều tích cực và chỉ sẵn lòng ăn theo sở thích xác thịt của mình. Dạng người này là kẻ tham ăn và tham hưởng thụ, vốn đã rất chán ghét, chống lại và thấy phản cảm với những điều tích cực, và đây chính là một dạng tâm tính. Có người có thể thừa nhận rằng phát biểu này rất đúng, nhưng bản thân họ không thể làm được, và dù không làm được nhưng họ vẫn bảo người khác làm; sau một thời gian nói mãi như vậy, câu nói này trở thành một dạng lý thuyết đối với họ, không còn tác dụng gì đối với họ nữa. Người đó biết rất rõ trong lòng rằng ăn thêm rau là điều đúng đắn, ăn thêm thịt là không tốt, nhưng họ nghĩ: “Đằng nào mình cũng đâu thiệt thòi gì, ăn thịt thì có lợi mà, mình chẳng thấy nó có gì là không lành mạnh”. Tham lam và dục vọng đã khiến họ chọn lối sống sai lầm, khiến họ liên tục đi ngược lại thường thức và lối sống đúng đắn. Họ có dạng tâm tính bại hoại thèm muốn sự thuận lợi và sự hưởng thụ xác thịt, vậy họ có dễ tiếp thu những câu nói đúng đắn và những điều tích cực không? Sẽ không dễ chút nào. Như thế chẳng phải lối sống của họ bị tâm tính bại hoại chi phối sao? Đây là sự bộc lộ tâm tính bại hoại của họ, và nó là biểu hiện tâm tính bại hoại của họ. Cái biểu hiện ra bên ngoài là những hành vi và thái độ này, nhưng thật ra, có một dạng tâm tính chi phối chúng. Là tâm tính gì vậy? Đó là tâm tính chán ghét lẽ thật. Tâm tính chán ghét lẽ thật thì khó phát hiện, chẳng ai cảm thấy mình chán ghét lẽ thật, nhưng việc họ tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà vẫn không biết cách thực hành lẽ thật là đủ chứng tỏ họ chán ghét lẽ thật. Người ta nghe quá nhiều bài giảng, đọc quá nhiều lời Đức Chúa Trời, và ý muốn của Đức Chúa Trời là sao cho trong lòng họ tiếp nhận lời Ngài và đưa những lời này vào cuộc sống thực tế để thực hành và vận dụng, để họ hiểu được lẽ thật và biến lẽ thật thành sự sống của mình. Với hầu hết mọi người, đây là một yêu cầu khó mà đạt được, chính vì thế nên mới nói rằng hầu hết mọi người đều có tâm tính chán ghét lẽ thật.

Khi người ta hiểu lẽ thật, thì với họ, việc thực hành lẽ thật không phải là chuyện khó khăn gì, và khi người ta có thể thực hành lẽ thật thì họ có thể bước vào thực tế lẽ thật. Biến lẽ thật mà người ta hiểu thành thực tế mà người ta sống thể hiện ra, thật sự khó đến vậy sao? Để Ta cho một ví dụ. Giả dụ trời đang lạnh và ngươi cố ra ngoài trời khi trán còn nhễ nhại mồ hôi, mẹ ngươi bảo ngươi lau cho khô mồ hôi trước khi ra ngoài, không thì cảm lạnh mất. Ngươi biết mẹ chỉ muốn tốt cho ngươi, nhưng ngươi không xem trọng lời bà khuyên, cứ lờ đi dù ngươi biết lời khuyên của mẹ là đúng. Ngươi cứ để trán nhễ nhại mồ hôi mà ra ngoài, và có lúc ngươi bị cảm lạnh vì thế, nhưng đến lần sau, ngươi vẫn cứ làm trái lời khuyên của mẹ. Rõ ràng ngươi biết lời mẹ ngươi khuyên là đúng và chỉ vì muốn tốt cho ngươi, ngươi biết động cơ và ý định của mẹ mình luôn là vì muốn tốt cho mình, thế mà ngươi vẫn bịt tai không chịu nghe – đây chẳng phải là một dạng tâm tính sao? Nếu không có tâm tính này, thì ngươi sẽ chọn làm gì nào? (Thưa, nghe lời.) Ngươi sẽ biết lời khuyên này quan trọng thế nào, biết những hậu quả và khổ sở ngươi sẽ chịu nếu không nghe theo, và ngươi sẽ lĩnh hội, hiểu ra ý nghĩa của lời khuyên này. Ngươi sẽ có thể tuân thủ chặt chẽ lời khuyên này và luôn làm theo, rồi ngươi sẽ không dễ bị cảm lạnh. Đây chỉ là một ví dụ. Chuyện tin Đức Chúa Trời, đọc và nghe theo lời Ngài cũng tương tự như thế, vậy người ta nên xử sự thế nào với lời Đức Chúa Trời? Đây là vấn đề quan trọng nhất. Nếu ai đó nói những lời phù hợp với lẽ thật và đúng đắn, thì người tiếp thu những lời đó sẽ được lợi ích. Lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nếu người ta có thể tiếp nhận lời Ngài, thì họ không chỉ có lợi ích mà còn đạt được sự sống. Nhiều người không thể thấy rõ chuyện này, họ luôn khinh thị lời Đức Chúa Trời. Bất kể Đức Chúa Trời phán gì, dù là khích lệ, khiển trách, nhắc nhở, an ủi, hay khẩn khoản nài xin, dù Ngài nói theo cách nào, cũng không thể thức tỉnh lòng người ta. Họ không thể hành động theo lời Ngài, có nghe lời Ngài phán thì họ cũng giả điếc làm ngơ. Đây là một trong những tâm tính của con người, là cương ngạnh và chán ghét lẽ thật. Nếu ngươi không thể tuân theo lời Đức Chúa Trời trong cách tiếp cận với mọi sự như lời Đức Chúa Trời phán bảo và lệnh cho ngươi làm, thì ngươi sẽ không thể thay đổi tâm tính này. Cho dù ngươi công nhận hay đáp “amen” với mọi lời Đức Chúa Trời phán, cho dù ngoài môi miệng ngươi tôn vinh lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, thì cũng vô dụng mà thôi; ngươi phải có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, phải thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, và biến lời Đức Chúa Trời thành sự sống của ngươi, thành thực tế của ngươi, chỉ như thế mới hữu dụng. Ví dụ như, một người có tâm tính giả dối mà quyết tâm làm người trung thực và nói lời thành thật, thì chuyện đó phần nào dễ đạt được, nhưng điều khó thay đổi nhất chính là tâm tính chán ghét lẽ thật và cương ngạnh. Cho dù Đức Chúa Trời phán gì, thì những người có tâm tính này cũng chẳng xem trọng lời Ngài trong lòng, và cho dù Đức Chúa Trời tỏ thái độ nào, dù là cảnh tỉnh, nhắc nhở, khích lệ, hay khẩn khoản nài xin, đưa ra sự thật, nói lý lẽ, tất cả đều chẳng đánh động được lòng họ, và chuyện này thật khó mà giải quyết. Người ta khó mà nhận ra tâm tính chán ghét lẽ thật, họ phải thường xuyên tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh về tình trạng của mình, về lý do họ không thể tiếp nhận lẽ thật, về lý do họ không thể thực hành những lẽ thật mình hiểu. Nếu họ hiểu thấu vấn đề này, họ sẽ biết chán ghét lẽ thật nghĩa là gì.

