Mưu cầu lẽ thật là gì (2)

Trong lần nhóm họp trước, chúng ta đã thông công về mưu cầu lẽ thật là gì. Giờ chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc ôn lại: mưu cầu lẽ thật là gì? Các ngươi có câu trả lời cho câu hỏi này không? Sau lần thông công trước, các ngươi có ngẫm nghĩ về điều này không? Sau khi chúng ta thông công xong về chủ đề nào đó, ngươi sẽ phải ngẫm nghĩ về chúng, rồi sau đó kinh qua và nếm trải chúng một cách thực tế trong đời thực. Chỉ khi đó ngươi mới có thể có được hiểu biết thực sự; chỉ khi đó ngươi mới có thể thực sự hiểu và nhận thức được những chủ đề mình đang suy ngẫm; chỉ khi đó ngươi mới có thể đưa ra kinh nghiệm và hiểu biết thực sự. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Vậy các ngươi đã ngẫm nghĩ về vấn đề này chưa? Mưu cầu lẽ thật là gì? Việc mưu cầu lẽ thật có những yếu tố nào? Nó gồm những mục chính gì? Các ngươi đã tóm tắt những điều này chưa? (Thưa, lần trước, đầu tiên Đức Chúa Trời thông công về những tư tưởng, quan điểm và thái độ sai lầm khác nhau của con người đối với việc mưu cầu lẽ thật, sau đó Đức Chúa Trời thông công chi tiết về năm bước mưu cầu lẽ thật.) Về cơ bản, có hai phần chính trong buổi thông công lần trước của chúng ta: một số trạng thái tiêu cực hoặc quan điểm sai lầm của nhiều người đối với việc mưu cầu lẽ thật, những hiểu lầm của con người về việc mưu cầu lẽ thật, cũng như những lời bào chữa và biện minh mọi người đưa ra cho việc không mưu cầu lẽ thật – đó là phần chính thứ nhất. Thứ hai là thông công về cách mưu cầu lẽ thật, bao gồm năm bước. Mặc dù chỉ có hai phần, nhưng chúng ta đã đề cập đến rất nhiều chi tiết và nội dung cụ thể trong từng phần. Ta đã phơi bày một số hiểu biết và nhận thức sai lầm của con người về việc mưu cầu lẽ thật, và Ta cũng phơi bày một số khó khăn con người gặp phải khi mưu cầu lẽ thật, cũng như một số lời bào chữa, biện minh và cái cớ những người chán ghét lẽ thật đưa ra để không mưu cầu lẽ thật. Những thái độ và nhận thức tiêu cực, thụ động mọi người thể hiện đối với việc mưu cầu lẽ thật tương ứng với lối sống và sự theo đuổi họ bám lấy trong đời thực, cũng như thái độ họ chấp chứa đối với lẽ thật – tất cả đều liên quan đến những hành vi cụ thể và những biểu hiện cụ thể của con người. Sau đó, dựa theo các hành vi khác nhau của con người, Ta đã đưa ra một vài phương pháp và các bước thực hành cụ thể liên quan đến con đường mưu cầu lẽ thật. Các ngươi đã nắm rõ cả chưa? (Thưa, rồi.) Thật chứ? Thế tại sao các ngươi không nói gì? Dường như các ngươi vẫn chưa nắm rõ lắm; còn nhiều điều chúng ta cần phải thông công thêm.

Vấn đề quan trọng nhất khi tin Đức Chúa Trời là mưu cầu lẽ thật. Mưu cầu lẽ thật là gì? Khi nói đến vấn đề mưu cầu lẽ thật, tất cả các biểu hiện của mọi người đều bộc lộ rất nhiều rắc rối và khó khăn, và mọi người có đủ kiểu lý do biện minh, bào chữa cho việc không mưu cầu lẽ thật – những rào cản thật quá lớn. Bởi những khó khăn khác nhau nên con người có vẻ cực kỳ bị gò ép và không thoải mái trong việc mưu cầu lẽ thật, và họ nghĩ điều đó rất khó. Trên thực tế, bản thân câu hỏi – “Mưu cầu lẽ thật là gì?” – rất dễ trả lời, vậy tại sao mọi người lại không thể mưu cầu lẽ thật được? Lý do là gì? Mọi người vỗ ngực rằng họ có lương tâm và lý trí, rằng họ thực sự tin Đức Chúa Trời, rằng họ có thể thực hiện bổn phận của mình, rằng họ sẵn lòng chịu khổ và sẵn sàng trả giá. Tại sao trên cơ sở những hành vi tốt đẹp này, họ lại không thể dấn bước vào con đường mưu cầu lẽ thật? Họ có nhân tính tốt, nhân cách tốt và danh tiếng lớn như vậy; họ có ý chí, khát vọng và mong muốn mưu cầu; họ có những nỗ lực tự thân, ý chí chịu đựng gian khổ và thái độ sẵn sàng trả giá; họ có thái độ khao khát tiếp nhận lẽ thật rất chủ động, tích cực và cầu tiến. Dựa trên những nền tảng này, tại sao họ lại không đủ tư cách mưu cầu lẽ thật? Tại sao họ không thể đạt được việc mưu cầu lẽ thật? Đâu là gốc rễ của vấn đề? (Thưa, đó là con người không yêu lẽ thật và có bản tính chán ghét lẽ thật.) Đó là câu trả lời chính xác. Nguyên nhân căn bản nhất là mọi người có những tâm tính bại hoại. Tâm tính bại hoại của con người thuộc về Sa-tan, và bất cứ điều gì thuộc về Sa-tan đều đối nghịch với Đức Chúa Trời và lẽ thật. Do đó, yêu cầu con người mưu cầu lẽ thật chẳng khác nào yêu cầu họ từ bỏ đời sống và các thuộc tính cố hữu của họ, cũng như phương thức theo đuổi và quan điểm sống vốn có của họ. Từ bỏ những thứ sai trái này, từ bỏ những sở thích xác thịt của họ, thay vào đó theo đuổi và thực hành lời Đức Chúa Trời cùng lẽ thật, là điều xác thịt họ không thích, điều họ không sở hữu, và điều họ coi thường, ghê tởm và bác bỏ – đây là việc họ cảm thấy khó. Yêu cầu ngươi mưu cầu lẽ thật chẳng khác nào yêu cầu ngươi từ bỏ sinh mệnh vốn có của mình. Chẳng phải nó giống như buộc ngươi hy sinh mạng sống của mình sao? (Thưa, phải.) Chính là ngươi phải hy sinh mạng sống mình. Con người có sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho mọi thứ không? (Thưa, không.) Trong thâm tâm, họ nói: “Tôi không sẵn lòng” – trăm lần, ngàn lần, vạn lần đều là: “Tôi không sẵn lòng”. Dù thế nào đi nữa, con người cũng khó có thể buông bỏ những thứ cố hữu, thuộc về Sa-tan mà họ sở hữu. Đây là một thực tế, một thực tế mà các ngươi đã trải nghiệm sâu sắc và chân thực. Trong thâm tâm, con người không muốn phản bội xác thịt; hay từ bỏ cuộc sống của họ, cuộc sống mà thực chất bản tính của nó thuộc về Sa-tan; hoặc từ bỏ các thuộc tính Sa-tan cố hữu hoặc bản tính Sa-tan của mình để mưu cầu lẽ thật. Vì vậy, đối với những người có bản tính Sa-tan, những người sống theo tâm tính Sa-tan, việc yêu và mưu cầu lẽ thật đi ngược lại với ý muốn của họ, và họ miễn cưỡng làm điều đó. Gốc rễ của điều này là gì? Đó là những thuộc tính bên trong con người là của Sa-tan, và về bản chất chúng đối nghịch với Đức Chúa Trời. Vì vậy, sau khi mọi người đã nghe và hiểu được lẽ thật, chỉ những ai yêu lẽ thật, những người sẵn lòng phấn đấu đạt được lẽ thật và trả giá, những người có ý chí, khát vọng và ước mong này, mới có thể đưa lẽ thật vào thực hành ngay khi hiểu được nó. Chỉ họ mới có khả năng sống theo lẽ thật và sống thể hiện ra thực tế lẽ thật. Có nhiều người sẵn lòng thực hành lẽ thật, nhưng bị bản tính và tâm tính Sa-tan của mình cản trở; dù có muốn họ cũng không thể thực hành được lẽ thật. Thực tế là trong đời thực, thực hành lẽ thật là một việc rất khó làm. Yêu cầu ngươi buông bỏ những bộ quần áo và trang sức yêu thích, hoặc những thứ ngươi yêu thích, hoặc công việc và nghề nghiệp ngươi yêu thích, hoặc thế mạnh và sở thích của ngươi, hay những thứ tương tự thế là một chuyện. Ngươi có thể từ bỏ bất kỳ thứ gì như thế này; chúng rất dễ buông bỏ. Nhưng yêu cầu ngươi phản bội xác thịt và tâm tính Sa-tan của mình, bắt đầu thực hành lẽ thật và quy phục Đức Chúa Trời – điều đó khó hơn nhiều. Nói nôm na là giống như lùa vịt lên sào hoặc bắt bò trèo cây – những điều này quá khó đối với chúng. Bây giờ, bắt mèo trèo cây rất dễ; đó là điều tự nhiên đối với chúng. Nhưng bắt mèo ăn cỏ khô thay vì ăn thịt là điều hoàn toàn không thể. Nếu ngươi yêu cầu một người chịu khổ một chút, trả giá một chút, và sống khiêm nhường đến hết đời, thì đó là điều bất cứ ai có ý chí đều có thể đạt được. Trên thực tế, không có khó khăn vật chất nào là vấn đề lớn với người thực sự tin Đức Chúa Trời và khao khát lẽ thật cả. Chẳng hạn như không ham mê những tiện nghi xác thịt; hoặc giảm thời gian ngủ mỗi ngày; hoặc sống gian khổ suốt mười năm liền; hoặc chật vật sống thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở và phương tiện đi lại – bất kỳ ai cũng có thể gánh chịu những khó khăn và trả giá như vậy, chỉ cần họ có ý chí, sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, và có một chút khả năng tự kiềm chế bản thân. Nhưng nếu ngươi yêu cầu người ta phản bội xác thịt và Sa-tan, hành động hoàn toàn theo những yêu cầu của Đức Chúa Trời và dựa trên lời Ngài, thực hành theo lẽ thật và nhờ đó đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời, thì bất kỳ ai cũng sẽ cảm thấy khó. Cái khó của con người nằm ở chỗ đó. Vì vậy, trong việc mưu cầu lẽ thật, không phải con người chỉ cần có thể hạ quyết tâm và thử làm, hoặc tập kiềm chế và tuân theo các quy tắc, là sau đó có thể đưa lẽ thật vào thực hành và sở hữu lẽ thật. Mưu cầu lẽ thật là điều gian khổ nhất và khó khăn nhất đối với nhân loại bại hoại. Gốc rễ của vấn đề này bắt nguồn từ đâu? (Thưa, bắt nguồn từ tâm tính của Sa-tan.) Đúng vậy. Tâm tính của Sa-tan là thách thức lớn nhất của con người. Một người có thể có tố chất kém, hoặc tính khí nóng nảy và tính cách xấu, họ có thể không có bất kỳ thế mạnh, tài năng hay ân tứ nào – những điều này đều không là thách thức lớn đối với họ. Sau hết, vấn đề bắt nguồn từ tâm tính bại hoại của con người. Một tâm tính bại hoại khiến tay chân, trí óc cùng tư tưởng, suy nghĩ, lối tư duy và tận sâu thẳm tâm hồn của con người đều nằm trong vòng kìm kẹp chết chóc của nó, đến nỗi đối với họ, mỗi bước đi trên con đường mưu cầu lẽ thật đều khó khăn. Người ta có thể tin Đức Chúa Trời trong ba hoặc năm năm mà không đạt được gì; thậm chí có một số người đã tin mười, hai mươi hoặc ba mươi năm, mà chỉ đạt được chút ít. Còn một số người thì chẳng thu đạt được gì cả – những người tay trắng đó thật nghèo nàn và đáng thương làm sao! Họ đã tin Đức Chúa Trời ba mươi năm nhưng vẫn nghèo nàn và mù quáng, chẳng đạt được kết quả gì. Khi rơi vào tiêu cực, họ không biết làm thế nào để thoát ra; khi rơi vào những hiểu lầm về Đức Chúa Trời, họ không biết làm thế nào để xua tan; khi nghịch cảnh ập đến, họ không biết phải đối mặt như thế nào, cũng không biết cách hóa giải kiểu khó khăn đó. Vấn đề có thể được giải quyết bằng cách dùng sức mạnh ý chí chủ quan đơn thuần để kiềm chế bản thân hay bằng cách dựa vào sự kiên nhẫn của mình để kiên trì không ngừng không? Con người có thể lê từng bước một qua các tình cảnh cho đến khi chúng qua đi, nhưng những tâm tính bại hoại của họ vẫn còn. Chúng chưa được giải quyết. Cho dù họ đã trải qua sự tiêu cực, hoặc hiểu lầm về Đức Chúa Trời, hoặc có quan niệm về Đức Chúa Trời, hoặc thất bại, sa ngã và yếu đuối bao nhiêu lần đi nữa, thì cho đến tận hôm nay, họ vẫn không thể đưa ra một chút chứng ngôn kinh nghiệm nào, cũng không có một điều gì để nói về hiểu biết, kinh nghiệm hoặc trải nghiệm của mình đối với lời Đức Chúa Trời. Lòng họ trống rỗng; sâu thẳm tâm hồn họ trống rỗng. Họ không có hiểu biết qua kinh nghiệm về lẽ thật, họ không có hiểu biết thực sự về lời Đức Chúa Trời, càng không có hiểu biết về công tác và tâm tính của Ngài. Họ không nghèo nàn, mù quáng và đáng thương hay sao? (Thưa, phải.) Nếu ai đó không mưu cầu lẽ thật, thì cho dù họ có tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm đi chăng nữa cũng vô ích. Vậy thì tại sao một người lại để bản thân mình đến mức này? Nguyên nhân nằm ở đâu? Ở đây cũng vậy, vấn đề bắt nguồn từ tâm tính bại hoại của con người. Đây là nguyên nhân khách quan.

Chúng ta đã làm rõ nguyên nhân khách quan khiến con người không mưu cầu lẽ thật là gì. Bây giờ chúng ta sẽ nói một chút về nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân chủ quan là mặc dù mọi người có thể đã biết rằng họ có tâm tính bại hoại từ công tác của Đức Chúa Trời và tất cả những lời Ngài, hoặc từ đời thực của mình, nhưng họ không bao giờ soi mình vào lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, họ không bao giờ có được hiểu biết về những tâm tính bại hoại của mình và từ bỏ được chúng, và họ không bao giờ thực hành theo lời Đức Chúa Trời. Đó là mặc dù con người có thể nỗ lực và dâng mình rất nhiều trên con đường tin vào Đức Chúa Trời, mặc dù họ có thể làm việc rất chăm chỉ, chịu khổ rất nhiều và trả giá rất nhiều trên con đường đó, nhưng tất cả chỉ là những hành vi bề ngoài. Chúng không chứng tỏ một người đã dấn thân vào con đường mưu cầu lẽ thật. Những người đã chịu khổ nhiều nhất là những người bắt đầu đi theo Đức Chúa Trời từ những ngày đầu, những người đã gánh vác bổn phận khi mới khoảng hai mươi tuổi. Những người này nay đã khoảng năm mươi tuổi và vẫn chưa lập gia đình. Ngươi có thể nói họ đã dành cả tuổi thanh xuân để tin Đức Chúa Trời, buông bỏ gia đình và hôn nhân. Đó có phải là một cái giá rất đắt không? (Thưa, phải.) Họ đã từ bỏ tuổi thanh xuân và dâng hiến cả cuộc đời mình, và kết quả là gì? Cái giá họ đã trả rất đắt, nhưng những gì họ thu nhận được cuối cùng lại không ngang bằng hoặc tương xứng với sự dâng mình của họ. Vấn đề ở đây là gì? Dựa trên thái độ và quyết tâm của họ khi trả giá, cũng như thời gian, lượng và mức độ dâng mình của họ, có vẻ như họ nên hiểu lẽ thật và có thể thực hành lẽ thật. Ngươi sẽ nghĩ rằng lẽ ra họ nên có chứng ngôn và tấm lòng tôn kính Đức Chúa Trời; rằng lẽ ra họ nên có hiểu biết về Đức Chúa Trời; rằng lẽ ra họ đã phải dấn bước trên con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác rồi; rằng lẽ ra họ đã phải bước vào thực tế lẽ thật rồi. Nhưng trên thực tế, đó chỉ là suy diễn – hai điều này chỉ có mối quan hệ logic, nó không phù hợp với thực tế hoặc với những gì những người này sống thể hiện ra. Vấn đề ở đây là gì? Chẳng phải chúng ta nên tìm hiểu và thảo luận về nó sao? Đây không phải là một vấn đề đáng suy nghĩ thấu đáo sao? (Thưa, phải.) Trong số những người đã chấp nhận giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời hai hay ba năm, không thiếu những người có kinh nghiệm và chứng ngôn. Họ làm chứng cho việc lời Đức Chúa Trời đã thay đổi họ và khiến họ trở thành người trung thực như thế nào; họ làm chứng cho việc lời Đức Chúa Trời đã giúp họ hiểu được lẽ thật trên con đường mưu cầu lẽ thật ra sao; họ làm chứng cho việc lời Đức Chúa Trời đã hóa giải tâm tính bại hoại, sự kiêu ngạo và giả dối, sự phản nghịch, khao khát địa vị, tham vọng và ham muốn của họ như thế nào, v.v. Những người này có khả năng có kinh nghiệm và lời chứng chỉ sau hai hoặc ba năm tin Đức Chúa Trời; họ có sự hiểu biết sâu sắc qua kinh nghiệm về lời Đức Chúa Trời, và họ có thể cảm nhận được tính chân thật của lời Ngài. Thế thì tại sao một số người đã tin Đức Chúa Trời hai mươi hay ba mươi năm và đã trả giá rất nhiều, chịu khổ rất nhiều, và chạy ngược chạy xuôi rất nhiều, nhưng sâu thẳm trái tim và thế giới thuộc linh của họ vẫn trống rỗng và rỗng tuếch? Rất nhiều người ở trong kiểu tình trạng này thường cảm thấy lạc lối. Họ luôn nói: “Con lạc lối quá”. Ta nói: “Giờ ngươi đã tin Đức Chúa Trời hai mươi hay ba mươi năm rồi. Sao mà ngươi vẫn lạc lối chứ? Rõ ràng là ngươi chưa thu đạt được gì cả”. Cho đến nay, một số người vẫn còn tiêu cực và yếu đuối. Họ nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy, và đã đạt được gì?”. Thông thường, khi họ tiêu cực và yếu đuối, hoặc khi họ bị tước đoạt địa vị và lợi ích, hoặc khi sự phù phiếm của họ không được thỏa mãn, họ oán trách Đức Chúa Trời và hối hận vì đã tin Ngài quá nhiều năm. Họ hối hận vì đã tin lời Ngài ngay từ đầu, họ hối hận vì đã kiên quyết từ bỏ công việc, hôn nhân gia đình, cơ hội học đại học để đi theo Đức Chúa Trời. Một số người thậm chí còn nghĩ đến việc rời khỏi hội thánh. Giờ họ vô cùng hối hận về đức tin của mình – tại sao ngay từ đầu họ lại bận tâm đến việc này chứ? Họ đã tin Đức Chúa Trời hai mươi hay ba mươi năm, đã nghe rất nhiều lẽ thật và trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời rất nhiều, nhưng sâu thẳm trong lòng họ vẫn trống rỗng, và họ thường chìm trong tình trạng hỗn độn, bối rối, hối hận, miễn cưỡng, và thậm chí không chắc chắn về tương lai của mình – điều gì gây ra điều này? Những người như vậy có đáng được thương hại không? (Thưa, không.) Bất cứ khi nào Ta thấy những người này, bất cứ khi nào Ta nghe tin về họ và biết về tình hình gần đây của họ, Ta đều có một linh cảm về họ. Ta chợt có một ý nghĩ về họ. Làm sao mà tình trạng và thế giới nội tâm của họ lại có vẻ quá quen thuộc với Ta? Ngay cả bây giờ họ vẫn ở trong nhà Đức Chúa Trời, thực hiện các bổn phận – họ đang dựa vào điều gì? Đó có phải là tư duy được cứu rỗi bằng ân điển không? Có phải là tư duy rằng nếu người ta đi theo Đức Chúa Trời đến cùng thì chắc chắn sẽ được cứu rỗi không? Hay đó là tâm lý dựa trên may mắn và cơ hội? Không điều nào trong số này cả. Vậy đó là gì? Giống như Phao-lô nói: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:7-8). Phân tích đoạn này và nói một cách đơn giản thì những lời này có tính chất đổi chác, bên trong chúng là một thái độ, tư tưởng và kế hoạch để đổi chác, và chúng xuất phát từ một nơi có ham muốn và tham vọng. Ngươi thấy sự thật nào trong những lời này? Mọi người theo đuổi điều gì trong đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời? (Thưa, đó là mão triều thiên và phước lành.) Đúng vậy. Họ theo đuổi phước lành và một đích đến tốt đẹp. Và họ sẽ đánh đổi điều gì để có được đích đến tốt đẹp cùng những phước lành đó? Họ sẽ dùng gì để đổi lấy những điều đó? (Thưa, sự vất vả và lao nhọc, sự hy sinh và dâng mình, sự chịu khổ và trả giá của họ.) Nói theo cách của Phao-lô, họ đã đánh trận, họ đã xong sự chạy. Họ tin rằng mình đã làm tất cả những gì phải làm, và do đó họ sẽ có được đích đến tốt đẹp cùng những phước lành Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho nhân loại. Họ nghĩ rằng đương nhiên đây là điều Đức Chúa Trời nên làm – điều Ngài phải làm – và nếu không làm như vậy thì Ngài sẽ không phải là Đức Chúa Trời. Rõ ràng ở đây không có sự vâng phục Đức Chúa Trời, không có thái độ mưu cầu lẽ thật, không có thái độ hay kế hoạch thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo. Đó chỉ là ước muốn đánh đổi một vài thứ họ có thể làm được lấy những phước lành Đức Chúa Trời đã hứa với nhân loại. Vì vậy, những người chúng ta vừa đề cập đến thường cảm thấy rằng có một khoảng trống trong thế giới nội tâm của họ và rằng trong thâm tâm, họ không có gì để dựa vào cả, nhưng họ vẫn tiếp tục như thường lệ, trả giá và chịu khổ như vậy, kiên trì đánh trận và thực hiện sự chạy của mình. Họ dựa vào điều gì? Chính những câu trích dẫn của Phao-lô đó mà họ bám vào và tin tưởng mù quáng là chỗ dựa cho “đức tin” của họ. Họ dựa vào tham vọng và ham muốn được ban thưởng và trao mão miện. Họ dựa vào giấc mơ dùng sự trao đổi giao dịch để nhận lãnh phước lành lớn lao. Họ không dựa vào sự hiểu biết về công tác của Đức Chúa Trời hay kinh nghiệm và kiến thức có được nhờ mưu cầu lẽ thật trong khi dâng mình cho Đức Chúa Trời. Đó không phải là điều họ dựa vào.

Nhìn vào những gì chúng ta vừa thông công, có thể thấy mặc dù có rất nhiều thử thách thực tế trên con đường mưu cầu lẽ thật, cũng như những xiềng xích và trói buộc của tâm tính bại hoại, cùng rất nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng mọi người nên tin rằng chỉ cần có đức tin chân chính thì bằng cách dựa vào sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời và công tác của Đức Thánh Linh, họ sẽ hoàn toàn có thể dấn thân vào con đường mưu cầu lẽ thật. Phi-e-rơ là tiền lệ cho việc này. Trong đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời, nhiều người chỉ tập trung làm việc cho Đức Chúa Trời, họ hài lòng với việc chịu đau khổ và trả giá đơn thuần nhưng hoàn toàn không hề mưu cầu lẽ thật. Kết quả là sau khi tin Đức Chúa Trời được mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, họ vẫn thiếu kiến thức thực sự về công tác của Đức Chúa Trời, và không thể nói về bất kỳ trải nghiệm hay kiến thức nào về lẽ thật hay lời Đức Chúa Trời. Trong lúc nhóm họp, khi cố nói một chút chứng ngôn kinh nghiệm của mình, họ chẳng có gì để nói cả; việc họ có được cứu rỗi hay không họ cũng hoàn toàn không biết. Vấn đề ở đây là gì? Những người không mưu cầu lẽ thật là như vậy. Dù họ đã là tín hữu bao nhiêu năm đi nữa thì họ cũng không có khả năng hiểu được lẽ thật, huống chi là thực hành lẽ thật. Làm sao một người hoàn toàn không chấp nhận lẽ thật có thể bước vào thực tế lẽ thật chứ? Có một số người không thể thấu được vấn đề này. Họ tin rằng nếu những người đọc vẹt câu chữ giáo điều mà thực hành lẽ thật thì họ cũng có thể bước vào thực tế lẽ thật. Điều này có đúng không? Những người đọc vẹt câu chữ giáo điều vốn dĩ không có khả năng hiểu lẽ thật – vậy làm sao họ có thể thực hành lẽ thật được? Những gì họ thực hành có vẻ như không vi phạm lẽ thật, và là việc lành, là hành vi tốt, nhưng những việc lành và hành vi tốt đó làm sao có thể được gọi là thực tế lẽ thật chứ? Những người không hiểu lẽ thật thì không hiểu được thực tế lẽ thật là gì; họ xem việc lành và hành vi tốt của mọi người là thực hành lẽ thật. Điều này thật vô lý, chẳng phải sao? Điều này có gì khác với suy nghĩ và quan điểm của những người theo đạo? Và làm thế nào để hóa giải được những vấn đề hiểu sai như này được? Trước hết, mọi người phải hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời từ lời Ngài, họ phải hiểu lẽ thật là gì và thực hành lẽ thật là gì, hòng để có thể nhìn nhận người khác và nhận định được con người thực sự của họ, và có thể biết liệu họ có sở hữu thực tế lẽ thật hay không. Công tác và sự cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời là nhằm khiến cho con người hiểu và thực hành lẽ thật; chỉ khi đó con người mới có thể rũ bỏ tâm tính bại hoại của mình, hành động theo nguyên tắc và bước vào thực tế lẽ thật. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, và chỉ hài lòng với việc dâng mình, chịu khổ và trả giá vì Đức Chúa Trời theo quan niệm và trí tưởng tượng riêng của mình, thì liệu tất cả những gì ngươi làm có thể hiện rằng ngươi thực hành lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời không? Liệu điều đó có chứng tỏ rằng ngươi đã thay đổi tâm tính sống của mình không? Liệu điều đó có thể hiện rằng ngươi có kiến thức thực sự về Đức Chúa Trời không? Không. Và thế thì tất cả những gì ngươi làm sẽ thể hiện điều gì? Nó chỉ có thể thể hiện những sở thích, hiểu biết và mơ tưởng cá nhân của chính ngươi. Đấy chỉ đơn thuần là những điều ngươi thích làm và sẵn lòng làm; mọi thứ ngươi làm chỉ đơn thuần là để thỏa mãn những khao khát, mong muốn và lý tưởng riêng của ngươi. Rõ ràng, đây không phải là mưu cầu lẽ thật. Không hành động hay hành vi nào của ngươi có liên quan đến lẽ thật, hay đến những yêu cầu của Đức Chúa Trời. Mọi hành động và hành vi của ngươi đều là vì chính bản thân ngươi; ngươi chỉ làm, chiến đấu và chạy ngược xuôi vì lý tưởng, danh tiếng và địa vị của chính mình – điều này khiến ngươi chẳng khác gì Phao-lô, lao nhọc và làm việc cả cuộc đời chỉ để được ban thưởng, trao mũ miện và bước vào thiên quốc – điều này chứng tỏ ngươi rõ ràng đang bước đi con đường của Phao-lô. Một số người nói: “Tôi lao nhọc và làm việc tự nguyện. Tôi không cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời”. Bất kể thế nào đi nữa, dù ngươi có cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời hay không, dù trong tâm trí hay thái độ của ngươi có ý định rõ ràng để đạt được thỏa thuận với Đức Chúa Trời hay không – dù ngươi có kế hoạch và mục tiêu như vậy hay không – thì ngươi cũng đều đang cố đánh đổi sự lao nhọc và công việc, những gian khổ của mình và những cái giá mình đã trả để lấy phần thưởng và mũ miện của thiên quốc. Bản chất của vấn đề này là ngươi đang cố thương lượng với Đức Chúa Trời – chỉ là ngươi không nhận thức được mình đang làm như vậy. Bất kể thế nào, miễn là một người trải qua gian khổ và trả giá để đạt được phước lành, thì thực chất sự theo đuổi của họ cũng giống như của Phao-lô. Chúng giống nhau ở điểm nào? Cả hai đều là những nỗ lực dùng những hành vi tốt của mình – công sức lao động của mình, những gian khổ mình trải qua, những cái giá mình phải trả, v.v. – để đổi lấy các phước lành của Đức Chúa Trời, để đổi lấy các phước lành Ngài hứa với nhân loại. Chẳng phải những điều này về bản chất giống nhau sao? (Thưa, phải.) Về bản chất là như nhau; không có sự khác biệt thực sự nào. Nếu ngươi không muốn đi con đường của Phao-lô mà muốn đi con đường của Phi-e-rơ, và ngươi muốn được Đức Chúa Trời chấp thuận thì ngươi nên thực hành như thế nào? Không nghi ngờ gì nữa: ngươi phải học cách mưu cầu lẽ thật. Ngươi phải có khả năng chấp nhận lẽ thật, cũng như sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, cùng việc bị tỉa sửa và xử lý; ngươi phải tập trung vào việc tự biết mình, tạo ra sự thay đổi trong tâm tính mình và tìm cách thực hành yêu mến Đức Chúa Trời. Đó là ý nghĩa của việc bước đi trên con đường mưu cầu lẽ thật và cất bước trên con đường của Phi-e-rơ. Để đi con đường của Phi-e-rơ, trước hết ngươi phải hiểu Đức Chúa Trời yêu cầu gì ở con người và Đức Chúa Trời đã chỉ ra cho con người con đường nào. Ngươi phải có khả năng phân biệt được con đường tin vào Đức Chúa Trời dẫn đến sự cứu rỗi với con đường dẫn đến sự hư mất và hủy diệt. Ngươi cần thực sự phản tỉnh lý do tại sao mình lại có thể đi trên con đường của Phao-lô, và xác định chính xác tâm tính nào đã điều khiển ngươi đi trên con đường đó. Ngươi nên nhận ra những điểm nổi bật và rõ ràng nhất trong tâm tính bại hoại của mình, chẳng hạn như kiêu ngạo, giả dối hay tà ác. Từ những tâm tính bại hoại này, hãy tự phản tỉnh, phân tích và có được hiểu biết về bản thân mình. Nếu ngươi có thể đạt được sự tự biết mình thực sự và căm ghét bản thân, thì ngươi sẽ dễ dàng rũ bỏ được những tâm tính bại hoại của mình, và ngươi sẽ dễ dàng đưa lẽ thật vào thực hành. Vậy cụ thể nên thực hành việc này như thế nào? Chúng ta hãy thông công đơn giản về điều này, dùng ví dụ về một tâm tính kiêu ngạo. Trong cuộc sống hàng ngày, khi nói năng, hành xử và xử lý vấn đề, thực hiện bổn phận của mình, thông công với người khác, v.v., bất kể vấn đề hiện tại là gì, hay ngươi đang ở đâu, hay hoàn cảnh ra sao, ngươi cũng phải luôn luôn tập trung xem xét loại tâm tính kiêu ngạo mình đã bộc lộ. Ngươi phải đào xới tất cả những sự bộc phát, suy nghĩ và tư tưởng xuất phát từ tâm tính kiêu ngạo của ngươi mà ngươi nhận thức được và có thể cảm nhận được, cũng như những ý định và mục tiêu của ngươi – cụ thể là luôn muốn lên lớp người khác từ trên cao; không vâng phục ai; thấy mình giỏi hơn người khác; không chấp nhận những gì người khác nói dù họ có thể đúng thế nào; khiến người khác chấp nhận và vâng phục những gì mình nói, ngay cả khi ngươi sai; luôn có xu hướng lãnh đạo người khác; không tuân thủ và đưa ra những lời biện minh khi các lãnh đạo và người làm công tỉa sửa và xử lý ngươi, lên án họ là giả mạo; luôn lên án người khác và tự đề cao mình; luôn cho rằng mình giỏi hơn tất cả mọi người; luôn muốn trở thành một người nổi tiếng, lỗi lạc; luôn thích thể hiện để người khác coi trọng và tôn sùng ngươi… Thông qua thực hành phản tỉnh và phân tích những bộc phát sự bại hoại này, ngươi có thể bắt đầu biết được tâm tính kiêu ngạo của mình xấu xa ra sao, ngươi có thể căm ghét, ghê tởm chính bản thân mình, và càng căm ghét tâm tính kiêu ngạo của mình hơn. Nhờ đó, ngươi sẽ sẵn sàng phản tỉnh xem liệu mình có bộc lộ tâm tính kiêu ngạo trong mọi vấn đề hay không. Một phần trong quá trình này là tự phản tỉnh xem những tâm tính kiêu ngạo và tự cho mình là đúng nào bộc lộ trong lời nói của ngươi – những điều ngươi nói mới khoe khoang, ngạo mạn và vô nghĩa làm sao. Phần khác là phản tỉnh về những điều phi lý, vô nghĩa ngươi đã làm khi hành động theo những quan niệm, tưởng tượng, tham vọng và ham muốn của mình. Chỉ có kiểu tự phản tỉnh này mới có thể mang lại sự tự biết mình. Một khi ngươi đã có được hiểu biết thực sự về bản thân, ngươi nên tìm kiếm trong lời Đức Chúa Trời các con đường và nguyên tắc thực hành để trở thành một người trung thực, và sau đó thực hành, thực hiện bổn phận của mình, tiếp cận và tương tác với người khác theo các con đường và nguyên tắc được chỉ ra trong lời Đức Chúa Trời. Khi ngươi đã thực hành theo cách này một thời gian, có thể một hoặc hai tháng, ngươi sẽ cảm thấy trong lòng bừng sáng về phương diện này, và ngươi sẽ đạt được điều gì đó từ đó cũng như nếm trải sự thành công. Ngươi sẽ cảm thấy mình có một con đường để trở thành một người trung thực, một người lý trí, và ngươi sẽ cảm thấy vững vàng hơn nhiều. Mặc dù ngươi chưa thể nói về sự hiểu biết đặc biệt sâu sắc về lẽ thật, nhưng ngươi sẽ có được chút hiểu biết cảm tính về nó, cũng như một con đường thực hành. Mặc dù ngươi sẽ không thể diễn đạt điều đó rõ ràng bằng lời, nhưng ngươi sẽ có chút nhận thức về tác hại mà tâm tính kiêu ngạo gây ra cho con người và nó bóp méo nhân tính của họ như thế nào. Ví dụ: người kiêu ngạo, tự phụ thường nói những điều khoác lác, ngông cuồng, nói dối để lừa gạt người khác; họ nói những lời to tát, hô khẩu hiệu và tuôn ra những hô hào cao cả. Đây chẳng phải là những biểu hiện đa dạng của tâm tính kiêu ngạo sao? Bộc lộ ra những tâm tính kiêu ngạo này chẳng phải là quá ngu dại sao? Nếu ngươi có thể thực sự hiểu rằng mình hẳn đã đánh mất lý trí con người bình thường khi bộc phát những tâm tính kiêu ngạo như vậy, và rằng sống trong tâm tính kiêu ngạo có nghĩa là ngươi đang sống thể hiện ra ma tính chứ không phải nhân tính, thì ngươi sẽ thực sự nhận ra rằng tâm tính bại hoại là tâm tính Sa-tan, và từ đáy lòng mình, ngươi sẽ có thể căm ghét Sa-tan cùng những tâm tính bại hoại. Với sáu tháng hoặc một năm trải nghiệm như vậy, ngươi sẽ có khả năng tự biết mình thực sự, và nếu lại bộc phát tâm tính kiêu ngạo, ngươi sẽ ngay lập tức nhận ra, và sẽ có thể phản bội, từ bỏ nó. Ngươi sẽ bắt đầu thay đổi, và ngươi sẽ có thể dần dần loại bỏ được tâm tính kiêu ngạo của mình, sống hòa thuận bình thường với người khác. Ngươi sẽ có thể nói trung thực và nói thật lòng; ngươi sẽ không còn nói dối hay nói những điều ngạo mạn nữa. Khi đó, chẳng phải ngươi sẽ sở hữu một chút lý trí và chút hình tượng giống một người trung thực sao? Chẳng phải ngươi sẽ đạt được lối vào đó sao? Đây là lúc ngươi sẽ bắt đầu thu đạt được điều gì đó. Khi ngươi thực hành làm người trung thực theo cách này, ngươi sẽ có thể tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh bản thân bất kể ngươi bộc lộ kiểu tâm tính kiêu ngạo nào, và sau khi trải nghiệm việc trở thành người trung thực theo cách này một thời gian, tự lúc nào không hay, ngươi sẽ dần bắt đầu hiểu được những lẽ thật và lời Đức Chúa Trời liên quan về việc trở thành người trung thực. Và khi ngươi dùng những lẽ thật đó để mổ xẻ tâm tính kiêu ngạo của mình, thì trong sâu thẳm lòng mình, ngươi sẽ có được sự khai sáng và soi sáng của lời Đức Chúa Trời, và lòng ngươi sẽ bắt đầu cảm thấy sáng tỏ hơn. Ngươi sẽ thấy rõ được sự bại hoại mà tâm tính kiêu ngạo mang đến cho con người và sự xấu xa nó khiến họ sống thể hiện ra, và ngươi sẽ có thể phân biệt được từng trạng thái bại hoại của con người khi bộc lộ tâm tính kiêu ngạo. Càng phân tích, ngươi sẽ càng thấy rõ sự xấu xa của Sa-tan, và ngươi sẽ càng căm ghét Sa-tan hơn. Nhờ đó, ngươi sẽ dễ dàng từ bỏ được tâm tính kiêu ngạo của mình. Khi hiểu biết của ngươi đạt đến mức này, những lời Đức Chúa Trời và lẽ thật liên quan sẽ cực dễ hiểu đối với ngươi, và ngươi sẽ biết rằng tất cả những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người là những gì người có nhân tính bình thường phải sở hữu và sống thể hiện ra. Cùng với đó, việc thực hành lẽ thật sẽ không còn cảm giác khó khăn đối với ngươi nữa. Thay vào đó, ngươi sẽ tin rằng thực hành lẽ thật là điều chính đáng và phải đạo, rằng đó là cách con người nên sống. Khi đó, việc ngươi thực hành lời Đức Chúa Trời và lẽ thật sẽ hoàn toàn tự nhiên, tích cực và chủ động, đồng thời ngươi sẽ càng yêu lẽ thật hơn. Trong lòng ngươi, số lượng những điều tích cực sẽ tăng lên và sự hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời sẽ dần dần nảy sinh. Đó là ý nghĩa của việc thực sự hiểu lẽ thật. Ngươi sẽ có một góc nhìn và quan điểm đúng đắn về mọi vấn đề, và hiểu biết chân chính này cùng những quan điểm đúng đắn này sẽ dần bén rễ trong lòng ngươi. Đó là ý nghĩa của việc đã bước vào được thực tế lẽ thật – đó là điều không ai có thể tước đoạt hoặc cướp đoạt của ngươi. Sau khi đã tích lũy được từng chút một những điều tích cực này, ngươi sẽ cảm thấy sâu thẳm trong lòng mình trở nên phong phú hơn rất nhiều. Ngươi sẽ không còn cảm thấy việc tin Đức Chúa Trời là vô ích, và cảm giác trống rỗng trong lòng sẽ biến mất. Khi cảm nhận được thật tuyệt biết bao khi hiểu được lẽ thật và thấy được sự sáng của đời người thì đức tin chân chính sẽ khởi lên trong ngươi. Và khi ngươi có đức tin để trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, thấy việc mưu cầu lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi thực tế và thiết thực như thế nào, thì ngươi sẽ tích cực, chủ động thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời. Ngươi sẽ thông công về kinh nghiệm và hiểu biết thực sự của mình, từ đó làm chứng cho Đức Chúa Trời và giúp nhiều người hơn biết được quyền năng của lời Đức Chúa Trời cũng như những lợi ích lẽ thật mang lại cho con người. Khi đó ngươi sẽ có thêm đức tin để thực hành lẽ thật và làm tròn bổn phận của mình – và cùng với đó, ngươi sẽ thực sự quy phục Đức Chúa Trời. Khi nói về chứng ngôn kinh nghiệm thực sự của mình, lòng ngươi sẽ ngày càng sáng tỏ hơn. Ngươi sẽ cảm thấy mình có nhiều con đường hơn để thực hành lẽ thật, đồng thời thấy rằng mình còn rất nhiều thiếu sót, rằng có rất nhiều lẽ thật ngươi nên thực hành. Chứng ngôn kinh nghiệm như vậy không chỉ có lợi và khai trí cho người khác – mà ngươi cũng sẽ cảm thấy rằng mình đã thu đạt được điều gì đó khi mưu cầu lẽ thật và rằng ngươi đã thực sự nhận được phước lành của Đức Chúa Trời. Khi người ta trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời theo cách này cho đến khi họ có khả năng làm chứng cho Ngài, điều đó không chỉ có thể giúp nhiều người hơn biết được tâm tính bại hoại của họ, rũ bỏ được xiềng xích, sự trói buộc và ưu phiền của những tâm tính đó, và giúp họ thoát khỏi quyền lực của Sa-tan – mà còn có thể cho người đó ngày càng nhiều đức tin hơn để bước đi trên con đường mưu cầu lẽ thật và được trở nên hoàn thiện. Kinh nghiệm như vậy chẳng phải sẽ trở thành lời chứng thật sao? Lời chứng thật là như thế. Liệu một người có khả năng đưa ra lời chứng như vậy cho Đức Chúa Trời có cảm thấy việc tin vào Ngài là nhàm chán, vô ích hay rỗng tuếch không? Tuyệt đối không. Khi một người có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời và khi họ có hiểu biết thực sự về Ngài, thì sâu thẳm trong lòng họ tràn ngập sự bình an và niềm vui, đồng thời họ cảm thấy bản thân mình phong phú và cực kỳ vững vàng. Khi người ta sống trong trạng thái và cảnh giới như vậy, lẽ tự nhiên họ sẽ không bắt mình phải chịu đau khổ, trả giá, bị gò bó. Họ sẽ không cứ thế buộc mình phải kỷ luật thân thể và phản bội xác thịt. Điều họ sẽ làm nhiều hơn là tích cực tăng cường hiểu biết về những tâm tính bại hoại của mình. Họ cũng sẽ mưu cầu hiểu biết về tâm tính của Đức Chúa Trời, về Đức Chúa Trời có gì và là gì, và hiểu con người ta nên làm gì để quy phục Đức Chúa Trời cũng như làm thỏa lòng Ngài. Nhờ đó, họ sẽ nắm bắt được ý muốn của Đức Chúa Trời trong lời Ngài, và tìm thấy các nguyên tắc thực hành lẽ thật, thay vì đắm chìm trong những cảm xúc thoáng qua trong lòng. Chẳng hạn như không thể kiềm chế bản thân khi có việc xảy ra, nóng nảy, tâm trạng không tốt, hôm đó lại nổi giận, hôm đó lại làm điều gì đó tệ hại hoặc không hay, hay bất kỳ vấn đề tầm thường nào như vậy. Miễn là những điều này không cản trở việc thực hành lẽ thật của ngươi, thì không cần phải lo lắng về chúng. Ngươi nên tập trung vào việc giải quyết những tâm tính bại hoại của mình và tìm cách thực hành sao cho thỏa lòng Đức Chúa Trời và phù hợp với ý muốn của Ngài. Hãy thực hành lẽ thật như vậy, và ngươi sẽ tiến bộ nhanh chóng trong sự sống, ngươi sẽ dấn bước trên con đường mưu cầu lẽ thật và được làm cho hoàn thiện. Lòng ngươi sẽ không còn trống rỗng nữa; ngươi sẽ có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ ngày càng quan tâm đến lời Đức Chúa Trời cùng lẽ thật, cũng như ngày càng trân trọng chúng. Ngươi sẽ ngày càng hiểu hơn ý muốn của Đức Chúa Trời và những yêu cầu của Ngài. Khi một người đạt đến cấp độ này, họ đã hoàn toàn bước được vào lời Đức Chúa Trời và thực tế lẽ thật.

Điều mà nhiều người đang thực hành và bước vào bây giờ không phải là thực tế lẽ thật, mà họ bước vào một loại tình trạng mà trong đó họ thể hiện những hành vi tốt bề ngoài, và họ sẵn sàng trả giá, sẵn sàng chịu khổ, và sẵn sàng dâng tất cả. Tuy nhiên, trong sâu thẳm lòng họ vẫn trống rỗng, và họ không có gì để nương tựa trong thế giới nội tâm. Tại sao họ không có gì để nương tựa? Bởi vì họ thiếu một con đường khi có chuyện xảy đến; họ dựa vào mộng tưởng, và họ không có các nguyên tắc để thực hành lẽ thật. Khi một tâm tính bại hoại bộc phát từ họ, họ chỉ có thể thực hành tự kiềm chế, họ không thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó. May thay cho con người, xác thịt già cỗi của họ có một khả năng bản năng: có thể chịu khổ. Người ngoại đạo có câu: “Không có đau khổ nào không thể chịu đựng được, chỉ có phước lành không thể hưởng được mà thôi”. Xác thịt con người có một khả năng bản năng, bẩm sinh: không thể hưởng được quá nhiều phước lành nhưng lại có thể chịu được bất cứ điều gì, chịu đựng, kiềm chế bản thân. Đây có phải là điều tốt không? Đây là ưu điểm hay khuyết điểm, thiếu sót? Câu đó của họ có phải là sự thật không? (Thưa, không.) Không phải, và nếu không phải là sự thật, thì điều đó vô nghĩa. Câu đó chỉ là lời nói suông, không thể giải quyết được bất kỳ vấn đề nào của ngươi, cũng không thể giải quyết được những khó khăn thực tế của ngươi. Nói một cách chính xác, nó không thể giải quyết được tâm tính bại hoại của ngươi. Vì vậy, nói thế chẳng ích gì. Mặc dù ngươi có thể có chút hiểu biết nào đó về nó, nhận thức được nó và đã trải nghiệm nó sâu sắc, nhưng vẫn vô ích. Người ngoại đạo còn có những câu khác, chẳng hạn như: “Không sợ chết, sao lại sợ sống?” và “Đông đã đến rồi, chẳng mấy là mùa xuân?”. Đây là những câu khá đao to búa lớn, phải không? Rất truyền cảm hứng và triết học, phải không? Những người ngoại đạo gọi những câu nói này là “súp gà cho tâm hồn”. Ngươi có thích những câu kiểu này không? (Thưa, không.) Tại sao không? Một số người có thể nói: “Chúng con không thích chúng. Chúng là những điều người ngoại đạo nói; chúng con thích lời Đức Chúa Trời”. Vậy thì ngươi thích phần nào trong lời Đức Chúa Trời? Câu nào ngươi coi là lẽ thật? Ngươi đã trải nghiệm, thực hành, bước vào và đạt được câu nào? Chỉ không thích những câu nói của người ngoại đạo thôi thì vô ích; ngươi có thể không thích chúng, nhưng ngươi không thể phân định được rõ ràng thực chất của chúng. Những câu nói này có đúng không? (Thưa, không.) Đúng hay sai thì những lời của người ngoại đạo cũng không liên quan gì đến lẽ thật. Ngay cả khi mọi người coi chúng là tốt và đúng, thì chúng cũng không phù hợp với lẽ thật, và chúng không thể vươn đến tầm của lẽ thật. Tất cả đều vi phạm lẽ thật và thù địch với lẽ thật. Người ngoại đạo không chấp nhận lẽ thật, vì vậy không cần phải tranh luận đúng sai với họ. Tất cả những gì ta có thể làm là coi những lời của họ như những điều vô nghĩa lộn xộn và cho qua. "Vô nghĩa" nghĩa là gì? Nghĩa là những lời hoàn toàn không giúp khai trí hay có giá trị đối với con người, đối với cuộc sống của họ, đối với con đường họ đi, hay đối với việc được cứu rỗi của họ. Tất cả những câu nói như vậy đều vô nghĩa; cũng có thể gọi là những lời sáo rỗng. Nó không liên quan gì đến sự sống chết của con người hay con đường họ đi, và là điều vô nghĩa không có chút tác dụng tích cực nào. Mọi người nghe một câu như vậy và sống đời mình theo ý mình, như họ luôn sống; một câu như vậy sẽ không thay đổi được bất kỳ sự thật nào, bởi vì nó không phải là lẽ thật. Chỉ lẽ thật mới khai trí cho con người, mới có giá trị vô hạn. Tại sao Ta lại phán điều này? Bởi vì lẽ thật có thể thay đổi số phận, suy nghĩ, quan điểm và thế giới nội tâm của con người. Quan trọng nhất là lẽ thật có thể xua tan những tâm tính bại hoại của con người, có thể thay đổi các thuộc tính của một người, biến các thuộc tính Sa-tan của họ thành các thuộc tính của lẽ thật – nó có thể biến một người sống theo tâm tính bại hoại thành một người sống theo lẽ thật và lời Đức Chúa Trời. Khi một người sống thể hiện ra thực tế lẽ thật, lấy lời Đức Chúa Trời làm nền tảng, thì chẳng phải nhờ vậy cuộc sống của họ được thay đổi sao? Khi cuộc sống của một người thay đổi có nghĩa là suy nghĩ và quan điểm của họ đã thay đổi; có nghĩa là góc nhìn, thái độ và quan điểm của họ về con người và sự vật đã thay đổi; có nghĩa là lập trường và quan điểm của họ về sự việc và sự vật đã khác trước. Những câu nói của người ngoại đạo đều là những lời sáo rỗng và vô nghĩa. Chúng không thể giải quyết bất kỳ vấn đề nào. Câu Ta vừa mới nói – “Không có đau khổ nào không thể chịu đựng được, chỉ có phước lành không thể hưởng được mà thôi” – chẳng phải là những lời sáo rỗng và vô nghĩa sao? (Thưa, phải.) Ngươi có thể chịu đau khổ – thế thì sao? Ngươi không chịu khổ để đạt được lẽ thật; ngươi chịu khổ để tận hưởng danh vọng và địa vị. Việc chịu khổ của ngươi không có giá trị hay ý nghĩa gì cả. Hãy nhìn vào thực tế: ngươi đã chịu khổ rất nhiều và phải trả giá rất đắt như vậy, ấy thế nhưng ngươi vẫn không biết mình, và ngươi thậm chí không thể nắm bắt được những suy nghĩ và tư tưởng nảy sinh từ tâm tính bại hoại của mình, cũng không thể giải quyết chúng. Ngươi có nghĩ rằng sau đó ngươi có thể bước vào sự sống được không? Việc chịu khổ của ngươi có giá trị không? Không có giá trị gì cả. Việc chịu khổ của một số người có giá trị. Chẳng hạn, việc chịu khổ con người trải qua để đạt được lẽ thật là có giá trị: khi một người đạt được lẽ thật, họ có thể khai trí và chu cấp cho những người khác. Nhiều người đã chịu khổ và trả giá để truyền bá Phúc Âm, giúp mở rộng công tác của hội thánh và nhà Đức Chúa Trời, cũng như truyền bá Phúc Âm của thiên quốc. Từ đây, chúng ta có thể thấy bất cứ ai chịu khổ và trả giá để đạt được lẽ thật và làm hài lòng Đức Chúa Trời đều sẽ đạt được điều gì đó từ việc này. Những người này sẽ được Đức Chúa Trời tán thành. Nhưng có một số người không mưu cầu lẽ thật, và mặc dù họ có thể dâng mình, chịu khổ vì Đức Chúa Trời, nhận được ân sủng của Ngài, nhưng ân sủng đó không gì khác hơn là lòng thương hại và sự khoan dung của Đức Chúa Trời, đồng thời là sự phản ánh của ân huệ Ngài dành cho con người cũng như ân điển Ngài ban cho con người. Kiểu ân điển nào? Một vài phước lành vật chất – không hơn. Đó là điều ngươi muốn sao? Đó có phải là mục tiêu cuối cùng của ngươi khi tin vào Đức Chúa Trời không? Ta nghĩ là không. Kể từ ngày ngươi bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, có phải ngươi chỉ mong cầu nhận được ân sủng của Ngài, sự bảo vệ của Ngài và một chút phước lành vật chất Ngài ban cho không? Đó có phải là những điều ngươi muốn? Đó có phải là những điều ngươi theo đuổi trong đức tin của mình không? (Thưa, không.) Những điều này có thể giải quyết vấn đề cứu rỗi của ngươi không? (Thưa, không thể.) Có vẻ như các ngươi đang suy nghĩ khá rõ ràng. Các ngươi hiểu điều gì là chính yếu và điều gì là quan trọng. Các ngươi không mù mờ. Các ngươi biết điều gì có trọng lượng, điều gì không. Tuy nhiên, liệu các ngươi có thể dấn bước trên con đường mưu cầu lẽ thật hay không còn phải xem đã.

Tin vào Đức Chúa Trời không phải là để đạt được ân điển hay sự bao dung và thương hại của Đức Chúa Trời. Thế thì để làm gì? Đó là để được cứu rỗi. Vậy dấu hiệu của sự cứu rỗi là gì? Đức Chúa Trời đòi hỏi những tiêu chuẩn nào? Làm sao để được cứu rỗi? Giải quyết tâm tính bại hoại của mình. Đây là mấu chốt của vấn đề. Vì vậy, rốt cuộc, tựu trung lại, dù ngươi đã phải chịu khổ bao nhiêu hay đã phải trả một cái giá đắt như thế nào, hay dù ngươi tuyên bố mình là một tín hữu chân chính đến đâu – nếu cuối cùng, tâm tính bại hoại của ngươi vẫn chưa được giải quyết chút nào, thì nghĩa là ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật. Hoặc có thể nói rằng vì ngươi không mưu cầu lẽ thật nên tâm tính bại hoại của ngươi chưa được giải quyết. Điều này nghĩa là ngươi hoàn toàn chưa dấn thân vào con đường cứu rỗi; nghĩa là tất cả những gì Đức Chúa Trời phán và tất cả công tác Ngài làm để cứu rỗi con người đều không đạt được gì nơi ngươi, không dẫn đến chứng ngôn nào từ ngươi, và không có kết quả nào trong ngươi. Đức Chúa Trời sẽ phán: “Bởi vì ngươi chịu khổ và trả giá nên Ta đã ban cho ngươi ân điển, phước lành, sự chăm sóc và bảo vệ ngươi đáng được hưởng trong cuộc đời này và thế giới này. Nhưng ngươi không có phần trong những gì con người đáng được hưởng sau khi được cứu rỗi. Tại sao lại như vậy? Đó là bởi Ta đã ban cho ngươi những gì ngươi đáng được hưởng trong cuộc đời này và thế giới này; còn những gì con người đáng được hưởng sau khi được cứu rỗi thì chẳng có gì dành cho ngươi cả, bởi vì ngươi đã không cất bước trên con đường mưu cầu lẽ thật”. Ngươi không nằm trong số những người sẽ được cứu rỗi, ngươi chưa trở thành một loài thọ tạo đích thực, và Đức Chúa Trời không muốn ngươi. Đức Chúa Trời không muốn những người chỉ đơn thuần làm việc, chạy ngược xuôi, chịu khổ và trả giá vì Ngài, những người chỉ thực sự tin phần nào và có một chút đức tin, không hơn. Những người như vậy có thể thấy ở khắp nơi trong các nhóm tín hữu của Ngài. Nói cách khác, có rất nhiều người như họ, những người làm việc và dâng sự phục vụ cho Đức Chúa Trời, nhiều không đếm xuể. Nếu họ là người Đức Chúa Trời đã tiền định và lựa chọn, người đã được Đức Chúa Trời dẫn dắt trở lại nhà Đức Chúa Trời, thì không ai trong số họ lại không sẵn lòng làm việc và phục vụ Ngài. Tại sao lại như vậy? Bởi vì đơn giản là điều này rất dễ thực hiện. Đây là lý do tại sao có rất nhiều người phục vụ và lao động vì Đức Chúa Trời. Thậm chí kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác cũng làm được nữa, giống như Phao-lô vậy. Chẳng phải có rất nhiều người như Phao-lô sao? (Thưa, phải.) Nếu ngươi vào một hội thánh và rao giảng theo kiểu này – “Chỉ cần anh chị em sẵn lòng chạy ngược xuôi, chịu khổ và trả giá vì Đức Chúa Trời, thì mão triều thiên của sự công chính sẽ chờ anh chị em” – ngươi có nghĩ nhiều người sẽ đáp lại lời kêu gọi của ngươi không? Rất nhiều người sẽ đáp lời. Nhưng thật không may, cuối cùng thì đây không phải là những người Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi hay có thể được cứu rỗi. Những người như vậy chỉ nấn ná ở giai đoạn phục vụ, và họ chỉ sẵn lòng dâng sự phục vụ cho Đức Chúa Trời. Nói cách khác, những người này chỉ đơn thuần sẵn lòng đánh đổi sức lao động của mình lấy vận may của Đức Chúa Trời, lấy ân điển và phước lành của Ngài. Họ không muốn thay đổi phương thức sinh tồn, cách sống, hay nền tảng họ dựa vào để tồn tại; họ không muốn chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời để thay đổi những tâm tính bại hoại của mình hoặc mưu cầu lẽ thật để được cứu rỗi. Tất nhiên, ngươi cũng có thể nói rằng những người này chỉ sẵn lòng chịu khổ và trả giá, chỉ sẵn lòng từ bỏ và dâng hiến tất cả những gì mình có, dâng hết mình bất kể giá nào, và sẵn sàng lao động theo bất cứ cách nào có thể – nhưng nếu ngươi yêu cầu họ tự biết mình, chấp nhận lẽ thật, giải quyết những tâm tính bại hoại của mình, phản bội xác thịt, thực hành lẽ thật, từ bỏ sự tà ác của mình và quay về với Đức Chúa Trời, như dân Ni-ni-ve đã làm, cũng như lưu tâm và sống theo lời Ngài, thì điều đó sẽ vô cùng khó khăn đối với họ. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Chẳng phải hơi phiền sao? Đức Chúa Trời đã làm rất nhiều công tác và phán rất nhiều lời, vậy tại sao con người lại cảm thấy việc mưu cầu lẽ thật quá khó? Tại sao họ luôn thờ ơ với lẽ thật? Ngay cả sau nhiều năm nghe thuyết giảng, họ vẫn không hề có ý định thay đổi. Trong thâm tâm, họ chưa bao giờ chân thành ăn năn với Đức Chúa Trời, cũng chưa bao giờ thực sự thừa nhận hay chấp nhận sự thật rằng họ có tâm tính bại hoại. Trong cả quan điểm về sự việc lẫn hành động của mình, họ chưa bao giờ từ bỏ quan điểm riêng và tìm kiếm lẽ thật; họ không tiếp cận mọi vấn đề bằng thái độ đảo ngược quan điểm và ăn năn với Đức Chúa Trời. Vì vậy, có nhiều người kinh nghiệm dày dặn và làm nhiều công tác, đã thực hiện bổn phận khá lâu, nhưng vẫn không thể đưa ra được chứng ngôn nào. Họ vẫn không có hiểu biết hay kinh nghiệm về lời Đức Chúa Trời, và khi họ nói về kinh nghiệm và hiểu biết của mình về lời Đức Chúa Trời, họ rất xấu hổ và bất lực, trông vô cùng vụng về. Lý do là vì họ không có hiểu biết về lẽ thật hoặc không quan tâm đến lẽ thật. Mặt khác, lao động thì quá đơn giản, quá dễ dàng. Thế nên mọi người đều sẵn lòng phục vụ Đức Chúa Trời, nhưng lại không chọn mưu cầu lẽ thật.

Bây giờ, nói vậy nhưng chính xác thì mưu cầu lẽ thật có nghĩa là gì? Chúng ta đã nói rất nhiều; chẳng phải chúng ta nên định nghĩa mưu cầu lẽ thật là gì sao? Các ngươi có thể định nghĩa được không? Đó phải là một định nghĩa khá đơn giản, đúng không? Liệu các ngươi có nghĩ ra được nếu chỉ suy nghĩ, nghiền ngẫm và cân nhắc kỹ càng từ ngữ không? Có thể một số người sẽ nói: “Mưu cầu lẽ thật là một chủ đề lớn, không thể diễn đạt rõ được chỉ trong một vài câu. Con không biết phải nói gì về điều này. Từ ngữ nào có thể diễn tả được chứ? Mưu cầu lẽ thật là một vấn đề lớn, và không có từ ngữ cao siêu nhất nào có thể diễn tả và định nghĩa được thích đáng – đó là cách duy nhất để thực sự gây ấn tượng với mọi người!”. Các ngươi có nghĩ nó phải như vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì hãy định nghĩa việc mưu cầu lẽ thật bằng ngôn ngữ đời thường. (Thưa, mưu cầu lẽ thật có nghĩa là dùng lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của chúng con.) Đó đã đủ để được xem là một định nghĩa chưa? Các ngươi đang rút ra kết luận bằng điều này sao? Mưu cầu lẽ thật có dễ định nghĩa không? Định nghĩa nó không phải là nhiệm vụ dễ dàng; các ngươi cần nỗ lực suy ngẫm một chút. Mưu cầu lẽ thật là gì? Chúng ta thử định nghĩa nhé? Trong các ngôn ngữ của con người, ngôn ngữ đơn giản, thông tục và gần gũi với cuộc sống là ngôn ngữ tốt nhất. Chúng ta sẽ không nói bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ hay từ ngữ cao siêu. Chúng ta sẽ nói ngôn ngữ hàng ngày của người bình thường một cách trôi chảy, thông tục và dễ hiểu để mọi người nghe chúng ta nói là có thể hiểu được ngay. Ngoại trừ trẻ vị thành niên, hay những người quá ngu ngốc hoặc bị bệnh tâm thần mới không hiểu được, còn bất kỳ người trưởng thành có tư duy bình thường nào cũng sẽ có thể nghe là hiểu được ngay thứ ngôn ngữ chúng ta dùng. Ngôn ngữ thông tục nghĩa là thế; đó là thứ gọi là ngôn ngữ thường nhật. Vậy mưu cầu lẽ thật là gì? Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn dựa trên lời Đức Chúa Trời, theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí – mưu cầu lẽ thật nghĩa là như vậy. Đó là định nghĩa chính xác về việc mưu cầu lẽ thật. Hỏi: Mưu cầu lẽ thật là gì? Đáp: Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Đó là định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật. Đơn giản, đúng không nào? Một số người các ngươi có thể nói: “Ngài đã thông công bao lâu về mưu cầu lẽ thật là gì, trong khi định nghĩa thì lại chỉ có một câu đấy. Lẽ nào đơn giản như thế sao?”. Đúng, đơn giản như thế đấy. Một định nghĩa đơn giản như thế nhưng lại chạm đến rất nhiều chủ đề liên quan – và tất cả những chủ đề liên quan đó đều chạm đến chủ đề mưu cầu lẽ thật. Những chủ đề này bao gồm những khó khăn của con người, những suy nghĩ và quan điểm của con người, cũng như vô số lời bào chữa, biện minh, phương pháp và thái độ của con người đối với việc mưu cầu lẽ thật. Ngoài ra còn có chủ đề về sự chống đối và không chịu mưu cầu lẽ thật của con người, gây ra bởi những tâm tính bại hoại của con người. Tất nhiên, những điều Ta đã phán với các ngươi – một số con đường và các bước để mưu cầu lẽ thật, cách thức con người mưu cầu lẽ thật, kết quả đạt được khi mưu cầu lẽ thật, và thực tế lẽ thật có thể thấy được ở những người đang sống thể hiện ra lẽ thật – những điều này cũng liên quan đến chủ đề mưu cầu lẽ thật. Kết quả cuối cùng của việc này là chứng ngôn kinh nghiệm cho lời Đức Chúa Trời và công tác cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, điều có được khi con người mưu cầu lẽ thật, thực hành và trải nghiệm lời Ngài. Đây là kết quả lớn nhất. Một đặc điểm của chứng ngôn như vậy là nó làm chứng cho kết quả công tác của Đức Chúa Trời; một đặc điểm nữa là làm chứng cho những tác động tích cực có thể thấy được ở những người đã mưu cầu lẽ thật, đó là ít nhiều, những tâm tính bại hoại của họ đã được giải quyết. Ví dụ: một người từng rất kiêu ngạo, độc đoán, khinh suất và tự hành động theo ý mình, đã biết được rằng đây là một tâm tính bại hoại thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời, và sau đó chấp nhận, thừa nhận điều này. Dần dần, họ bắt đầu biết được tác hại tâm tính bại hoại này gây ra cho người khác và cho chính họ: từ góc độ nhỏ thì có hại cho mọi người, từ góc độ lớn hơn thì làm nhiễu loạn, gián đoạn và gây thiệt hại cho công tác của hội thánh. Đây là một phần của kết quả; đó là điều một người học được khi hiểu lời Đức Chúa Trời. Hơn nữa, trên cơ sở sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời, họ thừa nhận tâm tính bại hoại của mình, và sau đó, trong những tình huống được Đức Chúa Trời sắp đặt, họ dần bắt đầu ăn năn, và từ bỏ lối sống cũng như quan điểm về cách cư xử và hành động họ từng bám vào. Họ tìm thấy các nguyên tắc và con đường thực hành trong lời Đức Chúa Trời và xử lý vấn đề theo các nguyên tắc thực hành Đức Chúa Trời ban cho. Đây là ăn năn thực sự và quay đầu thực sự. Họ có thể cư xử và hành động dựa trên lời Đức Chúa Trời, và cuối cùng đi đến chỗ tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật bất cứ khi nào hành động, và họ sống thể hiện ra một phần thực tế của việc lấy lời Đức Chúa Trời làm nền tảng. Đây là một ví dụ về việc giải quyết tâm tính kiêu ngạo. Kết quả cuối cùng đạt được từ việc này là người này không còn sống thể hiện ra tính kiêu ngạo nữa; thay vào đó họ có lương tâm và lý trí, có thể tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, và thực sự quy phục lẽ thật; những gì họ thực hành và sống thể hiện ra không còn bị chi phối bởi tâm tính bại hoại của họ nữa, thay vào đó họ lấy lẽ thật làm tiêu chí, và sống thể hiện ra thực tế của lời Đức Chúa Trời – đó là kết quả. Chẳng phải kết quả này đạt được bằng cách mưu cầu lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Đây là loại kết quả mà việc mưu cầu lẽ thật mang lại cho con người. Và đối với Đức Chúa Trời, sống theo cách này là chứng ngôn thực sự cho Ngài và công tác của Ngài; đó là kết quả đạt được khi một loài thọ tạo trải qua sự phán xét, hình phạt và vạch trần của lời Đức Chúa Trời. Đó là chứng ngôn thật, và đó là một điều vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Đối với con người, tất nhiên đó không phải là một điều vinh quang; chỉ có thể gọi là một điều vinh dự và tự hào, và đó là chứng ngôn một loài thọ tạo cần phải có và sống thể hiện ra sau khi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Đó là một tác động tích cực đạt được ở một người mưu cầu lẽ thật. Đức Chúa Trời cũng coi kinh nghiệm và hiểu biết như vậy, cũng như những gì những người này sống thể hiện ra là kết quả đạt được nhờ công tác của Ngài. Đối với Ngài, đó là bằng chứng hùng hồn chống lại Sa-tan. Đây là điều Đức Chúa Trời yêu thích và là điều Ngài quý trọng.

Chúng ta vừa định nghĩa mưu cầu lẽ thật là gì. Qua định nghĩa này, quan điểm của các ngươi về mưu cầu lẽ thật là gì đã sát với thực tế hơn chưa? (Thưa, rồi.) Bây giờ chúng ta đã định nghĩa việc mưu cầu lẽ thật theo cách các ngươi hiểu được, vậy các ngươi nên nhìn nhận những sự theo đuổi trước đây của mình như thế nào? Có thể đại đa số các ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật. Điều này có thể hơi khó nghe với các ngươi, đúng không? Hãy đọc lại định nghĩa một lần nữa. (Thưa, mưu cầu lẽ thật là gì? Đáp: Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí.) Bây giờ các ngươi có thể nói điều này một cách chính xác. Ngẫm nghĩ thêm có đúng không? (Thưa, đúng.) Nếu các ngươi đánh giá những sự theo đuổi và thực hành trước đây của mình dựa trên định nghĩa này, kết quả sẽ ra sao? Các ngươi sẽ có thể biết được hiện giờ mình có sở hữu thực tế lẽ thật hay không, và sẽ có thể xác định được cách hành xử hiện tại của mình có phải là mưu cầu lẽ thật hay không. Đây không phải là một cách nói trừu tượng, đúng không? Đây là ngôn ngữ rất thông tục, phải không? (Thưa, phải.) Đây là ngôn ngữ thông thường mà bất kỳ người bình thường nào cũng có thể hiểu được. Mặc dù nó có vẻ khá dễ hiểu, nhưng mọi người lại có một vấn đề. Đó là vấn đề gì? Rằng một khi đã hiểu định nghĩa, họ lại cảm thấy không thoải mái và khó chịu. Tại sao họ lại khó chịu? Bởi vì họ cảm thấy rằng những sự chịu khổ trong quá khứ của họ và những cái giá họ đã trả đều bị lên án, rằng họ đã cho đi vô ích, và điều này khiến họ cảm thấy hơi khó chịu. Một số người sau khi nghe điều này sẽ nói: “Ồ – vậy ra đó là định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật. Nếu theo định nghĩa đó, thì chẳng phải tất cả những cái giá chúng con đã trả và tất cả những sự dâng mình trước đây của chúng con đều uổng phí sao? Nếu Ngài không định nghĩa mưu cầu lẽ thật là gì, chúng con sẽ tiếp tục nghĩ mình đang mưu cầu đúng; giờ Ngài đưa ra định nghĩa này, chẳng phải những sự mưu cầu và cái giá chúng con đã trả đều đổ sông đổ bể sao? Chẳng phải tất cả những giấc mơ được trao mão triều thiên và ban thưởng của chúng con đều tan thành mây khói sao? Khi hiểu được lẽ thật, chúng con nên được ban phước và ước mơ thành hiện thực chứ, vậy tại sao bây giờ chúng con lại đang bị phán xét khi hiểu được lẽ thật? Tại sao chúng con lại đang sống vô vọng trong bóng tối? Quá khứ và hiện tại của chúng con đều bị lên án, và không biết tương lai sẽ ra sao. Dường như chúng con không có hy vọng được ban phước nữa”. Thực tế có phải vậy không? Mọi người nghĩ theo cách này có đúng không? (Thưa, không.) Vậy, mọi người có nên nghĩ theo cách này không? (Thưa, không nên.) Họ không nên nghĩ thế. Nhưng có một điều tốt ở đây: ngươi có thể cầu nguyện-đọc nhiều lần định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật này, sau đó nhìn lại quá khứ, nhìn vào hiện tại và nhìn về tương lai của mình. Ngươi có thể cảm thấy khó chịu, nhưng cảm giác đó có nghĩa là ngươi không tê liệt. Ngươi biết xem xét quá khứ, hiện tại và tương lai của mình, và biết lập kế hoạch cho tiền đồ của mình, biết suy nghĩ, lo lắng và bồn chồn về chúng. Đó là một điều tốt. Nó chứng tỏ rằng ngươi vẫn còn sống, rằng ngươi là một người còn sống và trái tim của ngươi chưa chết. Điều đáng lo ngại là khi một người vẫn thờ ơ dù có nói gì với họ hay con đường mưu cầu lẽ thật đã được thông công với họ rõ ràng như thế nào. Họ nghĩ: “Con người của con là thế đó; liệu con được ban phước hay giáng họa thì sao chứ? Phán xét con, lên án con đi – làm bất cứ điều gì Ngài muốn đi!”. Dù có nói gì với họ, họ cũng đều tê liệt với điều đó. Điều này báo hiệu rắc rối. Ý Ta nói rắc rối nghĩa là sao? Có nghĩa là bất kể ngươi thông công về lẽ thật với họ như thế nào, họ cũng không hiểu; họ là một người đã chết không có linh hồn. Họ không biết gì về những điều như tin vào Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật, được cứu rỗi hay công tác cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, và họ không hiểu những điều như thế. Nó giống như cố gắng dạy hát cho người điếc, hoặc dạy người mù màu pha màu vậy: đơn giản là bất khả thi. Thông công về những điều này không có bất kỳ ý nghĩa hay giá trị nào đối với họ, bởi vì cho dù ngươi có nói gì, sâu hay nông, cụ thể hay khái quát, cũng như nhau – dù thế nào họ cũng không cảm thấy gì. Họ giống như người mù đeo kính, có đeo hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tầm nhìn của họ. Một số người thường nói: “Đông đã đến rồi, chẳng mấy là mùa xuân?”, “Tôi không sợ chết, sao lại sợ sống?” và “Vung tay cũng không lấy được một làn mây”. Đây đều là lời của những kẻ đã chết vô hồn, những kẻ tưởng mình rất khôn ngoan. Theo thuật ngữ thuộc linh thì họ thiếu hiểu biết thuộc linh. Những người thiếu hiểu biết thuộc linh là những kẻ đã chết ngay cả khi đang sống. Người chết có thể hiểu được lời của người sống không? Họ nghĩ: “Tất cả những điều này đều nói về việc mưu cầu lẽ thật, và quan điểm của con người về con người và sự vật, cách cư xử và hành động – liên quan gì đến tôi? Tôi không sợ chết, sao lại sợ sống?”. Ai nghĩ như thế này coi như xong. Họ là một trong số những kẻ đã chết. Định nghĩa mưu cầu lẽ thật là như vậy. Bất kể ngươi có ý định hay kế hoạch gì cho con đường tương lai của mình sau khi đọc định nghĩa này, hay ngươi sẽ thay đổi như thế nào, tất cả đều phụ thuộc vào sự mưu cầu cá nhân của ngươi. Đây là những lời Ta cần phải phán và công tác Ta cần phải làm. Ta đã phán tất cả những gì cần phán, và đã phán tất cả những gì phải phán. Nếu các ngươi thực sự yêu lẽ thật và có ý chí mưu cầu lẽ thật, thì các ngươi nên lấy định nghĩa mưu cầu lẽ thật Ta vừa đưa ra làm mục tiêu và phương hướng cho sự mưu cầu của mình khi nói đến cách các ngươi thường nhìn nhận con người và sự vật, ứng xử và hành động, hoặc lấy nó làm tham chiếu, để từ đó các ngươi có thể dần dần bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Nếu làm như vậy, thì trong tương lai gần, ngươi chắc chắn sẽ thu đạt được điều gì đó trên con đường mưu cầu lẽ thật. Một số người có thể nói: “Mưu cầu lẽ thật không bao giờ là quá muộn”. Điều này không chính xác – nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật từ nay cho đến khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, thì thực sự đã quá muộn. Giải thích ý đó như thế nào? Việc mưu cầu lẽ thật phải diễn ra trước khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc. Nói cách khác, câu này đúng trước khi Đức Chúa Trời rung chuông báo hiệu công tác của Ngài đã kết thúc. Nhưng khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, và Ngài phán: “Ta sẽ không làm thêm công tác cứu rỗi con người nữa, và Ta sẽ không phán thêm lời nào để giúp con người đạt được sự cứu rỗi hoặc những lời liên quan đến sự cứu rỗi con người nữa. Ta sẽ không phán những điều như vậy nữa”, thì công tác của Ngài đã thực sự kết thúc. Nếu ngươi đợi đến lúc đó mới mưu cầu lẽ thật, thì thực sự đã quá muộn. Dù thế nào đi chăng nữa, nếu ngươi bắt đầu mưu cầu lẽ thật ngay bây giờ, thì vẫn còn thời gian – ngươi vẫn có cơ hội đạt được sự cứu rỗi. Từ giờ trở đi, hãy dốc hết sức mình để dần nhìn nhận con người và sự vật, ứng xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí của mình. Hãy cố gắng đọc và hiểu tất cả những lời Đức Chúa Trời vạch trần tâm tính bại hoại của con người trong một khoảng thời gian ngắn, đồng thời thực hành tự phản tỉnh và tự biết mình. Làm như vậy sẽ mang lại lợi ích to lớn cho lối vào sự sống của ngươi. Chẳng hạn trong số những lời Đức Chúa Trời vạch trần tâm tính bại hoại của nhân loại, lấy ví dụ những lời đề cập đến tâm tính của những kẻ địch lại Đấng Christ. Chẳng phải đó là những lời cơ bản nhất sao? (Thưa, phải.) Và ngươi nên làm gì trên cơ sở những lời đó? Lên án chính mình? Nguyền rủa chính mình? Tự tước đi tương lai và vận mệnh của mình? Không – ngươi phải dùng chúng để biết tâm tính bại hoại của mình. Đừng cố thoát khỏi điều này. Đây là giai đoạn mỗi người đều phải trải qua. Mỗi người phải trải qua nghĩa là gì? Cũng giống như mỗi người đều có cha có mẹ sinh ra, rồi lớn lên, rồi già, rồi chết. Đây là những bước ngoặt mỗi người đều phải trải qua từng chặng một. Việc mưu cầu lẽ thật quan trọng như thế nào? Quan trọng như đồ ăn thức uống hàng ngày của con người vậy. Nếu ngừng ăn uống mỗi ngày, xác thịt của ngươi không thể tồn tại được; cuộc sống của ngươi không thể tiếp tục được. “Theo lời Đức Chúa Trời” có nghĩa là ngươi phải nhìn nhận con người và sự vật, cũng như cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, từ đó hình thành những quan điểm, phương pháp và sự thực hành của ngươi. Tất nhiên, “theo lời Đức Chúa Trời” tương đương với “lấy lẽ thật làm tiêu chí”. Vậy, trong định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật, “theo lời Đức Chúa Trời” tự nó đã đủ. Tại sao phải thêm “lấy lẽ thật làm tiêu chí”? Bởi vì có một số vấn đề cụ thể không được giải quyết trong lời Đức Chúa Trời. Trong những trường hợp như vậy, ngươi nên tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, và nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động theo các nguyên tắc đó. Làm như vậy, chắc chắn ngươi sẽ đạt được độ chính xác tuyệt đối. Trước khi đạt được độ chính xác tuyệt đối, con người phải biết được tâm tính bại hoại của mình và thừa nhận những sự bộc phát bại hoại và thực chất bại hoại của mình. Sau đó, họ phải thành tâm ăn năn, và từ đó thực sự quay đầu. Mỗi quá trình trong chuỗi này đều không thể thiếu được, giống như khi người ta ăn: thức ăn phải được đưa vào miệng, rồi phải đi qua thực quản vào dạ dày, sau đó mới được tiêu hóa và hấp thụ. Chỉ khi đó, nó mới có thể dần dần đi vào máu và trở thành chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Con người mưu cầu lẽ thật và bắt đầu lấy lẽ thật làm tiêu chí, sau đó có thể đưa lẽ thật vào thực hành, sống thể hiện ra lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Mỗi quá trình bình thường trong chuỗi này đều không thể thiếu được; chúng là những bước bắt buộc mà mỗi người mưu cầu lẽ thật phải thực hiện để theo đuổi bất kỳ yếu tố nào của lẽ thật. Một số người có thể nói: “Tôi không cần những bước và quá trình đó để mưu cầu lẽ thật. Tôi sẽ chỉ đơn giản tìm kiếm lẽ thật một cách trực tiếp rồi đưa lẽ thật vào thực hành và biến nó thành thực tế của mình”. Đó là một cách hiểu đơn giản, nhưng nếu nó mang lại kết quả, thì tất nhiên đó là một cách tốt hơn. Điều này cho thấy ngươi đã tích lũy được một lượng hiểu biết và thành công nhất định trong khi thường xuyên biết được tâm tính bại hoại của mình, vì vậy ngươi có thể bỏ qua các quá trình xem xét, nhận biết, chấp nhận, ăn năn, v.v. và đi thẳng vào việc tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật. Để một người đi thẳng vào việc tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, họ phải sở hữu một vóc giạc nhất định. Có vóc giạc như vậy nghĩa là gì? Nghĩa là họ có hiểu biết thực sự về tâm tính bại hoại của mình, và khi họ không hiểu những lẽ thật về điều gì đó xảy đến với mình, họ không còn cần phải tự biết mình, hay ăn năn, hay quay đầu nữa. Họ chỉ cần trực tiếp đạt được hiểu biết về các nguyên tắc lẽ thật, và sau đó tiếp tục thực hành theo chúng. Thế là đủ. Đây không phải là vóc giạc của một người bình thường. Một người có vóc giạc như vậy ít nhất đã trải qua quá trình bị Đức Chúa Trời phán xét, hành phạt, sửa dạy và thử thách nghiêm khắc. Họ đã quy phục Ngài và đang trên con đường để được làm cho hoàn thiện rồi. Người như vậy không cần những quá trình như biết sự bại hoại của mình, rồi thừa nhận, ăn năn và quay đầu. Còn các ngươi thì sao? Có phải hầu hết các ngươi cần bắt đầu bằng việc tự biết mình không? Nếu không tự biết mình, ngươi sẽ không bị thuyết phục, và sẽ không dễ dàng chấp nhận lẽ thật, cũng như không có khả năng ăn năn thực sự. Nếu không thực sự ăn năn, ngươi có thể quy phục lẽ thật không? Ngươi có thể quy phục Đức Chúa Trời không? Chắc chắn là không, và trong trường hợp đó, ngươi không phải là người sẽ được cứu rỗi.

Sau mối thông công này, giờ các ngươi đã có chút con đường để mưu cầu lẽ thật chưa? Các ngươi có tự tin mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, có.) Tốt; nếu không thì rất đáng lo ngại. Có thể có một số người các ngươi cảm thấy tiêu cực sau bài giảng. “Ôi không – mình có tố chất kém. Mình nghe giảng nhưng không hiểu gì cả; mình chỉ hiểu được một chút giáo lý. Có vẻ như mình không có nhiều hiểu biết thuộc linh. Mình cảm thấy uể oải khi mưu cầu lẽ thật. Khi thực hiện bổn phận, tất cả những gì mình có thể làm là gắng sức một chút. Mình có quá nhiều khuyết điểm và đầy tâm tính bại hoại. Chắc cái này không thay đổi được đâu. Nó sẽ chỉ như vậy thôi. Đối với mình chỉ cần là một kẻ phục vụ là đủ”. Một người có những suy nghĩ tiêu cực như vậy có thể bắt đầu con đường mưu cầu lẽ thật không? Điều đó có vẻ hơi nguy hiểm, vì chính những suy nghĩ tiêu cực này tạo thành rào cản lớn đối với việc mưu cầu lẽ thật của một người. Nếu không giải quyết chúng thì dù con đường này có tốt đẹp đến đâu, người ta cũng không thể dấn bước vào được. Một số người đã nhiều lần thất bại và sa ngã trên con đường mưu cầu lẽ thật, cuối cùng họ nản lòng: “Thôi, tôi không cần mưu cầu lẽ thật nữa. Số tôi không được ban phước. Chẳng phải chính Đức Chúa Trời đã phán: ‘Ngươi có gương mặt của một người có thể có được các phước lành không?’. Nhìn vào gương tôi thấy mình có ngoại hình trung bình, đôi mắt vô hồn và các đường nét kém cân đối, không có một chút tao nhã nào. Dù có nhìn thế nào thì tôi cũng không giống người được phước. Nếu không được Đức Chúa Trời an bài thì con người có mưu cầu bao nhiêu đi nữa cũng vô ích!”. Hãy nhìn vào tâm lý của những người này: trong lòng họ còn rất nhiều điều ghê tởm vẫn chưa được giải quyết thì làm sao họ có thể dấn thân vào con đường mưu cầu lẽ thật được chứ? Mưu cầu lẽ thật là vấn đề trọng đại nhất trong đời, và điều tệ nhất ngươi có thể làm là luôn gắn nó với việc đạt được phước lành. Trước tiên, người ta phải giải quyết được ý định đạt được phước lành của mình. Sau đó, việc mưu cầu lẽ thật sẽ diễn ra suôn sẻ hơn một chút. Trong việc mưu cầu lẽ thật, điều mấu chốt nhất không phải là xem có nhiều người đi trên con đường này hay không, và không phải là đi theo lựa chọn của số đông, mà là chỉ tập trung vào việc phấn đấu đáp ứng các yêu cầu của Đức Chúa Trời, noi gương Phi-e-rơ. Điều quan trọng nhất là nhìn rõ hiện tại và sống trong hiện tại, nhận biết tâm tính bại hoại nào hiện đang bộc lộ từ ngươi, và tìm kiếm lẽ thật ngay và luôn để giải quyết nó, trước tiên là phân tích và biết tường tận nó, sau đó ăn năn với Đức Chúa Trời. Khi ăn năn, quan trọng nhất là đưa lẽ thật vào thực hành – đó là cách duy nhất để đạt được kết quả thực sự. Nếu ngươi chỉ nói với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con sẵn lòng ăn năn. Con xin lỗi. Con sai rồi. Xin Ngài tha thứ cho con!” và nghĩ rằng đây là tất cả những gì cần làm để được Đức Chúa Trời tán thành, thì điều đó có hiệu quả không? (Thưa, không.) Nếu ngươi luôn sẵn lòng nói với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con xin lỗi. Con sai rồi”, hy vọng như ai rằng Đức Chúa Trời sẽ phán: “Không sao. Cứ tiếp tục đi.” – nếu luôn sống trong kiểu tình trạng này thì ngươi sẽ không thể bước vào lẽ thật. Vậy ngươi nên cầu nguyện và ăn năn với Đức Chúa Trời như thế nào? Có con đường nào không? Ai có kinh nghiệm về việc này có thể nói đôi chút xem. Không một ai sao? Có vẻ như bình thường các ngươi không bao giờ cầu nguyện ăn năn, hay xưng tội và ăn năn với Đức Chúa Trời. Vậy, các ngươi nên buông bỏ những mong muốn và ý định riêng của mình như thế nào? Các ngươi nên giải quyết sự bại hoại của mình như thế nào? Các ngươi có con đường thực hành không? Lấy một ví dụ, nếu ngươi không có con đường để giải quyết tâm tính kiêu ngạo, thì ngươi nên cầu nguyện với Đức Chúa Trời như thế này: “Lạy Đức Chúa Trời, con có tâm tính kiêu ngạo. Con nghĩ mình hay hơn người khác, giỏi hơn người khác, thông minh hơn người khác và con muốn bắt người khác làm theo ý mình. Thật vô nghĩa. Tại sao con không thể buông bỏ được, mặc dù biết đó là sự kiêu ngạo? Con xin Ngài sửa dạy và quở trách con. Con sẵn sàng từ bỏ tính kiêu ngạo và ý riêng của mình để tìm cầu ý muốn của Ngài. Con sẵn lòng nghe lời Ngài, và chấp nhận chúng như lẽ sống của con và các nguyên tắc con hành xử. Con sẵn sàng sống thể hiện ra lời Ngài. Con xin Ngài dẫn dắt con, con xin Ngài giúp đỡ và dẫn lối con”. Có thái độ quy phục trong những lời này không? Có mong muốn quy phục không? (Thưa, có.) Một số người có thể nói: “Chỉ cầu nguyện một lần thì không hiệu quả. Khi có điều gì xảy đến với con, con vẫn sống theo tâm tính bại hoại của mình và vẫn muốn phụ trách”. Trong trường hợp đó, hãy tiếp tục cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con quá kiêu ngạo, quá dấy loạn! Con xin Ngài sửa dạy con, ngăn chặn sự hành ác của con và kiềm chế tâm tính kiêu ngạo của con. Con xin Ngài dẫn dắt và dẫn lối con, để con có thể sống thể hiện ra lời Ngài, hành động và thực hành theo lời Ngài và yêu cầu của Ngài”. Hãy đến trước Đức Chúa Trời nhiều hơn khi cầu nguyện và cầu xin, và để Ngài làm công tác. Lời ngươi càng chân thành, và lòng ngươi càng chân thành, thì ước muốn phản bội xác thịt và bản thân ngươi càng lớn. Khi nó lấn át mong muốn hành động theo ý riêng của ngươi, lòng ngươi sẽ dần dần quay đầu – và khi điều đó xảy ra, ngươi sẽ có hy vọng thực hành lẽ thật và hành động theo các nguyên tắc lẽ thật. Khi ngươi cầu nguyện, Đức Chúa Trời sẽ không nói bất cứ điều gì với ngươi, hoặc chỉ ra bất cứ điều gì cho ngươi, hoặc hứa với ngươi bất cứ điều gì, nhưng Ngài sẽ xem xét tấm lòng ngươi và ý định đằng sau lời ngươi; Ngài sẽ quan sát xem những điều ngươi nói có chân thành và đúng hay không, và liệu ngươi có đang cầu xin và cầu nguyện với Ngài bằng tấm lòng trung thực hay không. Khi Đức Chúa Trời thấy tấm lòng của ngươi trung thực, Ngài sẽ dẫn dắt và hướng dẫn ngươi, như ngươi đã cầu xin và cầu nguyện Ngài làm, và tất nhiên, Ngài cũng sẽ quở trách và sửa dạy ngươi. Khi Đức Chúa Trời đáp ứng điều ngươi cầu xin, lòng ngươi sẽ được khai sáng và phần nào được thay đổi. Ngược lại, nếu những lời cầu nguyện và cầu xin của ngươi với Đức Chúa Trời không chân thành, và ngươi không thật lòng mong muốn ăn năn, mà chỉ cố làm cho có để lấy lòng Đức Chúa Trời và lừa Ngài bằng lời mình, thì khi Đức Chúa Trời đã dò xét lòng ngươi, Ngài sẽ không làm gì cho ngươi và Ngài sẽ khinh ghét, loại bỏ ngươi. Trong những trường hợp này, ngươi cũng sẽ không cảm thấy Đức Chúa Trời phán bất cứ điều gì với ngươi, làm bất cứ điều gì, hay thực hiện bất kỳ hành động nào, nhưng Đức Chúa Trời sẽ không làm bất kỳ công tác nào nơi ngươi, bởi vì ngươi không trung thực trong lòng. Và khi Đức Chúa Trời không làm công tác, điều gì sẽ xảy ra? Như ngươi đã định, lòng ngươi sẽ thiếu mong muốn ăn năn, và sẽ không hề quay đầu. Và vì vậy, trong môi trường đó và trong sự việc xảy đến với ngươi, những gì ngươi làm vẫn sẽ bị sai khiến bởi ý chí và tâm tính bại hoại của con người, thay vì dựa trên các nguyên tắc lẽ thật. Ngươi vẫn sẽ hành động và thực hành theo điều mình muốn và mong ước. Kết quả của những lời cầu nguyện của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ giống như trước khi ngươi cầu nguyện; không có thay đổi gì cả. Ngươi vẫn sẽ làm bất cứ điều gì mình thích, hoàn toàn không quay đầu. Điều này có nghĩa là trong quá trình mưu cầu lẽ thật, những nỗ lực tự thân của con người rất quan trọng, cũng như việc họ có hiểu được lẽ thật hay không. Đồng thời, khi con người hiểu được lẽ thật và muốn thực hành lẽ thật, nhưng cảm thấy khó làm, thì họ phải nương cậy vào Đức Chúa Trời, và dâng tấm lòng cùng lời cầu nguyện chân thành. Điều đó cũng rất quan trọng; những điều này đều không thể thiếu được. Nếu tất cả những gì ngươi làm là cầu nguyện với Đức Chúa Trời một cách qua loa, hời hợt, thưa rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con sai rồi. Con xin lỗi”, và nếu ngươi chiếu lệ với Đức Chúa Trời trong lòng cũng như trong lời cầu nguyện của mình, thì Đức Chúa Trời sẽ không làm công tác gì cả, Ngài cũng sẽ không chú ý đến ngươi. Nếu ngươi nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con xin lỗi. Con sai rồi”, chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ không phán: “Không sao đâu”. Bởi những lời qua loa, hời hợt ngươi đã nói với Ngài, Đức Chúa Trời sẽ hỏi ngươi: “Ngươi sai ở đâu? Ngươi định làm gì? Ngươi sẽ ăn năn chứ? Ngươi sẽ từ bỏ sự tà ác của ngươi và quay đầu chứ? Ngươi sẽ buông bỏ ý muốn, ý định, lợi ích của bản thân và mau chóng quay đầu chứ? Ngươi có thể hạ quyết tâm để quay đầu không?”. Ngươi có thể không nghe thấy Đức Chúa Trời hỏi khi việc này xảy ra, nhưng nếu ngươi thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con xin lỗi. Con sai rồi,” thì từ quan điểm của Đức Chúa Trời, thái độ của Ngài sẽ giống như Ta vừa phán: Ngài sẽ chất vấn ngươi bằng những lời này. Ngài sẽ chất vấn ngươi như thế nào? Ngài sẽ tiếp tục theo dõi những điều ngươi làm và những lựa chọn của ngươi sau khi nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con xin lỗi. Con sai rồi". Ngài sẽ xem xem liệu ngươi có sự ăn năn chân thành sinh ra từ việc thực sự thừa nhận và căm ghét sự bại hoại của chính mình hay không. Đức Chúa Trời sẽ nhìn xem thái độ của ngươi đối với Ngài là gì, thái độ của ngươi đối với lẽ thật là gì, ngươi nhìn nhận tâm tính bại hoại của chính mình như thế nào và ngươi có quan điểm gì về nó, cũng như liệu ngươi có ý định từ bỏ những quan điểm sai lầm và đường lối sai trái của mình hay không; Ngài sẽ xem xét các lựa chọn của ngươi, xem liệu ngươi có chọn đi trên con đường mưu cầu lẽ thật hay không, xem ngươi nên hành động như thế nào và các nguyên tắc ngươi phải tuân giữ trong tương lai, xem liệu ngươi có thể thực hành lẽ thật và quy phục Ngài hay không. Đức Chúa Trời sẽ dò xét mọi hành động, mọi ý định và lựa chọn của ngươi, và khi làm vậy, Ngài sẽ nhìn xem liệu những điều ngươi làm sau khi đưa ra những lựa chọn đó có thực sự là hành động ăn năn và quay đầu hay không. Đó là vấn đề then chốt.

Một khi đã chọn ăn năn, con người phải bắt đầu quay đầu như thế nào? Bằng cách buông bỏ những mong muốn, suy nghĩ và quan điểm của mình, và những cách làm xưa cũ để thực hành lẽ thật, và để thực sự thay đổi. Đó là ý nghĩa của việc thực sự quay đầu. Nếu ngươi chỉ nói sẵn sàng quay đầu, nhưng trong lòng thì vẫn đang bám chấp vào những mong muốn của bản thân, từ bỏ lẽ thật và tiếp tục con đường cũ của mình, thì ngươi đang không thực sự quay đầu. Nếu tất cả những gì ngươi thưa với Đức Chúa Trời khi cầu nguyện là “Lạy Đức Chúa Trời, con xin lỗi. Con sai rồi”, nhưng trong mọi hành vi của ngươi sau đó, ngươi vẫn đưa ra lựa chọn, hành động, thực hành và sống theo ý riêng của mình, đi ngược lại với lẽ thật trong tất cả những điều này, thì từ góc độ của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ được định nghĩa thế nào? Ngươi vẫn chưa quay đầu. Ít nhất, Ngài sẽ nói ngươi không có ý định quay đầu. Ngươi có thể thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con xin lỗi. Con sai rồi”, nhưng đó chỉ là những lời nói hời hợt, không phải là sự ăn năn, xưng tội xuất phát từ thâm tâm ngươi. Chúng không thể hiện thái độ nhận lỗi và ăn năn; mà chỉ là những lời sáo rỗng. Đức Chúa Trời không nghe những gì ngươi nói – Ngài nhìn vào những gì ngươi đang suy nghĩ, lên kế hoạch và bày mưu tính kế. Và khi Đức Chúa Trời thấy rằng cơ sở và nguyên tắc hành động của ngươi vẫn trái với lẽ thật, thì Ngài sẽ đưa ra phán quyết chân chính, thực tế và chính xác dành cho ngươi. Ngài sẽ phán: “Ngươi chưa quay đầu, và ngươi đang không quay đầu”. Và khi Đức Chúa Trời phán điều này, khi Đức Chúa Trời đưa ra phán quyết này cho ngươi, Ngài sẽ không còn quan tâm đến ngươi nữa. Và khi Đức Chúa Trời không quan tâm đến ngươi, thì trong những ngày tới, lòng ngươi sẽ tối tăm, ngươi sẽ thiếu sự khai sáng và soi sáng trong mọi việc mình làm, và ngươi sẽ không hề nhận thức được khi mình bộc lộ tâm tính bại hoại, cũng như ngươi sẽ không được sửa dạy về điều đó. Ngươi sẽ tiếp tục sống, tê liệt và đờ đẫn, và sẽ cảm thấy trống rỗng, không có gì để nương cậy. Tệ nhất là ngươi sẽ tiếp tục sa đà vào hành vi tùy tiện, khinh suất, và sẽ tiếp tục để tâm tính bại hoại của mình bùng phát và phát triển không kiểm soát. Đó là điều sẽ xảy ra. Hậu quả cuối cùng của một người hành động theo cách này là gì? Khi một người từ bỏ lẽ thật, hậu quả họ tự chuốc lấy là Đức Chúa Trời sẽ không quan tâm đến họ. Mặc dù Đức Chúa Trời có thể không nói bất cứ điều gì hoặc chỉ ra rõ ràng bất cứ điều gì cho ngươi, nhưng ngươi sẽ có thể cảm nhận được điều đó. Dựa trên những suy nghĩ và tư tưởng, tình trạng thực tế và thái độ của ngươi đối với lẽ thật, rõ ràng tình trạng chung của ngươi là tê liệt, đờ đẫn, cố chấp và những biểu hiện tương tự khác. Những điều này được phản ánh trong mọi người. Vì vậy, sau khi so sánh cuộc sống thực của các ngươi và những điều các ngươi thực hành với điều này, các ngươi có thể muốn nghiên cứu hoặc tìm hiểu những điều sau: khi ngươi hoàn toàn chưa quay lại với Đức Chúa Trời, ngươi có thể nói với Ngài rất nhiều lời ngọt ngào, êm tai, nhưng ngươi đang ở trong kiểu trạng thái và tình trạng nào khi làm như vậy? Và khi ngươi đã thực sự quay đầu, mặc dù ngươi có thể không cầu nguyện với Đức Chúa Trời bằng những lời ngọt ngào hay êm tai, mà chỉ nói một chút từ đáy lòng mình, thì lúc đó ngươi đang ở trong trạng thái và tình trạng nào? Hai trạng thái này hoàn toàn khác nhau. Đức Chúa Trời có thể không chỉ rõ bất cứ điều gì cho con người trong cuộc sống hàng ngày của họ hay phán với họ bằng những lời rõ ràng, nhưng con người sẽ có thể cảm nhận được công tác của Đức Thánh Linh, và mọi điều Ngài làm, cùng mọi ý muốn Ngài muốn bày tỏ, trong cuộc sống hàng ngày của họ. Đương nhiên, những người quan sát cũng có thể phát hiện ra những điều này. Một người tê liệt và đần độn có thể đột nhiên trở nên thông minh, hoặc một người vốn thông minh có thể đột nhiên trở nên tê liệt, đần độn và vô dụng. Hai tình trạng hoặc trạng thái này có thể xảy ra cùng lúc ở một người hoặc ở những người khác nhau – đây là điều xảy ra khá thường xuyên. Từ đó có thể thấy trong nhiều trường hợp, một người thông minh hay ngu ngốc không phải do đầu óc, tư duy hay tố chất của họ; mà là do Đức Chúa Trời định đoạt. Rõ chưa? (Thưa, rõ.) Ngươi sẽ không bao giờ hiểu được những điều này cho đến khi trải nghiệm chúng. Một khi đã trải nghiệm chúng, ngươi sẽ biết – trải nghiệm của ngươi về chúng càng sâu sắc, hiểu biết của ngươi sẽ càng thấu đáo và ngươi sẽ càng nhận thức sâu sắc hơn về chúng. Ý muốn của Đức Chúa Trời nằm trong hành động của Ngài; Ngài sẽ không cho ngươi một dấu hiệu rõ ràng về điều đó, Ngài cũng sẽ không nói rõ ràng với ngươi hay bảo ngươi, nhưng điều này không có nghĩa là Ngài không có lập trường nào về ngươi. Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời không có quan điểm về bất kỳ suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái hay thái độ nào của ngươi. Khi người ta nung nấu những ý định và kế hoạch cá nhân của riêng mình, khi có chuyện xảy đến với họ, khi họ bộc lộ rõ ràng một tâm tính bại hoại – đây chính là những thời điểm mà họ cần phải phản tỉnh bản thân và tìm kiếm lẽ thật, và đây cũng là những thời điểm quan trọng để Đức Chúa Trời xem xét người đó. Do đó, liệu ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật, chấp nhận lẽ thật và thực sự ăn năn hay không – đây là những thời điểm bộc lộ rõ nhất một con người. Những lúc như vậy, ngươi nên thừa nhận rằng mình có tâm tính bại hoại và sẵn lòng thực sự ăn năn. Ngươi nên thành thật khai nhận với Đức Chúa Trời, thay vì qua loa với Ngài bằng cách nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con xin lỗi. Con sai rồi”. Điều Đức Chúa Trời cần nơi ngươi không phải là sự qua loa của ngươi, mà là thái độ ăn năn chân thành. Nếu ngươi gặp khó khăn, Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ, hướng dẫn và dẫn dắt ngươi từng bước một để ngươi tự quay đầu, hướng tới con đường chấp nhận và mưu cầu lẽ thật. Tất nhiên, nếu sự ăn năn của ngươi chỉ đơn thuần bằng lời, hoặc nếu ngươi có ý định ăn năn và muốn buông bỏ những ý định, ham muốn của mình, nhưng ngươi không thành thật và không có ý chí thực hiện, thì Đức Chúa Trời sẽ không ép ngươi. Với Đức Chúa Trời, không có chữ “phải” trong thái độ của Ngài với con người; Đức Chúa Trời cho ngươi tự do, Đức Chúa Trời cho ngươi lựa chọn, và Ngài đang chờ đợi. Ngài đang chờ đợi điều gì? Ngài đang chờ xem rốt cuộc ngươi chọn điều gì và ngươi có ý định ăn năn hay không. Nếu có ý định ăn năn thì khi nào ngươi sẽ thực hiện? Sự ăn năn của ngươi sẽ được thể hiện bằng cách nào? Nếu có ý định ăn năn và sẵn lòng ăn năn, nhưng vẫn cố gắng bảo vệ tư lợi khi hành động, và vẫn không muốn mất đi địa vị của mình, thì rõ ràng ngươi không thực sự ăn năn, ngươi không chân thành trong việc đó. Ngươi chỉ hơi muốn ăn năn, chứ không thực sự ăn năn. Liệu Đức Chúa Trời có làm công tác nơi ngươi không nếu ngươi chỉ đơn thuần có ý định ăn năn chứ không thực sự ăn năn? Không. Ngài sẽ nói: “Chà, khi nào thì ngươi định ăn năn?”. Ngươi không biết. Liệu Đức Chúa Trời có hỏi ngươi một lần nữa? Không – Ngài sẽ phán: “Vậy thì ngươi không thật lòng ăn năn. Thế thì Ta đợi thôi”. Ngươi có thể không có ý định ăn năn, ngươi có thể không muốn ăn năn, hoặc không muốn từ bỏ địa vị và lợi ích của mình. Vậy thì tốt thôi. Đức Chúa Trời cho ngươi tự do, và ngươi có thể đưa ra bất kỳ lựa chọn nào tùy ý. Đức Chúa Trời sẽ không ép buộc ngươi. Nhưng có một thực tế ngươi cần cân nhắc, giống như dân Ni-ni-ve, nếu ngươi không quay đầu và ăn năn, thì điều gì sẽ xảy đến? Ngươi sẽ bị tiêu diệt. Nếu hiện tại, ngươi chỉ có ý định ăn năn, nhưng chưa có hành động ăn năn thực sự nào, thì Đức Chúa Trời sẽ không quan tâm đến ngươi. Tại sao Ngài lại không quan tâm đến ngươi? Đức Chúa Trời phán: “Ngươi không chân thật, ngươi không bày tỏ lập trường của mình, và lòng ngươi vẫn dao động”. Sau một hồi suy nghĩ, ngươi có thể nói mình sẵn lòng ăn năn, nhưng đó chỉ là suy nghĩ của ngươi, một câu nói suông, không có bất kỳ hành động hay kế hoạch cụ thể nào cả. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ gạt những người như ngươi sang một bên. Ta không quan tâm đến ngươi. Thích làm gì thì làm!”. Đến một ngày, ngươi nhận ra: “Không được, mình cần phải ăn năn”, thì ngươi nên bắt đầu như thế nào? Đức Chúa Trời sẽ không bị lừa bởi những lời nói đó của ngươi và mù quáng làm công tác, nói rằng: “Nó có ý định ăn năn, vậy giờ Ta phải ban phước cho nó, đúng không?”. Đức Chúa Trời sẽ không làm điều đó. Ngài sẽ làm gì? Ngài sẽ dò xét ngươi. Ngươi có ý định ăn năn, ngươi muốn ăn năn, và nhu cầu của ngươi đối với điều đó mạnh hơn trước một chút, nhưng ai biết được sẽ mất bao lâu để ngươi thực sự làm điều đó. Nếu ngươi chưa thực hiện các bước cụ thể hoặc không có kế hoạch cụ thể để thực hành ăn năn, thì đó không phải là thực sự ăn năn. Ngươi phải thực sự hành động. Một khi ngươi đã thực sự hành động, công tác của Đức Chúa Trời sẽ theo sau. Chẳng phải có các nguyên tắc cho công tác của Đức Chúa Trời và cách Ngài đối xử với con người sao? Khi Đức Chúa Trời làm công tác, một người sẽ đạt được sự khai sáng, họ sáng mắt, có thể hiểu được lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, và họ thu đạt được gấp trăm, gấp nghìn lần. Một khi điều này xảy ra, ngươi thực sự được ban phước. Vậy con người phải dựa trên nền tảng nào để đạt được những điều này? (Thưa, khả năng thực sự ăn năn.) Đúng vậy. Khi con người thực sự từ bỏ lợi ích và ham muốn của bản thân, khi họ thực sự ăn năn với Đức Chúa Trời – nghĩa là họ thôi hành ác; buông bỏ sự tà ác, cùng những ham muốn và ý định của mình; xưng tội với Đức Chúa Trời; và chấp nhận những yêu cầu của Đức Chúa Trời và lời Ngài – khi đó họ sẽ bắt đầu bước vào thực tế của việc quay đầu. Chỉ đây mới là thực sự ăn năn.

Chúng ta chỉ thông công về những vấn đề thường gặp trong quá trình con người mưu cầu lẽ thật, và những vấn đề mà những ai mưu cầu lẽ thật có thể nhận ra và biết được. Chúng chính là những vấn đề cần được giải quyết. Trước đây, chúng ta có thể chưa giải thích hay mổ xẻ quá nhiều những vấn đề này, thậm chí có thể chưa đi đến kết luận rõ ràng nào về chúng, nhưng liên quan đến từng bước con người trải qua trong quá trình mưu cầu lẽ thật, và những hành vi và trạng thái khác nhau của họ trong quá trình này, Đức Chúa Trời có những lời và công tác tương ứng, và Ngài có những cách thức và phương pháp phù hợp để tiếp cận và giải quyết. Con người có thể trải nghiệm và hiểu một chút về tất cả những điều này; họ không được hiểu sai về Đức Chúa Trời, hoặc chứa chấp bất kỳ quan niệm hay tưởng tượng nào phi thực tế về Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Đức Chúa Trời ban cho con người đủ tự do và đủ quyền tự quyết để đưa ra lựa chọn trong mọi bước đường, mọi cách hành động và mọi cách thực hành liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật – Ngài không ép buộc con người. Và mặc dù những lời và yêu cầu này được in thành văn bản và được diễn đạt bằng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác, nhưng mỗi người vẫn có quyền tự do lựa chọn cách tiếp cận những lẽ thật này. Đức Chúa Trời không ép buộc con người. Nếu ngươi sẵn lòng mưu cầu lẽ thật thì ngươi có hy vọng được cứu rỗi. Nếu ngươi không sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, nếu ngươi không quan tâm đến những lẽ thật này và gạt bỏ chúng, nếu ngươi hoàn toàn không hứng thú với những cách thực hành sự mưu cầu lẽ thật này – cũng tốt thôi. Đức Chúa Trời sẽ không ép buộc ngươi. Nếu ngươi chỉ sẵn lòng lao động cho Đức Chúa Trời, cũng tốt thôi. Miễn là ngươi không vi phạm các nguyên tắc, nhà Đức Chúa Trời sẽ để ngươi tự lựa chọn. Mặc dù việc mưu cầu lẽ thật gắn chặt và liên quan mật thiết với việc đạt được sự cứu rỗi, nhưng vẫn không thiếu những người không quan tâm đến việc mưu cầu lẽ thật, những người không có suy nghĩ hay ý định, cũng như bất kỳ kế hoạch nào để thực hiện việc đó. Vậy những người này có bị lên án không? Không hẳn. Nếu những người này đáp ứng các yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời trong việc thực hiện bổn phận của mình, thì họ có thể tiếp tục thực hiện bổn phận của mình ở đó. Nhà Đức Chúa Trời sẽ không tước quyền thực hiện bổn phận của ngươi vì ngươi không mưu cầu lẽ thật. Nhưng thực hiện bổn phận theo cách này, cho đến nay, được phân loại là “lao động”. “Lao động” là một cách nói hoa mỹ, đó là thuật ngữ nhà Đức Chúa Trời sử dụng, còn trên thực tế, cũng có thể được gọi đơn giản là “thực hiện một công việc”. Một số người các ngươi có thể nói: “Làm việc thì sẽ được trả lương”. Có, ngươi có thể nhận được tiền công khi làm một công việc. Thế tiền công của ngươi là gì? Tất cả những ân điển Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi – đó là tiền công của ngươi. Còn đối với việc mưu cầu lẽ thật, bất kể ngươi định làm gì, hay có kế hoạch làm gì, hay mong muốn làm gì, giờ Ta có thể nói rõ với ngươi rằng ngươi được tự do. Ngươi có thể mưu cầu lẽ thật, tốt; nếu không, cũng tốt. Nhưng điều cuối cùng Ta sẽ nói với các ngươi là một người chỉ có thể được cứu rỗi thông qua việc mưu cầu lẽ thật. Nếu không mưu cầu lẽ thật, hy vọng được cứu rỗi của ngươi là con số không. Đó là sự thật Ta muốn nói với các ngươi. Các ngươi phải được cho biết sự thật này, để nó khắc sâu vào lòng các ngươi một cách sáng tỏ, rõ ràng, chính xác và minh bạch – để ngươi có thể biết rõ trong lòng hy vọng được cứu rỗi dựa trên nền tảng nào. Nếu ngươi chỉ hài lòng với việc lao động, nghĩ rằng: “Mọi chuyện sẽ ổn thôi nếu mình có thể thực hiện bổn phận và không bị khai trừ khỏi nhà Đức Chúa Trời; mình không cần phải bận tâm đến việc khó như mưu cầu lẽ thật”, quan điểm này của ngươi có đúng không? Mặc dù bây giờ ngươi vẫn tin vào Đức Chúa Trời, hay thực hiện bổn phận, nhưng ngươi có tự tin rằng mình có thể đi theo Đức Chúa Trời đến cùng không? Dù thế nào đi nữa, mưu cầu lẽ thật là một vấn đề trọng đại trong cuộc sống, quan trọng hơn kết hôn, sinh con đẻ cái, hơn nuôi dạy con cái, hơn sống đời mình và làm giàu. Nó thậm chí còn quan trọng hơn việc thực hiện bổn phận và mưu cầu tương lai trong nhà Đức Chúa Trời. Tựu trung lại, mưu cầu lẽ thật là điều quan trọng nhất trên đường đời của một con người. Nếu các ngươi chưa bắt đầu quan tâm đến việc mưu cầu lẽ thật thì sẽ không ai đưa ra phán quyết đối với các ngươi và nói rằng các ngươi sẽ không mưu cầu lẽ thật trong tương lai. Ta cũng sẽ không đưa ra phán quyết đối với các ngươi và nói rằng nếu bây giờ các ngươi không mưu cầu lẽ thật, thì trong tương lai sẽ không bao giờ làm điều đó. Không phải như thế. Không có mối quan hệ logic như vậy; đây không phải là thực tế. Dù thế nào đi chăng nữa, Ta thực sự hy vọng rằng trong tương lai gần, hoặc ngay cả trong chính thời điểm này, các ngươi có thể dấn bước vào con đường mưu cầu lẽ thật, trở thành những người mưu cầu lẽ thật, và nằm trong số những người có hy vọng được cứu rỗi.

Mưu cầu lẽ thật có liên quan trực tiếp đến việc đạt được sự cứu rỗi, vì vậy chủ đề mưu cầu lẽ thật không phải là chủ đề nhỏ. Mặc dù đó có thể là một chủ đề phổ biến, nhưng lại chạm đến rất nhiều lẽ thật. Trên thực tế, chủ đề này gắn liền với triển vọng và vận mệnh của con người, và mặc dù chúng ta thường xuyên thông công về chủ đề này, nhưng mọi người vẫn chưa hiểu rõ lắm về các lẽ thật và vấn đề khác nhau mà họ cần hiểu trong việc mưu cầu lẽ thật. Thay vào đó, một cách mơ hồ, họ chỉ lấy các hành vi và cách tiếp cận khác nhau mà mọi người coi là tốt, cũng như một số suy nghĩ và quan điểm mà mọi người coi là tương đối chủ động, hướng thượng và tích cực, và theo đuổi chúng như lẽ thật. Đây là một sai lầm khủng khiếp. Có nhiều điều người ta xem là tốt, là phải, là đúng mà nói cho chính xác lại không phải là lẽ thật. Một số điều trong đó cùng lắm chỉ phù hợp với lẽ thật, chứ không thể nói là lẽ thật. Hầu hết mọi người đều có những hiểu lầm sâu sắc về việc mưu cầu lẽ thật, và chấp chứa khá nhiều hiểu biết sai lầm cùng thành kiến đối với lẽ thật. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải thông công rõ ràng về điều này, và giúp mọi người hiểu được những lẽ thật bên trong đó mà họ cần phải hiểu và những vấn đề họ cần phải giải quyết. Các ngươi có suy nghĩ gì về nội dung cụ thể liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật chúng ta vừa thông công không? Các ngươi có kế hoạch hay dự định gì chưa? Sau khi chúng ta đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về mưu cầu lẽ thật là gì thông qua mối thông công, nhiều người hơi bối rối về những việc họ đã từng làm và bộc lộ ra, cũng như những gì họ dự định làm trong tương lai. Họ thấy khó chịu, và một số người thậm chí còn cảm thấy họ không còn hy vọng và có nguy cơ bị gạt bỏ. Nếu lẽ thật đã được thông công rõ ràng, nhưng mọi người vẫn cảm thấy thiếu sức sống, thì trạng thái của họ có đúng không? Có bình thường không? (Thưa, không.) Nếu trước đây ngươi đã mưu cầu lẽ thật và được xác nhận về điều đó nhờ lắng nghe buổi thông công này, chẳng phải ngươi sẽ cảm thấy tràn đầy sinh lực hơn sao? (Thưa, phải.) Vậy tại sao mọi người lại cảm thấy thiếu sức sống? Căn nguyên của sự thiếu sức sống đó là gì? Lẽ thật được thông công càng minh bạch và rõ ràng thì con người càng phải có một con đường tốt hơn – vậy tại sao, nếu họ càng có một con đường tốt hơn, họ lại cảm thấy thiếu sức sống hơn? Chẳng phải có vấn đề ở đây sao? (Thưa, phải.) Vấn đề gì? (Thưa, nếu người ta biết rằng mưu cầu lẽ thật là việc tốt nhưng lại không muốn mưu cầu, thì đó là vì họ không yêu lẽ thật.) Mọi người không yêu lẽ thật hay không có ý định mưu cầu lẽ thật – đó là lý do tại sao họ cảm thấy thiếu sức sống. Còn những hành động trước đây của họ thì sao? (Thưa, chúng bị lên án.) “Bị lên án” không hẳn là từ đúng – nói một cách chính xác thì những hành động trước đây của họ không được công nhận. Hành động của một người không được công nhận là loại kết quả gì? Điều gì đang diễn ra khi hành động của một người không được công nhận? Điều đó có nghĩa là gì? Đơn giản – nếu hành động của một người không được công nhận, điều đó cho thấy họ đang không mưu cầu lẽ thật, mà thay vào đó đang theo đuổi những điều con người coi là đúng và tốt, và họ vẫn đang sống theo những quan niệm và tưởng tượng của mình. Chẳng phải đây là những gì đang diễn ra sao? (Thưa, phải.) Đó là điều đang diễn ra. Khi hành động của con người không được Đức Chúa Trời công nhận, họ cảm thấy khó chịu. Những lúc như vậy họ không có một con đường thực hành tích cực và đúng đắn nào sao? Liệu có đúng không khi người ta trở nên tiêu cực, từ bỏ bổn phận của mình và bỏ cuộc như một kẻ vô vọng chỉ vì hành động của họ không được công nhận? Đó có phải là con đường thực hành đúng đắn không? (Thưa, không.) Đó không phải là con đường thực hành đúng đắn. Khi một người gặp phải chuyện như thế này và phát hiện ra vấn đề của chính mình, họ phải khẩn trương quay đầu. Nếu thông qua mối thông công của chúng ta về mưu cầu lẽ thật là gì, ngươi nhận ra rằng những hành động và hành vi trước đây của mình không liên quan gì đến việc mưu cầu lẽ thật, thì bất kể điều đó có làm ngươi khó chịu hay không, điều đầu tiên ngươi phải làm là đảo ngược những đường lối và phương pháp thực hành cũ sai lầm của mình, cũng như con đường mưu cầu không đúng của mình. Ngươi phải đảo ngược những điều đó ngay lập tức. Khi những hành động trước đây của mình bị Đức Chúa Trời gạt bỏ và không công nhận, khi Đức Chúa Trời phán rằng những hành động này chỉ là lao động, và rằng chúng không liên quan gì đến việc mưu cầu lẽ thật, thì một số người sẽ nghĩ: “Ồ, con người chúng ta quả thực ngu ngốc và mù quáng. Chúng ta không hiểu lẽ thật và không thể nhìn nhận mọi thứ đúng như bản chất của chúng – và trong suốt thời gian qua, chúng ta lại tưởng rằng mình đang thực hành lẽ thật, đang mưu cầu lẽ thật và làm hài lòng Đức Chúa Trời. Chỉ đến bây giờ chúng ta mới biết rằng những điều mình đã làm trong cái gọi là ‘mưu cầu lẽ thật’ chỉ là những hành vi tốt của con người – chúng chỉ là những điều con người làm dựa trên các khả năng, tố chất và tài năng khác nhau theo bản năng của xác thịt họ. Chúng khác xa với thực chất, định nghĩa và các yêu cầu của việc mưu cầu lẽ thật; chúng chỉ đơn giản là không liên quan gì đến việc mưu cầu lẽ thật. Chúng ta phải làm sao đây?”. Đây là một vấn đề lớn và phải được giải quyết. Cách giải quyết là gì? Câu hỏi đặt ra: vì những hành vi và cách tiếp cận mà mọi người trước đây cho là tốt đã đồng loạt bị gạt bỏ, và Đức Chúa Trời không nhớ đến chúng, Ngài cũng không định nghĩa chúng là mưu cầu lẽ thật – vậy thì mưu cầu lẽ thật là gì? Để trả lời câu hỏi này, người ta phải cầu nguyện - đọc kỹ định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật, tìm cách thực hành từ định nghĩa đó, biến nó thành thực tế của sự sống của họ. Trước đây con người không thực hành mưu cầu lẽ thật, vì vậy từ giờ trở đi họ phải lấy định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật làm cơ sở và nền tảng cho cách hành xử của mình. Vậy định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật là gì? Đó là: Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Không thể diễn đạt sáng tỏ hay rõ ràng hơn nữa. Tất cả những hành động và hành vi trước đây của con người là gì? Chúng có phù hợp với lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí không? Nghĩ lại xem – có không? (Thưa, không.) Có thể nói rằng những hành động và hành vi như vậy rất hiếm, gần như không thể thấy ở đâu cả. Vậy con người thực sự chẳng đạt được gì cả trong ngần ấy năm tin Đức Chúa Trời, đọc và thông công lời Ngài sao? Mọi người chưa từng thực hành được một điều gì theo lời Đức Chúa Trời sao? Định nghĩa “Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí” mà chúng ta nói ở đây nhắm vào điều gì? Nhằm mục đích giải quyết vấn đề gì? Nó nhắm vào những vấn đề nào của con người và những khía cạnh nào trong thực chất tâm tính của con người? Giờ mọi người có thể hiểu được định nghĩa về việc mưu cầu lẽ thật, nhưng khi nói đến lý do tại sao những hành động trước đây của họ không được công nhận và tại sao chúng được định nghĩa là không mưu cầu lẽ thật, thì những điều này vẫn chưa rõ ràng, khó hiểu và mơ hồ đối với họ. Một số người sẽ nói: “Chúng con đã từ bỏ quá nhiều kể từ khi chấp nhận danh Đức Chúa Trời: chúng con từ bỏ gia đình và công việc, từ bỏ triển vọng của mình. Một số người chúng con đã bỏ cả công việc tốt; một số từ bỏ gia đình hạnh phúc; một số có sự nghiệp tuyệt vời được trả lương cao với vô vàn triển vọng, và đã buông bỏ tất cả. Đây là những điều chúng con đã từ bỏ. Kể từ khi tin vào Đức Chúa Trời, chúng con đã học được cách khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung. Chúng con không tranh luận với người khác khi tương tác với họ, cố gắng hết sức giải quyết bất kỳ vấn đề nào phát sinh trong hội thánh, và hết lòng giúp đỡ các anh chị em của mình bằng tình yêu thương bất cứ khi nào họ gặp khó khăn. Chúng con tránh gây hại cho người khác và tránh làm tổn hại lợi ích của người khác càng nhiều càng tốt. Những cách tiếp cận này thực sự không liên quan gì đến việc mưu cầu lẽ thật sao?”. Giờ hãy nghĩ cho kỹ: những sự từ bỏ, dâng mình, nỗ lực, khoan dung, kiên nhẫn và thậm chí chịu khổ của con người liên quan đến điều gì? Làm thế nào để đạt được những điều này? Chúng dựa trên điều gì? Động cơ thúc đẩy con người làm những việc này là gì? Hãy suy ngẫm về những điều này. Chúng không đáng để suy ngẫm sâu sắc sao? (Thưa, đáng.) Được, vì chúng đáng để suy ngẫm sâu sắc, nên hôm nay chúng ta hãy khám phá và tìm hiểu về chúng; xem xem liệu những điều con người luôn cho là tốt, đúng đắn và cao thượng này có liên quan gì đến việc mưu cầu lẽ thật hay không.

Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách xem xét những sự từ bỏ, nỗ lực và cái giá con người phải trả. Bất kể bối cảnh hoặc môi trường của những sự từ bỏ, nỗ lực và cái giá này là gì, động lực thúc đẩy chính cho những điều này đến từ đâu? Trong tổng kết của Ta, có hai nguồn. Đầu tiên là khi trong tư tưởng và quan niệm của mọi người, họ nghĩ rằng: “Nếu tin vào Đức Chúa Trời thì phải từ bỏ, dâng mình, và trả giá vì Ngài. Đức Chúa Trời thích khi mọi người làm điều đó. Ngài không thích khi mọi người tận hưởng sự thoải mái và theo đuổi những thứ trần tục, hoặc khi họ vẫn thờ ơ và tiếp tục sống cuộc sống riêng của mình sau khi đã tuyên bố chấp nhận danh Ngài và trở thành người đi theo Ngài. Đức Chúa Trời không thích khi người ta làm vậy”. Về mặt ý chí chủ quan của con người, tư tưởng này là chắc chắn. Dù lý do chấp nhận Đức Chúa Trời và công tác mới của Ngài của một người là gì đi nữa thì ý chí chủ quan của họ vẫn sẽ đồng ý hành động theo cách này, tin rằng Đức Chúa Trời chỉ thích khi con người hành động như vậy, và rằng họ sẽ chỉ nhận được niềm vui và sự hài lòng của Đức Chúa Trời khi hành động theo cách này. Họ nghĩ rằng chỉ cần con người cần cù đấu tranh, nỗ lực và cố gắng mà không đòi hỏi được đền đáp bất cứ điều gì, và chỉ cần con người trả giá mà không màng sướng khổ, và không ngừng nỗ lực, trả giá, dâng mình và dâng hiến bản thân cho Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ vui lòng. Và vì vậy, một khi người ta tin điều này, họ liền cúi đầu không chút do dự, và bất chấp tất cả, họ từ bỏ mọi thứ có thể từ bỏ, dâng hiến mọi thứ có thể dâng hiến, và chịu đựng bất kỳ đau khổ nào có thể chịu đựng. Mọi người làm theo những cách tiếp cận này, nhưng có ai trong số đó ngẩng đầu lên hỏi Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, có phải những điều con đang làm là điều Ngài cần không? Lạy Đức Chúa Trời, Ngài có công nhận những sự dâng mình, nỗ lực, chịu khổ của con và những cái giá con đã trả không?”. Con người chưa bao giờ hỏi Đức Chúa Trời điều này, và không cần biết phản ứng hay thái độ của Đức Chúa Trời là gì, họ vẫn cứ mơ tưởng nỗ lực, dâng hiến và dâng mình, tin rằng Đức Chúa Trời sẽ chỉ vui mừng và thỏa lòng nếu họ chịu khổ theo cách này. Một số người còn đi xa đến mức bỏ ăn sủi cảo vì sợ Đức Chúa Trời sẽ không vui nếu họ làm vậy. Thay vào đó, họ ăn bánh ngô hấp vì tin rằng ăn sủi cảo là đang tận hưởng sự thoải mái. Họ chỉ cảm thấy thoải mái khi ăn bánh ngô hấp, bánh mì dẹt nhạt nhẽo và dưa chua, và khi họ cảm thấy thoải mái, họ nghĩ rằng chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ hài lòng. Họ nhầm lẫn những cảm xúc của chính mình, những hỉ, nộ, ai, lạc của mình với cảm xúc của Đức Chúa Trời, với hỉ, nộ, ai, lạc của Ngài. Đó chẳng phải vô lý sao? Nhiều người coi những điều con người cho là đúng là lẽ thật, và họ áp đặt chúng lên Đức Chúa Trời, mô tả chúng như những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, bởi vì đó là điều tất cả mọi người đều tin. Và chừng nào con người còn giữ niềm tin như vậy, thì rất có khả năng và tự nhiên là họ sẽ coi những tuyên bố, hành vi và cách tiếp cận đó là lẽ thật một cách vô thức. Và khi mọi người đã xác định những điều đó là lẽ thật, họ sẽ nghĩ rằng chúng nhất định là những nguyên tắc thực hành mà con người bắt buộc phải tuân theo, và rằng nếu người ta thực hành và tuân theo chúng theo cách này, thì họ đang thực hành lời Đức Chúa Trời, đang mưu cầu lẽ thật, và dĩ nhiên là đang làm theo ý muốn của Ngài. Và vì mọi người đang “làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời”, nên chẳng phải những gian khổ của họ đáng giá sao? Chẳng phải họ đang trả giá này một cách đúng đắn sao? Đây chẳng phải là điều Đức Chúa Trời hài lòng và ghi nhớ sao? Mọi người sẽ nghĩ rằng chắc chắn là như vậy. Đây là khoảng cách và sự khác biệt giữa những gì con người tin là “lẽ thật” và lời Đức Chúa Trời. Con người nhất loạt phân loại tất cả những gì mà theo quan niệm và tưởng tượng của họ phù hợp với phẩm chất đạo đức của con người, và tốt đẹp, cao thượng, đúng đắn là lẽ thật, và thế là họ cứ hành động và nỗ lực thực hành theo hướng đó, đồng thời đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với bản thân. Họ tưởng rằng như vậy là họ đang mưu cầu lẽ thật, rằng họ chẳng kém gì một người mưu cầu lẽ thật, và tất nhiên, họ cũng nhất định là người có thể được cứu rỗi. Thực tế là lời Đức Chúa Trời và lẽ thật không liên quan gì đến những điều con người cho là tốt, đúng và tích cực theo quan niệm của họ. Thế nhưng, ngay cả khi người ta đọc và nắm giữ lời Đức Chúa Trời trong tay, họ vẫn coi mọi thứ – theo quan niệm của họ – là tốt, đúng, đẹp, tử tế, tích cực và được con người ủng hộ là lẽ thật, là những điều tích cực, và họ theo đuổi chúng không mệt mỏi, không chỉ đòi hỏi bản thân phải theo đuổi và đạt được chúng, mà còn yêu cầu những người khác theo đuổi và đạt được chúng. Mọi người nhầm lẫn không mệt mỏi những điều con người thấy là tốt với lẽ thật, thế là họ theo đuổi các tiêu chuẩn và phương hướng mà những điều đó yêu cầu, và do đó tin rằng họ đang mưu cầu lẽ thật và sống bày tỏ ra thực tế lẽ thật rồi. Đây là một khía cạnh của những hiểu lầm con người có về việc mưu cầu lẽ thật. Cách hiểu sai lầm này là con người lấy những gì họ tin – theo quan niệm của họ – là tốt, đúng đắn và tích cực làm tiêu chuẩn của họ, thay cho những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, cũng như những yêu cầu và tiêu chuẩn trong lời Ngài. Con người nhầm lẫn những điều này mà họ tin là đúng và tốt theo quan niệm của họ với lẽ thật, và không chỉ có vậy, họ còn tuân theo những điều này và theo đuổi chúng nữa. Đây không phải là một vấn đề sao? (Thưa, phải.) Đó là một vấn đề về suy nghĩ và quan điểm của con người. Mọi người được thúc đẩy bởi điều gì khi làm những việc này? Đâu là nguyên nhân sâu xa khiến họ có những tư tưởng và cách hiểu sai lầm này? Nguyên nhân sâu xa là con người tin rằng Đức Chúa Trời thích những điều này, vì vậy họ áp đặt chúng lên Ngài. Ví dụ: văn hóa truyền thống khuyên mọi người cần cù và tiết kiệm; cần cù, tiết kiệm là đức tính của con người. “Có khổ luyện mới dẫn đầu được” là một đức tính khác, cũng như “Làm theo mệnh lệnh của chủ, nếu không thì có nỗ lực vất vả đến mấy cũng chẳng đạt được gì”, và những tư tưởng khác như vậy. Trong mọi chủng tộc và nhóm người, con người tin rằng mọi thứ họ cho là tốt, đúng đắn, tích cực, chủ động và hướng thượng đều là lẽ thật, và họ coi những điều này là lẽ thật, thay thế tất cả những lẽ thật Đức Chúa Trời đã bày tỏ. Họ nhầm lẫn những điều mà con người tin chắc, những điều thuộc về Sa-tan, với lẽ thật và các tiêu chuẩn trong yêu cầu của Đức Chúa Trời. Họ theo đuổi những lý tưởng, phương hướng và mục tiêu họ tưởng tượng và cho là đúng. Đây là một sai lầm khủng khiếp. Những điều xuất phát từ quan niệm và tưởng tượng của con người này hoàn toàn không phù hợp với lời Đức Chúa Trời và hoàn toàn trái với lẽ thật.

Ta sẽ đưa ra một vài ví dụ về việc con người nhầm lẫn những điều mà theo quan niệm của họ, họ cho là tốt và đúng với lẽ thật, để ý này không quá trừu tượng và các ngươi có thể hiểu được. Ví dụ: một số phụ nữ ngừng trang điểm và đeo trang sức sau khi tin Đức Chúa Trời. Họ gạt đồ trang điểm và trang sức sang một bên, nghĩ rằng những người tin vào Đức Chúa Trời phải cư xử đúng mực, và rằng họ không được trang điểm hay ăn diện. Một số người có ô tô nhưng không lái xe mà thay vào đó lại đi xe đạp. Họ cho rằng lái xe là tận hưởng sự thoải mái. Một số người có điều kiện ăn thịt, nhưng không ăn, nghĩ rằng nếu họ luôn ăn thịt, thì đến lúc hoàn cảnh không cho phép ăn thịt nữa, họ sẽ trở nên tiêu cực, yếu đuối, và phản bội Đức Chúa Trời. Vì vậy, họ học cách chịu đựng không có thịt trước. Số khác thì nghĩ rằng là một người tin vào Đức Chúa Trời, họ phải tỏ ra cư xử đúng mực, vì vậy họ kiểm điểm những khuyết điểm và thói quen xấu của mình, và nỗ lực sửa đổi giọng điệu khi nói năng, họ kiềm chế sự nóng nảy của mình, và cố gắng hết sức để trở nên tinh tế và không thô tục. Họ nghĩ rằng một khi đã tin vào Đức Chúa Trời, một người phải hạn chế và kiềm chế bản thân, phải là một người tốt trong mắt người khác và cư xử đúng mực. Họ nghĩ rằng làm như vậy là họ đang trả giá, làm thỏa lòng Đức Chúa Trời và thực hành lẽ thật. Một số người thỉnh thoảng ăn diện, và ra ngoài mua sắm, và cảm thấy tội lỗi khi làm như vậy. Họ nghĩ rằng giờ họ đã tin vào Đức Chúa Trời thì không được trang điểm, ăn diện, và không được mặc đẹp. Họ tin rằng nếu họ trang điểm, ăn diện và mặc đẹp, Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm và không thích điều đó. Họ tin rằng Đức Chúa Trời thích loài người nguyên thủy, rằng Đức Chúa Trời không thích công nghiệp, hay khoa học hiện đại, hay bất kỳ xu hướng nào. Họ nghĩ rằng họ chỉ là đang mưu cầu lẽ thật nếu từ bỏ việc theo đuổi những điều này. Chẳng phải đây là một cách hiểu méo mó sao? (Thưa, phải.) Những người này đã đọc kỹ lời Đức Chúa Trời chưa? Họ đã coi lời Ngài là lẽ thật chưa? (Thưa, chưa.) Và vì họ chưa coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, họ có đang mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không.) Đó là lý do tại sao những cách tiếp cận và biểu hiện này chỉ đơn giản là việc con người nhầm lẫn những điều mà theo quan niệm của mình họ coi là đúng và tốt với lẽ thật, và dùng những điều đó để thay thế lẽ thật. Họ thực hành những điều này một cách mơ tưởng, để rồi nghĩ rằng mình đang mưu cầu lẽ thật và mình là người sở hữu thực tế lẽ thật. Ví dụ: có những người không xem một chương trình truyền hình, hay không xem tin tức, hay thậm chí không đi mua sắm kể từ khi tin vào Đức Chúa Trời. Họ ngủ nhiều đêm trong đống cỏ khô và dành nhiều ngày ở bên cạnh cũi vì đã rao truyền Phúc Âm và thực hiện bổn phận của mình. Họ nhiều lần bị đau bụng vì ăn đồ lạnh, sụt nhiều cân và rất khổ sở vì thiếu ngủ và ăn uống đạm bạc. Họ biết rất rõ tất cả những điều này, họ kiểm đếm chúng, từng cái một. Tại sao họ lại ghi nhớ rõ như vậy về những điều này? Lý do là họ tưởng rằng những hành vi và cách tiếp cận này là thực hành lẽ thật và làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, và nếu họ đạt được tất cả những hành vi tốt này thì sẽ được Đức Chúa Trời tán thành. Và vì vậy, mọi người không phàn nàn, và họ thực hành những điều này không do dự. Họ không bao giờ cảm thấy chán nói về chúng, lặp đi lặp lại, hồi tưởng lại chúng, và lòng họ cảm thấy rất viên mãn. Thế nhưng, khi gặp những sự thử luyện của Đức Chúa Trời, khi hoàn cảnh Ngài sắp đặt không như họ mong muốn, khi những gì Ngài yêu cầu ở họ và những hành động của Ngài không phù hợp với quan niệm của họ, thì những điều mà những người này cho là đúng, cũng như những cái giá họ trả và những thực hành của họ sẽ chẳng ích lợi gì cả. Những điều này sẽ không giúp được họ, dù chỉ một chút nào, quy phục Đức Chúa Trời hoặc biết Ngài trong những hoàn cảnh họ phải đối mặt. Ngược lại, chúng sẽ trở thành những chướng ngại vật và vật cản ngăn họ bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời và quy phục Đức Chúa Trời. Lý do cho điều này là mọi người chưa bao giờ biết rằng những điều họ tin là đúng về cơ bản không phải là lẽ thật, và những gì họ thực hành không phải là mưu cầu lẽ thật. Vậy thì mọi người có thể đạt được gì từ những điều này? Chỉ đơn thuần là một loại hành vi tốt. Con người sẽ không đạt được lẽ thật và sự sống từ chúng. Thế nhưng họ lầm tưởng rằng những hành vi tốt này là thực tế lẽ thật, và họ càng cảm thấy kiên quyết xác định rằng những điều họ cho là đúng theo quan niệm của mình là lẽ thật và những điều tích cực, và kết quả là sự xác định đó bén rễ trong lòng họ. Con người càng tôn sùng và mù quáng tin vào những điều họ cho là đúng theo quan niệm của mình, thì họ càng chối bỏ lẽ thật, và càng xa rời những yêu cầu của Đức Chúa Trời cũng như lời Ngài. Đồng thời, cái giá con người phải trả càng nhiều thì họ càng nghĩ rằng mình đang kiếm được vốn liếng, và càng tin rằng mình đủ điều kiện để được cứu rỗi và nhận được lời hứa của Đức Chúa Trời. Đây không phải là một vòng luẩn quẩn sao? (Thưa, phải.) Gốc rễ của vấn đề này là gì? Thủ phạm chính là gì? (Thưa, mọi người nhầm lẫn quan niệm của mình với những điều tích cực và thay thế lời Đức Chúa Trời bằng chúng.) Mọi người thay thế lời Đức Chúa Trời bằng những quan niệm riêng của họ, họ gạt lời Đức Chúa Trời sang một bên và về cơ bản là phớt lờ chúng. Nói cách khác, họ hoàn toàn không coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật. Có thể nói rằng sau khi tin vào Đức Chúa Trời, mọi người có thể đọc lời Đức Chúa Trời, nhưng những gì họ theo đuổi, lựa chọn và thực hành vẫn dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của con người, và họ chưa dấn bước vào con đường tin Đức Chúa Trời theo lời và yêu cầu của Ngài. Chính xác thì vấn đề con người tin vào Đức Chúa Trời dựa trên quan niệm và tưởng tượng riêng của họ bắt nguồn từ đâu? Quan niệm và tưởng tượng của con người phát sinh từ đâu? Chúng đến từ đâu? Có thể nói rằng chúng chủ yếu đến từ văn hóa truyền thống, và từ sự kế thừa của con người, cũng như từ sự điều tiết và ảnh hưởng của thế giới tôn giáo. Những quan niệm và tưởng tượng của con người liên quan trực tiếp đến những điều này.

Trong suy nghĩ và quan điểm của mọi người, còn những điều gì khác họ tin là tốt, đúng và tích cực nữa? Các ngươi có thể kể tên một vài ví dụ. Người ta thường nói: “Người tốt có cuộc sống bình yên” và “Người chân thật luôn thắng thế” – đây là một vài ví dụ, phải không? (Thưa, phải.) Rồi lại còn: “Thiện giả thiện lai, ác giả ác báo; không hôm nay thì cũng trong tương lai”, “Ác mãi rồi cũng tự hại mình”, “Đức Chúa Trời diệt ai thì sẽ cho phát điên trước”, “Có khổ luyện mới dẫn đầu được”, “Những sự mưu cầu khác đều vụn vặt, sách vở vượt trên tất cả”, v.v. Tất cả những điều vô nghĩa này đều kinh tởm. Ta nổi cơn thịnh nộ khi nghe những lời như vậy, thế mà mọi người lại thốt ra chúng vô cùng dễ dàng. Tại sao họ có thể thốt ra những lời này dễ dàng như vậy? Tại sao dường như Ta không thể thốt ra chúng được? Ta không thích những lời này, những câu nói này. Thực tế là các ngươi đã có sẵn chúng, chúng tuôn ra ngay từ đầu lưỡi các ngươi và cách các ngươi đọc thuộc lòng chúng vô cùng trôi chảy chứng tỏ các ngươi đặc biệt yêu thích và tôn sùng những điều này. Các ngươi tôn sùng những thứ sáo rỗng, hão huyền, không có thật, đồng thời còn lấy chúng làm phương châm sống, làm nguyên tắc, tiêu chí và cơ sở cho hành động của mình. Và sau đó, các ngươi thậm chí còn nghĩ rằng Đức Chúa Trời cũng tin những điều này, rằng lời Ngài chỉ là một cách tiếp cận khác của những tư tưởng tương tự này, và rằng những điều này là ý nghĩa tổng quát của lời Ngài: kêu gọi mọi người trở thành người lành. Quan điểm này có đúng không? Những điều này có phải là ý nghĩa của lời Đức Chúa Trời và lẽ thật mà Ngài bày tỏ không? Hoàn toàn không; ý của Đức Chúa Trời không liên quan gì đến những điều này. Do đó, thái độ của mọi người đối với lẽ thật phải được thay đổi hoàn toàn, và nhận thức về lẽ thật của họ cần phải được chỉnh đốn – có nghĩa là tiêu chuẩn để họ định vị lẽ thật cần phải được chỉnh đốn và thay đổi hoàn toàn. Bằng không, họ sẽ khó chấp nhận lẽ thật, và sẽ không có cách nào dấn thân được vào con đường mưu cầu lẽ thật. Lẽ thật là gì? Nói rộng ra, tất cả những lời của Đức Chúa Trời đều là lẽ thật. Cụ thể hơn thì lẽ thật là gì? Trước đây Ta đã phán với các ngươi rồi. Ta đã phán gì? (Thưa, “lẽ thật là tiêu chí cho cách cư xử, hành động và sự thờ phượng Đức Chúa Trời của con người” (Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 8 (Phần 3)).) Đúng thế. Lẽ thật là tiêu chí cho cách cư xử, hành động và sự thờ phượng Đức Chúa Trời của con người. Vậy lẽ thật có liên quan gì đến những điều con người tin là đúng và tốt theo quan niệm của họ không? (Thưa, không.) Những thứ đó của con người đến từ đâu? (Thưa, từ triết lý sống của Sa-tan, và từ một số tư tưởng do văn hóa truyền thống tiêm nhiễm vào con người.) Đúng vậy. Nói một cách chính xác, những thứ này bắt nguồn từ Sa-tan. Và những người lỗi lạc, nổi tiếng đã tiêm nhiễm những thứ này vào con người là ai? Chẳng phải họ là Sa-tan sao? (Thưa, phải.) Tất cả những tổ phụ của các ngươi đều là Sa-tan – họ chính là Sa-tan, đang sống và đang thở. Cứ xem những câu nói mà người Trung Quốc cổ xúy: “Có bạn phương xa đến mới vui làm sao,” “Đã đến rồi thì cứ ở lại”, “Cha mẹ còn sống, chớ đi xa,” “Trong mọi đức tính tốt đẹp, chữ Hiếu là trên hết”, “Trong ba điều bất hiếu, không có con nối dõi là bất hiếu nhất”, “Kính trọng người đã khuất”, “Lời nói lúc cận kề cái chết mới chân thật và tử tế”. Hãy phân tích kỹ những lời này – có lời nào trong số đó là lẽ thật không? (Thưa, không.) Tất cả đều vô nghĩa và ngụy biện. Nói cho Ta nghe, sau khi đã chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời, con người phải ngu ngốc đến mức nào mới nhầm lẫn những thứ ngụy biện và vô nghĩa này với lẽ thật? Những kẻ này có khả năng hiểu được lẽ thật không? (Thưa, không.) Những kẻ như vậy là loại ngớ ngẩn và hoàn toàn không có khả năng hiểu được lẽ thật. Còn các ngươi – giờ đã đọc rất nhiều lời Đức Chúa Trời rồi, chẳng lẽ không có một chút hiểu biết nào về lẽ thật sao? (Thưa, chúng con có.) Lẽ thật đến từ đâu? (Thưa, đến từ Đức Chúa Trời.) Lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời. Đừng tin bất cứ lời nào không do Đức Chúa Trời phán. Những triết lý sống của Sa-tan và những tư tưởng từ văn hóa truyền thống không phải là lẽ thật, và con người không được nhìn nhận con người và sự vật, hoặc cư xử và hành động theo chúng, hay lấy những thứ như vậy làm tiêu chí, bởi vì chúng không đến từ Đức Chúa Trời. Chừng nào điều gì đó đến từ con người, thì bất kể nó đến từ văn hóa truyền thống hay nhân vật nổi tiếng nào đó, là sản phẩm của học hành hay xã hội, hay đến từ triều đại hoặc chủng tộc nào – thì đó cũng không phải là lẽ thật. Tuy nhiên, đây lại chính là những thứ con người cho là lẽ thật, những thứ họ theo đuổi và thực hành thay cho lẽ thật. Và trong suốt thời gian đó, họ tưởng mình đang thực hành lẽ thật và gần thỏa mãn được ý muốn của Đức Chúa Trời, trong khi thực tế thì ngược lại mới đúng: khi ngươi theo đuổi và thực hành dựa trên những điều này thì ngươi ngày càng xa rời những yêu cầu của Đức Chúa Trời và ngày càng xa rời lẽ thật.

Vốn dĩ đã là vô lý khi mọi người nhầm lẫn những điều con người cho là tốt và tích cực với lẽ thật, và theo đuổi chúng như thể chúng là lẽ thật. Tại sao những người đã chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời và đọc nhiều lời Ngài vẫn có thể mãi nhầm lẫn những điều con người cho là tốt với lẽ thật, và theo đuổi chúng như thể chúng là lẽ thật? Vấn đề ở đây là gì? Điều này đủ để chứng tỏ mọi người không hiểu lẽ thật là gì và họ không có hiểu biết thực sự về lẽ thật. Đây là một yếu tố trong câu hỏi Ta vừa đặt ra: “Xét những điều này không phải là lẽ thật, làm sao mọi người có thể cứ đi thực hành chúng và nghĩ rằng họ đang thực hành lẽ thật chứ?”. Ta sẽ nói về một yếu tố khác, một yếu tố liên quan đến tâm tính bại hoại của con người. Con người tin rằng những điều mà theo quan niệm của mình, họ cho là tốt, đúng đắn và tích cực là lẽ thật, và dựa trên cơ sở này, họ bày mưu tính kế, tin rằng khi họ làm hài lòng Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời vui lòng thì Ngài sẽ ban cho họ những phước lành Ngài đã hứa với con người. Chẳng phải mưu kế này là một nỗ lực để thỏa thuận với Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Một mặt, con người ủng hộ và theo đuổi những điều này trong khi chứa chấp cách hiểu sai lầm, vô lý, và đồng thời còn cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời với những ham muốn và tham vọng của riêng mình. Đó chẳng phải là một yếu tố khác sao? (Thưa, phải.) Trước đây chúng ta đã thường xuyên thông công về yếu tố này, vì vậy giờ sẽ không nói chi tiết về nó nữa. Thế Ta hỏi các ngươi: khi một người tin vào Đức Chúa Trời từ bỏ, chịu khổ, dâng mình và trả giá vì Đức Chúa Trời, chẳng phải họ có ý định và mục đích khi làm vậy sao? (Thưa, phải.) Có ai nói thế này không: “Con không mong cầu và đòi hỏi điều gì cả. Con sẽ từ bỏ, dâng mình và trả giá, bất kể hoàn cảnh ra sao. Chỉ thế thôi. Con không có bất cứ ham muốn, tham vọng cá nhân nào. Đức Chúa Trời có đối xử với con thế nào cũng được. Ngài có thể ban thưởng cho con, có thể không – dù thế nào con cũng đã làm theo yêu cầu của Ngài, đã dâng mình, đã từ bỏ mọi thứ, đã trả giá và chịu khổ”? Có ai như vậy không? (Thưa, không.) Cho đến nay, trên đời này không có ai như thế cả. Một số người có thể nói: “Ai như thế chắc sống trong chân không”. Ngay cả có sống trong chân không, người ta cũng không như thế này: họ vẫn có tâm tính bại hoại, có tham vọng và ham muốn, và vẫn sẽ cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời. Vì vậy, yếu tố thứ hai trong câu hỏi này là một khi mọi người coi những điều họ tin là đúng theo quan niệm của mình là lẽ thật, thì họ sẽ bày mưu tính kế. Và mưu kế đó là gì? Thực hành những điều này hòng đổi lấy những phước lành Đức Chúa Trời đã hứa ban cho con người và để có được một đích đến tốt đẹp. Họ tin rằng miễn điều gì đó được con người coi là tích cực thì chắc chắn sẽ đúng, vì vậy họ làm và theo đuổi bất cứ điều gì mình tin là đúng, và nghĩ rằng bằng cách thực hành theo cách này, họ nhất định sẽ được Đức Chúa Trời ban phước. Đó là mưu kế của con người. Yếu tố thứ hai này hoàn toàn liên quan đến những người cố gắng thỏa mãn tham vọng và ham muốn của bản thân và cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không tin điều này, hãy thử cấm mọi người thỏa thuận, và tước bỏ những ham muốn, tham vọng của họ – yêu cầu họ từ bỏ những ham muốn, tham vọng của mình. Họ sẽ lập tức mất nghị lực chịu khổ và trả giá. Tại sao họ lại mất nghị lực làm những việc này? Bởi vì họ sẽ cảm thấy mình đã mất triển vọng và vận mệnh, không còn bất kỳ hy vọng được ban phước nào, và không có gì để đạt được. Những gì họ thực hành không phải là lẽ thật, và những gì họ theo đuổi không phải là lẽ thật, mà là những thứ mà họ tưởng là tích cực, nhưng khi những ham muốn và tham vọng của họ tiêu tan, họ thậm chí không còn sẵn lòng trả giá thêm cho những điều này nữa. Nói cho Ta nghe, mọi người có gì nào? Họ có đức tin thật không? (Thưa, không.) Hỏi sâu thêm này, mọi người có trung thành không? Một số người có thể nói: “Bây giờ bất kể Đức Chúa Trời có phán gì, chúng con cũng sẽ theo Ngài. Bất kể Ngài phán gì, chúng con cũng sẽ không trở nên tiêu cực hay nản lòng, và không lùi bước, càng không bỏ cuộc. Ngay cả khi Đức Chúa Trời không muốn chúng con, và Ngài phán chúng con là những kẻ phục vụ và người lao động, rằng chúng con không phải là những người mưu cầu lẽ thật và chúng con không có hy vọng được cứu rỗi, thì chúng con vẫn sẽ đi theo Ngài không chút do dự và kiên định thực hiện bổn phận của mình. Đó chẳng phải là có lòng trung thành sao? Đó chẳng phải là có đức tin sao? Trung thành và có đức tin chẳng phải cũng giống như mưu cầu lẽ thật sao? Chẳng phải điều này có nghĩa là ở một mức độ nào đó, chúng con đang mưu cầu lẽ thật sao?”. Nói cho Ta nghe, đó có phải là mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không.) Nói đó không phải là mưu cầu lẽ thật là gì? Nghĩa là mọi “đường sống” của con người đều đã bị chặn, rằng họ thậm chí không còn một sợi rơm để bám víu. Vậy thì phải làm gì? Có thể làm được bất cứ điều gì không? Bất kể có bất cứ điều gì họ có thể làm được về việc này hay không, thì sau khi nghe điều này, mọi người cảm thấy thế nào? Họ cảm thấy vô cùng thất vọng: “Điều này thực sự có nghĩa là mình không có hy vọng được ban phước sao? Chuyện quái gì đang xảy ra vậy?”. Mọi người hoàn toàn mất phương hướng trong những trường hợp này. Giờ đây lời Ta đã tước bỏ hết mọi “đường sống” của các ngươi, Ta sẽ xem các ngươi đi đâu từ đây. Một số người nói: “Lao động, cố đạt thỏa thuận, hoặc có những hiểu biết lệch lạc, hoặc chịu khổ và trả giá đều không đúng – vậy thì làm cái gì mới đúng chứ? Bất kể Đức Chúa Trời có phán gì, chúng con cũng sẽ không rời bỏ Ngài. Chúng con sẽ tiếp tục thực hiện bổn phận của mình. Điều đó chẳng phải cũng là thực hành lẽ thật sao?”. Vấn đề này phải được hiểu rõ. Vì mọi người không hiểu lẽ thật và luôn chứa chấp những hiểu biết lệch lạc về ý nghĩa của việc thực hành lẽ thật, nên họ tin rằng từ bỏ, dâng mình, chịu khổ và trả giá là thực hành lẽ thật và quy phục Đức Chúa Trời. Đây là một sai lầm khủng khiếp. Thực hành lẽ thật là thực hành lời Đức Chúa Trời, nhưng con người phải thực hành theo nguyên tắc – tuyệt đối không được làm dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của con người. Điều Đức Chúa Trời muốn là một tấm lòng chân thật, một tấm lòng yêu mến Ngài, một tấm lòng làm thỏa lòng Ngài. Chỉ thực hành lời Đức Chúa Trời theo cách này mới là thực hành lẽ thật. Nếu một người luôn mong muốn thỏa thuận với Đức Chúa Trời khi dâng mình cho Ngài, và mong muốn thỏa mãn những tham vọng và ham muốn của bản thân, thì họ đang không thực hành lẽ thật, họ đang giở trò và chà đạp lên lẽ thật, và họ là một kẻ đạo đức giả. Vì vậy, nếu ai đó có thể chấp nhận những lời phán xét của Đức Chúa Trời, không rời bỏ Đức Chúa Trời và kiên trì thực hiện bổn phận của mình mặc dù những ý định, mong muốn đạt được phước lành của họ đã tiêu tan, và mặc dù không có gì để mong đợi, cũng không có gì để thúc đẩy họ, thì việc này có tương đương với mưu cầu và thực hành lẽ thật không? Theo Ta thấy, nếu chúng ta đánh giá điều này dựa trên định nghĩa mưu cầu lẽ thật là gì, thì đây vẫn không phải là mưu cầu lẽ thật, và hoàn toàn không đáp ứng được tiêu chuẩn của việc mưu cầu lẽ thật. Giờ chúng ta đã có một định nghĩa chính xác về việc mưu cầu lẽ thật thì chúng ta phải bám chặt định nghĩa đó khi đánh giá những hành động, hành vi và biểu hiện của mọi người. Có thể đưa ra đánh giá nào dựa trên khả năng ở lại với Đức Chúa Trời và kiên trì thực hiện bổn phận của một người, mặc dù họ không có phước lành nào để mong chờ? Đó là con người, với tư cách loài thọ tạo, sinh ra có hai điểm đáng khen ngợi trong nhân tính của họ, và đó là nếu ngươi có thể tận dụng chúng, thì đảm bảo rằng – ở mức độ tối thiểu nhất – ngươi đang đi theo Đức Chúa Trời. Các ngươi có biết hai điểm đó là gì không? (Thưa, lương tâm và lý trí.) Đúng vậy. Đó là hai điểm quý giá nhất trong nhân tính của con người – khi con người không hiểu lẽ thật, khi họ có tố chất rất kém, không có bất kỳ hiểu biết hay lối vào nào về những yêu cầu của Đức Chúa Trời và lẽ thật, mà vẫn có thể đứng vững ở vị trí của mình, thì điều kiện tiên quyết cơ bản cho phép họ đạt được điều này là gì? Họ phải có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Vậy là câu trả lời đã rõ. Vì con người không mưu cầu lẽ thật, và không có mong muốn hay tham vọng được ban phước, vì họ đã bị tước bỏ mong muốn được ban phước, nên nếu họ vẫn có thể đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình, thì họ làm vậy dựa trên cơ sở nào? Điều gì đang thúc đẩy họ? Không có cơ sở hay động cơ nào cho hành động của họ – chừng nào con người còn có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, thì họ còn có thể làm những điều này. Đây là tình hình hiện nay: ngươi không hiểu lẽ thật, đó là thực tế – và sự hiểu biết về giáo lý của ngươi là vô ích, điều đó không có nghĩa là ngươi đã bước vào thực tế lẽ thật. Ngươi biết rằng cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời để theo đuổi triển vọng và vận mệnh cho bản thân là sai, nhưng điều thực sự vượt trội là khi ngươi vẫn vui vẻ đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình sau khi việc theo đuổi triển vọng và vận mệnh, cũng như mong muốn được ban phước đã bị lên án và tước bỏ khỏi ngươi. Nếu ngươi có thể đi theo Đức Chúa Trời mà không đạt được lẽ thật, thì việc đó dựa vào điều gì? Việc đó dựa vào lương tâm và lý trí của ngươi. Lương tâm và lý trí của một người có thể duy trì sự tồn tại, cuộc sống và cách đối xử bình thường của họ với mọi người và sự vật. Vậy khoảng cách giữa việc thực hiện bổn phận dựa trên lương tâm và lý trí với thực hành lẽ thật là gì? Biểu hiện của một người mưu cầu lẽ thật là họ nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí, trong khi những người chỉ hành động dựa trên lương tâm và lý trí thì có thể không mưu cầu lẽ thật nhưng vẫn có thể lao động, thực hiện bổn phận của mình và ở lại trong nhà của Đức Chúa Trời mà không có bất kỳ tiếng xấu nào trong hồ sơ của mình. Điều đó dựa trên điều gì? Họ nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động dựa trên tiêu chí của lương tâm và lý trí, thay vì làm vậy theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Vì vậy, trên cơ sở này, nếu ngươi chỉ thực hiện bổn phận của mình dựa trên lương tâm và lý trí thì chẳng phải có khoảng cách giữa việc đó với việc mưu cầu lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Thực hiện bổn phận dựa trên lương tâm và lý trí là bằng lòng với việc chỉ lao động đơn thuần; đó là lấy những điều như lao động tốt, không gây gián đoạn hay nhiễu loạn, vâng lời và quy phục, có những hành vi tốt và mối quan hệ tốt với người khác, và không có tiếng xấu trong hồ sơ làm tiêu chuẩn. Điều đó có lên được đến mức mưu cầu lẽ thật không? Không được. Cho dù một người có bao nhiêu hành vi tốt, nhưng nếu họ không có bất kỳ hiểu biết nào về những tâm tính bại hoại của mình, cũng như không có bất kỳ hiểu biết nào về sự phản nghịch, quan niệm, nhận thức sai lầm về Đức Chúa Trời cũng như các trạng thái tiêu cực khác nhau của họ; và nếu họ không thể giải quyết được những điều này; nếu họ không thể hiểu được các nguyên tắc thực hành lẽ thật; nếu không một sự bộc phát tâm tính bại hoại nào của họ được giải quyết; và nếu họ vẫn kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, độc đoán và hấp tấp, quanh co và giả dối, có những lúc thậm chí còn trở nên tiêu cực, yếu đuối và hoài nghi Đức Chúa Trời, v.v. – nếu những thứ này vẫn còn tồn tại trong họ, thì họ có thể đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời thực sự không? Nếu vẫn còn những tâm tính bại hoại này bên trong họ, liệu họ có thể thực sự cảm nghiệm được công tác của Đức Chúa Trời không? Nếu một người chỉ đơn thuần có những hành vi tốt, thì đó có phải là biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không.) Điểm tốt nhất ở con người là gì? Chỉ đơn thuần là lương tâm và lý trí của con người; đây là hai điểm tích cực duy nhất, và chúng là những điểm đáng khen ngợi ở con người. Tuy nhiên, cả hai đều không liên quan đến lẽ thật; chúng không gì khác hơn là những điều kiện tiên quyết cơ bản nhất để con người mưu cầu lẽ thật, nghĩa là nếu ngươi có lương tâm và lý trí bình thường của nhân tính, và ngươi có thể hiểu được lẽ thật, thì ngươi sẽ có thể đưa ra những lựa chọn đúng đắn khi có chuyện xảy đến với mình. Lương tâm và lý trí con người sở hữu là thế này: Đức Chúa Trời là Chúa của tạo vật, và ngươi là một loài thọ tạo; Đức Chúa Trời đã chọn ngươi, vì vậy chỉ có việc ngươi cống hiến và dâng mình cho Đức Chúa Trời mới là điều đúng đắn, và chỉ có việc ngươi nghe lời Ngài mới là điều đúng đắn. “Điều đúng đắn duy nhất” này do lương tâm và lý trí của ngươi quyết định – nhưng ngươi đã nghe lời Đức Chúa Trời chưa? Các nguyên tắc và phương pháp đằng sau hành động của ngươi là gì? Ngươi có tâm tính bại hoại – ngươi đã từ bỏ chưa? Ngươi đã giải quyết chưa? Những điều như vậy không liên quan gì đến “điều đúng đắn duy nhất”. Nếu ngươi không vượt xa hơn cơ sở này về điều đúng đắn duy nhất nên làm và cách hành động đúng đắn duy nhất, và ngươi sống giữa các giới hạn của “điều đúng đắn duy nhất”, thì chẳng phải đó là kết quả của lương tâm và lý trí ngươi sao? (Thưa, phải.) Lương tâm ngươi mách bảo: “Đức Chúa Trời đã cứu rỗi mình, vì vậy mình nên dâng mình cho Ngài. Đức Chúa Trời đã cứu mạng mình và ban cho mình cuộc đời thứ hai, vì vậy chỉ có đền đáp tình yêu của Ngài mới là điều đúng đắn duy nhất. Đức Chúa Trời là Chúa của tạo vật, và mình là một loài thọ tạo, vì vậy mình phải vâng phục sự an bài của Ngài”. Đây chẳng phải là kết quả của lương tâm và lý trí ngươi sao? (Thưa, phải.) Các hành vi, phương thức thực hành, thái độ và quan điểm khác nhau nảy sinh ở con người do ảnh hưởng của lương tâm và lý trí không vượt xa hơn các giới hạn mà lương tâm và lý trí của họ bẩm sinh có thể làm được, và chúng chưa thể là thực hành lẽ thật. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Chẳng hạn, một số người có thể nói: “Nhà Đức Chúa Trời đã nâng đỡ con bằng cách cho phép con thực hiện bổn phận, và nhà Đức Chúa Trời đã cho con cơm ăn áo mặc, lo liệu nơi ở cho con. Nhà Đức Chúa Trời chăm sóc mọi khía cạnh trong đời sống của con. Con đã được hưởng quá nhiều ân điển của Đức Chúa Trời, vì vậy con phải đền đáp tình yêu thương của Ngài; con không được lừa dối Đức Chúa Trời bằng cách làm chiếu lệ trong bổn phận của mình, càng không được làm bất cứ điều gì gây gián đoạn hay nhiễu loạn. Con sẵn sàng vâng phục bất cứ điều gì nhà Đức Chúa Trời sắp xếp cho mình. Dù nhà Đức Chúa Trời có bắt con làm gì, con cũng sẽ không phàn nàn”. Kiểu tuyên bố này thì hay; chẳng phải khá dễ để một người có lương tâm và lý trí làm được điều này sao? (Thưa, phải.) Điều này có thể lên được đến mức thực hành lẽ thật không? (Thưa, không.) Điều này chưa thể là thực hành lẽ thật. Do đó, bất kể một ai có lương tâm cao thượng hay lý trí bình thường đến đâu, hoặc liệu họ có thể làm mọi việc dưới sự chi phối của lương tâm và lý trí hay không, và bất kể hành động của họ có đúng mực và đàng hoàng đến đâu, hay người khác có ngưỡng mộ những hành động đó ra sao, thì chúng cũng không vượt xa hơn những hành vi tốt của con người. Chúng chỉ có thể được phân loại trong phạm trù hành vi tốt của con người; về cơ bản chúng chưa thể là thực hành lẽ thật. Khi tương tác với người khác dựa trên lý trí của mình, ngươi sẽ nhẹ nhàng hơn trong lời nói, và sẽ không công kích người khác, hay nổi nóng, ngươi sẽ không trấn áp, kiểm soát, bắt nạt, hay tìm cách lấn lướt người khác, v.v. – đây đều là những điều có thể đạt được bằng lý trí của nhân tính bình thường – nhưng chúng có liên quan đến việc thực hành lẽ thật không? Không, chúng không liên quan. Chúng là những thứ có thể đạt được bằng lý trí của con người, và có một khoảng cách nhất định giữa chúng với lẽ thật.

Tại sao Ta lại nói rằng hành động theo lương tâm và lý trí không liên quan đến thực hành lẽ thật? Ta sẽ lấy một ví dụ. Giả sử một người tử tế với ngươi, ngươi có quan hệ tốt với họ, và họ chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, sau đó rao truyền Phúc Âm cho ngươi – điều này cũng giống như việc Đức Chúa Trời dùng họ để rao truyền Phúc Âm cho ngươi. Sau khi ngươi chấp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời, ngươi càng cảm thấy biết ơn họ nhiều hơn và luôn muốn được đền đáp họ. Vì vậy, ngươi làm gì cũng nhường họ một chút, nói gì với họ cũng luôn đặc biệt khách khí. Ngươi đặc biệt tôn trọng, cung kính và khoan dung đối với họ, và dù cho họ có làm điều gì xấu, hay tính cách của họ có như thế nào, thì ngươi cũng đều kiên nhẫn và xuề xòa với họ, đến mức bất cứ khi nào họ tìm đến ngươi để được giúp đỡ khi đối mặt với thử thách, ngươi cũng đều giúp đỡ họ vô điều kiện. Tại sao ngươi lại làm thế? Điều gì ảnh hưởng đến hành động của ngươi? (Thưa, lương tâm của con.) Điều này được thực hiện dưới tác động của lương tâm ngươi. Tác động này của lương tâm ngươi không thể được gọi là tích cực hay tiêu cực; chỉ có thể nói là ngươi có lương tâm và một chút nhân tính, và khi ai đó tử tế với ngươi thì ngươi sẽ biết ơn và báo đáp họ. Từ góc độ đó, ngươi là một người tốt. Nhưng nếu đánh giá điều này bằng lẽ thật, chúng ta có thể đi đến một kết luận khác. Giả sử một ngày nào đó, người đó hành ác và sẽ bị hội thánh thanh trừ, mà ngươi vẫn dùng lương tâm mình để đánh giá họ và nói: “Họ là người đã rao truyền Phúc Âm cho tôi. Chừng nào còn sống, tôi sẽ không quên ơn họ; nếu không có họ thì giờ tôi đã không ở đây rồi. Mặc dù hôm nay họ đã hành ác nhưng tôi không thể vạch trần họ được. Dù có thấy việc họ làm là sai, nhưng tôi cũng không thể nói ra, vì họ đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Tôi có thể không đền đáp được cho họ, nhưng không thể công kích họ được. Ai khác muốn tố cáo họ thì cứ việc, nhưng tôi sẽ không làm. Tôi không thể xát muối vào vết thương của họ được – nếu làm vậy, tôi sẽ là loại người nào chứ? Chẳng phải tôi sẽ thành một kẻ vô lương tâm sao? Chẳng phải một kẻ vô lương tâm đơn giản là cầm thú sao?”. Ngươi nghĩ sao? Tác động của lương tâm trong những trường hợp như thế là gì? Chẳng phải tác động của lương tâm ở đây là vi phạm lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Từ đây có thể thấy rằng đôi khi, tác động của lương tâm con người bị bó buộc và chi phối bởi cảm xúc, và kết quả là quyết định của họ mâu thuẫn với các nguyên tắc lẽ thật. Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ một thực tế rằng: tác động của lương tâm con người thấp hơn tiêu chuẩn của lẽ thật, và đôi khi người ta vi phạm lẽ thật trong khi hành động theo lương tâm của mình. Nếu ngươi tin vào Đức Chúa Trời, nhưng không sống theo lẽ thật, mà thay vào đó lại hành động theo lương tâm của mình, thì ngươi có thể hành ác và chống lại Đức Chúa Trời không? Ngươi thật sự có thể làm một số việc ác – tuyệt đối không thể nói rằng hành động theo lương tâm là không bao giờ sai. Điều này cho thấy rằng nếu người ta mong muốn làm hài lòng Đức Chúa Trời và tuân theo ý muốn của Ngài, thì chỉ hành động dựa trên lương tâm là chưa đủ. Người ta phải hành động dựa trên lẽ thật để đáp ứng yêu cầu của Đức Chúa Trời. Khi coi lương tâm của mình là lẽ thật và coi lương tâm cao hơn tất cả những thứ khác, ngươi đã đặt lẽ thật ở đâu? Ngươi đã thay thế lẽ thật bằng lương tâm của mình; đó chẳng phải là chống đối lẽ thật sao? Đó chẳng phải là chống lại lẽ thật sao? Nếu ngươi sống theo lương tâm của mình, ngươi có thể vi phạm lẽ thật, và vi phạm lẽ thật tức là chống đối Đức Chúa Trời. Có nhiều người sau khi bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, lấy lương tâm làm tiêu chuẩn cho lời nói và hành động của mình, và cũng cư xử theo lương tâm. Hành động theo lương tâm có phải là thực hành lẽ thật không? Lương tâm của con người có thể thay thế lẽ thật được không? Chính xác thì hành động theo lương tâm khác với hành động theo lẽ thật ở điểm nào? Một số người luôn khăng khăng hành động theo lương tâm và nghĩ rằng họ là người mưu cầu lẽ thật. Quan điểm đó có đúng không? (Thưa, không.) Cảm giác của lương tâm một người có thể thay thế cho lẽ thật không? (Thưa, không.) Những người này đang phạm sai lầm gì? (Thưa, làm trái lẽ thật, tức là chống đối Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Họ đánh đồng cảm xúc của lương tâm mình với lẽ thật, điều này khiến họ có thể vi phạm lẽ thật. Loại người này luôn nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động dựa trên tiêu chuẩn của lương tâm, lấy lương tâm làm tiêu chí. Họ bị vướng mắc và chi phối bởi lương tâm, đồng thời, lý trí của họ cũng bị nó chi phối. Nếu bị lương tâm chi phối, liệu người ta có thể tìm kiếm lẽ thật và thực hành theo lẽ thật không? Họ không thể làm được. Vậy thì lương tâm có thể thay thế cho lẽ thật được không? Không thể được. Một số người có thể hỏi: “Vì không thể dùng lương tâm của mình để đánh giá cách mình đối xử với người khác và không thể coi lương tâm của mình là lẽ thật, nên việc chúng con dùng các tiêu chuẩn của lương tâm để đánh giá cách mình đối xử với Đức Chúa Trời có đúng không?”. Câu hỏi này đáng xem xét. Trong mọi trường hợp, lương tâm của một người không thể thay thế cho lẽ thật. Nếu ngươi không sở hữu lẽ thật và ngươi đối xử với Đức Chúa Trời dựa trên lương tâm của mình thì theo tiêu chuẩn của con người, điều đó được coi là tốt, nhưng ngươi sẽ không thể đạt được tình yêu hay sự quy phục Đức Chúa Trời bằng cách dựa vào tiêu chuẩn này – cùng lắm ngươi sẽ có thể tránh được việc vi phạm lẽ thật hoặc chống đối Đức Chúa Trời, riêng điều này cũng đã khá tốt rồi. Một số người có thể nói: “Không cần phải có lương tâm với người khác và cũng không cần phải có lương tâm với Đức Chúa Trời”. Điều đó có đúng hay không? Từ góc độ giáo lý và lý thuyết thì có vẻ sai, đúng không? Thế thì hãy dùng lẽ thật để đánh giá – ngươi có thấy đúng không? Đức Chúa Trời có bảo mọi người đối xử với Ngài bằng lương tâm không? Đức Chúa Trời đòi hỏi gì ở con người? Ngài yêu cầu con người đối xử với Ngài như thế nào? Ngươi có thể có lương tâm, nhưng ngươi có chân thành không? Nếu ngươi có lương tâm nhưng không chân thành thì đơn giản là không được. Điều Đức Chúa Trời yêu cầu là con người đối xử với Ngài bằng sự chân thành. Nó được viết trong Kinh Thánh, “Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là Ðức Chúa Trời ngươi” (Mác 12:30). Đức Chúa Trời đòi hỏi điều gì? (Thưa, Đức Chúa Trời đòi hỏi con người yêu mến Đức Chúa Trời hết lòng, hết trí khôn và hết linh hồn.) Đức Chúa Trời muốn gì nơi con người? (Thưa, sự chân thành của họ.) Đúng vậy. Có phải Đức Chúa Trời đã phán: “Các ngươi phải yêu Ta bằng lương tâm, lý trí và bản năng của mình” không? Đức Chúa Trời có phán thế không? (Thưa, không.) Tại sao Đức Chúa Trời không phán như vậy? (Thưa, vì lương tâm không phải là lẽ thật.) Lương tâm là gì? (Thưa, là tiêu chuẩn thấp nhất của nhân tính.) Đúng vậy, lương tâm và lý trí là tiêu chuẩn thấp nhất và cơ bản nhất của nhân tính. Làm thế nào để biết liệu một người có tốt hay không và liệu họ có nhân tính hay không? Làm thế nào để đánh giá được điều này? Ngươi đánh giá điều này bằng cái gì? Tiêu chuẩn thấp nhất và cơ bản nhất là người đó có lương tâm và lý trí hay không. Đó là tiêu chuẩn để ngươi có thể đánh giá xem một người có nhân tính hay không. Vậy thì tiêu chuẩn để đánh giá liệu một người có mưu cầu lẽ thật hay không là gì? Ngươi có thể biết một người có mưu cầu lẽ thật hay không dựa trên việc họ có lương tâm và lý trí hay không – những lời này có phải là lẽ thật không? Chúng có đúng không? (Thưa, không.) Thế thì Đức Chúa Trời muốn gì ở con người? (Thưa, sự chân thành.) Đức Chúa Trời muốn sự chân thành của con người. Sự chân thành đó được tạo nên từ điều gì? Người ta nên làm gì để thể hiện sự chân thành? Nếu người ta chỉ nói khi cầu nguyện rằng họ dâng sự chân thành lên Đức Chúa Trời, nhưng sau đó họ không chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời hay thực hiện bổn phận của mình một cách trung thành, thì đó có phải là sự chân thành không? Đó không phải là sự chân thành – đó là sự lừa dối. Vậy hành vi nào là biểu hiện của sự chân thành? Việc thực hành cụ thể là gì? Ngươi có biết không? Chẳng phải đó là thái độ quy phục Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Người ta chỉ chân thành nếu họ có thái độ quy phục. Chẳng phải điều này cao siêu hơn nhiều so với lương tâm sao? Lương tâm và lý trí của con người thậm chí còn không gần với sự chân thành, giữa chúng có một khoảng cách. Lương tâm và lý trí của con người không gì khác hơn là những điều kiện cơ bản nhất để duy trì sự tồn tại, cuộc sống bình thường và mối quan hệ của họ với những người khác. Nếu con người đánh mất lương tâm và lý trí, họ sẽ không thể tồn tại hoặc có cuộc sống bình thường hay các mối quan hệ với người khác ngay cả ở mức độ cơ bản nhất. Chỉ cần nhìn những người không có lương tâm và lý trí, những kẻ tà ác đó – liệu có ai trong nhóm sẵn lòng tiếp xúc với họ không? (Thưa, không.) Không ai sẵn lòng tiếp xúc với họ cả. Mọi người cảm thấy như thế nào khi tiếp xúc với họ? Căm ghét, ghê tởm – thậm chí còn có thể cảm thấy sợ hãi, bị họ gò ép và bó buộc. Những người như vậy thậm chí không có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, và không ai sẵn lòng tiếp xúc với họ. Nói cho Ta nghe, Đức Chúa Trời có cứu rỗi những người này không? (Thưa, không.) Nếu một kẻ ác đáp trả bất cứ ai đắc tội với họ bằng cách nói: “Nếu hoàn cảnh cho phép, tôi sẽ giết anh – tôi sẽ tiêu diệt anh!”, vậy thì cho dù họ có thực sự có khả năng làm những điều đó hay không, chẳng phải việc họ có thể nói những điều như vậy khiến họ thành kẻ ác sao? (Thưa, phải.) Vậy họ là loại người như thế nào mà có lời nói khiến người khác sợ hãi? Họ có phải là người có lương tâm và lý trí không? (Thưa, không.) Và những người không có lương tâm và lý trí có nhân tính không? (Thưa, không.) Ai dám tiếp xúc với loại người tà ác không có nhân tính chứ? Những kẻ ác đó có mối quan hệ bình thường với người khác không? (Thưa, không.) Tình trạng mối quan hệ của họ với người khác là gì? Mọi người đều sợ họ, mọi người đều bị họ kìm kẹp và gò ép – gặp ai họ cũng muốn bắt nạt và họ muốn trừng phạt tất cả mọi người. Những kẻ như vậy có nhân tính bình thường không? Không ai dám tiếp xúc với loại người không có lương tâm và lý trí này. Họ thậm chí không thể sống một cuộc sống bình thường của con người, thế nên họ không khác gì ma quỷ và dã thú. Trong nhóm, họ luôn đả kích người khác, trừng phạt hết người này đến người khác. Cuối cùng, ai cũng giữ khoảng cách với họ, ai cũng tránh xa họ. Họ mới đáng sợ làm sao! Họ thậm chí không có khả năng có các mối quan hệ bình thường của con người và không thể có được chỗ đứng trong một nhóm – họ là loại gì vậy? Những kẻ như vậy đến cả nhân tính cũng không có – họ có thể mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không.) Loại người nào không có nhân tính? Dã thú, ma quỷ. Đức Chúa Trời ban lẽ thật Ngài bày tỏ cho loài người, chứ không ban cho dã thú và ma quỷ. Chỉ những người có lương tâm và lý trí mới xứng đáng được gọi là con người. Nói lại cho Ta nghe: Có phải chỉ cần có lương tâm và lý trí là đủ để một người hoàn toàn sống trọn nhân tính bình thường không? Có thể nói rằng vẫn còn khoảng cách, bởi vì mọi người có tâm tính bại hoại. Họ phải mưu cầu lẽ thật trước khi có thể loại bỏ được những tâm tính bại hoại của mình và sống trọn nhân tính bình thường. Một số người có thể nói: “Tôi có lương tâm và lý trí. Chỉ cần tôi đảm bảo mình không hành ác thì tôi sẽ sở hữu thực tế lẽ thật”. Điều đó có đúng không? Nếu người ta có lương tâm và lý trí thì điều đó không có nghĩa là họ đang mưu cầu lẽ thật rồi – và việc họ đang sống theo lương tâm và lý trí của mình cũng không có nghĩa là họ đang mưu cầu lẽ thật rồi. Vậy chính xác thì lương tâm và lý trí là gì? Lương tâm và lý trí của con người chỉ là những dấu hiệu và phẩm chất cơ bản nhất của nhân tính mà con người phải có để mưu cầu lẽ thật. Sống theo hai điều này không có nghĩa là một người đang mưu cầu lẽ thật, và càng không chứng tỏ họ sở hữu thực tế lẽ thật. Từ ví dụ Ta vừa nêu, có thể thấy khi người ta nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động theo lương tâm và lý trí của mình, thì họ có khả năng vi phạm lẽ thật và các nguyên tắc. Họ không đạt tiêu chuẩn nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Vì vậy, cho dù ngươi có lương tâm đến đâu, và cho dù lý trí của ngươi có bình thường đến đâu, nếu ngươi không thể nhìn nhận con người và sự vật, cũng như không thể cư xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí, thì ngươi đang không mưu cầu lẽ thật. Tương tự như vậy, cho dù ngươi có chịu khổ và lao nhọc đến mức nào trong phạm vi bản năng của lương tâm và lý trí mình, thì cũng không thể nói rằng ngươi đang mưu cầu lẽ thật.

Chúng ta vừa phân tích ba điều, tất cả đều là những thành kiến và hiểu lầm của mọi người về việc mưu cầu lẽ thật. Nói cho Ta nghe, ba điều đó là gì? (Thưa, đầu tiên là con người nhầm lẫn những điều họ coi là tốt, đúng đắn và tích cực theo quan niệm của họ với lẽ thật, và dùng chúng làm tiêu chuẩn của mình – thay thế các yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, cũng như các yêu cầu và tiêu chuẩn trong lời Ngài – sau đó, họ theo đuổi và thực hành những điều ấy. Thứ hai là trên cơ sở con người người bám vào những hiểu biết sai lầm, họ cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời trong khi chứa chấp những ham muốn và tham vọng. Mọi người tưởng rằng một khi đã làm thỏa lòng Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời vui lòng, thì Đức Chúa Trời sẽ ban lời hứa của Ngài cho họ. Thứ ba, mọi người tin rằng bằng cách cư xử và hành động theo lương tâm và lý trí của mình, là họ đang thực hành lẽ thật rồi.) Gạt ba điều đó sang một bên, chính xác thì mưu cầu lẽ thật là gì? Chúng ta hãy quay trở lại định nghĩa của chúng ta về việc mưu cầu lẽ thật: “Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí”. Những lời này đã đủ để mọi người hiểu mưu cầu lẽ thật là gì và cách mưu cầu lẽ thật. Chúng ta đã nói rất nhiều về mưu cầu lẽ thật là gì. Thế thì con người làm thế nào để mưu cầu lẽ thật? Chúng ta đã thông công rất nhiều về điều đó, cả trước đây lẫn bây giờ: dù ngươi đang nhìn nhận con người và sự vật, hay cư xử và hành động thì cũng phải phù hợp với lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Đó là mưu cầu lẽ thật. Bất cứ điều gì khác không liên quan đến những lời này đều không phải là mưu cầu lẽ thật. Tất nhiên, nếu việc “nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí” không nhắm vào tâm tính bại hoại của con người, thì cũng giải quyết một số suy nghĩ, quan điểm và quan niệm của con người. Và nếu nó giải quyết những điều này, và nhằm đạt được mục đích giúp con người thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật, quy phục lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, thì đương nhiên đó sẽ là hiệu quả cuối cùng. “Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí” đã khá rõ ràng và cụ thể. Con đường những lời này cuối cùng mang lại cho con người giúp họ rũ bỏ được những thành kiến trong thực tế, và buông bỏ những ham muốn cùng tham vọng của mình. Đồng thời, con người không được sống núp sau niềm tin rằng họ cao siêu hơn, rằng họ có nhân tính, có lương tâm và lý trí, và dùng điều này để thay thế nguyên tắc thực hành lấy lời Đức Chúa Trời làm cơ sở, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Dù ngươi biện minh thế nào, bất kể ngươi có những thế mạnh và ưu điểm nào đi nữa, cũng đều không đủ để thay thế cho việc nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Đó là điều tuyệt đối chắc chắn. Ngược lại, nếu xuất phát điểm của quan điểm ngươi có về con người và sự vật, cách cư xử và hành động của ngươi hoàn toàn dựa trên lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm nguyên tắc thực hành của mình, thì ngươi đang thực hành lẽ thật. Nếu không thì ngươi đang không thực hành lẽ thật. Tóm lại, những người sống giữa những quan niệm và tưởng tượng của con người, hành động với ý định thỏa thuận, hoặc liên tục thay thế việc mưu cầu lẽ thật và thực hành lẽ thật bằng niềm tin rằng họ có rất nhiều hành vi đạo đức tốt – những cách tiếp cận như vậy đều ngu xuẩn. Không có điều nào trong số đó là biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật và cuối cùng, kết cục của những cách tiếp cận ngu xuẩn này sẽ là con người không hiểu được lẽ thật, họ không thể hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời và không có khả năng dấn bước trên con đường cứu rỗi. Ngươi có hiểu không? (Thưa, có.) Dĩ nhiên, trong số những người không mưu cầu lẽ thật – ngoài những người không thể được cứu rỗi – còn có những người sẵn lòng làm kẻ phục vụ sẽ sống sót. Điều này cũng khá tốt, có thể được coi là một lựa chọn hay thay cho việc không mưu cầu lẽ thật. Chọn con đường cụ thể nào là tùy các ngươi. Có lẽ một số người sẽ nói: “Sau hết thảy những mối thông công này, Ngài vẫn chưa nói cho chúng con biết cách nhìn nhận con người và sự vật, cách cư xử và hành động”. Ta chưa nói sao? (Thưa, Ngài đã nói rồi.) Một người nên nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động theo điều gì? (Thưa, theo lời Đức Chúa Trời.) Và với tiêu chí gì? (Thưa, lấy lẽ thật là tiêu chí.) Vậy lời Đức Chúa Trời là gì? Đâu là lẽ thật? (Thưa, lời Đức Chúa Trời là lẽ thật.) Có rất nhiều lời Đức Chúa Trời, chúng dạy con người về mọi khía cạnh trong cách nhìn nhận con người và sự vật, cách cư xử và hành động, vì vậy bây giờ chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết những điều này. Hãy đọc lại một lần nữa mưu cầu lẽ thật là gì. (Thưa, mưu cầu lẽ thật là gì? Nhìn nhận con người và sự vật, cư xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí.) Các ngươi phải ghi khắc những lời này trong lòng mình, và dùng chúng như phương châm sống của mình. Thường xuyên lấy ra để có thể ngẫm nghĩ, xem xét; đối chiếu hành vi, thái độ của ngươi trong cuộc sống, quan điểm của ngươi về mọi sự cũng như ý định và mục tiêu của mình với những lời đó. Sau đó ngươi sẽ có thể cảm nhận rõ được tình trạng thực sự của mình là gì cũng như thực chất tâm tính mình bộc lộ ra là gì. Hãy đối chiếu chúng với những lời này, và lấy những lời này làm nguyên tắc thực hành của ngươi, cũng như làm con đường và phương hướng thực hành của ngươi. Khi mưu cầu theo cách này, khi có thể hoàn toàn bước vào và sống thể hiện ra những lời này, ngươi sẽ hiểu được mưu cầu lẽ thật là gì. Đương nhiên, khi bước vào thực tế của những lời này, ngươi đã dấn bước trên con đường mưu cầu lẽ thật. Khi dấn bước trên con đường mưu cầu lẽ thật, kết quả sẽ là gì? Nỗi đau khổ gây ra bởi sự làm nhiễu loạn, chi phối và ràng buộc của tâm tính bại hoại của ngươi sẽ ngày càng nhẹ đi. Tại sao lại như vậy? Bởi vì ngươi sẽ cảm thấy rằng mình có một con đường để giải quyết tâm tính bại hoại của mình và có hy vọng được cứu rỗi. Chỉ khi đó ngươi mới cảm thấy rằng một cuộc sống thực sự tin vào Đức Chúa Trời và ăn uống lời Ngài thật mãn nguyện, bình an và vui vẻ. Sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, những ai không yêu lẽ thật vẫn sẽ cảm thấy cuộc sống thật trống rỗng và không có điều gì để nương tựa. Thậm chí họ thường cảm thấy rằng sống trong tâm tính bại hoại thực sự rất đau khổ và mặc dù muốn loại bỏ nó, nhưng họ không thể làm được. Họ mãi bị kìm hãm, xiềng xích và ràng buộc bởi tâm tính bại hoại của mình, khiến họ vô cùng đau khổ, nhưng lại hoàn toàn không có con đường để đi theo. Những ngày đắng cay của họ là vô tận. Nếu họ có thể chấp nhận lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi, thì những ngày đắng cay này sẽ qua đi. Tuy nhiên, kết quả của tất cả những điều này phụ thuộc vào việc mưu cầu và bước vào của các ngươi trong tương lai.

Ngày 29 tháng 1 năm 2022

Trước: Mưu cầu lẽ thật là gì (1)

Tiếp theo: Mưu cầu lẽ thật là gì (3)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger