Chức trách của lãnh đạo và người làm công (5)
Trong buổi nhóm họp lần trước, chúng ta đã thông công về mục năm trong chức trách của lãnh đạo và người làm công. Trong quá trình thông công về mục năm, chúng ta đã mổ xẻ một số biểu hiện và hành động của lãnh đạo giả, chúng ta đã thông công xong về mục này. Bây giờ, chúng ta sẽ thông công về mục sáu và bảy trong chức trách của lãnh đạo và người làm công. Nội dung cụ thể của hai mục này là gì? (Thưa, Mục 6: Đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài đạt tiêu chuẩn, để cho hễ là người mưu cầu lẽ thật thì đều có thể có cơ hội được rèn luyện và bước vào thực tế lẽ thật nhanh nhất có thể. Mục 7: Dựa vào nhân tính và sở trường của những loại người khác nhau mà phân bổ và dùng họ một cách hợp lý, đạt đến việc dùng người một cách tốt nhất.) Vậy chúng ta hãy cùng mổ xẻ về các hành động và biểu hiện khác nhau của lãnh đạo giả trong hai mục này. Hai mục này thuộc cùng một hạng mục nội dung lớn, liên quan đến việc đề bạt, bồi dưỡng và dùng các loại người của hội thánh. Đầu tiên, chúng ta sẽ thông công về các nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời trong việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài đạt tiêu chuẩn. Như thế, chẳng phải về cơ bản, các ngươi sẽ có thể hiểu được một vài nguyên tắc mà lãnh đạo và người làm công nên tuân thủ khi làm công tác này sao? Nếu các ngươi nghĩ: “Là lãnh đạo và người làm công, chúng con thường xuyên tiếp xúc với những việc này, với công tác này, chúng con đã quen thuộc và có chút kinh nghiệm rồi, nên dù Ngài không phán thêm, thì chúng con vẫn nắm rõ, Ngài không cần thông công cụ thể nữa đâu”, vậy thì không cần thông công sao? (Thưa, chúng con cần được Ngài thông công. Chúng con vẫn chưa nắm rõ các nguyên tắc trong khía cạnh này, và có những nhân tài mà chúng con vẫn chưa biết cách phân định.) Hầu hết các lãnh đạo và người làm công vẫn còn rất mơ hồ về cách làm công tác này, và đang trong quá trình dò dẫm, không nắm được các nguyên tắc chính xác, cho nên chúng ta vẫn cần thông công chi tiết.
Mục 6. Đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài đạt tiêu chuẩn, để cho hễ là người mưu cầu lẽ thật thì đều có thể có cơ hội được rèn luyện và bước vào thực tế lẽ thật nhanh nhất có thể
Ý nghĩa của việc nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài
Tại sao nhà Đức Chúa Trời lại đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài? Đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài có phải là để tham gia vào khoa học, giáo dục và văn học không? Dân được Đức Chúa Trời chọn hẳn đều biết rõ rằng khi nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài, thì không phải là để chế tạo một loại sản phẩm công nghệ cao nào đó và tạo nên kỳ tích, hay là tiến hành nghiên cứu lịch sử phát triển của nhân loại, càng không phải là để hoạch định gì cho tương lai nhân loại cả. Vậy thì tại sao nhà Đức Chúa Trời lại đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài? Các ngươi có hiểu chuyện này không? (Thưa, để mở rộng phúc âm của vương quốc.) Để mở rộng phúc âm của vương quốc – đây là một lý do. Còn gì nữa? (Thưa, để cho hễ là người mưu cầu lẽ thật thì đều có thể có cơ hội được rèn luyện.) Đúng vậy, câu trả lời này khá hợp lý và xác đáng. Chính là để cho thêm nhiều người mưu cầu lẽ thật có thể có cơ hội được rèn luyện và bước vào thực tế lẽ thật nhanh nhất có thể. Cả hai câu trả lời các ngươi vừa đưa ra đều đúng và chính xác. Việc nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài, một mặt liên quan đến việc mở rộng phúc âm của vương quốc, đến công tác của Đức Chúa Trời; mặt khác, liên quan đến việc mưu cầu và bước vào của cá nhân. Đây là hai nội dung lớn. Nói cụ thể thì ý nghĩa của việc nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài là gì? Cụ thể thì những người được đề bạt và bồi dưỡng này làm những công tác nào trong hội thánh? Khi nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng một người để làm trưởng nhóm, người phụ trách, lãnh đạo hoặc người làm công, thì có phải họ đang được đưa lên làm quan không? (Thưa, không phải.) Nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng nhân sự để họ có thể phụ trách các hạng mục hoặc công tác cụ thể trong các hạng mục công tác khác nhau của hội thánh, chẳng hạn như công tác phúc âm, công tác văn tự, công tác làm phim, công tác chăm tưới, cũng như một số công tác sự vụ, v.v.. Vậy thì họ thực hiện những công tác cụ thể này bằng cách nào? Bằng cách căn cứ theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, các nguyên tắc lẽ thật của lời Đức Chúa Trời và sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời mà gánh vác các hạng mục công tác khác nhau của hội thánh, qua đó thực hiện bổn phận của họ chiếu theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và làm việc chiếu theo các nguyên tắc lẽ thật. Nhìn vào việc những người này đang được đề bạt và bồi dưỡng để đảm nhiệm công tác, thì không phải là có chức danh hay địa vị thì người ta có thể làm tốt công tác. Thay vào đó, họ phải có tố chất nhất định thì mới có thể gánh vác một công tác cụ thể, tức là gánh vác những gì Đức Chúa Trời đã giao phó cho họ, hay nói cách khác là một bổn phận và nghĩa vụ có kèm trách nhiệm. Đây chính là ý nghĩa và định nghĩa cụ thể của việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài được đề cập ở mục sáu trong chức trách của lãnh đạo và người làm công. Cho nên, khi đề bạt và bồi dưỡng nhân sự, mục đích của nhà Đức Chúa Trời là để bồi dưỡng các loại nhân tài để làm tốt các hạng mục công tác hội thánh khác nhau theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời; để cho phép những người này gánh vác các công tác cụ thể khác nhau của hội thánh. Đồng thời, nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng và huấn luyện những người này để họ học được cách suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, thông công về lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc, dẫn dắt họ thực hành lẽ thật, sống theo lời Đức Chúa Trời, và bước vào thực tế lẽ thật, làm cho họ có những trải nghiệm và lời chứng thực sự, sau đó họ có thể dẫn dắt, chăm tưới và cung ứng cho người khác, làm tốt các hạng mục công tác khác nhau của hội thánh, đồng thời có thể khiến dân được Đức Chúa Trời chọn thuận phục Đức Chúa Trời, làm chứng cho Đức Chúa Trời và làm tốt bổn phận rao truyền phúc âm. Về phương thức thực hành cho việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài, một mặt là dẫn dắt mọi người thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, nhận thức bản thân, thoát khỏi những tâm tính bại hoại của mình, và bước vào thực tế lẽ thật; mặt khác là để cho các lãnh đạo và người làm công dùng trải nghiệm thực tế của chính họ về sự trung thành và thuận phục để dẫn dắt và bồi dưỡng mọi người làm tốt bổn phận của mình, làm chứng vang dội cho Đức Chúa Trời. Đây là hai con đường thực hành chính cho việc bồi dưỡng các loại nhân tài. Đây là những công tác cụ thể liên quan đến việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài, cũng như là ý nghĩa thực sự của việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài.
Điều kiện cần có đối với các loại nhân tài được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng
I. Điều kiện cần có đối với lãnh đạo, người làm công và người phụ trách các hạng mục công tác khác nhau
“Các loại nhân tài được hội thánh đề bạt và bồi dưỡng” nói đến những ai? Bao gồm những phạm vi nào? Đầu tiên là loại người có thể làm người phụ trách các hạng mục công tác khác nhau. Tiêu chuẩn yêu cầu đối với người phụ trách các hạng mục công tác khác nhau là gì? Có ba tiêu chuẩn chính. Thứ nhất, họ phải có năng lực lĩnh hội lẽ thật. Chỉ những người có thể lĩnh hội lẽ thật một cách thuần khiết, không lệch lạc, có thể học một biết mười, mới là người có tố chất tốt. Người có tố chất tốt ít nhất phải có hiểu biết thuộc linh và có khả năng tự mình ăn uống lời Đức Chúa Trời. Trong quá trình ăn uống lời Đức Chúa Trời, họ phải có thể độc lập tiếp nhận sự phán xét, hình phạt và tỉa sửa của lời Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những quan niệm và tưởng tượng của chính mình, sự pha tạp ý riêng, cũng như những tâm tính bại hoại của mình – nếu họ đạt đến tiêu chuẩn này, thì có nghĩa là họ biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, và đây là một biểu hiện của tố chất tốt. Thứ hai, họ phải mang gánh trọng trách đối với công tác của hội thánh. Những người thực sự mang gánh trọng trách không chỉ có lòng nhiệt thành, mà còn có trải nghiệm sự sống thực sự, hiểu được một vài lẽ thật và có thể nhìn thấu một số vấn đề. Họ thấy rằng trong công tác của hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn có nhiều khó khăn và vấn đề cần giải quyết. Họ trực tiếp thấy điều này và lo lắng trong lòng – đây chính là mang gánh trọng trách đối với công tác của hội thánh. Nếu người ta chỉ có tố chất tốt và năng lực lĩnh hội lẽ thật, nhưng lại lười biếng, tham hưởng an nhàn xác thịt, không sẵn lòng làm công tác thực tế, và chỉ làm chút công tác khi Bề trên giao cho thời hạn hoàn thành, khi không làm không được, thì đây chính là người không mang gánh trọng trách. Người không mang gánh trọng trách là người không mưu cầu lẽ thật, là người không có tinh thần chính nghĩa, và là kẻ vô tích sự suốt ngày ăn no phè phỡn mà không suy nghĩ nghiêm túc về chuyện gì cả. Thứ ba, họ phải có năng lực công tác. “Năng lực công tác” nghĩa là gì? Nói đơn giản có nghĩa là họ không những có thể bố trí công tác và dặn dò về công tác, mà còn có thể phát hiện và giải quyết vấn đề – đây chính là có năng lực công tác. Ngoài ra, họ cũng cần có năng lực tổ chức. Người có năng lực tổ chức rất giỏi triệu tập mọi người, giỏi tổ chức và sắp xếp công tác, giỏi giải quyết vấn đề; và khi sắp xếp công tác và giải quyết vấn đề, họ có thể khiến người ta tâm phục khẩu phục và thuận phục họ – đây chính là có năng lực tổ chức. Những người thực sự có năng lực công tác thì có thể thực hiện các công tác cụ thể do nhà Đức Chúa Trời sắp xếp, khi thực hiện công tác thì có thể nhanh gọn quyết đoán, không lề mề chậm chạp, hơn nữa còn có thể làm tốt nhiều công tác khác nhau. Đây là ba tiêu chuẩn của nhà Đức Chúa Trời đối với việc bồi dưỡng lãnh đạo và người làm công. Ai có được ba tiêu chuẩn này thì sẽ là nhân tài hiếm có, nên được đề bạt, bồi dưỡng và huấn luyện lập tức, và sau khi rèn luyện một thời gian, họ sẽ có thể gánh vác công tác. Phàm là người có tố chất, mang gánh trọng trách và có năng lực công tác thì không cần người ta phải luôn lao tâm, luôn đốc thúc. Họ có tính tự giác, biết lúc nào nên làm công tác gì, những công tác nào cần kiểm tra và giám sát, những công tác nào cần kiểm định, theo dõi sát sao. Những điều này họ ý thức rất rõ. Dạng người này mà làm công tác thì tương đối ổn thỏa và đáng tin cậy, sẽ không xảy ra vấn đề lớn nào. Cho dù có xảy ra chút vấn đề thì cũng chỉ là vấn đề nhỏ, không ảnh hưởng đến đại cục, và Đức Chúa Trời không cần phải lo lắng về công tác mà những người này làm. Làm công tác mà thực sự có thể một mình đảm đương hết một mặt thì mới thực sự có năng lực công tác. Những người không thể một mình đảm đương hết một mặt và luôn cần người khác phải lo lắng, trông chừng, thậm chí cầm tay chỉ việc cho họ, thì là loại người có tố chất quá kém. Kết quả công tác mà người có tố chất bình thường làm chắc chắn là bình thường, và những người này việc gì cũng cần người khác phải trông chừng và giám sát, thì mới làm được chút việc. Ngược lại, người có tố chất tốt, sau khi được huấn luyện một thời gian, thì có thể một mình đảm đương hết một mặt, và mỗi khi Bề trên dặn dò về một công tác cũng như thông công về một vài nguyên tắc, thì họ đều có thể nắm rõ nguyên tắc, thực hiện công tác theo những nguyên tắc đó, và về cơ bản sẽ đi đúng hướng mà không có sự lệch lạc hoặc sai sót quá lớn, và đạt được kết quả như mong đợi – đây chính là có năng lực công tác. Chẳng hạn như nhà Đức Chúa Trời kêu gọi thanh lọc hội thánh, phân định và khai trừ kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác khỏi hội thánh, loại người có năng lực công tác, trong khi làm công tác này, về cơ bản sẽ không đi chệch hướng. Một khi kẻ địch lại Đấng Christ xuất hiện, ít nhất cũng phải mất nửa năm mới lộ ra và bị thanh trừ. Trong thời gian này, người có năng lực công tác có thể phân định được họ, thông công về lẽ thật để mổ xẻ những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, giúp các anh chị em có được sự phân định về họ và không bị mê hoặc, qua đó cho phép các anh chị em cùng nhau đứng lên vạch trần và khai trừ kẻ địch lại Đấng Christ. Khi kẻ địch lại Đấng Christ hoặc kẻ ác xuất hiện trong phạm vi công tác của người có năng lực công tác, thì về cơ bản, hầu hết các anh chị em sẽ không bị mê hoặc hay ảnh hưởng. Chỉ một số ít người hồ đồ và người có tố chất quá kém mới bị mê hoặc, đó là hiện tượng bình thường. Người có tố chất tốt và năng lực công tác có thể đạt được những kết quả này trong công tác, và dạng người này có thực tế lẽ thật, là lãnh đạo và người làm công đạt tiêu chuẩn.
Trong các loại nhân tài mà Ta vừa đề cập, loại đầu tiên là những người có thể làm người phụ trách các hạng mục công tác khác nhau. Yêu cầu đầu tiên đối với họ là có năng lực và tố chất lĩnh hội lẽ thật. Đây là yêu cầu tối thiểu. Yêu cầu thứ hai là phải mang gánh trọng trách – điều này không thể thiếu. Có những người lĩnh hội lẽ thật nhanh hơn người thường, có hiểu biết thuộc linh, có tố chất tốt và năng lực công tác, sau khi rèn luyện một thời gian thì hoàn toàn có thể một mình đảm đương một mặt. Nhưng ở những người này lại có một vấn đề nghiêm trọng – không mang gánh trọng trách. Họ thích ăn uống, chơi bời, đi đây đi đó. Những việc này họ rất hứng thú, nhưng nếu bảo họ làm công tác cụ thể nào đó mà đòi hỏi họ phải chịu khổ, trả giá và kiềm chế bản thân một chút, thì họ chẳng có tinh thần gì, không kêu đau chỗ này thì cũng nhức chỗ nọ, trong người chỗ nào cũng cảm thấy khó chịu. Họ tự do và vô kỷ luật, tùy ý, cứng đầu và phóng túng. Họ muốn ăn liền ăn, muốn ngủ liền ngủ, muốn chơi liền chơi, và khi có tâm trạng mới làm chút công tác. Công tác mà hơi khổ hoặc hơi mệt một chút, thì họ mất hứng thú và không muốn làm bổn phận nữa. Đây có phải là mang gánh trọng trách không? (Thưa, không.) Những người lười biếng và tham hưởng an nhàn xác thịt không phải là người nên được đề bạt và bồi dưỡng. Lại có những người mà tố chất thừa đủ để đảm đương một công tác, nhưng tiếc thay, họ lại không mang gánh trọng trách, không thích gánh vác trách nhiệm, không thích phiền phức và không thích lao tâm. Họ không nhìn thấy công tác cần làm, và cho dù có thấy cũng chẳng muốn quản. Những người loại này có phải là đối tượng để đề bạt và bồi dưỡng không? Tuyệt đối không phải; để được đề bạt và bồi dưỡng, người ta phải mang gánh trọng trách. Mang gánh trọng trách cũng có thể được mô tả là có tinh thần trách nhiệm. Có tinh thần trách nhiệm liên quan nhiều hơn đến khía cạnh nhân tính; còn mang gánh trọng trách liên quan đến một trong những tiêu chuẩn mà nhà Đức Chúa Trời dùng để đánh giá người ta. Những người mang gánh trọng trách, đồng thời có thêm hai điều khác là – năng lực và tố chất lĩnh hội lẽ thật, cùng năng lực công tác – là loại người có thể được đề bạt và bồi dưỡng, và loại người này có thể làm người phụ trách các hạng mục công tác khác nhau. Đây là các tiêu chuẩn yêu cầu đối với việc đề bạt và bồi dưỡng nhân sự để trở thành các loại người phụ trách khác nhau, và những người đáp ứng các tiêu chuẩn này là đối tượng để đề bạt và bồi dưỡng.
II. Điều kiện cần có đối với nhân tài về nghiệp vụ có tài năng hoặc ân tứ đặc biệt
Bên cạnh loại người có thể làm người phụ trách các hạng mục công tác khác nhau, còn có một loại người có thể được đề bạt và bồi dưỡng, đó là những người có tài năng hoặc ân tứ đặc biệt, hoặc đã thành thạo một vài kỹ thuật nghiệp vụ. Tiêu chuẩn mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với việc bồi dưỡng những người như thế này thành trưởng nhóm là gì? Đầu tiên là nhìn vào nhân tính của họ – chỉ cần họ tương đối yêu thích những điều tích cực và không phải là kẻ ác, là được. Một số người có thể hỏi: “Tại sao không yêu cầu họ phải là người mưu cầu lẽ thật?”. Bởi vì trưởng nhóm không phải là lãnh đạo hay người làm công, cũng không phải là người chăm tưới, yêu cầu họ phải đáp ứng tiêu chuẩn mưu cầu lẽ thật sẽ là đòi hỏi quá cao, và đa số họ không đạt được. Điều này không bắt buộc đối với những người thực hiện công tác mang tính sự vụ hoặc các hạng mục công tác chuyên về nghiệp vụ; nếu bắt buộc thì chỉ một số ít người đủ điều kiện, nên phải hạ tiêu chuẩn xuống. Chỉ cần người ta hiểu nghiệp vụ của mình và có khả năng gánh vác công tác, không hành ác hoặc gây nhiễu loạn là được. Đối với những người giỏi một vài kỹ thuật nghiệp vụ, và có một vài sở trường này, nếu họ thực hiện một công tác đòi hỏi một mức độ kỹ năng và liên quan đến nghiệp vụ của họ trong nhà Đức Chúa Trời, thì chỉ cần họ tương đối thật thà và chính trực về mặt nhân phẩm, không phải là kẻ ác, không lĩnh hội lệch lạc, có thể chịu khổ và sẵn lòng trả giá, là được. Vậy thì yêu cầu đầu tiên để bồi dưỡng dạng người này thành trưởng nhóm là họ phải tương đối yêu thích những điều tích cực, ngoài ra phải có thể chịu khổ, trả giá. Còn gì nữa? (Thưa, họ phải có nhân phẩm chính trực, không ác và không lĩnh hội lệch lạc.) Nhân phẩm của họ phải tương đối chính trực, họ không được là kẻ ác, và họ không được lĩnh hội lệch lạc. Một số người có thể hỏi: “Vậy thì có thể xem năng lực lĩnh hội lẽ thật của họ là cao được không? Sau khi nghe lẽ thật, họ có thể ngộ ra thực tế lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật được không?”. Không cần yêu cầu tất cả những điều này; chỉ cần dạng người này không lĩnh hội lệch lạc là được. Khi người không lệch lạc làm công tác, một trong những lợi ích là họ ít có khả năng gây gián đoạn hay làm ra chuyện gì lố bịch. Chẳng hạn như nhà Đức Chúa Trời đã thông công nhiều lần về các nguyên tắc chọn màu sắc trang phục của diễn viên, phải trang nghiêm, đứng đắn, và nhiều màu sắc thay vì đơn điệu. Thế nhưng, vẫn có những người đơn giản là nói mà họ không hiểu được, nghe không hiểu và không có năng lực lĩnh hội, không thể xác định được các nguyên tắc trong những yêu cầu này của nhà Đức Chúa Trời, cuối cùng chọn trang phục toàn là màu xám – đây chẳng phải là lĩnh hội lệch lạc sao? (Thưa, phải.) Đây chính là lĩnh hội lệch lạc. Thế tương đối yêu thích những điều tích cực chủ yếu nghĩa là gì? (Thưa, có thể tiếp nhận lẽ thật.) Đúng vậy. Nó có nghĩa là có thể tiếp nhận những lời và những điều hợp lẽ thật, có thể tiếp nhận cũng như thuận phục lời Đức Chúa Trời và tất cả mọi khía cạnh lẽ thật. Cho dù dạng người này có thể đưa những điều này vào thực hành hay không, thì ít nhất trong lòng họ cũng không chống đối hoặc thấy phản cảm. Dạng người này là người tốt, và theo ngôn ngữ thông tục, có thể nói rằng họ là người đứng đắn. Đặc trưng của người đứng đắn là gì? Chính là họ thấy phản cảm, buồn nôn và ghét bỏ những việc ác mà người ngoại đạo thích làm, cũng như những trào lưu tà ác mà người ngoại đạo chạy theo. Chẳng hạn như những trào lưu ủng hộ các thế lực tà ác trong thế giới ngoại đạo, và nhiều phụ nữ mưu cầu việc cưới người giàu hoặc làm tiểu tam. Đây chẳng phải là tà ác sao? Người yêu thích lẽ thật đặc biệt chán ghét những điều này, và có những người nói: “Ngay cả khi tôi không thể tìm được ai đó để kết hôn, ngay cả khi tôi chết vì nghèo đói, tôi cũng sẽ không bao giờ hành động như những người đó”. Nói cách khác, họ khinh bỉ và coi thường những người như vậy. Một đặc trưng của loại người này là chán ghét và ghê tởm các trào lưu tà ác, và khinh bỉ những người bị lôi kéo bởi các trào lưu đó. Những người này tương đối chính trực; khi đề cập đến việc tin Đức Chúa Trời và làm người tốt, đi con đường đúng đắn, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, lánh khỏi những trào lưu tà ác, và lánh khỏi mọi việc ác của thế gian, thì trong lòng họ cảm thấy rằng đây là điều tốt. Dù họ có thể bước lên được con đường này hay không, và bất kể họ có ý chí tin Đức Chúa Trời và đi con đường đúng đắn lớn đến mức nào, thì tóm lại, trong lòng họ khao khát sống trong sự sáng và khao khát một nơi mà sự công chính nắm quyền. Loại người chính trực này là loại người tương đối yêu thích những điều tích cực. Những người được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng ít nhất phải có phẩm chất nhân tính chính trực và yêu thích những điều tích cực. Đây cũng là tiêu chuẩn yêu cầu đầu tiên đối với việc đề bạt loại nhân tài có kỹ thuật nghiệp vụ và sở trường. Tiêu chuẩn thứ hai là có thể chịu khổ và trả giá. Có nghĩa là, vì sự nghiệp và công tác mà bản thân yêu thích, họ có thể buông bỏ những ham muốn ích kỷ, sự hưởng thụ xác thịt hay cuộc sống an nhàn, thậm chí có thể từ bỏ tiền đồ của mình. Với họ, khổ một chút, mệt một chút cũng chẳng là gì; miễn là việc họ đang làm có ý nghĩa và là điều mà họ tin là đúng, thì họ cam tâm tình nguyện buông bỏ sự hưởng thụ và lợi ích xác thịt – hoặc chí ít, có ý chí hay nguyện vọng làm điều đó. Một số người nói: “Có lúc người đó vẫn tham hưởng sự an nhàn của xác thịt: họ muốn ngủ nướng, muốn ăn ngon một chút, có lúc họ muốn ra ngoài đi lang thang hoặc đi thơ thẩn – nhưng hầu hết thời gian, họ có thể chịu đựng gian khổ và trả giá; chỉ là đôi khi tâm trạng của họ dẫn họ đến những suy nghĩ như vậy. Như vậy có bị xem là vấn đề không?”. Không. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt, yêu cầu họ hoàn toàn buông bỏ sự hưởng thụ của xác thịt thì quá hà khắc rồi. Nói chung, khi ngươi giao cho những người đó một công tác để làm, cho dù đó có là công tác lớn hay không, và cho dù đó có phải là việc họ thích làm hay không, cho dù công tác đó khó khăn đến thế nào, cần họ chịu khổ và trả giá đến mức nào, thì ngươi chỉ cần giao cho họ, không cần phải trông chừng hay giám sát họ, họ đều có thể dốc hết sức mà làm. Loại người như vậy có thể chịu khổ và trả giá, đây cũng là một biểu hiện của người đứng đắn. Có thể chịu khổ và trả giá nghĩa là gì? Nghĩa là chu toàn, cực kỳ để tâm và tỉ mỉ, sẵn lòng chịu bất kỳ khổ cực nào và trả bất kỳ cái giá nào để làm tốt mọi việc. Dạng người này làm việc thì có chữ tín và khiến người ta thấy tin cậy, không như những kẻ ham ăn biếng làm, thích nhàn hạ, lười lao động và hám lợi. Những kẻ đó nói lời không giữ lời, luôn nói lời giả dối để lừa gạt và dụ dỗ người khác, và không ngần ngại nói dối, thề gian để đạt được mục đích của mình – những kẻ này Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi. Đức Chúa Trời thích những người trung thực. Chỉ những người trung thực mới có chữ tín và trung thành với bổn phận của mình, và chỉ những người có thể chịu khổ và trả giá để hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời mới có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Việc có thể chịu khổ và trả giá là đặc điểm và biểu hiện thứ hai phải có để được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng. Tiêu chuẩn thứ ba là không được lĩnh hội lệch lạc. Tức là sau khi nghe lời Đức Chúa Trời, ít nhất họ cũng phải biết những lời đó nói đến điều gì, họ có thể hiểu được những điều Đức Chúa Trời phán, và sự lĩnh hội của họ không lệch lạc hoặc ngớ ngẩn. Chẳng hạn như nếu ngươi nói màu xanh lam, họ sẽ không hiểu sai thành màu đen; nếu ngươi nói màu xám, họ sẽ không hiểu sai thành màu tím. Đây là cái tối thiểu nhất. Cho dù đôi lúc sự lĩnh hội của họ có lệch lạc đi nữa, thì khi người khác chỉ ra, họ cũng có thể tiếp nhận, và nếu họ thấy ai khác có sự lĩnh hội thuần khiết hơn mình, thì họ có thể chủ động tiếp nhận – loại người này có sự lĩnh hội thuần khiết. Thứ tư, họ không được là kẻ ác. Điều này dễ hiểu không? Không được là kẻ ác có nghĩa là ít nhất cũng phải làm được một điều, đó là sau khi không đạt được những điều nhà Đức Chúa Trời yêu cầu hoặc vi phạm nguyên tắc và làm sai, thì khi bị tỉa sửa, dạng người này phải có thể tiếp nhận và thuận phục, mà không chống đối và không lan truyền sự tiêu cực hay quan niệm. Thêm nữa, dù ở trong tập thể nào, họ cũng có thể hòa hợp với hầu hết mọi người và sống chan hòa. Cho dù ai đó có nói gì khó nghe làm tổn thương họ, thì họ cũng có thể nhẫn nhịn, không so đo; nếu bị ai ức hiếp, họ cũng không lấy ác trị ác, mà thay vào đó vận dụng những phương cách khôn ngoan để giữ khoảng cách và tránh xa người đó. Mặc dù dạng người này chưa phải là người trung thực, nhưng ít nhất họ cũng khá thật thà và không hành ác, nếu ai đắc tội với họ thì họ không trả thù, không trừng trị, cũng không chèn ép người ta. Họ cũng không cố gắng thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình, không hành động chống lại nhà Đức Chúa Trời, không lan truyền quan niệm về Đức Chúa Trời, không xét đoán Đức Chúa Trời, cũng không làm gì gây gián đoạn hoặc nhiễu loạn. Bốn điều trên là những điều kiện cơ bản để đề bạt và bồi dưỡng nhân tài có chút sở trường và hiểu kỹ thuật nghiệp vụ. Chỉ cần họ đáp ứng được bốn điều kiện này thì về cơ bản có thể gánh vác một số bổn phận nhất định và làm tốt một số công tác nhất định.
Có thể sẽ có người hỏi rằng: “Làm sao tiêu chí mà nhân tài phải đáp ứng để được đề bạt và bồi dưỡng lại không bao gồm việc hiểu lẽ thật, có thực tế lẽ thật, có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác chứ? Làm sao lại không bao gồm việc có thể biết Đức Chúa Trời, có thể thuận phục Đức Chúa Trời và trung thành với Ngài, và là một con người thọ tạo đạt tiêu chuẩn chứ? Có phải những điều này bị bỏ sót không?”. Nói Ta nghe, nếu một người hiểu lẽ thật và đã bước vào thực tế lẽ thật, có thể thuận phục Đức Chúa Trời, trung thành với Đức Chúa Trời và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, hơn nữa, họ biết Đức Chúa Trời, sẽ không chống đối Ngài và là một con người thọ tạo đạt tiêu chuẩn, thì còn cần bồi dưỡng họ nữa không? Nếu họ thực sự đã đạt được hết thảy những điều này, thì chẳng phải việc bồi dưỡng đã có kết quả rồi sao? (Thưa, phải.) Vì thế, yêu cầu để nhân tài được đề bạt và bồi dưỡng không bao gồm những tiêu chí này. Bởi vì các ứng viên để đề bạt và bồi dưỡng là từ trong nhân loại không hiểu lẽ thật và chứa đầy những tâm tính bại hoại, cho nên những đối tượng để đề bạt và bồi dưỡng này không thể nào đã có thực tế lẽ thật rồi, hoặc đã hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời rồi, càng không thể nào đã tuyệt đối trung thành với Đức Chúa Trời rồi, đương nhiên càng không thể nào biết Đức Chúa Trời và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời được. Tiêu chí mà các loại nhân tài phải đáp ứng trên hết để được đề bạt và bồi dưỡng là các tiêu chí mà chúng ta vừa đề cập – đây là những tiêu chí thực tế và cụ thể nhất. Có một số lãnh đạo giả nói: “Ở đây, chúng tôi không có nhân tài nào để đề bạt và bồi dưỡng cả. Người này không hiểu lẽ thật, người kia hành sự không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, người này không thể tiếp nhận sự tỉa sửa, người kia không có lòng trung thành, v.v.”. Họ moi ra một mớ khiếm khuyết. Khi nói những điều này, ngụ ý của các lãnh đạo giả này là gì? Như thể những người đó không thể được đề bạt và bồi dưỡng bởi vì họ không hiểu lẽ thật, chưa trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và chưa có thực tế lẽ thật, v.v., còn họ làm lãnh đạo là bởi vì họ có chút trải nghiệm thực tế và có thực tế lẽ thật rồi. Chẳng phải họ có ý này sao? Trong mắt họ, không ai tốt bằng họ, ngoài họ ra thì không ai phù hợp để làm lãnh đạo. Đây chính là tâm tính kiêu ngạo của lãnh đạo giả. Đối với việc đề bạt và bồi dưỡng nhân sự của nhà Đức Chúa Trời, họ đầy những quan niệm và tưởng tượng.
III. Điều kiện mà nhân sự làm công tác sự vụ cần có
Ta vừa đề cập đến hai loại người mà nhà Đức Chúa Trời chú trọng bồi dưỡng. Một loại là những người có thể làm lãnh đạo và người làm công, và một loại là những người có thể đảm nhiệm các công tác nghiệp vụ khác nhau. Còn có một loại người nữa. Không thể nói rằng họ có sở trường hay kỹ năng nghiệp vụ đặc biệt nào; công tác mà họ làm cũng không đòi hỏi kỹ thuật cao gì. Nói cách khác, những người này làm một số công tác sự vụ trong hội thánh, họ xử lý một số việc bên ngoài các công tác mang tính thực chất của hội thánh. Đây chính là loại người thực hiện công tác sự vụ. Yêu cầu chính của nhà Đức Chúa Trời đối với dạng người này là gì? Yêu cầu quan trọng nhất là họ phải có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, không đặt lợi ích của người ngoài trên lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, và không bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để lấy lòng Sa-tan. Vậy là được. Cho dù họ có phải là nhân tài giao tế, tinh anh của xã hội hay nhân tài đặc biệt hay không, thì họ cũng phải có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời khi xử lý sự vụ bên ngoài cho nhà Đức Chúa Trời. Lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bao gồm những gì? Tiền bạc, vật chất, danh tiếng của nhà Đức Chúa Trời và hội thánh, cũng như sự an toàn của các anh chị em – mỗi khía cạnh này đều rất quan trọng. Ai có khả năng bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời thì đều có nhân tính bình thường, đủ ngay thẳng, và là người sẵn lòng thực hành lẽ thật. Một số người không có sự phân định, nói rằng: “Có một người nhân tính ác lắm, nhưng anh ta có thể bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời”. Có thể nào như vậy được không? (Thưa, không thể.) Làm sao kẻ ác lại có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời được? Họ chỉ có thể bảo vệ lợi ích cá nhân của họ mà thôi. Vì thế, nếu ai đó thực sự có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì chắc chắn họ có nhân cách và nhân tính tốt; điều này không thể sai được. Nếu ai đó đặt lợi ích của người ngoài trên lợi ích của nhà Đức Chúa Trời khi hành sự cho nhà Đức Chúa Trời, bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, không chỉ gây ra những thiệt hại về tiền bạc và vật chất to lớn cho nhà Đức Chúa Trời, mà còn gây tổn hại rất nhiều đến danh tiếng của nhà Đức Chúa Trời và hội thánh, thì họ có phải là người tốt không? Dạng người này chắc chắn không phải là thứ tốt đẹp gì. Họ không quan tâm thiệt hại về vật chất và tiền bạc mà nhà Đức Chúa Trời phải gánh chịu lớn đến đâu; cái quan trọng nhất đối với họ là làm lợi cho bản thân và lấy lòng người ngoại đạo; họ chẳng những tặng quà cho người ngoại đạo, mà thậm chí khi thương lượng còn luôn nhượng bộ người ngoại đạo – họ không biết đấu tranh bảo vệ cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Đã thế, họ còn lừa gạt nhà Đức Chúa Trời, nói rằng mình đã hoàn thành công việc như thế nào, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời ra sao – khi trên thực tế, công tác của hội thánh đã chịu thiệt hại rồi, và nhà Đức Chúa Trời đã bị người ngoại đạo lợi dụng rất nhiều. Khi xử lý việc bên ngoài, nếu người ta có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời trong mọi mặt, thì người này có phải là người tốt không? (Thưa, phải.) Vậy nếu dạng người này không thể làm được công tác nào khác trong nhà Đức Chúa Trời, chỉ phù hợp với loại công tác sự vụ này, thì nhà Đức Chúa Trời có nên đề bạt họ không? (Thưa, có.) Ngoài việc có năng lực làm việc và có thể thực hiện công tác theo các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, họ còn có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, vậy là họ đã đạt tiêu chuẩn rồi. Dạng người này nên được đề bạt. Ngược lại, những kẻ luôn gây tổn hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, luôn tạo ra rủi ro tiềm ẩn cho sự an toàn của các anh chị em, và luôn gây ra những ảnh hưởng, hậu quả xấu cho danh tiếng của nhà Đức Chúa Trời và hội thánh – loại người này không phải là đối tượng nên được đề bạt và bồi dưỡng; nếu đã đề bạt và dùng loại người này rồi thì phải nhanh chóng cách chức họ. Lại có những người, trong khi làm việc thì luôn gặp rắc rối, chẳng hạn như bị tai nạn khi lái xe, làm việc thì toàn làm hỏng chuyện, còn gây chuyện thị phi khiến người ta phải liên tục khiếu nại, có sai sót thì không biết cách giải quyết. Dạng người này là kẻ nhược trí, cũng là kẻ mang đến tai vạ, đồ bỏ đi. Nếu loại người này trở thành trưởng nhóm, người phụ trách, lãnh đạo hoặc người làm công, thì không những phải nhanh chóng cách chức họ, mà còn phải thanh trừ họ khỏi hội thánh. Đó là bởi vì dạng người này là tai tinh, là kẻ mang đến tai vạ. Chỉ cần một, hai người như thế này tồn tại trong hội thánh, thì không thể có an bình trong hội thánh. Dạng người này dường như có tà linh bên trong hoặc có bệnh dịch. Ai tiếp xúc với họ đều sẽ gặp tai ương, nên phải lập tức nhổ tận gốc dạng người này. Đến cả tướng mạo của những người này cũng không tốt, đầy những nét của quỷ dữ, của kẻ gian, xấu xí không chịu nổi, ai tiếp xúc với họ cũng đều cảm thấy như sắp có chuyện xấu xảy ra. Những người dạng này buộc phải bị cách chức và thanh trừ, chỉ khi đó hội thánh mới bình an vô sự được. Việc đề bạt và bồi dưỡng các loại người khác nhau trong hội thánh đòi hỏi phải tuân theo nguyên tắc và thực hiện phân định, để đạt đến làm việc theo nguyên tắc. Trong các loại người khác nhau được đề bạt và bồi dưỡng, có những người làm lãnh đạo và người làm công, có những người phụ trách các nghiệp vụ khác nhau trong hội thánh, lại có những người xử lý sự vụ cho hội thánh. Các điều kiện khác nhau mà các loại nhân tài này phải đáp ứng cũng đã được thông công rõ ràng. Khi các ngươi nắm rõ các nguyên tắc về cách bầu chọn lãnh đạo và người làm công, cũng như cách đề bạt và bồi dưỡng nhân sự, thì mọi công tác của hội thánh sẽ đi đúng hướng.
Có thể sẽ có người hỏi rằng: “Tại sao lại gọi những người được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng này là nhân tài?”. Nhân tài mà chúng ta nói đến là chỉ những đối tượng có thể được đề bạt và bồi dưỡng. Có các yêu cầu khác nhau cho những người có thể làm các bổn phận khác nhau, bởi vì họ đang trong quá trình được đề bạt và bồi dưỡng, nên nếu những người được gọi là nhân tài này có thể đạt được những điều kiện mà chúng ta nói đến khi nãy, thì như vậy đã là không tệ rồi. Còn nếu bắt những người này phải có thực tế lẽ thật, phải thuận phục và trung thành với Đức Chúa Trời và phải kính sợ Ngài, như vậy thì không thực tế. Thế nên, nhân tài mà chúng ta nói đến chỉ là những người có một số phẩm chất và nhân cách mà người có nhân tính bình thường nên có, đồng thời có tố chất lĩnh hội lẽ thật – như vậy thì họ đã được coi là đạt tiêu chuẩn rồi. Điều đó không có nghĩa là họ đã hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật rồi, cũng không có nghĩa là họ đã đạt đến tuyệt đối thuận phục Đức Chúa Trời sau khi đón nhận sự phán xét và hình phạt của Ngài, hay những điều tương tự như vậy. Đương nhiên, hai chữ “nhân tài” này không nói đến những người đã vào đại học hoặc đang theo học tiến sĩ, những người có nền tảng gia đình bề thế hoặc địa vị xã hội cao, hay những người có khả năng hoặc ân tứ đặc biệt – nó không nói đến những người này. Vì họ là đối tượng sẽ được đề bạt và bồi dưỡng, nên đối với một số người sắp làm công tác nghiệp vụ, có thể họ chưa từng làm hoặc học về mảng nghiệp vụ này, nhưng chỉ cần họ có đủ điều kiện để được đề bạt và bồi dưỡng, sẵn lòng học hỏi và cũng có khả năng học hỏi một nghiệp vụ cụ thể, thì nhà Đức Chúa Trời có thể đề bạt và bồi dưỡng họ. Ta nói vậy ý là gì? Ý Ta không phải là chỉ khi người ta bẩm sinh xuất sắc trong một nghiệp vụ cụ thể mới có thể được đề bạt và bồi dưỡng. Mà là nếu họ có ý nguyện học hỏi và có những điều kiện về phương diện này, hoặc ngay cả khi họ chỉ có một chút hiểu biết cơ bản về nghiệp vụ này, thì họ cũng có thể được đề bạt và bồi dưỡng – đây là nguyên tắc. Về những điều kiện cần có của các loại nhân tài mà nhà Đức Chúa Trời muốn đề bạt và bồi dưỡng, chúng ta thông công đến đây thôi.
Mục đích đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài của nhà Đức Chúa Trời
Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công về việc tại sao nhà Đức Chúa Trời lại đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài. Có những người không hiểu lắm, ý của họ là: “Chẳng phải nhà Đức Chúa Trời cứ đề bạt và sử dụng thẳng các loại nhân tài là được sao? Tại sao còn phải bồi dưỡng và rèn luyện họ trong một thời gian chứ?”. Các ngươi có hiểu điều này không? Đầu tiên, hãy cùng nói về loại người trở thành lãnh đạo và người làm công. Tại sao nhà Đức Chúa Trời lại đề bạt và bồi dưỡng những người có khả năng lĩnh hội, mang gánh trọng trách đối với hội thánh và có năng lực làm việc? Đó là bởi vì mặc dù họ đạt tiêu chuẩn về mặt tố chất và điều kiện, nhưng họ chưa có trải nghiệm thực tế và không hiểu lẽ thật, càng không biết cách thực hành lẽ thật và hành sự theo nguyên tắc. Họ buộc phải được rèn luyện một thời gian và được hướng dẫn. Chỉ khi đã nắm vững các nguyên tắc làm bổn phận và có trải nghiệm thực tế, họ mới có thể được sử dụng chính thức. Nếu họ giống như các anh chị em trong hội thánh, ăn uống lời Đức Chúa Trời, nghe giảng đạo, sống đời sống hội thánh, tập làm bổn phận, và chỉ được đề bạt, bồi dưỡng một khi sự sống của họ đã trưởng thành, thì họ sẽ tiến bộ rất chậm. Vậy thì họ phải tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm thì mới phù hợp để được Đức Chúa Trời sử dụng đây? Chẳng phải điều này sẽ ảnh hưởng đến công tác của hội thánh sao? Cho nên, chỉ cần một người có khả năng lĩnh hội lẽ thật, có năng lực làm việc và có tinh thần gánh trọng trách, thì nên đề bạt và bồi dưỡng họ, cho họ tập làm bổn phận của lãnh đạo hoặc người làm công, và giao cho họ gánh một trọng trách. Một mặt, nó cho phép họ phát huy tối đa sở trường của mình. Mặt khác, khi gặp phải những tình huống đặc biệt, họ vẫn cần được thông công về lẽ thật để giải quyết khó khăn. Đôi khi cũng phải tỉa sửa họ, và nếu cần cũng phải sửa dạy họ, cho họ trải qua nhiều sự thử luyện và tinh luyện, cũng như chịu nhiều thống khổ. Chỉ khi trải qua sự rèn luyện thực tế như thế, họ mới có thể có tiến bộ thực sự, từng bước hiểu lẽ thật và nắm vững các nguyên tắc, sau đó họ sẽ có thể sớm gánh vác công tác của lãnh đạo và người làm công. Bồi dưỡng và rèn luyện lãnh đạo và người làm công như vậy sẽ mang lại kết quả tốt hơn và nhanh hơn, có lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và có lợi hơn cho lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, bởi vì lãnh đạo và người làm công có trải nghiệm thực tế thì có thể trực tiếp chăm tưới và cung ứng cho dân được Đức Chúa Trời chọn. Khi nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng một người để làm lãnh đạo, nhà Đức Chúa Trời sẽ giao nhiều trọng trách hơn cho người này để rèn luyện họ, khiến họ cậy dựa vào Đức Chúa Trời, khiến họ phấn đấu vươn tới lẽ thật; chỉ khi đó vóc giạc của họ mới nhanh chóng trưởng thành. Trọng trách đặt lên họ càng nhiều, áp lực của họ sẽ càng lớn, và họ càng buộc phải tìm kiếm lẽ thật và cậy dựa vào Đức Chúa Trời. Cuối cùng, họ sẽ có thể làm tốt công tác, tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, và như vậy thì họ sẽ bước vào con đường đúng đắn để được cứu rỗi và làm cho hoàn thiện – đó là hiệu quả đạt được khi nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng con người. Nếu không làm những công việc cụ thể này, họ sẽ không biết mình đang thiếu gì, họ sẽ không biết cách làm việc phù hợp với nguyên tắc, cũng sẽ không biết thế nào là có thực tế lẽ thật. Vì vậy, việc làm công tác cụ thể giúp họ phát hiện ra những thiếu sót của mình, giúp họ thấy được rằng, ngoài những ân tứ của mình, họ không hề có thực tế lẽ thật. Nó giúp họ cảm nhận được họ nghèo nàn và đáng thương như thế nào, nó khiến họ nhận ra rằng nếu họ không cậy dựa vào Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, họ sẽ không làm được công tác nào cả. Nó khiến họ thật sự nhận biết được bản thân, thấy rõ rằng nếu họ không mưu cầu lẽ thật và sự thay đổi tâm tính, họ sẽ không thể phù hợp để Đức Chúa Trời dùng – đó là tất cả những hiệu quả cần phải đạt được khi bồi dưỡng và huấn luyện lãnh đạo và người làm công. Chỉ khi hiểu những khía cạnh này, người ta mới mưu cầu lẽ thật một cách thực tế, hành xử khiêm nhường, và đảm bảo không còn khoe mình khi làm công tác, luôn tôn cao Đức Chúa Trời và chứng thực cho Ngài khi làm bổn phận, và từng bước bước vào thực tế lẽ thật. Đề bạt và bồi dưỡng một người làm lãnh đạo chính là để họ học cách phân định tình trạng của những người khác nhau, được rèn luyện tìm kiếm lẽ thật để giải quyết khó khăn của những loại người khác nhau, hỗ trợ và cung ứng cho các loại người khác nhau, và dẫn dắt mọi người bước vào thực tế lẽ thật. Đồng thời, họ cũng phải rèn luyện việc giải quyết các vấn đề và khó khăn khác nhau gặp phải trong công tác, và học cách phân định, xử lý các loại người khác nhau như kẻ địch lại Đấng Christ, kẻ ác và kẻ chẳng tin, cũng như cách làm công tác thanh lọc hội thánh. Như vậy, so với những người khác, họ có thể trải nghiệm nhiều con người, sự việc và sự vật hơn, cùng nhiều hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt hơn, ăn uống lời Đức Chúa Trời nhiều hơn, và bước vào thực tế lẽ thật nhiều hơn bao giờ hết. Đây có phải là cơ hội để họ rèn luyện chính mình không? Cơ hội rèn luyện càng nhiều, thì trải nghiệm của người ta càng nhiều, kiến thức của họ càng mở rộng, và họ sẽ tiến bộ càng nhanh. Nhưng nếu không làm công tác của lãnh đạo, người ta sẽ chỉ tiếp xúc và thể nghiệm cuộc sống cá nhân và trải nghiệm cá nhân, chỉ nhận ra những tâm tính bại hoại cá nhân và các loại tình trạng cá nhân – tất cả chỉ liên quan đến bản thân họ. Một khi trở thành lãnh đạo, họ tiếp xúc với nhiều con người, nhiều sự việc và nhiều hoàn cảnh hơn, thúc đẩy họ thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật. Những con người, sự việc và sự vật này vô hình trung đã hình thành một gánh trọng trách đối với họ, và đương nhiên cũng tạo ra điều kiện thuận lợi nhất để họ bước vào thực tế lẽ thật, đó là một điều tốt. Cho nên, cùng là người có tố chất, mang gánh trọng trách và có năng lực làm việc, nếu là tín hữu bình thường thì sẽ bước vào chậm, còn nếu là lãnh đạo hoặc người làm công thì sẽ bước vào nhanh hơn. Đối với con người, việc bước vào thực tế lẽ thật nhanh hay chậm, cái nào là điều tốt? (Thưa, nhanh.) Do đó, đối với những người có tố chất, mang gánh trọng trách và có năng lực làm việc, nhà Đức Chúa Trời sẽ phá lệ đề bạt loại người này. Trừ khi họ không phải là người mưu cầu lẽ thật và không phấn đấu vươn tới lẽ thật, khi đó thì nhà Đức Chúa Trời sẽ không miễn cưỡng họ. Chỉ cần người ta có nền tảng đức tin nơi Đức Chúa Trời, đủ điều kiện làm lãnh đạo hoặc người làm công, sẵn lòng mưu cầu lẽ thật và sẵn lòng để Đức Chúa Trời dùng, thì chắc chắn nhà Đức Chúa Trời sẽ đề bạt và bồi dưỡng họ, cho họ cơ hội được rèn luyện làm lãnh đạo hoặc người làm công, để họ học làm công tác của hội thánh, học cách phân định con người, học cách xử lý đủ loại vấn đề trong hội thánh, và học cách triển khai các công tác khác nhau theo sự sắp xếp công tác. Trong giai đoạn được rèn luyện, nếu người ta có thể tiếp nhận lẽ thật và tiếp nhận sự tỉa sửa, có thể thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết các loại vấn đề, học cách đối đãi với đủ loại người, cũng như phân biệt và xử lý đủ loại người theo lời Đức Chúa Trời, thì họ có thể bắt đầu nắm được các nguyên tắc lẽ thật liên quan, đi đến chỗ hiểu lẽ thật và bước vào thực tế – đây là những điều mà tín hữu bình thường không thể trải nghiệm hay thu hoạch được. Cho nên từ góc độ này, việc nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng ai đó là điều tốt hay điều xấu? Nó có lợi cho họ hay là gây khó dễ họ? Nó có lợi cho họ. Đương nhiên, khi mới được đề bạt, có những người không biết nên làm những công tác nào hoặc làm như thế nào, họ trở nên hơi hoang mang. Đây là điều bình thường, nào có ai trời sinh việc gì cũng biết làm? Nếu việc gì ngươi cũng biết làm, thì chắc chắn ngươi sẽ là kẻ kiêu ngạo và tự đại nhất, không phục ai cả – trong trường hợp đó, liệu ngươi còn có thể tiếp nhận lẽ thật được nữa không? Nếu việc gì ngươi cũng biết làm, liệu ngươi còn cậy dựa nơi Đức Chúa Trời và ngưỡng vọng Ngài nữa không? Liệu ngươi còn tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề về sự bại hoại của chính mình nữa không? Chắc chắn là không. Ngược lại, ngươi sẽ kiêu ngạo, tự đại và đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi sẽ tranh quyền đoạt vị, và không phục ai cả, ngươi sẽ mê hoặc và gài bẫy mọi người, gây gián đoạn và nhiễu loạn cho công tác của hội thánh – trong trường hợp đó, liệu ngươi còn có thể được nhà Đức Chúa Trời dùng nữa không? Nếu ngươi biết rằng mình có nhiều khuyết điểm, thì ngươi nên học cách nghe lời và thuận phục, cũng như làm tốt các công tác khác nhau theo yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời; như vậy sẽ cho phép ngươi dần dần đạt đến mức độ có thể làm bổn phận đạt tiêu chuẩn. Nhưng hầu hết mọi người không làm được chuyện đơn giản như nghe lời và thuận phục, nên đừng có trách cứ nhà Đức Chúa Trời vì không đề bạt và bồi dưỡng họ, bởi vì họ không có khả năng nghe lời. Nếu ngay cả việc nghe lời mà ngươi cũng không biết, liệu nhà Đức Chúa Trời có dám đề bạt và bồi dưỡng ngươi không? (Thưa, không.) Tại sao không? Việc dùng ngươi là quá rủi ro, quá phiền toái và quá nhiều lo lắng! Một khi nhà Đức Chúa Trời dùng ngươi rồi thì ngươi có thể kiểm soát mọi người trong tay và dẫn họ đi con đường tà ác. Như vậy thì quá nguy hiểm. Một khi được dùng thì ngươi có thể làm xằng làm bậy, khiến công tác rơi vào hỗn loạn hết cả, và nhà Đức Chúa Trời sẽ phải cách chức ngươi, dọn dẹp hết thảy mớ hỗn độn cho ngươi. Như vậy thì quá phiền toái. Một khi được dùng thì ngươi sẽ không biết cách làm bất kỳ công tác nào, và ngươi sẽ không hề đạt được chút hiệu quả nào; trong mọi công tác ngươi làm, Bề trên đều phải thúc giục, giám sát và theo dõi ngươi, việc gì cũng phải can thiệp – vậy thì tại sao phải dùng ngươi? Ngươi khiến người ta phải bận lòng nhiều quá! Dạng người này tuyệt đối không thể dùng. Cho dù có bồi dưỡng họ cũng vô ích, thậm chí còn gây ra nhiều phiền toái cũng như ảnh hưởng đến việc bồi dưỡng người khác; chẳng phải sẽ là lợi bất cập hại sao? (Thưa, phải.)
Có những người, bởi vì không bao giờ được nhà Đức Chúa Trời đề bạt hay sử dụng, nên sinh ra nghĩ ngợi và nói: “Tại sao Bề trên lại không bao giờ để ý đến mình? Tại sao nhà Đức Chúa Trời không bao giờ đề bạt và bồi dưỡng mình? Như vậy không công bằng!”. Vậy thì trước tiên, ngươi phải cân nhắc xem liệu mình có thể nghe lời hay không, và liệu ngươi có thể thuận phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời hay không. Thứ hai, ngươi phải cân nhắc xem liệu mình có đáp ứng được ba điều kiện mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu để đề bạt và bồi dưỡng nhân sự thành lãnh đạo và người làm công hay không – có thể lĩnh hội lẽ thật, mang gánh trọng trách và có năng lực làm việc. Nếu ngươi có những điều kiện này, thì sớm muộn gì cũng sẽ có cơ hội được đề bạt, bồi dưỡng và được dùng. Nếu nhà Đức Chúa Trời đã đề bạt ngươi thì sẽ có yêu cầu đối với ngươi, những yêu cầu này là gì? Ngươi được yêu cầu phải làm theo nguyên tắc và yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời; ngươi phải làm những gì được yêu cầu và theo cách thức được yêu cầu, cho nên khi được bồi dưỡng, đầu tiên thì ngươi sẽ học cách làm việc theo nguyên tắc, học cách tìm kiếm lẽ thật, thuận phục lẽ thật, và học phối hợp hài hòa. Trong thời gian được bồi dưỡng, có những lúc nhà Đức Chúa Trời sẽ tỉa sửa ngươi; có những lúc nhà Đức Chúa Trời sẽ nghiêm khắc khiển trách ngươi; có những lúc nhà Đức Chúa Trời sẽ hỏi về tiến độ công tác của ngươi; có những lúc nhà Đức Chúa Trời sẽ nghe ngóng xem công tác của ngươi rốt cuộc là tới đâu rồi, sẽ kiểm tra công tác của ngươi; và có những lúc nhà Đức Chúa Trời sẽ thử xem quan điểm của ngươi đối với một việc nào đó là gì. Mục đích của những bài thử này không phải là để gây khó dễ cho ngươi, mà là để làm cho ngươi hiểu rằng, trong những việc này, tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, thái độ và nguyên tắc mà ngươi nên có là gì. Nhà Đức Chúa Trời làm vậy là để rèn luyện và huấn luyện ngươi. Mục đích và mục tiêu huấn luyện con người là gì? Đó là để họ hiểu lẽ thật. Mục đích hiểu lẽ thật là để con người có thể thuận phục lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc, giữ vững vị trí của họ và trung thành làm tốt bổn phận của họ, để họ bước vào các thực tế lẽ thật khác nhau trong quá trình làm bổn phận và đạt được sự biến đổi tâm tính. Nhà Đức Chúa Trời huấn luyện lãnh đạo và người làm công như vậy. Chỉ khi lãnh đạo và người làm công hiểu lẽ thật, mới có hy vọng rằng họ có thể dẫn dắt dân được Đức Chúa Trời chọn hiểu lẽ thật. Lãnh đạo và người làm công hiểu được bao nhiêu lẽ thật, thì những người họ dẫn dắt có hy vọng hiểu được bấy nhiêu lẽ thật. Khi lãnh đạo và người làm công nắm được các nguyên tắc lẽ thật trong công tác của họ, thì những người họ dẫn dắt cũng có thể nắm được các nguyên tắc và bước vào thực tế lẽ thật trong công tác. Cho nên, lãnh đạo và người làm công tiếp nhận sự huấn luyện thì phải có tố chất tốt hơn những người khác. Họ sẽ được hiểu các nguyên tắc lẽ thật trước và bước vào thực tế lẽ thật trước, sau đó họ có thể dẫn dắt thêm nhiều người bước vào thực tế lẽ thật và hiểu các nguyên tắc lẽ thật. Các ngươi nghĩ sao về cách thức này? (Thưa, cách thức này hay.) Dạng người này có thể không có học thức cao, không thể xuất khẩu thành văn, cũng không hiểu nhiều về công nghệ hoặc thời sự và chính trị, thậm chí họ có thể không thành thạo lắm một nghiệp vụ nào đó. Nhưng họ có thể hiểu lẽ thật, và sau khi nghe lời Đức Chúa Trời, họ có thể thực hành và trải nghiệm lời Ngài, có thể tìm thấy các nguyên tắc lẽ thật, và có thể dẫn dắt thêm nhiều người bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời cũng như tuân theo các nguyên tắc lẽ thật. Đây chính là những người mà chúng ta nói tới khi nói đến dạng nhân tài được đề bạt và bồi dưỡng để làm lãnh đạo. Điều này có trừu tượng không? (Thưa, không.) Có thể sẽ có người hỏi rằng: “Ngài nói về nhân tài, vậy họ có phải là giới tinh hoa của xã hội không? Họ có phải từng điều hành một loại hình kinh doanh nào đó, hoặc từng làm dạng giám đốc điều hành hay doanh nhân nào đó ngoài xã hội không? Họ có phải là chính khách có nền tảng chính trị, nhân tài kinh doanh, hay là nhân tài trong giới văn học, nghệ thuật không? Họ có phải là kỳ tài không?”. Nhân tài được nói đến trong nhà Đức Chúa Trời khác với những nhân tài đó ở ngoài thế tục. Thuật ngữ “nhân tài” mà chúng ta nói đến nghĩa là gì? Nghĩa là có thể hiểu lẽ thật, có thể dẫn dắt mọi người bước vào thực tế lẽ thật, biết cách phân định các loại người khác nhau, biết cách giải quyết những tình trạng và khó khăn khác nhau mà mọi người gặp phải, có quan điểm, thái độ đúng đắn khi gặp phải vấn đề, có quan điểm, thái độ mà những người tin Đức Chúa Trời và đi theo Ngài nên có. Nó không nói đến những người không có hiểu biết thuộc linh, những người đạo đức giả, hoặc những người nói những điều nghe cao siêu và tuôn luận điệu. Thay vào đó, nó nói đến những người có thực tế lẽ thật. “Nhân tài” nghĩa là vậy. Điều này có sáo rỗng không? (Thưa, không.) Mấy điều kiện mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với dạng nhân tài được đề bạt và bồi dưỡng thành lãnh đạo và người làm công này chẳng phải rất thực tế sao? (Thưa, phải.) Vô cùng thực tế! Nhà Đức Chúa Trời không yêu cầu người ta phải có trình độ học vấn cao, nhưng ít nhất họ phải có tố chất lĩnh hội lẽ thật. Có thể sẽ có người nói rằng: “Nếu không yêu cầu họ phải có trình độ học vấn cao, thì họ không biết chữ có được không?”. Đọc lời Đức Chúa Trời mà không có học một chút thì không được. Họ cần hiểu chữ viết, nhưng không cần có trình độ học vấn cao. Những người được đề bạt trong nhà Đức Chúa Trời có những người tốt nghiệp cấp hai, cử nhân đại học và tiến sĩ, nên không có giới hạn về trình độ học vấn. Ngoài ra, cũng không có giới hạn về địa vị xã hội. Từ nông dân, tri thức, cho đến doanh nhân và bà nội trợ, loại người nào cũng được. Ngoài việc không có giới hạn về trình độ học vấn và địa vị xã hội, thì những điều kiện được yêu cầu chỉ gồm mấy điều như vậy thôi. Như thế có hợp lý không? (Thưa, có.) Vô cùng hợp lý! Bây giờ, các ngươi đã hiểu hơn một chút ý Ta khi nói đến “nhân tài mà nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng” chưa? (Thưa, rồi.) Những người có đủ những điều kiện bao gồm có thể lĩnh hội lẽ thật, mang gánh trọng trách và có năng lực làm việc chính là đối tượng có thể được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng. Nếu họ có đủ những điều kiện này thì họ đạt tiêu chuẩn. Đối với những thứ khác như học thức, nền tảng gia đình, địa vị xã hội, ngoại hình, v.v., thì yêu cầu không quá cao. Đề bạt và bồi dưỡng nhân sự trở thành lãnh đạo và người làm công là như vậy.
Chúng ta vừa thông công về mấy điều kiện mà nhân tài có kỹ năng hoặc nghiệp vụ phải đáp ứng để được đề bạt và bồi dưỡng, đó là họ phải yêu thích những điều tích cực và có thể tiếp nhận lẽ thật, không lĩnh hội lệch lạc, có thể trung thành thực hiện bổn phận, chịu khổ và trả giá mà không oán trách, và ít nhất là không được hành ác – mấy điều kiện này là thiết yếu đối với những người này. Vậy thì mục đích đề bạt và bồi dưỡng những người này là gì? Tương tự như vậy, đó là để mỗi khi gặp vấn đề trong khi thực hiện bổn phận và làm công tác cụ thể, những người này có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề và làm việc theo nguyên tắc. Trong quá trình rèn luyện bước vào, người ta bất giác sẽ được huấn luyện và đưa vào khuôn phép, được rèn luyện buông bỏ ý định riêng của mình, chỉnh đốn những quan điểm sai lầm và phi lý của người trần thế, buông bỏ một số suy nghĩ ấu trĩ, buông bỏ những định kiến, quan niệm và tưởng tượng về đức tin nơi Đức Chúa Trời, cùng những điều tương tự. Đương nhiên, dù sao đi nữa, quá trình rèn luyện này cũng là để cho phép con người dần dần hiểu lẽ thật, học cách thuận phục và bước vào các thực tế lẽ thật khác nhau. Trong quá trình học hỏi, họ dần dần nắm vững các nguyên tắc lẽ thật, biết được tin Đức Chúa Trời nghĩa là gì, thực hành lẽ thật nghĩa là gì và thực hiện bổn phận của mình nghĩa là gì, cuối cùng, họ dần hiểu được mình nên làm gì thì mới thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, hay mình phải làm sao mới là theo cách mà một người tin Đức Chúa Trời nên làm, v.v. – đây đều là những điều mà con người dần dần bước vào sau khi được đề bạt và bồi dưỡng. Quá trình bước vào dần dần của con người chính là quá trình được bồi dưỡng, và quá trình được bồi dưỡng thực ra là quá trình con người rèn luyện bước vào thực tế lẽ thật. Nhưng nếu ngươi chưa được đề bạt, bồi dưỡng, mà chỉ hoạt động như một tín hữu bình thường, tham dự nhóm họp, đọc lời Đức Chúa Trời, thông công về lẽ thật hoặc học thánh ca, thì khi tin Đức Chúa Trời như vậy, ngươi không thực sự làm được bổn phận của mình với tư cách con người thọ tạo, vì thế ngươi còn lâu mới có thể làm bổn phận đạt tiêu chuẩn. Thậm chí khi làm bổn phận, ngươi còn không rõ những nguyên tắc nào mình nên nắm được, mà chỉ biết nói chút đạo lý và khẩu hiệu. Cho nên, đến giờ ngươi vẫn chưa bước được vào thực tế lẽ thật, và lối vào sự sống của ngươi thì chậm chạp. Tương tự như vậy, mục đích và mục tiêu đề bạt, bồi dưỡng những người làm công tác nghiệp vụ này là để cho họ bước vào thực tế lẽ thật nhanh hơn và có được sự nắm bắt các nguyên tắc lẽ thật tốt hơn, chuẩn xác hơn. Những người có thể nắm bắt các nguyên tắc lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật chính là những nhân tài được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng. Dạng nhân tài này chỉ những ai? Đó là những người mà – trên cơ sở yêu thích những điều tích cực, có thể chịu khổ và trả giá, không lĩnh hội lệch lạc và không phải là kẻ ác – đã hiểu các nguyên tắc lẽ thật và đã bước vào thực tế lẽ thật, có thể thuận phục Đức Chúa Trời cùng sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, và có chút lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Đây chính là loại nhân tài thứ hai mà Ta nói đến. Các yêu cầu đối với họ cũng thực tế, đủ cụ thể và không trừu tượng. Vậy thì loại nhân tài này có được yêu cầu phải là tinh hoa của xã hội, có kinh nghiệm xã hội, bằng cấp nhất định và địa vị xã hội nhất định không? (Thưa, không.) Nhà Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu người ta phải có địa vị xã hội, danh tiếng, bằng cấp hay trình độ học vấn cao – không bao giờ yêu cầu những điều này. Khi đề bạt và bồi dưỡng nhân sự, nhà Đức Chúa Trời cũng không nhìn vào ngoại hình của họ, tức là không xét ngoại hình của họ xấu hay đẹp. Ngoài việc không đề bạt loại người trông như người ngoại đạo, hay những người có ngoại hình gớm ghiếc hoặc tà ác, thì các điều kiện khác là những điều kiện mà chúng ta vừa đề cập – những điều kiện này là thực tế nhất. Khi người ngoại đạo đề bạt nhân sự, đầu tiên họ nhìn vào ngoại hình của người ta; nam giới thì phải đẹp trai, như quan chức, nữ giới thì phải đẹp gái, như nàng tiên. Ngoài ra, họ còn so sánh bằng cấp, địa vị xã hội, nền tảng gia đình và thủ đoạn của người ta. Nếu ngươi có bằng cấp cao nhưng không có thủ đoạn thì cũng không được, ngươi sẽ không bao giờ được đề bạt và không ai xem trọng ngươi. Nếu ngươi có bằng cấp cao và thực tài, nhưng lại không ưa nhìn lắm, không cao ráo, và không biết nịnh nọt hay gần gũi lãnh đạo, thì cả đời ngươi cũng đừng mong người ta đề bạt hay bồi dưỡng mình, và sẽ không ai phát hiện ra ngươi. Cho nên, người ngoại đạo có câu nói này: “Thiên lý mã thường có, Bá Lạc mới không thường có”. Câu này có đúng trong nhà Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Vậy thì thành ngữ “Vàng thật sớm muộn cũng phát sáng” có đúng không? Có đạo lý không? (Thưa, không.) Những người bỡn cợt với đời và không phục ai thường nói điều này. Luôn muốn tỏa sáng – đây là dã tâm của con người. Các loại nhân tài được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng không phải là vàng, họ chỉ là người bình thường. Việc đề bạt và bồi dưỡng mà chúng ta nói đến chỉ là một cách nói; trên thực tế, đó là sự nâng đỡ của Đức Chúa Trời. Ngươi, một con người thọ tạo, có phải là vàng trước Đấng Tạo Hóa không? Ngươi chỉ là hạt bụi, thậm chí còn không phải là đồng hay sắt. Tại sao Ta lại phán rằng ngươi là hạt bụi, chứ không phải là vàng? Con người chẳng có gì đáng khen ngợi cả. Có thể sẽ có người hỏi rằng: “Vậy thì chẳng phải những gì Ngài phán là mâu thuẫn sao? Chẳng phải Ngài vừa phán rằng nếu đạt được điều kiện là yêu thích những điều tích cực, thì người ta có thể được đề bạt sao?”. Là một con người, chẳng phải ngươi nên yêu thích những điều tích cực sao? Nếu ngươi yêu thích một vài điều tích cực thì có vì thế mà ngươi trở thành vàng không? Có vì thế mà ngươi tỏa sáng không? Nếu ngươi yêu thích một vài điều tích cực, thì điều đó có nghĩa rằng ngươi có lẽ thật sao? Chỉ khi có lẽ thật, người ta mới tỏa sáng. Nếu ngươi không có lẽ thật, làm sao có thể nói ngươi tỏa sáng được? Sự thật là con người thọ tạo không hiểu bất kỳ lẽ thật nào. Việc có một chút nhân tính, một chút năng lực và tố chất lĩnh hội lẽ thật không có nghĩa rằng người ta bẩm sinh đã có lẽ thật. Con người không có lẽ thật, và cho dù nhân tính họ có ngay thẳng hay lương thiện đi nữa, thì những điều này cũng không phải là lẽ thật, mà chỉ là những phẩm chất mà nhân tính bình thường nên có. Cho nên, đừng nói đến chuyện tỏa sáng. Vậy thì khi nào người ta có thể tỏa sáng một chút? Khi họ có thể thốt ra những lời của Gióp: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21), khi đó mới có thể nói rằng họ tỏa sáng một chút và sống trong sự sáng. Khi ngươi có thể sử dụng thực tế lẽ thật mà mình có được và lẽ thật mà mình hiểu được để cung ứng, hỗ trợ và dẫn dắt người khác, đưa họ đến trước Đức Chúa Trời và bước vào thực tế lẽ thật, thuận phục Đức Chúa Trời và thờ phượng Đức Chúa Trời, chỉ khi đó, ngươi mới có thể tỏa sáng một chút.
Các loại nhân tài mà nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng không có tài năng xuất chúng siêu nhiên, họ chỉ là những con người bại hoại, bình thường. Chỉ cần họ có thể tiếp nhận lẽ thật, nghe lời, thuận phục, và có tố chất nhất định, thì nhà Đức Chúa Trời sẽ đặc cách mà đề bạt và bồi dưỡng họ. Khi Ta nói đến việc đặc cách mà đề bạt và bồi dưỡng nhân sự, thì đó chính là việc được Đức Chúa Trời nâng đỡ, là cho ngươi cơ hội đến trước Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự dẫn dắt của Ngài, tiếp nhận sự bồi dưỡng và huấn luyện của Ngài, để trong giai đoạn này, ngươi có thể bước vào thực tế lẽ thật nhanh nhất có thể, nắm bắt chuẩn xác các nguyên tắc lẽ thật, thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, và sống với hình tượng giống con người. Đây chính là “nhân tài” mà nhà Đức Chúa Trời nói đến. Dạng người này không hề cao lớn hay đẳng cấp, họ chỉ hiểu lẽ thật và có thực tế lẽ thật, có thể thực hiện bổn phận của mình một cách nghiêm túc và trách nhiệm, có chút lòng thành và có thể trả giá một chút, không làm xằng làm bậy dựa trên quan niệm và tưởng tượng của họ. Khi đặc cách mà đề bạt và bồi dưỡng những người có thể đạt được những điều kiện này, và rèn luyện họ, nhà Đức Chúa Trời làm vậy có phù hợp không? Có ích lợi cho con người không? Vô cùng ích lợi cho con người! Giống như các tín hữu khác, những người được đề bạt và bồi dưỡng cũng tin Đức Chúa Trời, đọc lời Đức Chúa Trời, nghe giảng và làm bổn phận, nhưng so với các tín hữu khác, họ trưởng thành nhanh hơn và thu hoạch được nhiều hơn. Các ngươi thích thu hoạch được nhiều hơn hay chỉ thu hoạch được một chút? (Thưa, thu hoạch được nhiều hơn.) Hầu hết mọi người đều có nguyện vọng này, nghĩa là họ yêu thích những điều tích cực. Đôi khi, Ta thông công với một số nhóm về lối vào sự sống, và khá nhiều người đi nghe, cho thấy hầu hết mọi người đều có khao khát đạt được lẽ thật, và sẵn lòng hiểu lẽ thật nhiều hơn, cũng như sẵn lòng bước vào thực tế lẽ thật. Hồi mới bắt đầu, Ta thông công với một số người, và họ rất tê liệt. Ta nói cả buổi mà họ không phản ứng, thậm chí không mỉm cười chút nào. Sau khi Ta tiếp xúc với họ được một, hai năm, biểu cảm khuôn mặt của hầu hết mọi người đều trở nên tự nhiên hơn và có phản ứng, về sau, phản ứng của họ cũng nhanh hơn một chút. Tức là họ từ người chết biến thành người sống, và linh hồn của họ được thức tỉnh. Điều này đã đạt được bằng cách nào? Nếu con người không hiểu lẽ thật, thì cho dù họ có yêu thích những điều tích cực thế nào, cho dù thông minh và có đầu óc đến đâu, họ vẫn là người chết. Có những người, xuất phát điểm thì ngốc nghếch và trì độn, ngoài thế tục không ai xem trọng, cũng không có học thức hay hiểu biết cho lắm. Nhưng sau khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ có thể hiểu nhiều lẽ thật và thấy rõ nhiều điều, sau đó sống thể hiện ra hình tượng giống con người, qua đó trở thành người sống. “Người sống” nghĩa là gì? Nó không phải là thể xác của ngươi còn sống hay đã chết, cũng không phải là liệu cơ thể ngươi có thể cử động hoặc hít thở hay không, mà là liệu linh hồn ngươi có ý thức được và nhạy cảm với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật hay không. Người sống phản ứng với lẽ thật và với lời Đức Chúa Trời. Sau khi nghe lời Đức Chúa Trời, họ có ý thức, con đường, kế hoạch và mục tiêu. Người chết không có những biểu hiện này. Cho nên, ai được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng thì sẽ thu hoạch được tương đối nhiều hơn. Vậy những người không có những điều kiện này và không được đề bạt hoặc bồi dưỡng thì làm thế nào để có thể thu hoạch đủ? Làm thế nào để có thể nhanh chóng bước vào thực tế lẽ thật? Họ phải học cách thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, hiểu được nhiều lẽ thật, và có thể áp dụng lẽ thật để phân định con người và giải quyết vấn đề – khi đó, họ mới có thể bước vào thực tế lẽ thật.
Có một số người nói rằng: “Nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài và cho phép họ bước vào thực tế lẽ thật nhanh nhất có thể, vậy thì chẳng lẽ những người không có tài không thể bước vào thực tế lẽ thật sao?”. Nói thế có đúng không? (Thưa, không đúng.) Vậy có phải là sau khi thông công về chủ đề này, có những người trở nên hào hứng, trong khi có những người chán nản và thất vọng không? Mọi người nên nhìn nhận như thế này: những người đã được đề bạt và bồi dưỡng thì cũng đừng kiêu căng, ngươi không có gì để khoe khoang cả, đây là ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời ban cho ngươi nhiều hơn, Ngài cũng yêu cầu ngươi cống hiến nhiều hơn. Nếu nhà Đức Chúa Trời đặc cách mà đề bạt và bồi dưỡng ngươi, thì có nghĩa rằng ngươi cần phải trả giá cao hơn. Nếu ngươi có thể chịu được sự khổ cực này, thì đương nhiên ngươi sẽ thu hoạch được nhiều hơn. Nếu ngươi nói: “Con không sẵn lòng chịu đựng sự khổ cực này”, thì ngươi sẽ không đạt được lẽ thật, cũng không có được phước lành của Đức Chúa Trời. Có một số người nói rằng: “Con muốn có nhưng lại không có được, bởi vì nhà Đức Chúa Trời không đặc cách mà đề bạt và bồi dưỡng con. Con cũng không có đủ điều kiện”. Nếu ngươi không có đủ điều kiện thì cũng không sao cả. Chỉ cần ngươi mưu cầu lẽ thật và nỗ lực hướng tới lẽ thật, thì Đức Chúa Trời sẽ không đối đãi bất công với ngươi. Những người được đề bạt và bồi dưỡng này có thể được ưu tiên bước vào thực tế lẽ thật đơn giản là vì tố chất và do các điều kiện khác nhau của họ. Tuy nhiên, sự ưu tiên này không có nghĩa rằng họ là những người duy nhất có thể bước vào thực tế lẽ thật. Chẳng qua là họ có thể được ưu tiên thu hoạch nhiều hơn một chút, và có thể bước vào thực tế lẽ thật sớm hơn một chút. Những người chưa được đề bạt sẽ tụt lại sau họ một chút, nhưng không có nghĩa rằng họ không thể bước vào thực tế lẽ thật. Việc người ta có thể bước vào thực tế lẽ thật hay không tùy thuộc vào sự mưu cầu của họ. Những người được đề bạt và bồi dưỡng này có thể nắm được các nguyên tắc lẽ thật nhanh hơn và bước vào thực tế lẽ thật nhanh hơn trong quá trình bồi dưỡng, điều này có lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Vì thế, việc đề bạt và bồi dưỡng những người được phát hiện thấy là có tố chất tốt và yêu thích lẽ thật là đúng đắn. Ai có thể phát hiện thấy những người này và đề bạt, bồi dưỡng họ, mà không ghen tị với họ hoặc chèn ép họ, thay vào đó là trân trọng họ, thì người đó quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Trái lại, nếu có những người ghen tị và lo lắng rằng những người này giỏi hơn mình và vượt mặt mình, vì thế bài xích và chèn ép họ, thì đây rõ ràng là việc ác, là việc mà những kẻ địch lại Đấng Christ thường làm. Chỉ có kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ mới có thể tấn công và bài xích các anh chị em.
Nhận thức và thái độ mà con người nên có đối với việc đề bạt và bồi dưỡng nhân sự của nhà Đức Chúa Trời
Những gì chúng ta vừa thông công là mục đích của nhà Đức Chúa Trời khi đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài. Bất kể đối tượng được đề bạt và bồi dưỡng làm loại công tác nào – dù là công tác kỹ thuật, công tác bình thường hay công tác sự vụ của hội thánh – thì tóm lại, tất cả đều là để họ hiểu được các nguyên tắc lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, để họ nhanh chóng có thể thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn và thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời – đây là những gì Đức Chúa Trời yêu cầu con người, và đương nhiên cũng là những gì cần thiết cho công tác của hội thánh. Bây giờ, các ngươi đã hiểu được ý nghĩa của việc nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài chưa? Còn bất kỳ sự hiểu lầm nào không? (Thưa, không.) Có người nói rằng: “Bây giờ người ta đã được đề bạt làm lãnh đạo, và có địa vị, họ không còn là người bình thường nữa”. Nói vậy đúng hay sai? (Thưa, sai.) Lại có người nói rằng: “Những người làm lãnh đạo thì có địa vị rồi, nhưng trên đỉnh thì cô đơn. Leo càng cao, ngã càng đau!”. Nói vậy đúng hay sai? Rõ ràng là sai. Câu nói “Leo càng cao, ngã càng đau” nói đến những người nào? Nó nói đến những người có dã tâm và dục vọng, nói đến những kẻ địch lại Đấng Christ. Khi những người mưu cầu lẽ thật trở thành lãnh đạo, thì không phải là leo cao – mà là Đức Chúa Trời phá lệ nâng đỡ họ, là phước lành của Đức Chúa Trời đặt gánh trọng trách này lên vai họ và cho phép họ làm công tác lãnh đạo. “Leo càng cao, ngã càng đau” là một kết luận mà người ngoại đạo rút ra, mô tả hậu quả của việc người ngoại đạo mưu cầu con đường làm quan. Những người không tin đó không có sự phân định và áp dụng câu nói này vào những người tích cực, đó là một sai lầm nghiêm trọng. Còn có những người nói rằng: “Anh ta sinh ra ở vùng nông thôn, bây giờ trở thành lãnh đạo hội thánh, đúng là quạ hóa phượng hoàng”. Nói vậy đúng hay sai? Đây là những lời ma quỷ của người ngoại đạo, không thể áp dụng cho dân được Đức Chúa Trời chọn. Trong nhà Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ban phước cho những người mưu cầu lẽ thật, những người trung thực, những người có tấm lòng lương thiện, và những người bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Một khi những người này hiểu lẽ thật và có được chút vóc giạc, sớm muộn gì họ cũng sẽ được đề bạt để được bồi dưỡng và rèn luyện, để thay thế những kẻ là lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Trong nhà Đức Chúa Trời, những người tích cực đã trải qua nhiều sự thử luyện, kiểm tra, và luôn bảo vệ công tác của Đức Chúa Trời, là những người được Đức Chúa Trời khen ngợi, dùng lời ma quỷ của người ngoại đạo để mô tả những người này là không phù hợp. Cho nên, những người luôn sử dụng lời ma quỷ của người ngoại đạo để mô tả những chuyện trong nhà Đức Chúa Trời và để bày tỏ quan điểm riêng của họ là những người không hiểu lẽ thật và có quan điểm phi lý về mọi sự. Quan điểm của họ về mọi sự không hề thay đổi, vẫn là những quan điểm của người ngoại đạo; họ đã tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi mà vẫn chưa đạt được bất kỳ lẽ thật nào, cũng không thể nhìn nhận mọi sự theo lời Đức Chúa Trời – vậy thì những người này chính là người không tin và người ngoại đạo. Khi ai đó được đề bạt làm lãnh đạo hoặc người làm công, hoặc được bồi dưỡng để đảm nhiệm vai trò người phụ trách của một công tác đòi hỏi kỹ thuật nào đó, thì đó chẳng qua là nhà Đức Chúa Trời giao phó một trọng trách cho họ mà thôi. Đây là sự ủy nhiệm, trách nhiệm, và dĩ nhiên, cũng là bổn phận đặc biệt, một cơ hội đặc biệt; đây là sự nâng đỡ đặc cách, và người này chẳng có gì để khoe khoang cả. Khi ai đó được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng, điều đó không có nghĩa là họ có thân phận và địa vị đặc biệt trong nhà Đức Chúa Trời, không có nghĩa là họ có thể hưởng thụ đãi ngộ và ưu ái đặc biệt. Mà thay vào đó, sau khi được nhà Đức Chúa Trời phá lệ nâng đỡ, thì họ có điều kiện tốt hơn để tiếp nhận sự huấn luyện của nhà Đức Chúa Trời, rèn luyện một số công tác thực chất của hội thánh, đồng thời yêu cầu và tiêu chuẩn của nhà Đức Chúa Trời đối với những người đó sẽ cao hơn một chút, điều này là rất có lợi cho lối vào sự sống của con người. Khi một người được đề bạt và bồi dưỡng trong nhà Đức Chúa Trời, điều này nghĩa là họ sẽ được yêu cầu và giám sát một cách nghiêm nhặt. Nhà Đức Chúa Trời sẽ kiểm tra và đôn đốc nghiêm ngặt công tác họ làm, cũng sẽ tìm hiểu và chú ý đến lối vào sự sống của cá nhân họ. Từ những góc độ này, liệu những người được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng có được hưởng đãi ngộ đặc biệt, địa vị đặc biệt và thân phận đặc biệt không? Hoàn toàn không, và họ càng không hưởng được bất kỳ danh phận đặc biệt nào. Đối với những người được đề bạt và bồi dưỡng, nếu họ cảm thấy có vốn liếng do thực hiện bổn phận có phần hiệu quả, và vì thế mà đình trệ và ngưng mưu cầu lẽ thật, thì khi gặp phải những sự thử luyện và hoạn nạn, họ vẫn sẽ gặp nguy hiểm. Khi vóc giạc quá nhỏ, con người sẽ khó đứng vững. Có người nói: “Nếu ai đó được đề bạt và bồi dưỡng làm lãnh đạo, thì họ có danh phận. Ngay cả khi họ không phải là con trai đầu lòng thì chí ít họ cũng có hy vọng trở thành dân của Đức Chúa Trời. Tôi chưa bao giờ được đề bạt hay bồi dưỡng, như vậy thì chẳng phải tôi không còn hy vọng làm dân của Đức Chúa Trời nữa rồi sao?”. Nghĩ theo cách này là sai lầm. Để trở thành dân của Đức Chúa Trời, các ngươi phải có trải nghiệm sự sống, và các ngươi buộc phải là người thuận phục Đức Chúa Trời. Dù các ngươi có là lãnh đạo, người làm công, hay một người đi theo bình thường, thì bất cứ ai sở hữu thực tế lẽ thật cũng đều là dân của Đức Chúa Trời. Ngay cả khi các ngươi là lãnh đạo hay người làm công, nhưng nếu thiếu thực tế lẽ thật, các ngươi vẫn là một người đem sức lực phục vụ. Thực ra, chẳng có gì đặc biệt về những người được đề bạt và bồi dưỡng cả. Điều duy nhất khác biệt với những người khác là họ có môi trường thuận lợi hơn, có những cơ hội thuận lợi hơn, và có những điều kiện tốt hơn để làm các công tác cụ thể liên quan đến những nguyên tắc lẽ thật. Cho dù hầu hết công tác ngươi làm đều liên quan đến một nghiệp vụ cụ thể, nhưng nếu không có các nguyên tắc lẽ thật để quy phạm và kiểm định, thì bổn phận ngươi làm sẽ không hợp nguyên tắc, và ngươi chỉ đang đem sức lực phục vụ, chắc chắn sẽ không được Đức Chúa Trời khen ngợi. Các yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời đối với các loại nhân tài được đề bạt và bồi dưỡng là gì? Để được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng, ít nhất họ phải là người có lương tâm và lý trí, là người có thể tiếp nhận lẽ thật, là người trung thành thực hiện bổn phận, là người có thể thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, và ít nhất họ phải có thể tiếp nhận và thuận phục khi đối mặt với sự tỉa sửa. Hiệu quả đạt được bởi những người trải qua sự bồi dưỡng và huấn luyện của nhà Đức Chúa Trời không phải là họ có thể trở thành quan hoặc sếp, hay người dẫn đầu, cũng không phải là họ có thể làm công tác tư tưởng với mọi người, và đương nhiên, càng không phải là họ có kỹ năng nghiệp vụ tốt hơn hay trình độ học vấn cao hơn, hoặc danh tiếng tốt hơn, hoặc có thể sánh với những người nổi tiếng trên thế giới về kỹ năng nghiệp vụ hay kỳ tích chính trị. Thay vào đó, hiệu quả đạt được là họ hiểu được lẽ thật và sống thể hiện ra lời Đức Chúa Trời, đồng thời họ là người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Khi rèn luyện, họ có thể hiểu lẽ thật và nắm được các nguyên tắc lẽ thật, biết rõ hơn thực sự thì tin Đức Chúa Trời là gì và biết cách đi theo Đức Chúa Trời – điều này vô cùng có lợi cho những người mưu cầu lẽ thật để được hoàn thiện. Đây chính là hiệu quả và tiêu chuẩn mà nhà Đức Chúa Trời mong muốn đạt được khi đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài, cũng như là thu hoạch to nhất mà những người được đề bạt và sử dụng gặt hái được.
Một số người thực hiện bổn phận của mình tương đối có trách nhiệm và được dân được Đức Chúa Trời chọn chấp thuận, vì vậy họ được hội thánh bồi dưỡng để trở thành lãnh đạo hoặc người làm công. Sau khi đạt được địa vị, họ bắt đầu cảm thấy mình khác với mọi người và thầm nghĩ: “Tại sao nhà Đức Chúa Trời lại chọn tôi? Chẳng phải vì tôi giỏi hơn tất cả các người sao?”. Đây có phải lời nói của một đứa trẻ không? Nó ấu trĩ, buồn cười, và không hiểu chuyện. Thực ra, ngươi không giỏi hơn những người khác một chút nào cả. Chỉ là ngươi sở hữu những điều kiện cần thiết để được bồi dưỡng bởi nhà Đức Chúa Trời. Việc ngươi có gánh vác được trách nhiệm này hay không, có làm tốt bổn phận này hay không, có hoàn thành được sự ủy nhiệm này hay không thì còn chưa chắc. Khi một người nào đó được các anh chị em bầu làm lãnh đạo, hoặc được nhà Đức Chúa Trời đề bạt làm một công tác nhất định hay thực hiện một bổn phận nhất định, điều này không có nghĩa là họ có một địa vị hay thân phận đặc biệt, hoặc rằng những lẽ thật mà họ hiểu thì sâu hơn và nhiều hơn của những người khác – càng không có nghĩa là người này có thể thuận phục Đức Chúa Trời và sẽ không phản bội Ngài. Đương nhiên nó cũng không có nghĩa là họ biết Đức Chúa Trời và là người kính sợ Đức Chúa Trời. Trên thực tế, họ chưa đạt được điều nào trong số này. Đây chỉ là sự đề bạt và bồi dưỡng theo nghĩa đơn giản, và không tương đương với việc họ được Đức Chúa Trời chỉ định trước hay chấp thuận. Sự đề bạt và bồi dưỡng của họ đơn thuần có nghĩa là họ đã được đề bạt, và đang chờ đợi sự bồi dưỡng. Và kết quả cuối cùng của sự bồi dưỡng này phụ thuộc vào việc người này có thể mưu cầu lẽ thật hay không, và liệu họ có thể chọn con đường mưu cầu lẽ thật hay không. Do vậy, khi một người nào đó trong hội thánh được đề bạt và bồi dưỡng để làm lãnh đạo, đây chỉ là sự đề bạt và bồi dưỡng theo nghĩa đơn giản nhất; nó không có nghĩa họ đã là một lãnh đạo xứng với chức vụ và đạt tiêu chuẩn, hay là họ đã có khả năng đảm nhận công tác của một lãnh đạo, và họ có thể thực hiện công tác thực tế – không phải vậy. Hầu hết mọi người đều không nhìn thấy rõ những điều này, và họ coi trọng những người được đề bạt này dựa vào tưởng tượng của mình, đây là một sai lầm. Cho dù những người được đề bạt có thể đã có đức tin bao nhiêu năm đi nữa, họ có thực sự sở hữu thực tế lẽ thật không? Chưa chắc. Liệu họ có thể triển khai sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời không? Không hẳn. Họ có ý thức trách nhiệm không? Họ có lòng trung thành không? Họ có thể thuận phục Đức Chúa Trời không? Khi gặp một vấn đề, họ có thể tìm kiếm lẽ thật không? Đây đều là ẩn số. Người này có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không? Và chính xác thì lòng kính sợ Đức Chúa Trời của họ lớn đến mức nào? Khi làm việc, liệu họ có làm theo ý mình không? Họ có thể tìm kiếm Đức Chúa Trời không? Trong thời gian thực hiện công tác lãnh đạo, họ có thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm tâm ý của Ngài không? Họ có thể dẫn dắt con người bước vào thực tế lẽ thật không? Chắc chắn là họ chưa làm được những điều này. Họ chưa được huấn luyện và có quá ít trải nghiệm, do đó họ không có khả năng làm những việc này. Đây là lý do tại sao việc đề bạt và bồi dưỡng ai đó không có nghĩa là họ đã hiểu lẽ thật, cũng không tương đương với việc họ đã có khả năng thực hiện bổn phận của mình một cách đạt tiêu chuẩn. Vậy mục đích và ý nghĩa của việc đề bạt và bồi dưỡng một ai đó là gì? Đó là một người như vậy, với tư cách là một cá nhân, được đề bạt để được rèn luyện, được chăm tưới và huấn luyện đặc biệt, khiến họ có thể hiểu được các nguyên tắc lẽ thật, hiểu được các nguyên tắc, phương thức, phương pháp để làm những chuyện khác nhau và giải quyết những vấn đề khác nhau, cũng như khi gặp nhiều loại môi trường và con người khác nhau, họ sẽ biết cách xử lý và giải quyết phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, và theo cách bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Xét từ những điểm này, liệu nhân tài được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng có đủ khả năng đảm nhận công tác và làm tốt bổn phận của họ trong thời gian được đề bạt và bồi dưỡng hoặc trước khi được đề bạt và bồi dưỡng không? Dĩ nhiên là không. Vì vậy, không thể tránh khỏi rằng, trong thời gian được bồi dưỡng, những người này sẽ trải nghiệm việc bị tỉa sửa, bị phán xét và hành phạt, vạch trần và thậm chí thay thế; đây là chuyện bình thường. Đó gọi là bồi dưỡng và huấn luyện. Mọi người không được có những kỳ vọng cao hay đòi hỏi không thực tế với những người được đề bạt và bồi dưỡng, đây đều là những chuyện không hợp lý và không công bằng đối với họ. Các ngươi có thể giám sát công tác của họ, và nếu phát hiện ra những vấn đề hoặc những điều vi phạm nguyên tắc trong quá trình công tác của họ, ngươi có thể nêu ra vấn đề và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Điều ngươi không được làm là xét đoán, lên án, tấn công hoặc bài xích họ, bởi vì họ chỉ đang trong thời gian được bồi dưỡng. Các ngươi không nên xem họ như những người đã được làm cho hoàn thiện, càng không nên xem họ như những người trọn vẹn, hoặc như những người có thực tế lẽ thật. Họ giống như các ngươi, đều đang ở trong giai đoạn được rèn luyện. Điểm khác biệt là họ đảm nhận nhiều công tác và trách nhiệm hơn những người bình thường. Họ có trách nhiệm và nghĩa vụ làm nhiều công tác hơn, trả nhiều cái giá hơn, chịu nhiều đau khổ hơn, bận lòng nhiều hơn, giải quyết nhiều vấn đề hơn, chịu đựng sự chỉ trích của nhiều người hơn, và dĩ nhiên là phải nỗ lực nhiều hơn, ngủ ít hơn, ít hưởng thụ những thứ đồ tốt hơn, và ít tham gia nói chuyện phiếm hơn người làm bổn phận bình thường. Đây là điều đặc biệt về họ. Ngoài điều đó ra thì họ cũng giống như những người khác. Ta nói điều này là có ý gì? Là để nói với tất cả mọi người rằng họ phải đối đãi một cách đúng đắn với các loại nhân tài mà nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng, không được khắt khe trong những đòi hỏi của họ đối với những người này. Đương nhiên, mọi người cũng không được có cách nhìn nhận không phù hợp thực tế đối với những người này. Coi trọng hoặc ngưỡng vọng họ một cách quá đáng, như vậy là ngu xuẩn. Còn yêu cầu khắt khe một cách quá đáng đối với họ, như vậy cũng là không nhân đạo, không phù hợp thực tế. Vậy cách hợp lý nhất để đối đãi với họ là gì? Hãy nghĩ về họ như những người bình thường và khi có vấn đề cần tìm kiếm, hãy thông công với họ và học hỏi từ những điểm mạnh của nhau và bổ khuyết cho nhau. Ngoài ra, mọi người có trách nhiệm giám sát xem các lãnh đạo và người làm công có đang làm công tác thực tế hay không, liệu họ có sử dụng lẽ thật để giải quyết các vấn đề hay không; đây là những tiêu chuẩn và nguyên tắc để đánh giá xem liệu một lãnh đạo hay người làm công có đạt tiêu chuẩn hay không. Nếu lãnh đạo và người làm công có khả năng xử lý và giải quyết các vấn đề chung thì họ có năng lực. Nhưng nếu họ thậm chí không thể xử lý và khắc phục các vấn đề thông thường, thì họ không thể đảm nhiệm vai trò lãnh đạo hay người làm công, và phải nhanh chóng bị cách chức. Phải chọn người khác, đừng trì hoãn công tác của nhà Đức Chúa Trời. Trì hoãn công tác của nhà Đức Chúa Trời là hại người hại mình, điều đó không tốt cho ai cả.
Một số người được hội thánh đề bạt và bồi dưỡng, nhận được cơ hội tốt để được rèn luyện. Đây là chuyện tốt. Có thể nói họ đã được Đức Chúa Trời nâng đỡ và ân đãi. Vậy thì rốt cuộc họ nên thực hiện bổn phận của mình như thế nào? Nguyên tắc đầu tiên mà họ nên tuân thủ là hiểu lẽ thật. Khi không hiểu lẽ thật, họ phải tìm kiếm lẽ thật, nếu tự mình tìm kiếm mà vẫn không hiểu được thì họ có thể tìm một người hiểu lẽ thật để thông công và tìm kiếm cùng, điều này sẽ giúp giải quyết vấn đề nhanh hơn và kịp thời hơn. Nếu ngươi chỉ chú trọng vào việc tự mình đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn, và suy ngẫm nhiều hơn về lời Đức Chúa Trời, đạt đến mức hiểu lẽ thật rồi từ đó giải quyết vấn đề, thì điều này là quá chậm; như câu nói: “Nước xa không cứu được lửa gần”. Khi nói đến lẽ thật, nếu muốn tiến bộ nhanh chóng thì ngươi buộc phải học cách phối hợp hài hòa với những người khác, đặt nhiều câu hỏi hơn và tìm kiếm nhiều hơn. Chỉ khi đó, sự sống của ngươi mới tiến bộ nhanh chóng, và ngươi mới có thể giải quyết các vấn đề kịp thời, mà không bị chậm trễ ở khoản nào cả. Bởi vì ngươi chỉ mới được đề bạt và vẫn đang trong thời gian thử việc, chứ không phải là ngươi đã thực sự hiểu lẽ thật hoặc có thực tế lẽ thật, ngươi vẫn còn chưa có vóc giạc như vậy. Vì thế, đừng tưởng rằng được đề bạt có nghĩa là ngươi có thực tế lẽ thật; không phải như vậy. Chỉ là vì ngươi mang gánh trọng trách đối với công tác và có tố chất của một lãnh đạo nên mới được chọn để đề bạt và bồi dưỡng. Ngươi nên có lý trí này. Nếu sau khi được đề bạt làm lãnh đạo hay người làm công thì ngươi bắt đầu khẳng định vị trí của mình, cảm thấy mình là người mưu cầu lẽ thật, có thực tế lẽ thật, và nếu bất kể anh chị em gặp vấn đề gì, ngươi cũng giả vờ rằng mình hiểu, giả vờ thuộc linh, thì đây là một cách làm ngu xuẩn, cùng một đức tính như của những người Pha-ri-si giả hình. Ngươi phải nói và hành động trung thực. Khi ngươi không hiểu, ngươi có thể hỏi người khác hoặc tìm kiếm câu trả lời cũng như sự thông công từ Bề trên – không có gì đáng xấu hổ trong những việc này cả. Ngay cả khi ngươi không hỏi, Bề trên vẫn sẽ biết vóc giạc thực sự của ngươi và cũng sẽ biết rằng ngươi không có thực tế lẽ thật. Tìm kiếm và thông công là những gì ngươi phải làm; đây là lý trí cần có ở nhân tính bình thường, cũng là nguyên tắc cần được tuân thủ bởi các lãnh đạo và người làm công. Làm như vậy không hề đáng xấu hổ. Nếu nghĩ rằng mình đã làm lãnh đạo mà còn không hiểu nguyên tắc, còn phải luôn hỏi người khác hoặc hỏi Bề trên, như vậy thì quá mất mặt, sợ người khác không coi mình ra gì, rồi sau đó giả vờ rằng mình hiểu tất, biết tất, giả vờ rằng mình có năng lực công tác, rằng mình có thể làm bất kỳ công tác nào của hội thánh, và không cần bất cứ ai nhắc nhở hay thông công, không cần bất cứ ai cung ứng hoặc hỗ trợ, như vậy là rất nguy hiểm. Như vậy thật quá kiêu ngạo và tự nên công chính, quá thiếu lý trí! Ngươi thậm chí không biết giới hạn của chính mình – và chẳng phải điều này khiến ngươi trở thành một kẻ hồ đồ sao? Những kẻ như vậy thực sự không đủ điều kiện để được đề bạt, bồi dưỡng bởi nhà Đức Chúa Trời, và sớm muộn gì cũng sẽ bị cách chức và đào thải. Cho nên, phàm là lãnh đạo hoặc người làm công vừa được đề bạt thì đều nên biết rõ rằng mình không có thực tế lẽ thật, họ nên có sự tự biết mình này. Bây giờ, ngươi là lãnh đạo hoặc người làm công không phải bởi vì ngươi được Đức Chúa Trời bổ nhiệm, mà bởi vì ngươi được các lãnh đạo và người làm công khác đề bạt, hoặc ngươi được chọn ra bởi dân được Đức Chúa Trời chọn; điều đó không có nghĩa rằng ngươi có thực tế lẽ thật và vóc giạc thực sự. Khi hiểu điều này, ngươi sẽ có một chút lý trí, đây là lý trí mà lãnh đạo và người làm công buộc phải có. Bây giờ các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, rồi.) Vậy rốt cuộc thì các ngươi nên làm công tác như thế nào? Các ngươi nên thực hành việc phối hợp hài hòa như thế nào? Mỗi khi gặp vấn đề, các ngươi nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết như thế nào? Các ngươi buộc phải hiểu được những điều này. Nếu những tâm tính bại hoại bộc lộ thì hãy nhanh chóng tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Nếu chúng không được giải quyết kịp thời và ảnh hưởng đến công tác, thì đây là vấn đề. Nếu không quen thuộc lắm với kiến thức nghiệp vụ, thì ngươi cũng phải nhanh chóng học hỏi. Bởi vì một số bổn phận đòi hỏi phải có kiến thức nghiệp vụ, nếu ngươi chỉ hiểu lẽ thật mà không nắm được chút kiến thức nghiệp vụ nào, nó cũng sẽ ảnh hưởng đến kết quả công tác của ngươi. Ít nhất, ngươi cũng phải nắm và hiểu được kiến thức nghiệp vụ cơ bản, như vậy thì việc theo dõi và chỉ dẫn công tác cho người khác mới có hiệu quả. Nếu ngươi chỉ thành thạo nghiệp vụ mà không hiểu lẽ thật, thì trong công tác của ngươi cũng sẽ có những khiếm khuyết, cho nên ngươi cũng cần phải mưu cầu lẽ thật và phối hợp với những người hiểu lẽ thật, như vậy thì mới có thể làm tốt bổn phận của mình. Chỉ bởi vì ngươi thành thạo kỹ năng nghiệp vụ hoặc một lĩnh vực tri thức nào đó không có nghĩa rằng ngươi có thể làm việc có nguyên tắc, nên điều thiết yếu là phải tìm kiếm mối thông công với những người hiểu lẽ thật – đây là một nguyên tắc mà các ngươi phải tuân thủ. Tuyệt đối không được giả vờ. Ngươi đang ở trong giai đoạn được huấn luyện và bồi dưỡng, ngươi có tâm tính bại hoại, và ngươi không hiểu lẽ thật chút nào. Nói Ta nghe, Đức Chúa Trời có biết những điều này không? (Thưa, có.) Vậy nếu ngươi giả vờ, chẳng phải trông ngươi sẽ ngu xuẩn sao? Các ngươi có muốn là kẻ ngu xuẩn không? (Thưa, chúng con không.) Nếu không muốn là kẻ ngu xuẩn thì các ngươi nên là người như thế nào? Hãy là người có lý trí, là người có thể khiêm nhường tìm kiếm lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật. Đừng giả vờ, đừng là người Pha-ri-si giả hình. Những gì ngươi biết chỉ là chút kiến thức nghiệp vụ, chứ không phải là các nguyên tắc lẽ thật. Ngươi phải tìm cách phát huy thế mạnh nghiệp vụ của mình và tri thức, học vấn mà mình nắm được một cách thỏa đáng trên cơ sở hiểu các nguyên tắc lẽ thật. Đây chẳng phải là nguyên tắc sao? Đây chẳng phải là con đường thực hành sao? Một khi học được cách làm này, ngươi sẽ có con đường để đi theo và ngươi sẽ có thể bước vào thực tế lẽ thật. Tuyệt đối đừng ương bướng, cũng đừng giả vờ. Ương bướng và giả vờ đều không phải là cách làm có lý tính, mà đó là cách làm ngu xuẩn nhất. Người sống theo tâm tính bại hoại của mình là kẻ ngu xuẩn nhất. Chỉ có người tìm kiếm lẽ thật và làm việc theo các nguyên tắc lẽ thật mới là người thông minh nhất.
Thông qua mối thông công này, bây giờ các ngươi đã có sự lĩnh hội và cái nhìn đúng đắn về việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài của nhà Đức Chúa Trời chưa? (Thưa, rồi.) Có cái nhìn đúng đắn về việc này rồi thì các ngươi có thể đối đãi với những người này một cách đúng đắn được không? Các ngươi phải có cách tiếp cận đúng đắn đối với điểm mạnh của họ, cũng như đối với điểm yếu và khiếm khuyết của họ về mặt nhân tính, công tác, nghiệp vụ và nhiều khía cạnh khác – hết thảy những điều này đều được phải tiếp cận một cách đúng đắn. Ngoài ra, bất luận là được đề bạt và bồi dưỡng làm lãnh đạo, người làm công hay là nhân tài trong các mảng nghiệp vụ, thì hết thảy các ngươi cũng đều là người bình thường, đều bị Sa-tan làm bại hoại, và không ai hiểu lẽ thật cả. Cho nên, đừng ai giả vờ hoặc che đậy mình; thay vào đó, nên học mở lòng mình khi thông công. Nếu không hiểu thì thừa nhận là không hiểu, nếu không biết cách làm thì thừa nhận là không biết cách làm. Cho dù vấn đề hay khó khăn nào nảy sinh, tất cả mọi người đều nên thông công và tìm kiếm lẽ thật cùng nhau để giải quyết chúng. Trước lẽ thật, mỗi con người đều như đứa trẻ, mỗi con người đều nghèo nàn, đáng thương và trắng tay. Những gì con người cần làm chính là thuận phục trước lẽ thật, có tấm lòng khiêm nhường và khao khát, tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật, sau đó thực hành lẽ thật và đạt đến sự thuận phục Đức Chúa Trời. Bằng cách làm như vậy, con người có thể bước vào thực tế lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời trong khi thực hiện bổn phận cũng như trong đời sống thực tế của họ. Mọi người đều bình đẳng trước lẽ thật. Những người được đề bạt và bồi dưỡng không giỏi gì hơn những người khác. Tất cả mọi người đều trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong cùng một khoảng thời gian như nhau. Những người chưa được đề bạt hay bồi dưỡng cũng nên mưu cầu lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận của mình. Không ai được tước bỏ quyền mưu cầu lẽ thật của người khác. Một số người hăng hái hơn trong việc mưu cầu lẽ thật và có chút tố chất, vì vậy họ được đề bạt và bồi dưỡng. Điều này là do những yêu cầu công tác của nhà Đức Chúa Trời. Vậy tại sao nhà Đức Chúa Trời lại dùng nguyên tắc này trong việc đề bạt và sử dụng nhân sự? Bởi vì tố chất và phẩm chất nhân tính của mỗi loại người thì khác nhau, và mỗi người chọn một con đường khác nhau, điều này dẫn đến các kết quả khác nhau trong đức tin của con người nơi Đức Chúa Trời. Những ai mưu cầu lẽ thật thì được cứu rỗi và trở thành dân của vương quốc, trong khi những người hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật, những người không có lòng trung thành khi làm bổn phận thì bị đào thải. Việc nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng và dùng người được quyết định dựa trên việc họ có mưu cầu lẽ thật hay không, và dựa trên việc họ có trung thành làm bổn phận hay không. Có sự phân biệt trong thứ bậc của những người khác nhau trong nhà Đức Chúa Trời không? Tạm thời thì không có thứ bậc nào về thân phận, giá trị, địa vị hoặc danh phận của những loại người khác nhau. Ít nhất là trong giai đoạn Đức Chúa Trời công tác để cứu rỗi và dẫn dắt con người, không có sự khác biệt giữa cấp bậc, thân phận, giá trị hoặc địa vị của những người khác nhau. Những điểm khác biệt duy nhất là nằm ở sự phân chia công tác và ở các vai trò trong bổn phận. Tất nhiên, trong giai đoạn này, một số người ngoại lệ được đề bạt, bồi dưỡng, và thực hiện một số công tác đặc biệt, trong khi một số người thì không nhận được những cơ hội như vậy do các lý do khác nhau như các vấn đề trong tố chất hoặc hoàn cảnh gia đình của họ. Nhưng có phải Đức Chúa Trời không cứu rỗi những người chưa nhận được những cơ hội như vậy không? Không phải là như vậy. Chẳng lẽ giá trị và thân phận của họ lại thấp hơn những người khác một bậc sao? Không. Mọi người đều bình đẳng trước lẽ thật, mọi người đều có cơ hội mưu cầu và đạt được lẽ thật, và Đức Chúa Trời đối đãi với mọi người một cách công bằng và hợp lý. Tới khi nào thì có sự khác biệt rõ ràng về thân phận, giá trị và địa vị của mọi người? Đó là khi mọi người đã đi đến cuối con đường của mình, công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, và cuối cùng, khi một kết luận được hình thành về thái độ và quan điểm mà mỗi người thể hiện trong quá trình mưu cầu sự cứu rỗi, trong quá trình làm bổn phận, cũng như về những biểu hiện và thái độ khác nhau của họ đối với Đức Chúa Trời – tức là khi có một bản ghi chép hoàn chỉnh trong sổ của Đức Chúa Trời – khi đó, bởi vì kết cục và đích đến của mọi người sẽ khác nhau, nên cũng sẽ có sự khác biệt về giá trị, thân phận và địa vị của họ. Chỉ khi đó, hết thảy mọi sự mới được xem qua và xác định tương đối, còn bây giờ, tất cả mọi người đều như nhau. Các ngươi đã hiểu chưa? Các ngươi có mong đến ngày đó không? Các ngươi có vừa mong, vừa sợ không? Điều ngươi mong là vào ngày đó, cuối cùng sẽ có kết quả, và bản thân đã chẳng dễ dàng gì mới đi đến được ngày đó; còn điều ngươi sợ là ngươi sẽ không đi tốt, ngươi vấp ngã dọc đường và thất bại, và kết cục cuối cùng sẽ không được như ý, tệ hơn ngươi tưởng tượng và mong đợi – như vậy sẽ thật buồn bã, đau lòng và thất vọng biết mấy! Đừng nghĩ xa như vậy, nghĩ xa như vậy không thực tế. Đầu tiên, hãy nhìn vào những gì trước mắt ngươi, đi cho tốt con đường dưới chân ngươi, làm cho tốt việc trong tay ngươi, và làm tròn bổn phận, trách nhiệm mà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi. Đây mới là những điều mấu chốt nhất và quan trọng nhất. Hãy hiểu lẽ thật và các nguyên tắc làm bổn phận cần phải hiểu lúc này, thông công về chúng cho đến khi hoàn toàn sáng tỏ, đạt đến mức thông tỏ về chúng trong tâm trí mình, và ngươi biết rõ ràng, chuẩn xác các nguyên tắc là gì trong mọi việc mình làm, đảm bảo rằng mình không vi phạm nguyên tắc, không đi chệch khỏi nguyên tắc, không gây gián đoạn hoặc nhiễu loạn, hoặc không làm bất kỳ chuyện gì gây tổn hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Hết thảy những điều này chính là những gì các ngươi nên bước vào ngay lúc này. Chúng ta không cần phải nói thêm về bất kỳ điều gì xa hơn nữa, và các ngươi cũng không cần phải hỏi hay nghĩ nhiều về nó. Nghĩ xa như vậy thì cũng vô ích thôi – đó không phải là điều ngươi nên nghĩ. Một số người có thể hỏi rằng: “Tại sao chúng con lại không nên nghĩ về điều đó? Tai họa hiện nay đã lớn như thế, chẳng phải đây là lúc chúng con nghĩ về những điều như vậy sao?”. Có phải là lúc không? Tai họa lớn có ảnh hưởng đến việc bước vào lẽ thật của ngươi không? (Thưa, không.) Tai họa đã lớn như thế, nhưng Ta đã tổ chức nhóm họp hay giảng đạo riêng về tai họa bao giờ chưa? Ta không bao giờ nhắc đến chuyện tai họa, Ta chỉ luôn phán về lẽ thật, để cho các ngươi có thể hiểu lẽ thật và hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, để cho các ngươi hiểu cách làm tốt bổn phận của mình và cách bước vào thực tế lẽ thật. Ngày nay, có những người thậm chí còn không hiểu thực tế lẽ thật là gì và đạo lý là gì. Ngày nào, họ cũng giảng vài câu chữ, đạo lý, và những lời nói suông giống nhau, nhưng lại cảm thấy mình đã bước vào thực tế lẽ thật. Ta lo lắng cho họ, nhưng họ lại không biết lo lắng cho chính mình. Họ vẫn nghĩ về những chuyện xa xôi đó trong tương lai – nghĩ về những chuyện đó là không thực tế.
Mục đích của việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài không phải là để biến họ thành người tích cực, cũng không phải là để chuẩn bị cho họ trở thành một dạng trụ cột nào đó sau này, mà là để cho một số người tương đối chịu mưu cầu lẽ thật và đủ điều kiện để được đề bạt, bồi dưỡng, một cơ hội được rèn luyện trong hoàn cảnh phù hợp cũng như trong điều kiện thuận lợi hơn. Điều quan trọng nhất là họ có thể hiểu lời Đức Chúa Trời, hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Chẳng phải đây chính là những gì con người nên đạt được khi tin Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải đây chính là những gì con người nên thu được khi tin Đức Chúa Trời sao? Để bước vào thực tế lẽ thật, cái chính các ngươi nên mưu cầu ngay lúc này là gì? Các ngươi có kế hoạch hay trình tự thực hiện điều đó không? Ta sẽ cho các ngươi biết một mẹo, đã đơn giản, dễ dàng mà còn nhanh chóng nữa. Nói một cách đơn giản, việc bước vào thực tế lẽ thật thực ra chính là thực hành lẽ thật. Để thực hành lẽ thật, đầu tiên cần phải giải quyết những tâm tính bại hoại của mình. Nên bắt đầu từ đâu để giải quyết những tâm tính bại hoại của mình một cách nhanh nhất? Đối với các ngươi, cách đơn giản nhất, nhanh nhất và gọn nhẹ nhất là đầu tiên phải giải quyết vấn đề làm bổn phận qua loa chiếu lệ của mình, giải quyết từng bước một. Các ngươi có thể mất bao lâu để giải quyết được? Các ngươi có kế hoạch không? Hầu hết mọi người đều không có kế hoạch, chỉ suy tính hoài trong đầu, mà không biết khi nào chính thức bắt đầu. Mặc dù họ biết mình qua loa chiếu lệ, nhưng lại không bắt tay vào giải quyết và không có bất kỳ phương án cụ thể nào. Làm bổn phận lười biếng, không tỉ mỉ, không nghiêm túc và không chịu trách nhiệm – đây đều là những biểu hiện của qua loa chiếu lệ. Bước đầu tiên là giải quyết vấn đề qua loa chiếu lệ. Bước thứ hai là giải quyết vấn đề làm theo ý mình. Đối với những chuyện khác, chẳng hạn như thỉnh thoảng nói lời không trung thực, hoặc bộc lộ tâm tính giả dối hay kiêu ngạo, thì trước mắt, ngươi đừng bận tâm về những điều đó. Xử lý việc qua loa chiếu lệ và làm theo ý mình trước chẳng phải là thực tế và hiệu quả hơn sao? Hai cái này chẳng phải là những vấn đề dễ phát hiện nhất sao? Chẳng phải chúng dễ giải quyết sao? (Thưa, phải.) Khi mình qua loa chiếu lệ, lòng ngươi có rõ không? Khi mình nghĩ đến chuyện lười biếng, ngươi có biết không? Khi mình nghĩ đến chuyện chơi khăm hoặc ngồi mát hưởng bát vàng, ngươi có biết không? (Thưa, có.) Nếu ngươi biết thì dễ giải quyết. Hãy bắt đầu bằng cách giải quyết những vấn đề mà ngươi có thể dễ dàng ý thức được và nhận biết được bên trong. Thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ là một vấn đề rõ ràng và phổ biến, nhưng cũng là một căn bệnh khó chữa rất khó giải quyết. Khi thực hiện bổn phận, người ta phải học cách nghiêm túc, nghiêm khắc, tỉ mỉ, có trách nhiệm và thực tế, làm theo kiểu đi bước nào chắc bước nấy, dốc hết sức lực để làm tốt bổn phận đó, cho đến khi đạt đến mức độ khiến bản thân hài lòng. Nếu một người không hiểu lẽ thật, thì họ nên tìm kiếm các nguyên tắc, và hành động phù hợp với chúng và theo những yêu cầu của Đức Chúa Trời. Cho dù cần bỏ thêm nhiều công sức hơn một chút, người ta cũng phải làm cho tốt, tuyệt đối không được qua loa chiếu lệ. Chỉ bằng cách thực hành theo cách này, người ta mới cảm thấy bình yên trong lòng, không bị lương tâm cắn rứt. Sự qua loa chiếu lệ có dễ giải quyết không? Miễn là ngươi có lương tâm và lý trí thì ngươi có thể giải quyết chúng. Đầu tiên, ngươi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con bắt đầu làm bổn phận rồi. Nếu con qua loa chiếu lệ, con xin Ngài sửa dạy con và quở trách con trong lòng con. Con cũng xin Ngài dẫn dắt con làm tốt bổn phận của mình, không qua loa chiếu lệ”. Mỗi ngày, hãy thực hành như vậy, xem mất bao lâu để giải quyết vấn đề qua loa chiếu lệ của ngươi, để tình trạng qua loa chiếu lệ của ngươi giảm bớt, để khi thực hiện bổn phận, những sự pha tạp của ngươi ngày càng ít, kết quả thực tế của ngươi ngày một tốt hơn và hiệu suất của ngươi ngày một cao hơn. Thực hiện bổn phận không qua loa chiếu lệ – đây có phải là điều mà ngươi có thể tự lực đạt được không? Khi mình qua loa chiếu lệ, ngươi có thể khống chế được điều đó không? (Thưa, không dễ.) Vậy thì phiền toái đây. Nếu thực sự khó khống chế được điều này, thì khó khăn của các ngươi lớn lắm đây! Khi làm chuyện gì thì các ngươi không qua loa chiếu lệ? Một số người chú trọng nhất về chuyện ăn uống; nếu một bữa ăn không vừa ý họ, cả ngày họ sẽ chẳng còn tâm trạng. Một số phụ nữ thích nhất là chưng diện và trang điểm; không một sợi tóc nào thoát khỏi sự chú ý của họ. Một số người giỏi kinh doanh; họ đếm từng xu một. Nếu các ngươi hành động với thái độ nghiêm túc kiểu này, các ngươi có thể tránh được sự qua loa chiếu lệ. Đầu tiên, hãy giải quyết vấn đề qua loa chiếu lệ, sau đó hãy giải quyết vấn đề hành động theo ý mình. Hành động theo ý mình là một vấn đề phổ biến mà người ta có thể dễ dàng ý thức được ở chính mình. Với việc tự phản tỉnh nhiều hơn một chút, người ta có thể nhận ra rằng hành động theo ý mình là không phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật. Khi một người đã nhận ra vấn đề thì sẽ dễ dàng giải quyết. Trước hết hãy bắt tay vào giải quyết hai vấn đề này, một là vấn đề về sự qua loa chiếu lệ và vấn đề còn lại là hành động theo ý mình. Tranh thủ đạt được kết quả trong vòng một hoặc hai năm, hãy cố gắng không qua loa chiếu lệ trong bất cứ việc gì, không hành động theo ý mình hoặc với sự uế tạp bởi ý muốn cá nhân. Một khi hai vấn đề này được giải quyết, các ngươi sẽ không còn xa để thực hiện bổn phận của mình một cách đạt tiêu chuẩn. Còn nếu các ngươi không thể giải quyết chúng, thì các ngươi sẽ còn lâu mới thuận phục Đức Chúa Trời hoặc quan tâm đến tâm ý của Ngài. Các ngươi còn chưa chạm được chút nào tới tiêu chuẩn này đâu.
Chúng ta vừa thông công về các điều kiện và mục đích của việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài đạt tiêu chuẩn, cũng như về nhận thức và góc nhìn mà con người nên có đối với việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài của nhà Đức Chúa Trời. Một khía cạnh khác nữa là thái độ và cách tiếp cận mà con người nên có đối với các loại nhân tài được đề bạt và bồi dưỡng. Đây là một số vấn đề nên được thông công trong mục sáu. Vậy tiếp theo, cụ thể nhằm vào mục sáu, chúng ta hãy cùng vạch trần và mổ xẻ cách lãnh đạo giả tiến hành công tác đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài. Đây là nội dung chính mà chúng ta sẽ thông công.
Thái độ và biểu hiện của lãnh đạo giả trong việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài
Lãnh đạo giả không hiểu lẽ thật và không tìm kiếm lẽ thật. Cho nên, trong công tác quan trọng là đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài đạt tiêu chuẩn trong nhà Đức Chúa Trời, họ cũng làm hỏng bét, rối tinh rối mù, và căn bản là không đạt yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời. Bởi vì họ không hiểu điều kiện để đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài đạt tiêu chuẩn, càng không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, và cũng không hiểu ý nghĩa của việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài đạt tiêu chuẩn, nên họ rất khó có thể làm công tác này một cách đạt tiêu chuẩn và hợp nguyên tắc được. Các loại “nhân tài” mà lãnh đạo giả bồi dưỡng trong quá trình làm công tác của họ là một mớ ô hợp. Không những không đề bạt và bồi dưỡng nhân tài đạt tiêu chuẩn, mà ngược lại, lãnh đạo giả lại đề bạt những người mà căn bản là không nên được đề bạt và bồi dưỡng để giữ vai trò lãnh đạo hoặc người làm công, để cho những người này ăn bám hội thánh và phung phí của lễ của Đức Chúa Trời. Lãnh đạo giả nào cũng làm những chuyện như vậy, khiến cho một số người mưu cầu lẽ thật và có tinh thần chính nghĩa lại bị chà đạp dưới chân và không được đề bạt, sử dụng. Thay vào đó, những kẻ vô tích sự lại trở thành những người gọi là nhân tài trong mắt những lãnh đạo giả này, được họ đề bạt và bồi dưỡng. Vậy thì khi làm công tác này, biểu hiện của lãnh đạo giả là gì? Chẳng hạn như do nhu cầu công tác, nhà Đức Chúa Trời phải tìm một số người xử lý ngoại vụ. Vậy thì nên tìm kiếm những người như thế nào? Ta vừa liệt kê một số điều kiện, đó là có năng lực công tác, có thể làm bổn phận của mình theo các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, và có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Lãnh đạo giả có biết những nguyên tắc này không? Rõ ràng là không, vậy thì họ tìm người xử lý ngoại vụ như thế nào? Họ thầm nghĩ: “Ai có thể xử lý ngoại vụ nhỉ? Có một người chị em lanh lợi và phản ứng nhanh, ăn nói tốt và biết cách xử lý quan hệ giữa người với người. Khi nói, mắt chị ấy đảo liên tục đầy tính toán, người bình thường không thể nhìn thấu được chị ấy. Chị ấy mà làm lãnh đạo hội thánh thì có phần không phù hợp, nhưng sẽ rất giỏi xử lý ngoại vụ, vì vậy mình sẽ chọn chị ấy. Chỉ có điều trình độ học vấn của chị ấy hơi thấp, sợ người ngoại đạo xem thường, vậy thì mình sẽ tìm một cử nhân đại học – là chủ tịch hội sinh viên – để phối hợp với chị ấy. Người này khá lanh lợi, chỉ là kinh nghiệm xã hội tương đối ít và trải đời tương đối ít, nên có thể học hỏi từ cộng sự của mình. Trong hai người này, một người có trình độ học vấn thấp, người kia có học vấn cao; một người có kinh nghiệm xã hội, người kia không có – họ sẽ là một cặp phù hợp, chẳng phải sao?”. Một người giỏi ăn nói và hoạt ngôn, lanh lợi và rất giỏi giao tiếp xã hội; mỗi khi chị ấy tiếp xúc với người ngoại đạo, họ sẽ không nhận ra chị ấy là tín hữu. Người kia có học vấn cao và địa vị xã hội, mỗi khi tiếp xúc với người ngoại đạo thì sẽ không bị họ xem thường. Các ngươi nghĩ sao về các nguyên tắc mà lãnh đạo giả này sử dụng để lựa chọn hai người này? Lãnh đạo giả này cho rằng chỉ cần người ta nhanh mồm nhanh miệng, lanh lợi và phản xạ nhanh, thì có thể xử lý ngoại vụ cho nhà Đức Chúa Trời. Đây có phải là một cách thích hợp để chọn người không? (Thưa, không.) Sao lại không thích hợp? (Thưa, những người như thế thường gian xảo; mặc dù họ có thể áp dụng các triết lý đối nhân xử thế và biết cách xử lý mối quan hệ giữa người với người, nhưng chưa chắc họ có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Điều quan trọng nhất là bất kể người ta xử lý sự vụ gì cho nhà Đức Chúa Trời, ít nhất đó cũng phải là người ngay thẳng và có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Việc dẻo miệng và có thể nói chết thành sống thì đồng nghĩa với việc họ có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời sao? Việc nhanh trí, giỏi ăn nói và hoạt ngôn thì đồng nghĩa với việc họ có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời sao? (Thưa, không đúng.) Cho dù họ có thề thốt đi chăng nữa cũng vô ích, ngươi đặt ra yêu cầu cho họ cũng vô ích – họ phải có nhân phẩm đó mới được. Nhưng lãnh đạo giả không tìm hiểu những điều này, họ chỉ xem ai có kinh nghiệm xã hội, ai gian xảo, nhanh trí, giỏi ăn nói và hoạt ngôn, ai biết liệu cơm gắp mắm, và ai giống như con tắc kè hoa, là người giỏi giao tiếp xã hội. Họ cho rằng người như thế thì có thể đảm nhiệm công tác sự vụ trong nhà Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là một sai lầm sao? Đây là một sai lầm về mặt nguyên tắc và tiêu chuẩn chọn người. Kết quả là loại người này cực kỳ dẻo miệng: cho dù họ làm việc với ai, thì mọi điều họ nói cũng đều là nói dối, dù họ có thề thốt bao nhiêu cũng không thay đổi được. Khi hành sự, họ chỉ bảo vệ lợi ích của bản thân mình, nhất là khi đối mặt với nguy hiểm, họ sẽ bảo vệ mình trước tiên, và không bao giờ suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Chỉ cần họ có mối quan hệ tốt với người ngoại đạo là đủ; còn lợi ích của nhà Đức Chúa Trời có bị tổn hại hay không thì cũng chẳng sao. Sự an nguy của các anh chị em cũng không thuộc phạm vi cân nhắc của họ, họ cũng chẳng quan tâm liệu danh Đức Chúa Trời có bị ô nhục hay không; chỉ lo bảo hộ mình. Lãnh đạo giả không nhìn thấu được loại người này, cho rằng những người như thế là phù hợp nhất để xử lý ngoại vụ cho nhà Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là ngu xuẩn sao? Người đó bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, vậy mà lãnh đạo giả không biết mà còn trọng dụng họ, chuyện gì cũng trông cậy vào họ. Đây chẳng phải là đỉnh cao của ngu xuẩn sao? Những người giỏi ăn nói, hoạt ngôn và nhanh trí có phải là người tâm ý ngay thẳng không? Nếu chưa giao thiệp hoặc quan sát kỹ họ, ngươi sẽ không biết được. Khi ngươi giao thiệp và xử lý công việc với họ, cứ quan sát xem liệu việc họ nói và làm có đi đôi với nhau hay không. Điều này có thể được kiểm chứng thông qua một sự việc. Chẳng hạn như ngươi đang chuyển đồ. Khi thấy thế, họ sẽ không giúp ngươi. Chỉ khi ngươi làm xong công việc, họ mới đến và nói: “Làm sao anh có thể tự làm một công việc mệt nhọc như vậy được? Anh mà nhờ thì dù bận đến mấy, tôi cũng giúp. Trông anh mệt mỏi quá. Tí nữa, tôi nấu cơm cho, hôm nay anh không phải nấu đâu”. Nói thế xong, họ mất hút. Ngươi mệt mỏi rã rời mà vẫn phải nấu cơm. Rồi một khi ngươi nấu xong, họ liền đến ăn, thậm chí còn nói: “Tại sao khi chuẩn bị nấu, anh không gọi tôi? Anh mệt mỏi rã rời rồi mà vẫn phải nấu cơm cho tôi – như thế làm sao được? Bây giờ anh nấu rồi thì tôi đành ăn. Bữa sau tôi sẽ nấu, sau này có công việc gì cần làm, cứ gọi tôi nhé”. Chỉ một sự việc này thôi cũng đủ để nhìn thấu ngay được họ. Họ rất dẻo miệng, nhanh trí và biết nên nói gì. Họ biết liệu cơm gắp mắm, và xưa nay chỉ toàn nói những điều êm tai, mà không bao giờ làm bất kỳ công việc thực tế nào. Những người như thế có đáng tin cậy không? Nếu ngươi yêu cầu họ xử lý ngoại vụ của nhà Đức Chúa Trời, họ có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời được không? Họ có thể bảo vệ danh tiếng của hội thánh và bảo vệ sự an toàn của các anh chị em được không? (Thưa, không.) Tài vật của nhà Đức Chúa Trời và hết thảy lợi ích của nhà Đức Chúa Trời có phải là ưu tiên hàng đầu của họ không? Tuyệt đối không phải. Mắt và tâm của lãnh đạo giả bị đui mù trước những vấn đề dễ phát hiện như thế, họ không thể thấy được. Thay vào đó, họ chỉ biết nói câu chữ và đạo lý. Ai được Đức Chúa Trời yêu thương và ai không được Đức Chúa Trời yêu thương, ai yêu lẽ thật và ai không yêu lẽ thật, có nền tảng trong đức tin nơi Đức Chúa Trời nghĩa là gì và loại người nào không có nền tảng, loại người nào trung thành làm bổn phận và loại người nào không trung thành làm bổn phận – họ nói về những điều này rõ ràng mạch lạc, và có vẻ hiểu lắm, nhưng tất cả chỉ là nói suông và đạo lý. Hễ bảo họ phân định người, thì mắt và tâm họ đui mù; họ không biết cách nhìn người. Cho dù họ có tiếp xúc với loại người này bao lâu đi nữa, cũng không thể nhìn thấu được người đó, thậm chí còn trọng dụng loại người này.
Việc lãnh đạo giả dùng sai người đã là một chuyện rất đáng hận rồi, vậy mà họ còn sai chồng sai khi làm những chuyện đáng hận hơn nữa. Chẳng hạn như việc một lãnh đạo giả sử dụng sai người. Mặc dù người này căn bản là không phù hợp để làm người phụ trách và không phù hợp các điều kiện để được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng, thế nhưng lãnh đạo giả vẫn nhất quyết sử dụng anh ta, hơn nữa còn không bao giờ kiểm tra công tác của người này. Họ cho rằng: “Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng. Tôi đã chọn anh và đề bạt anh thì anh sẽ có thể làm tốt công tác này, vì vậy cứ thoải mái mà làm đi. Tôi sẽ hỗ trợ anh trong mọi việc, ai phản đối cũng vô ích!”. Họ đã dùng sai người, lại còn phải sai đến cùng – họ tin vào bản thân đến mức như vậy. Các lãnh đạo giả đều đui mù. Vấn đề gì họ cũng không nhìn ra được, họ không phân định được ai là kẻ ác hoặc kẻ chẳng tin, và cho dù ai làm gián đoạn hay nhiễu loạn công tác của hội thánh, họ cũng chẳng biết gì, thậm chí còn trọng dụng kẻ hồ đồ. Cho dù đã đề bạt người như thế nào, lãnh đạo giả cũng đều đặc biệt tín nhiệm họ, còn tùy tiện giao phó công tác quan trọng cho họ. Kết quả là họ để những người đó làm công tác của hội thánh trở nên rối tinh rối mù, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc mở rộng phúc âm và gây tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Vậy mà lãnh đạo giả còn giả bộ không biết gì về chuyện này. Bề trên hỏi họ: “Người mà anh đề bạt làm công tác sao rồi? Họ có phù hợp để làm công tác này không? Họ có bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không? Trong những thời điểm then chốt, họ bảo vệ bản thân hay bảo vệ công tác của hội thánh?”. Những lãnh đạo giả này đáp: “Họ đã thề sẽ bảo vệ công tác của hội thánh. Ngoài ra, họ tin Đức Chúa Trời 20 năm rồi. Làm sao họ có thể bảo vệ bản thân và bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời được? Chắc họ sẽ bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời thôi”. Bề trên hỏi tiếp: “Anh nói có chuẩn không đấy? Anh đã kiểm tra công tác của họ chưa?”. Những lãnh đạo giả này trả lời: “Tôi chưa kiểm tra công tác của họ, nhưng tôi đã căn dặn họ là không được bảo vệ lợi ích của bản thân mà phải bảo vệ công tác của hội thánh, và họ đã cam đoan với tôi rồi”. Người đó hứa với ngươi thì có tác dụng gì? Đến cả lời thề của mình trước Đức Chúa Trời mà người đó còn không thể làm tròn được, vậy họ cam đoan với ngươi thì có chắc ăn không? Có chắc chắn là họ sẽ làm được không? Ngươi còn chưa kiểm tra công tác của người đó thì làm sao biết người đó có phải là người bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời hay không? Sao ngươi lại có thể tin vào bản thân đến như vậy? Dạng lãnh đạo giả này chẳng phải là đồ khốn sao? Khi dùng sai người, họ đã phạm phải một sai lầm rất lớn rồi, sau đó họ còn sai chồng sai khi không bao giờ nghe ngóng, tìm hiểu hay kiểm tra công tác của người này, cũng không bao giờ giám sát hay quan sát. Tất cả những gì họ làm chỉ là cứ dung túng cho người này làm xằng làm bậy. Đây chính là cách làm công tác của lãnh đạo giả. Bất kể là hạng mục công tác nào, chỉ cần thiếu người thì lãnh đạo giả liền tùy tiện sắp xếp ai đó phụ trách là xong; họ không bao giờ kiểm tra công tác, hay đi thị sát thực tế để tiếp xúc, quan sát và tìm hiểu về người đó. Ở một số nơi hoàn cảnh không thuận lợi để gặp gỡ và dành thời gian cho người đó, nhưng ngươi cũng phải hỏi về công tác của họ chứ, phải nghe ngóng gián tiếp xem họ đang làm gì, làm ra sao, ngươi có thể hỏi các anh chị em hoặc ai đó gần gũi với họ. Điều này chẳng phải có thể làm được sao? Nhưng lãnh đạo giả thậm chí còn không thèm hỏi câu gì cả, họ tự tin đến mức như thế. Công tác của họ chỉ là tổ chức nhóm họp và giảng đạo lý, và khi nhóm họp xong, sắp xếp công tác xong thì coi như hết chuyện, họ không tiếp tục theo dõi hoặc tìm hiểu xem liệu người mà họ chọn có thể làm công tác thực tế hay không. Ban đầu, ngươi không hiểu người đó, dựa trên tố chất, biểu hiện và nhiệt tâm bề ngoài của người đó, ngươi cảm thấy họ phù hợp với công tác này nên đã dùng họ. Như thế không có gì sai cả, bởi vì không ai nhìn thấu được người ta về sau sẽ thế nào. Nhưng sau khi đề bạt, ngươi nên theo dõi và tìm hiểu xem liệu họ có làm công tác thực tế hay không, họ làm công tác như thế nào, và họ có qua loa chiếu lệ, lươn lẹo hoặc chểnh mảng hay không, chẳng phải sao? Đây chính xác là công tác mà ngươi nên làm, vậy mà ngươi lại không làm gì cả, không chịu trách nhiệm gì cả. Ngươi chính là lãnh đạo giả, nên bị cách chức và đào thải.
Các lãnh đạo giả đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng, đó là sau khi đề bạt người ta, dặn dò về công tác xong, họ giảng chút đạo lý, nói vài lời động viên rồi bỏ đó, không bao giờ theo dõi hay tham gia vào công tác cụ thể. Nếu ngươi nói rằng bản thân có tố chất kém và không nhìn thấu được người ta, thì ngươi có thể theo dõi, tìm hiểu xem những công tác cụ thể, và hoàn toàn có thể nắm được tình hình. Thế nhưng, lãnh đạo giả căn bản là không hề theo dõi và tìm hiểu công tác. Chẳng hạn như việc in sách, là một hạng mục công tác cụ thể. Sau khi lãnh đạo giả giao cho một người nào đó phụ trách công tác này, cả nửa năm sau họ cũng chẳng hỏi thăm lấy một lần. Kết quả là nửa năm sau, toàn bộ sách đã in đều là có lỗi – thật rối tinh rối mù hết lên! Lãnh đạo giả chính là như vậy – không hề làm chút công tác cụ thể nào. Nếu phải sắp xếp việc in sách thì ngươi nên làm gì? Đầu tiên, ngươi phải phân công một người phụ trách phù hợp, sau đó vẫn phải giám sát và kiểm tra xem rốt cuộc họ làm công tác như thế nào, liệu họ có làm hỏng việc hay không. Ngươi buộc phải giám sát và theo dõi công tác, nếu phát hiện vấn đề gì, phải trực tiếp giải quyết – như vậy mới có thể đảm bảo không phát sinh vấn đề. Nhưng lãnh đạo giả không làm vậy. Họ cho rằng chức trách của họ chỉ là giảng đạo lý với mọi người, làm cho mọi người hiểu đạo lý, và chỉ cần mọi người hiểu đạo lý thì có thể giải quyết được vấn đề. Vì thế, họ chỉ chú ý đến việc giảng đạo lý và hô khẩu hiệu, mà không tham gia vào công tác cụ thể. Đối với lãnh đạo giả, họ cho rằng tham gia vào công tác cụ thể không phải là việc của họ, mà nên là việc của những người bên dưới. Vậy thì bản thân họ làm gì? Họ chỉ huy toàn cục từ trên cao và trở nên quan liêu. Bất kể công tác là gì, họ cũng không có mặt hay tham gia. Sau khi nói với mọi người nguyên tắc, nếu được hỏi về vấn đề chi tiết hoặc con đường cụ thể, họ sẽ nói: “Công tác cụ thể thì tùy các anh chị em, tôi không hiểu cái này”. Cho nên, họ không biết những người bên dưới làm như thế nào. Về việc người phụ trách có thể đảm nhiệm và gánh vác nổi công tác này hay không, nhân tính của họ như thế nào, họ có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, họ có trách nhiệm khi làm bổn phận hay không, họ có qua loa chiếu lệ hay làm xằng làm bậy hay không, hoặc có những trì hoãn trong công tác hay không, v.v. – những điều này lãnh đạo giả không biết gì cả, họ chỉ đi loanh quanh như những quan chức ngoại đạo thoát ly sản xuất, không làm chút công tác thực tế nào. Trong những hội thánh mà họ làm việc, khi có những người phụ trách khiến công tác bị đình trệ, lãnh đạo giả đều không hay biết gì. Khi có những người phụ trách đang thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình, hoặc khi có những người phụ trách không chuyên tâm vào việc chính đáng, mà suốt ngày ăn uống, chơi bời, lãnh đạo giả cũng không hay biết gì. Khi có những người phụ trách có tố chất quá kém, lĩnh hội lệch lạc và hoàn toàn không thể làm công tác, lãnh đạo giả cũng làm ngơ. Dạng lãnh đạo giả này chỉ là cái vỏ rỗng, hữu danh vô thực và không làm chút công tác thực chất nào của lãnh đạo. Bề ngoài, những lãnh đạo này có vẻ khá thật thà. Họ phân công người phụ trách cho từng hạng mục công tác, thỉnh thoảng lại tổ chức nhóm họp với những người này một lần, thời gian còn lại ở một nơi tĩnh nguyện, cầu nguyện, đọc lời Đức Chúa Trời, nghe giảng, học thánh ca và viết bài giảng của riêng mình. Có những lãnh đạo giả thậm chí còn cả tuần không ra khỏi phòng. Lại có những lãnh đạo giả chỉ biết tổ chức nhóm họp trực tuyến, mà không bao giờ đi đến các nơi làm công tác để tìm hiểu tình hình. Các anh chị em không thấy mặt họ trong một thời gian dài, và không biết trải nghiệm sự sống hay vóc giạc của lãnh đạo giả như thế nào. Trong các buổi nhóm họp, lãnh đạo giả chỉ xử lý một số công tác sự vụ, còn về việc cụ thể mỗi người phụ trách đang làm gì, và liệu những người mà họ đề bạt, bồi dưỡng có phù hợp với công tác được giao hay không, thái độ của những người này khi làm bổn phận là gì, họ có tỉ mỉ và chu toàn trong công tác hay không, họ có tiêu cực và qua loa chiếu lệ hay không, những người này có đi con đường đúng đắn hay không, có phải là người phù hợp hay không, thì những việc này lãnh đạo giả không quan tâm hay hỏi han gì cả, cũng chẳng muốn biết. Chẳng phải tính chất của vấn đề này rất nghiêm trọng sao? (Thưa, phải.)
Nhà Đức Chúa Trời cần một số nhân tài hiểu một số lĩnh vực nghiệp vụ nhất định và có một số kỹ năng nhất định. Nhà Đức Chúa Trời sẽ bồi dưỡng những người này, cho họ học các nghiệp vụ đó để có thể làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời. Theo các ngươi, lãnh đạo giả tìm loại người nào? Họ tập hợp tất cả những người trẻ đã học đại học và theo ba mẹ tin Đức Chúa Trời, sau đó xem ai hoạt ngôn và thích xuất đầu lộ diện, rồi nói với những người đó: “Nhà Đức Chúa Trời muốn bồi dưỡng các anh chị em; các anh chị em là đội quân dự bị và lực lượng mới”. Sau đó, họ giao cho những người này làm bổn phận. Trên thực tế, những người này chưa bao giờ thực hiện một bổn phận nào cả, họ cũng chưa có trải nghiệm gì và không hề hiểu lẽ thật. Nhưng lãnh đạo giả lại ưa chuộng và thích họ, vì thế bắt đầu bồi dưỡng họ. Căn cứ vào sở trường của những người này, họ thích hợp học gì thì lãnh đạo giả phân công cho họ làm bổn phận đó; có những người được phân công làm công tác văn tự, có những người được phân công làm công tác quay phim, có những người được phân công làm video và có những người được phân công làm diễn viên. Đối với lãnh đạo giả, chỉ cần những người này có bổn phận để làm là được. Lãnh đạo giả không khảo sát xem rốt cuộc những người này có yêu lẽ thật hay không, hoặc có thể tiếp nhận lẽ thật hay không, cũng không tìm hiểu xem rốt cuộc những người này đang mưu cầu điều gì, hoặc mục tiêu của họ là gì. Cuối cùng, chuyện gì xảy ra? Trong số đó có những người bị đào thải. Đó là bởi vì họ phóng đãng, không chịu ràng buộc, mưu cầu các trào lưu thế tục, suốt ngày ăn diện, giao du bừa bãi, và không hiểu chút quy củ hay có chút giáo dưỡng nào cả – rõ ràng, họ là những người không tin và người ngoại đạo. Họ không chuyên tâm vào việc chính đáng trong khi thực hiện bổn phận, làm gì cũng qua loa chiếu lệ, nhưng lãnh đạo giả lại không hề nhìn ra được. Chẳng phải lãnh đạo giả mù mắt sao? (Thưa, phải.) Mù mắt là do đâu? Chẳng phải là do lãnh đạo giả mù tâm sao? Mù mắt và mù tâm là hai đặc trưng của lãnh đạo giả. Mặc dù mắt mở to, nhưng cái gì lãnh đạo giả cũng không hiểu được, người nào cũng không nhìn thấu được – tức là mắt họ mù. Trong tâm, họ không có sự phân định hay quan điểm về bất kỳ ai hay điều gì cả, và dù có thấy, họ cũng không có khả năng phân biệt đúng sai, họ không có thái độ, không có góc nhìn và không có định nghĩa – đây là trường hợp mù tâm nghiêm trọng. Các lãnh đạo giả đều là những người đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm và thường xuyên nghe giảng, vậy tại sao họ lại không thể phân định ra được những người không tin đó? Điều này càng chứng tỏ rằng lãnh đạo giả có tố chất rất kém, không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, và dù họ có nghe bao nhiêu lẽ thật cũng vô ích, họ không hiểu. Họ mù mắt, mù tâm, và hoàn toàn không có khả năng phân định người ta. Làm sao họ có thể xứng đáng làm lãnh đạo hay người làm công trong hội thánh được? Họ cho rằng những người biết ăn nói là nhân tài, những người biết ca hát, nhảy múa cũng là nhân tài; trông thấy những người đeo kính hoặc đã học đại học, họ cũng cho rằng đó là nhân tài; khi thấy những người có địa vị trong xã hội, những người giàu có, những người biết cách làm kinh doanh và làm những chuyện lừa gạt, hay những người làm loại công việc quan trọng nào đó trong xã hội, lãnh đạo giả cũng cho rằng đó là nhân tài. Họ cho rằng nhà Đức Chúa Trời nên bồi dưỡng những dạng người này. Họ không nhìn vào phẩm chất nhân tính của những người này hay liệu đức tin của người ta nơi Đức Chúa Trời có nền tảng hay không, càng không nhìn vào thái độ của những người này đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật. Họ chỉ nhìn vào địa vị xã hội và nền tảng của người ta. Nhìn nhận con người và sự việc như vậy chẳng phải là rất hoang đường sao? Lãnh đạo giả nhìn nhận con người và sự việc giống như người ngoại đạo – chỉ toàn là quan điểm nhìn nhận sự việc của người ngoại đạo. Điều này đủ để chứng tỏ rằng lãnh đạo giả không phải là người yêu thích và hiểu lẽ thật, cũng không có chút năng lực phân định nào cả. Chẳng phải họ cực kỳ phù phiếm sao? Họ thực sự đui mù – vô cùng đui mù!
Trước đây, Ta từng gặp một lãnh đạo giả, khi Ta trò chuyện cùng thì nói cười, nhưng ngay khi Ta hỏi về công tác, anh ta liền nhìn đăm chiêu vào khoảng không một cách tê liệt, trì độn. Ta nói gì, anh ta cũng không phản ứng. Tố chất của người này quá kém để dùng. Chẳng trách Ta nói gì anh ta cũng không hiểu và không thực hiện được. Bất luận Ta nói về chuyện gì với anh ta, anh ta cũng đều nói: “Con đã tổ chức nhóm họp và kiểm tra công tác cách đây mấy ngày”. Ta nói: “Ngươi không có công tác gì khác ngoài việc tổ chức nhóm họp sao? Trong hội thánh có rất nhiều công tác cần làm, tại sao ngươi không tìm việc gì khác mà làm?”. Anh ta nói: “Chẳng phải làm lãnh đạo hoặc người làm công là chỉ có tổ chức nhóm họp thôi sao? Ngoài việc tổ chức nhóm họp ra, không có việc gì khác để làm cả, mà con cũng không biết cách làm việc gì khác cả!”. Điều này đã chứng thực một chuyện, anh ta mà làm lãnh đạo thì định sẵn là lãnh đạo giả. Anh ta không làm được chút công việc thực tế nào, bởi vì tố chất của anh ta vô cùng kém! Tố chất vô cùng kém dẫn đến mù mắt, mù tâm. Mù mắt nghĩa là gì? Nó có nghĩa là dù thấy gì, người ta cũng không thể phát hiện được vấn đề chi tiết, nên mắt họ không có tác dụng. Mù tâm nghĩa là gì? Nó có nghĩa là dù chuyện gì xảy ra, người ta cũng không ý thức được và không hiểu vấn đề trong đó, cũng không nhìn ra được thực chất của vấn đề nằm ở đâu – đây chính là mù tâm. Nếu người ta mù tâm thì hoàn toàn tiêu tùng rồi. Lãnh đạo giả mù mắt và mù tâm như vậy đấy. Các ngươi nói xem, khi nghe những lời này, lãnh đạo giả có cảm thấy khó chịu không? Họ nghĩ: “Mắt mình cũng khá to, nhưng Ngài lại bảo mình mù mắt; trong tâm, mình có thiện ý, thế mà Ngài lại bảo mình mù tâm – định nghĩa của Ngài không chuẩn xác lắm, chẳng phải sao? Nói mình là lãnh đạo giả là được rồi, sao lại còn bổ sung thêm rằng mình còn mù mắt, mù tâm nữa?”. Nếu Ta không nói như thế, thì với tố chất của các lãnh đạo giả, liệu họ có thể ý thức được rằng họ có tố chất kém không? (Thưa, họ không thể.) Chẳng phải nói rằng những lãnh đạo giả này mù mắt, mù tâm thì sẽ giải thích hoàn hảo vấn đề sao? Chẳng hạn như một kẻ địch lại Đấng Christ đang thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình trong hội thánh, nhưng lãnh đạo giả lại nói: “Người này rất có năng lực. Họ từng là giáo sư đại học, nói chuyện rõ ràng mạch lạc, xuất khẩu thành văn. Hơn nữa, dù khán giả đông đến mấy, họ cũng không luống cuống”. Rõ ràng là một người Pha-ri-si đang thiết lập vương quốc độc lập riêng của mình, thế mà lãnh đạo giả lại còn khen ngợi người đó. Đây chẳng phải là mù mắt sao? (Thưa, phải.) Nếu ai đó hát lạc tông mà ngươi không nghe ra, thì có thể xem là mù mắt được không? (Thưa, không.) Đó là vấn đề nghiệp vụ, chứ không phải là vấn đề tố chất. Nhưng sau khi đã nghe nhiều lẽ thật như thế mà lãnh đạo giả thậm chí vẫn không thể phân định được kẻ địch lại Đấng Christ, họ không thể phân định được nhân tính của một người là tốt hay xấu, liệu ai đó có phải là đối tượng để được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng hay không, liệu ai đó có phải là người không tin hay không, hoặc liệu người đó có thành tâm tin Đức Chúa Trời hay không, họ cũng không thể phân định được liệu ai đó có trung thành làm bổn phận hay không – vậy thì họ thu hoạch được gì từ việc nghe giảng trong suốt những năm qua? Họ không đạt được chút lẽ thật nào cả, có nghĩa rằng họ là những kẻ đui mù; lãnh đạo giả đui mù như vậy đó. Họ cho rằng khi làm lãnh đạo thì công tác chủ yếu là có thể giảng đạo, giảng đến hai, ba tiếng đồng hồ, và chỉ cần họ có thể nói câu chữ và đạo lý, hô khẩu hiệu và thúc đẩy mọi người, thì họ là lãnh đạo đạt tiêu chuẩn, có thể gánh vác công tác, có thực tế lẽ thật, và Đức Chúa Trời hài lòng về họ. Đây là kiểu lô-gic gì vậy? Bởi vì lãnh đạo giả không hiểu lẽ thật và tố chất quá kém, mù mắt, mù tâm, nên hoàn toàn không có khả năng phân định các loại người và không nhìn thấu được các loại người. Vậy thì họ có thể dùng các loại người một cách hợp lý được không? (Thưa, không.) Họ chỉ có một chiêu: những ai từng làm giáo viên thì giao cho giảng đạo, những ai từng làm ngoại thương thì giao cho xử lý ngoại vụ, những ai biết nói tiếng Anh thì giao cho làm người dịch thuật, hễ ai hoạt ngôn, mặt dày thì liền giao cho rao truyền phúc âm; những ai nhút nhát thì giao cho viết bài về lời chứng trải nghiệm ở nhà, những ai bạo dạn và thích diễn thì giao cho làm diễn viên, còn những ai muốn làm quan thì giao cho làm lãnh đạo hoặc đạo diễn. Lãnh đạo giả dùng người như vậy, không có chút nguyên tắc nào cả.
Trong phạm vi công tác mà lãnh đạo giả phụ trách, có những người thực sự mưu cầu lẽ thật và phù hợp điều kiện để được đề bạt, bồi dưỡng, những người này thường bị kìm hãm. Trong đó có những người thì rao truyền phúc âm, có những người thì được giao cho làm bổn phận tiếp đãi. Thực ra họ đều có tố chất, hiểu chút lẽ thật và xứng đáng được bồi dưỡng làm lãnh đạo và người làm công, chỉ là họ không thích thể hiện hay xuất đầu lộ diện. Thế nhưng, lãnh đạo giả lại không để ý gì đến những người này. Họ không tiếp xúc hoặc nghe ngóng về những người này, và họ không bao giờ bồi dưỡng nhân tài cho nhà Đức Chúa Trời. Họ chỉ chú trọng gài bẫy những ai nịnh nọt họ để thỏa mãn ham muốn cá nhân. Kết quả là những người thực sự mưu cầu lẽ thật thì không được đề bạt và bồi dưỡng, trong khi những người thích xuất đầu lộ diện, hoạt ngôn, biết nịnh hót, hám danh lợi và địa vị thì lại đều được đề bạt. Thậm chí những người ở ngoài xã hội từng làm quan chức, giám đốc điều hành doanh nghiệp, hoặc từng học quản lý doanh nghiệp, cũng đều được trọng dụng. Bất kể những người đó có phải là tín hữu thực sự hay không, hoặc có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, dù thế nào thì đó cũng là những người được đề bạt và sử dụng trong phạm vi công tác mà lãnh đạo giả phụ trách. Đây có phải là dùng người phù hợp với nguyên tắc không? Việc lãnh đạo giả chỉ đề bạt những người như thế chẳng phải chính là kiểu của xã hội người ngoại đạo sao? Trong thời gian công tác của lãnh đạo giả, những người khi làm bổn phận có thể thực sự hoàn thành công việc, những người có tinh thần chính nghĩa, và những người yêu thích lẽ thật cùng những điều tích cực, thì không được đề bạt hoặc bồi dưỡng, và khó mà có cơ hội được rèn luyện. Thay vào đó, những người hoạt ngôn, những người thích thể hiện và những người biết cách nịnh hót, cũng như những người hám danh lợi, địa vị thì lại được trọng dụng. Những người đó có vẻ khá thông minh lanh lợi, nhưng thực ra không có năng lực lĩnh hội, tố chất rất kém, nhân tính cũng không tốt, không mang gánh trọng trách thực sự đối với bổn phận của mình, và căn bản là không hề xứng đáng được bồi dưỡng. Thế nhưng, chính họ lại là những người nắm giữ các vị trí lãnh đạo và người làm công trong hội thánh. Kết quả là nhiều công tác của hội thánh cứ lần lữa mãi mà không thể được triển khai thuận lợi, hoặc tiến triển chậm chạp, và sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời cứ lần lữa mãi mà không được triển khai. Đây chính là những ảnh hưởng và hậu quả gây ra cho công tác của hội thánh bởi việc lãnh đạo giả dùng người không phù hợp.
Hầu hết lãnh đạo giả đều có tố chất kém. Mặc dù họ có vẻ hoạt ngôn, nhưng lại không hề có chút năng lực lĩnh hội lẽ thật nào, thậm chí là không ai có hiểu biết thuộc linh. Họ mù mắt, mù tâm, việc gì cũng không nhìn thấu được và căn bản là không hiểu lẽ thật. Đây đã là vấn đề chí tử rồi, nhưng họ lại còn có một vấn đề khác nghiêm trọng hơn nữa. Đó là khi họ hiểu và nắm vững được vài câu chữ và đạo lý, có thể hô vài khẩu hiệu, thì họ cho rằng mình đã có thực tế lẽ thật. Cho nên, dù họ làm công tác nào và chọn ai để dùng, họ cũng không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, không thông công với những người khác, càng không tuân thủ sự sắp xếp công tác và các nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời. Họ rất tự tin, luôn cho rằng ý mình là đúng và muốn làm sao thì làm. Kết quả là khi gặp phải chút khó khăn hoặc tình huống đặc biệt, thì họ lúng túng. Đã thế, họ còn hay lầm tưởng rằng bởi vì họ đã làm công tác nhiều năm trong nhà Đức Chúa Trời và có đủ kinh nghiệm làm lãnh đạo ở đó, nên biết cách làm sao để công tác hội thánh vận hành và tiến triển. Họ có vẻ như đã hiểu những chuyện này, nhưng thực ra, họ căn bản là không biết cách làm bất kỳ công tác nào. Họ làm công tác của hội thánh tùy tiện theo ý mình, dựa theo quan niệm và tưởng tượng của riêng mình, dựa theo kinh nghiệm, thói quen, cũng như quy định của mình. Nó khiến cho các hạng mục công tác khác nhau của hội thánh rối mù, hỗn loạn, không thể có được bất kỳ kết quả thực sự nào. Nếu trong một nhóm có vài người hiểu lẽ thật và có thể làm chút công tác thực tế, thì họ có thể giúp công tác của nhóm đó được duy trì bình thường. Nhưng điều này không liên quan gì đến lãnh đạo giả của họ cả. Sở dĩ công tác đó có thể được thực hiện tốt là bởi vì có một vài người tốt trong nhóm có thể làm chút công tác thực tế và duy trì công tác được tốt; chứ không có nghĩa rằng lãnh đạo giả của họ đã làm công tác thực tế. Không có vài người tốt như thế này phụ trách thì không thể thực hiện được hạng mục công tác nào cả. Lãnh đạo giả căn bản là không làm được công tác của họ, và họ không đóng góp được chút vai trò gì cả. Tại sao lãnh đạo giả lại làm rối tinh rối mù công tác của hội thánh? Lý do thứ nhất là lãnh đạo giả không hiểu lẽ thật, không thể thông công về lẽ thật để giải quyết vấn đề, cũng không tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, dẫn đến vấn đề dồn ứ và khiến công tác của hội thánh bị đình trệ. Thứ hai là lãnh đạo giả đui mù, không phát hiện được nhân tài. Họ không biết bổ nhiệm người phụ trách các nhóm sao cho phù hợp, dẫn đến một số công tác không có ai phù hợp để phụ trách, vì thế đi vào đình trệ. Thứ ba là lãnh đạo giả quá quan liêu. Họ không giám sát hay chỉ đạo công tác, và cũng không chủ động tham gia hoặc hướng dẫn công tác cụ thể ở những chỗ mắt xích yếu của công tác. Chẳng hạn như trong một hạng mục công tác, có vài người thực hiện công tác là tín hữu mới chưa có nhiều nền tảng, không hiểu lẽ thật, chưa quen thuộc lắm với nghiệp vụ của hạng mục công tác, và chưa nắm vững lắm các nguyên tắc trong công tác. Lãnh đạo giả đui mù, không thấy được những vấn đề này. Họ cho rằng chỉ cần ai đó đang làm công tác là được, làm tốt hay tệ thì chẳng cần bận tâm. Họ không biết rằng chỗ nào là mắt xích yếu trong công tác của hội thánh, thì họ nên theo dõi, kiểm tra và chỉ đạo, họ nên đích thân tham gia giải quyết vấn đề và liên tục hỗ trợ những người làm bổn phận cho đến khi họ hiểu được lẽ thật, có thể làm việc theo nguyên tắc và đi đúng hướng. Chỉ khi đó, họ mới không cần phải lo lắng quá nhiều. Lãnh đạo giả không làm công tác như vậy. Khi thấy có người ở đó làm công tác thì họ không để tâm nữa. Dù tình hình công tác ra sao, họ cũng chẳng hỏi thăm. Những chỗ mắt xích yếu trong công tác, hoặc người phụ trách có tố chất kém, họ không đích thân hướng dẫn và cũng không đích thân tham gia vào công tác. Khi người phụ trách có thể gánh vác công tác, lãnh đạo giả càng không đích thân kiểm tra hoặc chỉ đạo; họ cứ bình chân như vại, cho dù có người phản ánh vấn đề, họ cũng chẳng hỏi han – họ cho rằng mình không cần phải làm như vậy. Những công tác cụ thể này, lãnh đạo giả đều không làm. Tóm lại, lãnh đạo giả là kẻ suy đồi không làm chút công tác thực tế nào. Họ cho rằng công tác nào cũng vậy, chỉ cần có người phụ trách và tất cả mọi người đều vào cuộc để đảm nhận công tác, là xong và hết. Họ nghĩ tất cả những gì họ phải làm là thỉnh thoảng tổ chức nhóm họp và nếu có chuyện thì chỉ cần hỏi thăm một chút là được. Mặc dù làm công tác như vậy, nhưng lãnh đạo giả vẫn tin rằng họ đang làm tốt công tác và còn khá nể phục chính mình. Họ nghĩ: “Không hạng mục công tác nào có vấn đề cả. Nhân sự đều được sắp xếp đầy đủ, người phụ trách đều có hết. Sao mình lại làm công tác giỏi thế, sao mình lại tài thế chứ!”. Đây chẳng phải là không biết xấu hổ sao? Họ mù mắt, mù tâm đến mức không thấy được bất kỳ công việc nào cần làm và không phát hiện được bất kỳ vấn đề nào. Ở một số nơi, công tác đã đi vào đình trệ, thế nhưng họ vẫn ở đó, hài lòng, nghĩ rằng: “Các anh chị em đều trẻ trung, đều là luồng gió mới. Họ làm bổn phận hừng hực như ngọn lửa, nhất định có thể làm tốt công tác”. Trên thực tế, những người trẻ này đều là người mới, không hiểu kỹ năng nghiệp vụ nào cả. Họ phải vừa làm, vừa học. Có thể nói là họ chưa biết cách làm công tác nào cả: một số người có thể hiểu một chút, nhưng không phải đến mức tinh thông và không nắm được nguyên tắc, khi làm việc xong cần phải sửa lại nhiều lần, thậm chí thường xuyên phải làm lại. Lại có những người trẻ chưa được huấn luyện và chưa trải nghiệm sự tỉa sửa. Họ vô cùng du côn và lười biếng, ham an nhàn; thậm chí không tiếp nhận một chút lẽ thật nào, chịu khổ một chút liền cằn nhằn không ngớt. Hầu hết họ đều qua loa chiếu lệ, là những kẻ suy đồi tham hưởng an nhàn. Với những dạng người trẻ này, nếu không thường xuyên thông công về lẽ thật với họ thì hoàn toàn không ổn, không tỉa sửa họ thì lại càng không ổn. Nếu không ai trông coi và quản lý những người trẻ này thì hoàn toàn không ổn. Buộc phải có một lãnh đạo hoặc người làm công ở đó để trực tiếp chịu trách nhiệm về công tác của họ và đích thân giám sát, chỉ đạo. Chỉ khi đó công tác của họ mới có chút thành quả. Nếu lãnh đạo hoặc người làm công rời khỏi nơi làm công tác và không quan tâm hay hỏi han gì đến công tác, thì những người này sẽ rã đám, và việc thực hiện bổn phận của họ sẽ không hề có thành quả. Thế nhưng, lãnh đạo giả lại không nhìn thấu được chuyện này. Họ xem ai cũng là anh chị em, là người nghe lời và thuận phục, nên họ rất tin tưởng, giao công tác cho người ta, rồi mặc kệ – đây là bằng chứng tốt nhất cho thấy lãnh đạo giả mù mắt, mù tâm. Lãnh đạo giả không hề hiểu lẽ thật, chuyện gì cũng không nhìn thấu được, vấn đề gì cũng không phát hiện được, lại còn cho rằng mình đang làm tốt. Suốt ngày họ nghĩ đến điều gì? Họ nghĩ làm sao cho ra dáng quan chức và hưởng thụ lợi ích của địa vị. Lãnh đạo giả, giống như kẻ thiếu suy nghĩ, không quan tâm chút nào đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Họ không những không làm công tác thực tế mà còn chờ đợi được nhà Đức Chúa Trời khen ngợi và đề bạt. Đúng là không biết xấu hổ!
Lãnh đạo giả hoàn toàn vô dụng khi làm công tác của họ, và ở họ không có gì đáng khen ngợi. Họ không nắm được nguyên tắc về mặt tổng quát, càng không nắm được nguyên tắc liên quan đến công tác chi tiết cụ thể. Chẳng hạn như có những người, mạnh về năng lực nghiệp vụ nhưng nhân tính lại quá kém, trong khi có những người không có vấn đề về nhân tính, nhưng tố chất lại kém và năng lực nghiệp vụ cũng kém. Đối với việc nên dùng và phân bổ những người này thế nào cho hợp lý – những việc cụ thể và chi tiết hơn này thì lãnh đạo giả lại càng không biết. Cho nên, hễ được hỏi đã phát hiện ra ai tố chất khá tốt và có thể bồi dưỡng chưa, họ đều nói chưa phát hiện. Lãnh đạo giả đui mù đến mức độ như vậy rồi, họ có thể phát hiện ai được sao? Nếu ngươi hỏi họ người chị em nào đó thế nào, họ sẽ nói người ta tham hưởng an nhàn xác thịt; nếu hỏi họ người anh em nào đó thế nào, họ sẽ nói người ta dễ tiêu cực; nếu hỏi họ một người nào đó khác thế nào, họ sẽ nói người đó mới tin Đức Chúa Trời chưa lâu và chưa có căn cơ. Trong mắt họ, không ai đạt tiêu chuẩn cả. Họ chỉ nhìn vào những lỗi lầm, khuyết điểm và vi phạm của người ta chứ không nhìn xem liệu người này có phù hợp với các nguyên tắc đề bạt và bồi dưỡng của nhà Đức Chúa Trời hay không, hoặc liệu người ta có phải là đối tượng có thể được đề bạt và bồi dưỡng hay không. Họ không nhìn ra được người thực sự phù hợp để được đề bạt và bồi dưỡng, nhưng lại đề bạt những người không đáp ứng yêu cầu và nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời một cách vô cùng nhiệt tình, mau lẹ. Họ đề bạt hết thảy những phú bà, phú ông, cậu ấm, cô chiêu trong hội thánh, cũng như những người từng làm quan ngoài thế tục, những người hoạt ngôn, và những người biết cách gian lận, lừa gạt. Tóm lại là hễ ai có uy tín danh dự ngoài thế tục, hễ ai ưa thích xuất đầu lộ diện, thì đều được họ đề bạt. Họ cho rằng những người này mới là nhân tài, và không nhìn thấy hay đề bạt được một người nào thực sự có năng lực lĩnh hội và có thể tiếp nhận lẽ thật. Nếu yêu cầu lãnh đạo giả cung cấp một nhân tài thực sự đạt tiêu chuẩn cho nhà Đức Chúa Trời, thì việc này còn khó hơn cả lên cung Trăng. Chẳng hạn như nhà Đức Chúa Trời hiện đang cần những nhân tài cho công tác văn tự và trong hội thánh mà lãnh đạo giả phụ trách có một người như vậy, nhưng lãnh đạo giả lại không đưa tên người đó lên. Khi được hỏi tại sao lại không đề bạt hoặc bồi dưỡng người đó, lãnh đạo giả nói: “Người đó thời đại học đã tà dâm hai lần, nhưng từ khi kết hôn thì không tái phạm nữa. Tôi không biết có nên đề bạt họ hay không”. Nói kiểu gì vậy? Ngươi có thể đảm bảo rằng những người có tiền, có thế mà mình đề bạt chưa bao giờ tà dâm không? Chẳng phải những người đó còn tà dâm nhiều hơn sao? Sao ngươi lại không thấy được điều đó chứ? Lãnh đạo giả còn giả thuộc linh nữa, giả vờ biết chút nguyên tắc, và kiếm cớ bao biện khi không đề bạt những người lẽ ra nên được đề bạt và bồi dưỡng. Trong mắt họ, ai cũng không bằng họ. Cuối cùng thì sao? Những “tinh anh”, “nhân tài” mà lãnh đạo giả đề bạt có đứng vững không? Chúng ta không nói rằng những người này chắc chắn không phải là người tốt. Điều chúng ta chủ yếu vạch trần là nguyên tắc mà lãnh đạo giả dùng để đối đãi người ta là sử dụng những quan niệm của con người làm thước đo thay vì lẽ thật, và nguyên tắc mà họ dùng để đề bạt, bồi dưỡng người ta là dựa trên những quan niệm, tưởng tượng và ý thích riêng của mình, hoàn toàn dựa trên quan điểm của người ngoại đạo, thay vì sử dụng các tiêu chuẩn mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu để làm thước đo. Tại sao lãnh đạo giả lại có thể làm vậy? Bởi vì lãnh đạo giả không hiểu lẽ thật hay tâm ý của Đức Chúa Trời, nên mới có thể đề bạt những người căn bản là không phù hợp với yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời, rồi chú trọng bồi dưỡng họ, và để cho họ đảm nhiệm những công tác quan trọng trong nhà Đức Chúa Trời. Đó chính là công tác mà lãnh đạo giả làm. Nhìn những lãnh đạo giả xung quanh ngươi mà xem, có phải họ làm công tác và đối đãi với người ta như vậy không?
Lãnh đạo giả thường bộc lộ một loại quan điểm: họ cho rằng những người có tri thức, có địa vị và từng làm quan ngoài thế tục đều là nhân tài, và những người như thế, sau khi tin Đức Chúa Trời, nên được nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng và sử dụng. Họ đặc biệt xem trọng và sùng bái những người đó – thậm chí còn đối đãi với những người đó như người thân, người nhà của chính mình. Khi giới thiệu những người này với người khác, họ thường nói rằng ở ngoài thế tục, những người này từng là ông chủ doanh nghiệp, lãnh đạo ban ngành chính phủ, biên tập viên tòa báo hoặc trưởng phòng công an, còn nói rằng những người này giàu có lắm. Lãnh đạo giả đặc biệt coi trọng dạng người này. Các ngươi nói xem, lãnh đạo giả có tố chất không? Chẳng phải là họ giả thuộc linh, và không nhìn thấu được sự việc sao? Lãnh đạo giả cho rằng vì những người này là nhân tài trong xã hội, nên khi họ đến đây, nhà Đức Chúa Trời nên bồi dưỡng và trọng dụng họ. Quan điểm này có đúng không? Có phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật không? Nếu những người này không hề yêu thích lẽ thật, cũng không có lương tâm hay lý trí, liệu họ có thể được nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng và trọng dụng không? Họ không đạt tiêu chuẩn để được bồi dưỡng. Việc họ là nhân tài trong đám người ngoại đạo không có nghĩa rằng họ là nhân tài trong nhà Đức Chúa Trời, nhưng những lãnh đạo giả này lại ưa thích làm quan, và đặc biệt sùng bái những người từng là quan chức. Hễ thấy những người từng là quan chức hoặc có địa vị ngoài thế tục, họ khom lưng cúi đầu và ra vẻ thấp hèn như nô tài gặp chủ, thiếu điều muốn gọi họ là cha ruột, mẹ ruột, anh ruột, chị ruột. Họ chỉ muốn cho những người này được đề bạt làm lãnh đạo hoặc người làm công trong hội thánh. Nói Ta nghe, những người này có phải là người mưu cầu lẽ thật không? Họ có chút địa vị và chút danh vọng ngoài thế tục thì có nghĩa rằng họ phù hợp làm lãnh đạo hoặc người làm công trong nhà Đức Chúa Trời sao? Nếu họ không hiểu lẽ thật và đầy những tâm tính kiêu ngạo, tự đại, thì họ có xứng đáng là lãnh đạo hoặc người làm công trong nhà Đức Chúa Trời không? Chỉ chú trọng vào địa vị, danh vọng, mà phớt lờ phẩm chất nhân tính của người ta, đề bạt người như vậy thì có phù hợp với nguyên tắc không? Lãnh đạo giả có biết Đức Chúa Trời thích loại người nào, Ngài đề bạt và dùng loại người nào không? Nhiều lần, sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời đã nhấn mạnh rằng việc đề bạt và bồi dưỡng người ta phải dựa trên ba tiêu chuẩn: thứ nhất, họ buộc phải có nhân tính, lương tâm và lý trí; thứ hai, họ buộc phải là người yêu thích lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật; và thứ ba, họ buộc phải có một mức độ tố chất nhất định và năng lực công tác. Chỉ những người đáp ứng ba tiêu chuẩn này mới có thể được đề bạt và bồi dưỡng, mới có tư cách là ứng cử viên cho vị trí lãnh đạo hoặc người làm công. Chỉ có tố chất và tài năng thôi thì tuyệt đối không được. Phẩm chất nhân tính là trên hết, tiếp đến, nhất định phải có thể tiếp nhận lẽ thật – hai điều này là những tiêu chuẩn quan trọng nhất. Nếu đề bạt kẻ ác không yêu thích lẽ thật, thì hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi, cho nên tuyệt đối không được phép đề bạt những người không có nhân tính. Nhưng lãnh đạo giả lại phớt lờ yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời. Khi lựa chọn và dùng người, họ luôn chú trọng việc người đó có địa vị trong xã hội hay không, nền tảng và thân phận của họ là gì, họ có trình độ học vấn cao hay không, và danh vọng trong xã hội của họ cao hay thấp – đây là những khía cạnh mà họ chú trọng khi đề bạt và bồi dưỡng người ta. Điều này có phù hợp với các nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời quy định không? Có phù hợp với lẽ thật của lời Đức Chúa Trời không? Những người có địa vị trong xã hội là ai? Có thể nói rằng họ đều là những người tranh giành quyền lực và địa vị một cách không từ thủ đoạn, và họ thuộc về Sa-tan. Nếu họ nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời, liệu nhà Đức Chúa Trời có còn là hội thánh của Đức Chúa Trời nữa không? Mục đích của lãnh đạo giả khi đề bạt những người thuộc về Sa-tan lên làm lãnh đạo rốt cuộc là gì? Làm vậy có phù hợp với các nguyên tắc đề bạt, bồi dưỡng và dùng người của nhà Đức Chúa Trời không? Chẳng phải nó làm nhiễu loạn và phá hoại trắng trợn công tác của hội thánh sao? Việc đề bạt và bồi dưỡng người vô nguyên tắc của lãnh đạo giả chính là thứ gây ra sự nhiễu loạn và gián đoạn lớn nhất đối với công tác của hội thánh, và là một cách chống đối Đức Chúa Trời.
Lãnh đạo giả có tố chất quá kém và không có năng lực lĩnh hội lẽ thật. Dù có nghe bao nhiêu bài giảng hay đọc bao nhiêu lời Đức Chúa Trời, họ vẫn không có được sự lĩnh hội thuần khiết hay hiểu lẽ thật. Dù có giảng đạo lý trong bao nhiêu năm, họ cũng không hiểu mình đang nói cái gì, chỉ toàn nói bậy nói bạ, ăn nói lung tung! Họ có thể ghi nhớ và giảng một chút đạo lý thì liền cho rằng mình đã có thực tế lẽ thật, nhưng những việc họ làm không liên quan gì đến lẽ thật – đây chính là người Pha-ri-si điển hình. Bề ngoài, có vẻ như họ hay giảng đạo cho mọi người, và nói những điều đặc biệt êm tai, như thể họ hiểu lẽ thật, nhưng những gì họ làm lại trái ngược với lẽ thật, đi ngược lại lẽ thật. Họ còn tự nhận rằng mình đang phụng sự Đức Chúa Trời và làm công tác của hội thánh, trong khi trên thực tế, mọi việc họ làm đều hoàn toàn đối địch với Đức Chúa Trời. Lãnh đạo giả không bao giờ đề bạt nhân tài hữu dụng cho nhà Đức Chúa Trời, họ phớt lờ và nhắm mắt làm ngơ trước những người tương đối trung thực và thực sự mưu cầu lẽ thật. Thay vào đó, họ đề bạt và bồi dưỡng những kẻ nịnh nọt, những kẻ lươn lẹo, giả dối, và những kẻ có dã tâm, dục vọng để đảm đương công tác trong hội thánh. Kết quả là sau khi những người đó làm việc được một thời gian, thì các hạng mục công tác khác nhau của hội thánh đều đi vào ngừng trệ, gần như rơi vào tình trạng tê liệt, vì thế công tác của hội thánh bị hủy hoại dưới tay của những lãnh đạo giả này. Loại người như lãnh đạo giả có đáng ghét không? Có nên cách chức họ không? Bắt buộc phải cách chức! Chậm trễ một ngày là ảnh hưởng đến công tác của hội thánh một ngày. Có những lãnh đạo giả, mặc dù biết mình không làm được công tác thực tế, cũng không sẵn lòng chủ động từ chức, mà luôn đam mê lợi ích của địa vị, không tiếc gây tổn hại cho công tác của hội thánh. Đây có phải loại người không có chút lý trí nào không? Lãnh đạo giả không có năng lực lĩnh hội hay thực tài, thực học gì, và không phải là người mưu cầu lẽ thật, đã thế còn tham hưởng lợi ích của địa vị – họ là kẻ không biết xấu hổ; cho nên tuyệt đối không được đề bạt và bồi dưỡng họ. Nếu ngươi cho rằng tố chất của ngươi rất kém, và ngươi không có khả năng phân biệt đúng sai, không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, thì tuyệt đối đừng buông thả dã tâm và dục vọng của mình, đừng suy nghĩ làm sao để trở thành người có chức vụ trong hội thánh – để trở thành lãnh đạo hội thánh – làm lãnh đạo không dễ thế đâu. Nếu ngươi không phải là người trung thực và không có lòng yêu thích lẽ thật, thì ngay khi trở thành lãnh đạo, nếu không phải là kẻ địch lại Đấng Christ thì ngươi cũng là lãnh đạo giả. Cho dù là kẻ địch lại Đấng Christ hay lãnh đạo giả, đó đều là người không có lương tâm, lý trí, là người có thể hành ác và làm nhiễu loạn công tác của hội thánh. Nói kẻ địch lại Đấng Christ là ma quỷ và Sa-tan thì không sai, nhưng lãnh đạo giả cũng không phải là người tốt; ít nhất, họ cũng là kẻ mặt dày vô liêm sỉ, không có lương tâm, lý trí. Là lãnh đạo giả và bị cách chức thì có vinh quang không? Đó là một nỗi nhục, một vết nhơ, tuyệt đối không phải là chuyện gì vinh quang cả. Nếu ngươi có ý thức gánh vác đối với công tác của hội thánh, và muốn tham gia vào đó, thì đây là chuyện tốt; nhưng ngươi phải phản tỉnh xem liệu mình có hiểu lẽ thật hay không, liệu mình có thể thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề không, liệu mình có thể thực sự thuận phục công tác của Đức Chúa Trời không và liệu mình có thể làm tốt công tác của hội thánh dựa theo sự sắp xếp công tác hay không. Nếu đáp ứng các tiêu chí này, ngươi có thể tự ứng cử làm lãnh đạo hoặc người làm công. Ý của Ta khi nói điều này là chí ít, con người phải có sự tự nhận thức về bản thân. Trước tiên, hãy xem liệu ngươi có thể phân định được những loại người khác nhau hay không, liệu ngươi có hiểu lẽ thật và có thể hành sự theo nguyên tắc hay không. Nếu ngươi đáp ứng những yêu cầu này, ngươi phù hợp để làm lãnh đạo hoặc người làm công. Nếu ngươi không thể tự đánh giá bản thân mình, ngươi có thể hỏi những người xung quanh, những người thân quen hoặc gần gũi với ngươi. Nếu tất cả đều nói rằng tố chất của ngươi chưa đạt đến điều kiện để làm lãnh đạo, rằng nếu ngươi có thể làm tốt công tác thuộc chức phận hiện tại của mình thì đã không tệ rồi, thì ngươi phải gấp rút nhận biết bản thân. Là người có tố chất kém thì đừng có lúc nào cũng muốn trở thành lãnh đạo – cứ làm điều ngươi có thể làm, làm tốt bổn phận của mình một cách đến nơi đến chốn, để ngươi có thể được bình an trong lòng, như vậy cũng là không tệ rồi. Nếu ngươi có khả năng làm lãnh đạo, nếu ngươi thực sự có tố chất và năng lực đó, nếu ngươi có năng lực công tác và ý thức gánh vác, thì ngươi chính xác là kiểu người nhà Đức Chúa Trời còn thiếu, và ngươi chắc chắn sẽ được đề bạt và bồi dưỡng; nhưng có thời điểm của Đức Chúa Trời trong mọi sự. Mong muốn này của ngươi – mong muốn được đề bạt – không phải là dã tâm, nhưng ngươi phải có tố chất và đủ điều kiện để làm lãnh đạo. Nếu ngươi có tố chất kém nhưng lúc nào cũng muốn làm lãnh đạo, hoặc muốn đảm nhận nhiệm vụ quan trọng nào đó, hoặc phụ trách toàn bộ công tác, hay làm điều gì đó để khiến mình nổi bật, thì Ta nói cho ngươi biết: đó là dã tâm. Ngươi nên cảnh giác với dã tâm; dã tâm có thể mang lại tai họa. Con người đều có lòng cầu tiến và sẵn sàng phấn đấu vì lẽ thật, như thế không có vấn đề gì. Một số người có tố chất và đủ điều kiện làm lãnh đạo, có thể vươn tới lẽ thật, đây là chuyện tốt. Còn một số người không có tố chất thì nên giữ lấy bổn phận của mình, làm tốt bổn phận hiện tại của mình đã, làm theo nguyên tắc và theo yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời. Thế là tốt hơn, an toàn hơn và thực tế hơn đối với họ.
Những người được bầu chọn làm lãnh đạo và người làm công, hoặc được đề bạt và bồi dưỡng cũng đừng có tâm lý cầu may, cảm thấy: “Trong số nhiều người như vậy mà các anh chị em chọn mình, nhà Đức Chúa Trời đề bạt mình, vậy thì mình quả thực có chút tài năng, giỏi hơn người thường; vàng thật sớm muộn cũng phát sáng”. Nghĩ như vậy có tốt không? Đó chẳng phải là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại sao? (Thưa, phải.) Được đề bạt và bồi dưỡng là một chuyện tốt, một cơ hội tốt, nhưng liệu ngươi có thể đi tốt con đường này hay không thì còn tùy thuộc vào cách ngươi tiếp cận cơ hội này và liệu ngươi có thể trân quý nó hay không. Đức Chúa Trời đã trao cho ngươi cơ hội này, nhưng điều đó không có nghĩa rằng ngươi thực sự tốt hơn bất kỳ ai khác; có thể là tố chất của ngươi tốt hơn người khác một chút hoặc ngươi có chút ân tứ, nhưng khó mà nói rằng lối vào sự sống của ngươi như thế nào hoặc liệu ngươi có thực tế lẽ thật hay không – bởi vì tâm tính bại hoại của mỗi người đều như nhau, và ngươi cũng là một thành viên của nhân loại bại hoại. Nếu ngươi có thể nhận ra điều này, thì ngươi sẽ có thể tiếp cận việc được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng một cách đúng đắn. Ngươi không nên coi mình là nhân tài, cũng không nên cho rằng mình đã có thực tế lẽ thật. Chỉ là ngươi có chút tố chất, cũng như có thể phấn đấu vươn tới lẽ thật, nên ngươi đã được tạo điều kiện để rèn luyện bản thân. Đây là giai đoạn thử việc, và vẫn chưa chắc chắn rốt cuộc ngươi có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, hoặc ngươi có xứng đáng được bồi dưỡng hay không. Khó mà nói được liệu ngươi sẽ có thể đứng vững sau khi được cho thử thách trong giai đoạn này hay không. Có thể ngươi được giữ lại để tiếp tục được bồi dưỡng, cũng có thể ngươi bị đào thải – tất cả tùy thuộc vào việc ngươi nỗ lực thế nào. Đề bạt nhân sự làm lãnh đạo và người làm công chính là vậy, và ngươi nên hiểu điều đó. Ngươi tự cho mình là nhân tài, như vậy là không được. Nếu nhà Đức Chúa Trời không đề bạt ngươi và bồi dưỡng ngươi, thì ngươi chẳng là cái gì cả. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật và không sẵn lòng để cho nhà Đức Chúa Trời sử dụng, thì ngươi chẳng làm được việc gì. Nếu như ngươi nói: “Nhà Đức Chúa Trời không dùng tôi thì tôi sẽ ra ngoài xã hội”, vậy thì ra ngoài xã hội thử đi, xem ai đề bạt ngươi, xem ngươi làm được việc gì. Ta nói vậy ý là để nói với các ngươi rằng các ngươi phải có sự lĩnh hội và cách tiếp cận đúng đắn đối với việc được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng. Những người có tố chất kém hoặc trung bình, và không đáp ứng được tiêu chuẩn đề bạt và bồi dưỡng theo yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời thì chỉ cần làm tốt bổn phận của mình một cách thật thà là được. Chỉ cần họ làm bổn phận hết lòng, hết trí khôn, thì Đức Chúa Trời sẽ không đối xử bất công với họ. Cho nên, đừng có tranh giành chuyện được đề bạt và bồi dưỡng, cũng đừng cự tuyệt, cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên. Một mặt, ngươi phải thuận phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, mặt khác, ngươi phải có lòng thuận phục Đức Chúa Trời – như vậy mới đúng. Làm vậy có đơn giản không? (Thưa, có.) Người có tố chất kém làm lãnh đạo thì có ích lợi gì không? Cuối cùng, khi họ bị xác định là lãnh đạo giả và bị đào thải, họ sẽ cảm thấy thế nào? Đó có phải là điều các ngươi mong muốn không? (Thưa, không.) Ngươi sẽ mang danh “lãnh đạo giả” trên đầu, đi đến đâu, người ta cũng nói người này từng là lãnh đạo giả. Đây là chuyện tốt hay xấu? Đây không phải là chuyện tốt, cũng không phải là điều gì vinh quang cả. Con người phải có sự lĩnh hội và thái độ đúng đắn đối với sự đề bạt và bồi dưỡng. Về chuyện này, họ phải tìm kiếm lẽ thật chứ đừng làm theo ý mình, cũng đừng có những dã tâm và dục vọng. Nếu ngươi cảm thấy mình có tố chất tốt nhưng nhà Đức Chúa Trời chưa bao giờ đề bạt ngươi hay có ý định bồi dưỡng ngươi, thì đừng nản lòng hay bắt đầu ca thán, hãy cứ tập trung mưu cầu lẽ thật và cố gắng trở nên tốt hơn; khi ngươi có vóc giạc nhất định và có thể làm công tác thực tế, dân được Đức Chúa Trời chọn tự nhiên sẽ chọn ngươi làm lãnh đạo. Nếu ngươi cảm thấy mình có tố chất kém, sau này cũng không có cơ hội để được đề bạt và bồi dưỡng, và không thể nào thỏa mãn được dã tâm của mình, thì đây chẳng phải là chuyện tốt sao? Điều này sẽ bảo vệ ngươi! Khi ngươi có tố chất kém, nếu gặp phải một đám những kẻ hồ đồ mù quáng chọn ngươi làm lãnh đạo của họ, thì chẳng phải ngươi sẽ như đi trên than nóng sao? Ngươi không có khả năng làm bất kỳ công tác gì, ngươi mù mắt và mù tâm. Ngươi đụng tay vào chuyện gì cũng gây gián đoạn, từng động thái của ngươi đều là hành ác. Tốt hơn hết là ngươi nên làm tốt công tác thuộc chức phận của mình; chí ít ngươi cũng không làm xấu mặt mình, và điều này còn tốt hơn là trở thành một lãnh đạo giả và trở thành mục tiêu của việc bị nói xấu sau lưng. Là người thì phải biết tự lượng sức mình, ngươi phải có chút nhận thức về bản thân; nếu được vậy, ngươi sẽ có thể tránh đi sai đường và mắc phải những sai lầm nghiêm trọng.
Các ngươi muốn là lãnh đạo giả, hay là một người đi theo bình thường? (Thưa, một người đi theo bình thường.) Nếu các anh chị em thật sự bầu cho ngươi thì ngươi cũng có thể thử xem, có thể họ nhìn nhận đúng về ngươi hơn là ngươi tự cảm nhận về mình. Nếu các anh chị em nghĩ rằng ngươi có thể làm được, thì ngươi hãy cố gắng hết sức mình. Nếu ngươi thực sự cố gắng hết sức rồi nhưng vẫn không làm tốt công tác, và lòng ngươi bồn chồn lo lắng, ăn không ngon ngủ không yên, không biết làm sao để làm tốt công tác, vậy thì đừng làm lãnh đạo hay người làm công nữa; nó quá khó đối với ngươi. Nếu tiếp tục, e rằng ngươi sẽ trở thành một lãnh đạo giả. Trong trường hợp đó, ngươi nên viết đơn từ chức, tuyên bố rằng: “Bởi vì tôi có tố chất kém và không làm được công tác thực tế, nên nếu tôi tiếp tục làm lãnh đạo, thì chẳng bao lâu nữa, chắc chắn tôi sẽ thành lãnh đạo giả, nên tôi xin từ chức và tình nguyện từ bỏ vị trí này”. Đây là hành động khôn ngoan, làm như vậy thật quá thích hợp! Nó có lý tính, còn hơn là chiếm giữ vị trí và làm lãnh đạo giả. Nếu ngươi biết rõ rằng mình có tố chất kém và không làm lãnh đạo được, nhưng lại không nỡ từ bỏ địa vị, và tự nhủ: “Tại sao mình không thể làm vậy được nhỉ? Ai có thể giúp tôi chút đi? Ai bày mưu, tính kế cho tôi để tôi duy trì địa vị lãnh đạo được thì tốt biết mấy! Hiện tại, không ai phù hợp để thay thế mình cả, nên mình chỉ có thể tiếp tục làm lãnh đạo và tận hưởng niềm vui mỗi ngày trong công tác này thôi. Dù không làm được công tác, thì mình vẫn là lãnh đạo, là lãnh đạo tốt hơn là anh chị em bình thường. Nếu nhà Đức Chúa Trời không cách chức mình và mình không bị các anh chị em bãi miễn, thì mình sẽ không từ chức”. Như vậy có phù hợp không? (Thưa, không.) Tại sao không phù hợp? (Thưa, như vậy là không có lý trí; nếu họ không làm được công tác thực tế, nhưng vẫn không từ chức, thì sẽ chỉ làm trì hoãn công tác của hội thánh.) Hành động như thế sẽ làm trì hoãn công tác của nhà Đức Chúa Trời, hại người hại mình. Ngươi có biết làm lãnh đạo nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là ngươi có mối quan hệ trực tiếp với lối vào sự sống của nhiều người, và sự dẫn dắt của ngươi có mối quan hệ trực tiếp với cách họ bước đi trên con đường trước mặt họ. Nếu ngươi dẫn dắt tốt, đưa họ bước vào con đường đúng đắn thì họ sẽ đi trên con đường đúng đắn. Nếu ngươi dẫn dắt kém, và đưa họ vào cái rãnh, và họ trở thành người Pha-ri-si như ngươi, thì tội của ngươi rất lớn! Ngươi phạm tội lớn xong thì hết chuyện sao? Đức Chúa Trời sẽ ghi tội này của ngươi lại! Rõ ràng biết rằng tố chất của mình kém cỏi, rằng mình là một lãnh đạo giả, không làm được công tác thực tế, ấy thế mà ngươi không thừa nhận lỗi lầm và từ chức, mà trơ trẽn bám lấy vị trí của mình, không cho phép bất kỳ ai khác có được nó. Đây là tội lỗi, và Đức Chúa Trời sẽ ghi lại. Và sự ghi lại của Ngài sẽ tốt hay xấu cho ngươi trong tương lai? Ngươi sẽ gặp rắc rối! Ta sẽ nói cho ngươi sự thật: Đức Chúa Trời ghi lại những điều như vậy cho mỗi một người, và mỗi một chuyện đều được viết ra một cách rõ ràng. Nếu một chuyện nghiêm trọng như vậy xảy ra trên con đường dẫn đến sự cứu rỗi của ngươi, thì tác động đối với ngươi sẽ rất lớn! Tuyệt đối đừng bước đi trên con đường này, và đừng là loại người này.
Chúng ta vừa thông công ngắn gọn về một số cách làm và biểu hiện của lãnh đạo giả trong việc đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài. Tóm lại, loại người là lãnh đạo giả không làm công tác thực tế và cũng không làm được công tác thực tế. Tố chất của họ kém, họ mù mắt, mù tâm, không phát hiện được vấn đề, cũng không nhìn thấu được các loại người, nên không gánh vác nổi công tác quan trọng là đề bạt và bồi dưỡng các loại nhân tài. Vì thế, họ không cách nào làm tốt công tác của hội thánh được, và sẽ gây nhiều khó khăn cho lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn. Từ những yếu tố này, rõ ràng là lãnh đạo giả không phù hợp để làm lãnh đạo hội thánh. Lại có những lãnh đạo giả không làm công tác cụ thể của hội thánh và không tiếp xúc với những người phụ trách công tác cụ thể, nên không biết nhân tài nào có thể làm công tác gì, cũng không biết người nào phù hợp với công tác gì, hay liệu họ có làm việc hợp nguyên tắc hay không. Cho nên, họ không thể đề bạt và bồi dưỡng nhân tài được. Vậy thì dạng người này làm sao có thể làm tốt công tác của hội thánh được đây? Nguyên nhân chủ yếu của việc lãnh đạo giả không làm được công tác thực tế là do tố chất của họ kém; chuyện gì cũng nhìn không thấu và cũng không biết công tác thực tế là gì. Nó khiến cho công tác của hội thánh thường xuyên rơi vào tình trạng đình trệ hoặc tê liệt. Điều này liên quan trực tiếp đến việc lãnh đạo giả không làm công tác thực tế. Trong vài năm qua, nhà Đức Chúa Trời đã nhiều lần nhấn mạnh rằng phải thanh lọc kẻ ác và kẻ chẳng tin, phải cách chức lãnh đạo giả và người làm công giả. Tại sao lại phải thanh lọc các loại kẻ ác và kẻ chẳng tin? Bởi vì sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, những người này vẫn không hề tiếp nhận lẽ thật và đã đến mức không thể cứu vãn. Thế còn tại sao phải cách chức hết thảy những lãnh đạo giả và người làm công giả? Bởi vì họ không làm công tác thực tế, và không bao giờ đề bạt hoặc bồi dưỡng những người mưu cầu lẽ thật; mà chỉ làm những chuyện tốn công vô ích. Nó khiến công tác của hội thánh rơi vào hỗn loạn, tê liệt, những vấn đề tồn tại vẫn cứ lần lữa không được giải quyết, đồng thời làm chậm lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn. Nếu cách chức được hết thảy những lãnh đạo giả và người làm công giả này, nếu thanh trừ được hết thảy những kẻ ác và kẻ chẳng tin quấy nhiễu hội thánh này, thì công tác của hội thánh sẽ tự nhiên suôn sẻ, đời sống của hội thánh sẽ tự nhiên ngày càng tốt hơn nhiều, dân được Đức Chúa Trời chọn sẽ có thể ăn uống lời Đức Chúa Trời và làm bổn phận một cách bình thường, cũng như bước vào con đường đúng đắn của đức tin nơi Đức Chúa Trời. Đây là điều Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy.
Ngày 27 tháng 2 năm 2021