Trong tâm tính con người có một thứ ẩn giấu, nó biểu hiện ra trong thái độ vừa phải. Họ có tư duy riêng và cách thể hiện riêng, nghĩ rằng đây là cách thích hợp nhất. Bất kể người khác có nói hay làm gì, cũng không tác động được họ, họ nhất quyết làm bất kỳ điều gì mà họ cảm thấy sẽ khiến người khác ngưỡng mộ họ, tin rằng đây là việc đúng đắn để làm, họ không tiếp nhận lẽ thật chút nào, không thể đối diện sự thật một cách đúng đắn và họ không hề có chút nguyên tắc lẽ thật nào. Đây là dạng tâm tính gì? Đây là tâm tính kiêu ngạo, tự nên công chính và chán ghét lẽ thật. Những ai thuộc về Sa-tan và chán ghét lẽ thật thì như mù như điếc trước những lời nói và việc làm của Đức Chúa Trời, cho dù Ngài có phán và làm nhiều đến thế nào đi chăng nữa. Sa-tan không bao giờ xem lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, mà chỉ phớt lờ, nó không để con người tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, nó còn mê hoặc để con người quy phục nó – đây chính là cách Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi, thức tỉnh và làm tinh sạch nhân loại, còn Sa-tan thì cố hết sức để gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của Đức Chúa Trời, mục đích của Sa-tan khi mê hoặc nhân loại là để làm bại hoại và tàn hại nhân loại, cuối cùng là nuốt chửng và hủy diệt nhân loại. Ví dụ như, Đức Chúa Trời ban cho nhân loại đủ mọi thứ thực phẩm, Ngài cũng tạo ra đủ mọi loại ngũ cốc và rau củ, ban cho đất đai phù hợp để trồng chúng. Chỉ cần con người làm việc chăm chỉ thì sẽ có đủ để ăn và sử dụng, có thể bảo đảm họ có chế độ ăn lành mạnh. Nhưng con người tham lam vô độ, luôn muốn giàu có, nên họ nhất quyết nghiên cứu những phương pháp biến đổi gen để tăng sản lượng, nó hủy hoại dinh dưỡng thật sự của ngũ cốc, biến thực phẩm hữu cơ thành thực phẩm vô cơ. Người ta ăn những thứ này vào thì cơ thể nảy sinh đủ thứ bệnh tật, đây chẳng phải là hành động của Sa-tan sao? Nhân loại đã bị Sa-tan làm cho bại hoại đến một mức độ nhất định, họ đã trở nên những Sa-tan sống, những con quỷ sống. Trước đây, chỉ có Sa-tan và tà linh chống đối Đức Chúa Trời, nhưng giờ thì toàn thể nhân loại bại hoại chống đối Đức Chúa Trời. Vậy nhân loại bại hoại không phải là ma quỷ và Sa-tan sao? Họ không phải là hậu duệ của Sa-tan sao? (Thưa, phải.) Đây là hậu quả do việc Sa-tan làm bại hoại nhân loại suốt hàng thiên niên kỷ. Các ngươi có thể biết và phân định tâm tính Sa-tan bằng cách nào? Dựa trên những việc mà Sa-tan thích làm, cũng như những phương thức và thủ đoạn hành sự của nó, người ta có thể thấy nó không hề yêu thích những điều tích cực, nó thích sự tà ác, luôn nghĩ mình giỏi giang và có thể kiểm soát mọi sự. Đây chính là bản tính kiêu ngạo của Sa-tan. Chính vì thế mà Sa-tan không ngần ngại phủ nhận, chống đối, và đối nghịch với Đức Chúa Trời. Sa-tan là đại diện và nguồn cơn của mọi điều tiêu cực và mọi điều xấu xa. Nếu có thể thấy rõ chuyện này, thì ngươi đã có sự phân định về các tâm tính của Sa-tan. Để mọi người chấp nhận lẽ thật và thực hành lẽ thật không phải là một vấn đề đơn giản, bởi vì tất cả họ đều có những tâm tính Sa-tan, và tất cả họ đều phải chịu sự kìm kẹp và trói buộc của tâm tính Sa-tan của mình. Ví dụ, một số người nhận ra rằng thật tốt khi làm một người trung thực, và họ cảm thấy ghen tị và đố kỵ khi thấy người khác có thể trung thực, nói thật, nói một cách đơn sơ và cởi mở, nhưng nếu ngươi yêu cầu bản thân họ làm người trung thực thì họ thấy khó. Họ cứ mãi không thể nói những lời thật thà và làm những điều trung thực. Chẳng phải đây là tâm tính Sa-tan sao? Họ nói những điều nghe có vẻ hay ho, nhưng lại không thực hành chúng. Đây là chán ghét lẽ thật. Những người chán ghét lẽ thật rất khó chấp nhận lẽ thật và không có cách nào để bước vào thực tế lẽ thật. Trạng thái rõ ràng nhất đối với những người chán ghét lẽ thật là họ không quan tâm đến lẽ thật và những điều tích cực, thậm chí còn thấy phản cảm và ghê tởm chúng, và họ đặc biệt thích theo các trào lưu. Lòng họ không tiếp nhận những điều Đức Chúa Trời yêu và những điều Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải làm. Thay vào đó, họ khinh thị và rất thờ ơ, thậm chí một số người còn khinh miệt các tiêu chuẩn và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với con người. Họ thấy phản cảm với những điều tích cực, và họ luôn có cảm giác chống đối, đối đầu và hoàn toàn khinh thường những điều đó. Đây là biểu hiện chính của việc chán ghét lẽ thật. Trong đời sống hội thánh, việc đọc lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện, thông công lẽ thật, thực hiện bổn phận, và giải quyết vấn đề bằng lẽ thật đều là những điều tích cực. Chúng làm Đức Chúa Trời hài lòng, nhưng một số người thấy phản cảm với những điều tích cực này, không quan tâm đến chúng và thờ ơ với chúng. Điều đáng ghét nhất là họ có thái độ khinh thường đối với những người tích cực, chẳng hạn như những người trung thực, những người theo đuổi lẽ thật, những người trung thành thực hiện bổn phận, và những người bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Họ luôn cố gắng tấn công và loại trừ những người này. Nếu họ phát hiện ra những người đó có thiếu sót hoặc bộc lộ sự bại hoại thì họ chộp lấy những chuyện đó, làm ầm ĩ lên và cứ mãi coi thường người đó. Đây là loại tâm tính gì vậy? Tại sao họ lại ghét những người tích cực đến vậy? Tại sao họ thích và tán thành những kẻ ác, những kẻ chẳng tin và những kẻ địch lại Đấng Christ đến thế, và tại sao họ thường hùa theo những người như vậy? Khi liên quan đến những điều tiêu cực và tà ác, họ cảm thấy thích thú và phấn khởi, nhưng khi nói đến những điều tích cực, sự chống cự bắt đầu xuất hiện trong thái độ của họ; cụ thể là khi họ nghe mọi người thông công về lẽ thật hoặc giải quyết vấn đề bằng cách dùng lẽ thật thì họ cảm thấy chán chường và bất mãn, và họ trút sự bất bình của mình. Chẳng phải tâm tính này là chán ghét lẽ thật sao? Chẳng phải đây là phơi bày một tâm tính bại hoại sao? Có nhiều người tin Đức Chúa Trời, thích làm việc cho Đức Chúa Trời và sốt sắng chạy đôn đáo khắp nơi vì Ngài. Khi phát huy những ân tứ và thế mạnh của mình, khi chiều theo những sở thích của mình và được phô trương, thì họ hăng hái vô cùng. Nnhưng khi ngươi yêu cầu họ thực hành lẽ thật và hành động theo nguyên tắc lẽ thật, thì việc đó lại khiến họ nhụt chí khí và mất hết nhiệt huyết. Nếu không được phép khoe mẽ, họ trở nên lờ đờ và thoái chí. Tại sao họ có năng lượng để khoe mẽ? Và tại sao mà họ lại không có năng lượng để thực hành lẽ thật chứ? Vấn đề ở đây là gì? Mọi người đều thích làm bản thân mình nổi bật; họ đều ham muốn hư vinh. Tất cả mọi người đều có năng lượng vô hạn khi tin vào Đức Chúa Trời để được phước lành và phần thưởng, vậy tại sao họ trở nên lờ đờ, tại sao họ trở nên thoái chí khi thực hành lẽ thật và phản bội xác thịt? Tại sao lại xảy ra chuyện này? Điều này chứng tỏ rằng lòng người đang bị ô uế. Họ tin vào Đức Chúa Trời hoàn toàn là vì phước lành – nói thẳng ra, họ làm thế để bước vào thiên quốc. Không có phước lành hay lợi ích để theo đuổi, con người trở nên lờ đờ, thoái chí và không có nhiệt huyết. Những điều này đều do tâm tính bại hoại chán ghét lẽ thật mà ra. Khi bị kiểm soát bởi tâm tính này, con người không sẵn lòng chọn con đường mưu cầu lẽ thật, họ đi con đường riêng của mình, họ chọn lầm đường, họ biết rõ rằng mưu cầu danh lợi và địa vị là sai, ấy vậy mà vẫn không thể chịu được nếu không làm những điều này, không thể gạt chúng sang một bên và vẫn mưu cầu danh lợi, địa vị và đi theo con đường của Sa-tan. Trong trường hợp đó, họ đang không đi theo Đức Chúa Trời mà là theo Sa-tan. Mọi việc họ làm đều là phục vụ cho Sa-tan, và họ là đầy tớ của Sa-tan.

Có dễ thay đổi tâm tính bại hoại chán ghét lẽ thật không? Chán ghét lẽ thật là một đặc tính trong sự bại hoại sâu sắc của nhân loại, và nó là thứ khó thay đổi nhất. Bởi vì thay đổi tâm tính chỉ có thể đạt được thông qua việc tiếp nhận lẽ thật. Người chán ghét lẽ thật thì không thể dễ dàng tiếp nhận lẽ thật, cũng như người bị bệnh nặng thì không chịu ăn vậy. Đây là chuyện rất nguy hiểm, và người chán ghét lẽ thật thì không thể dễ dàng được cứu rỗi, kể cả khi họ có tin Đức Chúa Trời đi nữa. Nếu người ta tin Đức Chúa Trời vài năm mà vẫn không biết lẽ thật là gì, không biết những điều tích cực là gì, thậm chí còn không rõ về mục tiêu cuộc đời là mưu cầu lẽ thật để đạt được sự cứu rỗi, thì chẳng phải đây là một kẻ mù đã mất phương hướng hay sao? Do đó, chán ghét lẽ thật khiến người ta không thể nào tiếp nhận lẽ thật, và dạng tâm tính bại hoại này không dễ thay đổi. Những người có thể chọn tiếp nhận lẽ thật và đi theo con đường đúng đắn thì là những người yêu lẽ thật, và những người như thế có thể dễ dàng thay đổi những tâm tính bại hoại của mình. Nếu người ta có tâm tính chán ghét lẽ thật, mà trong lòng vẫn hy vọng mình được Đức Chúa Trời cứu rỗi, vậy họ phải bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ đâu sẽ tạo điều kiện cho việc này trở nên dễ dàng hơn? Đâu là con đường nhanh nhất? (Thưa, sau khi hiểu những điều tích cực là gì, các nguyên tắc là gì, thì họ phải dùng các nguyên tắc và tiêu chuẩn này mà đánh giá trong khi làm bổn phận, nếu có điều gì đi ngược với các nguyên tắc này và không phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, thì họ phải bám vào các nguyên tắc này và không làm việc đó.) Trước hết, họ phải nắm bắt các nguyên tắc của từng lẽ thật, đây là chuyện rất quan trọng. Rồi sao nữa? (Thưa, khi họ bộc lộ trạng thái chán ghét lẽ thật, liên quan đến bổn phận của họ và các nguyên tắc, thì họ phải phản bội xác thịt và thực hành theo các nguyên tắc.) Đúng vậy, họ phải có một con đường, mục tiêu và con đường đó phải rõ ràng. Hiện tại, điều mấu chốt là hầu hết mọi người đều không biết phương diện nào trong tâm tính của họ bộc lộ ra trong bối cảnh nào, vào thời điểm nào và theo cách nào. Nếu họ biết rõ hết mọi chuyện này, chẳng phải họ sẽ dễ thay đổi sao? Hiện giờ nhìn vào, những kiểu suy nghĩ hay thái độ khác nhau của người ta thật sự liên quan đến các tâm tính của họ, không có sự chi phối của các tâm tính khác nhau, không bị thách thức hay cản trở bởi những tâm tính bại hoại của mình, thì người ta sẽ dễ chỉnh đốn những suy nghĩ sai lầm của họ. Giả dụ mẹ ngươi bảo ngươi lau mồ hôi trước khi ra khỏi nhà. Nếu ngươi là đứa con hiếu thảo, biết nghe lời, thì khi nhận thấy được ý tốt của mẹ mình, ngươi cũng có thể hiểu được sự đúng đắn của lời khuyên này, biết cái tốt của nó, có thể thừa nhận và tiếp thu nó. Nếu ngươi không có tâm tính bại hoại gây rối và kéo lùi ngươi, thì ngươi sẽ dễ tiếp thu lời khuyên này. Dù lời khuyên này rất đơn giản và dễ thực hiện, dù ngươi biết nó là đúng, nhưng vì ngươi có tâm tính chán ghét lẽ thật và cương ngạnh, nên tâm tính đó có thể dẫn dắt ngươi cố tình làm trái, có thể làm buồn lòng mẹ ngươi, khiến bà lo lắng cho ngươi và phải đau khổ, hậu quả chính là vậy. Nói tóm lại, cách tiếp cận của người ta khi có chuyện xảy đến với mình – cách tiếp cận đối với những điều tích cực, cũng như cách người ta liên tục đấu tranh và chiến đấu với những tâm tính bại hoại của mình – điều này thể hiện quyết tâm mưu cầu lẽ thật của họ. Nếu ngươi có quyết tâm này và sẵn lòng rũ bỏ tâm tính bại hoại của mình, tiếp nhận lẽ thật, biến lời Đức Chúa Trời thành sự sống của mình, sống với hình tượng giống con người, vậy thì ngươi có thể thay đổi. Ngươi quyết tâm mưu cầu lẽ thật đến đâu thì sự thay đổi của ngươi sẽ được đến đó.

Sự cứu rỗi chủ yếu nói đến điều gì? Chủ yếu nói đến sự thay đổi tâm tính. Chỉ khi tâm tính của người ta thay đổi, họ mới có thể thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan và được cứu rỗi. Do đó, đối với những ai tin Đức Chúa Trời, sự thay đổi tâm tính là chuyện chính yếu. Khi tâm tính của người ta thay đổi, họ sẽ sống thể hiện ra hình tượng giống con người và hoàn toàn đạt được sự cứu rỗi. Người ta có thể không xinh đẹp cho lắm, không nhiều ân tứ hay tài năng, người ta có thể nói năng vụng về, chẳng trôi chảy rõ ràng, ăn mặc thì không đẹp, bên ngoài có vẻ rất bình thường, nhưng họ có thể tìm kiếm lẽ thật khi gặp chuyện chứ không thuận theo ý riêng của mình, không mưu đồ cho riêng bản thân, và khi Đức Chúa Trời ra lệnh cho họ làm bổn phận, họ có thể vâng phục Ngài và hoàn thành những việc Ngài giao phó cho họ. Các ngươi nghĩ sao về dạng người này? Dù bên ngoài, họ không có ngoại hình hấp dẫn hay dễ gây cảm tình, nhưng họ có tấm lòng kính sợ và vâng phục Đức Chúa Trời, những điểm mạnh của họ được thể hiện ở điều này. Khi người ta thấy vậy, họ sẽ bảo: “Người này có tâm tính ổn định, khi gặp chuyện, họ có thể lắng lòng tìm kiếm trước Đức Chúa Trời, mà không cẩu thả, không làm những việc ngu muội, xuẩn ngốc. Họ có thái độ nghiêm túc và có trách nhiệm, họ tận tâm và làm hết trách nhiệm để thực hiện bổn phận một cách trung tín”. Người này có tiết chế trong cách nói năng và hành động, họ có lý tính bình thường, và dựa trên những gì họ sống thể hiện ra và tâm tính họ biểu hiện, thì họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Nếu họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, vậy hành động của họ có nguyên tắc không? Chắc chắn họ tìm kiếm các nguyên tắc và không tùy tiện làm những việc sai trái. Đây là kết quả tối hậu từ việc thực hành lẽ thật và mưu cầu sự thay đổi tâm tính. Lời nói của họ có cân nhắc và chính xác, họ không nói năng tùy tiện, họ hành động một cách đáng tin và khiến người ta yên tâm, họ có thực tế của việc vâng phục Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Có thể nhìn thấy mọi biểu hiện đó nơi người này. Đây là một người đã bước vào thực tế lẽ thật, là người có tâm tính đã thay đổi. Những điều này không thể làm giả được. Tâm tính của người ta là sự sống của họ, người ta có tâm tính nào thì hành vi của họ cũng sẽ như vậy. Hành vi và biểu hiện của người ta bị những tâm tính của họ chi phối, và biểu hiện nhất quán của họ chính là sự bộc lộ từ tâm tính họ, chứ không phải là tính cách họ. Có thể nhận ra những vấn đề về tâm tính và những sự bộc lộ của các tâm tính bại hoại khác nhau, rồi có thể giải quyết chúng bằng cách tìm kiếm lẽ thật, đây chính là điều căn bản nhất mà người ta phải đạt được trong việc mưu cầu sự thay đổi tâm tính.

Trích đoạn 55

Bất kể là thực hiện bổn phận hay học hỏi kiến thức chuyên môn thì cũng đều phải cần mẫn và xử lý mọi việc theo nguyên tắc, đừng làm qua loa đại khái hay lấy lệ. Học kiến thức chuyên môn là để làm tròn bổn phận, phải gắng sức trong việc này và đây là điều mọi người nên hợp tác. Nếu một người không sẵn lòng làm tròn bổn phận của mình, luôn tìm lý do hay kiếm cớ để không học hỏi kiến thức chuyên môn thì chứng tỏ về căn bản, người đó không thật lòng dành trọn bản thân cho Đức Chúa Trời, không muốn làm tròn bổn phận để báo đáp tình yêu của Ngài. Đây chẳng phải là người không có lương tâm và lý trí hay sao? Người có tính cách như vậy chẳng phải rất phiền toái, rất khó đối phó hay sao? Tuy đang học nghiệp vụ nhưng vẫn phải tìm kiếm lẽ thật, làm việc dựa trên nguyên tắc của lẽ thật, không được vượt ngoài phạm vi này hay hành động hồ đồ như người ngoại đạo. Người ngoại đạo có thái độ ra sao đối với công việc? Nhiều người chỉ sống cho qua ngày đoạn tháng, lãng phí thì giờ, làm qua loa cho xong một ngày để kiếm lương công nhật, nếu có thể làm qua quýt thì làm qua quýt, không chú trọng hiệu quả cũng chẳng màng làm việc theo lương tâm, không có thái độ nghiêm túc và trách nhiệm. Họ không nói: “Việc này đã giao cho mình rồi, mình phải chịu trách nhiệm đến cùng, phải làm tốt và gánh vác trách nhiệm này”. Họ không có lương tâm như vậy. Ngoài ra, người ngoại đạo có một dạng tâm tính bại hoại. Khi dạy cho người khác chút kiến thức chuyên môn hay một kỹ năng, họ nghĩ: “Đồ đệ hiểu hết, sư phụ chết đói. Nếu mình dạy hết mọi điều mình biết cho người khác thì sẽ chẳng còn ai nể phục hay ngưỡng mộ mình nữa và mình sẽ mất vị thế của một người thầy. Vậy thì không được. Mình không thể dạy họ mọi điều mình biết, mình phải giữ lại điều gì đó. Mình sẽ chỉ dạy họ tám mươi phần trăm điều mình biết và giữ phần còn lại để phòng hờ; đây là cách duy nhất để chứng tỏ kỹ năng của mình trội hơn những người khác”. Đây là loại tâm tính gì? Đó là sự giả dối. Khi dạy cho người khác, hỗ trợ họ, hoặc chia sẻ với họ điều ngươi học được, ngươi nên có thái độ gì? (Thưa, nên làm hết sức, không giữ cho riêng mình). Làm thế nào để không giữ cho riêng mình? Giả sử ngươi nói: “Học được những gì, tôi đều chẳng giữ cho riêng mình, nói hết với mọi người cũng chẳng sao, dù gì tố chất của tôi cũng hơn các bạn, tôi vẫn có thể lĩnh ngộ những điều cao siêu hơn”, thì như thế vẫn là giữ lại cho riêng mình và có phần tâm cơ. Hoặc ngươi nói: “Tôi dạy cho các bạn tất cả những điều cơ bản tôi đã học được, thế cũng chẳng sao, tôi vẫn có thứ cao siêu hơn nữa. Các bạn học những điều này thì cũng chẳng bằng được tôi”. Như vậy vẫn là giữ cho riêng mình. Người quá ích kỷ sẽ không được Đức Chúa Trời ban phước, con người nên học cách quan tâm đến ý muốn của Ngài. Ngươi phải đem những điều quan trọng nhất, những tinh túy mà mình nắm vững đóng góp vào nhà Đức Chúa Trời, để những người được Đức Chúa Trời chọn đều được học hỏi và nắm vững chúng, có như vậy ngươi mới được Đức Chúa Trời ban phước, và Ngài sẽ còn ban cho ngươi nhiều hơn nữa. Như thế gọi là “Ban cho thì có phước hơn nhận lãnh”. Hãy dâng hiến mọi tài năng và ân tứ của mình lên Đức Chúa Trời, phát huy chúng khi thực hiện bổn phận để mọi người đều được hưởng lợi và gặt hái kết quả khi thực hiện bổn phận của họ. Việc ngươi đóng góp toàn bộ những ân tứ và tài năng này sẽ có lợi cho tất cả những người thực hiện bổn phận ấy, và có lợi cho công tác của hội thánh. Đừng chỉ đem một vài điều đơn giản nói với mọi người và như thế đã cảm thấy mình làm như vậy là ổn, là không giữ lại gì cho riêng mình. Làm thế là không được. Ngươi chỉ dạy một vài lý thuyết hay những điều mà mọi người có thể hiểu theo nghĩa đen, nhưng tinh túy và những điểm cốt lõi thì vượt quá tầm hiểu biết của một người mới. Ngươi chỉ đưa ra tổng quan mà không giải thích hay đi vào chi tiết, trong khi đó vẫn tự nghĩ: “Ừm, dù sao thì, tôi cũng đã nói với anh rồi, và tôi không cố ý giữ lại điều gì cả. Nếu anh không hiểu thì đó là vì tố chất anh quá kém, nên đừng trách tôi. Giờ chúng ta phải chờ xem Đức Chúa Trời dẫn dắt anh thế nào”. Suy tính như vậy ẩn chứa sự giả dối, không phải sao? Đó chẳng phải là ích kỷ và đê hèn sao? Tại sao ngươi không thể dạy mọi người mọi thứ trong lòng mình và mọi điều ngươi hiểu? Thay vào đó, tại sao ngươi lại giấu kiến thức? Đây là vấn đề trong những ý đồ và tâm tính của ngươi. Hầu hết mọi người khi lần đầu tiên được giới thiệu với một số khía cạnh kiến thức chuyên môn cụ thể, họ chỉ có thể hiểu được theo nghĩa đen; cần phải có thời gian thực hành trước khi có thể nắm bắt được những điểm chính và tinh túy của nó. Nếu ngươi đã nắm vững những điểm chính và bản chất này, ngươi nên nói thẳng với mọi người; đừng bắt họ phải đi lối vòng vèo như vậy và mất quá nhiều thời gian để mò mẫm. Đây là trách nhiệm của ngươi; đây là điều ngươi nên làm. Hãy nói với họ những điều ngươi cho là mấu chốt và tinh túy, như thế mới là không giữ lại cho riêng mình và không ích kỷ. Khi dạy kỹ năng cho người khác, trao đổi với người khác về nghiệp vụ hoặc thông công về lối vào sự sống, nếu như không giải quyết được mặt ích kỷ đáng hổ thẹn này trong tâm tính bại hoại của mình thì ngươi chẳng thể làm tròn bổn phận, như vậy các ngươi đâu phải là người có nhân tính hay lương tâm, lý trí, đâu phải là người thực hành lẽ thật. Ngươi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình cho đến khi không còn những động cơ ích kỷ nữa, chỉ quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời. Bằng cách như vậy, ngươi sẽ có được thực tế lẽ thật. Nếu người ta không mưu cầu lẽ thật mà sống theo tâm tính Sa-tan như những người ngoại đạo thì thật mệt mỏi. Giữa những người ngoại đạo có đầy rẫy sự cạnh tranh. Nắm vững tinh túy của một kỹ năng hay một chuyên môn không phải là vấn đề đơn giản, và một khi có ai khác tìm ra và tự mình nắm vững nó thì sinh kế của ngươi sẽ gặp rủi ro. Để bảo vệ sinh kế đó, người ta buộc phải hành xử theo lối này. Họ phải cẩn trọng mọi lúc – điều mà họ nắm vững là loại tiền tệ quý giá nhất của họ. Đó là sinh kế của họ, vốn liếng của họ, huyết mạch của họ, và họ không được để bất kỳ ai khác nhúng tay vào. Nhưng ngươi tin vào Đức Chúa Trời – nếu ngươi nghĩ theo cách này và hành xử theo cách này trong nhà Đức Chúa Trời, thì ngươi chẳng khác gì một người ngoại đạo. Nếu ngươi hoàn toàn không chấp nhận chút lẽ thật nào mà vẫn tiếp tục sống theo triết lý của Sa-tan thì ngươi không phải là người thực sự tin vào Đức Chúa Trời. Luôn luôn mang những động cơ ích kỷ và nhỏ nhen khi thực hiện bổn phận thì ngươi sẽ chẳng được Đức Chúa Trời ban phước.

Sau khi tin vào Đức Chúa Trời, ăn uống lời của Đức Chúa Trời cũng như chấp nhận những phán xét và hình phạt của lời Ngài, ngươi có kiểm điểm và nhận thức được tâm tính bại hoại của chính mình hay không? Nguyên tắc nói năng và hành động của ngươi, cách nhìn nhận sự việc, nguyên tắc và mục tiêu ứng xử của ngươi có thay đổi hay không? Nếu ngươi vẫn giống như người ngoại đạo thì Đức Chúa Trời sẽ không công nhận ngươi là người tin vào Ngài. Ngài sẽ nói ngươi vẫn là một người ngoại đạo, vẫn đi trên con đường của người ngoại đạo. Do đó, bất luận trong ứng xử của mình hay khi thực hiện bổn phận, ngươi đều phải căn cứ vào lời của Đức Chúa Trời, thực hành dựa trên nguyên tắc của lẽ thật, sử dụng lẽ thật để giải quyết vấn đề, giải quyết tâm tính bại hoại mà ngươi biểu lộ ra, giải quyết những suy nghĩ, tư tưởng, quan điểm sai trái và cách hành động sai lầm của bản thân. Một mặt, ngươi phải phát hiện ra vấn đề bằng cách tự kiểm điểm và xem lại mình. Mặt khác, ngươi cũng phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, nếu phát hiện ra tâm tính bại hoại thì phải kịp thời xử lý, phải phản bội xác thịt và từ bỏ ý riêng. Một khi đã giải quyết được tâm tính bại hoại của bản thân, ngươi sẽ không còn hành động dựa trên tính nết này nữa, ngươi sẽ buông bỏ được những tính toán và tư lợi, có thể thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật. Đó mới là thực tế lẽ thật mà người thật sự theo Đức Chúa Trời phải sở hữu. Nếu biết tự kiểm điểm bản thân, hiểu rõ chính mình, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề theo cách này thì ngươi mới là người mưu cầu lẽ thật. Việc tin vào Đức Chúa Trời cần tới sự hợp tác ấy, có thể thực hành theo cách này chính là được phước lớn nhất từ Đức Chúa Trời. Tại sao Ta lại nói như vậy? Bởi ngươi đang hành động vì công tác của hội thánh, vì lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và vì lợi ích của các anh chị em, đồng thời, ngươi cũng đang thực hành lẽ thật. Đây chính là điều được Đức Chúa Trời chấp thuận, là những việc lành. Thực hành lẽ thật theo cách này chính là đang làm chứng cho Đức Chúa Trời. Trái lại, nếu ngươi không làm như vậy mà vẫn giống như người ngoại đạo, tuân theo nguyên tắc hành xử và cách sống của người ngoại đạo thì liệu đó có phải là làm chứng hay không? (Thưa, không). Hậu quả của nó là gì? (Thưa, là làm ô danh Đức Chúa Trời). Như thế chính là làm ô danh Đức Chúa Trời! Tại sao lại nói như thế là làm ô danh Đức Chúa Trời? (Thưa, bởi vì Đức Chúa Trời đã chọn chúng con, đã bày tỏ rất nhiều lẽ thật, đích thân dẫn dắt, chu cấp và chăm tưới chúng con, vậy mà chúng con không tiếp nhận lẽ thật hay thực hành lẽ thật, vẫn sống dựa trên những thứ của Sa-tan và chẳng làm chứng trước Sa-tan. Như thế chính là làm ô danh Đức Chúa Trời). (Một người tin Đức Chúa Trời từng được nghe Ngài truyền đạt về bao lẽ thật và con đường thực hành, nhưng khi hành sự lại tuân theo triết lý sống của người ngoại đạo, đặc biệt là thói xảo trá, chăm chăm để ý đến tư lợi, thì như thế họ còn xấu xa, tồi tệ hơn cả những người ngoại đạo nữa). Có lẽ các ngươi đều hiểu chút ít về chuyện này. Con người ăn uống lời của Đức Chúa Trời, tận hưởng mọi thứ Đức Chúa Trời ban cho, vậy mà vẫn đi theo Sa-tan. Bất luận chuyện gì đã xảy ra với họ hay hoàn cảnh của họ tồi tệ thế nào đi nữa, con người vẫn không thể lắng nghe lời và vâng phục Đức Chúa Trời, cũng không tìm kiếm lẽ thật, không thể đứng vững trong lời chứng của mình. Đây chẳng phải là phản bội Đức Chúa Trời hay sao? Đây chính là phản bội Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời cần ngươi, thì ngươi không lắng nghe tiếng gọi hay lời của Ngài mà lại theo các trào lưu thế tục, nghe lời Sa-tan, đi theo sự dẫn dắt của Sa-tan, thực hành theo những lôgic, nguyên tắc và cách đối nhân xử thế của Sa-tan. Đây chính là phản bội Đức Chúa Trời. Phản bội Đức Chúa Trời chẳng phải là báng bổ và làm ô danh Đức Chúa Trời hay sao? Hãy xem khi Adam và Eva ở Vườn Địa Đàng, Đức Chúa Trời đã phán: “Nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết” (Sách sáng thế 2:17). Những lời này là do ai nói? (Thưa, là lời Đức Chúa Trời). Đây có phải là những lời nói thông thường không? (Thưa, không). Đó là gì? Là lẽ thật, là điều mà con người nên tuân thủ và là con đường mà con người nên thực hành. Đức Chúa Trời đã dặn con người nên làm gì với cây biết điều thiện và điều ác, nguyên tắc thực hành là không ăn, sau đó đã cho con người biết hậu quả – rằng ngày ăn vào chắc chắn sẽ chết. Con người đã được dặn về nguyên tắc thực hành và lợi hại ra sao rồi, nghe xong họ có hiểu không? (Thưa, có hiểu). Con người thực sự có hiểu lời Đức Chúa Trời, nhưng sau đó lại nghe con rắn nói: “Đức Chúa Trời phán rằng chắc chắn ngươi sẽ chết vào ngày ngươi ăn nó, nhưng thực ra ngươi chưa chắc phải chết, có thể thử xem sao”. Sau khi Sa-tan nói những lời này, con người nghe lời nó và ăn trái của cây biết điều thiện và điều ác ác. Đây là hành vi phản bội Đức Chúa Trời. Con người không chọn cách vâng lời hay thực hành theo lời của Đức Chúa Trời, không làm theo lời răn dạy của Đức Chúa Trời mà lại tin và tiếp nhận lời của Sa-tan và hành động theo chúng. Kết quả ra sao? Hành vi này của con người và cách thực hiện nó mang tính chất là sự phản bội đối với Đức Chúa Trời, làm ô danh Đức Chúa Trời, kết quả là họ đã bị Sa-tan làm cho bại hoại và sa ngã. Con người ngày nay cũng giống như A-đam và Ê-va thời đó, họ nghe thấy lời của Đức Chúa Trời nhưng không thực hành, dù đã hiểu lẽ thật cũng không chịu thực hành. Về bản chất cũng giống như A-đam và Ê-va không vâng theo lời và sự răn dạy của Đức Chúa Trời, đều phản bội và làm ô danh Ngài. Khi con người phản bội và làm ô danh Đức Chúa Trời, kết quả là họ tiếp tục bị Sa-tan làm cho bại hoại, tiếp tục bị Sa-tan kiểm soát và bị tâm tính Sa-tan khống chế, thế nên không bao giờ thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan, không thể thoát khỏi sự cám dỗ, thử thách, công kích, thao túng và cắn xé của Sa-tan. Nếu ngươi không bao giờ thoát khỏi những điều này, ngươi sẽ sống vô cùng đau khổ, phiền não, chẳng được yên vui và cảm thấy mọi thứ đều trống rỗng, thậm chí có thể muốn chết để chấm dứt tất cả. Đây là hoàn cảnh đáng thương khi phải sống dưới quyền lực của Sa-tan.

Trích đoạn 54

Bất kể thực hiện bổn phận trên khía cạnh nào, học hỏi chuyên môn trong lĩnh vực nào thì càng học ngươi càng phải tinh thông hơn, càng phấn đấu hơn để hoàn thiện, như vậy ngươi sẽ thực hiện bổn phận ngày càng tốt hơn. Có những người dù thực hiện bổn phận gì cũng không nghiêm túc, gặp khó khăn gì cũng không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, mà chỉ toàn nhờ người khác hướng dẫn, giúp đỡ mình, thậm chí yêu cầu người khác cầm tay chỉ việc dạy mình hay làm thay, còn bản thân thì không để tâm, luôn dựa dẫm vào người khác, luôn cần đến sự giúp đỡ của người khác. Như vậy chẳng phải đã biến thành một kẻ vô dụng rồi ư? Bất kể đang thực hiện bổn phận gì, ngươi cũng cần để tâm học hỏi mọi thứ mới đúng. Nếu ngươi thiếu kiến thức chuyên môn thì học kiến thức chuyên môn. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật thì hãy tìm kiếm lẽ thật. Nếu ngươi hiểu lẽ thật và có kiến thức chuyên môn, người sẽ có thể vận dụng chúng trong khi thực hiện bổn phận và gặt hái kết quả. Đây là người có tài năng và kiến thức thực sự. Nếu ngươi không học hỏi dù chỉ một chút kiến thức chuyên môn khi thực hiện bổn phận, cũng chẳng mưu cầu lẽ thật, và phục vụ không hợp cách, thì còn nói gì đến chuyện thực hiện bổn phận? Để làm tròn bổn phận của mình, ngươi phải học hỏi rất nhiều kiến thức hữu ích và trang bị cho bản thân nhiều lẽ thật, không ngừng học hỏi, không ngừng mưu cầu, và không ngừng hấp thu ưu điểm của người khác cải thiện khuyết điểm của mình. Bất kể thế mạnh của người khác là gì hay họ mạnh hơn chúng ta ở khía cạnh nào, chúng ta đều phải học hỏi từ họ. Và chúng ta càng phải học hỏi từ bất kỳ ai hiểu lẽ thật tốt hơn mình. Bằng cách thực hiện bổn phận như vậy trong vài năm, một mặt, ngươi sẽ hiểu được lẽ thật và bước được vào thực tế của lẽ thật, mặt khác, việc thực hiện bổn phận của ngươi cũng sẽ đạt yêu cầu. Ngươi sẽ trở thành một người có lẽ thật và nhân tính, một người có thực tế của lẽ thật. Điều này đạt được chính nhờ mưu cầu lẽ thật. Không thực hiện bổn phận thì làm sao gặt hái được kết quả như vậy? Đó chính là sự nâng đỡ của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận, chỉ hài lòng với việc phục vụ thì hậu quả sẽ như thế nào? Một mặt ngươi sẽ thực hiện bổn phận không hợp quy cách, mặt khác ngươi cũng không có chứng ngôn trải nghiệm thật sự, không đạt được lẽ thật. Cả hai mặt ngươi đều không gặt hái được thành quả thì liệu có được Đức Chúa Trời khen ngợi không? Đó là điều không thể, vì vậy hài lòng với việc phục vụ chắc chắn sẽ không được đạt được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Nghĩ rằng chỉ cần dâng sự phục vụ là có thể được ban thưởng tiến nhập thiên quốc, thì đấy chỉ là mơ mộng hão huyền! Thái độ đấy là gì? Chỉ muốn nhận phúc phần nhờ vào việc phục vụ, rõ ràng đấy là đang giao dịch với Đức Chúa Trời, đấy là lừa dối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không khen ngợi người phục vụ như vậy. Thực hiện bổn phận theo cách đối phó, chiếu lệ, dối trá là người ta đang bị chi phối bởi tâm tính gì? Kiêu ngạo, cương ngạnh, không yêu lẽ thật, có phải do những thứ này chi phối không? (Thưa, phải.) Các ngươi có những biểu hiện này không? (Thưa, có.) Thường xuyên có, thỉnh thoảng có hay là chỉ có trong những chuyện nhất định nào đó? (Thưa, thường xuyên có.) Thái độ thừa nhận những tình trạng như thế của các ngươi rất thành khẩn, có lòng trung thực, nhưng chỉ thừa nhận thôi thì chưa đủ, chẳng thể thay đổi được gì. Vậy phải làm sao mới có thể thay đổi được? Khi thực hiện bổn phận theo cách đối phó, chiếu lệ, khi bộc lộ tâm tính kiêu ngạo, khi có thái độ hời hợt thì ngươi phải lập tức tới cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, phản tỉnh bản thân, biết mình bộc lộ tâm tính bại hoại ở khía cạnh nào, ngoài ra còn phải nhận thức tâm tính đó sinh ra như thế nào, làm sao mới có thể thay đổi. Mục đích của nhận thức là hướng tới sự thay đổi, vậy con người nên làm thế nào mới có thể thay đổi đây? Con người buộc phải thông qua sự phán xét và sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời, nhận thức được rằng bản chất tâm tính bại hoại của mình là xấu xa, hung ác, giống như quỷ Sa-tan vậy. Phải thế thì mới căm ghét bản thân, căm ghét Sa-tan, mới có thể quay lưng lại với chính mình và quay lưng lại với Sa-tan. Như vậy là ngươi đã có thể đưa lẽ thật vào thực hành rồi. Khi quyết tâm thực hành lẽ thật, con người còn phải nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, nhận sự sửa dạy của Đức Chúa Trời và con người còn cần phải có yếu tố chủ động hợp tác nữa. Con người nên hợp tác như thế nào? Khi thực hiện bổn phận, hễ xuất hiện suy nghĩ “tàm tạm thôi là được” trong đầu thì cần phải uốn nắn ngay, con người không được nghĩ như vậy. Khi xuất hiện tâm tính kiêu ngạo thì phải cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, thừa nhận tâm tính bại hoại của mình, nhanh chóng phản tỉnh, tìm kiếm lời của Đức Chúa Trời, chấp nhận sự phán xét, sửa phạt của Đức Chúa Trời. Như vậy thì mới có lòng hối cải và rồi tình trạng bên trong sẽ thay đổi. Mục đích làm vậy là để làm gì? Làm vậy là để ngươi thật sự quay đầu, để có thể hiến dâng lòng trung thành của ngươi, vâng phục, chấp nhận sự quở trách, sửa dạy của Đức Chúa Trời một cách trọn vẹn. Như vậy thì tình trạng của ngươi sẽ thay đổi. Khi ngươi lại muốn thực hiện bổn phận theo cách đối phó, chiếu lệ, với thái độ hời hợt, thì nhờ sự sửa dạy của Đức Chúa Trời, nhờ sự quở trách của Đức Chúa Trời, ngươi có thể kịp thời sửa đổi. Có phải như vậy thì ngươi sẽ tránh được một lần vi phạm không? Đây là điều tốt hay xấu cho sự tiến bộ sinh mệnh của ngươi? Đây là điều tốt. Ngươi thực hiện được lẽ thật, làm hài lòng Đức Chúa Trời, trong lòng vững vàng, hưởng thụ, không còn tiếc nuối gì hết. Đây mới là vui vẻ và bình an đích thực.

Con người có tâm tính bại hoại thì rất dễ phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời, nhưng điều đó không có nghĩa là con người không còn hy vọng được cứu rỗi. Đức Chúa Trời tới làm công tác cứu rỗi con người, Ngài đã bày tỏ rất nhiều lẽ thật nhưng phải xem con người có chấp nhận được lẽ thật hay không. Nếu chấp nhận lẽ thật thì con người sẽ được cứu rỗi, còn nếu không chấp nhận lẽ thật, lại còn phủ nhận Đức Chúa Trời, phản bội Đức Chúa Trời thì coi như chấm hết, con người chỉ có thể chờ đợi bị hủy diệt trong tai họa mà thôi, không một ai có thể trốn thoát, con người buộc phải đối diện với sự thật này. Có những người nói rằng: “Tôi thường hay bộc lộ tâm tính bại hoại, mãi mà không thay đổi được thì phải làm sao? Có phải tôi đã là vậy rồi không? Có phải Đức Chúa Trời không thích tôi, ghét bỏ tôi không?” Thái độ thế này liệu có đúng không? Cách nghĩ thế này liệu có đúng không? (Thưa, không đúng.) Con người có tâm tính bại hoại thì tự nhiên sẽ bộc lộ tâm tính bại hoại, muốn kìm chế cũng không kìm chế được, vì vậy mà con người cảm thấy bản thân đã hết hy vọng. Thực tế thì chưa chắc đã phải vậy. Còn tùy thuộc vào con người có thể chấp nhận được lẽ thật hay không, có thể nương tựa, ngưỡng vọng Đức Chúa Trời được hay không. Việc con người thường phơi bày tâm tính bại hoại của mình chứng tỏ cuộc sống của họ bị kiểm soát bởi tâm tính bại hoại của Sa-tan, và rằng bản chất của họ là bản chất của Sa-tan. Con người nên công nhận và chấp nhận thực tế này. Có một sự khác biệt giữa bản tính thực chất của con người và thực chất của Đức Chúa Trời. Con người nên làm gì sau khi công nhận thực tế này? Khi con người thể hiện một tâm tính bại hoại, khi họ thèm khát lạc thú xác thịt và xa cách Đức Chúa Trời hơn; hay khi Đức Chúa Trời công tác khác xa với ý muốn của con người, và con người nảy sinh những lời than oán, thì phải kịp thời nhận thức rằng đây là vấn đề, đây là tâm tính bại hoại; đây là bất tuân Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời; điều này không phù hợp với lẽ thật, và khiến Đức Chúa Trời ghét cay ghét đắng. Khi con người nhận ra những điều này, họ không nên than oán hay trở nên tiêu cực và ù lì, và họ càng không nên rầu rĩ; thay vào đó, họ nên có khả năng tự phản tỉnh và tự biết mình sâu sắc hơn. Hơn nữa, họ phải có thể chủ động đến trước Đức Chúa Trời để tiếp nhận sự quở trách, sửa dạy của Đức Chúa Trời, và nên kịp thời xoay chuyển trạng thái của mình, để họ có thể thực hành theo lẽ thật và theo lời Đức Chúa Trời, và hành động theo nguyên tắc. Theo cách này, mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ phát triển ngày càng bình thường và trạng thái bên trong ngươi cũng vậy. Ngươi sẽ có thể xác định những tâm tính bại hoại, thực chất của sự bại hoại, và đủ loại trạng thái xấu xa khác nhau của Sa-tan sẽ ngày càng rõ rệt. Ngươi sẽ không còn thốt ra những lời ngu xuẩn và ấu trị như “đó là do Sa-tan quấy phá tôi”, hay “đó là ý tưởng Sa-tan cho tôi”. Thay vào đó, ngươi sẽ có hiểu biết chính xác về những tâm tính bại hoại, về thực chất sự chống đối Đức Chúa Trời của con người, và về thực chất của Sa-tan. Ngươi sẽ có một cách đối đãi với những điều này chính xác hơn, và không còn bị chúng kiềm hãm nữa. Ngươi sẽ không trở nên yếu đuối hay mất đức tin nơi Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của Ngài vì mình đã phơi bày một chút tâm tính bại hoại, hay đã vi phạm, hay đã thực hiện bổn phận một cách chiếu lệ, hoặc vì mình thường xuyên ở trong trạng thái thụ động, tiêu cực. Ngươi sẽ không sống giữa những hoàn cảnh như thế, mà sẽ đối mặt với tâm tính bại hoại của mình một cách đúng đắn và có thể có đời sống tâm linh bình thường, như vậy thì khi bộc lộ tâm tính bại hoại ngươi có thể phản tỉnh bản thân, có thể đến cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, phân biệt, bóc tách thực chất của tâm tính bại hoại, giúp cho bản thân không còn bị kiềm hãm, kiểm soát bởi tâm tính bại hoại và thực hành được lẽ thật. Như thế là ngươi đã bước trên con đường được cứu rỗi rồi. Trải nghiệm thực hành này sẽ giúp ngươi trút bỏ tâm tính bại hoại, thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan. Có phải như vậy thì con người đã được sống ở trước mặt Đức Chúa Trời, đã đạt được sự giải thoát tự do rồi không? Đây chính là con đường thực hành lẽ thật, đạt được lẽ thật và cũng là con đường để con người được cứu rỗi. Tâm tính bại hoại ăn sâu bén rễ trong con người, thực chất của Sa-tan, bản tính của Sa-tan điều khiển tư tưởng, hành vi và tâm tư của con người, nhưng đứng trước lẽ thật, đứng trước công tác của Đức Chúa Trời, đứng trước sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, tất cả những điều đó đều không là gì hết và chẳng có gì là khó cả. Bất kể con người có tâm tính bại hoại gì, có khó khăn gì hay bị kiềm hãm bởi điều gì đi nữa thì vẫn có con đường để đi, có cách để giải quyết và luôn có lẽ thật tương ứng để giải quyết. Có phải như vậy thì con người sẽ có hy vọng được cứu rỗi không? Con người có hy vọng được cứu rỗi rồi.

Trích đoạn 57

Bây giờ các ngươi đã phần nào có thể phân biệt được tâm tính bại hoại mà mình bộc lộ, đâu là những điều bại hoại bình thường ngươi vẫn dễ bộc lộ, đâu là những điều trái với lẽ thật ngươi vẫn dễ mắc phải. Khi ngươi đã nhìn rõ những điều này rồi thì việc làm tinh sạch tâm tính bại hoại của ngươi sẽ dễ dàng. Tại sao trong nhiều vấn đề con người không thể tự kiềm chế bản thân mình? Bởi vì ở mọi lúc, trong mọi vấn đề, họ đều bị những tâm tính bại hoại kiểm soát, điều này kiềm hãm và quấy phá họ trong mọi việc. Những lúc bình thường vô sự, khi họ không gặp khó khăn và không vấp ngã hay trở nên tiêu cực, một số người luôn cảm thấy bản thân họ có vóc giạc, và chẳng coi là gì khi thấy một kẻ ác, một lãnh đạo giả hay một kẻ địch lại Đấng Christ bị vạch trần và loại bỏ. Thậm chí họ còn có thể khoe khoang với mọi người rằng: “Bất cứ ai cũng có thể vấp ngã, còn tôi thì không. Bất cứ ai cũng có thể không yêu Đức Chúa Trời, còn tôi thì có”. Họ nghĩ họ có thể đứng vững trong chứng ngôn của mình trong bất cứ hoàn cảnh hay bối cảnh nào. Và kết quả là gì? Tới một hôm khi họ bị thử thách và họ than vãn về Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là thất bại, chẳng phải là vấp ngã sao? Không gì phơi bày con người nhiều hơn là khi họ bị thử thách. Đức Chúa Trời dò xét thâm tâm của con người, và con người không được khoe khoang bất kỳ lúc nào. Bất cứ điều gì họ khoe khoang, đấy là nơi sớm hay muộn gì họ cũng sẽ có ngày vấp ngã. Thấy người khác vấp ngã và thất bại trong một bối cảnh nhất định, họ chẳng coi là gì về việc đó, và thậm chí còn nghĩ rằng bản thân họ không thể làm gì sai, rằng họ sẽ có thể đứng vững – nhưng cuối cùng họ cũng vấp ngã và thất bại trong cùng một bối cảnh. Thế là sao? Đó là vì con người không hiểu thấu đáo được bản tính và thực chất của họ; sự hiểu biết của họ về những vấn đề trong bản tính và thực chất của mình vẫn không đủ sâu, do đó với họ việc đưa lẽ thật vào thực hành là rất vất vả. Ví dụ, một số người rất giả dối, không trung thực trong lời nói và việc làm, thế nhưng nếu ngươi hỏi họ tâm tính bại hoại của họ nghiêm trọng nhất ở khía cạnh nào, họ sẽ nói: “Tôi hơi giả dối”. Họ sẽ chỉ nói họ hơi giả dối, chứ không nói rằng bản tính của họ là giả dối, và họ không nói họ là người giả dối. Hiểu biết của họ về tình trạng bại hoại của chính họ không sâu sắc thế, và họ không thấy nghiêm trọng hay thấu đáo đến mức như người khác thấy. Người khác thấy người này quá giả dối và quá lươn lẹo, rằng có sự dối trá trong từng lời nói của họ, rằng lời nói và hành động của họ không bao giờ trung thực – nhưng chính họ không thể biết mình sâu sắc như thế. Dù có chút hiểu biết thì cũng đều chỉ là hiểu biết hời hợt. Bất cứ khi nào họ nói và hành động, họ đều tỏ lộ điều gì đó trong bản tính của mình, nhưng họ không ý thức được điều này. Họ tin rằng họ hành động như vậy không phải là tỏ lộ của sự bại hoại, họ nghĩ rằng mình đã đưa lẽ thật vào thực hành – nhưng đối với những người đang quan sát, người này khá gian dối và quỷ quyệt, lời nói và hành động của họ không trung thực đến thế. Tức là, con người có một sự hiểu biết quá nông cạn về bản tính của chính mình, và có một sự khác biệt rất lớn giữa điều này với lời Đức Chúa Trời phán xét và vạch trần họ. Đây không phải là một sai lầm trong những gì Đức Chúa Trời mặc khải, mà là sự thiếu hiểu biết sâu sắc của con người về bản tính của chính mình. Con người không có một sự hiểu biết từ gốc rễ, từ thực chất về bản thân họ; thay vào đó, họ tô vẽ và bỏ công cho những hành động và biểu hiện bên ngoài của mình. Ngay cả khi ai đó thỉnh thoảng có thể nói điều gì về việc hiểu bản thân mình, thì điều đó cũng không quá sâu sắc. Chưa ai từng nghĩ rằng họ là loại người nào đó hoặc có loại bản tính nào đó do đã làm loại việc nào đó hoặc đã tỏ lộ một điều gì đó. Đức Chúa Trời đã vạch trần bản tính và thực chất của loài người, nhưng thứ con người nhận thức được là thiếu sót và khuyết điểm trong cách làm việc và cách nói chuyện của họ; do đó, việc đưa lẽ thật vào thực hành là một nhiệm vụ khá khó khăn vất vả đối với họ. Con người cho rằng những sai lầm của họ chỉ là những biểu hiện nhất thời bị tỏ lộ một cách khinh suất chứ không phải là những sự tiết lộ về bản tính của họ. Khi con người nghĩ theo cách này thì rất khó để họ thực sự biết được bản thân mình, và cũng rất khó để họ hiểu được và thực hành được lẽ thật. Vì họ không biết lẽ thật và không khao khát lẽ thật, nên khi đưa lẽ thật vào thực hành, họ chỉ tuân theo các quy tắc một cách qua loa chiếu lệ. Con người không xem bản tính của họ là quá bại hoại, và tin rằng họ không tệ đến nỗi sẽ bị hủy diệt hoặc trừng phạt. Thế nhưng theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, sự bại hoại của con người là quá sâu sắc, họ còn xa mới đạt được tiêu chuẩn của sự cứu rỗi, bởi vì con người chỉ có một số hành động nhìn bề ngoài thì không vi phạm lẽ thật, trong khi thực tế thì họ không thực hành lẽ thật và không phải người vâng lời Đức Chúa Trời.

Những thay đổi trong hành vi hoặc cách cư xử của một người không ám chỉ một sự biến đổi trong bản tính của họ. Lý do nói vậy là vì những thay đổi trong cách cư xử của một người về cơ bản không thể làm thay đổi diện mạo ban đầu của họ, càng không thể làm thay đổi bản tính của họ. Chỉ khi con người hiểu được lẽ thật và có hiểu biết về bản tính và thực chất của chính mình, và có thể đưa lẽ thật vào thực hành, thì việc thực hành của họ mới có thể trở nên sâu sắc chứ không chỉ đang tuân theo quy củ. Cách con người thực hành lẽ thật ngày nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn và không thể đạt được đầy đủ hết thảy những gì lẽ thật yêu cầu. Con người chỉ thực hành một phần của lẽ thật, và chỉ khi họ đang ở trong những trạng thái và hoàn cảnh nhất định họ mới có thể đưa được một chút lẽ thật vào thực hành; chứ không phải họ thực hành ra lẽ thật trong mọi hoàn cảnh và mọi tình huống. Đôi khi, khi một người đang vui và họ có tâm trạng tốt, hoặc khi mọi người đang thông công với người khác và họ có một con đường thực hành trong lòng, thì trong thời gian này, họ có thể làm một số việc phù hợp với lẽ thật. Nhưng khi họ sống với những người tiêu cực và những người không mưu cầu lẽ thật, họ bị ảnh hưởng bởi những người này, và trong lòng họ lạc mất con đường, họ không thể thực hành ra lẽ thật. Điều này chứng tỏ rằng vóc giạc của họ quá nhỏ bé, rằng họ vẫn không thực sự hiểu được lẽ thật. Có một số cá nhân, nếu được hướng dẫn và dẫn dắt bởi đúng người, họ có thể thực hành ra lẽ thật; nhưng nếu họ bị một lãnh đạo giả hoặc một kẻ địch lại Đấng Christ lừa gạt và làm nhiễu loạn, thì họ không những không thể thực hành ra lẽ thật mà còn dễ bị lừa phỉnh đi theo người khác. Những người như vậy chẳng phải có nguy hiểm tiềm tàng sao? Những người như vậy, với kiểu vóc giạc này, không thể đạt đến mức thực hành ra lẽ thật trong mọi vấn đề và mọi bối cảnh. Thậm chí nếu họ có thực hành ra lẽ thật, đó sẽ chỉ là khi họ ở trong tâm trạng tốt, hoặc được người khác dẫn dắt; nếu không có người tốt dẫn dắt họ, sẽ có những lúc họ vẫn có thể làm những điều vi phạm lẽ thật, những lúc họ vẫn chệch khỏi lời Đức Chúa Trời. Và điều này là do đâu? Đó là vì ngươi chỉ biết được một vài tình trạng của mình, và không có hiểu biết về bản tính và thực chất của mình, cũng như chưa đạt được vóc giạc của việc quay lưng lại với xác thịt và thực hành lẽ thật; như thế, ngươi không kiểm soát được những điều mình sẽ làm trong tương lai, và không có gì bảo đảm tuyệt đối được rằng ngươi sẽ có thể đứng vững trong bất kỳ hoàn cảnh hay thử thách nào. Có những lúc ngươi ở trong một trạng thái và ngươi có thể thực hành ra lẽ thật, và ngươi dường như tỏ ra có sự biến đổi nào đó, tuy nhiên, trong một môi trường khác, ngươi lại không thể thực hành ra lẽ thật. Điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của ngươi. Đôi khi ngươi có thể thực hành lẽ thật, và đôi khi ngươi không thể thực hành ra lẽ thật. Lúc này ngươi hiểu, và lúc khác ngươi lại bối rối. Hiện tại, ngươi không làm điều gì xấu xa, nhưng có thể chẳng bao lâu nữa ngươi sẽ làm. Điều này chứng tỏ rằng những điều bại hoại vẫn tồn tại bên trong con người, và nếu không có khả năng thực sự biết mình, thì sẽ không dễ gì giải quyết được những điều đó. Nếu ngươi không thể hiểu thấu đáo về tâm tính bại hoại của chính mình, và cuối cùng thậm chí có khả năng làm những điều chống lại Đức Chúa Trời, thì nguy đấy. Nếu ngươi có thể có được sự thông hiểu thấu đáo về bản tính của mình và căm ghét nó, thì ngươi sẽ có thể kiểm soát chính mình, từ bỏ chính mình và thực hành ra lẽ thật.

Ngày nay con người chẳng hề chú trọngvào việc bước vào, thực hành lẽ thật mà chỉ tập trung vào hiểu và biết nói vài câu chữ giáo lý, để thỏa mãn chút ít nhu cầu tâm lý của mình, chỉ cần trong lòng thoải mái, không tiêu cực là đủ. Cho dù thông công lẽ thật giúp ích cho ngươi thế nào đi nữa thì sau đó ngươi vẫn không thực hành ra lẽ thật, đây là vấn đề gì? Bởi vì ngươi chỉ chú trọng nhận thức hoặc lắng nghe lẽ thật thay vì thực hành nó. Có ai trong số các ngươi tổng kết xem phải thực hành một lẽ thật như thế nào, chia ra làm bao nhiêu tình trạng chưa? Chưa từng! Phải làm thế nào để tổng kết được đây? Bản thân phải có trải nghiệm thì mới tổng kết được, chứ chỉ thông công vài câu từ giáo lý thôi thì không được. Đây chính là cái khó lớn nhất của con người – đó là không hứng thú với việc thực hành lẽ thật. Có thực hiện được lẽ thật hay không tùy thuộc vào sự mưu cầu của con người. Có người trang bị lẽ thật để truyền bá Phúc Âm, có người trang bị lẽ thật để giảng cho người khác nghe, khoe khoang về bản thân chứ không phải để thực hành lẽ thật thay đổi bản thân, những người chỉ chú trọng những thứ này thì không dễ gì thực hành ra lẽ thật, đây cũng là một khó khăn của con người. Một số người nói: “Tôi cảm thấy giờ đây tôi có thể thực hành ra một số lẽ thật rồi; không phải là tôi hoàn toàn chẳng thực hành ra bất kỳ lẽ thật nào. Trong một số hoàn cảnh, tôi có thể làm mọi thứ theo lẽ thật, nghĩa là tôi được tính là người thực hành lẽ thật và là người có lẽ thật rồi.” Thật ra, so với trước kia hay khi ngươi mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời, thì trong dạng tình huống này, ngươi đã thể hiện một chút thay đổi. Trong quá khứ, ngươi đã không hiểu bất cứ điều gì, ngươi cũng không biết lẽ thật là gì hay một tâm tính bại hoại là gì. Giờ đây ngươi đã biết được một số điều, và có khả năng có được một số cách thực hành hay, nhưng đây chỉ là một phần nhỏ trong sự thay đổi của ngươi; nó không phải là một sự biến đổi thật trong tâm tính ngươi, bởi ngươi không thực hành ra được những lẽ thật cao thâm và sâu xa hơn liên quan đến bản tính của ngươi. Trái với quá khứ của ngươi, ngươi quả thực đã thay đổi ít nhiều, nhưng sự biến đổi này chỉ là một sự thay đổi nhỏ trong nhân tính của ngươi; khi so sánh với sự biến đổi tâm tính, ngươi còn kém xa. Nghĩa là, ngươi thực hành lẽ thật chưa đạt tiêu chuẩn. Đôi khi con người gặp tình trạng như thế này, dù trong họ không tiêu cực và rất sung sức nhưng vẫn không có đường lối trong việc nhận thức và thực hành lẽ thật, hơn thế còn không hứng thú với việc thực hành lẽ thật. Chuyện này là thế nào? Có những lúc ngươi không tìm ra lối đi, nên đành giữ gìn quy củ và cứ ngỡ như vậy là đã thực hành lẽ thật. Rốt cuộc thì vẫn không giải quyết được cái khó của mình, trong lòng ngươi cảm thấy mình đã thực hành lẽ thật rồi, cũng đã dâng lòng trung thành rồi, tại sao vẫn gặp vấn đề? Đó là do ngươi làm điều đó bằng lòng tốt và sự nỗ lực chủ quan của bản thân. Ngươi không hề tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, không làm theo yêu cầu của lẽ thật hoặc chưa giữ vững nguyên tắc, từ đó dẫn đến việc ngươi luôn có cảm giác yêu cầu của Đức Chúa Trời quá xa vời, lòng không vững vàng và trở nên tiêu cực trong vô thức. Ý nguyện và sự nỗ lực chủ quan của cá nhân khác xa so với yêu cầu của lẽ thật, đồng thời cũng khác nhau về mặt bản chất. Cách thực hiện bên ngoài của con người không thể thay thế được cho lẽ thật, họ cũng không hoàn toàn làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, trong khi đó lẽ thật là sự bày tỏ thực sự ý muốn của Đức Chúa Trời. Có những người truyền bá Phúc Âm cho rằng: “Tôi cũng phải chịu cực khổ và trả giá không ít, suốt ngày bận bịu truyền bá Phúc Âm, sao có thể nói tôi không thực hành lẽ thật được?” Vậy ta hỏi ngươi: Trong lòng ngươi có bao nhiêu lẽ thật? Trong khi truyền bá Phúc âm có bao nhiêu chuyện các ngươi làm theo lẽ thật? Các ngươi có hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời không? Các ngươi đang làm việc hay đang thực hiện lẽ thật? Chính bản thân các ngươi cũng không trả lời được, bởi vì các ngươi chỉ tập trung vào việc làm hài lòng Đức Chúa Trời theo cách làm của mình, lấy lòng Đức Chúa Trời chứ không đánh giá theo tiêu chuẩn “Tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời trong mọi chuyện sao cho phù hợp với lẽ thật để làm hài lòng Đức Chúa Trời”. Nếu các ngươi nói rằng các ngươi đang thực hành lẽ thật, vậy trong khoảng thời gian đó tâm tính ngươi đã thay đổi bao nhiêu? Tình yêu dành cho Đức Chúa Trời tăng thêm bao nhiêu? Đánh giá bản thân như vậy sẽ thấy rõ các ngươi có đang thực hành lẽ thật hay không.

Trước: Những lời về việc biết mình

Tiếp theo: Những lời về cách trải nghiệm sự thất bại, vấp ngã, thử luyện và tinh luyện

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger