Mục 7. Họ tà ác, nham hiểm và giả dối (Phần 3)

Phần bổ sung: Quà tặng

Trước khi Ta đi vào chủ đề chính của mối thông công này, hãy để Ta kể một câu chuyện. Kể câu chuyện gì đây? Nếu nó không có ảnh hưởng gì đến con người, hoặc nếu nó không bồi dưỡng hoặc có lợi cho người tin Đức Chúa Trời về mặt lối vào sự sống và nhận biết Đức Chúa Trời, thì kể ra không có ý nghĩa gì. Nếu Ta kể chuyện, thì bản thân câu chuyện đó chắc chắn phải có sự bồi dưỡng với con người – nó cần có giá trị và ý nghĩa. Vậy hôm nay, hãy lắng nghe câu chuyện này và xem nó có thể bối dưỡng cũng như giúp ích cho các ngươi hay không. Có những câu chuyện là có thật, nhưng cũng có những câu chuyện là hư cấu, mượn từ một số sự việc có thật; chúng không có thật, nhưng lại thường thấy trong đời sống, nên không tách rời thực tế. Dù chúng là hư cấu hay thực sự từng xảy ra, thì cũng đều gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Vậy tại sao lại kể cho các ngươi nghe những câu chuyện như vậy? (Thưa, để khiến cho chúng con hiểu lẽ thật.) Đúng vậy: để khiến cho các ngươi hiểu lẽ thật từ đó – hiểu rằng có một số lẽ thật mà con người khó mà nhận biết được trong cuộc sống hiện thực. Chúng ta hãy sử dụng phương thức kể chuyện để khiến sự nhận biết của con người về lẽ thật và về Đức Chúa Trời sát với thực tế hơn, đồng thời giúp họ dễ hiểu lẽ thật và Đức Chúa Trời hơn.

Khi Ta tiếp xúc nhiều với con người trong một thời gian dài, thì không tránh khỏi phát sinh những sự việc kỳ lạ và buồn cười. Sự việc này xảy ra vào mùa xuân năm nay. Mùa đông đã qua và mùa xuân đã đến, thời tiết ngày càng ấm lên, và hết thảy các loài cây trên mặt đất bắt đầu sinh sôi, lớn lên từng ngày dưới sự chiếu rọi của ánh nắng và sự chăm tưới của mưa gió. Một số là cây dại, một số là cây trồng; một số cho động vật ăn, một số cho người ăn, và một số cho cả động vật và con người ăn. Đó là một cảnh tượng mùa xuân: một cảnh tượng xanh biếc dạt dào, tràn trề sức sống. Và câu chuyện bắt đầu từ đây. Một ngày nọ, Ta bất ngờ nhận được một món quà đặc biệt. Món quà gì đây? Một túi rau dại. Người dâng nó cho Ta nói: “Đây là rau tề thái – ăn được và có lợi cho sức khỏe của Ngài. Ngài có thể xào với trứng”. Đây là chuyện tốt. Rồi Ta so sánh nó với rau tề thái mà Ta mua hồi trước, vừa nhìn đã có vấn đề. Các ngươi đoán xem vấn đề là gì? Ta phát hiện ra một “bí ẩn”. Bí ẩn gì? Rau tề thái nước ngoài trông không giống rau tề thái hồi ở Trung Quốc. Có vấn đề gì ở đây không? (Thưa, có.) Nếu là cùng một loại, thì trông phải giống nhau chứ, hiện tại phát hiện ra trông không giống nhau, thì Ta sẽ nghĩ gì đầu tiên? Đây rốt cuộc có phải là rau tề thái hay không? Ta không thể chắc chắn được. Chẳng phải Ta cần hỏi người đó xem chuyện gì đã xảy ra sao? Thế là sau đó, Ta đi hỏi anh ta: “Ngươi có chắc đây là rau tề thái không?”. Anh ta ngẫm nghĩ rồi đáp: “Ôi, con cũng không chắc nó có phải là rau tề thái hay không nữa”. Nếu anh ta không chắc, làm sao anh ta lại có thể dâng cho Ta được? Tại sao anh ta dám dâng cho Ta chứ? May là Ta không ăn bừa. Hai hôm sau, quả nhiên đã xác định được nó thực sự không phải là rau tề thái. Người đó nói thế nào? Anh ta nói: “Làm sao Ngài nhận ra được nó không phải là rau tề thái vậy? Con cũng không chắc nó có phải rau tề thái không nữa, vậy thôi, Ngài đừng ăn”. Thế thứ đó còn có thể ăn được không? (Thưa, không thể.) Nó không thể ăn được. Nếu Ta nói: “Ngươi không chắc, nhưng nể tình ngươi có lòng tốt, nên Ta sẽ liều lĩnh ăn nó”, thì làm vậy có được không? (Thưa, không.) Tính chất của hành động như thế là gì? Chẳng phải là đần độn sao? (Thưa, phải.) Đúng vậy, đây là đần độn. May là Ta chưa ăn, cũng không truy cứu thêm, nên chuyện này liền bỏ ngỏ.

Sau một thời gian, muôn loài cây dại bắt đầu mọc trên đất hoang: cao, thấp, có hoa và không có hoa, đủ loại màu sắc và hình dạng. Chúng mọc ngày càng nhiều, ngày càng rậm và ngày càng thành hình. Một hôm, Ta lại nhận được một túi quà, nhưng lần này không phải là túi rau tề thái. Thay vào đó, nó đựng ngải cứu Trung Quốc, từ cùng một người. Anh ta cũng đủ tử tế để gửi đến một túi quà khác, đi kèm hướng dẫn: “Ngài dùng thử. Đây là ngải cứu Trung Quốc: trị cảm lạnh, và Ngài cũng có thể ăn kèm trứng bác”. Ta nhìn xem: chẳng phải đây là ngải hoa vàng sao? Rất nhiều nơi ở Trung Quốc có ngải cứu, và lá của chúng có mùi đặc trưng, nhưng không phải là cái mà người đó gửi đến – làm sao có thể gọi đó là ngải cứu Trung Quốc được? Tuy lá hơi giống, nhưng rốt cuộc có phải hay không? Ta hỏi người dâng cho Ta, nhưng anh ta lại nói là không biết – cái “không biết” này đã phủi sạch trách nhiệm. Thậm chí anh ta còn hỏi: “Sao Ngài chưa ăn? Con không chắc nó là gì, nhưng Ngài phải ăn đi. Con ăn rồi, ngon lắm”. Anh ta không chắc, nhưng lại khuyến khích Ta ăn. Các ngươi nói xem, Ta nên làm thế nào? Ta có cần cắn răng mà ăn không? (Thưa, không.) Chắc chắn không thể ăn rồi, bởi vì thậm chí người gửi còn không biết nó là gì. Nếu Ta đánh cược một lần để nếm thử món mới, chắc cũng không có việc gì, vì người ăn rồi đã nói không có việc gì. Nhưng thấy nó không sao và ăn một cách ngu dốt, thì cách làm này thế nào? Chẳng phải là hơi mù quáng sao? Loại người nào làm chuyện mù quáng này? Chỉ có người lỗ mãng và thô kệch mới làm thế – người cho rằng: “Thế nào cũng được; không khác lắm là được”. Các ngươi nói xem Ta có nên làm vậy không? (Thưa, không nên.) Tại sao không nên? Có rất nhiều thứ có thể ăn được; tại sao phải liều lĩnh ăn một loài cây không biết tên? Trừ khi trong những năm đối kém, thực sự không có lương thực, ngươi có thể đào các loại rau dại để ăn thử, và ngươi có thể chịu chút rủi ro. Trong những tình huống như thế, ngươi có thể ăn một loài cây không biết tên. Nhưng bây giờ có phải là kiểu tình huống đó không? (Thưa, không.) Có rất nhiều thứ có thể ăn được, tại sao phải đi đào rau dại? Có cần thiết phải chịu rủi ro chỉ vì chút lợi ích tưởng tượng, nhìn không thấy, sờ không được không? (Thưa, không.) Vì thế, Ta quyết định không ăn. May là Ta không ăn, cũng không truy cứu thêm, và chuyện đó cũng bỏ ngỏ.

Một thời gian sau, người đó lại dâng cho Ta một món quà khác; đây là lần thứ ba. Món quà lần này khá đặc biệt: không mọc từ đất, cũng chẳng kết trái trên cây. Đó là gì? Hai quả trứng chim, được bọc ngay ngắn trong một túi giấy có ghi dòng chữ “Trứng chim cho Đức Chúa Trời”. Ngộ nghĩnh, phải không? Khi mở túi giấy ra, Ta thấy vỏ của hai quả trứng có màu sắc xinh đẹp. Ta chưa bao giờ nhìn thấy quả trứng như thế này, nên không nhìn ra được là trứng của loài chim nào. Ta muốn lên mạng tra cứu thông tin, nhưng cũng không tìm được manh mối nào, bởi vì có nhiều loại trứng có cùng hoa văn và màu sắc, nên không cách nào xác định được dựa trên kích thước và màu sắc. Các ngươi nói xem Ta có cần hỏi người đó xem chúng là loại trứng gì không? (Thưa, không cần.) Tại sao không? (Thưa, anh ta cũng không biết.) Các ngươi đoán đúng rồi đấy; anh ta cũng không biết. Vì vậy, Ta không hỏi anh ta. Nếu Ta hỏi sẽ làm tổn hại đến thể diện của anh ta, và anh ta sẽ nghĩ: “Con có lòng tốt và lòng yêu kính lớn lao như thế, mà Ngài còn nghi ngờ con. Ngài còn muốn tra cứu trên mạng, tra cái gì mà tra? Con dâng Ngài ăn thì Ngài cứ ăn đi!”. Các ngươi nói xem, Ta có nên ăn những quả trứng đó hay không? (Thưa, Ngài không nên ăn.) Nếu anh ta cho các ngươi thứ đó, các ngươi có ăn không? (Thưa, không.) Vậy thì Ta cũng không ăn. Những quả trứng này là để ấp nở chim con. Ăn chúng chẳng phải là tàn nhẫn sao? (Thưa, phải.) Ta không thể làm như vậy, nên chuyện trứng chim cũng bỏ ngỏ, nhưng loại chuyện này cứ tái diễn.

Một hôm, Ta tình cờ thấy ít ngải hoa vàng – mà trông giống ngải cứu Trung Quốc – đang được phơi khô trên lan can, nên Ta hỏi một người chị em nó để làm gì. Cô ấy đáp: “Đây chẳng phải là cùng một loại ngải cứu Trung Quốc mà anh đó dâng Ngài lần trước sao? Ngải cứu Trung Quốc có thể khử ẩm và trị cảm lạnh. Chẳng phải Ngài nhạy cảm với trời lạnh sao? Anh ấy bảo là đến lúc phơi khô rồi thì sẽ giữ lại dâng Ngài để đun nước nóng ngâm chân cho đỡ lạnh”. Các ngươi nói xe, sau khi nghe xong, phản ứng của Ta là gì? Bốn chữ. (Thưa, không nói nên lời.) Đúng vậy. Ta không nói nên lời. Trong tình huống này, chẳng phải Ta nên có chút cảm nghĩ sao, lòng yêu kính của người này quá lớn, không nề hà vất vả, sao Ta lại có thể không nói nên lời được? Chính vì mấy lần trước, người này đã làm mấy chuyện đó mà không có tri giác, rồi lại thay đổi phương thức, ý là: “Con dâng cho Ngài rau và trứng để ăn, nhưng Ngài không ăn. Vậy thì con phơi khô ít ngải cứu Trung Quốc cho Ngài đun nước ngâm chân, đây cũng xem như con không tốn công vô ích”. Nhìn thấy cảnh này, Ta thực sự không nói nên lời. Về sau, Ta nói với một người khác rằng nhiều nhà thuốc bây giờ bán ngải cứu Trung Quốc. Muốn mua bao nhiêu cũng được: chúng được đóng gói đa dạng, sản xuất ở nhiều quốc gia khác nhau và xử lý sạch sẽ, tốt hơn nhiều thứ mà người đó gửi cho Ta. Vì thế, không cần ra ven đường nhổ rồi đem phơi nắng trên lan can, chuyện này chẳng phải là bận bịu một cách mù quáng sao? Nếu anh ta phơi khô và đem dâng cho Ta, thì ngươi nói xem, Ta có muốn không? (Thưa, không.) Ta không muốn. Sau một thời gian, không còn ngải cứu nào trên lan can nữa, bởi vì những điều Ta nói đã đến tai anh ta, và anh ta không còn gửi gì nữa. Về sau, trên đất hoang có nhiều rau dại hơn, người ta nhìn thì cũng không thấy là hiếm nữa, nên không ai gửi cho Ta rau dại nữa. Và Ta đoán trong thời gian đó, những quả trứng chim chắc cũng đã nở và không thể nhặt được nữa, nên cho đến tận bây giờ, Ta cũng không nhận được trứng chim hay rau dại nào nữa. Và đó là câu chuyện của Ta.

Trong câu chuyện có tổng cộng bốn sự việc, tất cả đều về những thứ được gửi đến cho Ta: hai lần là dâng rau dại không biết tên, một lần là gửi trứng chim không xác định, và một lần là gửi “thuốc Đông y” phơi khô. Kể những chuyện này có thể nghe hơi buồn cười, nhưng về bản thân những sự việc này, thì sau khi nghe, các ngươi có cảm tưởng gì không? Ở đây có điều gì mà các ngươi nên nhận biết được hoặc học hỏi được, hay có bài học nào mà các ngươi nên rút ra từ đó không? Trong khi nghe thì các ngươi đã nghĩ đến điều gì? Những chuyện Ta kể có nhắm đến một người nào không? Chắc chắn là không. Nhưng nếu chúng không nhắm đến một người nào đó, thì tại sao Ta lại muốn kể về chúng? Nó có ý nghĩa không? Hay chỉ là nói vu vơ? (Thưa, không phải nói vu vơ.) Các ngươi không cho là nói vu vơ, vậy các ngươi có biết tại sao Ta lại muốn kể về nó không? Tại sao người này lại phải làm loại chuyện này? Tính chất của việc anh ta làm loại chuyện này là gì? Động cơ của anh ta là gì? Vấn đề ở đây là gì? Có cần phải kết hợp với thực tế không? Các ngươi sẽ có thể hiểu lẽ thật nếu nhìn thấu con người và tính chất của bản thân sự việc khi kết hợp với thực tế. Các ngươi nói xem, người làm loại chuyện này có ý tốt hay ý xấu? (Thưa, ý tốt.) Trước hết, có một điều chắc chắn là: anh ta có ý tốt. Ý tốt của anh ta có vấn đề gì? Làm việc dựa vào ý tốt có đồng nghĩa với việc có lòng yêu kính không? (Thưa, chưa chắc.) Nếu ý tốt là động cơ làm việc của con người, thì có chắc là không có sự uế tạp của tâm tính bại hoại không? Chưa chắc. Vậy thì Ta hỏi tất cả các ngươi, nếu ngươi có lòng hiếu thảo với cha mẹ mình, tại sao ngươi không gửi cho họ những thứ này để ăn? Hoặc là nếu ngươi quý mến và quan tâm đến sếp và lãnh đạo của mình, tại sao ngươi không gửi cho họ những thứ này để ăn? Tại sao ngươi không dám làm vậy? Đó là bởi vì ngươi sợ xảy ra vấn đề. Ngươi sợ làm hại cha mẹ, lãnh đạo và sếp của mình, vậy ngươi có sợ làm hại Đức Chúa Trời không? Mưu mô của ngươi là gì? Trong lòng tốt của ngươi bao hàm điều gì? Ngươi muốn lừa gạt Đức Chúa Trời sao? Ngươi muốn đùa giỡn với Ngài sao? Nếu Đức Chúa Trời là linh thể, ngươi có dám làm như thế không? Nếu ngươi thấy xác thịt của Đức Chúa Trời thuộc về nhân tính bình thường, và thay vì kinh sợ Ngài, ngươi dám làm chuyện này, thì ngươi có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không? Nếu ngươi không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, thì việc ngươi làm chuyện này có thực sự là do lòng yêu kính không? Đó không phải là lòng yêu kính: đó là lừa gạt và đùa giỡn với Đức Chúa Trời, và ngươi to gan lớn mật! Nếu ngươi thực sự là một người có trách nhiệm, tại sao không tự ăn và nếm thử trước, xác định không có vấn đề gì trước khi đem dâng cho Đức Chúa Trời? Nếu ngươi trực tiếp đem dâng cho Đức Chúa Trời mà bản thân lại chưa ăn và nếm thử, thì chẳng phải là đùa giỡn với Đức Chúa Trời sao? Ngươi làm như vậy không cảm thấy mình đang xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời sao? Đức Chúa Trời có thể quên được chuyện này không? Dù ngươi có quên, thì Đức Chúa Trời cũng sẽ không quên. Khi làm chuyện này, ngươi có tư tưởng không? Ngươi chưa nếm thử, và ngươi không có căn cứ khoa học, vậy mà ngươi dám dâng cho Đức Chúa Trời. Đây có phải là biểu hiện có trách nhiệm không? Nếu làm hại Đức Chúa Trời, ngươi sẽ gánh trách nhiệm nào đây? Cho dù luật pháp sẽ không xử lý ngươi, thì Đức Chúa Trời cũng sẽ trừng phạt ngươi đời đời. Thậm chí ngươi còn cảm thấy thứ rách nát này không thích hợp để biếu lãnh đạo và quan chức ngoại đạo, làm tổn hại đến thể diện, vậy mà ngươi vẫn có thể dâng nó cho Đức Chúa Trời, ngươi có ý định gì? Giá trị con người của Ta nhỏ như vậy sao? Nếu ngươi biếu sếp một túi rau dại thì sếp ngươi sẽ nghĩ thế nào? “Tôi chỉ đáng giá chừng này thôi sao? Người ta biếu tặng tôi tiền và hàng hiệu, còn anh cho tôi một mớ cỏ dại hả?”. Liệu ngươi có thể làm được điều đó không? Chắc chắn là không thể. Nhưng nếu ngươi biếu sếp mình, thì ngươi sẽ lo nghĩ gì? Điều đầu tiên ngươi phải nghĩ đến là: “Sếp thích gì? Sếp có cần cái đó không? Nếu sếp không cần mà mình vẫn biếu, thì sếp sẽ gây khó dễ cho mình sao? Sếp sẽ ức hiếp và hành mình trong công ty sao? Nếu chuyện trở nên nghiêm trọng, liệu sếp có kiếm cớ và nắm thóp để sa thải mình không?”. Ngươi có nghĩ gì đến những điều đó không? (Thưa, có.) Nếu muốn lấy lòng sếp, thứ đầu tiên ngươi nên biếu là gì? (Thưa, thứ sếp thích.) Chỉ biếu thứ sếp thích thôi thì không được. Chẳng hạn như nếu bây giờ sếp đang cần một cái cốc, ngươi bỏ ra 10 hoặc 20 nhân dân tệ để mua một cái cốc cho sếp thì có được không? (Thưa, không được.) Ngươi phải biếu thứ gì đó bằng vàng, thứ gì đó bằng bạc, thứ gì đó đáng biếu chứ. Tại sao lại biếu sếp thứ mà ngươi không nỡ mua cho chính mình? (Thưa, để lấy lòng sếp.) Mục đích của việc lấy lòng sếp là gì? Đầu tiên, ít nhất sếp cũng có thể che mưa chắn gió cho ngươi, và họ có thể sử dụng quyền lực trong tay để bảo vệ ngươi, giúp công việc cũng như tiền lương của ngươi được ổn định và đảm bảo. Ít nhất họ cũng sẽ không gây khó dễ cho ngươi. Vì thế, ngươi sẽ không bao giờ biếu sếp một mớ rau dại không biết tiên. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Thậm chí ngươi còn không thể như thế với sếp của mình, vậy tại sao người dâng cỏ dại cho Ta lại như thế với Ta? Anh ta có nghĩ đến hậu quả không? Chắc chắn là không. Và tại sao không? Có người nói: “Bởi vì Ngài sẽ không làm khổ chúng con”. Có đơn giản vậy không? Bởi vì Ta sẽ không gây khó dễ cho anh ta, có phải vậy không? Làm sao anh ta dám dâng như thế? (Thưa, anh ta cảm thấy ý định của mình là tốt.) Đúng vậy, anh ta dùng ý tốt để che đậy hết thảy sự xấu xí và tà ác của mình, ý là: “Con có ý tốt với Ngài, chứ người khác không có đâu! Ngài xem bao nhiêu rau dại như vậy, ai đào lên cho Ngài? Chẳng phải là con sao?”. Đây là kiểu thái độ gì? Đây là kiểu tâm lý gì? Ý tốt này có phù hợp với nhân tính không? Nếu thậm chí nó còn không phù hợp với nhân tính, liệu nó có thể phù hợp với lẽ thật được không? (Thưa, không thể.) Nó quá xa rời lẽ thật. Ý tốt này là gì? Nó có thực sự là ý tốt không? (Thưa, không.) Vậy thì nó bao hàm kiểu thái độ nào? Nó bao hàm sự uế tạp và thực chất nào? Ngay cả những người trẻ các ngươi chưa trải đời nhiều cũng hiểu rằng không thể tùy tiện biếu quà cho lãnh đạo trực tiếp được; ngươi phải nghĩ đến hậu quả. Vậy nếu một người rất dày dạn kinh nghiệm ở độ tuổi khoảng bốn mươi hoặc năm mươi dâng cho Ta mấy thứ này, thì các ngươi nói xem, tính chất của việc này là gì? Nó có đáng để chúng ta thảo luận ở đây không? (Thưa, có.) Vậy thì suy cho cùng, tính chất của việc này là gì? Người đó đã tùy tiện dâng cho Ta ít rau dại, bản thân anh ta còn không biết nó là gì mà lại bảo Ta ăn. Khi Ta nói rằng nó trông không giống loài rau dại đó, thì anh ta lập tức bảo Ta đừng ăn – và đây vẫn chưa phải là kết thúc. Anh ta lại gửi cho Ta một loài rau dại khác để ăn. Ta không ăn thì anh ta nói cái gì mà: “Ngài ăn đi, ngon lắm. Con ăn thử rồi”. Đây là kiểu thái độ gì? (Thưa, bất kính và vô trách nhiệm.) Đúng vậy. Hết thảy các ngươi có cảm giác được thái độ này không? (Thưa, chúng con có.) Nó có phải là ý tốt không? Ở đây đến ý tốt cũng không có! Anh ta tình cờ có được thứ gì đó mà thậm chí không tốn gì cả, rồi cho vào túi ni lông đem dâng cho Ta, bảo Ta ăn. Ngay cả khi ngươi nhổ chút rau dại cho cừu và thỏ ăn, ngươi cũng phải suy ngẫm: “Liệu những con vật này ăn vào thì có thể bị ngộ độc không?”. Chẳng phải đó là điều ngươi nên nghĩ đến sao? Nếu ngươi không sẵn lòng chịu rủi ro khi cho động vật ăn, thì làm sao ngươi có thể tùy tiện mang một mớ rau dại dâng cho Ta ăn được? Đây là kiểu tâm tính gì? Tính chất của vấn đề này là gì? Các ngươi có thể nhìn rõ không? Nếu người như thế đối xử với Ta như vậy, thì các ngươi nói xem, anh ta sẽ đối xử với cấp dưới hoặc ai đó mà trong mắt anh ta xem là người bình thường như thế nào? Chỉ có tùy tiện đùa giỡn. Đó là tâm tính gì? Tà ác và hung ác. Liệu có thể xem anh ta là một người tốt được không? (Thưa, không.) Anh ta không được xem là một người tốt. Không xem trọng cơ thể và tính mạng của người khác, và đem nó ra đánh cược, sau đó không có cảm giác gì, lương tâm cũng không có một chút tự trách nào, mà vẫn có thể liên tiếp làm loại chuyện này: quả thực là quá kỳ lạ.

Ở đầu câu chuyện, Ta có nói vài lời mà có thể các ngươi không để ý lắm. Ta nói rằng trong các loài rau dại đó, một số cho động vật ăn, một số cho người ăn, và một số có thể cho cả động vật và người ăn. Đây là một “danh ngôn” và có nguồn gốc của nó. Các ngươi có biết nó bắt nguồn từ đâu không? Nó có “điển cố”. Nó bắt nguồn từ người đã dâng mấy món quà này trong câu chuyện đó. Người này phụ trách trồng trọt, và anh ta trồng ba loại ngô. Ba loại ngô nào? Loại cho người ăn, loại cho động vật ăn, và loại cho cả người và động vật ăn: ba loại đó. Ba loại ngô này khá thú vị. Các ngươi đã từng nghe về chúng chưa? Các ngươi chưa, và Ta cũng mới nghe nói tới lần đầu – vì chúng hiếm có. Cuối cùng, bởi vì người trồng ngô quá vô trách nhiệm, nên ba loại ngô này bị lẫn lộn: loại cho động vật ăn thì cho người ăn, trong khi loại cho người ăn thì cho động vật ăn. Sau khi ăn xong, ai cũng nói là khó ăn, không có vị giống thức ăn, mà có chút vị cỏ. Những người trồng ngô đã làm cái gì vậy? Bởi vì sự vô trách nhiệm khi làm bổn phận của họ, mà họ đã làm lẫn lộn loại cho người ăn và loại cho động vật ăn, đến mức không ai có thể phân biệt được rõ ràng, và họ đã phải mua thêm hạt giống về trồng lại toàn bộ. Các ngươi nói xem, công tác này được thực hiện như thế nào? Loại người này làm việc có nguyên tắc không? (Thưa, không.) Khi làm việc, họ có tìm kiếm lẽ thật không? (Thưa, không.) Với kiểu thái độ làm việc này của họ, bất kính và vô trách nhiệm với tất cả mọi người như thế, thì loại người này nhìn nhận thế nào việc tin Đức Chúa Trời? Họ tiếp cận lẽ thật như thế nào? Trong lòng họ, lẽ thật chiếm bao nhiêu trọng lượng? Thân phận của Đức Chúa Trời quan trọng như thế nào? Họ có biết không? (Thưa, không.) Chẳng phải họ nên biết về những chuyện lớn như vậy sao? Vậy tại sao họ lại không biết? Việc này liên quan đến tâm tính của họ. Đó là tâm tính gì? (Thưa, tà ác.) Tà ác và chán ghét lẽ thật. Họ không ý thức được tính chất của những việc mình làm, và họ không bao giờ nghiền ngẫm hay tìm kiếm, sau khi làm cũng không kiểm điểm bản thân. Thay vào đó, họ muốn sao làm vậy, cho rằng chỉ cần họ có ý tốt, chỉ cần ý định không sai thì không cần ai giám sát hay chỉ trích; họ cho rằng họ đã làm hết trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Chuyện có phải như vậy không? Có những người nói: “Chúng con hiểu câu chuyện Ngài kể, nhưng chúng con vẫn chưa hiểu điểm mà chúng con quan tâm nhất, đó là: rốt cuộc thái độ của Ngài khi loại chuyện này xảy đến là gì? Thái độ của Ngài đối với người làm loại chuyện này này rốt cuộc là gì? Đó là phẫn nộ, ghét bỏ hay ghê tởm? Hay Ngài thích?”. (Thưa, chán ghét.) Với loại chuyện này chẳng phải nên chán ghét sao? (Thưa, phải.) Nếu loại chuyện này xảy đến với các ngươi thì các ngươi nghĩ sao? Giả sử một người tốt bụng cho ngươi một số thứ không xác định hết lần này đến lần khác, kiên nhẫn khích lệ ngươi: “Ăn đi, tốt cho sức khỏe. Ăn đi, có thể duy trì sức khỏe. Ăn đi, sau khi ăn xong sẽ đẹp lên, trở nên hoạt bát. Nghe tôi đi!”. Kết quả qua xác minh, những thứ này không có giá trị gì cả, thì ngươi sẽ nghĩ thế nào? (Thưa, nếu là con thì có lẽ con sẽ không muốn để ý đến loại người này nữa. Con sẽ khó chịu với anh ta và không nói nên lời. Con sẽ có cảm giác này.) Với loại người này thì nên chán ghét và phản cảm. Còn gì nữa? Có nên cảm thấy tức giận, đau lòng hay đau khổ không? (Thưa, không cần.) Không cần, phải không? Chẳng phải có những người nói: “Có thể người này làm vậy bởi vì anh ta không hiểu lẽ thật” sao? Đa số mọi người đều không hiểu lẽ thật, nhưng trong số họ, bao nhiêu người có thể làm loại chuyện này? Chẳng phải là giữa người với người có sự khác biệt sao? (Thưa, phải.) Người với người có sự khác biệt. Giống như khi người ta giao thiệp với nhau, có sự trao đổi vật chất, thì có những người tìm kiếm sự công bằng và hợp lý. Cho dù những người này để cho bên kia lợi dụng mình một chút cũng không vấn đề gì – có như vậy thì chung sống mới dài lâu; họ có nhân tính và cảm thấy bị thiệt một chút cũng không tính là gì. Lại có những người không có nhân tính và luôn thích lợi dụng người khác: họ giao thiệp với người khác đơn thuần chỉ là để đạt được lợi ích và chiếm lợi. Nếu họ có thể đạt được chút lợi ích từ ngươi, họ sẽ lấy lòng ngươi và duy trì mối quan hệ với ngươi, nhưng nếu không thể thì họ sẽ đá ngươi đi. Họ không có chút chân tình nào với ngươi; người như thế không có nhân tính.

Các ngươi thấy thế nào về loại người tặng quà như trong câu chuyện Ta kể hôm nay? Tại sao loại người này lại có thể tặng đồ? Có phải là ngẫu nhiên không? Nếu bao nhiêu năm mới có một lần, thì có thể là ngẫu nhiên, nhưng cùng một chuyện mà xảy ra bốn lần trong một mùa, thì còn có thể được coi là ngẫu nhiên nữa không? (Thưa, không.) Hành vi này của anh ta không phải là ngẫu nhiên, tâm tính này của anh ta cũng không phải là sự bộc lộ và biểu hiện nhất thời của sự bại hoại được. Vậy thì tính chất hành vi của anh ta là gì? Như lúc nãy chúng ta nói, hành vi của anh ta là bất kính, vô trách nhiệm, không tính toán hậu quả, làm việc lỗ mãng, và bốc đồng, thuộc về một tâm tính mọi rợ. Vậy tại sao anh ta lại muốn làm vậy? Tại sao anh ta không biếu những thứ đó cho ai khác, mà chỉ dâng cho Ta? Bởi vì thân phận và địa vị của Ta khác biệt, nên Ta có tư cách nhận những món quà này. Như thế có phải là đã nhìn ra được ý định của người biếu quà và tính chất của những việc anh ta làm không? Mục đích của anh ta là gì? (Thưa, để lấy lòng.) Đúng vậy. Từ chính xác nhất để định nghĩa sự lấy lòng này của anh ta nên là gì? Được hời, lấy lòng và đầu cơ trục lợi. Đó là một cách khéo léo để lấy lòng ngươi, khiến ngươi bất giác rơi xuống cái hố mà anh ta đã đào sẵn, và cho ngươi một cảm giác tốt về anh ta, trong khi thực tế anh ta không hề chân thành chút nào – anh ta muốn đạt được mục đích riêng của mình mà không phải trả bất kỳ giá nào. Anh ta làm vậy mà không hề suy xét chi tiết xem rốt cuộc sẽ xảy ra hậu quả gì và chỉ cho ngươi thứ mà anh ta nhặt được miễn phí, khiến ngươi cảm thấy anh ta rất có lòng yêu thương, và đưa ngươi vào một trạng thái vui mừng. Ngụ ý là gì? Nghĩa là trong tình huống tốn một đồng nào, anh ta đã khiến ngươi cảm thấy như ngươi đã được chiếm được món hời lớn, anh ta rõ ràng là xem ngươi như kẻ ngốc. Chẳng phải nó nghĩa là vậy sao? Anh ta đang nghĩ thầm: “Con chẳng phải tốn một đồng nào, và con chẳng phải bỏ ra một chút sức lực nào; con không có lòng thành với Ngài. Con chỉ dâng Ngài một ít đồ để Ngài nhớ đến con, để Ngài cho rằng con có lòng tốt, có lòng yêu kính và lòng trung thành, và trong lòng con có tình yêu kính dành cho Ngài”. Khiến ngươi lầm tưởng anh ta là người như thế, đây là được hời, là đầu cơ trục lợi. Sử dụng cái gọi là lòng tốt rẻ tiền nhất để đổi lấy quyền lợi và lợi ích lớn nhất trong tình huống không phải trả bất kỳ giá nào hay có bất kỳ lòng thành nào, chính là được hời. Các ngươi sẽ như vậy sao? Ai cũng sẽ như vậy – chỉ là các ngươi không làm giống như anh ta mà thôi, nhưng nếu có cơ hội, các ngươi cũng sẽ làm. Đây là điều đầu tiên mà Ta kết luận khi giao thiệp với loại người này, nghĩa là họ rất biết cách để được hời. Họ không tin Đức Chúa Trời; cái họ đi theo là một người mà họ cho rằng có thể khiến họ đạt được lợi ích, đạt được phước lành và đáng để đi theo. Sự việc này hoàn toàn phơi bày đức tin của loại người này, phơi bày ra bộ mặt thật của anh ta rốt cuộc là gì. Loại người này hiểu về tình yêu kính, lòng trung thành và sự thuận phục với Đức Chúa Trời quá đơn giản, và họ muốn sử dụng phương thức được hời để nhận được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời và đạt được mục đích được phúc môt mình. Họ có thành tâm với Đức Chúa Trời không? Họ có kính sợ Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Vậy thì càng không thể nói tới những chuyện khác. Đó là điều đầu tiên Ta kết luận. Các ngươi nói xem Ta nói có chính xác không? (Thưa, có.) Ta có chụp mũ cho anh ta không? Ta có chuyện bé xé ra to không? Hoàn toàn không. Căn cứ vào thực chất của anh ta mà nói thì nó còn nghiêm trọng hơn thế nhiều. Ít nhất thì anh ta cũng lừa gạt và đùa giỡn Đức Chúa Trời.

Điều thứ hai mà chúng ta có thể nhìn thấy ở loại người này là gì? Lòng người thật đáng sợ! Nói Ta nghe, đáng sợ ở chỗ nào? Tại sao Ta lại phán rằng lòng người thật đáng sợ? (Thưa, người này lấy lòng Đức Chúa Trời để thỏa mãn ý định và dục vọng có được phước lành của anh ta, sau đó còn vô trách nhiệm và không suy xét xem sau khi Đức Chúa Trời ăn những thứ này, chuyện gì sẽ xảy đến với cơ thể Ngài, hay hậu quả là gì. Cho người nhà mình ăn đồ gì, anh ta cũng sẽ luôn suy xét hậu quả, nhưng khi dâng đồ cho Đức Chúa Trời, anh ta lại không hề suy xét hậu quả. Hoàn toàn là để đạt được mục đích riêng của mình, anh ta đã không từ thủ đoạn mà lấy lòng Đức Chúa Trời. Có thể thấy rằng anh ta thật ích kỷ và đê tiện, trong lòng anh ta không hề có chỗ cho Đức Chúa Trời, và anh ta không đối đãi với Đức Chúa Trời như là Đức Chúa Trời.) Ngụ ý có phải là không đối đãi với Ta như một con người không? Có thể nói như vậy không? (Thưa, có thể.) Ý định này thật đáng sợ! (Thưa, đúng vậy, ngay cả khi anh ta đối đãi với Đức Chúa Trời như người thân của chính mình, anh ta cũng sẽ không lừa gạt Đức Chúa Trời.) Điều đó thật đáng sợ. Nếu là bạn của ngươi, người ta có đối đãi với ngươi như thế không? Không. Họ sẽ cho ngươi biết ăn gì thì tốt cho sức khỏe, và nếu khi ăn có tác dụng phụ, họ sẽ bảo ngươi tuyệt đối đừng ăn; đó là điều mà ngay cả bạn bè cũng có thể làm. Nhưng người này có thể làm được điều đó không? Không. Anh ta đã làm một chuyện như vậy với Ta, thì chắc chắn anh ta sẽ làm vậy với các ngươi. Ở anh ta còn gì đáng sợ nữa? (Thưa, anh ta tính toán rất thâm sâu. Anh ta che đậy điều đó bằng sự nhiệt tâm bên ngoài, nhưng thật ra anh ta đang toan tính bên trong, muốn thu lợi lớn nhất từ thứ rẻ nhất, cảm giác rất đáng sợ.) Nhìn nhận như vậy là tốt. Điều ngươi nói lúc nãy là mặt ích kỷ của anh ta, còn đây là sự toan tính. Từ những gì mà hết thảy các ngươi vừa nói, thì những điều trong sâu thẳm người ta, những điều bộc lộ từ nhân tính của họ, và những điều mà họ có thể hoặc không thể chạm vào, người khác có thể hoặc không thể nhìn thấy hay diễn giải được, những điều này bắt nguồn từ đâu? Có phải do cha mẹ dạy không? Có phải do sự giáo dục từ trường học không? Hay có phải do xã hội hun đúc không? Chúng sinh ra như thế nào? Có một điều chắc chắn: chúng là thứ bẩm sinh. Tại sao Ta lại nói như vậy? Thứ bẩm sinh thì liên quan đến điều gì? Nó liên quan đến thực chất bản tính của người ta. Vậy khi anh ta suy nghĩ như vậy, đó là sự mưu tính lâu từ trước hay là ý tưởng đột phát? Là anh nhìn thấy người khác làm chuyện gì đó rồi nổi hứng, hay là anh ta cần phải làm vậy trong những hoàn cảnh nhất định? Hay là Ta chỉ dẫn anh ta làm vậy? Đều không phải. Mặc dù những chuyện nhỏ nhặt này, bên ngoài có thể trông bình thường, nhưng tính chất đằng sau từng chuyện này lại không hề bình thường. Người làm những chuyện này có thể nhận ra hậu quả khi làm vậy không? Không. Tại sao không? Giả sử ngươi mua một món đồ rẻ tiền trên vỉa hè để biếu sếp. Trước khi biếu, chẳng phải ngươi sẽ cân nhắc: “Liệu sếp có thể tìm thấy món đồ này trên vỉa hè không? Liệu sếp có thể lên mạng tìm hiểu giá của nó không? Liệu ai đó có thể tiết lộ cho sếp biết giá của nó không? Khi thấy nó, sếp sẽ nghĩ sao về mình?”, chẳng phải ngươi sẽ phải cân nhắc về những điều này sao? Ngươi sẽ cân nhắc trước, rồi mới mua. Sau khi cân nhắc, nếu ngươi cảm thấy việc dùng món đồ này làm quà biếu sẽ dẫn đến kết quả không tốt, liệu ngươi có còn đem biếu không? Chắc chắn là không. Nếu ngươi nghĩ rằng biếu sếp món đồ này không đắt, mà lại khiến sếp vui lòng, thì chắc chắn ngươi sẽ biếu. Nhưng người trong câu chuyện này không cân nhắc về những chuyện này, vậy thì anh ta nghĩ gì? Anh ta chỉ nghĩ rằng đây là cách duy nhất để đạt được ý đồ của mình. Bây giờ, thông qua việc phân tích, tính chất của chuyện này đã được tỏ rõ. Thông qua tính chất của việc này, có thể thấy được điều gì? Thông qua việc tiếp xúc với con người, kết quả thứ hai mà chúng ta thấy được ở họ chính là lòng người thật đáng sợ. Có thể rút ra kết luận về tâm tính bại hoại mà dạng người này bộc lộ, dù là cố ý hay vô tình, không? Điều gì khiến lòng người thật đáng sợ như vậy? Có phải là lòng người quá vô cảm không? Một người vô cảm là người thiếu nhận thức. Liệu mô tả họ là vô cảm có chuẩn xác không? (Thưa, không.) Vậy thì có phải do ngu muội không? (Thưa, không.) Vậy cuối cùng nên quy cho nguyên nhân nào? Nên quy cho tâm tính tà ác của con người. Ta phải nói cho các ngươi biết sự đáng sợ của con người nằm ở đâu: đó chính là ở việc ma quỷ trú ngụ trong lòng người. Hết thảy các ngươi cảm thấy thế nào về lời này? Tại sao Ta lại phán rằng ma quỷ trú ngụ trong lòng người? Các ngươi hiểu như thế nào? Các ngươi nói xem, câu nói này có đáng sợ không? Khi nghe câu nói này, chẳng phải các ngươi cảm thấy sợ khủng khiếp sao? Trước đây, các ngươi không nghĩ rằng ma quỷ trú ngụ trong lòng mình; mà chỉ nghĩ mình có tâm tính bại hoại, nhưng không biết rằng ma quỷ trú ngụ trong mình. Bây giờ các ngươi mới biết. Đây chẳng phải là một vấn đề nghiêm trọng sao? Các ngươi nói xem, Ta nhìn nhận có chuẩn xác không? (Thưa, có.) Đây có phải là nhìn vào tận căn nguyên của vấn đề không? (Thưa, phải.) Hãy suy ngẫm xem tại sao Ta lại phán rằng ma quỷ trú ngụ trong lòng người. Hãy suy nghĩ xem: liệu một người có lương tâm và lý trí có lừa gạt Đức Chúa Trời như vậy không? Đây có phải là thuận phục Đức Chúa Trời không? Đây là trơ tráo chống đối Đức Chúa Trời và không hề đối đãi với Ngài như là Đức Chúa Trời. Hiện nay, Đức Chúa Trời đã đến trên đất để cứu rỗi nhân loại, mối quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời là gì? Có phải là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới không? Có phải là mối quan hệ giữa bạn bè không? Có phải là mối quan hệ giữa người thân không? Vậy rốt cuộc đó là mối quan hệ kiểu gì? Ngươi nên xử lý và tiếp cận mối quan hệ này như thế nào? Khi tiếp xúc và qua lại với Đức Chúa Trời, ngươi nên có tâm thái như thế nào? Ngươi nên qua lại với Đức Chúa Trời với tấm lòng như thế nào? (Thưa, lòng kính sợ.) Lòng kính sợ có vẻ không thực tế đối với tất cả mọi người. (Thưa, lòng khiếp sợ.) Các ngươi không thể đạt đến lòng khiếp sợ đâu. Nếu ngươi đối đãi với Ta như một người bình thường – chỉ như một người quen, không hiểu rõ về nhau lắm và chưa đủ để làm bạn – thì làm sao mối quan hệ giữa chúng ta có thể hòa hợp với thân thiện được? Người có lương tri nên biết làm thế nào cho phù hợp. (Thưa, cần có sự tôn trọng.) Đây là điều tối thiểu ngươi nên có. Giả sử hai người gặp nhau: chưa quen nhau và cũng chưa biết tên nhau. Nếu một người thấy người kia thật thà nên muốn đùa giỡn với họ, thì chẳng phải là ức hiếp người ta sao? Nếu ngay cả sự tôn trọng tối thiểu còn không có, thì có còn bất kỳ nhân tính nào không? Trong sự qua lại giữa người với người, cho dù có nảy sinh tranh chấp hay mâu thuẫn thì ít nhất mọi người cũng phải tôn trọng nhau. Tôn trọng là thường thức tối thiểu để làm người, và giữa người với người đều có sự tôn trọng tối thiểu. Vậy khi con người qua lại với Đức Chúa Trời, sự tôn trọng này có tồn tại không? Nếu đến điều này mà ngươi cũng không thể đạt đến, thì trong lòng ngươi, mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và ngươi rốt cuộc là gì? Vậy thì không hề có mối quan hệ nào cả – ngay cả là mối quan hệ với người ngoài. Vì thế mà người dâng quà đã có thể đối đãi với Đức Chúa Trời như vậy: anh ta không những không tôn trọng Đức Chúa Trời, mà còn muốn lừa gạt Ngài. Trong lòng, anh ta không cảm thấy nên tôn trọng Đức Chúa Trời, hoặc nên suy xét cẩn thận, kỹ lưỡng về sức khỏe của Ngài, cũng như hậu quả của việc Ngài ăn đồ họ tặng – những điều này không nằm trong phạm vi suy xét của anh ta. Đối với anh ta, chỉ cần sử dụng thủ đoạn để lừa Đức Chúa Trời có thiện cảm với anh ta là được; điều tốt nhất đối với anh ta là có thể lừa gạt Đức Chúa Trời. Đó là lòng dạ anh ta. Con người mà có lòng dạ như vậy chẳng phải thật đáng sợ sao? Thật đáng sợ!

Có những người tin Đức Chúa Trời, và bề ngoài có vẻ đi theo Ngài. Nhưng trong thâm tâm, họ có bao giờ phản tỉnh về con đường họ đi và cái giá họ đã trả không? Họ có kiểm điểm và tìm kiếm để xem liệu họ đã làm tốt bổn phận được Đức Chúa Trời giao phó hay chưa không? Thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì? Từ các loại biểu hiện và bộc lộ, thậm chí cả những toan tính sâu kín nhất của con người, chưa kể đủ loại tâm tính được bộc lộ trong những việc họ làm khi đối đãi với Đức Chúa Trời này, thì con người đã làm được gì cho Đức Chúa Trời? Ngoài việc trả giá và phí tâm tư vào những điều có lợi cho bản thân, thì thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời là gì, và họ dâng gì cho Ngài? Không gì cả ngoài những mưu tính, tính toán, đề phòng, và một thái độ khinh thường. Khinh thường là một thái độ, và thái độ này sinh ra hành vi nào, nếu được diễn tả bằng một động từ? “Chế nhạo”. Các ngươi đã bao giờ nghe thấy từ này chưa? (Thưa, rồi.) “Chế nhạo” là từ hơi văn vẻ. Thông tục gọi là gì? Chúng ta nói là “trêu chọc”, “chơi khăm”, “đùa bỡn”. Họ nhìn ngươi có vẻ tầm thường, có vẻ thật thà; trong mắt họ, ngươi không là gì cả, thế là họ dám công khai chế nhạo ngươi – đây là kiểu tâm tính gì? Đối với người có tâm tính như thế này, thì thiên sứ hay ma quỷ trú ngụ trong lòng họ? (Thưa, ma quỷ.) Đó là ma quỷ. Đến cả Đức Chúa Trời mà họ còn có thể đối đãi theo cách đó, vậy rốt cuộc họ là thứ gì? Họ có thể thực hành lời Đức Chúa Trời được không? Họ có thể thuận phục lời Đức Chúa Trời được không? Cũng như loại người tặng quà cho Ta đó, anh ta không tìm kiếm lẽ thật, cũng không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Anh ta không biết một chút gì về những điều Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người, những điều Đức Chúa Trời muốn thấy, hoặc những điều Ngài muốn có được từ con người. Anh ta chỉ giống như người tương tác với sếp của mình, tập trung vào cách lấy lòng và lừa gạt, đối đãi sếp sao cho đạt được mục đích của mình – dạng người này rốt cuộc sống dựa trên điều gì? Anh ta sống dựa trên sự bợ đỡ, sống một cách tạm bợ bằng cách lấy lòng lãnh đạo. Tại sao anh ta lại dâng cho Ta “lòng yêu thương” và “lòng tốt” này? Có phải là vì anh ta không thể tự chủ không? Anh ta có thể đoán trước được Ta sẽ cảm thấy thế nào về việc này không? (Thưa, không.) Đúng vậy; anh ta không hiểu. Anh ta hoàn toàn không có tư tưởng bình thường của con người. Anh ta không biết, cũng không quan tâm Ta nhìn nhận, định nghĩa hoặc đánh giá như thế nào về hành vi và tâm tính của anh ta. Anh ta quan tâm đến điều gì? Anh ta quan tâm đến cách lấy lòng Ta để đạt được mục đích của mình, sau đó để lại cho Ta ấn tượng tốt. Đó chính là ý định của anh ta khi hành sự. Đây là kiểu nhân tính gì? Người có lương tâm và lý trí thật sự sẽ làm như vậy sao? Ngươi đã sống trong ngần ấy năm, thì ngươi phải hiểu rằng: thứ nhất, Ta không cần ngươi lấy lòng. Thứ hai, Ta không cần ngươi dâng biếu bất cứ thứ gì cả. Thứ ba, và cũng là điều quan trọng nhất, ngươi nên hiểu rằng, dù ngươi làm gì, dù ý định và mục đích của ngươi là gì, tính chất của việc ngươi làm là gì, thì Ta đều có định nghĩa và quy định về nó. Không phải là một người làm xong một chuyện gì đó là xong; mà trái lại, Ta phải thấy rõ ý định và động cơ của ngươi là gì. Ta chỉ nhìn vào tâm tính của ngươi. Có lẽ một số người sẽ nói: “Ngài quá nghiêm khắc với con người!”. Nghiêm khắc sao? Ta không nghĩ vậy chút nào. Chính vì Ta không hề nghiêm khắc, nên một số người mới cố gắng lợi dụng tình hình. Chẳng phải vậy sao? Có những người, ngay khi tiếp xúc với Ta liền suy ngẫm: “Con thấy ngài chỉ là người bình thường. Không cần phải để ý nhiều đến ngài. Ngài cũng chẳng khác con là bao: ngài cũng ăn ba bữa một ngày, và con không thấy ngài có thẩm quyền hay quyền năng gì cả. Dù con đối đãi với ngài ra sao, ngài cũng chẳng có gì để nói. Ngài làm gì được con?”. Đây là cách nghĩ gì vậy? Nó đến từ đâu? Nó đến từ tâm tính bại hoại của người ta. Tại sao người ta lại có tâm tính như thế? Đó là bởi vì có ma quỷ trú ngụ trong lòng họ. Khi ma quỷ trú ngụ trong lòng họ, thì dù họ nghĩ Đức Chúa Trời vĩ đại như thế nào, dù họ nghĩ địa vị của Đức Chúa Trời tôn quý đến đâu, dù họ tin rằng chính là Đức Chúa Trời đang bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi con người như thế nào, dù ngoài miệng họ cảm kích ra sao, và dù họ thể hiện mình cam tâm chịu khổ và trả giá như thế nào, thì đến lúc làm bổn phận, ma quỷ sẽ ngự trị trong lòng họ, và ma quỷ sẽ bắt đầu làm việc. Theo các ngươi, đến cả Đức Chúa Trời mà cũng dám lừa gạt và chế nhạo thì đó là loại người gì? (Thưa, ma quỷ.) Đó là ma quỷ; điểm này là chắc chắn.

Trong mối thông công lần trước, từ cuộc đối thoại giữa Sa-tan và Đức Chúa Trời, chúng ta có thể thấy được tâm tính của Sa-tan không? Đức Chúa Trời phán: “Sa-tan, ngươi ở đâu đến?”. Sa-tan đáp lại như thế nào? “Tôi trải qua đây đó trên đất và dạo chơi tại nơi nó” (Gióp 1:7). Đó là kiểu nói chuyện gì vậy? (Thưa, đó là lời của quỷ.) Đó là lời của quỷ! Nếu Sa-tan đối đãi với Đức Chúa Trời như là Đức Chúa Trời, nó sẽ nói: “Đức Chúa Trời hỏi con, thì con sẽ nói con ở đâu đến một cách lễ độ”. Đây có phải là một câu tiếng người không? (Thưa, phải.) Đó là một câu phù hợp với tư duy bình thường của con người: một câu nói hoàn chỉnh, đúng ngữ pháp và nghe xong liền hiểu được. Đó có phải là điều Sa-tan nói không? (Thưa, không.) Nó nói gì? “Tôi trải qua đây đó trên đất và dạo chơi tại nơi nó”. Các ngươi có hiểu câu này không? (Thưa, không.) Ngay cả cho đến ngày nay, cũng không ai hiểu nó nghĩa là gì. Vậy rốt cuộc Sa-tan ở đâu đến? Nó trải qua đây đó ở đâu? Nó từ đâu đến và đi về hướng nào? Có bất kỳ câu trả lời kết luận nào cho những câu hỏi này không? Cho đến ngày nay, những người diễn giải Kinh Thánh vẫn chưa thể luận ra được Sa-tan thực sự ở đâu đến, hoặc nó mất bao lâu để đến trước Đức Chúa Trời và nói chuyện với Ngài; không ai biết về những điều này. Vậy thì làm sao Sa-tan lại có thể trả lời câu hỏi của Đức Chúa Trời đưa ra cho nó với một giọng điệu và ngôn từ như thế? Đức Chúa Trời có đặt câu hỏi với nó một cách nghiêm chỉnh không? (Thưa, có.) Vậy nó có trả lời theo cách tương tự không? (Thưa, không.) Nó mang thái độ gì khi trả lời Đức Chúa Trời? Thái độ chế nhạo. Giống như khi ngươi hỏi ai đó: “Anh ở đâu đến?”, và người đó đáp: “Đoán xem”. “Tôi không đoán được”. Anh ta biết ngươi không đoán đượcmà vẫn bắt ngươi đoán, anh ta chỉ đang đùa bỡn với ngươi. Chính thái độ này, đó gọi là đùa giỡn hoặc chế nhạo. Anh ta không chân thành, và không muốn ngươi biết; anh ta chỉ muốn chơi khăm ngươi, đùa bỡn với ngươi. Sa-tan chính là mang dạng tâm tính này. Ta phán rằng có những người có ma quỷ trú ngụ trong lòng họ; đây chẳng phải là cách họ đối đãi với Đức Chúa Trời sao? Nhìn bề ngoài bôn ba, làm việc, và thỉnh thoảng chịu khổ một chút, trả giá một chút, họ có vẻ không phải là người như thế; họ có vẻ có Đức Chúa Trời trong lòng. Nhưng từ thái độ họ đối đãi với Đức Chúa Trời và lẽ thật, ngươi sẽ thấy được rằng thứ trú ngụ trong lòng họ chính là ma quỷ, chính là như vậy. Thậm chí họ còn không thể trả lời thẳng thắn câu hỏi của Đức Chúa Trời – họ là loại người đi lòng vòng như rắn, cho đến khi ngươi không thể tìm được câu trả lời và không hiểu đầu cua tai nheo họ nói gì. Rốt cuộc thì họ là loại người gì vậy? Họ có thể thành tâm khi đối đãi với Đức Chúa Trời được không? Với thái độ khinh mạn và xem thường khi đối đãi Đức Chúa Trời, dạng người này có thể thực hành lời Đức Chúa Trời như lẽ thật được không? (Thưa, không.) Tại sao không? Bởi vì ma quỷ trú ngụ trong lòng họ. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải, họ không hề đối đãi với Đức Chúa Trời như là Đức Chúa Trời.) Đó chính là chỗ tà ác của loại người này. Chỗ tà ác của họ nằm ở suy nghĩ rằng sự chính trực, sự khiêm nhường, sự bình thường và sự thực tế của Đức Chúa Trời mà họ thấy không phải là những gì khiến Đức Chúa Trời đáng yêu mến – mà là gì? Họ cho rằng đó là những nhược điểm của Đức Chúa Trời; là những chỗ khiến con người dễ hình thành quan niệm; là những khiếm khuyết lớn nhất ở Đức Chúa Trời mà họ tin; là những thiếu sót, vấn đề và khuyết điểm. Chúng ta nên nhìn nhận loại người này như thế nào? Đây là kiểu cách và thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời; đây là điều nhục nhã đối với Đức Chúa Trời, nhưng đối với chính họ thì sao? Họ có thu được lợi gì từ đó không? Đó cũng là sự ô nhục đối với chính họ. Tại sao Ta lại nói vậy? Là một người bình thường, nếu ngươi được ai đó tùy tiện đưa cho ăn thứ gì đó, và ngươi cầm ăn như một kẻ ngu, bất chấp tất cả, thậm chí không cần hỏi chuyện gì đang xảy ra, thì chẳng phải nó cho thấy nhân tính ngươi có gì đó khuyết thiếu sao? Người mà nhân tính có gì đó khuyết thiếu có phải là người bình thường không? Không. Nếu cả nhân tính bình thường như thế mà Đức Chúa Trời nhập thể cũng không có, thì liệu Ngài có xứng đáng với đức tin của con người không? Không. Những dấu hiệu của nhân tính của Đức Chúa Trời nhập thể là gì? Lý tính, tư duy và lương tâm của Ngài là bình thường nhất. Ngài có khả năng phán đoán không? (Thưa, có.) Nếu Ta không có điều đó, nếu Ta chỉ là một người hời hợt không có thường thức lẫn sự sáng suốt, không thể suy nghĩ khi có chuyện xảy đến, liệu Ta có còn được coi là một con người bình thường nữa không? Đó sẽ là một nhân tính khuyết thiếu, chứ không phải nhân tính bình thường. Liệu một người như thế có thể được gọi là Đấng Christ không? Khi Đức Chúa Trời nhập thể, liệu Ngài có chọn một xác thịt như vậy không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không. Nếu Ta vô ý làm vậy, liệu một Đức Chúa Trời như thế, Đấng được biết đến là Đức Chúa Trời nhập thể, có xứng đáng để ngươi đi theo không? Không, nếu như vậy thì các ngươi sẽ đi sai đường. Một mặt là vậy, từ góc độ của Ta. Mặt khác, từ góc độ của các ngươi, nếu ngươi xem Ngài là Đức Chúa Trời và là đối tượng để đi theo, thân là người đi theo Ngài mà ngươi đối đãi với Ngài như vậy, thì ngươi đang đặt mình ở đâu? Điều đó chẳng khiến ngươi ô nhục sao? (Thưa, phải.) Nếu trong mắt ngươi, Đức Chúa trời mà ngươi tin là một người không xứng đáng với sự tôn trọng của ngươi như vậy, nhưng ngươi vẫn tin Ngài, thì ngươi là thứ gì? Có phải là ngươi hồ đồ không? Có phải ngươi là người đi theo hồ đồ không? Chẳng phải ngươi sẽ tự làm ô nhục chính mình sao? (Thưa, phải.) Nhưng nếu ngươi cho rằng Ngài sở hữu tất cả những khía cạnh này của nhân tính bình thường, rằng Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể, và ngươi vẫn làm điều đó, thì chẳng phải ngươi đang làm Đức Chúa Trời nhục nhã sao? Cả hai góc độ đều đúng. Ngươi có thể thấy được vấn đề dù nhìn từ góc độ của Đức Chúa Trời hay của con người – và vấn đề ở đây là một vấn đề nghiêm trọng! Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Từ góc độ con người, nếu ngươi xem Ngài là Đức Chúa Trời, rồi đối đãi với Ngài như thế này, thì ngươi công khai làm Đức Chúa Trời nhục nhã. Nếu ngươi cho rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời, mà là con người, nhưng ngươi vẫn đi theo Ngài, thì chẳng phải là mâu thuẫn sao? Chẳng phải ngươi sẽ tự làm ô nhục chính mình sao? Hãy suy ngẫm về hai khía cạnh này; Ta nói có đúng không? Chẳng phải vậy sao? Tại sao con người lại không thể nghĩ đến những điều này? Tại sao họ vẫn còn làm như vậy? Có phải chỉ vì họ không hiểu lẽ thật không? Chúng ta chưa đi sâu lắm về chuyện đó; chỉ nhìn từ góc độ tố chất, thì họ là thứ không có đầu óc. Tại sao Ta lại nói họ không có đầu óc? Đầu óc này chỉ điều gì? Đó chính là tư tưởng. Làm mà không suy nghĩ, không biết cân nhắc lợi hại, không biết suy xét tính chất của việc ngươi làm, hoặc liệu ngươi có nên làm hay không, đó là không có đầu óc. Giống gì thì không có đầu óc? Động vật và súc sinh không có đầu óc, còn đã là con người thì phải suy xét những điều này. Người ta có thể làm chuyện ngu xuẩn trong phút bốc đồng, nhưng nếu họ làm đi làm lại cùng một chuyện ngu xuẩn, thì có thể mô tả họ là không có đầu óc. Người không có đầu óc là người thiểu năng lý trí, hoặc nói thông tục là người gàn dở. Nhưng sự ích kỷ của họ thì rõ ràng, và những mánh khóe quỷ quyệt của họ không hề thiếu, chính vì thế mà Ta phán rằng ma quỷ trú ngụ trong lòng người.

Các ngươi nói xem, đưa vấn đề tặng quà ra thông công có phải là chuyện bé xé ra to không? Nếu Ta không thông công về nó, mà chỉ đề cập sơ qua, thì liệu sau khi nghe xong, nó có đạt đến được những hiệu quả này không? (Thưa, không.) Cùng lắm sau khi nghe, các ngươi cũng chỉ suy ngẫm: “Làm sao người này lại có thể làm một chuyện như thế được? Mình không làm những chuyện như thế; đúng là trên đời có đủ loại người!”. Cùng lắm các ngươi cũng chỉ suy nghĩ như thế. Các ngươi có thể nói về nó một chút, là hết – nhưng liệu các ngươi có nhận biết được sâu như vậy không? (Thưa, không.) Các ngươi sẽ không nhận biết được sâu như vậy. Vậy thì lời Ta mang lại cho các ngươi lợi ích gì? Các ngươi đã đạt được lẽ thật nào? Trước hết, Ta phải nhắc nhở các ngươi, rốt cuộc thì mối quan hệ nào là tốt nhất để thiết lập giữa con người và Đức Chúa Trời? Khi con người tiếp cận Đức Chúa Trời, họ nên qua lại với Đức Chúa Trời như thế nào khi tiếp xúc gần gũi với Ngài? Chẳng phải cần tìm kiếm nguyên tắc cho việc này sao? (Thưa, phải.) Ngoài ra, sau khi tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm như thế, có những sự việc nào xảy ra trong đời sống thường ngày mà có cùng tính chất với sự việc mà người trong câu chuyện làm? Những câu hỏi này có đáng để suy ngẫm không? Liệu có ai học được một bài học và nói: “Đức Chúa Trời không bao dung cho ngay cả những lỗi lầm nhỏ nhặt, nên chuyện này cực kỳ nghiêm trọng. Chúng ta không nên đến gần Ngài, tiếp xúc gần gũi với Ngài hoặc giao thiệp với Ngài – không giỡn với Ngài được đâu! Nếu lộn xộn, Ngài sẽ thổi phồng vấn đề lên và anh sẽ chịu không nổi đâu. Tôi chắc chắn sẽ không dâng biếu Ngài cái gì cả!”? Nghĩ như vậy có được không? (Thưa, không.) Thực ra, các ngươi không cần phải lo: chúng ta không có nhiều cơ hội để tiếp xúc gần gũi, càng có ít những lúc giao thiệp với nhau, nên đây không phải là vấn đề các ngươi cần phải lo. Nếu có ngày Ta thực sự tiếp xúc với các ngươi, thì cũng đừng lo; Ta sẽ cho các ngươi biết một bí quyết. Dù các ngươi qua lại với Ta, hay âm thầm cầu nguyện và tìm kiếm, thì bí quyết số một là gì? Dù ngươi làm gì, cũng đừng đấu trí với Ta. Nếu ngươi thuộc trường phái có chữ “đấu”, thì tuyệt đối đừng đến gần Ta. Có những người nói chuyện rất quỷ quyệt, chỉ trong chớp mắt đã nghĩ ra vài mánh khóe, và từng câu họ thốt ra đều trộn lẫn sự bất khiết; nếu họ nói thêm, ngươi sẽ không biết lời nào là thật, lời nào là giả. Dạng người này không bao giờ được đến gần Ta. Khi ngươi đến tiếp xúc và giao thiệp với Đức Chúa Trời, điều chính yếu số một ngươi nên làm là gì và nguyên tắc số một ngươi nên tuân theo là gì? Đối đãi với Đức Chúa Trời bằng tấm lòng trung thực. Ngoài ra, hãy học cách tôn trọng người khác. Tôn trọng không phải là khách khí; không phải là lấy lòng, nịnh nọt, cũng không phải là xu nịnh hay bợ đỡ. Vậy rốt cuộc thì nó là gì? (Thưa, đó là đối đãi với Đức Chúa Trời như là Đức Chúa Trời.) Đối đãi với Đức Chúa Trời như là Đức Chúa Trời là nguyên tắc chính. Còn chi tiết thì sao? (Thưa, học lắng nghe Đức Chúa Trời.) Đó là một khía cạnh thực hành. Có những người tiếp xúc với Ta và bắt đầu nói át Ta, nên Ta để cho họ nói xong rồi mới tiếp tục nói. Và khi Ta đang nói chuyện, họ đối đãi với Ta như thế nào? Họ vừa nghe, vừa nhắm mắt. Ngụ ý của họ là gì? Giống như nói: “Những gì ngài phán vô nghĩa. Ngài thì biết gì?”. Đó là thái độ của họ. Có thể Ta không biết mọi thứ, nhưng Ta có nguyên tắc, và Ta nói cho ngươi biết những gì Ta học được, thấy được và có thể hiểu được, cũng như các nguyên tắc mà Ta biết, và ngươi có thể thu được không ít từ đó. Nhưng nếu ngươi luôn liếc nhìn Ta, cho rằng Ta không biết gì, và không chú ý lắng nghe Ta, thì ngươi sẽ không thu được gì cả – ngươi sẽ phải tự tìm tòi. Chẳng phải vậy sao? Cho nên, các ngươi phải học cách lắng nghe lời Đức Chúa Trời. Khi các ngươi lắng nghe, Ta có hạn chế các ngươi bày tỏ quan điểm không? Không. Sau khi phán xong, Ta sẽ hỏi tất cả các ngươi có câu hỏi nào không, nếu ai có thì Ta giải đáp ngay và cho các ngươi biết các nguyên tắc liên quan trong những câu hỏi đó. Đôi khi Ta không chỉ cho các ngươi biết nguyên tắc, mà còn nói thẳng rằng các ngươi nên làm gì, chi tiết từng khía cạnh. Mặc dù có những nghiệp vụ Ta không hiểu, nhưng Ta có nguyên tắc riêng của mình, và Ta có quan điểm riêng cũng như cách xử lý riêng đối với những chuyện như thế, cho nên Ta đang dạy các ngươi dựa trên những gì Ta cho là cách nhìn và nguyên tắc đúng đắn. Tại sao Ta lại có thể dạy các ngươi? Đó là bởi vì thậm chí các ngươi còn không hiểu những điều này. Sau khi những câu hỏi này được giải đáp, Ta sẽ hỏi lại xem còn câu hỏi nào nữa không; nếu có thì Ta sẽ nhanh chóng giải đáp tiếp. Ta không chỉ muốn ngươi nghe Ta, mà Ta cho ngươi cơ hội nói, nhưng điều ngươi nói phải hợp lý – chớ nói nhảm, và chớ làm mất thời gian. Đôi khi Ta ngắt lời một số người vì sốt ruột. Trong những trường hợp nào? Đó là khi họ dài dòng văn tự, cái cần nói trong năm câu thì dùng mười câu. Thực ra, ngay khi nghe họ nói, Ta liền hiểu, Ta biết họ sẽ nói điều gì tiếp theo, nên họ không cần phải nói thêm gì nữa. Hãy nói ngắn gọn và đi vào trọng tâm; đừng làm lãng phí thời gian của người khác. Sau khi ngươi nói xong, Ta sẽ cho ngươi câu trả lời, và cho ngươi biết nên làm gì cùng các nguyên tắc để làm. Như vậy là xong rồi, phải không? Nhưng có những người không biết điều, nói: “Không. Ngài phải tôn trọng con; sự tôn trọng phải từ hai phía. Ngài nói xong, nhưng con chưa bày tỏ quan điểm xong. Quan điểm của con là thế này – con phải bắt đầu lại từ đầu”. Họ luôn muốn bày tỏ quan điểm, tưởng rằng Ta không biết quan điểm của họ. Trong khi thực ra, ngay khi họ bắt đầu nói thì Ta đã biết quan điểm của họ là gì rồi – vậy thì họ có cần nói tiếp nữa không? Không cần. Có những người, IQ thấp đến mức một chuyện chỉ cần hai câu mà nói đến mười câu, nếu Ta không ngắt lời thì họ cứ nói mãi. Ai cũng hiểu, chẳng lẽ Ta vẫn không hiểu sao? Nhưng họ vẫn muốn bày tỏ, vì vậy không chỉ IQ thấp – mà lý trí của họ cũng kém nữa! Các ngươi đã bao giờ gặp phải những người như thế chưa? (Thưa, rồi.) Lý trí kém và IQ thấp như vậy mà họ còn nghĩ mình thông minh. Chẳng phải buồn nôn sao? Thật ghê tởm và buồn nôn. Khi con người tiếp xúc với Đức Chúa Trời, điều thứ nhất là đối đãi với Ngài bằng tấm lòng trung thực; điều thứ hai là con người phải học cách tôn trọng; và điều thứ ba, cũng là điều quan trọng nhất là phải học cách tìm kiếm lẽ thật. Đó chẳng phải là những điều quan trọng nhất sao? (Thưa, phải.) Nếu ngươi không tìm kiếm lẽ thật, thì tin Đức Chúa Trời còn ý nghĩa gì nữa? Giá trị khi tin Ngài là gì? Ý nghĩa ở đâu? Có lẽ người bình thường sẽ không đạt đến điều này được, vậy tại sao Ta còn nhắc đến? Đó là để chuẩn bị cho tương lai; các ngươi cần học cách thực hành như vậy khi những chuyện như thế này xảy đến sau này.

Ở hội thánh, Ta cũng tiếp xúc với nhiều người, trong đó có những người Ta giao cho làm vài việc. Mấy hôm sau, họ phản hồi với Ta, cho Ta thấy họ đã ghi chú lại hết mọi việc Ta phân công, và hiện đang trong quá trình thực hiện từng mục một. Khi gặp Ta, họ báo cáo với Ta tiến độ thực hiện, những vấn đề nào cần tìm kiếm, những vấn đề nào vẫn đang đợi kết quả, cho Ta một sự cập nhật đầy đủ. Họ giải thích chi tiết rất rõ ràng, và mặc dù đôi khi họ hơi vụn vặt, nhưng thái độ của họ cho thấy họ tiếp cận với lời Đức Chúa Trời một cách nghiêm túc và trách nhiệm, cũng như họ biết trách nhiệm, bổn phận và nghĩa vụ của mình là gì. Có những người thì khác: Ta giao cho họ hai nhiệm vụ, và họ ghi lại trong sổ, nhưng một tuần sau, họ vẫn chưa thực hiện việc gì cả, khi Ta hỏi thì họ mới nhớ ra, rồi lại ghi hết lại vào sổ. Sau một tuần nữa, khi Ta hỏi họ tại sao việc vẫn chưa xong, thì họ kiếm cớ, nêu ra khó khăn nọ, khó khăn kia, rồi lại chịu khó ghi hết vào sổ một lần nữa. Họ ghi chép mọi thứ vào đâu? (Thưa, vào sổ của họ.) Nhưng họ chẳng ghi thứ gì vào đầu họ. Đây chẳng phải là giao việc sai người sao? Những người này không phải là người. Ta giao cho họ việc gì cũng vào tai này, ra tai kia – căn bản là họ không hề xem trọng chúng. Tất cả mọi nhiệm vụ liên quan đến nghiệp vụ hoặc sự vụ nào đó – cùng một số việc liên quan đến công tác của hội thánh – mà Ta giao cho mọi người, đều nằm trong phạm vi họ có thể đạt được; không có gì là để làm khó dễ họ. Nhưng thông thường, khi Ta giao việc cho các lãnh đạo và người làm công, hầu hết mọi người sẽ không báo cáo với Ta sau khi tiếp nhận sự ủy thác, và Ta không nghe thấy bất kỳ phản hồi nào về tình trạng công việc. Nó đã được sắp xếp hay chưa, nó được thực hiện thế nào, những sai sót nào xảy ra, kết quả hiện tại là gì – họ không bao giờ báo cáo lại hay tìm kiếm cách làm. Họ cứ gạt những việc được ủy thác sang một bên, và thậm chí Ta còn không được nghe về bất kỳ kết quả nào. Có những người còn có vấn đề nghiêm trọng hơn, ở chỗ không những không thực hiện việc Ta giao, mà còn đến lấy lòng và lừa gạt Ta, kể với Ta hôm qua họ đi đâu, làm gì, hôm kia họ làm gì và bây giờ họ đang làm gì. Các ngươi nghe xem, họ giỏi giả vờ và ngụy biện chưa – họ không làm bất kỳ việc gì Ta giao đích danh cho họ, mà thay vào đó bận rộn việc không đâu, trong khi công việc quan trọng thì rối tinh rối mù hết lên. Đây là biểu hiện gì? Họ hoàn toàn bỏ bê nhiệm vụ chính của mình, và họ đầy dối trá, lừa gạt!

Có một người phụ trách trồng trọt. Ta hỏi anh ta: “Năm nay có một số loại rau trông ngon đấy. Ngươi có giữ lại hạt giống nào không?”. Anh ta đáp: “Con có”. Ta nói: “Ta nghe nói họ đã thu hoạch hết rau một thời gian rồi và không giữ lại hạt giống nào”. Anh ta nói: “Chúng con chưa thu hoạch xong, vẫn còn một ít!”. Ta lại hỏi: “Thế rau còn lại đâu? Cho Ta xem”. Anh ta nói: “Dạ? À… để con đi kiểm tra trước đã”. Vậy rốt cuộc là anh ta có giữ lại hạt giống không? Không. Trong mấy lời đó anh ta nói, có phải câu đầu tiên “Con có” là nói dối không? (Thưa, phải.) Và câu thứ hai: “Chúng con chưa thu hoạch xong, vẫn còn một ít!” – chẳng phải đó cũng là nói dối sao? Anh ta không biết liệu họ có giữ lại hạt giống nào không, và nói: “Để con đi kiểm tra trước đã”. Nên câu thứ ba cũng lại là nói dối. Những lời nói dối ngày càng nghiêm trọng hơn sau từng câu; anh ta cứ nói dối chồng chất, ngày càng lún sâu – một cái miệng đầy dối trá! Liệu các ngươi có ai sẵn lòng giao thiệp với một người miệng đầy dối trá không? (Thưa, không.) Khi nói chuyện và làm việc với người đầy dối trá, ngươi cảm thấy thế nào? Ngươi có nổi giận không? Anh ta có gan lừa gạt bất kỳ ai; anh ta tưởng rằng Ta không biết à! Chuyện này có đáng để lừa dối người khác không? Lừa dối như thế thì anh ta có thể được gì chứ? Nếu ngươi thấy thái độ làm việc này của anh ta, nếu anh ta đối đãi với ngươi như vậy, ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Nếu về cơ bản, 99% những gì người ta nói là nói dối, dù là tán gẫu, nói về công việc hoặc chính sự, hay thông công về lẽ thật, thì người này hết thuốc chữa rồi. Ai cũng có thể lừa gạt, vậy anh ta là thứ gì? Anh ta đã tin Đức Chúa Trời bao lâu rồi? Có những người ngoại đạo luôn nói “Theo tôi được biết”, hoặc “Nói thật lòng”, và với tiền đề đó, họ đang nói điều gì đó đúng sự thật. Người đó tin Đức Chúa Trời trong bao nhiêu năm như vậy, đã nghe bao nhiêu bài giảng như vậy, mà thậm chí còn không thể nói một lời thật nào; mọi điều anh nói đều dối trá. Vậy thì anh ta là thứ quỷ gì? Nó chẳng buồn nôn và đáng ghê tởm sao? Có nhiều người như thế này không? Các ngươi có như thế này không? Khi tiếp xúc với Ta, trong những trường hợp nào, các ngươi sẽ nói dối Ta? Nếu ngươi gây ra tai họa nào đó, và ngươi biết hậu quả là nghiêm trọng, ngươi có thể bị khai trừ, thì ngay khi người khác đề cập đến nó, ngươi liền nói dối để che đậy. Ai cũng có thể nói dối về những chuyện như vậy. Người ta còn có thể nói dối về chuyện gì nữa? Nói dối để nâng cao hình ảnh của mình và được người khác xem trọng. Rồi có những người, biết mình không đảm nhiệm được công việc, nhưng lại không nói rõ với Bề trên, sợ nói ra sẽ bị cách chức. Khi báo cáo công việc mới Bề trên, họ giả vờ tìm kiếm để giải quyết vấn đề, cho người khác một hình tượng giả. Mọi điều họ nói đều dối trá, và về cơ bản, họ không làm được việc. Nếu họ không đưa ra một số câu hỏi, thì họ sợ Bề trên sẽ nhìn ra sơ hở và thay thế họ, nên họ vội vàng giả vờ. Đây chính là tâm thái của lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ.

Hãy suy ngẫm về ba nguyên tắc tiếp xúc với Đức Chúa Trời mà Ta vừa thông công. Nguyên tắc nào các ngươi không làm được, nguyên tắc nào dễ làm? Thực ra, để mà thực sự thực hiện, thì nguyên tắc nào cũng không dễ, bởi vì ma quỷ trú ngụ trong lòng người. Ngươi sẽ không thể làm được khi chưa đuổi được ma quỷ ra khỏi lòng mình. Ngươi phải chiến đấu với ma quỷ trong lòng, và nếu lần nào ngươi cũng có thể chiến thắng nó, thì ngươi sẽ có thể làm được. Nếu lần nào ngươi cũng thất bại và bị nó bắt giữ, thì ngươi sẽ không thể làm được; ngươi sẽ không thể thực hiện được nguyên tắc nào cả. Nếu các ngươi có thể làm được cả ba nguyên tắc, thì không những khi qua lại hoặc giao thiệp với Ta, mà trong việc tiếp xúc bình thường với các anh chị em, làm theo những nguyên tắc này, chẳng phải tất cả mọi người đều được lợi từ đó sao? (Thưa, phải.) Câu chuyện kết thúc ở đây, chúng ta sẽ bắt đầu nói về chủ đề chính.

Mổ xẻ về sự tà ác, nham hiểm và giả dối của kẻ địch lại Đấng Christ

Lần trước, chúng ta đã thông công về biểu hiện thứ bảy của kẻ địch lại Đấng Christ – họ tà ác, nham hiểm và giả dối. Mục này đã được thông công hai lần rồi. Lần đầu tiên là về bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ – trọng điểm của lần đó là gì? (Thưa, thù hằn và ghét bỏ lẽ thật.) Kẻ địch lại Đấng Christ thù hằn và ghét bỏ lẽ thật, căm ghét hết thảy mọi điều tích cực tương hợp với lẽ thật và với Đức Chúa Trời, đây là biểu hiện chính đầu tiên trong sự tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Lần giảng đầu tiên là về những gì kẻ địch lại Đấng Christ ghét bỏ. Người bình thường ghét bỏ những điều tiêu cực và thế lực tà ác; ghét bỏ những thứ dơ bẩn, hắc ám và tà ác. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ thì hoàn toàn ngược lại, bằng chứng thuyết phục nhất cho biểu hiện đầu tiên trong bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ chính là họ không ghét bỏ những điều tiêu cực, mà lại ghét bỏ hết thảy mọi điều tích cực liên quan đến lẽ thật và đến Đức Chúa Trời, đây là bằng chứng thuyết phục thứ nhất về sự tà ác của họ. Lần giảng thứ hai là về bằng chứng thuyết phục thứ hai cho biểu hiện tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu họ ghét bỏ những điều tích cực, thì họ yêu thích cái gì? (Thưa, những điều tiêu cực.) Người có nhân tính bình thường yêu thích điều gì? Họ yêu thích những điều chính nghĩa, lương thiện và tốt đẹp, yêu thích lòng yêu thương, nhẫn nại và bao dung có liên quan đến nhân tính, cũng như thường thức và những tri thức tích cực, có lợi cho con người, cùng hết thảy những điều tích cực đến từ Đức Chúa Trời, bao gồm các phép tắc, quy luật mà Đức Chúa Trời ấn định cho vạn vật, luật pháp và các sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời, hết thảy mọi lẽ thật và con đường sự sống mà Đức Chúa Trời bày tỏ, cũng như những điều khác liên quan đến Đức Chúa Trời. Nhưng bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ thì ngược lại; họ không thích những điều này – vậy họ thích cái gì? (Thưa, nói dối, lừa gạt.) Đúng vậy, họ thích nói dối, lừa gạt, thích âm mưu, quỷ kế, các loại thủ đoạn xử thế, thích lấy lòng người, tâng bốc nịnh nọt, thích tranh đấu, thích địa vị và quyền thế. Họ yêu thích hết thảy những điều tiêu cực này, thích những thứ đi ngược lại lẽ thật và những điều tích cực, điều này chứng thực hoàn toàn về bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Những bằng chứng này có thuyết phục không? (Thưa, có.) Mặc dù những bằng chứng này đều thuyết phục, nhưng chỉ có hai phần thì chưa thể được xem là đầy đủ. Hôm nay, chúng ta sẽ tiếp tục nói về phần thứ ba của các loại biểu hiện trong sự tà ác, nham hiểm và giả dối của kẻ địch lại Đấng Christ. Phần thứ ba so với phần thứ nhất và phần thứ hai thì chắc chắn có sự khác biệt, nhưng cũng có liên quan. Liên quan như thế nào? Cả ba phần đều bàn về thực chất này – bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Chúng khác nhau ở chỗ nào? Trong phần này, những gì mà bản tính tà ác của họ yêu thích và cần, cũng như những điều mà họ ghê tởm, khác với những gì được nói trong hai phần trước – nội dung khác nhau. Sự khác nhau này không phải là để nói rằng kẻ địch lại Đấng Christ cũng thích một vài điều tích cực, hay họ cũng ghê tởm một vài điều tiêu cực; mà nó là một phần khác. Phần này không chỉ là về cái họ yêu thích hay cái họ cần, mà sẽ nâng lên đến những thứ mà thế lực tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ này tôn sùng– nói cách khác, họ sùng bái hoặc ngưỡng mộ cái gì. Một vài người có thể nói: “Những từ như ‘tôn sùng’, ‘sùng bái’ và ‘ngưỡng mộ’ nên được dùng để nói những điều tích cực, làm sao lại có thể áp dụng cho kẻ địch lại Đấng Christ được? Những từ này có phù hợp không?”. Những từ này không mang tính chất khen hay chê, chúng là những từ trung tính. Vì vậy, sử dụng chúng ở đây thì không vi phạm bất kỳ nguyên tắc nào, có thể dùng được.

III. Mổ xẻ về những thứ kẻ địch lại Đấng Christ sùng bái và ngưỡng mộ

Kẻ địch lại Đấng Christ sùng bái và ngưỡng mộ những thứ gì? Trước hết, chắc chắn là họ không sùng bái lẽ thật, Đức Chúa Trời, hay bất kỳ điều gì đẹp đẽ hoặc tốt đẹp liên quan đến Đức Chúa Trời. Vậy rốt cuộc thì họ sùng bái cái gì? Các ngươi có thể nghĩ ra cái gì không? Để Ta cho các ngươi một gợi ý. Những người ở trong tôn giáo và tin Chúa, họ đắm mình trong Cơ Đốc giáo như thế nào? Tại sao hiện nay họ được xác định là một tôn giáo, một giáo phái, chứ không phải là hội thánh của Đức Chúa Trời, nhà Đức Chúa Trời, hay đối tượng công tác của Đức Chúa Trời? Họ có những giáo lý tôn giáo; họ biên soạn công tác mà Đức Chúa Trời từng làm và những lời Đức Chúa Trời từng phán thành sách, thành tài liệu giảng dạy, rồi họ mở trường, thu nạp và đào tạo các loại nhà thần học. Những nhà thần học này học gì? Có phải là học lẽ thật không? (Thưa, không.) Vậy họ học gì? (Thưa, tri thức thần học.) Họ học tri thức và lý luận thần học, chúng căn bản không liên quan gì đến công tác của Đức Chúa Trời hay mọi lẽ thật do Đức Chúa Trời phán dạy. Họ thay thế lời Đức Chúa Trời và công tác của Đức Thánh Linh bằng tri thức thần học, và đó chính là cách họ đắm mình trong Cơ Đốc giáo hoặc Thiên Chúa giáo. Trong tôn giáo, người ta tôn sùng cái gì? Nếu ngươi đến nhà thờ và có người hỏi ngươi đã tin Đức Chúa Trời bao lâu, mà ngươi nói rằng ngươi vừa mới tin, thì họ sẽ không thèm để ý gì đến ngươi. Nhưng nếu ngươi đi vào, tay cầm quyển Kinh Thánh và nói: “Tôi vừa tốt nghiệp viện thần học này nọ”, thì họ sẽ mời ngươi ngồi ghế danh dự. Nếu ngươi là một giáo dân bình thường, thì trừ khi ngươi có địa vị xã hội nổi bật, nếu không họ sẽ chẳng thèm để ý đến ngươi. Cơ Đốc giáo chính là vậy, giới tôn giáo cũng như vậy. Những người giảng đạo, có địa vị, vai vế trong các nhà thờ đều là những người được đào tạo trong các viện thần học để có tri thức và lý luận thần học, và về cơ bản họ là chủ thể chèo chống Cơ Đốc giáo. Cơ Đốc giáo đào tạo những người như thế để lên bục giảng đạo, để rao truyền phúc âm và làm công tác khắp nơi. Họ tin rằng với nhân tài như những học viên thần học, mục sư giảng đạo và nhà thần học này, thì sự tồn tại của Cơ Đốc giáo được đảm bảo cho đến ngày nay, và những người này trở thành giá trị tồn tại và vốn liếng tồn tại của Cơ Đốc giáo. Nếu mục sư của một nhà thờ là người tốt nghiệp một viện thần học, nói rất hay về Kinh Thánh, đã đọc một vài sách thuộc linh, có chút tri thức cùng khả năng hùng biện, thì số người dự lễ của nhà thờ đó sẽ ngày càng đông, và nó sẽ trở nên nổi tiếng hơn nhiều so với các nhà thờ khác. Những người này trong Cơ Đốc giáo tôn sùng điều gì? Tri thức, tri thức thần học. Tri thức này bắt nguồn từ đâu? Chẳng phải nó được truyền lại từ thời xưa sao? Có những kinh văn từ thời xưa, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, mọi người đọc và học kinh văn như thế cho đến tận ngày nay. Người ta chia Kinh Thánh thành các mục khác nhau, biên soạn các phiên bản khác nhau, khuyến khích việc nghiên cứu và học tập, nhưng việc học tập Kinh Thánh của họ không phải là để hiểu lẽ thật nhằm nhận biết Đức Chúa Trời, cũng không phải là để hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời nhằm đạt đến kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác; mà là để nghiên cứu tri thức và những điều mầu nhiệm trong Kinh Thánh, để tìm ra những sự kiện nào vào những thời điểm nào đã ứng nghiệm lời tiên tri nào trong Sách Khải Huyền, khi nào các đại họa và thiên niên kỷ sẽ đến – họ nghiên cứu những điều này. Việc nghiên cứu của họ có liên quan đến lẽ thật không? (Thưa, không.) Tại sao họ lại nghiên cứu những thứ không liên quan đến lẽ thật? Đó là bởi vì càng nghiên cứu, họ càng cảm thấy mình hiểu nhiều, họ càng được trang bị nhiều câu chữ và đạo lý, thì tư cách của họ càng cao. Tư cách của họ càng cao, thì họ cảm thấy bản lĩnh của mình càng lớn, càng tin rằng họ tin Đức Chúa Trời thì cuối cùng sẽ được ban phúc, sau khi chết sẽ được lên thiên đàng, hoặc khi còn sống sẽ được cất lên không trung để gặp Chúa. Đây là những quan niệm tôn giáo của họ, không có chút gì phù hợp với lời Đức Chúa Trời.

Các mục sư và trưởng lão trong giới tôn giáo đều là những người nghiên cứu tri thức Kinh Thánh và thần học; họ là những người Pha-ri-si giả hình chống đối Đức Chúa Trời. Vậy họ khác như thế nào so với những kẻ địch lại Đấng Christ ẩn tàng trong hội thánh? Tiếp theo, hãy cùng nói về mối liên hệ giữa hai loại người này. Những người trong Cơ Đốc giáo và Thiên Chúa giáo nghiên cứu Kinh Thánh, thần học và thậm chí lịch sử công tác của Đức Chúa Trời, họ có tin thật không? Họ có khác với những tín đồ và người đi theo Đức Chúa Trời mà Đức Chúa Trời nói đến không? Trong mắt Đức Chúa Trời, họ có phải là người tin Ngài không? Không, họ nghiên cứu thần học, nghiên cứu Đức Chúa Trời, nhưng họ không đi theo Đức Chúa Trời hay làm chứng cho Ngài. Họ nghiên cứu Đức Chúa Trời cũng giống như người ta nghiên cứu lịch sử, triết học, pháp luật, sinh học hoặc thiên văn học. Chỉ là họ không thích khoa học hay các môn khác thôi – họ đặc biệt thích nghiên cứu thần học. Họ tìm kiếm những manh mối vụn vặt trong công tác của Đức Chúa Trời để nghiên cứu Đức Chúa Trời, kết quả thế nào? Họ nghiên cứu thì có thể khám phá ra sự hiện hữu của Đức Chúa Trời không? Không, không bao giờ. Họ nghiên cứu thì có thể hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Tại sao? Bởi vì họ sống trong câu chữ, trong tri thức, trong triết học, trong trí óc và tâm tư của con người; họ sẽ không bao giờ thấy được Đức Chúa Trời, cũng không bao giờ được Đức Thánh Linh khai sáng. Đức Chúa Trời xác định tính chất của họ là gì? Là kẻ chẳng tin, là người ngoại đạo. Những người ngoại đạo và kẻ chẳng tin này trà trộn trong cái gọi là cộng đồng Cơ Đốc nhân, vào vai người tin Đức Chúa Trời, vào vai Cơ Đốc nhân, nhưng trên thực tế, họ có thực sự thờ phượng Đức Chúa Trời không? Họ có thực sự quy phục không? (Thưa, không.) Tại sao lại như vậy? Có một điều chắc chắn là: trong số họ có một bộ phận không nhỏ trong lòng không tin vào Đức Chúa Trời hiện hữu; không tin rằng Đức Chúa Trời tạo dựng thế giới và tể trị vạn vật, càng không tin Đức Chúa Trời có thể trở nên xác thịt. Sự không tin này nghĩa là gì? Nghĩa là hoài nghi và phủ nhận. Thậm chí họ còn có thái độ không hy vọng những lời tiên tri mà Đức Chúa Trời phán, nhất là những lời tiên tri về thảm họa, sẽ ứng nghiệm hoặc trở thành hiện thực. Đây chính là thái độ của họ đối với việc tin Đức Chúa Trời, cũng chính là thực chất và bộ mặt thật của cái gọi là đức tin của họ. Những người này nghiên cứu Đức Chúa Trời bởi vì họ đặc biệt hứng thú với bộ môn và tri thức thần học, với những sự thật lịch sử về công tác của Đức Chúa Trời; họ chỉ đơn thuần là một nhóm trí thức nghiên cứu thần học. Những trí thức này không tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, vậy khi Đức Chúa Trời đến để làm công tác, khi những lời Đức Chúa Trời ứng nghiệm, thì họ tiếp cận chuyện này như thế nào? Khi nghe nói Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt và làm công tác mới, phản ứng đầu tiên của họ là gì? “Không thể nào!”. Ai rao giảng danh mới của Đức Chúa Trời và công tác mới của Đức Chúa Trời, thì đều bị họ kết tội, thậm chí còn muốn sát hại hoặc trừ khử người đó. Đây là biểu hiện gì? Chẳng phải đây chính là biểu hiện của một kẻ địch lại Đấng Christ chính cống sao? Họ khác gì những người Pha-ri-si, thầy tế lễ cả và thầy thông giáo thời xưa? Họ thù hằn công tác của Đức Chúa Trời, sự phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, việc Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, càng thù hằn việc ứng nghiệm những lời tiên tri của Đức Chúa Trời hơn nữa. Họ cho rằng: “Nếu ngài không trở nên xác thịt, nếu ngài ở dạng linh thể, thì ngài là đức chúa trời. Nếu ngài nhập thể và trở thành con người, thì ngài không phải là đức chúa trời, chúng tôi sẽ không thừa nhận ngài”. Nói thế là có ý gì? Nghĩa là chừng nào còn bọn họ thì họ sẽ không cho phép Đức Chúa Trời trở nên xác thịt. Đây chẳng phải là kẻ địch lại Đấng Christ chính cống sao? Đây là kẻ địch lại Đấng Christ chính hiệu. Giới tôn giáo có dạng luận điệu này không? Giọng luận điệu này rất cao và rất mạnh, nói rằng: “Việc đức chúa trời trở nên xác thịt là sai và không có khả năng xảy ra! Nếu ngài nhập thể, thì chắc chắn là giả!”. Còn có những người nói: “Rõ ràng họ tin một con người; chỉ là họ bị mê hoặc thôi!”. Nếu họ có thể nói vậy, thì giả sử họ ở trong thời Đức Chúa Jêsus xuất hiện và làm công tác cách đây hai ngàn năm, họ sẽ không tin Đức Chúa Jêsus. Bây giờ họ tin Đức Chúa Jêsus, nhưng thực ra họ chỉ tin vào danh của Đức Chúa Jêsus, vào ba chữ “Đức Chúa Jêsus”, cũng là tin vào một đức chúa trời mơ hồ trên trời. Vì thế, họ không phải là người tin Đức Chúa Trời, mà là kẻ chẳng tin. Họ không tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, vào sự nhập thể của Đức Chúa Trời, vào công tác tạo dựng của Đức Chúa Trời, càng không tin vào công tác cứu chuộc toàn thể nhân loại của Đức Chúa Trời thông qua việc bị đóng đinh trên thập tự giá. Thần học mà họ nghiên cứu là một dạng lý luận hoặc học thuyết tôn giáo, chẳng qua chỉ là những luận điệu sai trái mà nghe có vẻ đúng để mê hoặc mọi người. Mối liên hệ tất yếu giữa những người gọi là trí thức thần học này trong Cơ Đốc giáo với những kẻ địch lại Đấng Christ trong hội thánh của chúng ta là gì? Mối liên hệ giữa các biểu hiện khác nhau của họ và thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ mà chúng ta nói đến là gì? Tại sao lại nói về họ? Bây giờ chưa nói đến những người trong Cơ Đốc giáo, mà thay vào đó hãy cùng xem những người bị xác định tính chất là kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận lẽ thật như thế nào, và từ thái độ của họ đối với lẽ thật, hãy cùng xem họ thực sự tôn sùng điều gì. Đầu tiên, sau khi hiểu được một vài lẽ thật, họ lý giải những lẽ thật này như thế nào? Họ tiếp cận những lẽ thật này ra sao? Thái độ của họ đối với việc tiếp nhận những lẽ thật này là gì? Họ có tiếp nhận những lời này làm con đường thực hành của mình không, hay họ xem chúng là một dạng lý luận để trang bị cho mình, rồi đi giảng cho người khác? (Thưa, họ xem chúng như một dạng lý luận để giảng.) Họ xem chúng như một dạng lý luận để học tập, phân tích và nghiên cứu. Sau khi nghiên cứu, họ dùng đầu óc và tâm tư mà học, mà ghi nhớ, cũng có thể giảng về chúng, giảng rất trôi chảy, rồi đi phô trương khắp nơi. Dù họ có thao thao bất tuyệt bao lâu đi nữa, thì có một điều ngươi không thể nào thấy được, đó là dù họ nói bao nhiêu đạo lý, dù họ có thể nói hay thế nào, nói với bao nhiêu người, trôi chảy ra sao, nội dung nhiều thế nào và có phù hợp với lẽ thật hay không, thì ngươi cũng không thể thấy được bất kỳ kết quả nào nơi họ – ngươi không thấy họ thực hành. Nó cho thấy điều gì? Họ không tiếp nhận lẽ thật. Họ đã biến lẽ thật thành cái gì rồi? Thành công cụ để phô trương bản thân. Chẳng hạn như Đức Chúa Trời phán rằng con người phải trung thực, cũng giải thích người trung thực có những biểu hiện nào, người trung thực nên nói năng, hành động và làm bổn phận như ra sao. Họ nghe vậy thì có phản ứng gì? Những lời này có tác động gì đến họ? Đầu tiên, họ không bao giờ tiếp nhận những lời này. Thái độ của họ là gì? “Mình biết rồi: người trung thực thì không nói dối, người trung thực nói thật với người khác và có thể mở lòng, người trung thực làm bổn phận với lòng trung thành, không qua loa chiếu lệ”. Họ giữ những lời này trong lòng như một lý luận. Một khi dạng lý luận này bén rễ trong lòng họ, nó có thể thay đổi họ được không? (Thưa, không.) Vậy tại sao họ còn ghi nhớ làm gì? Họ thích tính đúng đắn của những lời này, và họ sử dụng những lý luận đúng đắn này để tạo vỏ bọc cho bản thân, để được người khác xem trọng. Cái mà mọi người đang xem trọng là gì? Đó là khả năng nói những lời đúng đắn một cách trôi chảy và bất tận của họ – đó là điều họ muốn. Sau khi nghe những lời này, họ có tiếp cận một cách nghiêm túc không? (Thưa, không.) Tại sao không? Làm sao để biết được? (Thưa, họ không thực hành.) Tại sao họ không thực hành? Trong lòng họ cho rằng: “Vậy đây là những lời của đức chúa trời đúng không? Đơn giản, chỉ cần nghe một lần là tôi nhớ. Chỉ cần nghe một lần là tôi có thể đọc thuộc lòng về cách người trung thực nên hành động; tất cả các người cần ghi chép và suy ngẫm, chứ tôi không cần!”. Họ xem lời Đức Chúa Trời như một dạng lý luận hoặc tri thức. Trong lòng, họ không suy ngẫm làm sao để làm người trung thực, cũng không đối chiếu với bản thân, họ không kiểm điểm những hành động của mình để xem họ còn kém bao xa so với yêu cầu làm người trung thực, hoặc họ có những hành động nào đi ngược lại các nguyên tắc làm người trung thực. Họ cũng không bao giờ suy nghĩ: “Đây là lời của Đức Chúa Trời, nên đây là lẽ thật. Con người nên trung thực, vậy thì nên hành động như thế nào mới là người trung thực? Mình nên hành động như thế nào mới làm vui lòng Đức Chúa Trời? Mình đã làm những gì không trung thực? Những biểu hiện nào không phải là biểu hiện của người trung thực?”. Họ có ngẫm nghĩ như vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì họ nghĩ gì? Họ nghĩ: “Vậy đây là người trung thực sao? Đây là lẽ thật sao? Chẳng phải đây chỉ là một lý luận, một khẩu hiệu thôi sao? Cứ nói khoác là được rồi, cần gì thực hành”. Tại sao họ lại không thực hành? Họ cảm thấy: “Nếu trong lòng có gì cũng nói với người khác thì chẳng phải sẽ để lộ bản thân sao? Nếu mình để lộ bản thân và bị người khác nhìn thấu, liệu họ có còn xem trọng mình không? Khi mình nói, người khác có còn nghe lời không? Ý của lời đức chúa trời là người trung thực không được nói dối; mà không nói dối thì chẳng phải trong lòng người ta không còn lại gì riêng tư à? Chẳng phải như vậy sẽ để cho người khác nhìn thấu mình à? Sống như thế chẳng ngốc sao?”. Đây là quan điểm của họ. Có nghĩa là khi họ tiếp nhận một lý luận mà họ xem là đúng, thì trong lòng họ sẽ có suy nghĩ. Những suy nghĩ này là gì? Tại sao Ta lại nói họ tà ác? Đầu tiên, họ phân tích tác dụng của những lời này đối với họ, lợi và hại của những lời này đối với họ. Sau khi phân tích xong và thấy không có lợi cho mình, thì họ cho rằng: “Tôi không thể thực hành như vậy được, tôi sẽ không làm vậy, tôi đâu có ngốc như vậy, tôi sẽ không ngu xuẩn và đơn giản như các người đâu! Bất kể lúc nào tôi cũng phải giữ vững chủ ý và chủ kiến của mình. Các người có thể có một ngàn kế hoạch, nhưng tôi thì có một quy tắc; tôi không thể để lộ quỷ kế trong lòng mình được – kẻ ngốc mới làm người trung thực!”. Một mặt, họ phủ nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật. Mặt khác, họ ghi nhớ một vài lời tương đối kinh điển để tạo vỏ bọc cho mình, khiến họ trông giống một người thật lòng tin Đức Chúa Trời hơn, trông giống một người thuộc linh hơn trong mắt mọi người. Đây chính là những gì họ tính toán trong lòng.

Từ phản ứng của những kẻ địch lại Đấng Christ đối với lẽ thật sau khi nghe, rõ ràng là họ không hứng thú với lẽ thật và không yêu thích lẽ thật. Họ yêu thích điều gì? Họ yêu thích tri thức thần học đúng đắn, mới mẻ và có phần cao thâm hơn, mà họ có thể dùng để tạo cho mình một vỏ bọc hoàn hảo hơn, có thể diện và tôn nghiêm hơn, có thể khiến mọi người sùng bái họ hơn. Đây chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Tà ác ở chỗ nào? Dù thông công về khía cạnh lẽ thật nào, kẻ địch lại Đấng Christ luôn có thể tạo ra một bộ lý luận sai mà có vẻ đúng để mê hoặc mọi người và khiến mọi người đi theo họ, cái này cũng tà ác y hệt Sa-tan. Sự tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ biểu hiện trong những mưu mô, suy tính tà ác của họ, trong trọn bộ kế hoạch muốn mượn danh nghĩa đọc lời Đức Chúa Trời để tìm cơ sở lý luận cho việc thực hiện sự tà ác của họ; đây chính là sự tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Họ trích dẫn lời Đức Chúa Trời tách khỏi ngữ cảnh chỉ để mê hoặc mọi người và thể hiện bản thân. Khi nghe các mối thông công và bài giảng, mà thấy có lời nào mới mẻ để họ có thể sử dụng, thì họ lập tức ghi chép lại. Những người ngu xuẩn thấy hành vi như thế liền nghĩ: “Họ mới khao khát sự công chính làm sao, mỗi khi nghe giảng đều ghi chép, chắc họ phải có nhiều hiểu biết thuộc linh lắm, có điểm gì quan trọng họ đều ghi lại!”. Cách ghi chép của họ có giống người khác không? Không giống. Có những người ghi chép bởi vì họ nghĩ: “Đây là một câu hay. Mình không hiểu, nên mình cần phải ghi lại và sau này thực hành thì áp dụng, để khi thực hành, mình sẽ có con đường và nguyên tắc”. Kẻ địch lại Đấng Christ có nghĩ như vậy không? Xuất phát điểm của họ là gì? Họ nghĩ: “Hôm nay tôi đã ghi lại một mục lẽ thật mà các người chưa ai nghe thấy. Tôi sẽ không nói với ai, cũng không thông công với ai đâu. Tôi nắm được rồi, hôm nào tôi sẽ giảng cho các người, khoe tài của tôi, cho các người biết rằng tôi hiểu lẽ thật, và tất cả mọi người sẽ khen ngợi tôi”. Ngươi có thể nghĩ rằng kẻ địch lại Đấng Christ yêu thích và khao khát lẽ thật bởi vì họ ghi chép như thế này và những ghi chép của họ khá chính xác, nhưng sau khi họ ghi chép xong thì sao? Họ gập sổ lại, và thế là coi như xong. Đến ngày họ trở thành người rao giảng và không biết rao giảng cái gì, họ liền lật nhanh qua cuốn sổ của mình, sắp xếp nội dung bài giảng, đọc, ghi nhớ và ghi ra từ trí nhớ cho đến khi họ đã thông tỏ tất cả trong đầu. Chỉ khi đó, họ mới cảm thấy “vững vàng”, cảm thấy cuối cùng họ đã có “lẽ thật” và đi đâu cũng có thể ba hoa bốc phét được. Mọi điều mà những người này nói có một đặc điểm là họ toàn nói những đạo lý, luận điệu và quy định sáo rỗng. Khi ngươi có khó khăn cụ thể, hoặc phát hiện ra vấn đề và tìm kiếm cách giải quyết từ họ, họ sẽ chỉ nói cho ngươi một mớ giáo lý, nói một cách rõ ràng, lô-gic. Nếu ngươi hỏi họ đưa vào thực hành như thế nào, thì họ không nói được. Nếu họ không thể nói rõ được thì có vấn đề nghiêm trọng, và nó chứng tỏ họ không hiểu lẽ thật. Người không hiểu lẽ thật và không yêu thích lẽ thật thường xem lẽ thật như một dạng câu nói hoặc lý luận. Và cuối cùng thành ra thế nào? Họ tin Đức Chúa Trời nhiều năm, mà gặp chuyện gì cũng không thể nhìn thấu, không thể thuận phục, và không biết tìm kiếm lẽ thật. Khi có người thông công với họ, thì họ có một “danh ngôn chí lý” để đáp lại: “Không cần nói gì với tôi cả, tôi hiểu hết rồi. Tôi giảng đạo từ hồi anh còn chưa biết đi mà!”. Đây là “danh ngôn chí lý” của họ. Họ khẳng định họ hiểu hết, vậy tại sao mỗi khi có chuyện là họ lại bế tắc? Ngươi hiểu, tại sao ngươi lại không thể hành động thể hiện ra? Tại sao chuyện này lại cản trở và khiến ngươi bối rối? Rốt cuộc ngươi có hiểu lẽ thật hay không? Nếu ngươi hiểu, tại sao lại không thể tiếp nhận lẽ thật? Nếu ngươi hiểu, tại sao lại không thể thuận phục? Sau khi hiểu lẽ thật, việc đầu tiên người ta nên làm là gì? Chính là thuận phục, không còn gì khác. Có những người nói: “Cái gì tôi cũng hiểu rồi, đừng ai thông công với tôi, tôi không cần người khác giúp”. Nếu họ không cần mọi người giúp thì tốt thôi, nhưng đáng tiếc là khi họ yếu đuối, những đạo lý họ hiểu lại hoàn toàn vô dụng. Thậm chí họ còn không muốn làm bổn phận, lại còn nảy sinh ác tâm là từ bỏ đức tin. Sau bao nhiêu năm giảng lý luận thần học như vậy, họ nói không tin nữa liền không tin nữa, họ nói bỏ đi liền bỏ đi – họ có bất kỳ vóc giạc nào không? (Thưa, không.) Không có vóc giạc thì không có sự sống. Nếu ngươi có sự sống, tại sao ngươi lại không thể vượt qua một chuyện nhỏ như vậy? Không phải ngươi nói năng giỏi lắm sao? Vậy thì hãy tự thuyết phục mình đi. Nếu ngươi thậm chí còn không thể tự thuyết phục mình, thì cái ngươi hiểu rốt cuộc là thứ gì? Có phải là lẽ thật không? Lẽ thật có thể giải quyết những khó khăn thực tế cho con người, cũng có thể giải quyết những tâm tính bại hoại của con người. Tại sao những “lẽ thật” mà ngươi hiểu đó lại không thể giải quyết được ngay cả những khó khăn của chính ngươi? Rốt cuộc thì ngươi hiểu cái gì? Ngươi hiểu đạo lý mà thôi.

Về biểu hiện thứ bảy của kẻ địch lại Đấng Christ – họ tà ác, nham hiểm và giả dối, Ta vừa nói về phần thứ ba của biểu hiện này: họ tôn sùng tri thức và học vấn. Kẻ địch lại Đấng Christ tôn sùng tri thức và học vấn – trong điều này có gì có thể minh họa tâm tính tà ác của họ? Tại sao lại nói rằng tôn sùng tri thức và học vấn thì sẽ có thực chất tà ác? Trong chuyện này, chắc chắn chúng ta phải nói về sự thật, nếu chỉ nói vài lời nói suông hoặc lý luận, thì có lẽ mọi người sẽ có nhận thức phiến diện và chưa thấu triệt. Đầu tiên, hãy cùng bắt đầu bằng một điều xa xôi ngược dòng lịch sử. Trong khi Ta phán, các ngươi hãy đối chiếu những hành động và hành vi, những biểu hiện và thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ với lời Ta. Đầu tiên, hãy nói về những người Pha-ri-si cách đây hai ngàn năm. Thời đó, người Pha-ri-si là những người giả hình. Khi Đức Chúa Trời nhập thể lần đầu tiên, xuất hiện và làm công tác, người Pha-ri-si không những không tiếp nhận một chút lẽ thật nào, mà thậm chí còn kịch liệt kết tội và chống đối Đức Chúa Jêsus, bởi vậy họ bị Đức Chúa Trời rủa sả. Từ đây có thể xác định rằng người Pha-ri-si là đại diện tiêu biểu của kẻ địch lại Đấng Christ. “Kẻ địch lại Đấng Christ” đã trở thành một tên gọi khác cho người Pha-ri-si, và về thực chất, người Pha-ri-si chính là cùng một loại người với kẻ địch lại Đấng Christ. Vì thế, bắt đầu với người Pha-ri-si để mổ xẻ bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ là con đường tắt. Vậy những người Pha-ri-si đã làm gì mà cho mọi người thấy họ có bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ? Vừa rồi, Ta có nói rằng kẻ địch lại Đấng Christ tôn sùng tri thức và học vấn; tri thức và học vấn gắn liền với những người nào? Ai là hiện thân của những điều này? Nó có nói đến các học viên thạc sĩ và tiến sĩ không? Không, như thế sẽ đi quá xa – nó đề cập đến người Pha-ri-si. Sở dĩ người Pha-ri-si giả hình, và tà ác vì họ chán ghét lẽ thật nhưng lại thích tri thức, nên họ chỉ nghiên cứu Thánh Kinh và mưu cầu tri thức Thánh Kinh, mà không hề tiếp nhận lẽ thật hay lời Đức Chúa Trời. Khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ không cầu nguyện, cũng không tìm kiếm hay thông công về lẽ thật. Thay vào đó, họ nghiên cứu lời Đức Chúa Trời, nghiên cứu những gì Đức Chúa Trời phán và làm, qua đó biến lời Đức Chúa Trời thành một dạng lý luận, một dạng học thuyết để dạy người khác, đây gọi là nghiên cứu học thuật. Tại sao họ lại nghiên cứu học thuật? Họ đang nghiên cứu cái gì? Trong mắt Đức Chúa Trời, đây không phải là lời Đức Chúa Trời hay sự bày tỏ của Đức Chúa Trời, càng không phải là lẽ thật, mà chỉ là một loại học vấn, hoặc thậm chí có thể nói nó là tri thức thần học. Trong mắt họ, truyền bá tri thức này, học vấn này, mới là rao truyền con đường của Đức Chúa Trời, là rao truyền phúc âm – đây là cái họ gọi là truyền đạo, nhưng tất cả những gì họ truyền đạo chỉ là tri thức thần học mà thôi.

Những phần tà ác của người Pha-ri-si biểu hiện như thế nào? Đầu tiên, hãy nói từ cách người Pha-ri-si đối đãi với Đức Chúa Trời nhập thể, sau đó các ngươi có thể hiểu thêm một chút. Nói về Đức Chúa Trời nhập thể, đầu tiên chúng ta phải nói về việc cách đây hai ngàn năm, Đức Chúa Trời nhập thể sinh ra trong một gia đình và bối cảnh xuất thân như thế nào. Trước hết, Đức Chúa Jêsus không hề được sinh ra trong một gia đình giàu có – dòng dõi của Ngài không quá danh giá. Cha nuôi của Ngài, Giô-sép là thợ mộc, còn mẹ Ngài, Ma-ri, là một tín hữu bình thường. Thân phận và địa vị xã hội của cha mẹ Ngài đại diện cho bối cảnh gia đình mà Đức Chúa Jêsus sinh ra, và quá rõ ràng là Ngài sinh ra trong một gia đình bình dân. “Bình dân” nghĩa là gì? Chính là dân chúng bình thường, một hộ gia đình bình thường ở tầng đáy xã hội, chẳng có gì để gọi là danh môn vọng tộc, cũng không liên quan gì đến địa vị danh giá, càng không phải là quý tộc. Sinh ra trong một gia đình bình thường, với cha mẹ bình thường, không có bất kỳ địa vị xã hội danh giá hay bối cảnh gia đình danh giá nào, rõ ràng xuất thân và gia đình mà Đức Chúa Jêsus sinh ra còn bình thường hơn người bình thường. Kinh Thánh có ghi chép rằng Đức Chúa Jêsus nhận được bất kỳ sự giáo dục đặc biệt nào không? Ngài có nhận được sự giáo dục của viện thần học không? Ngài có được thầy tế lễ cả đào tạo không? Ngài có đọc nhiều sách như Phao-lô không? Ngài có tiếp xúc hoặc qua lại thân thiết với những nhân vật tiếng tăm hay các thầy tế lễ cả của Do Thái giáo không? Không có. Nhìn vào địa vị xã hội của gia đình mà Đức Chúa Jêsus sinh ra là biết, rõ ràng Ngài không tiếp xúc với các thầy thông giáo và người Pha-ri-si ở thượng tầng của Do Thái giáo; phạm vi sinh hoạt của Ngài cơ bản chỉ là giữa những người Do Thái bình thường. Thỉnh thoảng, Ngài đến hội đường, và những người Ngài gặp đều là dân thường. Điều này cho thấy gì? Trong quá trình Đức Chúa Jêsus lớn lên, trước khi Ngài chính thức đảm đương công tác, bối cảnh mà Ngài lớn lên không có gì thay đổi. Sau khi lên 12 tuổi, gia đình Ngài đâu có bắt đầu phát đạt và trở nên giàu có, càng không có cơ hội được tiếp xúc với những người ở tầng lớp cao của xã hội hoặc giới tôn giáo, và trong quá trình trưởng thành, Ngài cũng không có cơ hội tiếp nhận nền giáo dục bậc cao. Điều này cho các thế hệ sau thông điệp gì? Con người thông thường và bình thường là Đức Chúa Trời nhập thể này không có cơ hội cũng như điều kiện tiếp nhận nền giáo dục bậc cao. Ngài giống như những người bình thường, Ngài sống trong một hoàn cảnh xã hội bình thường, trong một gia đình bình thường, và không có gì đặc biệt ở Ngài. Chính vì thế mà sau khi nghe nói về những bài giảng và việc làm của Đức Chúa Jêsus, những thầy thông giáo và người Pha-ri-si đó đã dám đứng lên ngang nhiên xét đoán, báng bổ và kết tội Ngài. Họ kết tội Ngài dựa trên cơ sở nào? Chắc chắn là dựa trên luật pháp và quy định của Thánh Kinh Cựu Ước. Thứ nhất, Đức Chúa Jêsus đã dẫn dắt các môn đồ của Ngài không tuân giữ ngày Sa-bát – Ngài vẫn làm việc trong ngày Sa-bát. Ngoài ra, Ngài không tuân thủ luật pháp và quy định, và không đến đền thờ. Khi gặp những người phạm tội, có vài người đã hỏi Ngài nên xử lý họ như thế nào, nhưng Ngài không xử lý họ theo luật pháp, mà thay vào đó tỏ lòng thương xót họ. Hết thảy mọi việc mà Đức Chúa Jêsus làm đều không phù hợp với quan niệm tôn giáo của người Pha-ri-si. Bởi vì họ không yêu thích lẽ thật và vì thế mà thù hận Đức Chúa Jêsus, nên họ nắm lấy cái cớ Đức Chúa Jêsus vi phạm luật pháp để kịch liệt kết tội Ngài, và quyết định rằng Ngài phải bị xử tử. Nếu Đức Chúa Jêsus được sinh ra trong một gia tộc lớn và danh giá, nếu Ngài được tiếp nhận nền giáo dục bậc cao, lại còn qua lại thân thiết với các thầy thông giáo và người Pha-ri-si này, thì cảnh ngộ của Đức Chúa Jêsus sau này đã không như vậy, đã có thể thay đổi khác đi. Chính vì sự thông thường của Ngài, sự bình thường của Ngài và xuất thân Ngài sinh ra, mà Ngài đã bị người Pha-ri-si kết tội. Họ căn cứ vào điều gì mà kết tội Đức Chúa Jêsus? Đó là những quy định và luật lệ mà họ nắm vững và tin rằng chúng sẽ đời đời bất biến. Người Pha-ri-si xem những lý luận thần học mà họ nắm vững như là tri thức và là công cụ để đánh giá và kết tội mọi người, thậm chí còn sử dụng nó với Đức Chúa Jêsus. Đây chính là cách Đức Chúa Jêsus bị kết tội. Cách họ đánh giá và đối xử với người ta không bao giờ dựa trên thực chất của người đó, cũng không dựa trên việc liệu những điều người đó giảng có phải là lẽ thật hay không, càng không dựa trên nguồn gốc của lời người đó nói – mà chỉ dựa trên những quy định, câu chữ và đạo lý mà họ nắm vững trong Thánh Kinh Cựu Ước. Mặc dù trong lòng người Pha-ri-si biết rằng những gì Đức Chúa Jêsus nói và làm không phải là phạm tội hay vi phạm luật pháp, nhưng họ vẫn muốn kết tội Ngài, bởi vì những lẽ thật Ngài bày tỏ và những dấu kỳ, phép lạ Ngài thực hiện khiến nhiều người đi theo và xưng tụng Ngài. Người Pha-ri-si ngày càng thù hận Ngài, thậm chí còn muốn diệt trừ Ngài. Họ không thừa nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Mê-si sẽ đến, cũng không thừa nhận lời Ngài có lẽ thật, càng không thừa nhận việc Ngài làm phù hợp với lẽ thật. Họ xét đoán Đức Chúa Jêsus là nói lời ngạo mạn và dựa vào quỷ vương Bê-ên-xê-bun mà trừ quỷ. Việc họ có thể gán những tội danh này cho Đức Chúa Jêsus cho thấy trong lòng họ thù hận Ngài đến mức nào. Vì thế, họ kịch liệt phủ nhận Đức Chúa Jêsus là do Đức Chúa Trời phái đến, phủ nhận Ngài là con của Đức Chúa Trời và là Đấng Mê-si. Ý họ là: “Đức chúa trời mà làm kiểu này sao? Nếu đức chúa trời nhập thể thì ngài phải sinh ra trong một gia tộc danh giá, phải nhận sự dạy dỗ từ các thầy thông giáo và từ người Pha-ri-si. Ngài phải nghiên cứu Thánh Kinh một cách hệ thống, nắm vững tri thức Thánh Kinh và có đủ toàn bộ tri thức Thánh Kinh, thì mới có thể mang danh ‘đức chúa trời nhập thể’”. Nhưng Đức Chúa Jêsus không có tri thức này, nên họ kết tội Ngài, nói rằng: “Thứ nhất, ngài không đủ tư cách như thế, nên ngài không thể là đức chúa trời được. Thứ hai, không có tri thức Thánh Kinh này, ngài không làm được công tác của đức chúa trời, càng không thể là đức chúa trời. Thứ ba, ngài không được công tác ngoài đền thờ – hiện nay ngài không làm việc trong đền thờ, mà luôn ở giữa những kẻ có tội, công tác ngài làm ở ngoài phạm vi của Thánh Kinh, nên ngài càng không thể là đức chúa trời”. Cơ sở kết tội của họ đến từ đâu? Từ Thánh Kinh, từ trí óc của con người, và từ sự giáo dục thần học mà họ nhận được. Bởi vì người Pha-ri-si chứa đầy những quan niệm, tưởng tượng và tri thức, nên họ cho rằng tri thức này là đúng đắn, là lẽ thật, là căn cứ, và Đức Chúa Trời không khi nào có thể công tác trái với những điều này. Họ có tìm kiếm lẽ thật không? Không. Họ tìm kiếm điều gì? Một đức chúa trời siêu nhiên hiện ra dưới dạng linh thể. Vì thế, họ dùng quan niệm, tưởng tượng và tri thức của con người mà quy định công tác của Đức Chúa Trời, phủ nhận công tác của Đức Chúa Trời, đánh giá Đức Chúa Trời đúng hay sai. Làm như vậy thì kết quả cuối cùng là gì? Họ không những kết tội công tác của Đức Chúa Trời, mà còn đóng đinh Đức Chúa Trời nhập thể lên thập tự giá. Đây chính là hậu quả của việc họ sử dụng những quan niệm, tưởng tượng và tri thức của mình để đánh giá Đức Chúa Trời, cũng chính là chỗ tà ác của họ.

Xét từ việc người Pha-ri-si tôn sùng tri thức và học vấn , thì sự tà ác của họ nằm ở đâu? Nó biểu hiện như thế nào? Làm sao để chúng ta có thể khai quật và mổ xẻ bản tính tà ác của loại người này? Người Pha-ri-si tôn sùng tri thức và học vấn thì biết rồi, không cần nói chi tiết. Vậy rốt cuộc thì bản tính tà ác họ bộc lộ ở đây là gì? Làm sao để chúng ta có thể mổ xẻ và nhìn thấu bản tính tà ác của loại người này? Ai nói nào? (Thưa, họ dùng tri thức lý luận để chống lại thực chất của Đức Chúa Trời; đây là một trong những biểu hiện tà ác của họ.) Chống lại là một hành động, vậy tại sao họ chống lại? Sự chống lại này chứa đựng một chút tâm tính hung ác, nhưng vẫn chưa đến mức tà ác. Tại sao họ chống lại? Có phải là vấn đề họ thích hay không thích Ngài không? Họ không thích dạng Đức Chúa Trời này, cho rằng: “Đức chúa trời phải ở trên trời, ở tầng trời thứ ba kìa, được hết thảy con người ngưỡng mộ, con người không thể với tới, không thể dò thấu, là đấng mà toàn thể nhân loại, muôn loài thọ tạo và thậm chí tất cả mọi sinh vật trong vũ trụ đều ngước mắt trông lên – đó mới là đức chúa trời! Bây giờ đức chúa trời đã đến, nhưng ngài lại sinh ra trong một gia đình thợ mộc, cha mẹ ngài chỉ là người bình thường, lại còn sinh ra trong chuồng chiên. Bối cảnh ra đời của Ngài không chỉ bình thường, mà còn dưới một bậc so với bình thường và thông thường – ai mà tiếp nhận nổi? Nếu đức chúa trời thực sự đến, ngài không thể đến như vậy được!”. Đây chẳng phải là cách người ta quy định Đức Chúa Trời sao? Mọi người đều quy định Đức Chúa Trời như vậy. Thực ra, trong lòng họ cũng mơ hồ cảm thấy rằng Đức Chúa Jêsus không phải là người bình thường, rằng mọi lời Đức Chúa Jêsus phán đều đúng, và một số tội lỗi mà người ta cáo buộc Ngài thực ra không đúng sự thật. Đức Chúa Jêsus có thể chữa bệnh và trừ quỷ, và họ không thể tìm thấy bất kỳ sai sót nào hay bắt thóp được gì trong những bài Ngài giảng và lời Ngài nói, nhưng họ vẫn không thể tiếp nhận. Và trong lòng, họ vẫn hoài nghi: “Chẳng lẽ đức chúa trời thực sự như thế này sao? Đức chúa trời trên trời vô cùng vĩ đại, nếu ngài trở nên xác thịt và đến mặt đất, ngài còn phải vĩ đại hơn nữa, được người người ngưỡng mộ, đến giữa những danh môn vọng tộc, xuất khẩu thành văn, và không bao giờ bộc lộ dù chỉ chút xíu khuyết điểm hay sự yếu đuối nào của nhân tính. Ngoài ra, Ngài hẳn phải dùng tri thức, học vấn và bản lĩnh của Ngài để khiến các giáo sĩ trong đền thờ phải chịu phục. Ngài hẳn phải thu phục những người này trước; đó mới là tâm ý của đức chúa trời”. Đối với những gì Đức Chúa Jêsus làm, họ không tin phục, cũng không muốn tiếp nhận hoặc thừa nhận sự thật này. Không muốn thừa nhận sự thật này cũng không phải là vấn đề lớn; nhưng nơi sâu thẳm nội tâm họ còn có một thứ chí mạng hơn: nếu một người như vậy mà là đức chúa trời, thì hết thảy giáo sĩ đều có thể là Đức Chúa Trời, hết thảy họ đều giống đức chúa trời hơn cả chính Đức Chúa Trời nữa, và hết thảy họ đều đủ tư cách làm đấng christ hơn Đức Chúa Jêsus. Như vậy chẳng phiền phức rồi sao? (Thưa, phải.) Trong khi kết tội Đức Chúa Jêsus, họ còn chống lại và xem thường mọi khía cạnh bối cảnh liên quan đến xác thịt mà Đức Chúa Trời chọn để nhập thể lần này. Chúng ta vẫn chưa bàn đến chỗ tà ác của người Pha-ri-si – hãy cùng tiếp tục thông công.

Đức Chúa Trời trở nên xác thịt như một con người bình thường, có nghĩa là Đức Chúa Trời hạ mình từ một hình tượng, thân phận và địa vị cao vời, ở trên hết thảy, để trở thành một con người rất đỗi bình thường. Khi trở thành một con người bình thường, Ngài không chọn sinh ra trong một gia đình danh giá, giàu có; bối cảnh ra đời của Ngài rất đỗi bình thường, thậm chí còn rất tồi tàn. Nếu nhìn chuyện này từ góc độ một con người bình thường, một con người có lương tâm, lý tính và nhân tính, thì hết thảy những việc mà Đức Chúa Trời làm đều xứng đáng được con người tôn kính và yêu kính. Con người nên tiếp cận chuyện này như thế nào? (Thưa, với sự tôn kính.) Một người thông thường và bình thường, một người đi theo Đức Chúa Trời, thì nên ca tụng sự đáng mến của Ngài vì sự thật rằng Đức Chúa Trời đã hạ mình từ một địa vị cao vời để trở thành một con người quá đỗi bình thường – sự khiêm nhường và ẩn giấu của Đức Chúa Trời quá đáng mến! Đây là điều mà không một con người bại hoại, hay ma quỷ, Sa-tan nào có thể làm được. Đây là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, điều tích cực.) Điều tích cực này, hiện tượng này và sự thật này cho thấy chính xác điều gì? Sự khiêm nhường và ẩn giấu của Đức Chúa Trời, sự đáng mến và thân thương của Đức Chúa Trời. Một sự thật khác là Đức Chúa Trời yêu thương con người; tình yêu thương của Đức Chúa Trời là chân thực, chứ không phải giả tạo. Tình yêu thương của Ngài không phải là lời nói suông, không phải là khẩu hiệu, cũng không phải là ấn tượng giả, mà là sự thật và có thật. Đích thân Đức Chúa Trời trở nên xác thịt và chịu đựng sự hiểu lầm của nhân loại, cũng như sự nhạo báng, phỉ báng và báng bổ của họ. Ngài hạ mình và trở thành một con người bình thường, diện mạo không cao sang, cũng không có tài năng gì đặc biệt, càng không có tri thức hay học vấn cao thâm, là vì mục đích gì? Mục đích là dùng thân phận này và diện mạo con người mà người ta dễ gần gũi nhất để tiếp cận những người Ngài đã chọn và muốn cứu rỗi. Hết thảy những việc này mà Đức Chúa Trời làm chẳng phải là cái giá Ngài trả sao? (Thưa, phải.) Cái giá lớn lao này có một con người nào làm được không? Không ai có thể làm được. Chẳng hạn như có những người phụ nữ rất thích làm đẹp, lúc nào cũng trang điểm, không trang điểm thì không ra khỏi cửa. Nếu ngươi bảo một người phụ nữ như thế để mặt mộc ra ngoài, hoặc lên sân khấu mà không trang điểm, liệu cô ta có làm được không? Không thể. Thậm chí cô ta còn chưa từng bị bẽ mặt trong chuyện này; đi ra ngoài mà không trang điểm là chuyện không thể với cô ta. Ngay cả một chút mặt mũi đó, một chút lợi ích xác thịt đó mà cô ta còn không buông bỏ được. Vậy Đức Chúa Trời thì sao? Khi Đức Chúa Trời hạ mình sinh ra ở tầng thấp nhất của xã hội như một con người bình thường nhất, Ngài từ bỏ điều gì? Ngài từ bỏ tôn nghiêm của Ngài. Tại sao Đức Chúa Trời lại có thể từ bỏ tôn nghiêm của Ngài? (Thưa, vì yêu thương con người, để cứu rỗi con người.) Đó là vì yêu thương con người và để cứu rỗi con người, nó tỏ lộ tâm tính của Đức Chúa Trời. Vậy điều này liên quan gì đến việc mất tôn nghiêm? Nên nhìn nhận chuyện này thế nào? Có người nói: “Đức Chúa Trời mất tôn nghiêm gì chứ? Ngay cả sau khi trở nên xác thịt, chẳng phải Ngài vẫn có thân phận của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải Ngài vẫn có những người đi theo và nghe Ngài giảng đạo sao? Chẳng phải Ngài vẫn đang làm công tác của chính Đức Chúa Trời sao – Ngài mất tôn nghiêm gì chứ?”. Chuyện “mất tôn nghiêm” này bao gồm một số khía cạnh. Một mặt, xuất phát điểm để Đức Chúa Trời làm hết thảy những việc này là vì con người, nhưng con người có hiểu được điều đó không? Ngay cả những người đi theo Ngài cũng không hiểu được. Có gì chứa đựng trong sự không hiểu này? Có sự hiểu lầm, hiểu sai, còn có cái nhìn kỳ lạ hoặc cái nhìn xem thường từ một số người. Đức Chúa Trời ở trong cõi thuộc linh, giữa vạn vật, và toàn thể nhân loại nằm dưới chân Ngài, nhưng giờ đây Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt, tương đương với việc Ngài sống bình đẳng với con người trong cùng một môi trường. Ngài phải đối mặt với sự nhạo báng, phỉ báng, hiểu lầm và mỉa mai của con người, cũng như những quan niệm, sự đối địch và xét đoán của họ – đây là những gì Ngài phải đối mặt. Theo các ngươi, khi phải đối mặt với những điều này, Đức Chúa Trời còn có tôn nghiêm sao? Xét theo thân phận của Đức Chúa Trời, Ngài không nên chịu đựng những chuyện này, con người không nên đối đãi với Đức Chúa Trời như vậy, và Ngài không nên chịu đựng những chuyện này; đây không phải là những chuyện Đức Chúa Trời nên chịu. Nhưng khi Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài phải chịu, Ngài phải chịu đựng hết thảy những chuyện này, không chừa chuyện gì. Nhân loại bại hoại có thể nói nhiều điều êm tai với Đức Chúa Trời trên trời, nhưng lại không xem Đức Chúa Trời nhập thể ra gì. Họ nghĩ: “Đức chúa trời trở nên xác thịt ư? Ngài quá đỗi thông thường và bình thường, không có năng lực đặc biệt cả; xem ra ngài chẳng làm được gì tôi!”. Điều gì họ cũng dám nói! Khi động đến lợi ích và thể diện của bản thân, họ dám mở miệng nói bất kỳ lời xét đoán hoặc kết tội nào. Vì thế, khi Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, mặc dù Ngài có địa vị này và hưởng thân phận này khi tiếp xúc với con người và sống cùng nhân loại bại hoại, nhưng trên thực tế, Ngài phải chịu đựng đủ dạng hạ nhục của con người đối với Ngài do thân phận của Ngài. Ngài mất hết tôn nghiêm – đây là chuyện thứ nhất mà Đức Chúa Trời phải chịu đựng, chính là Ngài phải đối mặt với hết thảy những sự không hiểu, hiểu lầm, hoài nghi, thăm dò, phản nghịch, xét đoán, lừa gạt, v.v. mà con người bại hoại làm với Ngài. Ngài phải chịu đựng hết thảy những chuyện này – đó chính là sự mất tôn nghiêm của Ngài. Còn gì nữa? Về thực chất, không có sự khác biệt giữa xác thịt nhập thể và Thần – điều này có đúng không? (Thưa, đúng.) Về thực chất, không có sự khác biệt, nhưng có một khía cạnh: xác thịt không bao giờ có thể thay thế Thần được. Nghĩa là xác thịt bị hạn chế nhiều chức năng. Chẳng hạn như Thần có thể di chuyển vượt ngoài không gian, không bị ảnh hưởng bởi thời gian, khí hậu hay các môi trường khác nhau, hiện hữu khắp mọi nơi, trong khi xác thịt phải chịu những hạn chế này. Tôn nghiêm của Đức Chúa Trời phải chịu tổn thất gì? Trong chuyện này, có những khó khăn gì? Bản thân Đức Chúa Trời có năng lực này, nhưng bởi vì Ngài bị hạn chế bởi xác thịt, nên trong giai đoạn công tác của Ngài, Ngài phải giữ vững công tác của xác thịt một cách theo nề nếp, thầm lặng và an phận cho đến khi công tác hoàn thành. Trong thời gian Đức Chúa Trời làm công tác trong xác thịt, những gì con người có thể thấy ở Đức Chúa Trời, và những gì họ có thể lĩnh hội về Ngài trong quan niệm của họ, chính là xác thịt này mà mắt họ có thể trông thấy. Vì thế, trong trí tưởng tượng và quan niệm của con người, chẳng phải sự vĩ đại, toàn năng, khôn ngoan và thậm chí thẩm quyền của Đức Chúa Trời cũng phải chịu những hạn chế nhất định sao? (Thưa, phải.) Những điều đó phải chịu những hạn chế nhất định ở mức độ rất lớn. Điều gì gây ra những hạn chế nhất định này? (Thưa, sự nhập thể.) Những hạn chế này do việc Ngài nhập thể gây ra. Có thể nói rằng việc làm con người nhập thể gây ra một dạng phiền toái cho chính Đức Chúa Trời. Đương nhiên, dùng từ “phiền toái” ở đây không hẳn chính xác, nhưng nói như vậy cũng thích hợp – có thể nói như vậy. Sự phiền toái này có ảnh hưởng nhất định đến nhận thức của con người về Đức Chúa Trời, cũng như đến sự chung sống và qua lại thực sự của con người với Đức Chúa Trời để đạt đến yêu kính và thuận phục Đức Chúa Trời không? (Thưa, có.) Nó có ảnh hưởng nhất định. Chỉ cần người ta nhìn thấy xác thịt của Đức Chúa Trời, chỉ cần người ta có qua lại với xác thịt của Đức Chúa Trời, chỉ cần người ta từng nghe xác thịt của Đức Chúa Trời phán, thì có thể là trong cả cuộc đời họ, hình tượng của Đức Chúa Trời, sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, thực chất của Đức Chúa Trời và tâm tính của Đức Chúa Trời sẽ mãi mãi dừng lại ở trong những gì họ nhận thức, thấy và biết được nơi xác thịt này. Như vậy không công bằng với Đức Chúa Trời. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Như vậy không công bằng với Đức Chúa Trời, tại sao Đức Chúa Trời vẫn làm vậy? Bởi vì chỉ có dùng cách trở nên xác thịt mới có thể đạt được kết quả tốt nhất trong việc làm tinh sạch và cứu rỗi con người– Đức Chúa Trời chọn con đường này. Đức Chúa Trời trở nên xác thịt và sống mặt đối mặt giữa mọi người, cho phép con người nghe thấy lời Ngài, nhìn thấy nhất cử nhất động của Ngài và thấy được tâm tính của Ngài, thậm chí cả tính cách, cũng như niềm vui, nỗi buồn của Ngài. Mặc dù tâm tính này và những niềm vui, nỗi buồn này có thể khiến người ta nhìn thấy thì nảy sinh quan niệm, ảnh hưởng đến nhận thức của con người về thực chất của Đức Chúa Trời, và giới hạn nhận thức của con người, nhưng Đức Chúa Trời thà bị con người hiểu lầm còn hơn, và vẫn chọn phương thức này để đạt được kết quả tốt nhất trong việc cứu rỗi con người. Vì thế, từ góc độ nhận thức của con người về gương mặt từ xưa đến nay của Đức Chúa Trời, cũng như thân phận địa vị và thực chất thực sự của Đức Chúa Trời, thì Ngài đã hy sinh tôn nghiêm của Ngài. Có thể nói như vậy, chẳng phải sao? Đó là xét từ góc độ này. Các ngươi hãy suy ngẫm cho kỹ: theo những gì con người có thể hiểu được, trong các khía cạnh khác nhau của những gì Đức Chúa Trời đã trả giá và thực hiện, có bất kỳ điều gì tương đương với những lý luận và khẩu hiệu đó của những người Pha-ri-si và kẻ địch lại Đấng Christ không? Không có. Chẳng hạn như khi người Pha-ri-si nói: “Đức chúa trời tôn quý”, thì họ hiểu sự tôn quý này như thế nào? Trong mắt họ, sự tôn quý của Đức Chúa Trời nên được hiện thực hóa như thế nào? Chính là Ngài nên cao vời. “Đức chúa trời tôn quý, đức chúa trời tôn quý đến vậy”, chẳng phải đó là đạo lý sao? (Thưa, phải.) Người ta cho rằng sự tôn quý của Đức Chúa Trời là gì? Đó là nếu Đức Chúa Trời đã đến thế gian, thì Ngài sẽ có địa vị danh giá, tri thức và tài năng hàng đầu, năng lực hàng đầu, tài hùng biện đỉnh cao và tướng mạo cũng đỉnh cao, thượng đẳng. Sự tôn quý theo họ nghĩ là gì? Đó là những gì con người có thể thấy được. Chẳng phải dạng tôn quý này là cái mà Sa-tan làm sao? (Thưa, phải.) Đức Chúa Trời không làm như vậy! Ngươi xem Đức Chúa Trời đã lựa chọn loại người nào cho dân được Đức Chúa Trời chọn, và nhìn xem giới tinh hoa ưu tú trong thế giới của Sa-tan là loại người nào. Bằng cách so sánh họ như vậy, ngươi sẽ biết loại người nào được Đức Chúa Trời cứu rỗi và loại người nào không thể được cứu rỗi. Những người đặc biệt kiêu ngạo, tự nên công chính, có ân tứ và tài năng đều khó tiếp nhận lẽ thật nhất. Lời nói của họ chứa đầy tri thức, hết sức hùng hồn, và khiến người ta sùng bái, ngưỡng mộ họ, nhưng điểm yếu chí mạng của họ là họ không thể tiếp nhận lẽ thật, thay vào đó họ chán ghét, thù hận lẽ thật, điều này quyết định rằng họ sẽ đi con đường diệt vong. Vậy thì nói lại lần nữa, trong dân được chọn của Đức Chúa Trời, không ai có bất kỳ ân tứ hay tài năng đặc biệt nào, nhưng họ có thể tiếp nhận lẽ thật, thuận phục Đức Chúa Trời, vứt bỏ danh lợi và địa vị để đi theo Đức Chúa Trời, vui lòng làm bổn phận của mình. Đây mới là những loại người được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Người ngoại đạo sùng bái ai? Hết thảy họ đều sùng bái những trí thức trình độ cao và những người có gia thế danh giá. Về ân tứ, sở trường và gia thế, chúng ta không có gì cả – chúng ta như nhau. Các ngươi nghĩ sao về điều này? Đức Chúa Trời không làm những việc như vậy – có đơn giản như thế không? Tại sao Đức Chúa Trời không an bài như vậy? Trong chuyện này có tâm ý của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời an bài người ta sinh ra trong gia đình nào và có thể học những tri thức nào là chuyện quá dễ dàng. Đức Chúa Trời có thể làm như vậy không? (Thưa, có.) Ngài thực sự có thể! Vậy tại sao Đức Chúa Trời không an bài cho chúng ta sinh ra trong những gia đình giàu có, danh giá? Đây chính là sự đáng mến của Đức Chúa Trời, đây chính là sự tỏ lộ thực chất của Đức Chúa Trời, và chỉ những ai hiểu lẽ thật mới có thể nhìn thấu chuyện này. Sau khi Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, dù con người có nhiều quan niệm đến đâu, dù những khó khăn Đức Chúa Trời gặp phải trong công tác của Ngài lớn đến đâu, dù những trở ngại Ngài phải đối mặt lớn đến đâu, dù Ngài chịu sự nhạo báng và phỉ báng đến thế nào, và dù sau khi trở nên xác thịt như vậy, bao nhiêu tôn nghiêm của Ngài bị mất đi, thì Ngài cũng có quan tâm không? Ngài không quan tâm. Vậy Ngài quan tâm đến điều gì? Nếu các ngươi có thể hiểu điểm này, thì các ngươi sẽ thực sự biết rằng Đức Chúa Trời đáng mến. Đức Chúa Trời quan tâm đến điều gì? Suy nghĩ đau đáu của Đức Chúa Trời khi trả giá và dốc bao sức lực như vậy là gì? Rốt cuộc Ngài làm vậy vì điều gì? (Thưa, để nhóm người mà Ngài đã chọn có thể nhận thức Đức Chúa Trời rõ hơn, có thể thông qua xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời mà tiếp xúc với Ngài nhiều hơn, và từ đó có được nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời.) Có nhận thức về Đức Chúa Trời – vậy thì có phải điều này vẫn khá có lợi cho Đức Chúa Trời không? Đức Chúa Trời có trả giá nhiều như vậy chỉ vì một mục tiêu này không? Có hay không? Đức Chúa Trời đã công phu làm công tác trong sáu ngàn năm chỉ để khiến con người nhận thức Ngài thôi sao? Các ngươi nói xem, sau khi Đức Chúa Trời tạo dựng con người, sau khi nhân loại xa rời Đức Chúa Trời và đi theo Sa-tan, và mỗi con người đều sống như quỷ sống – thì ai là người vui nhất? (Thưa, là Sa-tan.) Ai là nạn nhân? (Thưa, con người.) Vậy ai là người buồn nhất? (Thưa, Đức Chúa Trời.) Các ngươi có phải là người buồn nhất không? (Thưa, không.) Thực ra, không ai có thể nhìn thấu được những điều này. Không ai tự mình biết được những điều này, họ sống thành cái gì thì cứ thành cái đó thôi. Khi ngươi bảo họ thực hành lẽ thật, họ không cảm thấy nó có gì tốt. Họ một mực sống theo những quan niệm, tưởng tượng của mình, và luôn phản nghịch Đức Chúa Trời. Người buồn nhất và đau lòng nhất thực sự là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã tạo dựng nhân loại; các ngươi nói xem, Đức Chúa Trời có quan tâm đến hiện trạng sinh tồn của con người, hoặc liệu cuộc sống của họ có tốt hay không không? (Thưa, Ngài quan tâm.) Đức Chúa Trời là người quan tâm nhất, có thể con người trong cuộc không cảm thấy và bản thân họ cũng không thực sự hiểu. Sống trong thế gian này, một trăm năm trước nhân loại đã như vậy, ngày nay vẫn vậy, sinh sôi qua từng thế hệ, và sống như vậy qua từng thế hệ, có những người sống tốt, có những người sống khổ – cuộc sống đầy những thăng trầm. Thế hệ này qua thế hệ khác, con người đến, mang những trang phục khác nhau, ăn thức ăn giống nhau, chỉ là cấu trúc và chế độ xã hội thay đổi từng chút một; con người cứ vô thức mà đi đến hiện tại – họ có nhận biết được không? Họ không nhận biết được. Vậy thì ai là người nhận biết nhất? (Thưa, Đức Chúa Trời.) Đức Chúa Trời chính là người quan tâm nhất đến việc này. Một trong những điều Đức Chúa Trời ghi nhớ không quên là những con người mà Ngài đã tạo dựng sống như thế nào, tình trạng cuộc sống hiện tại của con người ra sao, liệu họ có đang sống tốt hay không, mọi người ăn gì, mặc gì, tương lai của họ sẽ ra sao, và trong lòng con người mỗi ngày nghĩ về điều gì. Nếu tất cả những gì mà mỗi ngày con người nghĩ đến đều là cái ác, đều là làm sao để thay đổi và đi ngược lại quy luật tự nhiên, làm sao để đấu với Trời, làm sao để đi theo các trào lưu tà ác của thế gian, thì Đức Chúa Trời thấy thế có cảm thấy dễ chịu không? (Thưa, không.) Vậy Đức Chúa Trời không cảm thấy dễ chịu rồi thôi à? Chẳng phải Ngài phải làm gì đó sao? (Thưa, phải.) Ngài phải tìm cách để khiến những người này sống tốt, để họ hiểu các đạo lý làm người, để cho họ biết cách thờ phượng Đức Chúa Trời, thuận phục mọi quy luật tự nhiên, thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, như vậy thì con người có thể sống với hình tượng giống con người, và Đức Chúa Trời sẽ an tâm. Cho dù Đức Chúa Trời có rời khỏi những người này, họ vẫn có thể sống bình thường trong một môi trường như vậy, mà không phải chịu sự khổ hại từ Sa-tan – đây chính là tâm ý của Đức Chúa Trời. Khi Sa-tan thấy con người đều có thể thuận phục Đức Chúa Trời và sống thể hiện ra hình tượng giống con người, nó sẽ hoàn toàn bẽ mặt và thất bại, vì thế từ bỏ hẳn những người này và không bao giờ để ý đến họ nữa. Vậy Sa-tan quan tâm đến ai? Nó chỉ quan tâm đến những người tin Đức Chúa Trời nhưng không mưu cầu lẽ thật, những người không đọc lời Đức Chúa Trời và không cầu nguyện với Đức Chúa Trời, những người làm bổn phận hời hợt, và những người luôn muốn tìm người để kết hôn và an cư lập nghiệp. Nó muốn dụ dỗ những người này, mê hoặc họ xa rời Đức Chúa Trời, không làm bổn phận và phản bội Đức Chúa Trời, cho đến khi họ bị Đức Chúa Trời đào thải – khi đó nó sẽ hết sức vui mừng. Ngươi càng không mưu cầu lẽ thật, nó càng vui mừng, ngươi càng mưu cầu danh lợi và địa vị, ngươi làm bổn phận càng qua loa chiếu lệ, nó càng vui mừng. Nếu ngươi xa rời và phản bội Đức Chúa Trời, nó càng vui mừng hơn nữa – đây chẳng phải là tâm lý của Sa-tan sao? Chẳng phải tâm lý của những kẻ địch lại Đấng Christ cũng như vậy sao? Những kẻ cùng một giuộc với Sa-tan đều có tâm lý này. Họ muốn dụ dỗ bất kỳ ai mà họ thấy không nghiêm túc tin Đức Chúa Trời, bất kỳ ai chú trọng học tri thức và mưu cầu danh lợi, địa vị, và bất kỳ ai không chuyên tâm vào việc chính đáng khi làm bổn phận. Khi họ gặp những người như thế, thì sẽ có chung tiếng nói, khi bên nhau, họ có rất nhiều điều để nói, và họ nói ra tâm tư của mình một cách thoải mái, không e ngại. Khi thấy những người này không mưu cầu lẽ thật, Đức Chúa Trời cảm thấy thế nào? Ngài cảm thấy lo lắng! Vậy thì tại sao Đức Chúa Trời lại trả hết thảy những cái giá này? Đó chính là bởi sự quan tâm, chăm sóc và lo lắng của Ngài dành cho nhân loại. Trong lòng Đức Chúa Trời mang những quan tâm, chăm sóc và lo lắng này về con người, và bởi vì Đức Chúa Trời có thái độ như vậy với con người, nên công tác của Ngài nảy sinh từng bước một. Dù trong mắt con người, Đức Chúa Trời khiêm nhường và ẩn giấu, Ngài thực sự yêu thương con người, Ngài trung tín, hay Ngài vĩ đại, thì Đức Chúa Trời đều cho rằng hết thảy những cái giá này thật xứng đáng và có thể được đền đáp. Sự đền đáp này nghĩa là gì? Có nghĩa là những điều mà Ngài lo lắng trong lòng sẽ không xảy ra lần nữa, và những người mà Ngài quan tâm trong lòng có thể sống theo tâm ý của Ngài, theo con đường và phương hướng Ngài đã dạy dỗ và chỉ dẫn cho họ, những người này sẽ không còn bị Sa-tan làm bại hoại nữa – họ sẽ không còn sống trong đau khổ, những lo lắng của Đức Chúa Trời sẽ tan biến, và Ngài sẽ an tâm. Vậy thì trong mọi việc Đức Chúa Trời đã làm – dù xuất phát điểm của Ngài là gì, dù kế hoạch của Ngài lớn hay nhỏ thế nào – thì chẳng phải hết thảy đều là những điều tích cực sao? (Thưa, phải.) Hết thảy đều là những điều tích cực. Dù cách làm công tác của Đức Chúa Trời trong mắt con người không nổi bật, dù nó có đáng đề cập hay không, dù con người có xét đoán như thế nào về cách làm công tác của Đức Chúa Trời để phán xét và cứu rỗi con người, thì xét từ hết thảy những việc Đức Chúa Trời đã làm và hết thảy những cái giá Ngài có thể trả, chẳng phải Đức Chúa Trời xứng đáng được ca tụng sao? (Thưa, phải.) Vậy thì Đức Chúa Trời vĩ đại hay nhỏ bé? (Thưa, Ngài vĩ đại.) Vô cùng vĩ đại! Không ai trong nhân loại có thể trả cái giá như vậy. Có những người nói rằng: “Trong nhân loại, tình mẫu tử là vĩ đại nhất”. Tình mẫu tử có vĩ đại bằng thế này không? Thông thường, sau khi con cái sống cuộc sống riêng độc lập, người mẹ sẽ không quản nữa, miễn là chúng có thể tự lo liệu được. Thực ra, dù có muốn, họ cũng không thể quản được. Vậy Đức Chúa Trời đối xử như thế nào với nhân loại này? Ngài đã chịu đựng trong bao nhiêu ngàn năm? Đức Chúa Trời đã chịu đựng trong sáu ngàn năm và đến tận ngày nay vẫn chưa từ bỏ. Chỉ vì một chút lo lắng và quan tâm như thế mà Đức Chúa Trời đã trả cái giá lớn như vậy. Cái giá lớn như vậy trông như thế nào trong mắt của những người Pha-ri-si và kẻ địch lại Đấng Christ? Nó bị họ kết tội, xét đoán và thậm chí báng bổ. Từ góc độ này, chẳng phải những kẻ địch lại Đấng Christ đó tà ác từ trong bản tính sao? (Thưa, phải.) Đức Chúa Trời đã làm những việc đáng ca ngợi như thế, và thực chất của Đức Chúa Trời, cũng như những gì Ngài có và là, vô cùng xứng đáng được con người ca tụng. Không những họ không ca tụng Ngài, mà còn dùng các loại lý do và lý luận để kết tội và xét đoán Ngài, thậm chí từ chối thừa nhận Ngài là Đấng Christ. Chẳng phải những người này thật đáng hận sao? (Thưa, phải.) Chẳng phải họ tà ác sao? Xét hành vi tà ác của họ, chẳng phải họ sùng bái tri thức và học vấn sao? Chẳng phải họ sùng bái quyền thế và địa vị sao? (Thưa, phải.) Càng có là chuyện tích cực, càng xứng đáng được con người ca tụng, tưởng nhớ và tuyên truyền, thì càng bị những kẻ địch lại Đấng Christ kết tội. Đây chính là một sự bộc lộ bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Phải nói rằng mức độ tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ cao hơn của những người có tâm tính bại hoại bình thường.

Giờ chúng ta tiếp tục nói về Phao-lô. Phao-lô sinh ra trong dạng gia đình gì? Ông sinh ra trong một gia đình trí thức, một gia đình có học vấn. Ông sinh ra trong một gia đình như thế, và bối cảnh ra đời của ông được xem là tốt. Ông đã tiếp nhận nền giáo dục bậc cao, theo các tiêu chuẩn hiện nay thì ông có thể là dạng người đã nghiên cứu thần học hoặc đã học đại học. Vậy thì có phải tri thức và học vấn của ông cao hơn hầu hết mọi người không? (Thưa, phải.) Xét tri thức và học vấn của Phao-lô, có phải ông sẽ dễ dàng nhận ra Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ không? (Thưa, phải.) Rất dễ dàng. Vậy tại sao ông lại không nhận ra Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ? (Thưa, bởi vì ông sùng bái tri thức và cảm thấy Đức Chúa Jêsus không có tri thức bằng ông, nên ông không nhận ra Ngài.) Nói như vậy quá đơn giản. Nếu Đức Chúa Jêsus không có tri thức bằng ông, thì ông sẽ không thể nhận ra Ngài. Nếu Ngài thực sự có tri thức, thì ông có thể nhận ra Ngài. Như thế là hơi suy diễn nửa vời. Bây giờ, chúng ta chỉ nói rằng những kẻ địch lại Đấng Christ sùng bái tri thức; nghĩa là khi họ nghe người ta nói, khi đối đãi con người, sự việc, họ có một quan điểm khiến người khác thấy ra họ sùng bái tri thức và học vấn. Chẳng hạn như nếu lời ngươi rất lô-gic, ở trình độ cao, khéo léo, khó dò lường và trừu tượng, thì đây đích thị là những gì họ thích. Trừu tượng và phù hợp với lô-gic, triết học, thậm chí là phù hợp với một dạng học vấn nào đó – đây chính xác là những gì họ muốn. Đức Chúa Jêsus là sự nhập thể của Đức Chúa Trời, và hết thảy những gì Ngài phán đều là lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Vậy khi người có tri thức và học vấn nhìn vào những lời và lẽ thật này, họ đánh giá như thế nào? “Những lời ngài phán quá thô tục và nông cạn, toàn là những chuyện nhỏ nhặt trong việc tin đức chúa trời, không cao thâm, cũng không khó dò lường. Chẳng có lẽ mầu nhiệm gì cả. Thế mà ngài lại bảo là lẽ thật. Lẽ thật gì mà cao đến đó thôi ư? Những lời này tôi cũng nói được!”. Chẳng phải kẻ địch lại Đấng Christ cho là vậy sao? (Thưa, phải.) Họ cân nhắc như vậy, nghĩ: “Để tôi xem rốt cuộc những điều ngài đang phán cao hơn hay là thấp hơn học vấn của tôi”. Vừa nghe xong, họ liền thách thức: “Nghe đi nghe lại, tôi thấy ngài nói như học sinh tiểu học. Tôi là sinh viên đại học, nên ngài không giỏi bằng tôi!”. Rồi họ bắt lỗi trong lời Đức Chúa Trời, nói: “Xem ra ngài không hiểu ngữ pháp, và thỉnh thoảng những lời ngài dùng để phán không phù hợp. Ngài chẳng giống đức chúa trời”. Họ nhìn vào bề ngoài của Ngài để xem Ngài có giống Đức Chúa Trời hay không; họ không nghe nội dung lời Ngài, họ không nghe xem liệu những gì được bày tỏ có phải là lẽ thật hay không, hay liệu những lời đó có đến từ Đức Chúa Trời hay không. Đây chẳng phải là không có hiểu biết thuộc linh sao? (Thưa, phải.) Cho nên, những kẻ địch lại Đấng Christ còn có một đặc trưng nữa, đó là họ không có hiểu biết thuộc linh. Bởi vì họ chú trọng tri thức và học vấn, nên họ không hiểu lẽ thật. Họ sẽ không bao giờ hiểu được lẽ thật. Những người này đã được tiền định là loại người không có hiểu biết thuộc linh. Họ dùng tri thức của mình mà đánh giá từng câu Đức Chúa Trời phán. Họ có thể hiểu được lẽ thật không? Họ có thể biết rằng đây là lẽ thật không? Cuối cùng, họ có thể đi đến kết luận và nói rằng hết thảy những lời này mà Đức Chúa Trời phán là lẽ thật không? Họ có thể nghe ra được điều này không? Họ nghe không ra. Vậy trong mắt họ nhìn nhận như thế nào về Đức Chúa Trời nhập thể? Họ nghĩ: “Tôi nhìn kiểu gì cũng thấy ngài vẫn là con người. Tôi nhìn kiểu gì cũng không sao thấy được phẩm tính của đức chúa trời. Tôi nghe kiểu gì cũng không thấy được những lời nào của Ngài là hợp lẽ thật và những lời nào là lẽ thật”. Vì thế, trong sâu thẳm nội tâm, họ nghĩ: “Nếu ngài có gì đó mới mẻ, và tôi có thể có được chút lý luận và thu được chút vốn liếng từ ngài, thì tạm thời tôi sẽ đi theo ngài xem kết quả thế nào”. Nhưng trong sâu thẳm nội tâm, họ có thể tiếp nhận Đức Chúa Jêsus không? (Thưa, không.) Họ tuyệt đối sẽ không tiếp nhận Ngài. Tại sao họ không tiếp nhận Ngài? Nguyên nhân là gì? Đó là vì họ quá ưa thích tri thức. Sự ưa thích này của họ và tri thức họ được trang bị cũng như học được, đã làm bịt đôi mắt và che kín lòng họ, khiến họ không thể thấy được hết thảy những việc Đức Chúa Trời đã làm. Cho dù những điều Đức Chúa Trời phán rõ ràng là lẽ thật, cho dù công tác Ngài làm rõ ràng bày tỏ thân phận và thực chất của Ngài, họ cũng không thể thấy được. Tại sao họ không thể thấy được? Bởi vì tri thức và học vấn của họ khiến họ tràn đầy quan niệm, tưởng tượng và quy định về Đức Chúa Trời. Cuối cùng, dù có nghe giảng hay tiếp xúc với Đức Chúa Trời như thế nào đi nữa, họ cũng không hiểu được những điều Đức Chúa Trời phán, càng không thể tiếp nhận rằng những gì mà con người này phán có thể thay đổi con người, là lẽ thật, đường đi và sự sống. Đây là điều họ không bao giờ có thể tiếp nhận. Họ không bao giờ có thể tiếp nhận, như vậy là xác định rằng họ không thể được cứu rỗi, giống như Phao-lô. Phao-lô có thừa nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ không? Ngay cả đến cuối cùng, ông cũng không thừa nhận. Có những người nói: “Chẳng phải ông đã kêu cầu Chúa khi bị đánh ngã trên đường đến Đa-mách sao? Ông phải thừa nhận rồi chứ. Làm sao có thể nói ông không thừa nhận được?”. Có một sự thật chứng tỏ rằng Phao-lô chưa bao giờ thừa nhận Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Cứu Rỗi của ông. Đó là ngay cả sau khi bị đánh ngã, ông vẫn mưu cầu trở thành Đấng Christ. Đấng Christ có phải là Đấng mà con người có thể tùy tiện trở thành được không? Đấng Christ chính là hóa thân của Đức Chúa Trời. Ngài là Đức Chúa Trời và không ai có thể trở thành Ngài chỉ vì muốn được. Ai chẳng muốn trở thành Đấng Christ, nhưng đó có phải là việc con người có thể làm được không? Đây không phải là chuyện con người muốn hay không. Thậm chí Phao-lô còn muốn trở thành Đấng Christ. Từ sự mưu cầu của Phao-lô, liệu ông có thể nhận định Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ và Chúa không? (Thưa, ông không thể.) Vậy thì ông định vị thân phận và địa vị của Đức Chúa Jêsus thế nào? Là Con của Đức Chúa Trời. Con của Đức Chúa Trời là gì? Đó là: “Ngài không phải là đức chúa trời, ngài là con của đức chúa trời, ngài nhỏ hơn đức chúa trời. Ngài cũng giống như chúng tôi; chúng tôi là con của đức chúa trời, và ngài cũng là con của đức chúa trời, nhưng đức chúa trời ban cho ngài một sự ủy thác khác và ngài làm công tác khác. Nếu đức chúa trời cho tôi công tác này, tôi cũng có thể làm được và gánh vác được”. Chẳng phải như thế nghĩa là Phao-lô không thừa nhận sự thật rằng Đức Chúa Jêsus Christ là Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Ông cho rằng đức chúa trời mà ông tin ở trên trời, rằng Đấng Christ này không phải là đức chúa trời, và thân phận, địa vị của đức chúa trời không liên quan gì đến Đấng Christ. Nhận thức và thái độ của ông đối với Đức Chúa Jêsus hình thành như thế nào? Chúng được suy ra từ tri thức và tưởng tượng của ông. Ông suy ra như thế nào? Ông thấy trong câu nào? Đức Chúa Jêsus phán: “Cha Ta như thế này, thế kia”, rồi “Ta làm điều này, điều kia cho Cha Ta trên trời”. Ông nghe thấy vậy thì cho rằng: “Ngài cũng nói đức chúa trời là đức chúa trời à? Ngài cũng nói đức chúa trời trên trời là cha à? Nếu vậy, ngài là con của đức chúa trời à?”. Đây chẳng phải là một sự tưởng tượng của trí óc con người sao? Đây là một kết luận rút ra bởi những người tri thức: “Nếu ngài gọi đức chúa trời trên trời là cha, và chúng tôi cũng gọi ngài là cha, thì chúng ta là anh em. Ngài là con trưởng, chúng tôi là con thứ, và đức chúa trời trên trời là đức chúa trời chung của chúng ta. Vậy thì ngài không phải là đức chúa trời, và chúng ta đều ngang hàng. Vì thế, đức chúa jêsus không phải là đấng cuối cùng quyết định ai được ban thưởng, ai bị trừng phạt và kết cục của người ta là gì – không phải là đức chúa jêsus christ, mà là đức chúa trời trên trời”. Những kết luận và quan điểm ngớ ngẩn này của Phao-lô đều do ông dùng trí óc để phán đoán và phân tích sau khi nghiên cứu thần học và tri thức. Kết quả chính là như vậy.

Phao-lô xem tri thức như cọng rơm cứu mạng, như vốn liếng, và hơn nữa như mục tiêu mưu cầu của ông. Nếu Phao-lô không sùng bái tri thức, mà có thể buông bỏ tri thức ông học được trước đây, xem Đức Chúa Jêsus là Chúa, là Đấng mà mình có thể đi theo, là Đấng có thể bày tỏ lẽ thật, và xem lời của Đức Chúa Jêsus là lẽ thật để tuân thủ và thực hành – thì kết quả đã khác. Phi-e-rơ có thể phủ nhận Chúa ba lần, một mặt là vì ông sợ, mặt khác là vì ông thấy Đức Chúa Jêsus là một con người bình thường bị bắt bớ và chịu khổ. Trong lòng ông có sự yếu đuối – đó không phải là điểm yếu chí mạng. Việc ông có thể nhất thời phủ nhận Ngài cũng không phải là điểm yếu chí mạng. Đây không phải là bằng chứng để cuối cùng có thể quyết định kết cục của người ta. Điều gì cuối cùng có thể quyết định kết cục của người ta? Đó là liệu họ có xem lời Đức Chúa Trời là lời Đức Chúa Trời hay không, liệu họ có thể tiếp nhận, tuân thủ và thực hành lời Đức Chúa Trời như lẽ thật hay không. Phao-lô và Phi-e-rơ là hai ví dụ hoàn toàn khác biệt. Phi-e-rơ từng yếu đuối, từng phủ nhận Chúa và từng hoài nghi Chúa, nhưng kết quả cuối cùng là Phi-e-rơ được hoàn thiện. Còn Phao-lô đã làm việc cho Chúa và chịu khổ trong nhiều năm, đúng lý ra, ông nên có thể nhận được mão triều thiên, nhưng tại sao cuối cùng ông lại rơi vào kết cục bị Đức Chúa Trời trừng phạt? Tại sao kết cục của ông và của Phi-e-rơ lại khác nhau? Điều này phụ thuộc vào thực chất bản tính của người ta và con đường họ mưu cầu. Thực chất bản tính của Phao-lô là gì? Ít nhất cũng có yếu tố tà ác. Ông điên cuồng mưu cầu tri thức và địa vị, ông mưu cầu phần thưởng và mão triều thiên, và ông bôn ba, làm việc và trả giá vì mão triều thiên đó, mà không hề mưu cầu lẽ thật. Hơn nữa, trong quá trình làm việc, ông không bao giờ làm chứng cho lời Đức Chúa Jêsus, cũng không bao giờ làm chứng rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, là Đức Chúa Trời hoặc là Đức Chúa Trời nhập thể, rằng Đức Chúa Jêsus đại diện cho Đức Chúa Trời, và hết thảy những lời Ngài phán đều là lời do Đức Chúa Trời phán. Những điều này, Phao-lô đều không nhận thức được. Vậy thì Phao-lô đi con đường nào? Ông ngoan cố mưu cầu tri thức và thần học, chống đối lẽ thật, không chịu tiếp nhận lẽ thật, và dùng ân tứ, tri thức của mình để làm công tác nhằm quản lý, duy trì và ổn định địa vị của mình. Kết cục cuối cùng của ông là gì? Có thể từ bên ngoài ngươi không thể thấy được trước khi chết, ông đã chịu sự trừng phạt nào, hoặc ông có biểu hiện bất thường nào hay không, nhưng kết cục cuối cùng của ông khác với của Phi-e-rơ. Cái “khác” này dựa trên điều gì? Một là thực chất bản tính của người ta, hai là con đường họ đi. Về thái độ và quan điểm của Phao-lô đối với Đức Chúa Jêsus, sự chống đối của ông khác với của người bình thường như thế nào? Còn nữa, sự khác biệt giữa việc Phao-lô phủ nhận và chối bỏ Chúa, so với việc Phi-e-rơ phủ nhận danh Đức Chúa Trời và ba lần chối Chúa do yếu đuối và sợ hãi là gì? Phao-lô đã dùng tri thức, học vấn và ân tứ của ông để làm công tác. Ông không hề thực hành lẽ thật, cũng không đi theo con đường của Đức Chúa Trời. Vì thế, các ngươi có thể thấy được sự yếu đuối của ông trong thời gian ông bôn ba và làm việc, hoặc trong thư tín của ông không? Không thể, phải không? Ông một mực dạy bảo người ta nên làm thế nào, một mực khuyến khích người ta mưu cầu việc nhận được phần thưởng, mão triều thiên và đích đến tốt đẹp. Ông không có sự trải nghiệm, nhận thức hoặc thể nghiệm việc thực hành lẽ thật. Nhưng Phi-e-rơ lại hoạt động rất lặng lẽ. Ông không có những lý luận cao thâm hay thư tín lừng danh. Ông có một chút nhận thức và thực hành lẽ thật thực tế. Mặc dù trong cuộc đời, ông có yếu đuối và bại hoại, nhưng sau nhiều sự thử luyện, mối quan hệ ông thiết lập với Đức Chúa Trời chính là mối quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời, hoàn toàn khác với Phao-lô. Mặc dù Phao-lô làm việc, nhưng những việc ông làm chẳng có gì liên quan đến Đức Chúa Trời cả. Ông không làm chứng về lời Đức Chúa Trời, công tác, tình yêu thương hay sự cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, càng không làm chứng về tâm ý của Đức Chúa Trời hay yêu cầu của Ngài đối với con người. Ông còn thường xuyên bảo mọi người rằng Đức Chúa Jêsus là Con của Đức Chúa Trời, để rồi cuối cùng khiến mọi người xem Đức Chúa Trời là Ba Ngôi. Thuật ngữ “Ba Ngôi” bắt nguồn từ Phao-lô. Nếu không có cái “Cha và Con”, liệu có thể có “Ba Ngôi” không? Không thể. Tưởng tượng của con người quá “phong phú”. Nếu ngươi không thể hiểu được sự nhập thể của Đức Chúa Trời, thì cũng đừng mù quáng mà quy định hay phán quyết. Hãy cứ lắng nghe những lời của Đức Chúa Jêsus và xem Ngài là Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời xuất hiện trong xác thịt và trở thành một con người. Tiếp cận như thế thì khách quan hơn.

Khi lần đầu tiên có lời chứng được đưa ra về việc Đức Chúa Trời nhập thể là nữ trong giai đoạn công tác này của Ngài, nhiều người không tiếp nhận nổi và bị bế tắc ở chỗ này. Họ cảm thấy rằng: “Những lời đang được phán đều là lẽ thật, công tác đang được thực hiện chính là công tác phán xét bởi lời – những điều này có vẻ như là công tác của Đức Chúa Trời, và mình có thể thừa nhận rằng người này là Đức Chúa Trời nhập thể – chỉ là giới tính này không dễ tiếp nhận thôi”. Bởi vì những lời này đều là lẽ thật, nên họ vẫn miễn cưỡng tiếp nhận Ngài, và trong lòng nghĩ: “Đầu tiên cứ đi theo đã, để xem Ngài có thực sự là Đức Chúa Trời hay không” – nhiều người đi theo kiểu như vậy. Đức Chúa Trời tạo dựng nhân loại có nam có nữ, và sự nhập thể của Đức Chúa Trời cũng không ngoại lệ, là nam hoặc là nữ. Bỗng một hôm có người hỏi Ta: “Về chuyện lần này sự nhập thể là nữ thì nên nhận thức như thế nào?”. Ta đáp: “Ồ, vậy ngươi nhìn nhận như thế nào? Đức Chúa Trời không hành động theo quan niệm của con người: nếu ngươi chắc chắn việc này do Đức Chúa Trời làm, thì không nên nghiên cứu những việc Đức Chúa Trời làm, nếu không hiểu thì ngươi nên chờ đợi. Nếu ngươi tìm kiếm mà vẫn không có kết quả, thì cứ xem liệu ngươi có thể thuận phục hay không. Nếu ngươi có thể thuận phục thì ngươi có lý tính, nhưng nếu ngươi vì việc chuyện này mà bế tắc và phủ nhận hết thảy mọi việc Đức Chúa Trời đã làm, thì ngươi không có lý tính, và không phải là người thực sự tin Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời làm mười việc mà ngươi xem là đúng đắn và phù hợp với quan niệm của ngươi, nhưng nếu có một việc không phù hợp với quan niệm của ngươi, ngươi lại hất đổ cả mười việc – đây là thứ gì vậy? Đây chẳng phải là ma quỷ sao?”. Khi Ta thông công như vậy, họ nói: “Phải, vậy thì bây giờ con nên tiếp nhận”. Sau khi Ta thông công xong, họ liền nhận thức được và tiếp nhận – chẳng phải tố chất của họ cũng khá tốt sao? Cứ cho là vậy đi. Họ nói tiếp: “Đức chúa trời đã tạo dựng người nam và người nữ, và lần đầu tiên đức chúa trời trở nên xác thịt, ngài là người nam, là con trai của đức chúa trời. Lần này, ngài trở nên xác thịt là người nữ – chẳng phải đó sẽ là con gái của đức chúa trời sao? Xin cho con biết cách hiểu của con có đúng hay không. Khi có con, người ta muốn có nam nữ song toàn – có phải đức chúa trời cũng muốn có nam nữ song toàn không?”. Ta nên trả lời họ và giải thích về chuyện này ra sao đây? Chẳng phải nên làm căng về chuyện này sao? Chẳng phải cần chỉnh đốn sao? Những gì họ đang nói có vấn đề không? Có vấn đề. Họ nói: “Đức chúa trời có con trai là đức chúa Jêsus, và lần này sự nhập thể là người nữ, nếu vậy thì đó là con gái của ngài. Vậy là đức chúa trời có con trai và con gái, ngài có cả hai con, nên không cần đức thánh linh. Có đức chúa cha, đức chúa con trai và đức chúa con gái, Ba Ngôi này – thật phù hợp, thật vẻ vang quá! Không có con gái sẽ không trọn vẹn”. Nghe xong điều đó, ngươi cảm thấy thế nào? Không biết nên cười hay nên khóc nữa. Nói Ta nghe, đây chẳng phải là một trò đùa sao? (Thưa, phải.) Cách hiểu của họ về sự nhập thể có khác gì của Phao-lô không? (Thưa, không.) Không khác gì cả. Về những chuyện trong việc nhận thức Đức Chúa Trời, nhất là chuyện về thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời, mà người ta luôn dựa vào sự khôn lanh, tưởng tượng và quan niệm của mình để suy đoán và suy luận, và áp dụng các quan điểm nhất định vào đó, thì sẽ phiền phức, họ sẽ phạm sai lầm và nảy sinh vấn đề. Vậy thì cách phù hợp nhất để tiếp cận chuyện này là gì? Có những chuyện thâm sâu và trừu tượng hơn, con người không dễ gì hiểu được, và không dễ gì nhìn thấu thực chất cũng như căn nguyên của vấn đề này rốt cuộc là gì. Nếu những điều này không liên quan đến lẽ thật hoặc không ảnh hưởng đến việc mưu cầu lẽ thật của ngươi, thì ngươi nên làm gì? Đầu tiên, nên buông bỏ. Nghiên cứu có ích gì không? Đó không phải là chuyện của ngươi để mà nghiên cứu. Ngươi chỉ cần chú trọng lối vào sự sống và có thể làm tốt bổn phận của mình là được rồi. Đến một ngày nào đó, ngươi sẽ tự nhiên hiểu được những chuyện này. Có những người nói rằng họ không thể buông bỏ và muốn nghiên cứu về chúng, như vậy là phiền phức rồi. Ngươi tuyệt đối không được nghiên cứu. Chuyện liên quan đến thân phận của Đức Chúa Trời, thực chất của Đức Chúa Trời và địa vị của Đức Chúa Trời thì con người tuyệt đối không được có thái độ nghiên cứu. Nếu ngươi cứ một mực nghiên cứu thì sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trong trường hợp nghiêm trọng, ngươi sẽ báng bổ Đức Chúa Trời. Con người nên tiếp cận những chuyện liên quan đến thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời như thế nào? Đơn giản thôi, và dù ngươi có không rõ lắm về chuyện này, thì cũng có một điều chắc chắn là: Ngài có thể đại diện cho Đức Chúa Trời, Ngài là sự xuất hiện của Đức Chúa Trời, những gì Ngài bày tỏ là lẽ thật, những gì con người nên tiếp nhận là lẽ thật, và như vậy là đủ để đạt được lẽ thật.

Nhìn vào thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ, thì họ sùng bái thứ gì nhất? Chính là những cái gọi là lý luận thần học cao siêu, sáo rỗng và trừu tượng. Đối với họ, những lý luận này vô cùng quý báu. Họ vô cùng trân quý và yêu quý những thứ này, và họ nghĩ đủ trăm phương ngàn kế để có được những thứ này, nhằm nổi bật giữa đám đông. Họ ghi khắc những thứ này trong lòng và xem chúng như vốn liếng, như những bậc thang để hiện thực hóa mục tiêu cuộc đời của chính mình, mà không biết rằng những thứ này căn bản không phải là lẽ thật. Nhưng họ vẫn thích trang bị cho mình những lý luận thần học này, chúng đi vào họ trước và nắm luôn vị thế chủ đạo, rồi họ xem chúng là lẽ thật. Họ lợi dụng tri thức thần học này để nghiên cứu lời Đức Chúa Trời và những lẽ thật Ngài bày tỏ. Khi họ thấy lời Đức Chúa Trời và những lẽ thật Ngài bày tỏ không phù hợp với các lý luận thần học mà họ tôn sùng, thì họ không kìm nổi việc phán xét và kết tội lời Đức Chúa Trời. Trong lòng, họ không cảm thấy sợ, tin rằng họ có cơ sở Kinh Thánh để làm vậy. Có những người thậm chí còn kết tội lời Đức Chúa Trời rằng: “Lời Đức Chúa Trời quá nhàm chán. Có những lời không lô-gic, có những lời không đúng ngữ pháp, thậm chí một số từ Ngài dùng còn chưa thỏa đáng cho lắm”. Họ chỉ sống trong trí óc và tâm tư của mình, dùng tri thức và học vấn mà họ nắm vững để phân tích và nghiên cứu lời Đức Chúa Trời. Thậm chí rất nhiều người còn sử dụng những tưởng tượng và phán đoán của mình để tìm trong lời Đức Chúa Trời cách Đức Chúa Trời định nghĩa một số người hoặc Ngài quy định đích đến nào cho một số người, rồi dựa vào những gì Kinh Thánh nói mà phân tích và kết tội những điều đó, từ đó bắt đầu phủ nhận lời Đức Chúa Trời. Khi họ phân tích và kết tội lời Đức Chúa Trời, một chuyện đáng sợ xảy ra. Các ngươi có biết đó là gì không? Đó là khi con người phân tích và nghiên cứu Đức Chúa Trời, và khi tâm lý kết tội nảy sinh trong con người, thì Đức Thánh Linh sẽ ghét bỏ những người này và không làm công tác nơi họ nữa. Đây chẳng phải là một chuyện đáng sợ sao? Và các ngươi biết khi Đức Thánh Linh không làm công tác thì báo hiệu điều gì rồi. Khi Đức Thánh Linh không làm công tác thì Ngài tránh xa những người này, tương đương với việc họ bị vứt bỏ, đồng nghĩa với Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ. Chúng ta có thể phân tích nguyên nhân. Những những lý luận thần học này mà họ vũ trang cho mình trong nửa đời người rốt cuộc đến từ đâu? Chúng đại diện cho ai? Trong lòng họ không rõ chuyện này. Thực ra, những thứ này không hề đến từ Đức Chúa Trời, cũng không phải là sự lĩnh hội thuần khiết của con người. Chúng đều là những diễn giải sai lầm của con người, và như thế có thể nói rằng chúng là từ Sa-tan và hoàn toàn đại diện cho Sa-tan. Tri thức thần học này còn bao gồm gì nữa? Ngoài những diễn giải sai lầm về Kinh Thánh, nó còn bao gồm những lô-gic và suy luận của con người, những quan niệm và tưởng tượng của con người, cũng như những kinh nghiệm, đạo đức, luân lý và tư tưởng triết học của con người. Khi họ dùng những thứ này để đánh giá những lời Đức Chúa Trời phán và đánh giá công tác của Ngài, thì rõ ràng, họ đang đứng về phía Sa-tan mà đối đãi Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Chúa Trời giấu mặt khỏi họ, và Đức Thánh Linh rời bỏ họ. Các ngươi đã bao giờ thể nghiệm và lĩnh hội chuyện này chưa? Trước đây, có những người đã nói về trải nghiệm của họ trong khía cạnh này rằng: “Khi mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời, tôi rất say mê nghiên cứu về Đức Chúa Trời; tôi nghiên cứu những lời Ngài phán, cách dùng từ của Ngài, cách Ngài đối đãi con người, Ngài tốt với ai, và Ngài thích hoặc ghét loại người nào. Kết quả là sau khi nghiên cứu tới nghiên cứu lui, lòng tôi trở nên tăm tối, tôi không thể cảm nhận được Đức Chúa Trời khi cầu nguyện, trạng thái tự do và giải phóng trong lòng tôi biến mất, và tôi không còn cảm thấy bình an hay vui vẻ nữa. Nó giống như có một hòn đá đè nặng trong lòng tôi”. Các ngươi đã bao giờ có dạng thể nghiệm và lĩnh hội như thế chưa? (Thưa, rồi.) Những người không ngừng nghiên cứu về Đức Chúa Trời thì không có được bất kỳ sự khai sáng hay soi sáng nào từ Đức Thánh Linh. Dù có đọc lời Đức Chúa Trời, họ không có được bất kỳ sự sáng nào. Những kẻ địch lại Đấng Christ rất giỏi nghiên cứu Đức Chúa Trời, nhưng lại không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Trong hội thánh, họ không có bất kỳ mối quan hệ bình thường nào giữa người với người, luôn đứng ở địa vị cao mà dạy dỗ người ta. Họ thường khoe khoang về tri thức của mình và xem thường các anh chị em bình thường. Nếu một kẻ địch lại Đấng Christ tiếp xúc với ngươi và thấy ngươi không có học thức lắm, thì họ sẽ không thèm để ý đến ngươi. Cho dù ngươi có đáp ứng các tiêu chí làm lãnh đạo hội thánh hay trưởng nhóm, họ cũng sẽ không dùng ngươi. Họ dùng loại người nào? Họ thấy ai khi ở trong xã hội mà có địa vị và quyền thế, lại có tri thức và ân tứ, có thể nói năng hùng hồn – thì họ dán mắt vào những người đó và sẽ dùng những người đó. Nếu để cho họ chọn người và dùng người, họ sẽ chỉ lựa chọn những người giỏi nói năng, có học vị cao, có tri thức và có địa vị trong xã hội. Những người như thế, dù không mưu cầu lẽ thật hoặc không thể làm bất kỳ công tác nào, họ vẫn thích. Nó cho thấy điều gì? Họ cùng một hạng như nhau. Rốt cuộc thì ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Có những kẻ địch lại Đấng Christ hiểu một số câu chữ và đạo lý, rồi nghĩ trăm phương ngàn kế để tập luyện giảng đạo. Họ tập luyện đến mức độ nào? Đến mức độ họ có thể xuất khẩu thành văn, lên sân khấu nói hàng giờ liền một lúc mà không cần đọc ghi chú. Họ cho rằng đây là làm công tác, đây là thời khắc tỏa sáng nhất của họ, là lúc họ có thể thể hiện bản thân tốt nhất. Họ nắm bắt những cơ hội như thế và không bao giờ bỏ qua. Tuy nhiên, về những chủ đề mà Đức Chúa Trời thường thông công, những điều liên quan đến nhân tính bình thường, đến lương tâm và lý trí của con người, đến những điều liên quan mật thiết nhất đến nhân tính trong đời sống thực tế của con người bình thường – mặc dù đối với mọi người, những điều này nghe có vẻ là những chi tiết nhỏ nhặt và vụn vặt, nhưng thực ra lại liên quan mật thiết đến việc bước vào thực tế lẽ thật. Kẻ địch lại Đấng Christ nhìn nhận như thế nào về những điều này? Họ xem thường chúng trong lòng, không những lời này ra gì, trong lòng họ kết tội những điều này, cảm thấy không có ý nghĩa gì. Dù ngươi có thông công thế nào về thực tế lẽ thật, chẳng hạn như việc làm người trung thực, người trung thành, người thật thà và an phận, dù ngươi có thông công bao nhiêu về những điều này, thì quan điểm của họ vẫn không thay đổi. Họ muốn là người có thể nói năng hùng hồn, là người trông tràn đầy tài hoa và có tài năng đặc biệt, hoặc thậm chí là người có dị năng, như nói tiếng lạ, đọc siêu nhanh, trí nhớ siêu phàm, v.v. Nếu họ cũng có những khả năng này, thì trong lòng họ sẽ ngập tràn niềm vui. Trong sâu thẳm nội tâm, họ mưu cầu và tôn sùng những thứ này. Chẳng hạn như Ta vừa phán gì đó xong, một lúc sau lại quên. Khi Ta hỏi tất cả mọi người, cũng không ai nhớ. Ngươi thấy không, trí nhớ của chúng ta đều gần như nhau, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Nhưng khi kẻ địch lại Đấng Christ thấy thế, họ nói: “Trí nhớ của Ngài cũng không tốt! Nhìn người thuộc linh nọ kia đi; họ có thể đọc siêu nhanh và có trí nhớ siêu phàm. Ngài là đấng christ – ngài có thể đọc lướt bao nhiêu dòng?”. Ta nói: “Ta không có dị năng đấy. Đôi khi đọc xong một câu, Ta còn chẳng nhớ được, phải đọc lại”. Họ nói: “Chẳng phải đức chúa trời phải toàn năng sao?”. Đây chính là cách họ bắt đầu hình thành quan niệm. Trong sâu thẳm nội tâm, họ nhìn nhận như thế nào về Đức Chúa Trời nhập thể? “Đức chúa trời nhập thể chỉ là một con người hoàn toàn thông thường và hoàn toàn bình thường. Trí nhớ của ngài không tốt, thể tạng cũng không có gì đặc biệt; mọi mặt, chẳng có gì giống đức chúa trời”. Vì thế, khi nghe người ta giảng về việc yêu kính Đức Chúa Trời, họ nghĩ: “Nếu người thuộc linh nọ đó hoặc người nổi tiếng kia là đức chúa trời, thì tôi còn có thể tiếp nhận và yêu kính được. Chứ nếu đấng christ hiện tại này mà là đức chúa trời, thì tôi không thể yêu kính ngài được, bởi vì ngài chẳng có vẻ gì giống đức chúa trời”. Trong lòng họ, để là đức chúa trời thì phải có vẻ giống đức chúa trời; ngài phải nói năng, hành động hoặc ngoại hình giống đức chúa trời, để khi thấy ngài, người ta không có bất kỳ quan niệm nào – họ suy nghĩ như vậy. Tại sao? Họ cảm thấy: “Trước hết, ngài không có dị năng. Thứ hai, ngài không có tài năng đặc biệt. Thứ ba, ngài không có ân tứ của những người làm việc lớn trên thế gian. Ngài chẳng có gì đặc biệt trên mọi phương diện, vậy lấy cái gì mà bắt tôi phải nghe Ngài? Lấy cái gì mà bắt tôi phải tôn trọng ngài? Lấy cái gì mà bắt tôi phải thuận phục ngài? Tôi không thể thuận phục được”. Đây là vấn đề gì? Đây là tâm tính gì? Cho dù họ không hiểu lẽ thật đi nữa, thì vẫn nên có lương tâm và lý trí của người bình thường chứ. Con người có quan niệm thì Đức Chúa Trời không định tội, nhưng khi con người có những quan niệm rồi mà có thể tùy ý chống đối và kết tội Đức Chúa Trời, thì như vậy sẽ dễ xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Việc những kẻ địch lại Đấng Christ có thể tùy ý kết tội và chống đối Đức Chúa Trời là do bản tính tà ác của họ mà ra. Sau khi học được tri thức, họ có những tưởng tượng phong phú hơn, rộng hơn và toàn diện hơn về Đức Chúa Trời, về sự cao cả, thực chất, thẩm quyền và sự toàn năng của Ngài. Rồi họ cố gắng đối chiếu những tưởng tượng này với Đức Chúa Trời mà họ có thể nhìn thấy và tiếp xúc. Liệu họ có thể đối chiếu được không? Họ không bao giờ có thể đối cho khớp được. Càng nghiên cứu về Đức Chúa Trời, trong lòng họ càng phủ nhận Đức Chúa Trời, và có thể kết tội, chống đối Đức Chúa Trời; đó là điều tất nhiên.

Từ những gì các ngươi thấy trong Kinh Thánh và hết thảy những lời phán hiện tại của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời có đề xướng về ân tứ, học vấn và tri thức không? (Thưa, không.) Trái lại, Đức Chúa Trời mổ xẻ tri thức và học vấn của con người. Đức Chúa Trời định nghĩa ân tứ như thế nào? Ngài định nghĩa dị năng và tài năng đặc biệt như thế nào? Các ngươi nên hiểu rằng những ân tứ, dị năng và tài năng đặc biệt hoàn toàn không đại diện cho sự sống. Không đại diện cho sự sống nghĩa là gì? Có nghĩa là những thứ này không phải là kết quả của việc con người có được lẽ thật. Những thứ này rốt cuộc đến từ đâu? Chúng có đến từ Đức Chúa Trời không? Không, Đức Chúa Trời không truyền thụ tri thức hay học vấn cho con người, và Ngài càng không ban nhiều ân tứ hơn cho con người để họ có thể mưu cầu lẽ thật. Đức Chúa Trời không làm như thế. Ta nói như vậy là các ngươi hiểu rồi, phải không? Vậy thì sự tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ biểu hiện ở chỗ nào? Họ nhìn nhận như thế nào về ân tứ, học vấn và tri thức? Họ xem trọng, chạy theo và thậm chí muốn đạt được những thứ này, nhất là ân tứ và dị năng. Nếu ngươi bảo một kẻ địch lại Đấng Christ rằng: “Nếu có dị năng, anh sẽ thu hút các tà linh”, họ sẽ nói: “Tôi không sợ!”. Ngươi đáp: “Vậy thì sau này anh sẽ không có hy vọng được cứu rỗi, anh sẽ bị ném xuống tầng địa ngục thứ mười tám, xuống hồ lửa và diêm sinh”, họ vẫn sẽ nói: “Tôi không sợ!”. Nếu ngươi có thể khiến họ nói mười thứ tiếng lạ và thể hiện bản thân để khiến người khác xem trọng họ, thì họ liền đồng ý và sẵn sàng. Đức Chúa Trời phán rất bình thường và làm công tác rất thực tế trong nhân tính bình thường, và họ không tiếp nhận phương thức, hình thức và nội dung của công tác này – họ khinh thường. Con người nên phân định như thế nào về những việc này? Chẳng hạn như có những người có thể nói nhiều thứ tiếng lạ khác nhau. Ngươi có thể tiếp nhận sự thật này không? Ngươi nghĩ nó bình thường hay kỳ lạ? (Thưa, kỳ lạ.) Cho nên, trong phạm vi lý tính của nhân tính bình thường, thì điều này không thể tiếp nhận được. Có người nhớ hết mọi thứ, chẳng hạn như màu sắc, hình dáng, khuôn mặt và tên gọi, sau khi đọc xong có thể nhớ lại hàng trăm trang sách, kể lại từ đầu đến cuối. Sau khi tiếp xúc với người như thế, chẳng phải ngươi sẽ cảm giác như gặp một thể loại kỳ dị sao? (Thưa, phải.) Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ lại thích những thứ này. Các ngươi nói xem, khi ngươi tiếp xúc với những người trong cộng đồng tôn giáo, những người gọi là người truyền giáo, người giảng đạo và mục sư, gọi chung là người Pha-ri-si, ngươi có cảm thấy những người này là điều mà nội tâm ngươi cần không, hay Đức Chúa Trời thực tế mới là điều nội tâm ngươi cần? (Thưa, được tiếp xúc với Đức Chúa Trời mới là điều mà nội tâm chúng con cần.) Đức Chúa Trời bình thường và thực tế gần gũi hơn với nhu cầu nội tâm của ngươi, chẳng phải sao? Vậy thì hãy nói về cảm nhận của ngươi khi tiếp xúc với người Pha-ri-si, có cái gì lợi và hại, có mang lại ích lợi nào cho người ta không? (Thưa, nếu tiếp xúc với người Pha-ri-si, con cảm thấy họ giả tạo và xa cách. Những điều họ nói quá sáo rỗng và giả tạo; nghe nhiều thì thấy buồn nôn, và con không muốn tiếp xúc với họ nữa.) Những quan điểm mà người Pha-ri-si phát biểu là đúng đắn hay vô lý? (Thưa, vô lý.) Tính chất quan điểm của họ là vô lý. Rồi những điều họ nói đa phần là thực tế hay sáo rỗng? (Thưa, sáo rỗng.) Hầu hết mọi người ghét hay thích nghe những điều vô lý và sáo rỗng, cũng như những điều theo tưởng tượng và quan niệm? (Thưa, ghét nghe.) Hầu hết mọi người không thích và không muốn nghe. Sau khi nghe quan điểm và lời họ, xem lại tâm tính của họ, xem những biểu hiện giả vờ và giả tạo của họ, trong lòng ngươi cảm thấy thế nào? Ngươi muốn nghe thêm nữa không? Ngươi có muốn gần gũi họ hơn, tiếp xúc sâu với họ, và hiểu họ hơn không? (Thưa, không.) Ngươi không muốn tiếp xúc với họ. Vấn đề chính đó là lời họ quá sáo rỗng, đầy lý luận và khẩu hiệu; nghe cả buổi mà ngươi vẫn cảm thấy không biết họ đang nói cái gì. Ngoài ra, tâm tính của họ giả tạo và giả vờ; họ giả vờ khiêm nhường, nhẫn nại và yêu thương, có cung cách của một tín hữu dày dạn, một người đặc biệt “sùng kính”. Cuối cùng, khi thấy rõ chân tướng của họ, ngươi sẽ cảm thấy ghê tởm. Các ngươi chưa tiếp xúc nhiều với Ta; các ngươi thấy thế nào về những bài giảng của Ta? Có khác với những gì người Pha-ri-si nói không? (Thưa, có.) Khác ở chỗ nào? (Thưa, thực tế.) Đó là điểm cơ bản. Hơn nữa, những điều Ta phán đều liên quan đến việc thực hành, trải nghiệm của các ngươi, cùng nhiều khía cạnh khác nhau của những chuyện các ngươi gặp phải trong quá trình làm bổn phận và trong đời sống hiện thực. Đây không phải là nói chuyện không đâu. Ngoài ra, mỗi lẽ thật Ta nói đến hay mỗi quan điểm Ta đưa ra về sự việc là thực tế hay sáo rỗng? (Thưa, thực tế.) Tại sao ngươi nói là thực tế? Bởi vì nó không thoát ly đời sống hiện thực, không phải là nói lý luận sáo rỗng vượt khỏi đời sống hiện thực. Hết thảy đều liên quan đến việc phân định, nhận thức và thực hành của con người trong đời sống hiện thực, cũng như những tình trạng nảy sinh trong họ khi gặp phải những chuyện khác nhau trong khi làm bổn phận. Tóm lại, nó bao gồm những chủ đề liên quan đến cách con người thực hành đức tin nơi Đức Chúa Trời, đời sống tin Đức Chúa Trời, và những tình trạng khác nhau của họ trong khi làm bổn phận. Chúng ta không trích dẫn Kinh Thánh để lý giải sáo rỗng về sách Sáng thế hay Ê-sai, cũng không nói chuyện sáo rỗng về sách Khải Huyền. Ta không thích đọc sách Khải Huyền nhất, cũng không muốn nói về nó. Nói về nó được cái gì? Nếu Ta cho ngươi biết tai họa nào xảy đến, thì có liên quan gì đến ngươi không? Đó là việc Đức Chúa Trời làm. Cho dù việc Đức Chúa Trời làm có ứng nghiệm đi nữa, thì điều đó ảnh hưởng gì đến ngươi? Chẳng phải ngươi vẫn là ngươi sao? Nếu Ta cho ngươi biết tai họa nào sẽ được ứng nghiệm, thì ngươi có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình không? Nó có thần kỳ đến vậy không? Không. Cho nên, khi mọi người đi theo đến cùng, mỗi người sẽ được phân tách theo loại của mình. Những ai có thể tiếp nhận lẽ thật, thích đọc lời Đức Chúa Trời, và có thể thực hành lẽ thật, sẽ đứng vững. Những ai không sẵn lòng đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không sẵn lòng nghe giảng, từ đầu đến cuối không chịu tiếp nhận lẽ thật và không vui lòng làm bổn phận, thì cuối cùng sẽ bị tỏ lộ và đào thải. Dù họ cũng nhóm họp và nghe giảng, nhưng từ đầu đến cuối chẳng thực hành lẽ thật, chẳng thay đổi, họ mà nghe giảng đạo là thấy chán ghét, không muốn nghe. Vì thế, khi làm bổn phận, họ cũng qua loa chiếu lệ, không bao giờ có chút thay đổi nào. Những người này chính là là kẻ chẳng tin. Nếu những người thật lòng tin Đức Chúa Trời thường xuyên tiếp xúc và sống cùng những kẻ chẳng tin, họ sẽ cảm thấy thế nào? Không những họ không được ích lợi hay được xây dựng gì, mà còn ngày càng cảm thấy ác cảm với những người đó trong lòng. Giả sử ngươi tiếp xúc với những người Pha-ri-si và nghe họ nói, ngươi thấy họ nói chuyện rõ ràng mạch lạc, họ giải thích hết thảy những quy định và khuôn khổ rất dễ hiểu, và lời họ có vẻ chứa đựng những lý luận rất cao, nhưng khi phân tích kỹ lưỡng thì không có gì là thực tế lẽ thật cả, hết thảy đều là lý luận sáo rỗng. Chẳng hạn như họ bàn về lý luận Ba Ngôi, thần học, các lý luận về Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ở trên trời với các thiên sứ như thế nào, tình huống nhập thể của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus là thế nào. Sau khi nghe hết thảy những bài nói này, ngươi sẽ cảm thấy như thế nào? Kết quả sẽ giống như nghe chuyện thần thoại. Vậy thì tại sao kẻ địch lại Đấng Christ lại thích nghe và bàn luận về những chuyện này, và tại sao họ sẵn lòng tiếp xúc với những người như thế? Đây chẳng phải là sự tà ác của họ sao? (Thưa, phải.) Có thể thấy được gì từ sự tà ác của họ? Trong xương tủy, họ có một nhu cầu nào đó, nó khiến họ sùng bái tri thức và học vấn này, cũng như sùng bái những thứ mà người Pha-ri-si có sẵn này. Vậy thì nhu cầu của họ là gì? (Thưa, là được người khác xem trọng.) Họ không những cần được người khác xem trọng, mà trong sâu thẳm nội tâm họ còn luôn muốn làm siêu nhân, làm cao nhân hoặc danh nhân tri thức – đơn giản là họ không muốn làm người phàm. Họ muốn làm siêu nhân, siêu nhân này là nói đến điều gì? Nói theo ngôn ngữ thông tục thì nó có nghĩa rằng họ xa rời thực tế. Chẳng hạn như hầu hết mọi người cùng lắm cũng chỉ ước mơ: “Ước gì mình có thể bay cao trên trời trên máy bay”. Họ có thể có ước mơ như thế, phải không? Nhưng ước mơ của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? “Một ngày nào đó, mình muốn mọc thêm đôi cánh và bay liệng đến những nơi xa!”. Họ có chí hướng như thế – ngươi có không? (Thưa, không.) Tại sao ngươi không có? Bởi vì nó không thực tế. Dù ngươi được gắn thêm hai đôi cánh lớn, ngươi có bay được không? Ngươi không phải là giống sinh vật đó, phải không? (Thưa, phải.) Những người như kẻ địch lại Đấng Christ luôn dựa vào tưởng tượng của mình và không ngừng mưu cầu dục vọng, thì có thể được cứu rỗi không? (Thưa, không.) Đây không phải là loại người được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Đức Chúa Trời cứu rỗi những ai yêu thích lẽ thật, chú trọng vào hiện thực, và mưu cầu lẽ thật đến nơi đến chốn. Những người không ngừng khao khát làm siêu nhân hay cao nhân thì có bệnh thần kinh rồi, họ không phải là người bình thường, và Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ.

Khi kẻ địch lại Đấng Christ tiếp xúc với Đức Chúa Trời nhập thể, họ thường hỏi những câu kỳ lạ. Việc họ có thể đặt ra những câu hỏi như thế thể hiện nhu cầu và thứ họ sùng bái trong sâu thẳm nội tâm họ. Khi mới bắt đầu làm chứng cho Đức Chúa Trời nhập thể, có những người luôn dò hỏi: “Đức chúa trời có đọc Kinh Thánh ở nhà không? Không phải là tôi hỏi cho mình, thực ra tôi không tò mò về chuyện này; tôi chỉ hỏi hộ các anh chị em thôi. Nhiều anh chị em cũng có suy nghĩ này. Trong lòng họ đang ngẫm nghĩ rằng nếu đức chúa trời thực sự đọc Kinh Thánh thường xuyên, thì chuyện ngài có thể nói về Kinh Thánh và bày tỏ lẽ thật là rất bình thường. Nhưng nếu đức chúa trời không đọc Kinh Thánh mà vẫn có thể giảng giải Kinh Thánh, thì đó là chuyện thần kỳ, như vậy ngài mới là đức chúa trời!”. Đương nhiên, họ không nói chính xác như vậy; họ hỏi thẳng: “Đức chúa trời có đọc Kinh Thánh ở nhà không?”. Các ngươi nghĩ sao? Ta nên hay không nên đọc Kinh Thánh? Các ngươi có đọc không? Nếu các ngươi chưa bao giờ tin Jêsus thì không đọc là rất bình thường. Những người đã tin thì có đọc không? (Thưa, có.) Những người đã tin chắc chắn có đọc. Ta đã bắt đầu từ đức tin nơi Jêsus, nên làm sao Ta có thể không đọc Kinh Thánh được? Mà nếu Ta không đọc thì sao? (Thưa, cũng bình thường.) Đọc Kinh Thánh là bình thường, không đọc đương nhiên cũng bình thường. Đọc hay không đọc Kinh Thánh thì quyết định được gì? Nếu Ta không có thân phận này, liệu có ai quan tâm Ta có đọc Kinh Thánh hay không không? (Thưa, không.) Sẽ không ai hỏi Ta đọc gì. Nhưng khi Ta có thân phận đặc biệt này, thì có những người nghiên cứu chuyện này. Họ luôn thăm dò rằng: “Khi còn trẻ, ngài có đọc Kinh Thánh không?”. Rốt cuộc họ muốn biết điều gì? Có thể có hai cách giải thích, tùy thuộc vào việc Ta có đọc Kinh Thánh hay không. Nếu Ta có đọc, thì họ cảm thấy chuyện có thể giảng giải Kinh Thánh chẳng có gì to tát. Nhưng nếu Ta chưa đọc Kinh Thánh mà vẫn có thể giảng giải, thì mới gọi là giống đức chúa trời. Đây chính là kết quả họ mong muốn. Họ muốn biết cho tường tận chuyện này; họ nghĩ: “Nếu ngài chưa đọc Kinh Thánh mà vẫn có thể bàn về Kinh Thánh ở độ tuổi trẻ như vậy, thì đáng để tìm hiểu. Đây chính là đức chúa trời!”. Đó là quan điểm của họ, và họ nghiên cứu Đức Chúa Trời như vậy. Các ngươi nói xem, những người Pha-ri-si thông thạo Thánh Kinh có thực sự nhìn thấu được những lời trong Thánh Kinh không? Họ có thấy ra được lẽ thật từ Thánh Kinh không? (Thưa, không.) Vậy thì bất kỳ ai hỏi Ta liệu Ta có đọc Kinh Thánh hay không liệu có nghĩ đến chuyện này không? Nếu có nghĩ đến thì họ sẽ không thăm dò mãi chuyện này, họ sẽ không làm chuyện ngu xuẩn như vậy. Những người không hiểu lẽ thật hoặc không có hiểu biết thuộc linh, và không nhìn thấu được thực chất cũng như thân phận của Đức Chúa Trời, cuối cùng phải dùng đến một biện pháp như vậy để giải quyết. Biện pháp này có thể giải quyết được vấn đề không? Không thể. Nó chỉ có thể giải quyết được vấn đề tò mò vặt. Thực sự thì Ta có đọc Kinh Thánh. Ai tin Chúa mà không đọc Kinh Thánh chứ? Ta có đọc cơ bản. Ít nhất Ta cũng đã đọc bốn sách Phúc Âm của Tân Ước, có giở qua sách Khải Huyền và sách Sáng Thế, và xem qua sách Ê-sai. Theo các ngươi, Ta thích đọc sách nào? (Thưa, sách Gióp.) Chính xác. Câu chuyện trong sách Gióp hoàn chỉnh và cụ thể, câu từ dễ hiểu, và bên cạnh đó, câu chuyện này giá trị và có thể giúp ích, gây dựng cho con người ngày nay. Sự thật ngày nay đã chứng tỏ rằng câu chuyện về Gióp thực sự có ảnh hưởng to lớn đến các thế hệ sau. Họ đã thông qua Gióp mà hiểu được nhiều lẽ thật – từ thái độ của ông đối với Đức Chúa Trời, cũng như thái độ và định nghĩa của Đức Chúa Trời về ông, mà họ hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, cũng hiểu được người tin Đức Chúa Trời thì nên đi con đường như thế nào. Ta dùng những chuyện trong sách Gióp làm bối cảnh để thông công về một số con đường về chuyện con người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, cũng như một số con đường về chuyện thuận phục Đức Chúa Trời – câu chuyện này quá sức giá trị, nên đọc khi rảnh rỗi. Có những người, khi thấy Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, thấy sự thực tế và bình thường của Đức Chúa Trời, thì trong lòng họ cũng ngẫm nghĩ không ra rốt cuộc đây có phải là Đức Chúa Trời hay không, hoặc rốt cuộc sau này sẽ thế nào. Tuy nhiên, sau khi hiểu được một vài lẽ thật, họ có thể buông bỏ những câu hỏi này. Họ không nghiên cứu, không quan tâm những chuyện này nữa, mà chuyên tâm làm cho tốt bổn phận của mình, đi cho tốt con đường mình nên đi và làm cho tốt công tác họ phải làm. Nhưng có những người sẽ không bao giờ buông bỏ, cứ nhất định phải nghiên cứu. Vậy các ngươi nói xem, Ta có nên quản chuyện này không? Ta có nên để tâm gì không? Không cần để ý làm gì. Những ai tiếp nhận lẽ thật sẽ tự nhiên không nghiên cứu nữa, trong khi những ai không tiếp nhận lẽ thật thì sẽ nghiên cứu đến cùng. Việc nghiên cứu này cho thấy điều gì? Nghiên cứu chính là đang chống đối. Trong lời Đức Chúa Trời, có một câu. Kết quả của sự chống đối là gì? (Thưa, là cái chết.) Sự chống đối dẫn đến cái chết.

Có những kẻ địch lại Đấng Christ, mặc dù đã tiếp nhận giai đoạn công tác này, nhưng vẫn hay quan tâm đến chuyện liệu những lời do Đức Chúa Trời nhập thể phán và công tác Ngài làm có phần siêu nhiên nào không, liệu có những phần nào vượt ra khỏi phạm vi nhân tính bình thường hay không, và liệu có những phần có thể đưa ra để chứng tỏ thân phận của Ngài là Đức Chúa Trời hay không. Họ thường xuyên nghiên cứu những chuyện này, nghiên cứu không mệt mỏi cách Ta phán lời, cử chỉ và ánh mắt của Ta khi phán, cũng như các nguyên tắc hành động của Ta. Họ dùng cái gì để nghiên cứu? Họ đánh giá và nghiên cứu dựa trên hình tượng hoặc tiêu chuẩn của cao nhân, vĩ nhân mà họ nắm rõ. Thậm chí có những người hỏi: “Vì ngài là đức chúa trời nhập thể, nên thân phận và thực chất của ngài chắc chắn phải khác người bình thường. Vậy thì ngài giỏi việc gì? Ngài có những phẩm chất đặc biệt nào đáng để chúng con đi theo và thuận phục ngài, để chúng con tiếp nhận ngài là đức chúa trời của chúng con?”. Câu hỏi này thực sự Ta không biết trả lời thế nào. Thành thật mà nói, Ta chẳng giỏi gì cả. Ta không có mắt thấy tám hướng hay tai nghe bốn phương. Đọc văn bản thì Ta không đọc lướt được mười dòng một lúc, và đọc xong một thời gian, Ta lại quên. Ta biết một chút về âm nhạc, nhưng không biết đọc bản nhạc. Nếu người khác hát một bài vài lần, Ta có thể hát theo, nhưng điều đó có tính là giỏi không? Ta có bất kỳ tài năng đặc biệt nào không, như dùng tiếng Anh trôi chảy hay nói tiếng lạ nào đó? Những cái này cũng không biết. Vậy thì Ta giỏi việc gì? Ta biết một chút về âm nhạc, mỹ thuật, vũ đạo, văn học, điện ảnh và thiết kế. Ta biết sơ qua về những lĩnh vực này. Khi bàn về lý thuyết với người trong nghề, hết thảy đều là thuật ngữ chuyên ngành xa lạ đối với Ta, nhưng khi nhìn thấy thì Ta có thể hiểu được. Chẳng hạn như trong thiết kế kiến trúc, nếu liên quan đến dữ liệu chuyên môn và nghiệp vụ thì Ta không hiểu. Nhưng nếu là về tông màu và sự phối hợp hài hòa giữa các phong cách, thì Ta biết một chút và có chút thông hiểu. Nhưng liệu Ta có thể học để trở thành chuyên gia hay nhân tài trong lĩnh vực này hay không thì cũng khó nói, bởi vì Ta chưa học qua. Xét những gì ngay trước mắt mà mọi người có thể tiếp xúc, như âm nhạc, văn học, vũ đạo và điện ảnh, những thứ trong phạm vi công tác nghiệp vụ của hội thánh chúng ta, thì học một chút có thể cho Ta sự hiểu biết cơ bản. Có những người nói: “Bây giờ thì con biết ngài rốt cuộc thế nào rồi; ngài chỉ có hiểu biết cơ bản”. Ta không bịa chuyện; quả thực, Ta chỉ có hiểu biết cơ bản. Tuy nhiên, có một điều mà có lẽ các ngươi không hiểu được, và đó có thể là sở trường của Ta. Đó là sở trường gì? Ta hiểu được nghiệp vụ liên quan đến một lĩnh vực nào đó là gì, một nghệ thuật nào đó được biểu đạt như thế nào, và phạm vi cũng như các nguyên tắc liên quan trong đó là gì. Sau khi nắm vững những điều này, Ta biết cách áp dụng những điều hữu ích này vào công tác của hội thánh, để chúng phục vụ công tác phúc âm và đạt hiệu quả rao truyền phúc âm thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời. Đây có phải là một sở trường không? (Thưa, phải.) Đối với những gì mà nhân loại ngày nay thiếu nhiều nhất, nếu có thể dùng những phương thức đúng đắn, rồi truyền tải lẽ thật liên quan, để cho mọi người đều thấy được và tiếp nhận, thì như vậy là hiệu quả nhất. Nếu ngươi sử dụng một phương thức mà mọi người có thể tiếp nhận, và có thể trình bày lẽ thật cũng như giải thích công tác của Đức Chúa Trời một cách rõ ràng, hết thảy theo cách mà tư duy của nhân tính bình thường có thể tiếp nhận và có thể đạt tới, thì vô cùng ích lợi cho con người. Nếu dùng hiểu biết sơ bộ mà chúng ta có và áp dụng hết thảy những điều hữu dụng, thì có dạng sở trường như vậy là được rồi. Ta có sở trường về một việc, các ngươi có phát hiện ra không? (Thưa, Đức Chúa Trời có sở trường thông công về lẽ thật.) Thông công về lẽ thật có được tính là một sở trường không? Đó chẳng phải là một sở trường sao? Vậy thì Ta có sở trường gì? Ta có sở trường phát hiện ra thực chất bại hoại trong hết thảy các ngươi. Các ngươi nói xem, nếu Ta không có sở trường đó, mỗi khi vấn đề nảy sinh trong các ngươi, mà Ta lại không biết nó là do tâm tính bại hoại hay thực chất bản tính nào, thì làm sao Ta có thể làm công tác được? Không thể nào. Có thể nói rằng phát hiện ra thực chất bại hoại của các ngươi là việc Ta giỏi nhất không? (Thưa, có.) Đó phải là điều Ta giỏi nhất. Ta giỏi nhất trong việc xác định tâm tính bại hoại của mỗi người và thực chất bản tính của họ. Ta giỏi nhất trong việc dựa trên thực chất bản tính của người ta mà nhìn ra con đường người ta đi và thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời của họ. Sau đó, thông qua những biểu hiện, hành vi và thực chất của họ, Ta sẽ thông công về lẽ thật với họ, bốc thuốc đúng bệnh và giúp họ giải quyết vấn đề để thoát khỏi nó. Thực ra, đây không phải là sở trường; mà là chức vụ của Ta, là công tác thuộc phạm vi trách nhiệm của Ta. Các ngươi có giỏi việc này không? (Thưa, không.) Vậy các ngươi giỏi việc gì? (Thưa, bộc lộ sự bại hoại.) Nói rằng các ngươi giỏi bộc lộ sự bại hoại là chưa đúng. Các ngươi giỏi việc nghe lẽ thật rồi thì trơ trơ bất động, không xem ra gì, giỏi qua loa chiếu lệ, không nghiêm túc trong khi thực hiện bổn phận. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Ta mở lòng đến vậy mà nói với các ngươi những điều này; liệu người Pha-ri-si và kẻ địch lại Đấng Christ có thể mở lòng nói với các ngươi như vậy không? (Thưa, không.) Chắc chắn họ không nói như vậy. Tại sao không? Họ xem nó là chuyện đáng xấu hổ, là một sự thiếu khuyết nhân tính, là chuyện riêng tư và nội tình của người ta. Họ nói: “Sao có thể để cho người khác biết về nội tình của tôi được? Nếu thế, chẳng phải tôi sẽ mất hết thể diện, tôn nghiêm và địa vị sao? Rồi tôi biết làm người thế nào đây?”. Theo họ, như vậy là chắc chết! Vậy thì sau khi Ta chia sẻ về tình hình của Ta cởi mở như vậy với các ngươi, nó có ảnh hưởng đến đức tin nơi Đức Chúa Trời của các ngươi không? (Thưa, không.) Cho dù các ngươi có một vài ý nghĩ về chuyện đó đi nữa, Ta cũng không sợ. Tại sao Ta không sợ? Có một vài ý nghĩ là bình thường, đó là chuyện nhất thời. Đôi khi, con người có thể có những ảo giác hình ảnh và âm thanh. Luôn có thể có nhận thức lệch lạc nhất thời, hoặc hiểu lầm nhất thời. Chẳng lẽ người ta sẽ vì thế mà đào ngũ hoặc trở nên tiêu cực và yếu đuối sao? Nhưng nếu ngươi thực sự là người mưu cầu lẽ thật, liệu ngươi có thể vì những quan niệm nhất thời mà phủ nhận hoặc rời bỏ Đức Chúa Trời không? Không, ngươi không thể rời bỏ. Những người thực sự mưu cầu lẽ thật có thể tiếp cận và lĩnh hội đúng đắn những chuyện này, chẳng biết từ lúc nào họ sẽ có thể tiếp nhận những sự thật này một cách bình thường, và dần dần biến chúng thành nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời, một nhận thức khách quan và chuẩn xác – đây chính là thực sự hiểu lẽ thật. Có thể một ngày nào đó, có người nói: “Đức chúa trời nhập thể thật đáng thương; ngài không biết làm gì ngoài việc phán lẽ thật”. Đây là kiểu giọng điệu gì vậy? Đây chính là giọng điệu của kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi có đồng ý với họ không? (Thưa, con không đồng ý.) Tại sao ngươi không đồng ý? (Thưa, những điều họ nói không đúng sự thật.) Những điều họ nói là đúng sự thật chứ. Đức Chúa Trời nhập thể, ngoài việc có thể bày tỏ lẽ thật trong lời phán của Ngài, thì không biết làm gì khác; Ngài không có một kỹ năng đặc biệt nào cả. Như vậy có đáng thương không? Các ngươi có cho là vậy không? (Thưa, không.) Vậy các ngươi cho là thế nào? Có người nói: “Chính vì Đức Chúa Trời thông thường và bình thường, làm công tác thực tế, mà nhân loại bại hoại chúng ta mới có cơ hội được cứu rỗi. Nếu không thì cuối cùng, hết thảy chúng ta đều xuống địa ngục rồi. Hiện giờ chúng ta đang được lợi rất nhiều, vậy nên hãy âm thầm vui hưởng!”. Các ngươi có cảm nhận này không? (Thưa, có.) Nhưng có những người lại không như thế. Họ cảm thấy rằng: “Đức chúa trời chỉ biết phán, chẳng có gì siêu nhiên ở ngài cả. Mình đạt được gì chứ? Mình có những quan niệm và ý nghĩ về đức chúa trời, và mình xét đoán đức chúa trời sau lưng ngài, nhưng đức chúa trời không sửa dạy mình. Mình đâu phải chịu khổ hay bị trừng phạt”. Lá gan của họ ngày càng to, và cái gì cũng dám nói. Có những người nói: “Phải nhận thức về đức chúa trời nhập thể như thế này: khi ngài phán, làm việc và bày tỏ lẽ thật, thì đó chính là thần của đức chúa trời đang hoạt động bên trong, và xác thịt chỉ là cái vỏ, là công cụ. Thực chất thực sự là thần của đức chúa trời; chính là thần của đức chúa trời đang phán. Nếu không phải do thần của đức chúa trời, làm sao xác thịt có thể nói những lời đó được?”. Những lời này, nghe thì có vẻ đúng, nhưng chúng có ý gì? (Thưa, báng bổ.) Đúng vậy, đó là báng bổ – thật là tâm tính hung ác! Ý của họ là gì? “Ngài là người chẳng có gì đáng chú ý. Ngài không có diện mạo cao quý, nhìn ngài không ấn tượng lắm. Lời ngài không hùng hồn, cũng không có lý luận cao siêu – nói gì ngài cũng phải ngẫm nghĩ trước. Làm sao ngài có thể là đức chúa trời nhập thể được? Tại sao ngài lại quá được phúc và may mắn như thế? Tại sao tôi không phải là đức chúa trời nhập thể?”. Cuối cùng, họ nói: “Tất cả đều là thần của Đức Chúa Trời hoạt động và phán lời; xác thịt chỉ là phát ngôn của thần, chỉ là công cụ”. Nói vậy thì lòng họ mới hết chênh vênh. Đó là đố kỵ, từ đố kỵ dẫn đến thù hận. Ý là: “Làm sao ngài lại là đức chúa trời nhập thể? Tại sao ngài lại may mắn như thế? Làm sao ngài chiếm được cái lợi này? Tại sao tôi không đạt được? Tôi không thấy ngài có gì hơn tôi cả. Ngài nói năng không suông, học vấn không cao, không ưa nhìn bằng tôi và không cao bằng tôi. Ngài hơn tôi chỗ nào? Làm sao ngài lại là đức chúa trời nhập thể? Tại sao không phải là tôi? Nếu ngài mà là đức chúa trời nhập thể, thì đầy người cũng là đức chúa trời nhập thể. Tôi cũng phải đấu tranh mới được. Mọi người đều nói rằng ngài là đức chúa trời; tôi không làm gì được, nhưng tôi vẫn sẽ đánh giá ngài như thế này. Nói thế này, tôi được xả hận!”. Đây chẳng phải là hung ác sao (Thưa, phải.) Để tranh giành địa vị mà lời nào họ cũng dám nói – đây chẳng phải là muốn chết sao? Nếu ngươi không muốn tiếp nhận rằng Ngài là Đức Chúa Trời, thì ai ép buộc ngươi? Ta có ép buộc ngươi không? Ta không ép buộc ngươi, phải không? Thứ nhất, Ta không nài nỉ ngươi tiếp nhận. Thứ hai, Ta không dùng những biện pháp cực đoan để ép buộc ngươi tiếp nhận. Thứ ba, thần của Đức Chúa Trời cũng không làm gì, không bảo ngươi phải tiếp nhận không thì sẽ bị trừng phạt. Đức Chúa Trời có làm vậy không? Không. Ngươi có quyền tự do lựa chọn; ngươi có thể chọn không tiếp nhận mà. Vậy nếu ngươi không muốn tiếp nhận, tại sao lại tiếp nhận làm gì? Chẳng phải ngươi chỉ đang muốn được phúc sao? Muốn được phúc, mà lại không thể tiếp nhận hay thuận phục, cũng không cam tâm, nên họ làm gì? Họ nói những lời ác độc như thế. Trước đây, các ngươi đã bao giờ nghe những lời kiểu này chưa? Ta đã nghe lời này từ một số người, không chỉ một hay hai lần. Có những người cho rằng: “Chúng tôi đã bắt đầu tin đức chúa trời cùng với ngài. Hồi đó, ngài còn trẻ, thường viết lời đức chúa trời. Sau này, ngài bắt đầu giảng đạo. Ngài chỉ là một người thông thường; chúng tôi biết nội tình của ngài”. Ta có kiểu nội tình nào chứ? Ta chỉ là một người thông thường; đó là tình hình thực tế của Ta. Chẳng phải bởi vì một người thông thường, bình thường như Ta mà ngày nay có thể có nhiều người như vậy đi theo, nên ngươi không cam tâm sao? Nếu ngươi không cam tâm thì đừng tin. Đây là công tác của Đức Chúa Trời; Ta không thể trốn tránh trách nhiệm của mình, không có lý do gì để thoái thác, và Ta chưa làm gì gây tổn thương hay làm hại người ta. Vậy tại sao ngươi lại dùng quan điểm này mà đối đãi với Ta? Nếu ngươi không cam tâm thì đừng tin. Ngươi cam tâm tin ai thì cứ tin người đó; đừng đi theo Ta. Ta không cưỡng cầu ngươi. Tại sao ngươi lại đi theo Ta? Thậm chí có những người còn đến nhà Ta mà nghiên cứu. Họ nghiên cứu gì? Họ hỏi Ta: “Ngài có về nhà không? Tình hình kinh tế ở nhà ngài bây giờ thế nào? Các thành viên trong gia đình ngài làm gì? Họ ở đâu? Cuộc sống của họ thế nào?”. Thậm chí có những người còn soi cả tấm chăn mỏng hoặc chăn đắp trong nhà Ta nữa. Những người này không có chút gì là cam tâm tin Đức Chúa Trời! Tại sao họ không cam tâm? Bởi vì họ cho rằng: “Đức chúa trời không nên như thế này. Đức chúa trời không nên nhỏ bé đến vậy, bình thường và thực tế đến vậy, bình dị và thông thường đến vậy. Ngài quá bình dị, bình dị đến mức chúng tôi không thể nhận ra ngài là đức chúa trời được”. Con mắt thiếu hiểu biết thuộc linh của ngươi thì có thể nhận ra Đức Chúa Trời được không? Cho dù Đức Chúa Trời có giáng xuống từ trời để phán với ngươi điều này, thì ngươi vẫn không thể nhận thức được. Ngươi có xứng đáng được nhìn thấy con người thật của Đức Chúa Trời không? Cho dù Đức Chúa Trời có phán rõ với ngươi rằng Ngài là Đức Chúa Trời, ngươi cũng sẽ không tiếp nhận. Liệu ngươi có thể nhận ra Ngài được không? Những người này là loại người gì? Bản tính của họ là gì? (Thưa, tà ác.) Những người này thực sự khiến Ta được mở mang “kiến thức” rồi.

Từ khi đảm nhận công tác của Đức Chúa Trời, khi thực hiện công tác của Ta với thân phận và địa vị này, Ta đã tiếp xúc với một số người. Gặp một loạt “nhân tài” muôn hình muôn vẻ này, Ta quan sát thấy hai từ gắn liền không rời với tâm tính bại hoại của nhân loại: “ác” và “tà” – hai từ này khái quát được tâm tính bại hoại của nhân loại. Tại sao hàng ngày họ lại nghiên cứu về Ta? Tại sao họ không cam tâm thừa nhận thân phận của Ta? Chẳng phải đó là bởi vì Ta là một người quá thông thường và bình thường sao? Nếu Ta ở dạng thân thể thuộc linh, liệu họ có dám không? Họ sẽ không dám nghiên cứu về Ta như vậy. Nếu Ta có địa vị xã hội nhất định, lại có những tài năng đặc biệt, có hình tượng và diện mạo của một vĩ nhân, tâm tính có phần ác, bạo ngược và tàn nhẫn, thì những người này có dám đến nhà Ta để điều tra và nghiên cứu về Ta không? Họ sẽ tuyệt đối không dám; họ sẽ tránh xa Ta, thấy Ta đến thì nhanh chóng trốn đi, và chắc chắn Họ sẽ không dám nghiên cứu về Ta, phải không? Vậy thì tại sao họ lại có thể nghiên cứu về Ta như vậy? Vì họ thấy Ta dễ ức hiếp. Trong cái dễ ức hiếp có hàm ý gì? Có ý là Ta quá thông thường. “Thông thường” ý là gì? “Ngài chỉ là một con người; làm sao ngài có thể là đức chúa trời được? Ngài hoàn toàn không có tri thức, học vấn, ân tứ, tài năng và năng lực mà đức chúa trời nên có. Ngài giống đức chúa trời chỗ nào? Chẳng giống! Cho nên, tôi khó mà tiếp nhận rằng ngài là đức chúa trời, khó mà đi theo ngài, nghe lời ngài và thuận phục ngài. Tôi phải nghiên cứu cho tường tận: tôi cần phải quan sát ngài, chú ý chặt đến ngài và không để ngài làm gì không chuẩn mực”. Họ đang muốn làm gì vậy? Nếu Ta có địa vị xã hội và một mức độ danh tiếng nhất định, chẳng hạn như nếu Ta là một danh ca hạng nhất, và một ngày nào đó làm chứng rằng Ta là Đức Chúa Trời, là Đấng Christ, thì chẳng phải ít nhất cũng sẽ có một số người tin phục sao? Số người nghiên cứu Ta sẽ ít hơn tương đối. Chính sự thật rằng Ta là người thông thường, bình thường, thực tế và quá bình dị, đã tỏ lộ rất nhiều người. Nó tỏ lộ điều gì ở họ? Nó tỏ lộ sự tà ác của họ. Họ tà ác đến mức nào? Đến mức khi Ta đi ngang qua họ, họ sẽ nghiên cứu Ta suốt nửa nửa ngày, nhìn xem bóng của Ta có hình bóng của Đức Chúa Trời không, xem có bất kỳ điềm thiêng dấu lạ nào đi kèm với lời Ta hay không. Họ thường suy ngẫm trong lòng: “Những lời này từ đâu ra? Có phải là do học được không? Xem ra khả năng là không phải: ngài không có thời gian học. Trong những năm gần đây, ngài đã thay đổi rất nhiều; có vẻ như đó không phải là cái học được. Vậy thì những lời này từ đâu ra? Đúng là dò không thấu; mình cần phải cẩn trọng”, và họ không ngừng nghiên cứu. Những người không ngừng nghiên cứu thì không tiếp xúc, tương tác hoặc trao đổi trực tiếp với Ta, mà luôn ngẫm nghĩ sau lưng Ta, luôn muốn tìm lỗi trong lời Ta và nắm được chút thóp của Ta. Ta nói một câu không phù hợp với quan niệm của họ thì họ có thể nghiên cứu suốt mấy ngày, Ta có một lời nhận xét hơi nghiêm khắc là có thể khiến họ nảy sinh quan niệm. Những điều này đến từ đâu? Chúng đến từ đầu óc và tri thức của con người. Những người có thể nghiên cứu Đức Chúa Trời, có thể không ngừng để tâm suy đoán về Đức Chúa Trời, là loại người gì? Có thể xác định tính chất của họ là người có tâm tính tà ác được không? Chắc chắn là được! Ngươi có thời gian và sinh lực như vậy mà có thể suy ngẫm về lẽ thật thì tốt biết mấy. Lẽ thật nào mà ngươi chẳng mất chút thời gian để thông công và suy ngẫm? Có rất nhiều lẽ thật mà có thể cả đời này, ngươi cũng không thể suy ngẫm hết được. Con người có quá nhiều lẽ thật cần hiểu. Họ không mang gánh nặng gì về việc này, nhưng lại không bao giờ quên những chuyện bề ngoài, bề nổi, và luôn muốn nghiên cứu về chúng. Ta vừa mở lời, họ liền chớp mắt, nhìn chằm chằm vào ánh mắt Ta, dò xét cử động và biểu cảm của Ta, trong lòng thì suy đoán: “Về mặt này, ngài có giống đức chúa trời không? Lời nói của ngài không giống đức chúa trời lắm, ánh mắt không giống lắm. Làm sao để mình có thể dò thấu được ngài nhỉ? Làm sao để mình có thể nhìn thấu xem trong sâu thẳm nội tâm ngài đang nghĩ gì về mình? Ngài nghĩ gì về chuyện nọ, chuyện kia? Ngài định nghĩa mình như thế nào?”. Họ luôn nuôi những tư tưởng này. Đây chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Đây là vô phương cứu rỗi – quá tà ác!

Con người chân chính yêu thích và mưu cầu những điều phù hợp với nhân tính, lương tâm, tư duy bình thường của nhân tính, và đời sống hiện thực, những điều bình thường và thực tế, chứ không méo mó, không quái dị, không trừu tượng, không rỗng tuếch và không siêu nhiên. Đối với những điều này, người bình thường sẽ có thể trân quý, tiếp cận một cách đúng đắn và tiếp nhận theo tập quán, xem chúng như những điều tích cực, đây là việc mà người bình thường nên làm. Ngược lại, có những người, khi thấy những lẽ thật liên quan mật thiết đến các khía cạnh khác nhau của đời sống thực tế, chẳng hạn như ăn, mặc, ở, đi lại, hành vi, và đối nhân xử thế, thì lại xem nhẹ, phớt lờ và không thèm để ý. Vấn đề ở đây là gì? Đó là sở thích và thực chất bản tính của họ có vấn đề. Điều gì càng tích cực, càng là điều Đức Chúa Trời yêu thích, là điều Ngài muốn, là việc Ngài làm, và càng phù hợp với những gì trong tâm ý của Đức Chúa Trời mà Ngài mong muốn con người đạt được hoặc tiếp nhận, thì những người này càng nghi ngờ, nghiên cứu, chống đối và kết tội – đây chẳng phải là tà ác sao? Vô cùng tà ác! Những kẻ địch lại Đấng Christ khá được mến mộ trong dân ngoại đạo. Nếu Ta ở trong dân ngoại đạo, thì giữa kẻ địch lại Đấng Christ và Đức Chúa Trời nhập thể, dân ngoại đạo sẽ sẵn sàng tiếp nhận ai hơn? (Thưa, kẻ địch lại Đấng Christ.) Tại sao? Dân ngoại đạo thích người chính trực hay người tà ác? (Thưa, người tà ác.) Họ thích người a dua nịnh hót hay người trung thực? (Thưa, người a dua nịnh hót.) Đúng vậy, họ ưa thích dạng người đó. Ngươi ở giữa một tập thể mà không biết cách dùng thủ đoạn để xử lý các mối quan hệ giao tế giữa người với người trong một tập thể, cũng không biết dùng thủ đoạn để thao túng hoặc khống chế những loại người khác nhau, thì liệu tập thể đó có thể dung nạp ngươi không? Nếu ngươi quá chính trực, chuyện gì cũng nói thật, có thể nhìn thấu thực chất của nhiều vấn đề, rồi nói ra sự thật mà ngươi nhìn thấu hoặc hiểu được, thì liệu có ai có thể tiếp nhận điều đó được không? Không, không ai trên đời này có thể tiếp nhận điều đó. Trên đời này, ngươi đừng mong nói thật – nói thật sẽ tự chuốc phiền toái hoặc tai họa vào thân. Đừng mong làm người trung thực; làm người trung thực không có đường sống. Kẻ địch lại Đấng Christ thì sao? Họ rất giỏi nói dối, rất giỏi giả vờ và tạo vỏ bọc, họ tạo vỏ bọc cho mình là người cao trọng, có thể diện và có đạo đức, để người ta sùng bái. Họ rất giỏi những chuyện này, và những gì họ thích cũng tương tự – họ thích nói về tri thức và học vấn rống tuếch, cũng như so kè về ân tứ và thủ đoạn. Chẳng hạn như trong một doanh nghiệp hoặc tập thể, cái chính không phải là có tri thức và học vấn cao nhất, đó cũng không phải là nhân yếu tố chính để quyết định vị trí của người ta trong doanh nghiệp đó. Nhân tố chính là gì? (Thưa, là thủ đoạn và tài năng.) Chính xác, đó là thủ đoạn và tài năng. Không có những thứ này thì có học vấn sâu rộng cũng vô ích. Giả sử ngươi từ nước ngoài về và hoàn toàn không biết gì về luật chơi trong tập thể này ở quê hương. Nếu ngươi áp dụng những quy tắc, chế độ và nguyên tắc hành xử của công ty nước ngoài, thì ngươi sẽ đâm đầu vào tường. Nó là như vậy, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Nó là như vậy. Ngươi phải có thủ đoạn, phải đủ tà, đủ ác thì mới có thể leo lên vị trí cao hơn. Cũng giống như một số phụ nữ: mặc dù có chồng chu cấp cho nhưng vẫn chưa thỏa mãn. Để nổi bật và có được danh lợi và địa vị, họ không từ thủ đoạn nào. Thậm chí họ còn giở trò nịnh nọt, và cung cấp dịch vụ “đi khách” khi cần, sau đó không hề có chút xấu hổ nào, cũng không cảm thấy tội lội hoặc mắc nợ với người chồng hay gia đình mình. Ngươi có thể làm chuyện đó không? Ngươi nghe thấy thì đã ghê tởm, và không thể làm được. Vậy làm sao để ngươi có thể leo lên vị trí cao hơn giữa họ? Không có cửa đâu. Hết thảy những điều đó đều có được thông qua việc bán linh hồn mình và dùng các loại thủ đoạn tà ác. Ngươi có thích cách làm đó không? (Thưa, không.) Bây giờ ngươi nói không thích, nhưng có ngày bị dồn ép đến một giới hạn nào đó, thì ngươi cũng phải thích nó. Nếu người ta suốt ngày ức hiếp và trừng trị ngươi, gây khó dễ cho ngươi, bới lỗi ngươi và muốn đá ngươi ra, có thể ngươi sẽ phải bán thân thể mình để giữ công việc. Thấy họ dùng tà chiêu nào, ngươi cũng phải học, và cuối cùng, ngươi sẽ trở nên giống hệt như họ. Bây giờ, ngươi nghiêm túc tuyên bố: “Tôi không thích kiểu đó. Tôi không muốn làm loại người đó. Tôi không tà ác như thế. Tôi không muốn bán thân thể mình. Tôi không thích tiền; đủ ăn, đủ mặc là được”. Ngươi là ai? Ngươi chẳng là ai cả. Sa-tan làm bại hoại ngươi thế nào thì ngươi là thế ấy. Ngươi nghĩ mình có thể là tự làm chủ chính mình sao? Người ta thay đổi theo môi trường, họ có tâm tính bại hoại, và ngươi đơn giản là không thể vượt qua được danh lợi, địa vị, tiền bạc và đủ loại cám dỗ. Nếu ở trong môi trường đó, ngươi cũng sẽ không thể kiểm soát bản thân. Vũ đài cho dân ngoại đạo ngày nay giống như cối xay thịt. Một khi người ta bị nghiền trong đó thì không cách nào sống sót. Bây giờ ngươi đang làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, có sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, cũng không bị ai ức hiếp, ngươi có thể sống an bình trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Ngươi đang hưởng phúc lớn rồi, nên hãy âm thầm tận hưởng đi! Nếu ngươi không làm tốt bổn phận của mình và bị tỉa sửa một chút, thì cũng đừng nên cảm thấy oan ức. Ngươi đạt được phúc lớn rồi; ngươi không biết sao? (Thưa, có.) Các ngươi nói xem, dân ngoại đạo ở trong “cối xay thịt” như thế nào? Họ sống không bằng chết. Chút khổ cực ngươi chịu đựng trong nhà Đức Chúa Trời là những gì con người nên chịu đựng, cũng không hề quá thống khổ. Thế nhưng, con người không biết đủ, và dù có bị tỉa sửa thế nào, họ cũng không sẵn lòng hối cải. Nhưng khi bị đuổi về nhà, họ cũng không muốn trở về với dân ngoại đạo bởi vì họ cảm thấy dân ngoại đạo quá ác và quá xấu xa. Khi thực sự phải đối mặt với cái chết, người ta không muốn chết; ai cũng tham sống và làm theo nguyên tắc “thà sống nhục còn hơn chết vinh”. Thấy quan tài, họ liền đổ lệ. Giờ đây mọi người biết rằng không dễ gì sinh tồn giữa dân ngoại đạo. Nếu ngươi muốn sống có tôn nghiêm và kiếm sống dựa trên bản lĩnh của mình, thì không cách nào làm được. Có bản lĩnh không thôi chưa đủ; để thành công, ngươi còn phải đủ tà, đủ ác và đủ thâm độc nữa. Ngươi có cái gì nào? Có những người nói: “Bây giờ tôi có chút tà rồi, nhưng chưa đủ ác”. Dễ thôi. Cứ tự chui đầu vào “cối xay thịt” đi, và trong vòng chưa đầy một tháng, ngươi sẽ trở nên ác. Nếu ngươi làm người tốt, họ sẽ muốn giết ngươi; ngươi tha cho họ, nhưng họ sẽ không tha cho ngươi, để giữ cái mạng, ngươi chỉ có thể đấu với họ mà thôi. Một khi ngươi đã trở nên ác thì không quay đầu lại được, ngươi cũng thành ma quỷ rồi. Sự tà ác được hình thành như vậy. Thế giới của dân ngoại đạo quá hắc ám và tà ác. Làm sao để con người có thể thoát khỏi quyền thế hắc ám và tà ác của Sa-tan? Họ cần hiểu lẽ thật để đạt đến được cứu rỗi. Giờ đây ngươi tin Đức Chúa Trời, nếu ngươi muốn được cứu rỗi và giải phóng khỏi quyền thế của Sa-tan, thì không phải là chuyện đơn giản. Ngươi phải học thuận phục Đức Chúa Trời, có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, nhìn thấu được nhiều chuyện, và hơn thế nữa, các nguyên tắc hành động của ngươi vừa phải khôn ngoan vừa không được đắc tội với Đức Chúa Trời. Ngoài ra, cũng đừng luôn muốn tranh danh đoạt lợi, hoặc không ngừng tìm cách hưởng thụ lợi ích của địa vị. Chỉ cần đủ ăn và không chết đói là được. Ngươi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài ban cho ân điển như vậy thì ngươi mới có thể được bảo vệ. Nếu ngươi luôn nuôi dục vọng ngông cuồng thì ngươi không có lý trí rồi, và Đức Chúa Trời sẽ không để ý đến lời cầu nguyện của ngươi.

Về bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ, hôm nay chúng ta chủ yếu thông công về biểu hiện thứ ba, những thứ mà kẻ địch lại Đấng Christ sùng bái. Kẻ địch lại Đấng Christ sùng bái những gì? (Thưa, tri thức và học vấn.) Tri thức, học vấn, còn một điều nữa – ân tứ. Tri thức và học vấn bao gồm những gì? Chúng bao gồm những gì có trong sách vở mà người ta học trên thế gian, kinh nghiệm có được khi tham gia vào các ngành nghề liên quan đến tri thức, cũng như các quy tắc, luật lệ và quy định, khuôn sáo được truyền giảng trong xã hội về đạo đức, nhân tính, hành vi, v.v.. Ngoài ra, chúng còn bao gồm tri thức từ các lĩnh vực khoa học khác nhau. Chẳng hạn như có những người không tin vào chuyện luân hồi được nói đến trong lời Đức Chúa Trời. Nhưng nếu một ngày nào đó, nghiên cứu khoa học phát hiện ra rằng con người có linh hồn, bởi vì sau khi chết, có một thứ gì đó rời khỏi cơ thể, và trọng lượng của người đó giảm đi một lượng nhất định, mà có thể là trọng lượng của linh hồn, thì có thể họ sẽ tin lời này. Dù Đức Chúa Trời phán thế nào, họ cũng không tin, nhưng chỉ cần các nhà khoa học đo lường thứ gì đó dựa trên trọng lượng, thì họ tin liền. Họ chỉ tin vào khoa học. Còn có những người chỉ tin vào quốc gia, chính phủ, những diễn giải của các thông tin, lý luận liên quan, và nhân vật nổi tiếng. Họ chỉ tin vào những thứ này. Đức Chúa Trời phán thế nào, giảng giải thế nào, dạy dỗ thế nào, bày tỏ những lời nào, họ đều không xem ra gì. Nhưng chỉ cần nghe một người nổi tiếng nói thì họ lập tức tiếp nhận, lại còn sùng bái người đó, rao truyền lời người đó. Chẳng hạn như Đức Chúa Trời phán rằng ma-na mà Ngài rải xuống cho người ta mỗi ngày là thứ không thể tích trữ và không nên để qua hôm sau vì nó sẽ không tươi, nhưng họ không tin lời Đức Chúa Trời. Họ nghĩ: “Nhỡ đức chúa trời không ban ma-na, chúng ta đói thì sao?”. Thế là họ tìm cách thu lượm và tích trữ nó. Ngày thứ hai, Đức Chúa Trời ban ma-na, và họ tiếp tục thu lượm. Ngày thứ ba, Đức Chúa Trời ban ma-na, và họ cứ thế thu lượm. Ngày nào Đức Chúa Trời cũng phán cùng một lời, ngày nào họ cũng làm ngược lại lời Đức Chúa Trời dặn dò. Họ không bao giờ tin hay nghe lời Đức Chúa Trời. Một ngày nào đó, có nhà khoa học tiến hành nghiên cứu và nói: “Nếu không ăn ma-na trong ngày và để sang hôm sau, thì dù nó trông còn tươi bên ngoài, nhưng đã chứa vi khuẩn mà ăn vào có thể gây bệnh dạ dày”. Từ hôm đó trở đi, họ không còn thu lượm nữa. Đối với họ, một lời từ nhà khoa học hơn mười lời từ Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Ngoài miệng, họ thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, cũng thừa nhận Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời và mong cầu nhận được phúc lành từ Đức Chúa Trời. Đồng thời, họ vui hưởng ân điển và phúc lành mà Đức Chúa Trời ban, tận hưởng sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời, nhưng ngoài những điều đó ra thì những lời Đức Chúa Trời phán, những gì Ngài dặn dò, truyền lệnh hoặc ủy thác họ làm, thì một câu họ cũng không nghe. Nếu một người có tri thức, học vấn, có quyền thế, địa vị, nói gì đó hoặc nói một luận điệu sai trái, thì họ lập tức tiếp nhận, bất kể đúng sai. Đây là chuyện gì vậy? Đây gọi là tà ác, quá tà ác! Chẳng hạn như Ta bảo với vài người là không được ăn khoai lang cùng với trứng, vì có thể gây ngộ độc thực phẩm. Lời Ta dựa trên cơ sở nào? Ta không dựng chuyện; đã có những trường hợp bị ngộ độc thực phẩm do ăn hai thứ này cùng nhau. Nghe thấy vậy, phản ứng của người bình thường sẽ là gì? Họ sẽ nghĩ: “Sau này, mình ăn khoai lang rồi thì sẽ không ăn trứng, ít nhất thì cũng phải để cách hai, ba tiếng”. Họ nghe xong thì xem trọng điều này và thay đổi thói quen ăn uống của mình. Nhưng có những người sẽ không tin. Họ nói: “Ngộ độc thực phẩm do ăn trứng và khoai lang cùng nhau ư? Làm gì có chuyện đó. Con sẽ ăn cùng nhau, ngài xem con có bị ngộ độc thực phẩm hay không nhé!”. Đây là loại người gì? (Thưa, tà ác.) Ta thấy người này có chút tà môn! Ta nói lời này, mà họ cứ khăng khăng ăn chúng cùng nhau; đây chẳng phải là phạm tà sao? Họ chuyên môn đối đầu, tranh cãi và chống cự với những điều là lẽ phải, đúng đắn và tích cực – đây chính là tà ác. Nhân loại bại hoại tôn sùng sự tà ác và quyền thế. Dù những ma quỷ và Sa-tan có nói luận điệu sai trái nào đi nữa, người ta đều có thể tiếp nhận không chút do dự, trong khi Đức Chúa Trời bày tỏ nhiều lẽ thật, mà người ta lại không sẵn lòng tiếp nhận, thậm chí còn hình thành nhiều quan niệm. Đây là một ví dụ khác. Ở nhiều vùng nông thôn Hoa Kỳ, có những khu rừng nguyên sinh nơi các loài thú hoang thường lang thang. Khi ra ngoài nên có người đi cùng, và ban đêm không có việc gì thì đừng ra ngoài. Nếu có việc cần ra ngoài thì phải có các biện pháp đề phòng, đi cùng ai đó hoặc mang theo vũ khí phòng thân – cẩn tắc vô ưu. Có những người nói: “Không sao đâu, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ tôi”. Đây chẳng phải là thử thách Đức Chúa Trời sao? Thực hiện những biện pháp đề phòng này là việc người ta nên làm. Ngươi có trí óc, có tâm, có linh, vậy tại sao cứ đòi Đức Chúa Trời bảo vệ? Đừng thử thách Đức Chúa Trời. Hãy làm điều ngươi nên làm. Nếu chẳng may ngươi gặp phải một con thú hoang hung dữ mà ngay cả nhóm bốn, năm người cũng không thể đối phó, nhưng ngươi vẫn có thể sống sót – thì đó là sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Có những người thực sự đã nhìn thấy sói hú, gấu gào, chứng tỏ có những loài thú hoang này. Vì thế, khi Ta nói đừng ra ngoài ban đêm vì dễ gặp phải thú hoang, Ta có dựng chuyện không? (Thưa, không.) Không phải là Ta muốn hù dọa mọi người. Có những người nghe xong thì nói: “Tôi nên cẩn trọng hơn một chút. Khi ra ngoài, tôi sẽ tìm người đi cùng hoặc mang theo vũ khí phòng thân phòng trường hợp gặp phải thú hoang”. Có những người nghe những lời này xong thì đặt nặng, tin và tiếp nhận, rồi thực hành theo những điều Ta bảo. Đây là sự tiếp nhận đơn giản, không thể nào dễ dàng hơn thế nữa. Nhưng lại có một kiểu người không chịu nghe, lại còn nói: “Tại sao tôi không bao giờ nhìn thấy thú hoang nhỉ? Ở đâu nào? Cứ để nó ra đây, tôi sẽ đối đầu với nó xem ai lợi hại hơn. Thú hoang thì có gì đáng sợ chứ? Các người chỉ toàn nhát gan, kém đức tin. Nhìn đức tin của tôi đây này; tôi không sợ gấu nhé!”. Họ cố tình đi ra ngoài một mình, không có việc gì thì đi tản bộ. Ăn xong, họ phải đi dạo bên ngoài và khăng khăng đi một mình. Khi người khác khuyên tìm người đi cùng, họ đáp: “Không, tôi cần người đi cùng làm gì? Phải kiếm người đi cùng thì còn ra trò trống gì nữa! Tôi sẽ một mình ra ngoài!”. Họ cứ phải thử xem sao. Đây là loại người gì? Chưa nói đến việc họ có gặp thú hoang hay không, chẳng phải thái độ của họ đối với những chuyện như thế này có vấn đề sao? (Thưa, phải.) Vấn đề gì? (Thưa, tâm tính của dạng người này tà ác.) Ngươi cố gắng nói chuyện chính đáng với họ, mà họ xem như trò đùa. Nói với dạng người này có tác dụng gì không? Những người như thế này còn không bằng cầm thú, không cần bận tâm đến họ.

Vừa rồi, chúng ta nói về chuyện những người có tâm tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ đặc biệt nhạy cảm với tri thức, học vấn, ân tứ và một số tài năng đặc biệt; họ đặc biệt khâm phục và xem trọng những người có tài năng đặc biệt; và họ phục sát đất, ngoan ngoãn nghe lời những người như thế. Đối với thường thức, kiến thức và học vấn chân chính có ích lợi cho con người, mà người có nhân tính bình thường cần có, hoặc là những điều thực tế và tích cực có thể lĩnh hội được trong tư tưởng của nhân tính bình thường, thì họ có thái độ gì? Họ xem thường, không thèm để ý đến. Mỗi khi những lời và lẽ thật này được thông công trong các cuộc nhóm họp, thì họ làm gì? Họ gãi đầu gãi tai, có những người mắt mơ mơ màng màng, trông tê liệt, trì độn, có những người thì có vẻ trầm tư suy nghĩ. Nhà Đức Chúa Trời càng bàn luận về những chuyện chính đáng thì họ càng ít hứng thú, càng thông công về lẽ thật thì họ càng ngủ gật và cảm thấy buồn ngủ. Rõ ràng, những người này không hề có hứng thú với lẽ thật. Chẳng phải những kẻ chẳng tin này hết thuốc chữa rồi sao? Có những người trong tôn giáo chỉ thích nghe người khác nói tiếng lạ hoặc chứng kiến chuyện lạ, họ nhìn thấy những chuyện không tưởng tượng nổi thì lập tức được nâng cao tinh thần. Có những người, khi thấy Ta, liền thích nói: “Con tốt nghiệp bằng cử nhân, chuyên ngành triết học. Ngài học gì?”. Ta nói: “Ta không học ngành nào cụ thể cả; Ta chỉ có thể hiểu vài chữ và đọc sách”. Họ nói: “Ồ, vậy thì Ngài không ổn rồi”. Ta đáp: “So sánh cái đó làm gì, nhưng hãy cùng thông công một chút – hiện tại ngươi có khó khăn nào không?”. Họ đáp như thế nào? “Hừm, con có khó khăn nào nhỉ? Con chẳng có khó khăn nào cả. Con đang làm bổn phận rất tốt!”. Khi thông công về lẽ thật với họ, họ cụt hứng, ngáp chảy nước mắt, như bị ma ám. Nếu Ta tiếp tục vạch trần tâm tính bại hoại của họ, thì họ chỉ cầm cốc bỏ đi, không muốn nghe nữa. Ta càng cố gắng chung sống và trò chuyện bình đẳng với họ, thì họ càng xem thường Ta. Đây chẳng phải là không biết điều sao? Trước đây, có người biết lái xe. Ta hỏi: “Ngươi lái xe được bao nhiêu năm rồi?”. Anh ta đáp: “Con ra trường làm việc được hai năm thì mua xe”. Ta nói: “Vậy thì ngươi cũng lái xe khá lâu năm rồi. Ta còn chưa biết lái”. Chẳng phải nói vậy là chung sống bình đẳng sao? Chẳng phải đó là cuộc trò chuyện của người có nhân tính bình thường sao? (Thưa, phải.) Nghe xong, anh ta nói: “Hả? Ngài vẫn chưa biết lái xe sao? Vậy Ngài biết làm gì?”. Ta nói: “Ta không biết làm gì nhiều. Ta chỉ biết cách ngồi trong xe ô tô thôi”. Ta hỏi anh ta: “Hiện ngươi đang làm bổn phận nào?”. Anh ta nói: “Con làm trong bộ phận tài chính kế toán. Đầu con toàn số liệu. Hồi học cao đẳng, con rất giỏi môn toán và mạnh nhất về khoa học. Con có tiềm năng vào Đại học Thanh Hoa hoặc Đại học Bắc Kinh”. Ta nói: “Ta rất tệ môn toán. Vừa nhìn số liệu là Ta nhức đầu. Ta thích học văn, học từ vựng, những cái như thế”. Anh ta nói: “Học những cái đó làm gì. Những người học văn bình thường đều không có tiền đồ”. Xem anh ta nói kìa. Nó có lý trí của nhân tính bình thường không? (Thưa, không.) Khi Ta nói chuyện và chung sống với anh ta một cách điềm đạm và thân thiện như thế, mà anh ta còn không đối đãi cho đúng đắn được. Thay vào đó, anh ta xem thường và hạ thấp Ta. Nếu anh ta gặp người có địa vị hoặc tri thức thì có thể sẽ khác. Sau một thời gian bên Ta, anh ta sẽ bắt đầu cảm thấy: “Mình đã trở nên quen thuộc với Đức Chúa Trời, trò chuyện với Ngài và giao thiệp với Ngài”. Anh ta sẽ nghĩ giờ đây anh ta có chút vốn liếng, rồi giọng điệu của anh ta cũng thay đổi. Có lần Ta hỏi anh ta: “Ta nghe nói có người không muốn làm bổn phận nữa và muốn về quê. Người đó đã về quê chưa?”. Anh ta đáp: “Ồ, người đó ư? Anh ta chưa bao giờ có ý định về quê cả!”. Đây là kiểu giọng điệu gì? Nó có thay đổi không? Khi mới gặp Ta, anh ta cảm thấy không dò thấu được Ta, ban đầu có chút cung kính, thật thà, đuôi cụp lại. Bây giờ anh ta quen thuộc hơn, đuôi vểnh lên. Đây là kiểu giọng điệu gì? Giọng điệu có chút chống đối, hờ hững, không thèm để ý, anh ta dùng thái độ xem thường và miệt thị khi nói chuyện với Ta. Đây là dạng tâm tính gì? Là tà ác. Đây có phải là người có nhân tính bình thường không? (Thưa, không.) Một người thông thường, bình thường có thể trao đổi và trò chuyện với ngươi một cách bình thường – đây là điều bình thường nhất. Nếu họ ức hiếp ngươi, chèn ép ngươi hoặc hạ thấp ngươi, thì ngươi cảm thấy thế nào? Đối xử với ngươi như thế thì họ có bất kỳ nhân tính bình thường nào không? Ngươi nói xem, người như thế này mà gặp một nhân vật nổi tiếng thế giới, người có địa vị và danh tiếng, hoặc ông chủ hay cấp trên của họ, thì họ có dám đối đãi người ta như vậy không? Họ sẽ không dám. Họ sẽ hăm hở phủ phục, phải dùng những danh xưng như cấp dưới, thuộc hạ, nô tài, tiểu nhân, dân đen, thảo dân để nói về mình và trò chuyện với những người này. Trong dân ngoại đạo, quan chức hơn một cấp đã áp chết người được rồi, ngươi là nhân vật nhỏ bé thì ai nói chuyện điềm đạm và thân thiện với ngươi chứ? Cho dù thỉnh thoảng khi vui, họ có nói chuyện với ngươi vài câu đi nữa, thì họ cũng không hề để ngươi vào mắt; họ đối xử với ngươi như thứ không bằng con người, chẳng có việc gì làm thì đá ngươi như đá cầu. Khi Ta nói chuyện và trò chuyện với người đó một cách điềm đạm và thân thiện, Ta không những không nhận được phản hồi tích cực, mà còn chịu sự xem thường, hạ thấp, khinh mạn và chế nhạo. Đó là bởi vì cách Ta chung sống với người đó có gì sai, hay là bởi vì tâm tính họ có vấn đề? (Thưa, bởi vì tâm tính họ quá kiêu ngạo.) Đúng vậy, Ta cũng nghĩ theo hướng đó. Ta đối đãi với tất cả mọi người như nhau, vậy tại sao có những người đối đãi Ta đúng đắn, có những người thì không? Nhìn chung, có thể chia con người thành hai loại: một loại thì có nhân tính, biết tôn trọng người khác, biết mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời là thế nào, và biết mình là ai; loại người kia thì tà ác và kiêu ngạo, không biết mình là ai. Các ngươi nói xem, cái thứ mang bộ da người nhưng thậm chí không biết mình là ai thì gọi là gì? Đó chính là súc sinh không có lý tính. Một lần khác, Ta hỏi anh ta: “Việc Ta giao cho ngươi xử lý mấy hôm trước thế nào rồi? Ngươi đã xử lý những việc đó chưa?”. Anh ta đáp: “Ngài nói về việc gì cơ?”. Ta nói: “Mấy thứ đó, các ngươi đã bảo quản chưa? Các ngươi đã xử lý chưa?”. Ta nhắc hai lần, cuối cùng anh ta cũng nhớ ra: “À, Ngài đang nói về những việc đó hả? Chúng con xử lý lâu rồi”. Từ đầu tiên, “À”, mang kiểu giọng điệu gì? Một lần nữa, đó là giọng điệu khinh miệt, quỷ tính của anh ta lại trỗi dậy. Bản tính vẫn không thay đổi; anh ta chính là thứ như thế. Ta tiếp tục hỏi anh ta xử lý thế nào, thì anh ta đáp: “Một vài người đã xem xét và xử lý như thế rồi”, mà không nói thêm chi tiết gì. Nếu Ta gặng hỏi thêm thông tin cụ thể, thì dù Ta có ép cũng chẳng ra được gì. Ta đã giao cho anh ta xử lý một nhiệm vụ; chẳng phải Ta có quyền được biết thông tin sao? (Thưa, phải.) Vậy trách nhiệm của anh ta là gì? Sau khi tiếp nhận nhiệm vụ từ Ta, chẳng phải anh ta cần báo cáo về tình hình xử lý sao? (Thưa, phải.) Nhưng anh ta không báo cáo, và từ đầu đến cuối Ta không thể nhận được bất kỳ thông tin cập nhật nào. Ta chỉ có thể cử người hỏi xem việc này được làm thế nào rồi, nhưng vẫn không có phản hồi. Trong lòng Ta nghĩ: “Được, Ta sẽ ghi nhớ ngươi. Ngươi không phải là người đáng tin cậy. Có chuyện gì cũng không thể giao phó cho ngươi được. Ngươi quá thiếu uy tín!”. Đây là loại ma quỷ nào? Tâm tính của dạng người này là gì? Là tà ác. Khi ngươi chung sống bình đẳng với anh ta, bàn thảo với anh ta một cách lịch sự, và cố gắng hòa nhã, thì anh ta xem đó là gì? Anh ta xem như ngươi bất tài và yếu đuối, dễ bị ức hiếp. Đây chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Đây là tà đến cùng cực. Mặc dù loại người tà ác này không nhiều, nhưng hội thánh nào cũng có người như vậy. Lòng họ cương ngạnh, kiêu ngạo, chán ghét lẽ thật, tâm tính thì hung ác. Chính những tâm tính và biểu hiện này chứng thực những người như thế này là tà ác. Họ không những không yêu thích những điều tích cực của nhân tính bình thường, như lương thiện, bao dung, nhẫn nại và yêu thương, mà ngược lại, trong lòng họ còn kỳ thị và xem thường. Ngươi nói xem, nơi sâu thẳm nội tâm của những người này là thứ gì? Là sự tà ác. Quá tà ác! Đây là một biểu hiện tà ác khác của kẻ địch lại Đấng Christ.

Hôm nay, nội dung thông công của chúng ta về những biểu hiện tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ hơi khác so với hai buổi thông công lần trước, mỗi buổi nhấn mạnh một khía cạnh. Các ngươi nói xem, trong sâu thẳm nội tâm kẻ địch lại Đấng Christ, họ tôn sùng tri thức, học vấn, ân tứ và tài năng đặc biệt – họ tôn sùng những thứ này trong sâu thăm nội tâm, vậy họ có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời không? (Thưa, không có.) Có một vài người nói rằng theo thời gian, họ có thể thay đổi. Họ có thay đổi không? Không, họ sẽ không thay đổi, họ không thể thay đổi. Tận trong xương tủy, họ xem thường sự khiêm nhường và ẩn giấu của Đức Chúa Trời, tình yêu thương chân thật của Ngài, sự trung tín của Ngài, cả lòng thương xót, quan tâm đến nhân loại của Ngài. Còn gì nữa? Họ xem thường sự bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời sống giữa con người, càng xem thường mọi lẽ thật căn bản không liên quan đến tri thức, học vấn, khoa học và ân tứ. Dạng người này có thể được cứu không? (Thưa, không.) Tại sao họ không thể được cứu? Bởi vì đây không phải là sự bộc lộ nhất thời của một tâm tính bại hoại nào đó, mà là sự bộc lộ của thực chất bản tính họ. Dù người khác có khuyên nhủ họ như thế nào hay thông công bao nhiêu về lẽ thật với họ cũng không thể thay đổi được họ. Đây không phải là sở thích nhất thời, mà là sâu thẳm nội tâm họ cần những thứ này. Chính vì họ cần tri thức, học vấn, ân tứ, và tài năng đặc biệt, nên họ có thể tôn sùng những thứ này. Tôn sùng nghĩa là gì? Có nghĩa là sẵn lòng chạy theo và đạt được những thứ này bằng mọi giá, ngụ ý của tôn sùng là vậy. Để đạt được những thứ này, họ sẵn lòng chịu khổ và trả bất kì giá nào để có được chúng, bởi vì đây là những thứ họ tôn sùng. Có những người thậm chí còn nói: “Đức chúa trời bảo tôi làm gì cũng được, tôi đều có thể làm thỏa lòng đức chúa trời, chỉ cần ngài không yêu cầu tôi mưu cầu lẽ thật là được”. Họ hy vọng như thế. Những người này không bao giờ tiếp nhận lời Đức Chúa Trời như lẽ thật; cho dù họ có ngồi đó tĩnh tâm nghe giảng và đọc lời Đức Chúa Trời, thì những gì họ có được từ đó cũng không phải là lẽ thật. Đó là bởi vì họ luôn dùng quan niệm và tưởng tượng của con người mà đánh giá lời Đức Chúa Trời, luôn dùng tri thức thần học để nghiên cứu lời Đức Chúa Trời, cho nên họ không có cách nào đạt được lẽ thật. Họ hy vọng có được tri thức, học vấn và một dạng thông tin hay một dạng lẽ mầu nhiệm nào đó từ lời Đức Chúa Trời – một dạng học vấn nào đó mà họ khao khát và tìm kiếm nơi sâu thẳm nội tâm, mà quần chúng không biết. Sau khi có được học vấn mà mọi người không biết này, họ đi khắp nơi khoe khoang, vọng tưởng dùng học vấn và tri thức này để vũ trang và tạo vỏ bọc cho mình, để họ có thể sống có thể diện hơn, tràn đầy hơn, để họ có thể có uy tín hơn, có địa vị hơn giữa mọi người, và khiến mọi người tin phục, sùng bái họ hơn. Vì thế, họ khoe khoang không biết mệt mỏi về một vài việc lớn mình từng làm, một vài chuyện mà họ cho là vẻ vang, cũng như một vài điều mà họ cho là không tệ, có thể nói ra và có thể khoe khoang rằng họ có năng lực, khác với người thường. Đi đâu, họ cũng rao giảng cùng một bộ lý luận. Những người này, dù có đọc lời Đức Chúa Trời hay tham dự nhóm họp và nghe giảng thế nào, cũng không thể hiểu lẽ thật. Ngay cả khi họ hiểu được một chút lẽ thật thì cũng tuyệt đối không thực hành. Đây chính là thực chất của dạng người này, và là thứ mà không ai có thể thay đổi được. Đó là bởi vì họ bẩm sinh đã có thứ mà người khác không có, nghĩa là những gì mà họ yêu thích liên quan đến thực chất tà ác của họ – đây là điểm yếu chí mạng của họ. Họ đã được định là không thể tiếp nhận lẽ thật, sẽ đi theo con đường của Phao-lô, sẽ chống lại lẽ thật và Đức Chúa Trời đến cùng. Tại sao lại như vậy? Bởi vì họ không yêu thích lẽ thật; họ sẽ không bao giờ tiếp nhận lẽ thật.

Các ngươi đã từng thấy qua sự tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ chưa? Xung quanh các ngươi có những người như thế này không? Các ngươi đã từng tiếp xúc với dạng người này chưa? Tại sao chúng ta lại dành thời gian của vài buổi nhóm họp để nói về chủ đề này? Bình thường, khi mọi người nói về việc biết mình, Ta thường nghe họ đề cập đến các tâm tính kiêu ngạo, tự nên công chính và giả dối. Nhưng rất hiếm khi nghe thấy ai nói về sự tà ác. Giờ đây, khi chúng ta thông công về tâm tính tà ác như thế này, Ta thường nghe có vài người nói rằng tâm tính của ai đó là tà ác. Có vẻ như các ngươi đã thực sự hiểu được một chút rồi. Trước đây, khi nói về việc biết mình, mọi người luôn nhắc đến sự kiêu ngạo. Bây giờ nhìn lại, tâm tính nào nghiêm trọng hơn, kiêu ngạo hay tà ác? (Thưa, tà ác.) Đúng vậy. Trước đây, mọi người không nhận thức được tính nghiêm trọng của vấn đề tà ác. Thực ra, tâm tính và thực chất tà ác nghiêm trọng hơn kiêu ngạo. Nếu tâm tính và thực chất bản tính của người ta tà ác kịch liệt, thì Ta nói cho ngươi biết, ngươi tuyệt đối đừng tiếp xúc với họ – hãy tránh xa họ. Dạng người này sẽ không đi con đường đúng đắn. Qua lại và tiếp xúc với kẻ tà ác thì ngươi có thể được lợi gì? Nếu không được lợi gì, nhưng ngươi có “kháng thể” để chống lại sự tà ác của họ, thì ngươi có thể qua lại với họ. Ngươi có sự đảm bảo này không? (Thưa, không.) Tại sao ngươi nên tránh tiếp xúc với những người như thế nếu không có sự đảm bảo này? Bởi vì đằng sau tà ác còn có hai thứ nữa – nham hiểm và giả dối. Người bình thường không hiểu lẽ thật và thiếu trải nghiệm, kiến thức, thì dễ bị mê hoặc. Ngươi chỉ có thể bị họ khuất phục, và cuối cùng trở thành tù nhân của họ. Việc trở thành tù nhân của họ có thể có hai trường hợp: hoặc là ngươi không thể đánh bại họ, và trong lòng ngươi cảm thấy không phục, nhưng ngoài miệng vẫn phải bất đắc dĩ chịu phục họ; hoặc trường hợp khác là ngươi hoàn toàn bị họ hàng phục. Đó là bởi vì trong bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ, có một điều mà mọi người không biết: đó là họ biết dùng các loại thủ đoạn, lời nói, phương thức, kế sách, biện pháp và luận điệu sai trái để thuyết phục ngươi nghe theo họ, để khiến ngươi tin rằng họ đúng đắn, và tích cực, và cho dù họ có hành ác, làm trái nguyên tắc lẽ thật và bộc lộ tâm tính bại hoại đi nữa, thì cuối cùng, họ cũng sẽ xoay chuyển tình thế và khiến mọi người cho rằng họ đúng. Họ có bản lĩnh này. Bản lĩnh này là gì? Đó là họ có năng lực mê hoặc cực mạnh. Đây chính là sự tà ác của họ, họ có năng lực mê hoặc cực mạnh. Trong lòng họ, những thứ họ yêu thích, không yêu thích, chán ghét, tôn sùng và sùng bái, đều được hình thành bởi một số quan điểm lệch lạc. Những quan điểm này chứa đựng một bộ lý luận, mà hết thảy đều là những ngụy lý sai mà có vẻ đúng, người bình thường khó phản bác, bởi vì họ không hề tiếp nhận lẽ thật, lại còn có thể ngụy biện cho sai lầm của chính mình. Không có thực tế lẽ thật, ngươi thông công về lẽ thật với họ thì cũng không thuyết phục được họ. Kết quả cuối cùng chỉ có thể là họ dùng những lý luận rống tuếch của mình để phản bác ngươi, khiến ngươi không nói nên lời, dần dần đầu hàng họ. Sự tà ác của dạng người này nằm ở chỗ họ có năng lực mê hoặc cực mạnh. Rõ ràng, họ chẳng là gì cả, làm bổn phận thì thành một mớ rối tinh rối mù; thế mà cuối cùng, họ vẫn có thể mê hoặc khiến một số người sùng bái họ, “quỳ” dưới chân họ, và khiến mọi người ngoan ngoãn phục tùng họ. Loại người này có thể nói sai thành đúng, nói đen thành trắng. Họ có thể đổi trắng thay đen, làm sai thì đổ cho người khác và nhận việc tốt của người khác về mình. Theo thời gian, ngươi trở nên mơ hồ, không biết rốt cuộc họ là loại người gì. Thông qua lời nói, hành động và vẻ ngoài của họ, ngươi cảm thấy: “Người này cao quá; chúng ta không thể sánh được!”. Đây chẳng phải là bị mê hoặc sao? Ngày ngươi bị mê hoặc chính là ngày ngươi lâm nguy. Chẳng phải loại người mê hoặc người khác này quá tà ác sao? Bất kể là ai, chỉ cần nghe lời họ thì đều có thể bị mê hoặc và làm nhiễu loạn, suốt một thời gian khó mà hồi phục. Một số anh chị em có thể phân định được họ và thấy họ là kẻ mê hoặc người, có thể vạch trần và loại bỏ họ, nhưng có những người bị mê hoặc thậm chí còn lên tiếng bênh vực họ, nói rằng: “Không được, nhà đức chúa trời không công bằng với anh ấy; tôi phải đứng lên bảo vệ anh ấy”. Vấn đề ở đây là gì? Rõ ràng, những người này bị họ mê hoặc, nhưng lại biện hộ và bênh vực cho họ. Những người này chẳng phải là tin Đức Chúa Trời nhưng lại đi theo con người sao? Trên danh nghĩa thì những người này tin Đức Chúa Trời, nhưng tại sao lại sùng bái những kẻ mê hoặc đến vậy, lại còn vô cùng bảo vệ cho họ? Một chuyện rõ ràng như thế mà còn không nhận ra, chẳng phải đây là đã bị mê hoặc đến một mức độ nào đó sao? Kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc người đến mức độ người ta không còn hình tượng giống con người, cũng không còn tâm tư đi theo Đức Chúa Trời nữa; mà thay vào đó là sùng bái và đi theo kẻ địch lại Đấng Christ. Những người này chẳng phải là phản bội Đức Chúa Trời sao? Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời, nhưng Ngài chưa thu phục ngươi, mà kẻ địch lại Đấng Christ đã thu phục được lòng ngươi, và ngươi hết lòng đi theo họ, thì chứng tỏ họ đã cướp ngươi khỏi nhà Đức Chúa Trời. Một khi ngươi rời xa sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời, rời xa nhà Đức Chúa Trời, thì kẻ địch lại Đấng Christ có thể thao túng và đùa giỡn người tùy thích. Khi đùa giỡn ngươi xong, họ không còn muốn ngươi nữa, và chuyển sang mê hoặc người khác. Nếu ngươi luôn nghe theo lời họ và có giá trị lợi dụng đối với họ, thì họ có thể để ngươi đi theo thêm một thời gian nữa. Nhưng nếu ngươi không còn giá trị lợi dụng nào, nếu họ không còn coi trọng ngươi nữa, thì họ sẽ thải bỏ ngươi. Liệu ngươi còn có thể trở lại tin Đức Chúa Trời được nữa không? (Thưa, không thể.) Tại sao ngươi lại không thể tin nữa? Bởi vì đức tin ban đầu của ngươi đã không còn, đã tan biến thành mây khói. Đây chính là cách kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và tàn hại người. Họ dùng tri thức và học vấn mà mọi người sùng bái, cùng với ân tứ của họ, để mê hoặc và khống chế mọi người, giống như Sa-tan mê hoặc A-đam và Ê-va vậy. Bất kể thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ là gì, bất kể trong thực chất bản tính của họ ghê tởm điều gì và tôn sùng điều gì, thì cũng có một điều chắc chắn là: những gì họ thích và những gì họ dùng để mê hoặc mọi người đều đi ngược lại lẽ thật, không liên quan gì đến lẽ thật và đối địch với Đức Chúa Trời – điểm này là chắc chắn. Các ngươi hãy nhớ lời này: kẻ địch lại Đấng Christ không bao giờ có thể tương hợp với Đức Chúa Trời.

Các ngươi nói xem, loại người nào bộc lộ những ký hiệu và dấu hiệu tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ? (Thưa, người có ân tứ.) Ai nói nữa đi nào. (Thưa, người thích thể hiện.) Người thích thể hiện, mức độ này chưa đủ tà ác. Mặc dù có thể họ thích thể hiện, nhưng họ không có dục vọng khống chế người khác, họ chưa đi xa đến mức đó – đây là một tâm tính bại hoại. Các ngươi suy nghĩ kỹ đi: những người nào có các ký hiệu và dấu hiệu có thể khiến ngươi từ đủ loại hành vi và dấu vết khác nhau ở họ mà sớm nhận ra rằng thứ người này là kẻ địch lại Đấng Christ? (Thưa, người kiêu ngạo và yêu thích địa vị.) Kiêu ngạo và yêu thích địa vị thì có chút liên quan, nhưng chưa đến mức đó. Để Ta nói về một chuyện, các ngươi nghe xem điểm này có then chốt hay không. Có những người luôn đưa ra những quan điểm khác với lẽ thật và những điều tích cực. Nhìn bề ngoài, có vẻ họ luôn muốn lòe thiên hạ và khác với người thường, nhưng thực ra không hẳn là vậy. Có lẽ là quan điểm của họ dẫn đến hành vi bên ngoài như thế. Trên thực tế, nếu họ thực sự có những quan điểm như thế, thì sẽ có vấn đề nghiêm trọng. Chẳng hạn như khi tất cả mọi người đang thông công cùng nhau, nói rằng: “Chúng ta phải tiếp nhận chuyện này từ Đức Chúa Trời. Nếu không hiểu thì chúng ta cứ thuận phục trước đã”, và tất cả mọi người đều đồng tình như vậy. Quan điểm này có đúng đắn không? (Thưa, đúng đắn.) Nguyên tắc thực hành này có sai lệch không? (Thưa, không.) Vậy thì người ta nói những lời kiểu nào mà cho thấy họ có ký hiệu và dấu hiệu của tâm tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ? “Thuận phục là một chuyện, nhưng anh phải hiểu rõ chuyện gì đang diễn ra, đúng không? Chuyện gì cũng phải nghiêm túc, đúng chứ? Anh không thể thuận phục một cách hồ đồ được; đức chúa trời đâu có yêu cầu chúng ta thuận phục một cách tùy tiện”. Đây chẳng phải là một dạng luận điệu sao? (Thưa, phải.) Có một vài người nói: “Nếu có gì chúng ta không hiểu thì có thể kiên nhẫn chờ đợi, tìm người hiểu để thông công. Bây giờ, chúng ta không ai hiểu và chưa tìm được ai để thông công, thì cứ thuận phục trước đã”. Quan điểm của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? “Mấy người toàn loại nhu nhược, cái gì cũng thuận phục, cái gì cũng nghe theo đức chúa trời. Nghe tôi đây này! Tại sao không ai nhắc đến tôi? Để tôi trình bày một kiến giải độc đáo cho mà nghe!”. Họ muốn nói cho hay. Họ phản đối việc mọi người thực hành lẽ thật, phản đối việc mọi người tuân giữ nguyên tắc lẽ thật. Họ luôn muốn giả vờ cao thượng, đâm bị thóc, chọc bị gạo, nói cho hay và khiến mọi người nhìn họ với con mắt khác. Đây chẳng phải là một dấu hiệu của tâm tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Đây chẳng phải là dấu hiệu của họ sao? Tại sao việc tất cả mọi người thuận phục lại sai? Cho dù họ có thuận phục một cách ngu muội – thì có tính là sai không? Đức Chúa Trời có định tội chuyện đó không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời không định tội. Họ dựa vào cái gì mà chọc gậy bánh xe trong chuyện này để gây rối? Khi thấy mọi người thuận phục Đức Chúa Trời, trong lòng họ có tức giận không? Khi thấy mọi người thuận phục Đức Chúa Trời thì lòng họ không vui, khi họ không được lợi gì, khi mọi người không vâng phục họ, không nghe theo họ, không thỉnh giáo họ, thì họ không vừa ý, trong lòng chống đối, nghĩ bụng: “Anh thuận phục ai? Anh thuận phục lẽ thật ư? Thuận phục lẽ thật thì tốt thôi, nhưng chúng ta cần phải nghiên cứu chuyện này. Vậy lẽ thật là gì? Anh có thuận phục đúng cách không? Chẳng phải ít nhất anh cũng nên hiểu tường tận sự tình sao?”. Đây chẳng phải là luận điệu của họ sao? Họ đang muốn làm gì? Họ muốn gây rối, mê hoặc mọi người. Có những người tê dại, ngớ ngẩn và ngu muội, nghe họ nói thế liền bị mê hoặc, trong khi những người biết phân định sẽ phản bác họ rằng: “Anh làm cái gì vậy? Tôi thuận phục Đức Chúa Trời thì anh ghen ghét, đố kỵ à? Tôi thuận phục Đức Chúa Trời thì anh không vui, tôi thuận phục anh thì anh mới vui chứ gì? Tất cả mọi người phải vâng phục anh, nghe theo anh và làm theo lời anh thì mới là đúng chứ gì? Điều anh nói có phù hợp lẽ thật không?”. Thấy thế, họ nghĩ: “Ở đây có một vài người có sự phân định, mình cứ chờ chút đã”. Tóm lại, khi tất cả mọi người đều đang thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật, thì họ nóng lòng nhảy ra. Mọi người càng thuận phục Đức Chúa Trời, thuận phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, thực hành theo lời Đức Chúa Trời, làm việc theo sự sắp xếp công tác và nguyên tắc, thì họ càng trở nên khó chịu, bực bội và bất an. Đây chính là dấu hiệu của thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Hễ mọi người nghe lời Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc, họ liền cảm thấy khó chịu và bồn chồn. Đây chẳng phải là vấn đề sao? (Thưa, phải.) Nếu không ai đọc lời Đức Chúa Trời, hoặc nếu mọi người đọc nhưng không thông công về lời Ngài, mà chỉ nghe theo họ, thì họ liền vui mừng. Điều này cho thấy vấn đề gì? Họ không bao giờ thông công về lời Đức Chúa Trời. Hễ tất cả mọi người bình tâm thông công về lời Đức Chúa Trời, và kẻ địch lại Đấng Christ thấy không ai để ý đến họ, không ai nghe theo họ, họ không thể có được sự sùng bái của mọi người, địa vị của họ bị đe dọa, và họ lâm nguy – thì đó là lúc họ chọc gậy bánh xe để gây rối, đưa ra tà thuyết hoặc luận điệu sai lầm để mê hoặc và làm nhiễu loạn ngươi, khiến ngươi không chắc những gì các ngươi vừa thảo luận là đúng hay sai nữa. Đúng lúc tất cả mọi người, qua thông công, cuối cùng cũng hiểu được điều gì đó, thì họ liền nói ra vài lời của quỷ để làm rối lên. Đây chẳng phải là tâm tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Tâm tính tà ác này tương ứng với biểu hiện nào? (Thưa, thù hằn lẽ thật.) Đúng vậy. Tất cả mọi người càng hiểu lẽ thật, thì họ càng cảm thấy bực bội. Đây chẳng phải là thù hằn lẽ thật sao? Nó chẳng tương ứng sao? (Thưa, phải.) Các ngươi đã gặp phải những người như thế này chưa? Trong khi tất cả mọi người đang thông công về điều gì đó, thì họ giữ im lặng hồi lâu. Cuối cùng, khi không dễ gì mới thông công sáng tỏ được một chút, họ liền xuất đầu lộ diện, và sau khi xuất đầu lộ diện, họ đưa ra một nan đề để gây khó dễ cho những người này. Ý họ là: “Để tôi cho các người thấy, tôi sẽ cho các người thấy tôi có thể làm gì! Các người thông công về lẽ thật, các người không nghe tôi, các người phớt lờ tôi, các người không quan tâm đến tôi và các người không để ý đến tôi, vậy thì tôi sẽ đưa ra một nan đề cho các người thông công và khiến các người rối hết lên!”. Đây chẳng phải là ma quỷ sao? (Thưa, phải.) Đây chính là ma quỷ, là kẻ địch lại Đấng Christ chính cống.

Có những người, hễ nghe nói ai đó tiêu cực hoặc yếu đuối, liền cảm thấy đặc biệt vui mừng. Nhất là khi thấy ai đó làm nhiễu loạn đời sống hội thánh, ai đó làm chuyện xấu để khiến công tác của hội thánh rơi vào hỗn loạn, hoặc khi chứng kiến ai đó mù quáng gây rối – thì họ liền cảm thấy đặc biệt thích thú, hớn hở đến mức chỉ muốn bắn pháo hoa, ăn mừng. Dạng người này là sao vậy? Tại sao họ lại vui sướng như thế trước sự bất hạnh của người khác? Tại sao trong thời khắc then chốt này, họ lại không thể đứng về phía Đức Chúa Trời, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời? Dạng người này chẳng phải là kẻ chẳng tin sao? Họ chẳng phải là tay sai của Sa-tan sao? Các ngươi nên phản tỉnh xem mình có dạng biểu hiện như vậy không, cũng nên nhìn xem có những người như thế xung quanh mình không, và xem làm sao để phân định dạng người này, nhất là khi thấy kẻ ác hành ác thì thái độ của các ngươi là gì? Các ngươi chỉ làm người ngoài cuộc bàng quan đứng xem chuyện náo nhiệt, hay là bản thân các ngươi cũng có thể đi con đường này? Các ngươi có phải là dạng người này không? Có những người sẽ không phản tỉnh như vậy. Họ không thích nhìn thấy điểm tốt nơi người khác; họ chỉ thích mọi người đều tệ hơn họ, như vậy họ mới vui sướng. Chẳng hạn như khi họ thấy ai đó dâng mình cho Đức Chúa Trời bị tỉa sửa, hoặc khi ai đó thành tâm tin Đức Chúa Trời mắc vi phạm, thì họ mừng thầm và nói: “Hừ, ngày của anh cũng đã tới rồi. Anh dâng mình cho đức chúa trời – giờ thì sao? Giờ chịu oan uổng rồi, phải không? Giờ chịu thiệt hại rồi, phải không? Còn dâng mình gì chứ? Anh luôn nói thật, và bây giờ bị tỉa sửa, phải không? Đáng đời!”. Tại sao họ lại vui mừng như vậy? Chẳng phải họ tìm niềm vui trong nỗi bất hạnh của người khác sao? Chẳng phải dạng người này lòng dạ bất chính sao? Thấy ai gây nhiễu loạn công tác của nhà Đức Chúa Trời thì họ vui mừng. Thấy công tác của nhà Đức Chúa Trời chịu thiệt hại thì họ vui mừng. Cái khiến họ vui mừng là gì? Họ nghĩ: “Cuối cùng cũng có người như mình, không yêu thích lẽ thật, gây thiệt hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, mà không hề cảm thấy tự trách”. Đó chính là cái khiến họ vui mừng. Đây chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Quá tà ác rồi! Trong các ngươi, có những người như thế này không? Có những người bình thường không ngân nga, nhưng hễ thấy ai làm sai gì đó, lại bỗng nhiên bắt đầu hát, ngoáy người, trông vô cùng vui vẻ, và nghĩ: “Hôm nay cuối cùng cũng có chuyện vui. Mừng quá, phải ăn thêm mấy bát cơm nữa!”. Đây là tâm tính gì? Là tâm tính tà ác. Họ sẽ không nhỏ một giọt nước mắt nào hay cảm thấy buồn bã một giây nào bởi vì lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại. Họ không cảm thấy tự trách, buồn bã hay đau đớn. Thay vào đó, họ cảm thấy vui mừng và thoải mái bởi vì sai lầm của ai đó đã gây thiệt hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và làm ô danh Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là tà ác sao? Đây chẳng phải là dấu hiệu của việc có bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Đây cũng là một dấu hiệu.

Nghe nói có những người trong tổ rao truyền phúc âm rất có tài hùng biện. Họ đã nghe giảng nhiều năm và đúc rút được một bộ đạo lý, đi đâu cũng ba hoa múa mép, khi thuyết giảng thì xuất khẩu thành văn, thể hiện đầy đủ ân tứ và khả năng hùng biện của bản thân. Có vài người thấy những cá nhân như thế rất bản lĩnh và quyết định đi theo họ. Cuối cùng, họ nói gì: “Chúng tôi nghe mối thông công của người đó, thì không cần nghe bài giảng từ bề trên; cũng không cần nghe lời đức chúa trời. Nghe mối thông công của người đó thay thế là được rồi”. Những người này chẳng lâm nguy sao? (Thưa, phải.) Những người này vô cùng lâm nguy. Họ yêu thích hành động và hành vi, cũng như sự ngông cuồng, càn quấy và tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Họ yêu thích những gì kẻ địch lại Đấng Christ yêu thích, và chán ghét những gì kẻ địch lại Đấng Christ chán ghét. Họ yêu thích tri thức, học vấn, đạo lý, cùng các loại lý luận thần học, tà thuyết và luận điệu sai lầm mà kẻ địch lại Đấng Christ rao giảng. Họ sùng bái những thứ này. Họ sùng bái đến mức độ nào? Ngay cả ban đêm ngủ mơ, họ cũng nói những lời này. Chuyện này chẳng nghiêm trọng sao? Khi sùng bái đến mức độ này, liệu những người này còn có thể đi theo Đức Chúa Trời được nữa không? Một số người có thể nói: “Không đúng. Họ vẫn ở trong hội thánh, họ vẫn tin Đức Chúa Trời mà”. Họ chưa có cơ hội thôi. Một khi họ tìm được người hoặc đối tượng mà họ muốn sùng bái, thì họ có thể rời bỏ Đức Chúa Trời bất kỳ lúc nào. Đây chẳng phải là một dấu hiệu của việc có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ sao? (Thưa, phải.) Khi gặp dạng người này, các ngươi có thể phân định được họ không? (Thưa, có.) Trước đây, có thể các ngươi chưa biết tính chất nghiêm trọng của những chuyện như thế. Giờ đây, khi gặp phải dạng người này lần nữa, các ngươi còn đặt câu hỏi về họ không? Các ngươi có mặc kệ họ không? (Thưa, không.) Vậy thì các ngươi đã có được chút phân định về dạng người này chưa? (Thưa, chúng con có rồi.) Đây là một số dấu hiệu và thông tin mà họ bộc lộ ra. Nghĩa là một khi những người này có cơ hội hoặc địa vị, hoặc bị ai đó mê hoặc, thì họ có thể phản bội Đức Chúa Trời bất cứ lúc nào, bất kỳ nơi đâu. Liệu mọi người có thể thấy được sự bộc lộ và thực chất tà ác của họ không? Có một số dấu vết mà mọi người có thể thấy không? (Thưa, có.) Phải có chứ. Nếu Ta không đề cập đến những điều này, các ngươi có thể nghĩ: “Ai bộc lộ những dấu hiệu này? Ai bộc lộ những ký hiệu này? Không có, mình chưa thấy ai cả”. Thông qua những gì Ta nói về những dấu hiệu này, chẳng phải các ngươi đã nhận ra rằng có dạng người này sao? Trong số họ, có những người là người đi theo, có những người là lãnh đạo và người làm công. Đây là dấu hiệu thứ ba của việc có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ.

Những người có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ còn một dấu hiệu đặc biệt nữa, là điểm chung của hết thảy họ. Những người này, mượn danh nghĩa yêu thích lẽ thật và khao khát con đường thật mà đến nghe giảng, học các tri thức và nội dung khác nhau liên quan đến lẽ thật, trang bị cho mình các lý luận và tri thức thần học, rồi sử dụng những lý luận và tri thức này để tham gia đấu khẩu với các lãnh đạo và chấp sự, dùng chúng để kết tội người này, để mê hoặc và thuyết phục người kia, thậm chí để đưa ra cái gọi là sự cung ứng, trợ giúp và chăm tưới cho người nọ. Nhưng có một điểm cho thấy rõ rằng họ không phải là người yêu thích lẽ thật. Điểm đó là gì? Đó là dù những người này có trang bị cho bản thân và rao giảng thế nào đi nữa, họ cũng chỉ nói và giảng, chỉ là trang bị cho mình, chứ không bao giờ làm việc theo nguyên tắc lẽ thật. “Không bao giờ” nghĩa là gì? Có nghĩa là họ không thể nói một lời thật nào, không bao giờ trung thực, và không bao giờ trả cái giá của việc buông bỏ lợi ích của địa vị. Bất kể trường hợp nào, khi nói chuyện và hành động, họ cũng luôn cố hết sức vì danh lợi và địa vị của chính mình. Dù bề ngoài, họ trông có vẻ trả giá và yêu thích lẽ thật thế nào đi nữa, thì thực chất tà ác của họ vẫn không thay đổi. Vấn đề ở đây là gì? Một mặt, những người này không bao giờ tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật khi hành động. Mặt khác, dù có biết các nguyên tắc lẽ thật và con đường thực hành đi nữa, họ cũng không thực hành. Đây là dấu hiệu cho thấy họ có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Bất kể họ có địa vị hay không, bất kể họ có thực hiện bổn phận rao truyền phúc âm, hoặc làm lãnh đạo, người làm công hay không, thì đặc trưng của họ là gì? Họ chỉ có thể giảng đạo lý đúng đắn, nhưng không bao giờ làm việc đúng đắn. Đây chính là đặc trưng của họ. Họ nói đạo lý rõ ràng hơn ai hết, nhưng làm lại tệ hơn ai hết – đây chẳng phải là tà ác sao? Đây là dấu hiệu thứ tư của việc có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi hãy đối chiếu đi, xem có nhiều người xung quanh ngươi có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ hay không. Sau khi Ta liệt kê những điều này, các ngươi có thể đánh giá liệu xung quanh ngươi, dạng người này có nhiều hay không? Họ chiếm bao nhiêu phần trăm? Trong đó, có nhiều lãnh đạo hơn, hay nhiều tín hữu bình thường hơn? Chẳng phải một vài người các ngươi trước đây nghĩ rằng chỉ lãnh đạo mới có cơ hội trở thành kẻ địch lại Đấng Christ sao? (Thưa, trước kia đúng là vậy.) Vậy hiện nay quan điểm này đã thay đổi chưa? Kẻ địch lại Đấng Christ đâu có trở thành kẻ địch lại Đấng Christ bởi vì họ có địa vị; ngay cả khi chưa có địa vị, họ cũng đã là thứ này rồi. Chỉ là cuối cùng, may sao họ được ở vị trí lãnh đạo, và bản tướng kẻ địch lại Đấng Christ của họ nhanh chóng bại lộ, tựa như một loại nấm, khi có nhiệt độ và thổ nhưỡng thích hợp, liền lên men rất nhanh, chân tướng bị bại lộ. Nếu không có hoàn cảnh thích hợp, thực chất bản tính của họ có thể bại lộ chậm hơn một chút, nhưng việc bại lộ chậm hơn này không có nghĩa rằng họ không có bản tính đó. Có bản tính như thế, thì người ta tất nhiên sẽ hành động và bộc lộ, và những hành vi được bộc lộ này chính là ký hiệu và dấu hiệu của thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Một khi họ có những ký hiệu và dấu hiệu này, thì có thể phân loại họ là kẻ địch lại Đấng Christ.

Các ngươi nói xem, thực hành lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc lẽ thật thì có cần các loại cớ và căn cứ bao biện không? (Thưa, không.) Chỉ cần người ta có một tấm lòng thành thì có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Người không thực hành lẽ thật có đưa ra các loại cớ không? Chẳng hạn như khi họ làm sai gì đó, làm trái nguyên tắc và bị ai đó chỉnh đốn, thì họ có thể nghe không? Họ không nghe. Có phải chỉ có mỗi không nghe không? Họ tà ác như thế nào? (Thưa, họ tìm cớ để thuyết phục người ta, khiến người ta nghĩ rằng họ đúng.) Họ sẽ tìm một cách nói phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của ngươi, sau đó họ sử dụng một bộ lý luận thuộc linh mà ngươi có thể thừa nhận và tiếp nhận, đồng thời lại phù hợp với lẽ thật, để thuyết phục ngươi, khiến ngươi chịu phục, và khiến ngươi thật lòng tin rằng họ đúng, từ đó đạt được mục đích mê hoặc và khống chế mọi người. Đây chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Đây chính là tà ác. Rõ ràng, họ đã làm sai, làm việc trái nguyên tắc và lẽ thật, không thực hành lẽ thật, nhưng họ lại đưa ra một loạt căn cứ bao biện dựa trên lý luận. Đây là tà ác cùng cực rồi. Cũng giống như chuyện sói ăn thịt cừu vậy; bản tính của sói vốn là ăn thịt cừu, và Đức Chúa Trời đã tạo ra loài động vật này để ăn thịt cừu – cừu là thức ăn của nó. Nhưng sau khi ăn thịt cừu xong, sói vẫn tìm đủ loại cớ, thì ngươi có ý nghĩ gì về nó không? Ngươi nghĩ: “Mày ăn thịt cừu của tao, rồi còn muốn tao nghĩ việc mày ăn thịt cừu của tao là việc nên làm, là hợp lý và thích hợp, thậm chí tao còn nên cảm ơn mày”. Chẳng phải ngươi cảm thấy tức giận sao? (Thưa, phải.) Trong khi tức giận, ngươi có ý nghĩ gì? Ngươi nghĩ: “Thứ này quá tà ác! Nếu muốn ăn thì cứ ăn đi, con người mày là thế; ăn thịt cừu là một chuyện, nhưng thậm chí mày còn đưa ra một mớ lý do và cái cớ, bảo tao đổi lại phải cảm thấy biết ơn mày. Đây chẳng phải là đổi trắng thay đen sao?". Đây chính là tà ác. Khi sói muốn ăn thịt cừu, nó kiếm cớ gì? Sói nói: “Cừu non, hôm nay tao phải ăn thịt mày, tao cần phải trả thù mày vì năm ngoái đã sỉ nhục ta”. Cừu cảm thấy oan uổng, nói: “Năm ngoái tôi còn chưa sinh ra mà”. Khi sói nhận ra nó nói nhầm và tính nhầm tuổi của cừu, nó nói: “Ồ, vậy thì cái đó không tính, nhưng tao vẫn phải ăn thịt mày bởi vì lần trước, khi tao uống nước từ dòng sông này, mày đã làm đục nước, nên tao phải trả thù mày”. Cừu nói: “Tôi ở hạ lưu, anh ở thượng lưu. Làm sao tôi có thể làm bẩn nước thượng lưu được? Nếu anh muốn ăn thịt tôi thì cứ ăn luôn đi. Đừng kiếm đủ loại cớ làm gì”. Đó chính là bản tính của con sói. Nó chẳng tà ác sao? (Thưa, phải.) Sự tà ác của sói có giống của con rồng lớn sắc đỏ không? (Thưa, có.) Dùng lời này mô tả con rồng lớn sắc đỏ là phù hợp nhất. Con rồng lớn sắc đỏ muốn bắt bớ những người tin Đức Chúa Trời; nó muốn buộc tội những người này. Thế là đầu tiên, nó tạo ra một số ấn tượng sai lầm, bịa ra một số tin đồn, rồi công bố với thế giới để khiến cả thế giới đứng lên kết tội ngươi. Nó gán nhiều tội danh cho những người tin Đức Chúa Trời, chẳng hạn như “gây rối trật tự công cộng”, “tiết lộ bí mật quốc gia” và “phá hoại quyền lực nhà nước”, v.v.. Nó còn tung tin đồn rằng ngươi đã phạm tội hình sự gì đó và gán những tội danh này cho ngươi. Ngươi không chịu nhận tội thì có được không? Đây là chuyện ngươi có nhận tội hay không à? Đâu phải. Một khi nó xác định phải bắt ngươi, thì cũng giống như sói xác định phải ăn thịt cừu, thế là nó tìm đủ loại cớ. Con rồng lớn sắc đỏ tạo ra một số ấn tượng sai lầm, nói chúng ta đã làm chuyện xấu này nọ, trong khi thực ra là kẻ khác làm. Nó vu oan giá họa cho hội thánh. Ngươi có thể tranh luận với nó được không? (Thưa, không.) Tại sao ngươi không thể tranh luận với nó? Ngươi có thể tranh luận rõ ràng với nó được không? Ngươi nghĩ ngươi tranh luận và nói ra lẽ chuyện này với nó, thì nó sẽ không bắt ngươi sao? Ngươi nghĩ quá tốt về nó rồi. Ngươi chưa kịp nói xong thì nó đã túm tóc ngươi, đập đầu ngươi vào tường, rồi hỏi: “Mày có biết tao là ai không? Tao là ma quỷ!”. Sau đó, sẽ có một trận đánh đập tàn nhẫn, cùng với những đêm ngày hỏi cung và tra tấn luân phiên, rồi ngươi sẽ bắt đầu biết điều. Lúc này, ngươi sẽ nhận ra: “Không có chỗ cho lý luận ở đây; đây là cái bẫy!”. Con rồng lớn sắc đỏ không tranh luận với ngươi – ngươi nghĩ nó vô tình, ngẫu nhiên tạo ra những ấn tượng sai lầm đó sao? Nó có âm mưu đằng sau, và đã lên kế hoạch cho bước đi tiếp theo. Đây chỉ là màn dạo đầu của nó thôi. Có một vài người trong lòng còn nghĩ rằng: “Họ không hiểu những chuyện liên quan đến việc tin Đức Chúa Trời; nếu tôi giải thích rõ với họ thì sẽ ổn cả thôi”. Ngươi có thể giải thích rõ ràng được không? Chuyện ngươi không làm thì nó đổ lên đầu ngươi – ngươi còn có thể giải thích rõ ràng mọi chuyện được sao? Khi nó vu oan cho ngươi, nó không biết ngươi không làm hay sao? Nó không biết ai làm hay sao? Nó thừa biết! Vậy tại sao nó lại đổ tội lên đầu ngươi? Ngươi chính là người nó muốn bắt giữ. Ngươi nghĩ khi nó gán tội danh này cho ngươi, nó không biết ngươi đang bị oan hay sao? Nó muốn cho ngươi chịu oan uổng, muốn bắt giữ và bách hại ngươi. Đó chính là tà ác.

Hễ là người có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ thì đều có thực chất chán ghét và thù hận lẽ thật. Trong lòng, họ không hề tiếp nhận lẽ thật, căn bản không có ý định thực hành lẽ thật. Nếu ngươi còn cho rằng họ không hiểu lẽ thật, và mình nên thông công về lẽ thật với họ, thì kết quả sẽ thế nào? Ngươi sẽ đi vào ngõ cụt – ngươi đã tìm sai người. Họ không phải là người tiếp nhận lẽ thật, và ngươi không nên thông công với họ. Thay vào đó, ngươi nên dạy dỗ họ và nghiêm khắc với họ, nói rằng: “Anh đã làm bổn phận bao lâu rồi? Làm sao anh có thể xem bổn phận như trò trẻ con được? Đây có phải là công tác của anh không? Anh đang thách thức ai? Đâu phải anh chống lại tôi, mà là anh chống lại Đức Chúa Trời và lẽ thật!”. Chẳng phải ngươi cần dạy cho họ một bài học sao? Thông công về lẽ thật với họ có tác dụng không? Không. Tại sao không có tác dụng? Họ là con sói, chứ không phải con cừu bị thất lạc hay lạc lối. Liệu sói có thể thực hành lẽ thật được không? Không thể. Bản tính của sói là gì? (Thưa, tà ác.) Ngay khi nhìn thấy cừu, nó bắt đầu nhỏ dãi, mắt chứa đầy những hình ảnh về món ăn béo bở, và cừu chắc chắn sẽ là thức ăn của nó. Đó là bản tính của nó; đó là tà ác. Nếu ngươi bảo nó: “Cừu thật đáng thương và hiền lành, xin đừng ăn chúng. Chọn loài vật hung dữ khác để ăn có được không?”. Nó nghe ngươi nói vậy thì có thể hiểu được không? Không thể. Đó là bản tính của nó rồi. Có những người không thực hành lẽ thật mà cứ tìm đủ loại cớ – đó là bản tính của họ. Bản tính này là gì? Chính là tà ác. Dù hành động của họ có đê tiện, phản nghịch và rõ ràng trái nguyên tắc đến thế nào, họ vẫn muốn giữ thể diện; ngay cả khi làm trái lẽ thật, họ cũng muốn làm sao cho vẻ vang đàng hoàng, đường đường chính chính. Đây chẳng phải là tà ác sao? Làm trái lẽ thật là chuyện tích cực hay tiêu cực? (Thưa, tiêu cực.) Làm sao có thể làm một chuyện tiêu cực một cách quang minh chính đại, đường đường chính chính và vẻ vang đàng hoàng được? Cố kết hợp hai khía cạnh này chẳng phải hơi gượng sao? Đây chính là tà ác: đây là hành vi và biểu hiện của những người có thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi nghe thì cảm thấy mâu thuẫn, nhưng đó chính là cách họ hành động, đó chính là tâm tính của họ và những gì họ bộc lộ. Trong lòng họ thù hận lẽ thật, không bao giờ tiếp nhận – đây chính là kẻ địch lại Đấng Christ, đây chính là thực chất bản tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Trong thực chất tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ có bao nhiêu mục? (Thưa, bốn mục.) Có tổng cộng bốn mục. Chẳng phải bốn mục này đủ để các ngươi phân định sao? Sự tà ác vốn chứa đựng các yếu tố nham hiểm và giả dối, và khi các yếu tố nham hiểm và giả dối đạt đến đỉnh điểm, thì nó được xác định tính chất là tâm tính tà ác. Kẻ địch lại Đấng Christ là hiện thân của loại tâm tính tà ác này.

Ngày 3 tháng 9 năm 2019

Trước: Mục 7. Họ tà ác, nham hiểm và giả dối (Phần 2)

Tiếp theo: Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 1)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger