Những lời về việc thực hiện bổn phận
Trích đoạn 30
Bổn phận là gì? Sự ủy thác mà Đức Chúa Trời trao cho con người chính là bổn phận mà con người nên thực hiện. Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi chuyện gì thì đó chính là bổn phận mà ngươi nên thực hiện. Thực hiện bổn phận thì phải học cách làm đến nơi đến chốn, đừng tham vọng viễn vông, đừng đứng núi này trông núi nọ, thích hợp làm việc này nhưng cứ muốn làm việc kia. Một số người thích hợp với việc tiếp đãi lại cứ muốn làm lãnh đạo, thích hợp làm diễn viên những vẫn muốn làm đạo diễn. Lúc nào cũng trèo cao thì không được. Ngươi phải tìm cho được, tìm cho chính xác vai trò và vị trí của bản thân – như vậy mới là người có lý trí. Sau đó, họ còn phải làm đến nơi đến chốn, làm tốt bổn phận của mình để báo đáp tình yêu của Đức Chúa Trời và làm Ngài hài lòng. Nếu thực hiện bổn phận với tâm thái này thì trong lòng họ sẽ bình an và vững vàng, sẽ có thể tiếp nhận lẽ thật trong việc thực hiện bổn phận, và sẽ dần dần đạt đến thực hiện bổn phận dựa theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Họ sẽ có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại, sẽ có thể thuận phục mọi sự sắp xếp của Đức Chúa Trời và sẽ có thể đạt đến thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn. Làm như vậy mới có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nếu ngươi có thể thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, và thực hiện bổn phận với tâm thái đúng đắn – tâm thái yêu kính Đức Chúa Trời và làm hài lòng Ngài, thì ngươi sẽ được công tác của Đức Thánh Linh dẫn dắt và dẫn đường. Khi thực hiện bổn phận, ngươi sẽ sẵn lòng thực hành lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc, sẽ có thể trở thành người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Như vậy thì ngươi sẽ sống thể hiện ra hình tượng giống con người thực sự. Sự sống của con người dần dần lớn lên khi thực hiện bổn phận. Người không thực hiện bổn phận, cho dù có tin bao nhiêu năm đi chăng nữa thì cũng không thể đạt được lẽ thật và sự sống, bởi vì họ không có sự chúc phúc của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời chỉ chúc phúc cho những ai thật lòng dâng mình cho Ngài và dùng hết khả năng của mình mà thực hiện bổn phận. Bất kể ngươi thực hiện bổn phận nào, bất kể ngươi có thể làm được gì, hãy xem đó là trách nhiệm và bổn phận của mình, tiếp nhận và làm tốt nó. Làm thế nào để làm tốt? Đức Chúa Trời yêu cầu như thế nào thì ngươi cứ làm như thế ấy, hết lòng, hết trí khôn và hết sức mình để làm tốt. Ngươi cứ suy xét những lời này và suy xét làm như thế nào mới có thể đạt đến hết lòng thực hiện bổn phận. Chẳng hạn như, khi nhìn thấy ai đó thực hiện bổn phận mà không có nguyên tắc, làm bừa theo ý họ, ngươi sẽ cảm thấy: “Tôi không quan tâm, dù sao cũng không phải là trách nhiệm của tôi”, như vậy thì có hết lòng thực hiện bổn phận hay không? Như vậy không phải là hết lòng thực hiện bổn phận, đây chính là không có trách nhiệm. Nếu là người có lòng trách nhiệm, khi gặp chuyện như vậy thì ngươi sẽ nói: “Không được, tuy rằng chuyện này không do tôi quản lý, nhưng tôi có thể phản ánh vấn đề này với lãnh đạo và để họ xử lý theo nguyên tắc”. Sau khi làm như vậy thì toàn thể mọi người đều sẽ thấy thích hợp, ngươi sẽ vững vàng trong lòng và sẽ làm hết trách nhiệm. Đây chính là đạt đến hết lòng thực hiện bổn phận. Nếu bất kể thực hiện bổn phận nào, ngươi cũng luôn không để tâm và nói rằng: “Chuyện này nếu làm một cách đơn giản, cưỡi ngựa xem hoa, làm chiếu lệ thôi thì cũng có thể xong việc. Dù sao thì cũng không ai tra xét, tôi cũng đã làm hết sức, tôi chỉ có bấy nhiêu kĩ năng, nghiệp vụ và năng lực cũng không mạnh, làm xong việc là được rồi. Hơn nữa, chuyện này cũng không ai hỏi đến hay làm căng với tôi, cũng không quan trọng như vậy đâu”. Nếu có ý định và tâm thái này thì có phải là hết lòng thực hiện bổn phận hay không? Đây không phải là hết lòng thực hiện bổn phận, đây là qua loa chiếu lệ và chính là bộc lộ tâm tính bại hoại của Sa-tan. Dựa vào tâm tính Sa-tan để thực hiện bổn phận thì có thể đạt đến hết lòng thực hiện bổn phận hay không? Sẽ không đạt đến hết lòng thực hiện bổn phận. Vậy thì hết lòng thực hiện bổn phận là gì? Ngươi sẽ nói: “Mặc dù chuyện này Bề trên cũng chưa từng hỏi đến và có vẻ như cũng không quan trọng lắm trong số tất cả những công tác của nhà Đức Chúa Trời, nhưng tôi cũng phải làm tốt nó – đây là bổn phận của tôi. Có quan trọng hay không là một chuyện, việc tôi có thể làm tốt hay không lại là chuyện khác”. Điều gì mới là quan trọng? Ngươi có thể làm tốt hay không, có thể hết lòng thực hiện bổn phận hay không, có thể tuân thủ nguyên tắc và thực hành theo lẽ thật hay không, chuyện này mới quan trọng. Nếu ngươi có thể thực hành được lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc, thì chính là đã hoàn toàn hết lòng thực hiện bổn phận. Nếu ngươi đã làm tốt một loại bổn phận, nhưng vẫn chưa hài lòng mà muốn thực hiện một loại bổn phận còn quan trọng hơn, và cũng có thể làm tốt nó, thì đây lại càng là hết lòng thực hiện bổn phận. Việc ngươi có thể đạt đến hết lòng thực hiện bổn phận có ngụ ý gì? Một mặt là ngươi đã theo nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời mà làm việc; mặt khác, ngươi đã tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời và có Đức Chúa Trời trong lòng. Ngươi không làm cho ngươi khác xem, không làm theo tính khí hoặc sở thích của bản thân, mà coi đó là sự ủy thác của Đức Chúa Trời và thực hiện nó với trách nhiệm và bằng tấm lòng, không phải là làm theo ý mình mà hoàn toàn là làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Ngươi đã làm bằng cả tấm lòng – đây gọi là hết lòng thực hiện bổn phận. Một số người không hiểu lẽ thật về việc thực hiện bổn phận, mới chịu khổ một chút đã oán trách và luôn so đo về lợi ích, được mất của cá nhân mình. Trong lòng họ cảm thấy: “Nếu tôi làm tốt công tác mà lãnh đạo giao cho thì sẽ mang lại thể diện và vinh quang cho họ, nhưng ai sẽ nhớ đến tôi? Sẽ chẳng ai biết rằng lúc làm là tôi, còn lúc lĩnh công thì là lãnh đạo. Tôi thực hiện bổn phận như vậy, chẳng phải là đem sức lực phục vụ cho người khác sao?”. Đây là tâm tính gì? Đây là phản nghịch, là loại người vô lý. Họ không có lĩnh hội đúng đắn về sự ủy thác của Đức Chúa Trời. Họ luôn muốn làm quan, luôn muốn được lĩnh công, xin phần thưởng, và làm cho mình vẻ vang. Tại sao họ luôn chú trọng đến danh lợi? Điều này cho thấy dục vọng đối với danh lợi của họ rất lớn. Họ sẽ không biết rằng thực hiện bổn phận là làm hài lòng Đức Chúa Trời, và rằng Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng con người. Họ không có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời, nên họ quy định dựa trên những sự thật mà họ có thể tận mắt nhìn thấy, rồi nảy sinh quan điểm sai lầm. Họ sẽ có thể tiêu cực và biếng nhác, không thể hết lòng và hết sức thực hiện bổn phận. Bởi vì trong lòng họ không có đức tin chân thực và cũng không biết rằng Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng con người, nên họ chỉ chú trọng thực hiện bổn phận để người khác nhìn thấy, chịu khổ, chịu vất vả cũng để người khác nhìn thấy, còn phải được lãnh đạo và người làm công khen ngợi và tán thành. Họ cho rằng thực hiện bổn phận như vậy thì mới có giá trị, và để cho tất cả mọi người có thể nhìn thấy thì mới vẻ vang. Đây chẳng phải là đê hèn sao? Họ tin Đức Chúa Trời, nhưng chẳng những họ không có đức tin mà còn không tiếp nhận và không hiểu lẽ thật một chút nào. Người như vậy làm sao có thể làm tốt bổn phận? Đây chẳng phải là tâm tính có vấn đề sao? Nếu thông công về lẽ thật với họ mà họ còn không thể tiếp nhận, thì người như vậy có tâm tính của người tà ác. Họ không chuyên tâm vào việc chính đáng và không giữ bổn phận, sớm hay muộn thì họ phải bị loại bỏ. Người thực hiện bổn phận phải là người có nhân tính bình thường, phải có lý trí kiện toàn và phải có thể thuận phục mọi sự sắp đặt và sắp xếp của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ban cho con người những tố chất và ân tứ khác nhau, và mỗi người cũng thích hợp thực hiện những bổn phận khác nhau. Ngươi không được kén chọn, lựa chọn bổn phận dựa trên sở thích, hay chỉ chọn bổn phận nào an nhàn, thoải mái và phù hợp với nguyện vọng của bản thân mà làm. Như vậy là sai rồi. Đây không phải là hết lòng thực hiện bổn phận, cũng không phải là thực hiện bổn phận. Khi thực hiện bổn phận, trước hết phải làm được một điều là đặt hết lòng vào đó. Tiếp theo, bất kể làm gì, dù là việc lớn hay nhỏ, việc dơ bẩn hay vất vả, việc được làm trước mặt người khác hay ngoài tầm mắt của họ, việc quan trọng hay không quan trọng, ngươi đều có thể coi chúng là bổn phận mà hết lòng, hết trí khôn, và hết sức tuân thủ nguyên tắc này. Nếu sau khi làm tới làm lui mà bản thân ngươi cảm thấy có một số chuyện còn chưa đạt đến không thẹn với lương tâm, mặc dù ngươi đã đạt đến hết lòng làm một số chuyện, nhưng công tác vẫn không được làm tốt và kết quả của việc hết lòng không tốt lắm, vậy thì nên làm gì? Một số người ngẫm nghĩ: “Dù sao thì tôi cũng đã hết lòng thực hiện bổn phận rồi, nhưng kết quả không tốt lắm. Vậy thì chuyện không liên quan đến tôi nữa mà nằm ở chỗ Đức Chúa Trời”. Đây là loại quan điểm gì? Quan điểm như vậy có đúng không? Đây không phải là thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, bởi vì họ không sẵn lòng tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, không sẵn lòng làm hài lòng Đức Chúa Trời và vẫn còn có quan điểm qua loa chiếu lệ. Người như vậy dường như không có tấm lòng. Nếu nói hết lòng thực hiện bổn phận, thì phải dùng trọn tấm lòng, không được chân trong chân ngoài mà phải một lòng một dạ, chuyên tâm thực hiện bổn phận, dùng hết lòng trung thành và tâm thái trách nhiệm để làm tốt công việc, đạt đến kết quả cần phải đạt đến. Lúc đó mới gọi là hết lòng thực hiện bổn phận. Nếu ngươi nhìn thấy kết quả công tác không được tốt lắm và thầm nghĩ: “Dù sao thì tôi cũng đã hết lòng thực hiện bổn phận rồi. Tôi cũng đã quên ăn quên ngủ, đã thức đêm thức hôm, thỉnh thoảng người khác ra ngoài tản bộ, giải khuây mà tôi cũng không đi. Tôi đã chịu khổ và không tham hưởng sự an nhàn xác thịt. Đây chính là hết lòng thực hiện bổn phận”. Quan điểm này có đúng đắn không? Ngươi đã bỏ thời gian và ra sức. Nhìn bề ngoài, có vẻ như ngươi đã trải qua tất cả quá trình này, nhưng kết quả không tốt lắm, ngươi cũng không chịu trách nhiệm và không quan tâm. Đây có phải là hết lòng thực hiện bổn phận không? (Thưa, không phải.) Đây không phải là hết lòng thực hiện bổn phận. Đức Chúa Trời nhìn phương diện nào để xem liệu một người có hết lòng làm việc hay không? Một mặt, Ngài xem thử ngươi có tiếp cận việc này với thái độ nghiêm túc và có trách nhiệm hay không. Mặt khác, Ngài xem lòng ngươi nghĩ gì trong quá trình làm việc này. Xem ngươi có chuyên tâm thực hiện bổn phận mà ngươi nên thực hiện hay không, có một mực dựa theo nguyên tắc lẽ thật mà thực hiện bổn phận hay không. Xem khi gặp khó khăn, ngươi có chuyên tâm tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, để đạt đến làm tốt bổn phận hay không. Khi con người làm việc thì Đức Chúa Trời nhìn và dò xét. Từ đầu đến cuối, Ngài luôn xét kỹ lòng người. Con người không biết chuyện này, nhưng đôi khi họ có thể cảm giác được Đức Chúa Trời đang dò xét. Một số người luôn thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ. Cuối cùng, Đức Chúa Trời sắp xếp một hoàn cảnh để tiết lộ họ. Lúc này, bản thân họ cảm giác được rằng Đức Chúa Trời đã rời bỏ mình; mọi người cũng thấy rằng họ không giống người tin Đức Chúa Trời mà giống người ngoại đạo, giống ma quỷ và Sa-tan. Người như vậy đã bị loại bỏ trong lúc thực hiện bổn phận. Một số người thường hay tự phản tỉnh trong lúc thực hiện bổn phận. Có khi thì kết quả không tốt, có khi thì nảy sinh vấn đề, trong lòng họ đều có cảm giác: “Có phải mình lại qua loa chiếu lệ nữa không?”. Trong lòng họ cảm thấy bị quở trách. Tại sao lại có sự quở trách này? Đây là do Đức Chúa Trời thực hiện, là sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Vậy tại sao Đức Chúa Trời có thể khai sáng ngươi? Ngài dựa trên cơ sở nào để khai sáng ngươi? Ở trong bối cảnh như thế nào mà Ngài quở trách ngươi? Ngươi phải có tâm thái đúng đắn và nói: “Tôi phải hết lòng thực hiện việc này, và căn cứ theo lẽ thật mà làm chính là hết lòng thực hiện. Vậy thì tôi đã làm được việc hết lòng thực hiện bổn phận chưa?”. Nếu ngươi luôn suy ngẫm về chuyện này, Đức Chúa Trời sẽ khai sáng ngươi và khiến ngươi biết rằng: “Thì ra tôi đã không hết lòng làm việc kia. Tôi cứ cho rằng mình đã làm khá tốt và cho chính mình 99 điểm. Rốt cuộc bây giờ lại thấy không phải như vậy, tôi chỉ vừa đủ điểm”. Ngươi mới phát hiện rằng Đức Chúa Trời không hài lòng. Đây chính là Đức Chúa Trời đã khai sáng ngươi, khiến ngươi hiểu mình rốt cuộc thực hiện bổn phận ra làm sao và còn kém rất xa so với yêu cầu của Ngài. Nếu ai đó còn cách rất xa tiêu chuẩn trong việc thực hiện bổn phận, liệu Đức Chúa Trời còn có thể khai sáng họ không? Chắc là không thể. Đức Chúa Trời khai sáng cho những ai? Một là người yêu thích lẽ thật; hai là người có thái độ thuận phục; ba là người khao khát lẽ thật; và bốn là người có thể kiểm điểm và phản tỉnh chính mình về mọi mặt. Người như vậy sẽ có thể được Đức Chúa Trời khai sáng. Thực hành và trải nghiệm theo cách này thì thể nghiệm của ngươi trong việc hết lòng thực hiện bổn phận – phương diện thực hành lẽ thật và phương diện thực tế này – sẽ càng ngày càng nhiều. Người nào hết lòng hay không hết lòng thực hiện bổn phận, đủ các loại thái độ và biểu hiện của con người đối với bổn phận, ngươi sẽ dần dần hiểu rõ. Có thể nhận biết bản thân thì ngươi sẽ có thể phân định người khác, và sẽ càng ngày càng nghiêm túc trong việc thực hiện bổn phận. Một chút qua loa chiếu lệ ngươi cũng không bỏ qua và cũng có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết. Khi thực hiện bổn phận, ngươi sẽ có thể theo nguyên tắc mà làm việc, những lúc ngươi thực hành lẽ thật sẽ càng ngày càng nhiều, trong lòng ngươi sẽ vững vàng và bình an. Nếu một ngày nào đó, có một hạng mục bổn phận mà ngươi làm không được tốt lắm, và trong lòng ngươi cảm giác được chuyện này, thì ngươi nên làm gì? Ngươi phải suy ngẫm, tìm kiếm tài liệu, tìm người để hỏi, và chẳng biết từ lúc nào, ngươi sẽ hiểu ra. Điều này có tác dụng giúp đỡ ngươi thực hiện bổn phận không? (Thưa, có.) Nó có giúp đỡ. Thực hiện hạng mục bổn phận nào cũng đều như vậy, chỉ cần con người hết lòng mà làm, tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, kiên trì và không ngừng nỗ lực thì cuối cùng họ sẽ có thể đạt đến kết quả.
Trích đoạn 31
Vì con người có những tâm tính bại hoại thì họ thường qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận của mình. Đây là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất trong tất cả. Nếu người ta muốn thực hiện bổn phận của mình một cách đúng đắn, trước tiên họ phải giải quyết vấn đề về sự qua loa chiếu lệ này. Chừng nào họ có một thái độ qua loa chiếu lệ như vậy, họ sẽ không thể thực hiện bổn phận của mình một cách đúng đắn, nghĩa là việc giải quyết vấn đề về sự qua loa chiếu lệ là cực kỳ quan trọng. Vậy họ nên thực hành như thế nào? Thứ nhất, họ phải giải quyết vấn đề trạng thái tinh thần của họ; họ phải tiếp cận đúng đắn bổn phận của mình, và làm việc với sự nghiêm túc và ý thức trách nhiệm. Họ không được có ý định giả dối hoặc chiếu lệ. Bổn phận của một người được thực hiện cho Đức Chúa Trời, không phải cho bất kỳ người nào; nếu người ta có thể chấp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời thì họ sẽ có trạng thái tâm trí đúng đắn. Hơn nữa, sau khi làm việc gì đó, người ta phải kiểm tra, phản tỉnh về nó, và nếu họ cảm thấy có gì bất an trong lòng và sau khi kiểm tra chi tiết, họ phát hiện ra thực sự có vấn đề, thì họ phải thực hiện những sự thay đổi; một khi những thay đổi này đã được thực hiện, họ sẽ cảm thấy thanh thản trong lòng. Khi người ta cảm thấy bất an, điều này chứng tỏ có một vấn đề, và họ phải siêng năng kiểm tra những gì họ đã làm, đặc biệt là ở những giai đoạn mấu chốt. Đây là một thái độ có trách nhiệm đối với việc thực hiện bổn phận của một người. Khi một người có thể nghiêm túc, có trách nhiệm, và dốc toàn tâm toàn lực, công việc sẽ được thực hiện đúng cách. Đôi khi, ngươi ở trong trạng thái tâm trí sai lầm, và không thể tìm thấy hoặc phát hiện ra một sai lầm rõ ràng như ban ngày. Nếu ngươi ở trong trạng thái tâm trí đúng đắn, thì với sự khai sáng và hướng dẫn của Đức Thánh Linh, ngươi sẽ có thể phát hiện được vấn đề. Nếu Đức Thánh Linh hướng dẫn ngươi và cho ngươi nhận thức, cho phép ngươi cảm thấy sáng tỏ trong lòng và biết sai ở đâu thì khi đó ngươi sẽ có thể sửa sai và phấn đấu đạt được các nguyên tắc lẽ thật. Nếu ngươi đã ở trong trạng thái tâm trí sai lạc, lơ đãng, và bất cẩn, thì liệu ngươi có thể nhận ra sai lầm không? Ngươi sẽ không thể. Điều gì được nhìn thấy từ đây? Điều này cho thấy rằng để làm tròn bổn phận, điều rất quan trọng là con người phải hợp tác; tâm thái họ rất quan trọng, và họ hướng ý nghĩ và ý niệm của mình đi đâu là điều rất quan trọng. Đức Chúa Trời dò xét và có thể thấy người ta đang trong trạng thái tâm trí nào, và họ dành ra bao nhiêu năng lượng trong khi thực hiện bổn phận. Điều rất quan trọng là mọi người đặt toàn bộ tâm trí và sức mạnh của mình vào việc mình làm. Sự hợp tác của họ là một phần rất quan trọng. Chỉ khi con người cố gắng để không phải hối tiếc về những bổn phận mà họ đã hoàn thành và những điều họ đã làm, và không mắc nợ Đức Chúa Trời, họ mới hành động hết lòng và hết sức mình. Nếu ngươi thường xuyên không dồn hết tâm sức vào việc thực hiện bổn phận của mình, nếu ngươi qua loa chiếu lệ kinh niên, và gây ra tổn thất rất lớn cho công tác, và không hề đạt được hiệu quả như Đức Chúa Trời yêu cầu, thì chỉ có một điều có thể xảy ra với ngươi: ngươi sẽ bị đào thải. Và liệu có còn thời gian để hối tiếc không? Sẽ không còn. Những hành động này sẽ trở thành một nỗi tiếc nuối đời đời, một vết nhơ! Qua loa chiếu lệ kinh niên là một vết nhơ, đó là một sự vi phạm nghiêm trọng – phải hay không? (Thưa, phải.) Ngươi phải cố gắng thực hiện những nghĩa vụ của mình và mọi thứ ngươi phải làm, hết lòng hết sức mình, ngươi không được qua loa chiếu lệ, hoặc để lại bất kỳ điều gì đáng tiếc. Nếu ngươi có thể làm được điều đó, bổn phận mà ngươi thực hiện sẽ được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Những việc được Đức Chúa Trời ghi nhớ là những việc lành. Vậy thì, những điều gì không được Đức Chúa Trời ghi nhớ? (Thưa, đó là những sự vi phạm và những việc ác.) Ngươi có thể không chấp nhận chúng là những việc ác nếu chúng được mô tả như vậy trong hiện tại, nhưng nếu đến một ngày nào đó có những hậu quả nghiêm trọng xảy ra với những điều này, và chúng sinh ra sự ảnh hưởng tiêu cực thì ngươi sẽ cảm nhận rằng những vi phạm này không đơn thuần là một loại vi phạm về mặt hành vi, mà là những việc ác. Khi ngươi nhận ra điều này, ngươi sẽ hối hận, và thầm nghĩ: “Biết trước thế này tôi đã cẩn trọng rồi! Suy nghĩ và nỗ lực thêm một chút từ lúc bắt đầu thì lẽ ra đã có thể tránh được hậu quả này”. Không điều gì xóa được vết nhơ đời đời này khỏi lòng ngươi, và nếu nó khiến ngươi mang nợ mãi mãi thì ngươi gặp rắc rối rồi. Do đó hôm nay, ngươi phải cố gắng đặt hết tâm sức của mình vào sự ủy nhiệm được Đức Chúa Trời giao cho ngươi, thực hiện mọi bổn phận với lương tâm tinh sạch, không hối tiếc, và theo cách thức được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Dù ngươi làm gì, đừng qua loa chiếu lệ. Nếu ngươi bốc đồng mà phạm sai lầm và đó là một sự vi phạm nghiêm trọng thì điều này sẽ trở thành một vết nhơ đời đời. Một khi ngươi đã thấy tiếc nuối rồi thì cũng chẳng thể bù đắp được, và chúng sẽ vĩnh viễn là những niềm hối tiếc. Cả hai con đường này nên được nhìn thấy rõ ràng. Ngươi nên chọn con đường nào để xứng với sự ngợi khen của Đức Chúa Trời? Thực hiện bổn phận của mình hết lòng hết sức, và chuẩn bị, tích góp những việc lành mà không hối tiếc gì. Dù ngươi làm bất cứ điều gì, đừng làm điều ác, điều mà sẽ quấy rầy việc thực hiện bổn phận của người khác, đừng làm bất cứ điều gì đi ngược lại lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời, và đừng để phải hối hận cả đời. Hậu quả gì xảy ra khi một người đã mắc phải nhiều vi phạm? Họ đang tích góp sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời trong sự hiện diện của Ngài! Nếu ngươi vi phạm ngày càng nhiều và cơn phẫn nộ của Đức Chúa Trời đối với ngươi lớn hơn bao giờ hết thì cuối cùng, ngươi sẽ bị trừng phạt.
Bề ngoài, một số người dường như không có bất kỳ vấn đề gì nghiêm trọng suốt thời gian họ thực hiện bổn phận. Họ không làm việc gì rành rành là việc ác; họ không gây ra nhiễu loạn và gián đoạn, hoặc bước đi con đường của những kẻ địch lại Đấng Christ. Trong khi thực hiện bổn phận của mình, họ không có bất kỳ sai sót hay vấn đề nghiêm trọng nào về nguyên tắc, ấy thế mà, bất tri bất giác, trong vài năm ngắn ngủi, họ bị phơi bày là kẻ không hề chấp nhận lẽ thật và là một người không tin. Tại sao lại như vậy? Những người khác không thể nhìn ra vấn đề, nhưng Đức Chúa Trời dò xét kỹ nội tâm sâu thẳm của những người này, và Ngài nhìn ra vấn đề. Họ luôn qua loa chiếu lệ và không ăn năn khi thực hiện bổn phận của mình. Khi thời gian trôi qua, họ tự nhiên bị phơi bày. Vẫn không ăn năn nghĩa là gì? Nó có nghĩa là mặc dù thực hiện bổn phận xuyên suốt nhưng họ đã luôn có thái độ sai lạc với việc đó, thái độ qua loa chiếu lệ, thái độ thiếu nghiêm túc, và họ không bao giờ chu đáo, càng không hết lòng trong bổn phận. Họ có thể bỏ ra một chút nỗ lực, nhưng họ chỉ đang làm chiếu lệ. Họ không cống hiến hết mình cho bổn phận, và những vi phạm của họ không có hồi kết. Trong mắt Đức Chúa Trời, họ chưa bao giờ ăn năn; họ luôn qua loa chiếu lệ, và chưa bao giờ có bất kỳ sự thay đổi nào nơi họ – nghĩa là, họ không buông bỏ cái ác và ăn năn với Ngài. Đức Chúa Trời không thấy ở họ thái độ ăn năn, và Ngài không thấy một sự hoán cải trong thái độ của họ. Họ cố chấp khi đối xử với bổn phận của mình và sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời với một thái độ và phương pháp như vậy. Xuyên suốt, không có gì thay đổi trong tâm tính ngoan cố, cương ngạnh này, và hơn thế nữa, họ chưa bao giờ cảm thấy mắc nợ Đức Chúa Trời, chưa bao giờ cảm thấy rằng sự qua loa chiếu lệ của họ là một sự vi phạm, là hành ác. Trong lòng họ, không cảm thấy mắc nợ, không cảm thấy tội lỗi, không cảm thấy tự trách, càng không tự lên án mình. Và khi thời gian trôi qua đã lâu, Đức Chúa Trời thấy dạng người này là vô phương cứu chữa. Bất kể Đức Chúa Trời nói gì, và cho dù họ nghe bao nhiêu bài giảng hay họ hiểu được bao nhiêu lẽ thật, lòng họ cũng không bị cảm thúc và thái độ của họ không thay đổi hay xoay chuyển. Đức Chúa Trời thấy điều này và phán: “Không có hy vọng gì cho người này. Không điều gì Ta phán chạm đến lòng họ, và không điều gì Ta phán xoay chuyển được họ. Không có cách nào thay đổi họ. Người này không thích hợp để thực hiện bổn phận của họ, và họ không thích hợp để đem sức lực phục vụ trong nhà Ta”. Tại sao Đức Chúa Trời phán điều này? Đó là bởi vì khi họ thực hiện bổn phận và làm việc, họ luôn qua loa chiếu lệ. Dù họ có bị tỉa sửa bao nhiêu đi nữa, và cho dù có nhẫn nại và khoan dung với họ đến đâu thì cũng không có tác dụng và không thể khiến họ thực sự ăn năn hay thay đổi. Nó không thể khiến họ làm tốt bổn phận của mình, nó không thể cho phép họ dấn thân vào con đường mưu cầu lẽ thật. Vì vậy, người này là vô phương cứu chữa. Khi Đức Chúa Trời xác định một người là vô phương cứu chữa, liệu Ngài sẽ vẫn giữ chặt người này không? Ngài sẽ không. Đức Chúa Trời sẽ để họ đi. Một số người luôn khẩn cầu: “Lạy Đức Chúa Trời, xin buông tha con đi, đừng làm con đau khổ, đừng sửa dạy con. Hãy cho con chút tự do! Hãy để con làm việc qua loa chiếu lệ một chút! Hãy để con phóng túng một chút! Để con tự làm chủ của chính con!”. Họ không muốn bị ràng buộc. Đức Chúa Trời phán: “Vì ngươi không muốn bước đi con đường đúng nên Ta sẽ buông bỏ ngươi. Ta sẽ cho ngươi toàn quyền tự do. Hãy đi và làm những gì ngươi muốn. Ta sẽ không cứu rỗi ngươi, vì ngươi vô phương cứu chữa”. Những người vô phương cứu chữa thì có bất kỳ ý thức gì về lương tâm không? Họ có bất kỳ ý thức gì về sự mắc nợ không? Họ có bất kỳ ý thức gì về sự buộc tội không? Họ có thể ý thức được sự khiển trách, sửa dạy, công kích và phán xét của Đức Chúa Trời không? Họ không thể cảm nhận được. Họ không hay biết về những điều này; những điều này mờ nhạt trong lòng họ, hoặc thậm chí không hiện diện. Khi một người đã đến giai đoạn này, không còn Đức Chúa Trời ở trong lòng, thì họ có thể vẫn đạt được sự cứu rỗi không? Khó mà nói được. Khi đức tin của một người đã đến mức như vậy thì họ đang gặp nguy hiểm rồi. Các ngươi có biết nên theo đuổi như thế nào, nên thực hành như thế nào, nên chọn con đường nào để tránh hậu quả này và đảm bảo rằng trạng thái như vậy sẽ không nảy sinh không? Điều quan trọng nhất là trước hết hãy chọn con đường đúng, sau đó tập trung làm tròn bổn phận mà mình nên thực hiện trong hiện tại. Đây là tiêu chuẩn tối thiểu và căn bản nhất. Dựa trên căn cứ này, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật và phấn đấu đạt đến các tiêu chuẩn để thực hiện bổn phận một cách thỏa đáng. Bởi vì điều phản ánh mối ràng buộc liên kết ngươi và Đức Chúa Trời một cách trực tiếp và dễ nhận thấy nhất chính là cách ngươi xử lý những chuyện Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi và những bổn phận Ngài phân cho ngươi, và thái độ mà ngươi có. Điều dễ nhận thấy nhất và thực tế nhất chính là đây. Đức Chúa Trời đang chờ đợi; Ngài muốn thấy thái độ của ngươi. Ở thời điểm then chốt này, ngươi phải gấp rút bày tỏ thái độ với Đức Chúa Trời, tiếp nhận sự ủy thác của Ngài và làm tròn bổn phận. Khi ngươi đã nắm bắt được điểm quan trọng này và hoàn thành sự ủy nhiệm mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi, mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ bình thường. Nếu, khi Đức Chúa Trời giao phó một nhiệm vụ cho ngươi hay bảo ngươi thực hiện một bổn phận nhất định, thái độ của ngươi là xuề xòa và thờ ơ, và ngươi không xem trọng nó, thì chẳng phải điều này đối lập với việc dâng hết lòng hết sức mình sao? Với cung cách như thế, ngươi có thể làm tròn bổn phận sao? Chắc chắn là không. Ngươi sẽ không thực hiện bổn phận một cách thỏa đáng. Như vậy, thái độ của ngươi khi thực hiện bổn phận của mình có tầm quan trọng rất lớn, cũng như phương pháp và con đường mà ngươi chọn lựa. Bất kể đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, những ai không làm tròn bổn phận đều sẽ bị đào thải.
Trích đoạn 32
Nhiều người luôn thực hiện bổn phận của mình một cách qua loa chiếu lệ, không bao giờ tìm tòi nghiêm túc, như thể họ đang làm thuê cho những người ngoại đạo. Họ làm việc một cách cẩu thả, hời hợt, qua loa, không quan tâm đến bất cứ việc gì, tuỳ tiện, cứ như một trò đùa. Tại sao lại thế này? Đây chính là việc đem sức lực phục vụ của người ngoại đạo, chính là cách mà kẻ chẳng tin thực hiện bổn phận. Những kẻ này đều quen thói lưu manh, phóng đãng không chịu đi vào khuôn khổ, không khác gì những người ngoại đạo. Khi kẻ đó làm việc cho bản thân, chắc chắn không qua loa chiếu lệ. Vậy thì tại sao lại không hề nghiêm túc, không hề để tâm khi thực hiện bổn phận? Dù kẻ đó làm gì, thực hiện bổn phận gì đều có chút tính chất cợt nhả, có chút tính chất phá phách bốc đồng, luôn qua loa chiếu lệ, mang theo một chút gian dối. Những người như thế có nhân tính không? Chắc chắn không có nhân tính, hoàn toàn không có chút lương tâm, lý trí nào, không khác gì lừa hoang, ngựa hoang, không thể không có người canh chừng. Kẻ đó qua mặt, lừa gạt nhà Đức Chúa Trời như thế thì có chút niềm tin chân thành nào vào Đức Chúa Trời không? Như thế là đang dâng mình cho Đức Chúa Trời ư? Chắc chắn là không chạm tới, còn không có tư cách để đem sức lực phục vụ. Nếu những người như thế làm thuê cho người khác, chưa làm được mấy ngày đã bị đuổi, bị sa thải. Trong nhà Đức Chúa Trời, có thể gọi đó chính là người đem sức lực phục vụ, chính là người làm thuê, không khác một chút nào, chỉ có thể bị đào thải. Nhiều người quá qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận của mình. Đến lúc bị tỉa sửa vẫn không chịu chấp nhận lẽ thật, ngoan cố cãi lý, thậm chí còn oán trách rằng nhà Đức Chúa Trời không công bằng với mình, không thương xót, không khoan dung cho mình. Điều này có vô lý hay không? Nói khách quan một chút, đây là tâm tính kiêu căng, không hề có chút lương tâm, lý trí nào. Những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời ít nhất phải có thể chấp nhận lẽ thật, không làm việc trái với lương tâm, lý trí. Nếu như gặp phải việc bị tỉa sửa vẫn không thể chấp nhận, quy phục thì những người như thế đúng là quá kiêu ngạo, tự cho mình là đúng, quả thật là quá vô lý. Gọi là súc sinh cũng không có gì là quá đáng. Vì kẻ đó làm gì cũng hoàn toàn dửng dưng, muốn làm như thế nào thì làm, cũng không quan tâm hậu quả ra sao, có vấn đề xảy ra cũng thờ ơ. Những người như thế còn chẳng có tư cách để đem sức lực phục vụ. Kẻ đó đối xử với bổn phận của mình như thế đến con người còn không chịu nổi. Con người còn không yên tâm thì có thể làm cho Đức Chúa Trời yên tâm được không? Tiêu chuẩn tối thiểu này mà còn không đạt được, tức là không đủ điều kiện để đem sức lực phục vụ, chỉ có thể bị đào thải. Một số người có thể kiêu ngạo, tự cho mình là đúng đến mức nào? Kẻ đó luôn cảm thấy mình có thể làm mọi việc. Dù sắp xếp cho làm gì thì kẻ đó cũng nói: “Chuyện này dễ, chẳng là gì, tôi làm được, không cần ai thông công cho nguyên tắc lẽ thật, bản thân tôi tự kiểm soát được”. Luôn giữ thái độ như vậy, cả lãnh đạo và chấp sự đều không nhìn nổi, không yên tâm với mọi việc hắn làm. Đây không phải là kẻ kiêu ngạo, tự cho mình là đúng hay sao? Đây chính là đức tính của những kẻ kiêu căng, tự cho mình là đúng, nếu không thay đổi thì không bao giờ đạt đến mức hợp cách để thực hiện bổn phận. Một người nên có thái độ nào đối với bổn phận của mình? Chí ít nên có thái độ chịu trách nhiệm. Cho dù gặp phải khó khăn, vấn đề gì cũng nên tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, hiểu các tiêu chuẩn mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, biết được kết quả cần đạt được khi thực hiện bổn phận của mình. Nếu nắm được rõ ràng ba điều này, thì khi thực hiện bổn phận sẽ dễ dàng đạt mức hợp cách. Bất kể thực hiện bổn phận gì, nếu đầu tiên hiểu nguyên tắc, hiểu được tiêu chuẩn mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, biết thực hiện bổn phận phải đạt được kết quả như thế nào rồi mới thực hiện thì chẳng phải sẽ có con đường hay sao? Cho nên, thái độ đối đãi với bổn phận rất quan trọng. Người không yêu lẽ thật đều thực hiện bổn phận của mình qua loa chiếu lệ. Họ không có thái độ đúng đắn, không bao giờ tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, cũng không suy xét đến yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời và kết quả cần đạt được thì làm sao có thể đạt đến mức hợp cách khi thực hiện bổn phận chứ? Nếu ngươi là người thật sự tin vào Đức Chúa Trời, thì khi có tình trạng qua loa chiếu lệ, ngươi phải cầu nguyện với Ngài, phải phản tỉnh và biết mình, phải chống lại với tâm tính bại hoại của bản thân, bỏ công sức vào nguyên tắc lẽ thật, vươn tới tiêu chuẩn Ngài yêu cầu. Thực hiện bổn phận như thế thì có thể dần dần đạt đến yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời rồi. Thực ra, làm tròn bổn phận không phải chuyện quá khó khăn, nhưng phải xem con người có lương tâm và lý trí hay không, phải xem trái tim của con người có ngay thẳng hay không, có tận tâm hay không. Có nhiều người ngoại đạo làm việc rất nghiêm túc và kết quả là họ đã trở thành người thành công. Họ không biết bất cứ điều gì về các nguyên tắc của lẽ thật, vậy làm thế nào để họ làm mọi chuyện tốt như vậy? Đó là vì họ có lòng và tận tâm, do đó họ có thể làm việc nghiêm túc, tỉ mỉ và hoàn thành công việc một cách rất dễ dàng. Không có bổn phận nào trong nhà Đức Chúa Trời là quá khó cả. Chỉ cần ngươi đặt hết tâm huyết và cố gắng hết sức, thì ngươi có thể làm tốt công việc. Nếu ngươi không ngay thẳng, nếu ngươi không cần cù khi làm bất cứ việc gì, nếu ngươi luôn muốn giảm bớt phiền toái, nếu ngươi luôn chiếu lệ và qua loa, lấp liếm cho xong mọi việc, thì kết quả là không những ngươi không làm tròn bổn phận của mình mà còn làm hỏng mọi chuyện và gây hại cho nhà Đức Chúa Trời, thế có nghĩa là ngươi đang hành ác, và nó sẽ trở thành một sự vi phạm khiến Đức Chúa Trời căm ghét. Trong những thời điểm quan trọng của việc rao truyền Phúc Âm, nếu ngươi không đạt được kết quả trong việc thực hiện bổn phận của mình mà ngược lại còn không đóng vai trò tích cực, chỉ toàn gây ra những sự nhiễu loạn và gián đoạn, thì tự nhiên ngươi sẽ bị Đức Chúa Trời căm ghét và bị đào thải, đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Đây sẽ trở thành một sự hối tiếc đời đời của ngươi! Việc Đức Chúa Trời nâng đỡ cho ngươi thực hiện bổn phận của mình là cơ hội duy nhất để ngươi được cứu rỗi. Nếu ngươi vô trách nhiệm, coi nhẹ và làm qua loa chiếu lệ, thì đó là thái độ mà ngươi đang đối xử với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không có chút chân thành hay vâng phục nào, thì làm sao ngươi có thể đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời? Bây giờ thời gian rất quý giá; mỗi ngày và mỗi phút đều rất quan trọng. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, nếu ngươi không tập trung vào lối vào sự sống, và nếu ngươi thực hiện một cách qua loa chiếu lệ và lừa dối Đức Chúa Trời trong bổn phận của mình, thì điều đó quá ư mất lý trí và nguy hiểm! Ngay khi ngươi bị Đức Chúa Trời căm ghét và bị đào thải, thì Đức Thánh Linh sẽ không còn công tác trong ngươi nữa, đây là hậu quả không thể vãn hồi. Có những lúc chỉ vì những gì ngươi làm trong vòng một phút mà cả cuộc đời của ngươi bị hủy hoại, có lúc vì một câu nói mà xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời, những người như vậy bị phơi bày và đào thải chẳng phải là quá dễ dàng hay sao? Cũng giống như một số người luôn vô trách nhiệm khi thực hiện bổn phận của mình, tùy tiện, làm xằng làm bậy, không kiêng kị gì, đó chính là những người ngoại đạo, kẻ chẳng tin, làm gì cũng hỏng, không chỉ mang đến tổn thất cho nhà Đức Chúa Trời mà còn đánh mất cơ hội được cứu rỗi của mình, cứ thế mà bị thủ tiêu tư cách thực hiện bổn phận, cứ thế mà bị phơi bày và đào thải. Đây là một chuyện đáng buồn. Có người còn muốn ăn năn, các ngươi nói xem có cơ hội này không? Một khi bị đào thải là đã không còn cơ hội nữa rồi. Một khi Đức Chúa Trời đã từ bỏ con người thì hầu như là chuyện không thể vãn hồi được nữa.
Đức Chúa Trời cứu rỗi loại người nào? Có thể nói rằng đều là người có lương tâm và lý trí và có thể tiếp nhận lẽ thật, bởi vì chỉ những người có lương tâm và lý trí mới có thể tiếp nhận và trân trọng lẽ thật, và chỉ cần hiểu được lẽ thật thì họ sẽ có thể đưa vào thực hành. Những kẻ vô lương tâm và vô lý trí là những kẻ không có nhân tính; theo cách nói thông thường, chúng ta nói họ thiếu đạo đức. Bản chất của việc thiếu đạo đức là gì? Đó là bản chất không có nhân tính, không đáng gọi là con người. Như người ta thường nói, ngươi có thể thiếu bất cứ thứ gì ngoại trừ đạo đức; không có nó, ngươi kể như xong, ngươi không còn là con người nữa mà là kẻ mặt người dạ thú. Hãy nhìn những tên ma quỷ và quỷ vương toàn làm những chuyện chống đối Đức Chúa Trời và làm hại dân được Ngài chọn. Chẳng phải chúng thiếu đạo đức sao? Đúng vậy; chúng thực sự thiếu đạo đức, cực kỳ thiếu đạo đức. Nếu con người làm quá nhiều chuyện thiếu đạo đức thì chắc chắn sẽ phải chịu quả báo. Người thiếu đạo đức không có nhân tính, người thiếu đạo đức làm sao mà làm tròn bổn phận được? Kẻ đó không xứng đáng thực hiện bổn phận, bởi vì kẻ đó là súc sinh. Người thiếu đạo đức không thể làm tròn bất cứ bổn phận nào, người như vậy không xứng được gọi là con người nữa mà là kẻ mặt người dạ thú, chính là súc sinh. Người có lương tâm, có lý trí mới thực hiện được việc của con người, mới giữ được chữ tín, mới đáng tin cậy, mới có thể chạm tới mức “chính nhân quân tử”. Nhà Đức Chúa Trời không dùng từ “chính nhân quân tử” này mà yêu cầu con người phải làm người trung thực, đây mới là lẽ thật. Chỉ có người trung thực mới đáng được tin cậy, mới có lương tâm, lý trí, mới xứng đáng được gọi là con người. Nếu lúc con người thực hiện bổn phận mà tiếp nhận được lẽ thật, có thể hành động theo nguyên tắc, đạt đến mức hợp cách khi thực hiện bổn phận thì đây chính là người trung thực, đây chính là người đáng tin cậy, người có thể đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chính là người trung thực. Làm người trung thực đạt đến mức đáng tin cậy không liên quan đến việc bản lĩnh của ngươi lớn nhỏ ra sao, cũng không liên quan đến chuyện ngoại hình của ngươi thế nào, càng không quan tâm đến tố chất, tài cán hoặc ân tứ của ngươi cao thấp ra sao mà chỉ cần ngươi tiếp nhận được lẽ thật, làm việc có trách nhiệm, có lương tâm, có lý trí, và có thể quy phục Đức Chúa Trời, thế là đủ rồi. Cho dù bản lĩnh một người lớn nhỏ ra sao thì cũng chỉ e người đó thiếu đạo đức, một khi con người thiếu đạo đức thì không còn là con người nữa mà chính là súc sinh. Người bị nhà Đức Chúa Trời đào thải đều là vì không có nhân tính, quá thiếu đạo đức nên mới bị đào thải. Vì vậy, những người tin vào Đức Chúa Trời phải tiếp nhận được lẽ thật, phải làm người trung thực, ít nhất phải có lương tâm, lý trí, có thể làm tròn bổn phận, có thể hoàn thành được sự ủy thác của Đức Chúa Trời. Những người như thế mới đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, mới là người thật sự tin vào Ngài, cũng là người thật sự dâng mình cho Ngài. Những người như vậy mới là những người được Đức Chúa Trời cứu rỗi.
Lúc các ngươi làm việc và thực hiện bổn phận có thường xuyên tự kiểm điểm hành vi và ý định của bản thân không? (Thưa, ít khi tự kiểm điểm.) Ít khi tự kiểm điểm thì có biết được tâm tính bại hoại của bản thân không? Có thể nắm bắt được trạng thái thật sự của bản thân không? Nếu ngươi thật sự bộc lộ ra tâm tính bại hoại thì sẽ có hậu quả ra sao? Những điều này đều phải hiểu thật rõ. Nếu con người không tự kiểm điểm bản thân, quen thói qua loa chiếu lệ, hành động không có một chút nguyên tắc nào, kết quả là làm ra nhiều điều xấu, bị phơi bày và đào thải, hậu quả này có phải là rất nghiêm trọng hay không? Kiểm điểm bản thân chính là để giải quyết vấn đề này. Các ngươi nói xem, sự bại hoại của con người đã quá sâu đậm, không thường xuyên phản tỉnh bản thân có được không? Không mưu cầu lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của bản thân thì có thể làm tròn bổn phận được không? Không giải quyết tâm tính bại hoại thì dễ dàng làm sai, dễ dàng làm trái nguyên tắc, thậm chí là hành ác. Nếu như từ trước đến nay chưa bao giờ kiểm điểm bản thân thì gay go rồi, không khác gì những người ngoại đạo. Đây chẳng phải chính là lý do nhiều người bị đào thải hay sao? Nên thực hành mưu cầu lẽ thật ra sao mới đạt được lẽ thật? Chủ yếu là lúc thực hiện bổn phận phải thường xuyên tự kiểm điểm, tự phản tỉnh xem mình có làm trái với các nguyên tắc hay không, tự phản tỉnh xem mình có bộc lộ sự bại hoại không, có ý định nào không đúng không. Căn cứ theo lời Đức Chúa Trời mà phản tỉnh bản thân, đối chiếu áp dụng lên bản thân thì sẽ dễ dàng đạt đến mức biết mình. Phản tỉnh bản thân như vậy thì tâm tính bại hoại có thể từ từ được giải quyết, những ý tưởng của ma quỷ, động cơ, ý định bất lương đó đều sẽ được giải quyết dễ dàng. Nếu xảy ra chuyện rồi, phạm sai lầm rồi hành ác rồi mới tự kiểm điểm thì đã hơi muộn, đã tạo ra hậu quả, thế là đã có sự vi phạm rồi. Nếu như đã hành ác nhiều, bị đào thải rồi mới kiểm điểm thì mọi chuyện đều đã muộn, chỉ có thể khóc lóc, nghiến răng mà thôi. Người thật lòng tin vào Đức Chúa Trời có thể thực hiện bổn phận, đó là sự nâng đỡ của Đức Chúa Trời, đó là sự ban phước của Ngài, nên trân trọng cơ hội này. Do đó, trong lúc thực hiện bổn phận càng cần phải thường xuyên phản tỉnh bản thân. Phải kiểm điểm thật nhiều, chuyện gì cũng phải kiểm điểm. Kiểm điểm ý định, trạng thái của bản thân xem xem bản thân có phải đang sống trước mặt Đức Chúa Trời hay không, ý định làm việc có chính đáng không, động cơ, ngọn nguồn hành động có vượt qua được sự kiểm tra của Ngài không, đã tiếp nhận sự dò xét của Ngài chưa. Có lúc con người gặp phải khó khăn trong lúc thực hiện bổn phận, cảm thấy theo đuổi lẽ thật phiền phức, họ liền nghĩ trong lòng rằng: “Việc này làm như vậy cũng được, tàm tạm thôi”. Đây chính là một kiểu trạng thái mà con người đối đãi với các sự việc, là một loại thái độ đối đãi với bổn phận. Tâm thái này chính là một loại trạng thái. Loại trạng thái này là gì? Có phải là một loại trạng thái đối đãi vô trách nhiệm, qua loa chiếu lệ với bổn phận hay không? (Thưa, đúng.) Tồn tại vấn đề nghiêm trọng như thế, nếu không phản tỉnh thì rất nguy hiểm. Có những người không để ý đến loại trạng thái này, cảm thấy rằng: “Hơi qua loa chiếu lệ là rất bình thường. Ai cũng thế, không thể coi là vấn đề gì cả”. Như thế có phải là người hồ đồ không? Con người có thể nhìn nhận sự việc như thế thì có phải là quá nguy hiểm không? Các ngươi nhìn xem, những người bị đào thải chẳng phải đều luôn thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ hay sao? Đây chính là cái kết của việc qua loa chiếu lệ. Người thích qua loa chiếu lệ thì sớm muộn gì cũng hủy hoại bản thân. Kẻ đó chính là kẻ chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận là một vấn đề nghiêm trọng. Nếu không thể phản tỉnh bản thân thật nghiêm khắc, không thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề thì đúng là quá nguy hiểm, lúc nào cũng có khả năng bị đào thải. Nếu như tồn tại vấn đề nghiêm trọng như thế mà còn không kiểm điểm, không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết thì chính là hãm hại, hủy hoại bản thân, chờ đến ngày bị đào thải rồi mới bắt đầu khóc lóc, nghiến răng. Nhưng mọi chuyện đều đã muộn rồi.
Trích đoạn 33
Một số người không biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, không biết đưa lời Đức Chúa Trời vào quá trình thực hiện bổn phận và đời sống hiện thực mà luôn muốn nhờ nhóm họp nhiều để đạt được lẽ thật và tăng trưởng sự sống, như vậy là không thực tế và lập luận này không có cơ sở. Sự sống có được là nhờ trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, trải nghiệm sự phán xét và hình phạt, người biết trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời dù thực hiện bổn phận nào cũng có thể hiểu lẽ thật, thực hành lẽ thật, tiếp nhận bị tỉa sửa, bước vào thực tế lẽ thật, đạt được thay đổi tâm tính và được Đức Chúa Trời hoàn thiện trong khi thực hiện bổn phận. Những người lười biếng, tham hưởng an nhàn mà không sẵn lòng thực hiện bổn phận thì không biết trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong khi thực hiện bổn phận. Họ ra sức đòi nhà Đức Chúa Trời tổ chức nhóm họp, giảng đạo và thông công về lẽ thật cho họ, kết quả là đã tin mười năm, hai mươi năm, đã nghe vô số bài giảng mà vẫn không hiểu lẽ thật và đạt được lẽ thật. Họ không biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, cũng không rõ thế nào là tin Đức Chúa Trời, không biết phải trải nghiệm lời Đức Chúa Trời như thế nào để biết mình, đạt được lẽ thật và đạt được sự sống. Họ đều là những người ham muốn an nhàn, trốn tránh bổn phận nên bị phơi bày và đào thải trong việc thực hiện bổn phận. Hiện nay, hễ là người yên lòng thực hiện bổn phận, chú trọng mưu cầu lẽ thật thì khi thực hiện bổn phận đều có vài phần lối vào sự sống, khi bộc lộ sự bại hoại đều biết phản tỉnh và biết mình, khi gặp phải khó khăn trong lúc thực hiện bổn phận đều biết tìm kiếm lẽ thật và thông công về lẽ thật để giải quyết vấn đề, sau vài năm thực hiện bổn phận, họ đều tự nhiên có được thu hoạch rõ rệt, đều có thể nói ra một vài lời chứng trải nghiệm, có một số hiểu biết về công tác của Đức Chúa Trời và tâm tính của Ngài, chính điều này đã mang đến cho họ thay đổi về tâm tính sự sống. Hiện nay, hội thánh khắp nơi đều đang thanh lọc kẻ ác, thanh lọc kẻ gây nhiễu loạn và gián đoạn, những người còn lại cơ bản đều là người có thể kiên trì thực hiện bổn phận, đều có lòng trung thành nhất định, đều biết chú trọng tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề. Người như vậy là đã có thể đứng vững làm chứng rồi. Các ngươi một mặt phải học cách đưa lời Đức Chúa Trời vào đời sống hiện thực cũng như vào bổn phận của mình, từ đó thực hành và vận dụng lời Ngài, khi gặp vấn đề và khó khăn thì phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết; mặt khác, khi thực hiện bổn phận, phải học cách quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời, luyện tập thực hành lẽ thật và hành động theo nguyên tắc trong mọi chuyện, học cách thực hành yêu kính Đức Chúa Trời và để tâm tới gánh nặng của Ngài bằng lòng yêu kính Ngài, đạt tới làm hài lòng Ngài. Đó mới là người chân thành yêu kính Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thực hành như vậy thì dù không hoàn toàn hiểu lẽ thật ngươi vẫn có thể thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, không những giải quyết được thái độ qua loa chiếu lệ mà còn học được cách thực hành yêu kính Đức Chúa Trời, thuận phục và làm hài lòng Ngài khi thực hiện bổn phận. Đây chính là bài học về lối vào sự sống. Nếu ngươi có thể thực hành lẽ thật và hành động theo nguyên tắc trong mọi chuyện như vậy thì ngươi đã bước vào thực tế lẽ thật và có lối vào sự sống rồi. Dù việc thực hiện bổn phận bận rộn đến đâu nhưng nếu kết quả là có được lối vào sự sống, có được tăng trưởng sự sống, có thể vâng phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời thì việc thực hiện bổn phận như vậy là đã được vui hưởng rồi, có bận rộn thế nào cũng không thấy mệt, lòng luôn bình an vui vẻ, luôn thấy đủ đầy, luôn có cảm giác yên ổn. Dù có khó khăn gì thì luôn được Đức Thánh Linh khai sáng và dẫn dắt khi tìm kiếm lẽ thật. Như vậy là được Đức Chúa Trời ban phước rồi. Hơn nữa, bất kể thực hiện bổn phận một cách bận rộn hay nhàn rỗi thì đôi lúc còn cần vận động vừa phải một lát, tập một số động tác phù hợp để giữ gìn sức khỏe. Như vậy mới có thể kích thích tuần hoàn máu, giữ sinh lực dồi dào, tránh được một vài bệnh nghề nghiệp một cách hiệu quả, điều này rất có ích cho việc làm tròn bổn phận. Vậy nên mới nói, trong khi thực hiện bổn phận có thể học được rất nhiều bài học, hiểu ra rất nhiều lẽ thật, còn có thể đạt được sự hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời và cuối cùng đạt được lòng kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác. Như vậy là đã hoàn toàn hợp với ý muốn của Ngài rồi. Nếu có thể đạt tới mức độ yêu kính Đức Chúa Trời, làm chứng cho Ngài, đồng tâm hợp ý với Ngài thì đã bước đi trên con đường được hoàn thiện rồi. Đây mới là người được Đức Chúa Trời ban phước, như vậy thì có phước biết chừng nào! Khi ngươi chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời thì Ngài chắc chắn sẽ ban cho ngươi phước lành to lớn. Những kẻ không thực hiện bổn phận, không dâng mình cho Đức Chúa Trời thì có thể đạt được lẽ thật không? Có thể được cứu rỗi không? Khó nói đấy, mọi phước lành đều phải dựa vào thực hiện bổn phận, dựa vào trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời mới có được. Trong quá trình thực hiện bổn phận, ngươi sẽ trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, trải nghiệm sự phán xét và hình phạt, bị tỉa sửa, thử luyện và tinh luyện, đây đều là những việc được Đức Chúa Trời ban nhiều phước lành nhất. Chỉ cần là người yêu lẽ thật, mưu cầu lẽ thật thì cuối cùng đều sẽ đạt được lẽ thật, có được thay đổi về tâm tính sự sống, được Đức Chúa Trời khen ngợi và trở thành người được Ngài ban phước.
Có một số người gặp phải vấn đề trong khi thực hiện bổn phận song lại không tìm kiếm lẽ thật, luôn sống theo quan niệm và tưởng tượng, luôn hành động theo sở thích của mình, cứ mù quáng hành động theo ý mình, kết quả là đã làm sai rất nhiều việc, gây trì hoãn công tác hội thánh, lúc bị tỉa sửa còn không chịu tiếp nhận lẽ thật, cứ một mình một đường, muốn làm gì thì làm, kết quả là đã đánh mất công tác của Đức Thánh Linh, còn đức tin vào Đức Chúa Trời thì rơi vào hoang mang và tối tăm. Có người yêu thích danh lợi, theo đuổi địa vị và hết lòng bươn chải vì danh lợi địa vị mà không quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời, có thông công lẽ thật ra sao thì họ cũng không chịu tiếp thu, cuối cùng đã bị vạch trần, đào thải và rơi vào tăm tối. Có người tin vào Đức Chúa Trời và cũng thừa nhận Đức Chúa Trời nhập thể nhưng trong lòng vẫn chỉ tin Đức Chúa Trời trên trời cao, chỉ tin Thần của Đức Chúa Trời, luôn ôm quan niệm về Đức Chúa Trời thực tế, luôn giữ thái độ đề phòng, rất sợ Ngài chạm tới đáy lòng mình, trốn tránh Ngài khắp nơi, trông thấy Ngài mà cứ như trông thấy người xa lạ. Kết quả là đã tin vài năm mà vẫn chẳng đạt được điều gì, không có chút đức tin nào vào Đức Chúa Trời, y hệt kẻ chẳng tin. Lý do hoàn toàn là vì họ không mưu cầu lẽ thật mà ra. Có một số người luôn muốn được thấy Đức Chúa Trời thực tế, rất muốn lấy lòng Ngài, muốn Ngài nâng đỡ để có được địa vị, sau đó tác oai tác quái trong hội thánh. Kết quả là do không nói thật, không mở lòng nên họ luôn theo dõi sắc mặt của Đức Chúa Trời, phỏng đoán ý tứ của Ngài, vì vậy bị Ngài khinh ghét. Ngài không muốn gặp lại kiểu người này. Mục đích tin Đức Chúa Trời của những người này rốt cuộc là gì? Đức Chúa Trời đã bày tỏ bao nhiêu lẽ thật như vậy, vì sao họ còn muốn nghiên cứu Ngài? Vì sao họ tin Đức Chúa Trời nhưng lại không mưu cầu lẽ thật? Vì sao họ luôn có dã tâm và dục vọng, theo đuổi danh lợi và địa vị, lợi ích và lợi thế? Đức tin vào Đức Chúa Trời của họ thật khó lường và khiến người khác không thể nhìn thấu. Đây đều là những biểu hiện của kẻ chẳng tin. Nói một cách nghiêm khắc, người nào tin Đức Chúa Trời nhưng không thể tiếp nhận lẽ thật thì đều là kẻ chẳng tin. Chỉ có người mưu cầu lẽ thật, mưu cầu làm tròn bổn phận, mưu cầu làm hài lòng Đức Chúa Trời mới là người chân thành tin Đức Chúa Trời và có thể được Ngài khen ngợi.
Giờ đây mỗi ngày, mỗi năm các ngươi trải qua đều có giá trị. Giá trị này thể hiện ở đâu? Khi người ta tới trước Đấng Tạo Hóa, thực hiện bổn phận của loài thọ tạo và đạt được lẽ thật từ Đấng Tạo Hóa, thì đã trở thành người hữu dụng trong mắt Đức Chúa Trời rồi. Đóng góp một nỗ lực khiêm tốn của bản thân vào kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời chẳng phải là giá trị sống mỗi ngày của ngươi sao? (Thưa, phải.) Đó là giá trị sống mỗi ngày của ngươi, là báu vật đấy! Mỗi ngày ngươi sống đều có giá trị như vậy thì chút đau khổ, chút ốm đau ngươi chịu đựng trong lúc thực hiện bổn phận có đáng là gì? Con người không nên than vãn. Thực ra họ đã đạt được quá nhiều trước Đức Chúa Trời rồi. Ân điển, phước lành và sự bảo vệ không nhìn thấy mà họ tận hưởng vượt quá những gì họ có thể tưởng tượng và nhìn thấy. Con người đã đạt được quá nhiều thì chịu chút ốm đau nào có đáng gì? Đây không phải là bài học con người phải học ư? Nếu trong lúc ốm đau mà có thể hiểu lẽ thật, có thể đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời, làm thỏa lòng Ngài thì đó chẳng phải lại một lần được Ngài ban phước ư? Những người sống tạm bợ trên đời này có ai mà không ốm đau chứ? Ai sẽ lo liệu cho họ khi ốm đau? Không ai lo liệu, không ai hỏi thăm, cũng chẳng có ai bảo đảm cho họ. Vậy những người thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời như các ngươi có gì bảo đảm không? (Thưa, có.) Phàm là người chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời thì đều có sự bảo đảm, đều được Ngài ban phước. Vậy sự bảo đảm mà các ngươi nhìn thấy được và nhận biết được là gì? (Thưa, là không còn bị những trào lưu tà ác trên thế giới hun đúc và đầu độc, tránh xa sự ức hiếp và tàn hại của người ngoại đạo, mọi chuyện đều được Đức Chúa Trời bảo vệ và ban phước, sau này cũng không bị con rồng lớn sắc đỏ lùng bắt và bách hại, được sống trong nhà Đức Chúa Trời cùng anh chị em với cõi lòng bình an, vui vẻ và yên ổn. Ngày ngày ăn uống lời Đức Chúa Trời, thông công lẽ thật, trong lòng ngày một sáng tỏ. Nhất là sau khi hiểu lẽ thật, trong lòng hết sức vui mừng, tinh thần được giải phóng và tự do, không còn bị kẻ ác, kẻ giả dối lừa phỉnh và tàn hại nữa. Thêm vào đó, khi đã nhìn thấy sự bảo vệ và phước lành của Đức Chúa Trời rồi thì dù tai nạn giáng xuống cũng không thấy sợ hãi, lòng bình an, yên ổn, rũ bỏ những nỗi lo về chuyện ăn mặc ở đi lại hay không có người chăm sóc lúc tuổi già, vân vân. Sống trước Đức Chúa Trời thật là hạnh phúc và vui sướng!) Hiện nay những gì các ngươi có thể nếm trải được đều có hạn, chờ đến khi đại nạn giáng xuống, các ngươi sẽ hiểu ra và nhìn thấu rất nhiều chuyện. Tất cả những chuyện này đều được Đức Chúa Trời bảo vệ và ban phước. Hiện nay tuy có lúc các ngươi trải nghiệm bị tỉa sửa, thử luyện và tinh luyện, có lúc còn trải nghiệm cả sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời và chịu những đau khổ trong lời Ngài, nhưng đây đều là sự đau khổ cần phải chịu khi được cứu rỗi và hoàn thiện, khác hẳn với sự đau khổ của người ngoại đạo. Quan trọng nhất là khi ngươi thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, ngươi đã hữu dụng với tư cách là một loài thọ tạo, sống một cách có giá trị và ý nghĩa, không sống vì xác thịt hay vì Sa-tan, mà sống để mưu cầu lẽ thật, để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Trong thời gian thực hiện bổn phận, ngươi đã hiểu rất nhiều lẽ thật và ý muốn của Đức Chúa Trời, đây là điều quý giá nhất. Khi ngươi hiểu lẽ thật, bước vào thực tế lẽ thật và đạt được lẽ thật làm sự sống thì ngươi đã sống trước mặt Đức Chúa Trời và sống trong sự sáng rồi. Giờ đây mỗi ngày ngươi đều thực hiện bổn phận, mỗi ngày đều sống có thu hoạch, đều sống có giá trị, ngươi còn đạt được lẽ thật và sống trước mặt Đức Chúa Trời, điều này có phải là có bảo đảm không? (Thưa, phải.) Sự bảo đảm này là gì? (Thưa, là không bị Sa-tan bắt đi.) Ngoài việc không bị Sa-tan bắt đi thì còn điều gì quan trọng hơn nữa? Đức Chúa Trời tạo ra con người như ngươi và rồi ngươi đã có thể thực hiện bổn phận, đã có thể hiểu ý muốn của Ngài và đã có thực tế lẽ thật, ngươi đã có thể đi theo con đường của Ngài và sống theo ý muốn của Ngài. Đức Chúa Trời khen ngợi ngươi thì ngươi đã có được sự bảo đảm và có thể đảm bảo ngươi không bị Ngài hủy diệt rồi. Chẳng phải đây là vốn sống của ngươi sao? Nếu như ngươi không có những điều này thì ngươi có tư cách sống tiếp không? (Thưa, không có.) Tư cách này của con người có được là do đâu? Có phải đánh đổi từ việc con người có thể thực hiện bổn phận của loài thọ tạo, có thể thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời, có thể đi theo con đường của Ngài, có được thực tế lẽ thật và lấy lời Ngài làm sự sống không? (Thưa, phải.) Vì những điều ấy ngươi có thể thờ phượng Đức Chúa Trời và trong mắt Ngài, ngươi đã là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn rồi, vậy Ngài có thể không lấy làm vui với ngươi ư? Đức Chúa Trời muốn hủy diệt loại người nào? Loài thọ tạo nào? (Thưa, những kẻ làm việc ác.) Phàm là kẻ làm việc ác thì đều là kẻ chống đối Đức Chúa Trời, đều là kẻ đối địch với Ngài, đều là kẻ thù của Ngài, những kẻ này sẽ bị hủy diệt đầu tiên. Phàm là kẻ địch lại Đấng Christ và tranh đoạt địa vị của Đức Chúa Trời, kẻ chẳng tin và những kẻ chán ghét lẽ thật, kẻ đối địch với Đức Chúa Trời, kẻ không mưu cầu lẽ thật mà còn đối đầu với Ngài đến cùng và cả kẻ không thực hiện chút bổn phận nào của loài thọ tạo, đều là những kẻ Đức Chúa Trời muốn hủy diệt. Có người không thực hiện bổn phận nên là kẻ chẳng tin, có người dù thực hiện bổn phận nhưng lúc nào cũng thói qua loa chiếu lệ, còn có thể làm điều ác và gây nhiễu loạn, chống đối Đức Chúa Trời và đối đầu với Ngài, người như thế này trong mắt Ngài liệu có thể coi là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn được không? (Thưa, không thể.) Không thể coi là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn thì kết quả cuối cùng sẽ là gì? (Thưa, bị Đức Chúa Trời đào thải và hủy diệt.) Không được coi là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn thì sống còn có giá trị gì không? (Thưa, không còn.) Có lẽ chính người đó lại thấy rằng, “Mình sống có giá trị, mình muốn sống, mình sống thì vẫn làm được vài chuyện tốt mà!”. Nhưng trong mắt Đức Chúa Trời, người này ngay cả bổn phận cơ bản của loài thọ tạo còn không thực hiện nổi. Không thể đạt đến mức độ thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn thì chẳng phải kẻ đó sống không có giá trị, tồn tại không có giá trị ư? Đã không có giá trị tồn tại thì Đức Chúa Trời còn cần kẻ đó không? (Thưa, không cần nữa.) Đức Chúa Trời sẽ hành động như thế nào? Ngài sẽ đào thải kẻ đó, trường hợp nhẹ sẽ tạm gác sang một bên, giao cho loài quỷ gớm guốc và tà linh, trường hợp nặng sẽ bị trừng phạt, nặng hơn sẽ bị hủy diệt.
Trích đoạn 34
Có một số người, khi thực hiện bổn phận dù có một chút khổ cũng không muốn chịu đựng, gặp một chút vấn đề cũng kêu khó, và không chịu trả giá. Đây là thái độ gì? Đây chính là thái độ qua loa chiếu lệ. Thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ và có thái độ khinh mạn với bổn phận, thì kết quả là gì? Kết quả là bổn phận mà ngươi có thể làm tốt thì cũng không làm tốt được, không đạt tiêu chuẩn, và Đức Chúa Trời rất không hài lòng với loại thái độ thực hiện bổn phận này của ngươi. Lẽ ra nếu ngươi có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, hết lòng và hết trí khôn mà làm, nếu ngươi có thể phối hợp như vậy, thì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị trước mọi thứ cho ngươi, để mọi chuyện ngươi làm đều đâu vào đấy và có kết quả tốt. Ngươi không cần phí quá nhiều sức lực, khi ngươi đã dốc hết sức rồi thì Đức Chúa Trời hẳn đã sắp xếp mọi sự cho ngươi. Nếu như ngươi gian lận và dùng mánh lới, không thực hiện đúng bổn phận và luôn đi sai đường, thì Đức Chúa Trời sẽ không công tác lên ngươi, ngươi sẽ đánh mất cơ hội này. Đức Chúa Trời sẽ phán: “Người như ngươi không được, không có cách nào dùng ngươi, ngươi hãy đứng sang một bên đi! Không phải là ngươi thích gian trá và dùng mánh lới sao? Không phải là ngươi thích lười biếng và tham hưởng an nhàn sao? Vậy thì ngươi hãy mãi mãi an nhàn đi!”. Đức Chúa Trời đem ân điển và cơ hội này ban cho người khác. Các ngươi nói xem, đây là chịu hao tổn hay là được ích lợi vậy? (Thưa, là chịu hao tổn.) Sự hao tổn này thật quá lớn!
Đức Chúa Trời hoàn thiện những ai thật lòng yêu kính Ngài và tất cả những ai mưu cầu lẽ thật, ở trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Đức Chúa Trời khiến họ trải nghiệm lời Ngài trong đủ loại hoàn cảnh hoặc thử luyện khác nhau, khiến họ đạt đến hiểu lẽ thật và có nhận thức thực sự về Ngài, cuối cùng Ngài khiến họ đạt được lẽ thật. Nếu ngươi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời theo cách này, thì tâm tính sự sống của ngươi sẽ có biến đổi, ngươi sẽ có thể đạt được lẽ thật và sự sống. Các ngươi trải nghiệm mấy năm nay, những gì đã đạt được có nhiều không? (Thưa, rất nhiều.) Vậy thì khi thực hiện bổn phận mà ngươi chịu khổ một chút và trả giá một chút thì có đáng không? Đổi lại thì ngươi được gì? Ngươi đã hiểu rất nhiều lẽ thật! Đây là báu vật vô giá! Con người tin Đức Chúa Trời là để đạt được điều gì? Chẳng phải là để đạt được lẽ thật và sự sống sao? Ngươi muốn đạt được lẽ thật mà không trải nghiệm những hoàn cảnh này, thì có được hay không? Hoàn toàn không được. Nếu gặp một số khó khăn hoặc hoàn cảnh đặc biệt nào đó, ngươi đều có một loại thái độ là lảng tránh hoặc chạy trốn, cố hết sức cự tuyệt và thoát khỏi chúng, nếu ngươi không muốn theo sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, không muốn thuận phục sự sắp đặt và sắp xếp của Ngài, cũng không muốn để lẽ thật nắm quyền, mà luôn muốn tự mình quyết định và dựa vào tâm tính Sa-tan để kiểm soát mọi thứ của mình, thì hậu quả chính là Đức Chúa Trời chắc chắn gạt ngươi sang một bên hoặc là giao ngươi cho Sa-tan. Đây là chuyện sớm hay muộn. Nếu con người xem mà hiểu được chuyện này, thì phải nhanh chóng quay đầu và phải dựa theo con đường đúng đắn mà Đức Chúa Trời yêu cầu để đi con đường nhân sinh của chính mình. Con đường này là đúng đắn, và con đường đúng đắn chính là phương hướng đúng đắn. Cũng có thể, trong lúc này, con đường có chút trắc trở, có chút khó khăn và gập ghềnh, hoặc có lúc con người có chút buồn bực và trở nên tiêu cực trong vài ngày. Chỉ cần có thể kiên trì thực hiện bổn phận và không làm chậm trễ công việc, thì những chuyện này đều không là gì cả. Nhưng họ phải kịp thời phản tỉnh bản thân, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, và tuyệt đối đừng kéo dài, đừng bỏ cuộc hoặc buông bỏ bổn phận. Đây là điều quan trọng nhất. Nếu trong lòng ngươi cảm thấy: “Tiêu cực và yếu đuối không là gì cả; đây là chuyện ở trong lòng tôi, Đức Chúa Trời sẽ không biết. Nếu Ngài thấy trước kia tôi đã chịu khổ và trả giá như thế nào thì chắc chắn sẽ có thể khoan dung cho tôi”. Nếu sự yếu đuối và tiêu cực này tiếp diễn, và ngươi không tìm kiếm lẽ thật hay rút ra bài học trong hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp xếp, thì ngươi sẽ đánh mất cơ hội hết lần này đến lần khác. Kết quả là tất cả cơ hội để được Đức Chúa Trời hoàn thiện đều bị ngươi bỏ lỡ, phá hoại và hủy hoại. Hậu quả là gì? Trong lòng ngươi càng ngày càng tối tăm, lời cầu nguyện của ngươi đều không đến được Đức Chúa Trời, ngươi sẽ tiêu cực đến mức trong lòng tràn ngập cái ác và sự phản bội. Khi đó ngươi sẽ bị mắc kẹt trong đau khổ cực độ, cảm thấy hoàn toàn bất lực và vô cùng khó chịu, không có bất kì con đường hay phương hướng nào, và không thể nhìn thấy bất kì ánh sáng hoặc hy vọng nào. Sống như vậy có mệt không? (Thưa, mệt.) Ai không đi theo con đường sự sáng của việc mưu cầu lẽ thật thì mãi mãi sống dưới quyền thế của Sa-tan, mãi mãi sống trong tội ác, trong bóng tối, và không còn hy vọng. Ta nói lời này là có ý nghĩa gì, các ngươi có thể nghe hiểu không? (Thưa, là con phải mưu cầu lẽ thật và hết lòng, hết trí khôn mà thực hiện bổn phận.) Chính là khi đối mặt với bổn phận, chuyện đã giao phó cho ngươi thì ngươi đừng suy nghĩ đến việc tránh né khó khăn, đừng thấy việc khó làm thì đặt sang một bên và không quan tâm. Ngươi phải đối mặt trực diện với nó. Ngươi phải luôn ghi nhớ rằng Đức Chúa Trời ở cùng con người, khi con người có chuyện gì khó khăn, họ chỉ cần cầu nguyện và tìm kiếm nơi Đức Chúa Trời, với Đức Chúa Trời thì không có chuyện gì là khó khăn cả. Ngươi phải có đức tin này. Nếu tin Đức Chúa Trời tể trị vạn vật, thì tại sao khi gặp chuyện, ngươi vẫn sợ hãi và cảm thấy không có ai để cậy dựa? Như vậy chứng tỏ rằng ngươi không cậy dựa Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không xem Đức Chúa Trời là nơi để cậy dựa, và không xem Ngài là Đức Chúa Trời của ngươi, thì Ngài không phải là Đức Chúa Trời của ngươi. Trong đời sống hiện thực, bất kể gặp phải chuyện gì, ngươi đều phải luôn luôn đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và tìm kiếm lẽ thật. Cho dù mỗi ngày ngươi chỉ hiểu lẽ thật và có thu hoạch về mỗi một chuyện gì đó, thì cũng không hề lãng phí thời gian! Hiện tại một ngày ngươi có thể đến trước Đức Chúa Trời được bao nhiêu lâu? Một ngày ngươi đến trước Đức Chúa Trời bao nhiêu lần? Ngươi đã đạt đến kết quả nào chưa? Nếu con người ít khi đến trước Đức Chúa Trời, thì linh của họ sẽ rất khô cằn và tối tăm. Con người khi bình an vô sự thì rời xa Đức Chúa Trời và phớt lờ Ngài, đến khi gặp khó khăn thì mới đến tìm Ngài. Đây là tin Đức Chúa Trời sao? Đây là trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời sao? Đây đều là biểu hiện của kẻ chẳng tin. Tin Đức Chúa Trời như vậy thì không có cách nào đạt được lẽ thật và sự sống.
Người không hiểu hoặc không thực hành lẽ thật thì thường sống trong tâm tính bại hoại và các loại cạm bẫy của Sa-tan. Họ vì tiền đồ, thể diện, địa vị và các loại lợi ích của bản thân mà suy xét, vì những chuyện này mà vắt óc suy nghĩ. Nhưng nếu ngươi dùng thái độ này để thực hiện bổn phận, để tìm kiếm và mưu cầu lẽ thật, thì ngươi sẽ có thể đạt được lẽ thật. Chẳng hạn như, ngươi vì một chút lợi ích nhỏ bé của mình mà suy nghĩ thật chu đáo và tỉ mỉ, lên kế hoạch có thể nói là hoàn mỹ, đặt rất nhiều tâm tư và sức lực vào đó. Nếu ngươi dồn sức lực này vào việc thực hiện bổn phận và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, thì ngươi sẽ thấy Đức Chúa Trời có thái độ khác đối với ngươi. Con người luôn oán trách Đức Chúa Trời: “Tại sao Ngài đối tốt với họ mà lại không đối tốt với con? Tại sao con lại không bao giờ được khai sáng? Tại sao con lại luôn yếu đuối? Tại sao con lại không bằng họ?”. Tại sao lại như vậy? Đức Chúa Trời không thiên vị ai cả. Nếu ngươi không đến trước Đức Chúa Trời, lúc gặp chuyện lại luôn muốn tự giải quyết, thì Ngài sẽ không khai sáng ngươi. Đợi đến khi ngươi cầu nguyện và khẩn cầu Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ lại ban cho ngươi. Đức Chúa Trời thích loại người nào? Đức Chúa Trời chờ đợi con người cầu xin thứ gì từ Ngài? Có phải giống như những kẻ vô liêm sỉ kia cầu xin Ngài ban tiền bạc, an nhàn, danh lợi và hưởng thụ không? Đức Chúa Trời không thích khi con người cầu xin Ngài những thứ này. Hễ ai cầu xin Ngài ban những thứ này thì chính là người vô liêm sỉ, chính là người thấp hèn nhất. Đức Chúa Trời không muốn họ. Ngài muốn người có thể tỉnh ngộ khỏi tội lỗi, tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật từ Ngài – Đức Chúa Trời chấp thuận người như vậy. Ngươi nên cầu nguyện như thế này: “Đức Chúa Trời ơi, con đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, và con thường sống trong tâm tính bại hoại của mình. Con không thể vượt qua được mọi sự cám dỗ của danh tiếng và địa vị, và không biết phải làm sao với chúng. Con không hiểu nguyên tắc lẽ thật, cầu xin Ngài khai sáng và dẫn đường cho con”, và “Con sẵn lòng thực hiện bổn phận, nhưng con cảm thấy mình không đảm đương được – một mặt, vóc giạc của con quá nhỏ; mặt khác, con còn thiếu hiểu biết nghiệp vụ. Con lo lắng rằng mình làm không được tốt, cầu xin Ngài dẫn dắt và giúp đỡ con”. Đức Chúa Trời chính là đang đợi ngươi đến tìm kiếm lẽ thật. Khi ngươi đến trước Đức Chúa Trời và tìm kiếm với một tấm lòng trung thực, Ngài sẽ khai sáng và soi sáng ngươi. Khi đó ngươi sẽ có con đường và sẽ biết cách thực hiện bổn phận. Nếu ngươi luôn dốc sức vì lẽ thật, đem tình hình thực sự của mình đến trước Ngài mà cầu nguyện, cầu xin ân huệ từ Ngài, như vậy thì ngươi sẽ có thể dần dần hiểu và thực hành được lẽ thật. Những gì ngươi sống thể hiện ra sẽ có hình dạng giống con người, có nhân tính bình thường và thực tế lẽ thật. Nếu ngươi không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, không mưu cầu lẽ thật, thường hay vì các phương diện lợi ích của bản thân mà tính toán, suy nghĩ, tốn tâm tư và công sức, thậm chí liều mạng và không tiếc phải trả bất kỳ giá nào, thì ngươi có thể được mọi người tôn trọng, cũng đạt được nhiều loại lợi ích và thể diện. Nhưng những gì ngươi đạt được này so với lẽ thật, cái nào quan trọng hơn? (Thưa, lẽ thật.) Con người đều hiểu đạo lý này, nhưng họ đều không mưu cầu lẽ thật mà chỉ coi trọng lợi ích và địa vị. Vậy rốt cuộc họ hiểu thật hay hiểu giả? (Thưa, hiểu giả.) Thực ra, con người ngu dốt, họ không nhìn thấu được chuyện này. Khi nào họ có thể nhìn thấu được chuyện này thì mới có một chút vóc giạc. Họ phải mưu cầu lẽ thật, nỗ lực theo lời Đức Chúa Trời, không được hồ đồ hay qua loa đại khái. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, thì sẽ có một ngày Đức Chúa Trời phán: “Lời của Đức Chúa Trời đã phán xong, Ngài không muốn phán gì thêm với nhân loại này, cũng không muốn công tác gì thêm, và giờ đã đến lúc kiểm nghiệm công trình của con người”. Khi đó ngươi nhất định sẽ là đối tượng bị loại bỏ. Cho dù ngươi có chỗ dựa lớn đến đâu, có bao nhiêu ân tứ và tài cán, có trình độ và danh vọng cao đến mức nào, hay địa vị của ngươi trên thế giới này hiển hách cỡ nào, thì cũng vô dụng. Khi đó, ngươi mới biết được sự quý giá và quan trọng của lẽ thật, biết rằng không đạt được lẽ thật thì ngươi chẳng liên quan gì đến Đức Chúa Trời, và rằng tin Đức Chúa Trời mà không đạt được lẽ thật thì thật đáng thương và đáng buồn biết bao. Hiện tại, có rất nhiều người đã có chút cảm giác loáng thoáng trong lòng, nhưng chút cảm giác này vẫn còn chưa khơi dậy được ý chí mưu cầu lẽ thật trong họ. Trong sâu thẳm lòng mình, họ vẫn chưa cảm nhận được sự quý giá và quan trọng của lẽ thật. Chỉ có một chút ý thức là chưa được, mà phải thực sự nhìn thấu thực chất của chuyện này. Khi đó, ngươi sẽ biết nên dùng phương diện lẽ thật nào để đến giải quyết vấn đề này. Chỉ có lẽ thật mới có thể giải quyết mọi khó khăn của con người, và giải quyết đủ loại tư tưởng lệch lạc, quan điểm hẹp hòi, tâm tính sa ngã, hoặc là đủ mọi mặt vấn đề về sự bại hoại của họ. Nếu cứ mưu cầu lẽ thật và không ngừng dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, thì các ngươi sẽ có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại và đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu gặp bất kỳ vấn đề nào, ngươi đều dựa vào biện pháp và sự khắc chế của con người để giải quyết, thì ngươi sẽ không bao giờ giải quyết được những khó khăn và tâm tính bại hoại này. Một số người nói rằng: “Nếu tôi đọc nhiều lời Đức Chúa Trời và bỏ công dành vài giờ mỗi ngày để đọc lời Đức Chúa Trời, thì liệu có chắc chắn đạt đến biến đổi tâm tính không?”. Vậy thì phải xem ngươi đọc lời Đức Chúa Trời như thế nào, xem ngươi có thể đạt đến hiểu và thực hành lẽ thật hay không. Nếu ngươi chỉ đọc lời Đức Chúa Trời cho có, cũng không mưu cầu lẽ thật, thì ngươi sẽ không đạt được lẽ thật; không đạt được lẽ thật thì tâm tính sự sống chắc chắn cũng không đạt đến biến đổi. Tóm lại, tuyệt đối phải mưu cầu lẽ thật, để đạt đến biến đổi tâm tính thì phải mưu cầu và thực hành lẽ thật. Chỉ đọc lời Đức Chúa Trời mà không thực hành lẽ thật thì tuyệt đối không được. Giống như những người Pha-ri-si chuyên truyền giảng lời Đức Chúa Trời cho người khác và bảo họ cách thực hành, nhưng bản thân họ lại không thực hành. Đây là con đường sai lầm. Đức Chúa Trời yêu cầu con người đọc lời Ngài nhiều hơn là để họ có thể hiểu lẽ thật, thực hành lẽ thật và sống thể hiện ra thực tế lẽ thật. Đức Chúa Trời khiến con người bước vào thực tế lẽ thật, tuân theo con đường của Ngài và đi theo con đường nhân sinh đúng đắn là mưu cầu lẽ thật. Chuyện này có liên quan trực tiếp đến việc Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải thực hành việc hết lòng và hết sức thực hiện bổn phận. Đi theo Đức Chúa Trời thì con người phải thông qua việc thực hiện bổn phận mà trải nghiệm công tác của Ngài, như vậy thì mới có thể đạt đến được cứu rỗi và được hoàn thiện.
Trích đoạn 35
Hiện tại những chuyện xảy đến không phù hợp với quan niệm liệu có ảnh hưởng tới việc ngươi thực hiện bổn phận hay không? Ví dụ, có lúc công tác bận rộn, con người buộc phải chịu khổ và trả giá đôi chút mới có thể làm tròn bổn phận của mình; trong tâm trí một số người sẽ nảy sinh quan niệm, nảy sinh lòng chống đối, thậm chí trở nên tiêu cực biếng nhác. Có lúc công tác không bận rộn, bổn phận con người phải thực hiện trở nên nhẹ nhàng hơn, một số người sẽ vui vẻ nghĩ thầm: “Nếu bổn phận lúc nào cũng dễ dàng thực hiện thế này thì tốt quá”. Họ là dạng người gì? Họ là những kẻ lười biếng, chỉ tham hưởng an nhàn thể xác. Liệu những người như thế có trung thành với bổn phận mình phải thực hiện hay không? (Thưa, chắc chắn là không.) Người như thế ngoài miệng nói sẵn lòng vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng sự vâng phục của họ có điều kiện, bắt buộc phải phù hợp với quan niệm cá nhân của họ và không vất vả khổ cực, như thế họ mới có thể vâng phục, nếu đối mặt với nghịch cảnh buộc họ lâm vào khốn khó, họ sẽ liên tục oán trách, thậm chí phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời. Họ là dạng người gì? Họ là những kẻ không yêu lẽ thật. Khi những điều Đức Chúa Trời làm phù hợp với quan niệm và mong muốn của họ, không đòi hỏi họ phải vất vả, thì họ có thể vâng phục. Nếu việc làm của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm, sở thích của họ, yêu cầu họ phải chịu khổ và trả giá, họ sẽ không thể vâng phục nữa, tuy ngoài mặt không phản đối, nhưng trong lòng lại chống đối, không thoải mái, cảm thấy mình phải chịu đựng gian khổ quá lớn, trong lòng âm thầm oán trách. Vấn đề ở đây là gì? Điều này chứng tỏ họ không yêu lẽ thật. Vậy thì những cầu nguyện, thề hứa quyết tâm của họ có giải quyết được vấn đề này không? (Thưa, không thể.) Nếu thế vấn đề nên được giải quyết ra sao? Trước tiên phải hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, yêu cầu của Đức Chúa Trời, phải hiểu được vâng phục thật sự là gì, còn phải biết phản nghịch là gì, chống đối là gì, phải phản tỉnh bản thân xem tâm tính bại hoại nào đang ngăn cản mình vâng phục Đức Chúa Trời và thấu triệt những vấn đề này. Nếu là một người yêu chuộng lẽ thật, có thể chống lại xác thịt đặc biệt là những điều mà xác thịt yêu thích, sau đó thực hành vâng phục Đức Chúa Trời, hành động theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, như vậy có thể giải quyết được sự bại hoại, giải quyết được sự phản nghịch và đạt được sự vâng phục Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật, ngươi sẽ không nhìn thấu những chuyện này, ngươi sẽ không phân biệt được tình hình bên trong bản thân, không nhìn thấu điều gì ngăn cản ngươi vâng phục Đức Chúa Trời, vậy thì ngươi sẽ không có cách nào chống lại xác thịt và thực hành vâng phục Đức Chúa Trời. Nếu ngay cả những điều xác thịt yêu thích cũng không phản bội được thì người ta sẽ rất khó có thể trung thành thực hiện bổn phận, người như thế có thể vâng phục Đức Chúa Trời sao? Người không có lòng trung thành, có thể thực hiện bổn phận đúng quy cách không? Có thể đáp ứng yêu cầu của Đức Chúa Trời không? Khẳng định là không thể đáp ứng. Nếu muốn thực hiện bổn phận đúng quy cách, chí ít phải có khả năng thực hành lẽ thật, phải thật sự vâng phục Đức Chúa Trời mới được, không thể phản bội những điều xác thịt yêu thích thì không thể đưa lẽ thật vào thực hành. Người luôn luôn hành sự theo ý mình thì không phải người vâng phục Đức Chúa Trời, cho dù thỉnh thoảng có thể vâng phục Đức Chúa Trời cũng sẽ là có điều kiện, khi hợp với quan niệm của ngươi, khi tâm trạng ngươi tốt thì ngươi mới có thể vâng phục. Nếu hành động của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm của ngươi, bổn phận sắp đặt cho ngươi, hoàn cảnh bố trí cho ngươi khiến ngươi chịu rất nhiều gian khổ, khiến ngươi rất khó chịu, khiến ngươi cảm thấy rất không vừa ý, lúc đó ngươi có thể vâng phục không? Ngươi sẽ không dễ dàng vâng phục nữa, ngươi sẽ có rất nhiều lý do để phản nghịch Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời, cho dù sau đó có phản tỉnh bản thân thì ngươi cũng không dễ dàng chống lại xác thịt, bởi vì chống lại xác thịt không phải chuyện đơn giản. Làm thế nào để có thể chống lại xác thịt? Dĩ nhiên là phải tìm kiếm lẽ thật, phải biết được thực chất bại hoại, sự xấu xí bại hoại của bản thân, tới mức thù ghét bản thân, thù ghét những thứ mà xác thịt yêu thích, thù ghét thực chất của xác thịt, như thế thì ngươi sẽ sẵn lòng chống lại xác thịt. Nếu không hiểu lẽ thật, sẽ không thể căm hận những thứ thuộc về xác thịt, không thể căm hận sẽ không thể nào phản bội được, cho nên phải cầu nguyện Đức Chúa Trời, nương tựa vào Đức Chúa Trời mới có con đường để đi theo, con người không có lẽ thật sẽ không có sức mạnh, muốn thực hành lẽ thật cũng không thể thực hành nổi, không biết cầu nguyện Đức Chúa Trời, không nương tựa vào Đức Chúa Trời thì tuyệt đối không được.
Có người không mưu cầu lẽ thật, chỉ tham hưởng an nhàn xác thịt, không sẵn lòng chịu khổ để đạt được lẽ thật, chỉ cần chịu khổ một chút đã than phiền, oán trách Đức Chúa Trời, cũng không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, còn cầu nguyện Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, thân phận, thực chất của Ngài cao quý như thế, con không xứng để yêu Ngài, con nguyện vâng phục Ngài, bất kể trong tình huống thế nào, con cũng nguyện vâng phục Ngài, cầu mong Ngài dẫn đường cho con, soi sáng và khai sáng cho con. Nếu con không thể thật lòng yêu Ngài, vâng phục Ngài, xin Ngài dò xét con, xin Ngài trừng phạt con, xin để sự phán xét của Ngài đến với con”. Cầu nguyện như vậy xong còn cảm thấy khá ổn, nhưng đây chẳng phải những lời lẽ sáo rỗng sao? Liên tục cầu nguyện những lời lẽ sáo rỗng, đọc thuộc một vài câu chữ và đạo lý, liệu có thể giải quyết vấn đề hay không? (Thưa, không thể.) Khi người ta cầu nguyện với những lời lẽ sáo rỗng, vấn đề ở đây mang tính chất gì? Chẳng phải nó mang đôi chút tính chất lừa dối sao? Cầu nguyện như vậy trước mặt Đức Chúa Trời liệu có hữu dụng không? Bản thân vừa lười biếng, vừa không thể chịu khổ, vừa tham hưởng an nhàn xác thịt, biết rõ là lẽ thật vẫn không thể vâng phục, biết rõ là bổn phận của mình vẫn không thể giữ vững, biết rõ bản thân không hề tận tâm tận lực vẫn nói muốn yêu Đức Chúa Trời, đây chẳng phải là đang lừa gạt Đức Chúa Trời sao? Không có gì Đức Chúa Trời khinh miệt hơn những lời cầu nguyện theo nghi thức tôn giáo. Chỉ những lời cầu nguyện chân thành mới được Đức Chúa Trời chấp nhận. Nếu ngươi không có gì chân thành để nói, thì hãy giữ im lặng; đừng luôn luôn đến trước Đức Chúa Trời mà nói những lời giả dối và mù quáng thề thốt để lừa dối Ngài. Đừng nói về việc ngươi yêu kính Ngài đến mức nào, về việc ngươi mong muốn trung thành với Ngài đến mức nào. Nếu ngươi không có khả năng thành tựu những mong muốn của mình, nếu ngươi thiếu quyết tâm và vóc giạc này thì ngươi tuyệt đối đừng đến trước Đức Chúa Trời mà cầu nguyện như thế. Đó chính là giễu cợt Đức Chúa Trời. Giễu cợt nghĩa là gì? Giễu cợt có nghĩa là chế nhạo một ai đó, đem họ ra đùa giỡn. Khi mọi người đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện với kiểu tâm tính này, thì ít nhất, đây là sự lừa dối. Trong trường hợp xấu nhất, nếu ngươi thường xuyên làm điều này, thì ngươi có nhân phẩm hoàn toàn đê tiện. Nếu Đức Chúa Trời lên án ngươi, Ngài sẽ gọi đây là sự báng bổ! Mọi người không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, họ không biết cách kính sợ Đức Chúa Trời, hoặc làm thế nào để yêu kính và làm hài lòng Ngài. Nếu lẽ thật không rõ ràng đối với họ, hoặc nếu họ có tâm tính bại hoại, thì Đức Chúa Trời sẽ bỏ qua. Nhưng họ đến trước Đức Chúa Trời khi đang sống trong những tâm tính bại hoại của mình và dùng những phương thức lừa gạt của người ngoại đạo với Đức Chúa Trời, lại còn “trang nghiêm” quỳ xuống trước Ngài khi cầu nguyện, sử dụng những lời này để cố lừa phỉnh Đức Chúa Trời. Cầu nguyện như thế xong, họ không những không cảm thấy tự trách mình, mà còn không ý thức được sự nghiêm trọng trong những hành động của họ. Nếu đúng như thế, Đức Chúa Trời có ở cùng họ không? Đức Chúa Trời không ở cùng họ. Một người hoàn toàn không có sự hiện diện của Đức Chúa Trời có thể đạt được sự khai sáng và soi sáng của Ngài hay không? Họ có thể được khai sáng về lẽ thật không? (Không, họ không thể được khai sáng.) Vậy thì, họ gặp rắc rối. Các ngươi đã cầu nguyện như vậy nhiều lần chưa? Các ngươi không thường làm như vậy sao? (Thưa, có.) Khi mọi người ở quá lâu trong thế gian bên ngoài, họ sặc mùi hôi thối của xã hội, bản tính cặn bã của họ trở nên quá nghiêm trọng, và họ trở nên đầy dẫy độc tố và triết lý của Sa-tan; những gì thốt ra từ miệng họ là những lời giả dối và lừa lọc, nếu cầu nguyện luôn nói lời sáo rỗng, đạo lý, không nói lời trong lòng, không nói khó khăn thực tế, lúc nào cũng cầu nguyện cho những điều bản thân yêu thích, lúc nào cũng cầu Đức Chúa Trời chúc phúc, ít khi có lòng tìm kiếm lẽ thật cũng không cầu nguyện bằng tấm lòng vâng phục Đức Chúa Trời, những lời cầu nguyện như vậy chỉ bộc lộ sự lừa gạt, sự ngụy trang, những người như vậy tâm tính bại hoại vô cùng nghiêm trọng, chắc chắn sẽ trở thành những con quỷ sống. Đến trước mặt Đức Chúa Trời cầu nguyện, họ không nói tiếng người, không nói lời trong lòng, mà lại mang sự lừa gạt và ngụy trang của Sa-tan đến trước mặt Đức Chúa Trời, như thế chẳng phải đã xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời sao? Đức Chúa Trời có thể lắng nghe những lời cầu nguyện như thế không? Đức Chúa Trời chán ghét, tuyệt đối sẽ không thích những người như thế. Lời cầu nguyện như vậy có thể nói là đã dối gạt Đức Chúa Trời, đánh lừa Đức Chúa Trời, căn bản không phải đang tìm kiếm lẽ thật, cũng không phải đang thổ lộ lời trong lòng với Đức Chúa Trời, không hề ăn khớp với tâm ý của Đức Chúa Trời, yêu cầu của Đức Chúa Trời. Về căn nguyên, đây là do bản tính con người tạo thành, không phải sự bộc lộ bại hoại nhất thời. Họ cho rằng: “Dù sao tôi cũng chẳng nhìn thấy, chẳng sờ thấy Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ở đâu tôi cũng chẳng biết. Tôi tùy tiện nói với Đức Chúa Trời mấy câu, chẳng biết Đức Chúa Trời có nghe thấy không nữa”, họ cầu nguyện Đức Chúa Trời với tâm thái hoài nghi, cầu nguyện Đức Chúa Trời với tâm thái thăm dò, cầu nguyện xong họ sẽ cảm thấy thế nào? Chẳng phải vẫn là trống rỗng sao? Việc không có bất cứ cảm giác nào chẳng phải là rắc rối sao? Cầu nguyện được hình thành trên cơ sở đức tin, là lời cầu nguyện trong tâm hồn, nói với Đức Chúa Trời những lời trong lòng mình, thổ lộ tâm tình với Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật từ Đức Chúa Trời, như thế trong lòng mới bình yên, mới cảm giác được sự hiện diện của Đức Chúa Trời, đây chính là Đức Chúa Trời đang lắng nghe trong bóng tối. Mỗi lần cầu nguyện Đức Chúa Trời từ tận linh hồn như vậy giống như một lần được diện kiến Đức Chúa Trời, đức tin tăng lên, mối quan hệ với Đức Chúa Trời mật thiết hơn, đến gần với Đức Chúa Trời thêm một bước, trong lòng cảm thấy đầy đủ, cũng đặc biệt vững vàng, đây chính là cảm giác chân thực sau khi cầu nguyện. Cầu nguyện kiểu tôn giáo là làm theo hình thức, ngày ngày lặp lại cùng những câu nói đó, nói đến mức bản thân cũng không sẵn lòng nói nữa, sau khi cầu nguyện xong chẳng có cảm giác gì, cũng chẳng đạt được kết quả nào, người như thế có thể có đức tin thật sự sao? Điều này là không thể.
Một số người thực hiện bổn phận không trung thành, luôn qua loa chiếu lệ, hoặc cảm thấy bổn phận mình thực hiện quá khổ quá mệt, không muốn vâng phục, luôn muốn trốn tránh, luôn muốn cự tuyệt, luôn muốn thực hiện một vài bổn phận dễ dàng, không phải dãi nắng dầm mưa, không có rủi ro, xác thịt có thể an nhàn. Trong lòng biết rõ mình lười biếng, tham hưởng an nhàn xác thịt, không chịu được khổ, nhưng lại chẳng nói với ai ý nghĩ thật sự của mình, sợ người khác biết sẽ cười nhạo, ngoài miệng còn nói: “Phải thực hiện bổn phận thật tốt, phải có lòng trung thành với Đức Chúa Trời”, khi chẳng làm tốt được việc nào, họ lại nói với mọi người rằng: “Người như tôi không có nhân tính cũng không có lòng trung thành để thực hiện bổn phận”, nhưng thật ra trong lòng họ hoàn toàn không hề nghĩ như vậy. Khi người ta ở trong tình trạng như thế, sao họ có thể cầu nguyện một cách có lý trí được? Đức Chúa Jêsus dạy phải thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm hồn và sự trung thực, khi đến trước mặt Đức Chúa Trời, tấm lòng của ngươi phải trung thực, đừng ngụy trang, đừng trước mặt người ta nói một đằng, trong lòng mình lại nghĩ một nẻo, đến trước mặt Đức Chúa Trời mà lại ngụy trang bản thân, nói lời dễ nghe, nói lời đẹp đẽ giống như làm văn, vậy chẳng phải là dối gạt Đức Chúa Trời sao? Kết quả Đức Chúa Trời thấy ngươi không phải người thờ phượng Ngài bằng tâm hồn và sự trung thực, tâm hồn của ngươi không trung thực, quá nham hiểm, quá tà ác, nuôi dưỡng những ý định xấu xa, Ngài sẽ rời bỏ ngươi. Vậy về những việc thường xuyên xảy ra với họ và những vấn đề họ thường xuyên có thể tiếp xúc trong cuộc sống hằng ngày, con người nên cầu nguyện thế nào? Phải học cách nói với Đức Chúa Trời những lời trong lòng mình. Ngươi nói: “Lạy Đức Chúa Trời, hiện tại con vô cùng mệt mỏi khi phải thực hiện bổn phận này, con là người tham hưởng an nhàn xác thịt, lười biếng, siêng ăn nhác làm, con không thể cống hiến lòng trung thành của mình để thực hiện bổn phận Ngài giao phó, ngay cả cố gắng hết sức mình cũng không thể đạt được, luôn muốn trốn tránh, luôn muốn cự tuyệt, luôn qua loa chiếu lệ. Xin Ngài sửa dạy con”. Đây có phải lời nói thật không? (Thưa, phải.) Ngươi có dám nói như thế không? Sau khi nói xong lại sợ ngộ nhỡ một ngày nào đó Đức Chúa Trời thật sự sửa dạy thì phải làm sao, thế là trở nên sợ hãi, thấp thỏm lo âu, lúc nào lòng dạ cũng hẹp hòi. Khi thực hiện bổn phận, người ta lúc nào cũng không muốn chịu khổ nhiều, tham hưởng an nhàn xác thịt, khổ cực một chút, tốn sức một chút hoặc là mệt mỏi một chút liền muốn rút lui, lúc nào cũng kén chọn và khi phải chịu khổ đôi chút, họ liền suy nghĩ: “Liệu Đức Chúa Trời có biết không, liệu Ngài có ghi nhớ không? Mình chịu khổ nhiều như thế, liệu sau này có được phần thưởng nào không?”. Họ luôn luôn tìm kiếm một kết quả. Những vấn đề này đều cần được giải quyết. Trước đây, Ta có giao phó cho một người đi truyền tin, đến lúc quay lại báo cáo, anh ta đã kể về những công lao của mình trước tiên. Anh ta kể mình đã giải quyết vấn đề này như thế nào, đã lo nghĩ nhiều như thế nào, đã phải nói chuyện nhiều như thế nào, người kia khó xử lý như thế nào và anh ta phải nói bao nhiêu lời dễ nghe, cuối cùng mới hoàn thành nhiệm vụ, anh ta luôn muốn đòi công trạng và liên tục nói về những chuyện đó. Ngụ ý ở đây là gì? “Ngài phải khen ngợi tôi, cho tôi một lời hứa và nói cho tôi biết sau này tôi sẽ được ban thưởng điều gì”. Đây rõ ràng là đang đòi phần thưởng. Các ngươi nói xem, làm chút chuyện thế này có đáng được khen ngợi không? Mới thực hiện một vài bổn phận đã muốn được người khác khen ngợi, đây là tâm tính gì? Đây chẳng phải bản tính của Sa-tan sao? Mới làm chút chuyện thế này đã muốn được khen ngợi, muốn được ban thưởng, vậy nếu làm việc lớn, làm công việc quan trọng, thì chẳng phải sẽ còn ghê gớm hơn sao? Nếu không đạt được sự khen ngợi, sự chúc phúc của Đức Chúa Trời, liệu anh ta có tạo phản không? Liệu anh ta có đến tầng trời thứ ba và tranh luận với Đức Chúa Trời không? Vậy anh ta đang đi con đường nào trong đức tin vào Đức Chúa Trời? (Thưa, con đường của kẻ địch lại Đấng Christ.) Con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, giống như Phao-lô. Phao-lô luôn đòi lấy sự ban thưởng và địa vị từ Đức Chúa Trời, nếu Đức Chúa Trời không ban thưởng, ông ta sẽ trở nên tiêu cực chểnh mảng, chống đối Chúa, phản bội Chúa. Các ngươi nói xem, thực hiện bổn phận, chịu một chút khổ mà muốn được ban thưởng thì là loại người nào? (Thưa, kẻ ác.) Nhân tính quá ác độc. Vậy bên trong người bình thường có những tình trạng thế này không? Ai cũng có những tình trạng thế này, thực chất bản tính của con người đều như vậy, chẳng qua có những người không thể hiện nó một cách mãnh liệt như thế, họ có lý tính, biết làm như thế, nghĩ như thế là không đúng và không thể nài xin. Nhưng nếu có tình trạng này thì phải làm sao? Thì phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết. Lẽ thật ở khía cạnh nào có thể giải quyết tình trạng này? Quan trọng là con người phải biết mình là ai, nên đứng ở vị trí nào, nên mưu cầu con đường ra sao, làm người thế nào, những điều này chí ít cũng phải biết. Một người ngay cả những điều này cũng không biết, thì nói gì tới chuyện hiểu lẽ thật, thực hành lẽ thật hay mưu cầu sự cứu rỗi.
Khi thực hiện một vài bổn phận đặc biệt hoặc khổ hơn, mệt hơn một chút, một mặt, người ta phải luôn suy tính xem nên thực hiện bổn phận này thế nào, họ nên chịu đựng những khổ cực nào, họ nên duy trì bổn phận của mình như thế nào, nên vâng phục như thế nào; mặt khác họ cũng phải tự kiểm điểm động cơ của bản thân xem có hỗn tạp nào không, có cản trở gì đến việc thực hiện bổn phận không. Trong thiên tính, con người đều không muốn chịu khổ, không một ai càng chịu khổ càng hăng hái, càng chịu khổ càng vui vẻ, chẳng có ai như thế cả. Bản tính xác thịt của con người là một khi chịu khổ sẽ âu sầu, phiền não, nhưng hiện tại khi thực hiện bổn phận, các ngươi phải chịu đựng bao nhiêu khổ cực? Chỉ là xác thịt mệt một chút, vất vả một chút mà thôi. Nếu ngay cả một chút khổ cực này các ngươi cũng không chịu nổi, thì liệu các ngươi có thể xem là có ý chí không? Có thể xem là thật lòng tin Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Điều này là không ổn. Ở nhà Đức Chúa Trời, không ai giám sát các ngươi thực hiện bổn phận, hoàn toàn dựa vào sự tự giác của các ngươi, nhà Đức Chúa Trời có sự sắp xếp công việc, có chế độ, con người dựa vào đức tin, dựa vào lương tâm lý trí, chỉ có Đức Chúa Trời dò xét xem các ngươi làm tốt hay không tốt. Khi con người ta thực hiện bổn phận hay gặp phải con người, sự vật, sự việc nào đó, bất kể họ bộc lộ ra tâm tính bại hoại gì, cũng không có nhận thức hay không có chỉ trích, đó là chuyện tốt hay chuyện xấu? (Thưa, chuyện xấu.) Vì sao lại nói là chuyện xấu? Lương tâm lý trí của con người có một tiêu chuẩn tối thiểu, nếu lương tâm của các ngươi không có nhận thức, không thể kiềm chế các ngươi làm việc xấu, không thể kiềm chế hành vi của các ngươi, các ngươi làm việc vi phạm các sắc lệnh quản trị, vi phạm nguyên tắc, không có nhân tính, trong lòng cũng không có chỉ trích, như thế có phải là không có giới hạn đạo đức không? Có phải là không có nhận thức lương tâm không? (Thưa, phải.) Vậy thì bình thường khi các ngươi làm sai hay vi phạm nguyên tắc hay thực hiện bổn phận không trung thành trong thời gian dài, các ngươi có nhận thức được không? (Thưa, có.) Vậy thì lương tâm của các ngươi có thể kiềm chế các ngươi, khiến các ngươi làm việc dựa vào lương tâm lý trí, làm việc dựa vào nguyên tắc lẽ thật hay không? Nếu các ngươi là những người hiểu lẽ thật, liệu các ngươi có thể cải thiện từ làm việc dựa vào lương tâm thành làm việc dựa vào nguyên tắc lẽ thật không? Nếu có thể làm được như thế, vậy thì các ngươi có thể được cứu rỗi. Có thể chịu khổ khi thực hiện bổn phận không phải chuyện đơn giản, có thể làm tốt một dạng công việc cũng không phải chuyện đơn giản, chắc chắn là có một vài lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời đã tác động vào bên trong họ, chứ không phải họ bẩm sinh đã không sợ khổ, không sợ mệt, làm gì có ai như thế? Họ đều có nền tảng động lực, có nền tảng một số lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời tác động, khi bổn phận đến với họ, quan điểm, lập trường của họ thay đổi, lúc thực hiện bổn phận sẽ nhẹ nhàng, thể xác chịu đựng một chút khổ cực, một chút mệt nhọc cũng không tính là gì. Những người không hiểu lẽ thật, quan điểm nhìn nhận sự việc không thay đổi, họ sống bằng ý nghĩ, quan niệm, ham muốn cá nhân của con người và những điều cá nhân yêu thích, nên sẽ không cam tâm bằng lòng khi thực hiện bổn phận. Ví dụ, cùng là làm một công việc vừa bẩn vừa mệt, có người nói: “Tôi vâng phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, hội thánh sắp xếp cho tôi bổn phận nào tôi sẽ thực hiện bổn phận đó, bất kể là việc bẩn thỉu hay việc mệt nhọc, bất kể là huy hoàng hay tầm thường, tôi cũng không có yêu cầu gì, tôi cũng đều chấp nhận chúng như bổn phận, đây là sự uỷ thác Đức Chúa Trời giao phó cho tôi, bẩn một chút, mệt mội chút đều là khổ cực tôi nên chịu đựng”, cho nên lúc làm việc họ không thấy mình phải chịu đựng bất cứ khổ cực nào, người khác cảm thấy vừa bẩn vừa mệt, họ lại cảm thấy nhẹ nhàng, bởi vì trong lòng họ thản nhiên, họ làm là vì Đức Chúa Trời, nên không cảm thấy khó khăn. Có người làm một chút việc bẩn, việc mệt hoặc việc tầm thường là xúc phạm đến thân phận và nhân cách của họ, là người ta không tôn trọng họ, bắt nạt họ, coi thường họ, cho nên cùng một công việc như nhau, cùng một khối lượng công việc như nhau, họ làm lại cảm thấy vất vả, dù làm gì trong lòng họ cũng oán hận, cũng cảm thấy không như ý, cũng không hài lòng, bên trong họ đều là tiêu cực, chống đối. Họ có thể tiêu cực chống đối là vì điều gì? Nguyên do nằm ở đâu? Đa phần bởi vì thực hiện bổn phận không được trả tiền lương, đều là làm không công, nếu như được ban thưởng thì còn chấp nhận được, nhưng được ban thưởng hay không cũng chẳng biết, họ sẽ cảm thấy thực hiện bổn phận là không xứng đáng, tương đương với làm không công, cho nên khi thực hiện bổn phận thường xuyên tiêu cực, chống đối, có như thế không? Nói trắng ra, những người này không sẵn lòng thực hiện bổn phận. Nhưng không ai ép buộc họ, sao họ vẫn tới thực hiện bổn phận? Đó chính là vì họ tự ép buộc bản thân, để đạt được phước lành, để tiến vào thiên quốc, nên không thể không làm như vậy, đây là biểu hiện rất bất đắc dĩ, là tâm lý giao dịch với Đức Chúa Trời. Có người nói, vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề tiêu cực, chống đối trong lòng họ đây? Chỉ có thể giải quyết bằng cách thông công lẽ thật, nếu họ không yêu lẽ thật, thì thông công lẽ thật thế nào cũng không chấp nhận được, tức là họ là những người không tin và họ đã bị tỏ lộ. Bởi vì họ muốn thực hiện giao dịch và không có lợi thì không làm, nếu Đức Chúa Trời hứa ban thưởng cho họ, cho phép họ tiến vào thiên quốc, viết giấy cam đoan, đảm bảo họ sẽ thực hiện bổn phận hăng say. Thật ra, lời hứa của Đức Chúa Trời là công khai, ai theo đuổi lẽ thật thì có thể đạt được, ai không theo đuổi lẽ thật thì không thể đạt được, họ không phải không biết lời hứa của Đức Chúa Trời, chẳng qua trong lòng họ cảm thấy mờ mịt, không chắc chắn, đối với họ mà nói, lời hứa của Đức Chúa Trời giống như tấm chi phiếu hư danh, họ không tin, không có đức tin thật sự với nó, chuyện này cũng chẳng còn cách nào khác. Họ muốn những thứ hữu hình, nếu trả lương cho họ, đảm bảo họ sẽ nhiệt tình, nhưng những người không có lương tâm lý trí cũng chưa chắc sẽ nhiệt tình, họ vô cùng xấu bụng, cho dù làm việc trong thế tục cũng sẽ không siêng năng, cũng sẽ láu cá giở mánh khoé, chắc chắn sẽ bị sa thải, đây đơn thuần là do vấn đề ở bản tính. Những người lúc nào cũng thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, chỉ có thể giải quyết bằng cách thanh trừ, đào thải mà thôi. Đối với những người không chấp nhận lẽ thật thì chẳng còn cách nào khác, cái cớ của họ, lý do của họ đều vô lý, phẩm chất nhân tính của họ rốt cuộc như thế nào cũng không cần bàn tới nữa.
Hiện tại, đa số mọi người đều bắt đầu thực hiện bổn phận, đối với việc bổn phận là gì, bổn phận sinh ra như thế nào, là do ai giao phó, các ngươi có biết rõ không? (Thưa, bổn phận là sự uỷ thác Đức Chúa Trời giao cho con người.) Đúng vậy, các ngươi tin Đức Chúa Trời, đến với nhà Đức Chúa Trời, có thể chấp nhận sự uỷ thác Đức Chúa Trời giao cho, thì tức là người của nhà Đức Chúa Trời, việc nhà Đức Chúa Trời sắp xếp cho các ngươi, con đường Đức Chúa Trời nói các ngươi cần đi theo, sự uỷ thác Đức Chúa Trời giao phó cho các ngươi, những điều này đối với các ngươi mà nói đều là bổn phận, đều là những gì Đức Chúa Trời giao cho các ngươi. Khi các ngươi ăn uống những lời của Đức Chúa Trời, biết tâm ý của Đức Chúa Trời, cũng nghe hiểu được sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, trong lòng biết bổn phận mình cần thực hiện là gì, trách nhiệm mình có thể hoàn thành là gì, khi các ngươi chấp nhận sự uỷ thác của Đức Chúa Trời và bắt đầu thực hiện bổn phận, các ngươi liền trở thành một thành viên trong nhà Đức Chúa Trời, một phần của việc mở rộng phúc âm rồi. Đức Chúa Trời coi các ngươi là một thành viên của nhà Ngài, là một phần của công việc mở rộng phúc âm, vậy thì sẽ có bổn phận ngươi cần thực hiện. Miễn là chuyện các ngươi có thể làm được, là chuyện các ngươi có thể đạt được, thì đều là trách nhiệm, bổn phận của các ngươi, có thể nói, chúng là sự uỷ thác của Đức Chúa Trời, là sứ mệnh của các ngươi, là những thứ không thể chối từ. Bổn phận đến từ Đức Chúa Trời, là trách nhiệm, sự uỷ thác Đức Chúa Trời giao cho con người, vậy con người nên đón nhận như thế nào? “Nếu đã là bổn phận của tôi, là Đức Chúa Trời giao phó cho tôi, vậy đó là nghĩa vụ, trách nhiệm của tôi, tôi cần phải chấp nhận nó mà không do dự, không thể từ chối, cự tuyệt, không thể xoi mói, không thể chọn lựa, chuyện đến với tôi chắc chắn là chuyện tôi cần phải làm, không phải không có tư cách lựa chọn mà là không nên lựa chọn, đây là lý trí mà loài thọ tạo nên có”. Đây chính là thái độ vâng phục. Có một số người thực hiện bổn phận luôn kén cá chọn canh, luôn muốn làm công việc nhẹ nhàng, làm công việc mình thích làm, không thể vâng phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, điều này chứng tỏ vóc giạc của họ quá nhỏ bé, không có lý trí của người bình thường. Nếu là người trẻ tuổi, lúc ở nhà được nuông chiều từ nhỏ chưa từng chịu khổ, ngang ngạnh một chút cũng là điều dễ hiểu, chỉ cần có thể chấp nhận lẽ thật thì sẽ dần dần thay đổi; nếu người trưởng thành đã ba mươi bốn mươi tuổi mà vẫn còn cái tính này, thì đó là vấn đề của sự lười biếng. Bệnh lười biếng là bệnh bẩm sinh, khó chữa trị nhất, thuộc về vấn đề bản tính, phải ở trong môi trường, bối cảnh đặc biệt, bị ép không còn cách nào khác mới có thể chịu đựng một chút khổ cực, một chút vất vả. Giống như một vài ăn mày, biết rõ làm ăn mày bị người ta coi thường, bị người ta kỳ thị, nhưng bởi vì lười biếng không bằng lòng lao động, nên chỉ có thể bấm bụng làm ăn mày, nếu không thì phải chết đói. Tóm lại, nếu không thể thực hiện bổn phận nghiêm túc và có trách nhiệm, sớm muộn cũng sẽ bị đào thải. Tin Đức Chúa Trời nhưng không thể vâng phục Đức Chúa Trời, đây là sự vi phạm lớn nhất. Nếu các ngươi cự tuyệt thực hiện bổn phận hoặc lúc nào cũng chê khổ sợ mệt, tức là các ngươi không phải người có lương tâm lý trí, các ngươi không thích hợp để thực hiện bổn phận, các ngươi có thể rời đi. Đến một ngày, khi các ngươi ý thức được việc không thực hiện bổn phận là cự tuyệt sự uỷ thác của Đấng Tạo Hóa dành cho các ngươi và rằng các ngươi là người phản nghịch Đức Chúa Trời, không có lương tâm lý trí, ý thức được việc tin Đức Chúa Trời thì cần phải làm tròn bổn phận, đây là điều bắt buộc; các ngươi sẽ quy củ làm tròn bổn phận của mình, như thế là có sự vâng phục rồi. Nếu một người phản nghịch, tiêu cực trong bổn phận của mình, chính là không hề vâng phục Đức Chúa Trời một chút nào, người như thế cũng không phải người thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, chỉ có cam tâm làm tròn bổn phận mới là biểu hiện tối thiểu của việc vâng phục Đức Chúa Trời. Vậy bổn phận được sinh ra như thế nào? (Thưa, bổn phận đến từ Đức Chúa Trời, là trách nhiệm Đức Chúa Trời trao cho con người.) Bổn phận là trách nhiệm Đức Chúa Trời trao cho con người, vậy người ngoại đạo có bổn phận hay không? (Thưa, không có.) Tại sao lại nói là không có? (Thưa, họ không phải người nhà Đức Chúa Trời.) Đúng thế, người ngoại đạo chỉ bận rộn vì sự sống xác thịt, mọi điều họ làm không xứng được gọi là bổn phận, họ thuộc về thế tục, thuộc về Sa-tan. Đức Chúa Trời chỉ sắp xếp cho họ số phận một đời, sinh ra vào lúc nào, sinh ra ở gia đình nào, sau khi lớn lên làm công việc gì, chết đi lúc nào, Đức Chúa Trời không lựa chọn họ hay cứu rỗi họ. Người tin Đức Chúa Trời thì khác, ở phạm vi hẹp, mỗi dạng công việc con người làm tại nhà Đức Chúa Trời đều là bổn phận con người cần phải thực hiện; ở phạm vi rộng, trong toàn bộ kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, bổn phận của mỗi một loài thọ tạo đều là đang phối hợp với công việc của Đức Chúa Trời, nói trắng ra, là đang phục vụ cho kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Bất kể các ngươi có phục vụ với lòng trung thành hay không, cũng đều không được coi là người tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Trên thực tế, nếu một người có thể thực sự làm tròn bổn phận của mình, có thể đạt được hiệu quả làm chứng cho Đức Chúa Trời, đạt được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời, mới có thể trở thành con dân của Đức Chúa Trời, mới là một loài thọ tạo đạt yêu cầu. Sau khi các ngươi làm tròn mỗi một bổn phận Đức Chúa Trời giao cho, sau khi các ngươi đạt tiêu chuẩn rồi, các ngươi chính là một thành viên của nhà Đức Chúa Trời, là một người của nhà Đức Chúa Trời được Ngài công nhận.
Trích đoạn 36
Lời lẽ trong ca khúc “Làm người trung thực thật vui” khá là thực tế, và Ta đã chọn ra vài dòng để thông công. Trước tiên, hãy thông công câu: “Tôi hết lòng, hết trí giữ vững bổn phận của mình, và tôi chẳng chút bận tâm tới xác thịt”. Đây là trạng thái gì vậy? Kiểu người nào là người có thể hết lòng, hết trí giữ vững bổn phận của họ? Họ có lương tâm không? Họ đã làm tròn trách nhiệm của một loài thọ tạo chưa? Họ đã đền đáp Đức Chúa Trời chút nào hay chưa? (Thưa, rồi.) Sự thật rằng họ có thể hết lòng, hết trí giữ vững bổn phận của mình có nghĩa là họ thực hiện bổn phận một cách nghiêm túc, có trách nhiệm, không làm qua loa chiếu lệ, không láu cá hay né việc, cũng không trốn tránh trách nhiệm. Họ có thái độ đúng đắn, trạng thái và tâm thái của họ đều bình thường. Họ có lương tâm, có lý trí, họ lưu tâm tới Đức Chúa Trời, và họ trung thành với bổn phận của mình. “Chẳng chút bận tâm tới xác thịt” nghĩa là gì? Ở đây cũng có một số trạng thái. Chủ yếu, câu này có nghĩa là họ không bận tâm tới tương lai của xác thịt mình, và không lập kế hoạch cho những gì sẽ xảy đến với mình. Có nghĩa là họ không nghĩ tới sau này khi già đi sẽ làm gì, ai sẽ chăm sóc mình, hoặc mình khi đó sẽ sống ra sao. Họ không bận tâm những điều này, mà thay vào đó, họ quy phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời trong mọi sự. Làm tròn bổn phận chính là nhiệm vụ hàng đầu của họ – giữ vững bổn phận, giữ vững sự ủy thác của Đức Chúa Trời là những việc quan trọng nhất. Khi mọi người có thể làm tròn bổn phận của mình như loài thọ tạo, chẳng phải họ sẽ có chút hình tượng giống con người sao? Đây chính là có hình tượng giống con người. Ít nhất mọi người phải làm tròn bổn phận của mình, phải tận tâm, và hết lòng, hết trí với việc đó. “Giữ vững bổn phận” có nghĩa là gì? Có nghĩa là dù gặp khó khăn gì cũng không đầu hàng, không trở thành kẻ đào ngũ, không trốn tránh trách nhiệm. Nghĩa là làm tất cả những gì có thể. Giữ vững bổn phận nghĩa là như vậy. Ví dụ, giả sử ngươi được sắp xếp làm một việc gì đó, và không ai ở đó theo dõi ngươi, giám sát hay thúc giục ngươi. Ngươi sẽ làm thế nào để giữ vững bổn phận của mình? (Thưa, tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời và sống trong sự hiện diện của Ngài.) Tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời là bước đầu tiên; đó là một phần. Một phần nữa là thực hiện bổn phận hết lòng hết trí. Ngươi phải làm gì để có thể hành động hết lòng hết trí? Ngươi phải tiếp nhận và đưa lẽ thật vào thực hành; nghĩa là ngươi phải tiếp nhận và vâng phục bất cứ điều gì Đức Chúa Trời yêu cầu; ngươi phải làm bổn phận như cách ngươi làm việc riêng của mình, không cần ai khác theo dõi, giám thị, kiểm tra để đảm bảo ngươi đang làm đúng, đốc thúc ngươi, giám sát những việc ngươi đang làm, hoặc thậm chí là tỉa sửa ngươi. Ngươi phải tự nhủ: “Thực hiện bổn phận này là trách nhiệm của mình. Đó là phần việc của mình, và vì mình đã được giao thực hiện, cũng đã được chỉ bảo và nắm bắt các nguyên tắc, nên mình sẽ tiếp tục toàn tâm toàn ý thực hiện. Mình sẽ làm tất cả những gì có thể để đảm bảo hoàn thành tốt việc này”. Ngươi phải kiên vững khi thực hiện bổn phận này, và không bị bất kỳ ai, sự việc hay sự vật gì cản trở. Hết lòng, hết trí giữ vững bổn phận nghĩa là như vậy, và đây là hình tượng mà mọi người phải có. Vậy người ta phải được trang bị những gì để có thể hết lòng hết trí giữ vững bổn phận? Trước hết, họ phải có lương tâm mà loài thọ tạo phải có. Đó là điều tối thiểu. Ngoài ra, họ cũng phải trung thành. Là con người, để chấp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời, người ta phải trung thành. Người ta phải hoàn toàn trung thành với Đức Chúa Trời mà thôi, và không thể nửa vời hoặc không có trách nhiệm; hành động dựa trên những sở thích và tâm trạng của riêng mình là không được, là không có lòng trung thành. Trung thành nghĩa là gì? Nó có nghĩa là thực hiện bổn phận của mình, và không bị ảnh hưởng hay bó buộc bởi tâm trạng, môi trường, con người, sự việc và sự vật gì cả. Ngươi phải tự nhủ: “Tôi đã nhận sự ủy thác này từ Đức Chúa Trời; Ngài đã ban nó cho tôi. Đây là điều tôi phải thực hiện nên tôi sẽ làm như cách mà tôi sẽ làm việc riêng của mình, theo bất cứ cách nào mang lại những kết quả tốt, với tầm quan trọng đặt vào việc đáp ứng Đức Chúa Trời”. Khi ngươi có trạng thái này, không chỉ lương tâm của ngươi đang nắm quyền kiểm soát, mà sự trung thành của ngươi cũng hiện diện trong ngươi. Nếu ngươi thấy thỏa mãn chỉ với việc làm cho xong nhiệm vụ, không khao khát có hiệu quả và đạt được những kết quả, và cảm thấy rằng chỉ đơn thuần nỗ lực hết sức là đủ, vậy thì đây chỉ đơn thuần là đạt được tiêu chuẩn về lương tâm của con người, và không thể được tính là sự trung thành. Trung thành với Đức Chúa Trời là một yêu cầu và tiêu chuẩn còn cao hơn so với tiêu chuẩn của lương tâm. Điều này không chỉ là chuyện dốc hết nỗ lực vào bổn phận; ngươi cũng phải dành trọn lòng mình vào đó. Trong lòng, ngươi phải luôn xem bổn phận của mình là công việc mình phải làm, nhận những trọng trách cho nhiệm vụ này, chịu sự quở trách nếu ngươi phạm chút sai lầm hay nếu ngươi ở trong trạng thái qua loa chiếu lệ, và ngươi phải cảm thấy rằng ngươi không thể cư xử thế này, bởi vì nó khiến ngươi mắc nợ Đức Chúa Trời quá nhiều. Những người thật sự có lương tâm và lý trí sẽ thực hiện bổn phận của họ như thể đó là công việc của riêng họ, cho dù có ai theo dõi hay giám sát hay không. Dù Đức Chúa Trời có hài lòng với họ hay không và cho dù Đức Chúa Trời đối đãi với họ thế nào, thì họ cũng luôn khắt khe đòi hỏi bản thân mình để làm tròn bổn phận của họ và hoàn thành sự ủy thác mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho họ. Đây được gọi là sự trung thành. Chẳng phải đây là tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn của lương tâm sao? Khi hành động theo tiêu chuẩn của lương tâm, người ta thường bị ảnh hưởng bởi những thứ bên ngoài, hoặc nghĩ rằng dồn toàn bộ sức lực vào bổn phận của mình là đủ; mức độ tinh sạch không cao cho lắm. Tuy nhiên, khi nói tới sự trung thành và khả năng giữ vững bổn phận một cách tận tâm, mức độ tinh sạch sẽ cao hơn. Chỉ dốc nỗ lực thôi là chưa đủ, các ngươi còn phải dốc hết lòng, hết trí, hết thân xác vào bổn phận của mình nữa. Để làm tròn bổn phận của mình, đôi khi ngươi phải chịu một chút vất vả về thể xác. Ngươi phải trả giá, và dốc toàn bộ tâm tư của mình vào việc thực hiện bổn phận. Dù có rơi vào hoàn cảnh nào ngươi cũng không để chúng ảnh hưởng tới bổn phận hay làm chậm trễ việc thực hiện bổn phận của mình, và ngươi có thể làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Để làm được vậy, ngươi phải có thể trả giá. Ngươi phải từ bỏ gia đình xác thịt, chuyện riêng tư cá nhân và cả lợi ích riêng của mình, phải buông bỏ và từ bỏ hết mọi hư vinh, thể diện, tình cảm, sự hưởng thụ thể xác và kể cả những thứ như năm tháng đẹp nhất tuổi thanh xuân, hôn nhân, tiền đồ, vận mệnh, v.v. của ngươi, và ngươi phải sẵn lòng làm tròn bổn phận của mình. Khi đó ngươi mới đạt được lòng trung thành và có được hình tượng giống con người nhờ cách sống như vậy. Những người như vậy, họ không chỉ có lương tâm, mà họ còn lấy tiêu chuẩn lương tâm làm nền tảng để tự đòi hỏi ở mình lòng trung thành mà Đức Chúa Trời yêu cầu, và lấy sự trung thành này làm thước đo cho bản thân. Họ miệt mài nỗ lực hướng đến mục tiêu này. Những người như vậy trên đời này hiếm lắm. Trong dân sự được chọn của Đức Chúa Trời, cả ngàn, cả vạn người mới có được một người như vậy mà thôi. Những người như vậy có sống một cuộc sống đáng giá không? Họ có phải những người mà Đức Chúa Trời trân quý không? Tất nhiên là họ sống cuộc sống đáng giá và là những người được Đức Chúa Trời trân quý rồi.
Dòng tiếp theo của ca khúc này viết: “Mặc dù tố chất tôi thấp kém, tôi có một tấm lòng trung thực”. Những lời này nghe rất thật và nói tới một yêu cầu của Đức Chúa Trời dành cho con người. Yêu cầu gì? Đó là nếu con người thiếu tố chất, thì đó cũng chưa phải là tận cùng thế giới, mà họ phải sở hữu một tấm lòng trung thực, và nếu họ có được, họ sẽ có thể nhận được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Cho dù tình cảnh hay xuất thân của ngươi thế nào, ngươi cũng phải là một người trung thực, nói năng trung thực, và hành động trung thực, có thể thực hiện bổn phận của mình hết lòng hết trí, trung thành với việc thực hiện bổn phận, không tìm cách làm tắt làm ẩu, không làm người láu cá hay giả dối, không nói dối hay lừa bịp, không nói năng vòng vo. Ngươi phải hành động theo lẽ thật và làm một người mưu cầu lẽ thật. Nhiều người nghĩ rằng họ là người có tố chất rất kém, rằng họ không bao giờ làm tròn bổn phận của mình hoặc đạt tiêu chuẩn được. Họ luôn cố gắng hết sức khi làm việc, nhưng không bao giờ có thể nắm được các nguyên tắc, và vẫn không thể đạt được kết quả tốt đẹp gì cho lắm. Cuối cùng họ chỉ biết than vãn, rằng vì sao tố chất của mình lại kém vậy, và họ trở nên tiêu cực. Vậy, người có tố chất kém chẳng có cách nào tiến bộ ư? Có tố chất thấp kém không phải là căn bệnh chết người, và Đức Chúa Trời chưa bao giờ nói rằng Ngài sẽ không cứu rỗi những người có tố chất kém. Như Đức Chúa Trời đã nói trước đây, Ngài thấy đau lòng bởi những con người trung thực mà ngu muội. Ngu muội có nghĩa là gì? Sự ngu muội, trong nhiều trường hợp, đến từ việc có tố chất thấp kém. Khi người ta có tố chất kém, họ thường có sự hiểu biết nông cạn về lẽ thật. Sự hiểu biết này của họ thường không đủ cụ thể hoặc thực tế, và thường bị giới hạn ở mức độ hời hợt hoặc hiểu theo nghĩa đen – nó bị giới hạn trong phạm vi các đạo lý và quy tắc. Chính vì thế mà họ không thể hiểu được rất nhiều vấn đề, và không bao giờ có thể nắm được các nguyên tắc khi thực hiện bổn phận của mình, cũng không làm tròn bổn phận của mình. Vậy Đức Chúa Trời không muốn những người có tố chất thấp kém sao? (Thưa, Ngài muốn.) Đức Chúa Trời chỉ cho con người đi theo con đường và phương hướng nào? (Thưa, con đường làm người trung thực.) Ngươi có thể làm người trung thực chỉ bằng cách nói vậy không? (Thưa không, phải có được những biểu hiện của một người trung thực.) Biểu hiện của một người trung thực là gì? Trước tiên, không có sự hoài nghi nào về lời Đức Chúa Trời. Đó là một trong những biểu hiện của người trung thực. Ngoài ra, biểu hiện quan trọng nhất là tìm kiếm và thực hành lẽ thật trong tất thảy mọi sự – đây là điều quan trọng nhất. Ngươi nói rằng ngươi trung thực, nhưng ngươi luôn gạt lời Đức Chúa Trời sang một bên và cứ làm bất cứ điều gì mình muốn. Đó có phải là biểu hiện của một người trung thực không? Ngươi nói: “Tuy tố chất của tôi kém cỏi, nhưng tôi có một tấm lòng trung thực”. Và ấy thế mà khi có bổn phận giao cho mình, ngươi ngại khổ và ngại chịu trách nhiệm nếu mình làm không tốt, nên ngươi viện cớ để trốn tránh bổn phận của mình hoặc đề nghị người khác làm. Đây có phải là biểu hiện của một người trung thực không? Rõ ràng là không. Vậy thì, một người trung thực nên hành xử như thế nào? Họ nên quy phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, tận tâm với bổn phận mà họ phải thực hiện và nỗ lực đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời. Điều này tự thể hiện ra theo nhiều cách: một là tiếp nhận bổn phận với lòng trung thực, không màng đến lợi lộc xác thịt, không nửa vời và không toan tính tư lợi. Đó là những biểu hiện của sự trung thực. Một cách khác là hết lòng hết sức làm tròn bổn phận của mình, làm việc một cách đúng đắn, để tâm và đặt tình yêu của mình vào bổn phận để đáp ứng Đức Chúa Trời. Đây là những biểu hiện mà một người trung thực nên có khi thực hiện bổn phận của mình. Nếu ngươi không thực hiện những gì mình biết và hiểu, và nếu ngươi chỉ dành 50 hoặc 60 phần trăm nỗ lực của mình, thì ngươi không đặt hết lòng hết sức mình, mà thay vào đó ngươi láu cá và chểnh mảng. Những người thực hiện bổn phận của họ theo cách này thì có trung thực không? Tuyệt đối không. Đức Chúa Trời không sử dụng những kẻ láu cá và giả dối như vậy làm gì; họ phải bị đào thải. Đức Chúa Trời chỉ dùng những người trung thực để thực hiện bổn phận. Ngay cả những người đem sức lực phục vụ tận tâm cũng phải trung thực. Những ai bất cẩn và chiếu lệ kinh niên, láu cá và tìm cách chểnh mảng, thì tất thảy đều giả dối, và đều là ma quỷ. Không ai trong số họ thực sự tin Đức Chúa Trời, và tất cả đều sẽ bị đào thải. Một số người nghĩ: “Làm người trung thực chỉ liên quan đến việc nói thật và không nói dối. Thực sự thì làm một người trung thực rất dễ”. Ngươi nghĩ gì về quan điểm này? Việc làm một người trung thực có giới hạn trong phạm vi nhỏ như vậy không? Tuyệt đối không. Ngươi phải tỏ lộ lòng mình và dâng nó cho Đức Chúa Trời; đây là thái độ mà một người trung thực phải có. Đó là lý do tại sao một tấm lòng trung thực lại rất quý giá. Điều này có ngụ ý gì? Đó là một tấm lòng trung thực có thể kiểm soát hành vi của ngươi và thay đổi tình trạng của ngươi. Nó có thể dẫn ngươi đến việc đưa ra những lựa chọn đúng, quy phục Đức Chúa Trời và được Ngài khen ngợi. Một tấm lòng như vậy thật sự quý giá. Nếu ngươi có một tấm lòng trung thực như vậy thì đó là trạng thái mà các ngươi nên sống, là dạng hành vi ngươi nên có, và đó là cách các ngươi cống hiến bản thân mình. Ngươi hãy suy ngẫm lời bài hát này cho thấu đáo. Không có câu nào là đơn giản như nghĩa đen của nó đâu, và nếu sau khi suy ngẫm mà ngươi thực sự hiểu ra thì như thế ngươi đã có thu hoạch rồi.
Hãy cùng xem một câu khác trong lời bài hát: “Trong mọi sự hãy thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời bằng tất cả sự trung thành của mình”. Trong những lời này, có một con đường thực hành. Một số người trở nên tiêu cực khi họ đối mặt với khó khăn trong quá trình thực hiện bổn phận, và điều này khiến họ không sẵn lòng thực hiện bổn phận nữa. Những người này có vấn đề rồi. Họ có thật lòng dành trọn bản thân cho Đức Chúa Trời không? Họ nên phản tỉnh về lý do khiến mình trở nên tiêu cực khi đối mặt với khó khăn, cũng như lý do khiến mình không thể tìm kiếm lẽ thật nhằm giải quyết vấn đề. Nếu họ có thể phản tỉnh bản thân và tìm kiếm lẽ thật, thì họ sẽ có thể nhìn ra vấn đề tồn tại của mình. Thật ra thì khó khăn lớn nhất của con người chủ yếu là vấn đề về tâm tính bại hoại. Nếu ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật thì tâm tính bại hoại của ngươi cũng sẽ dễ giải quyết thôi. Ngay khi ngươi giải quyết được tâm tính bại hoại của mình rồi thì ngươi sẽ có thể dồn hết sự trung thành của mình trong mọi sự để làm thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời. “Mọi sự” có nghĩa rằng dù đó là việc gì, dù là việc mà Đức Chúa Trời đã giao cho ngươi, hay việc mà lãnh đạo và chấp sự đã sắp xếp cho ngươi, hay việc mà ngươi vô tình gặp phải, miễn sao đó là việc mà ngươi cần phải làm và ngươi có thể làm tròn trách nhiệm của mình, thì ngươi sẽ dồn hết sự trung thành của mình vào đó, và làm tròn trách nhiệm và bổn phận, và coi việc làm thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời là nguyên tắc của mình. Nguyên tắc này nghe có vẻ lớn lao và hơi khó để mọi người theo được. Nói một cách thực tế hơn, điều này có nghĩa là làm tròn bổn phận. Giữ vững và làm tròn bổn phận của mình không phải là việc dễ làm. Cho dù đó là làm lãnh đạo hay chấp sự, hay một bổn phận nào đó khác đi nữa, thì ngươi cũng phải hiểu được một số lẽ thật. Không hiểu lẽ thật, ngươi có thể làm tròn bổn phận không? Không giữ vững nguyên tắc lẽ thật, ngươi có thể làm tròn bổn phận không? Nếu ngươi hiểu được mọi khía cạnh của lẽ thật và có thể thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật, thế thì các ngươi đã làm tròn bổn phận của mình, đã giữ vững bổn phận của mình, đã bước vào thực tế lẽ thật và có thể làm thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời rồi. Đây là con đường thực hành. Có dễ làm không? Nếu bổn phận mà ngươi thực hiện là điều mà ngươi làm giỏi và có hứng thú thì ngươi sẽ cảm thấy đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, và rằng thực hiện bổn phận cũng là một việc rất tự nhiên và chính đáng. Ngươi cảm thấy vui sướng, hạnh phúc và bình an. Đó là điều mà ngươi sẵn lòng thực hiện, và có thể cống hiến toàn bộ sự trung thành của mình, và ngươi cảm thấy rằng mình đang làm thỏa mãn Đức Chúa Trời. Nhưng một ngày, khi ngươi gặp phải một bổn phận mà mình không thích hoặc trước đây chưa từng thực hiện, liệu ngươi có thể trung thành hết sức mình không? Đây sẽ là phép thử xem ngươi có đang thực hành lẽ thật hay không. Ví dụ: nếu bổn phận của ngươi là trong nhóm thánh ca, và ngươi biết hát, và đây là việc mà ngươi thích làm, vậy nên ngươi sẽ sẵn lòng thực hiện bổn phận này. Nếu ngươi được giao cho một bổn phận khác là rao truyền phúc âm, và công việc này hơi khó làm, liệu ngươi có thể vâng phục không? Ngươi suy ngẫm về nó và nói rằng “Tôi thích hát”. Như vậy có nghĩa là gì? Có nghĩa là ngươi không muốn rao truyền phúc âm. Rõ ràng nghĩa của câu này là vậy. Ngươi cứ liên tục nói “Tôi thích hát”. Nếu lãnh đạo và chấp sự khuyên ngươi rằng: “Sao anh không rèn luyện việc rao truyền phúc âm và trang bị thêm cho mình lẽ thật? Như thế sẽ có lợi hơn cho sự trưởng thành sự sống của anh”, và ngươi vẫn khăng khăng nói: “Tôi thích hát và tôi thích nhảy múa”. Ngươi không muốn đi rao truyền phúc âm, dù họ có nói gì đi nữa. Vì sao ngươi không muốn đi? (Thưa, vì không có hứng thú.) Ngươi không có hứng thú nên ngươi không muốn đi – vấn đề ở đây là gì? Đó là ngươi lựa chọn bổn phận của mình dựa theo sở thích và thị hiếu cá nhân, và ngươi không vâng phục. Ngươi không có sự vâng phục, và đó là vấn đề. Nếu không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề này thì ngươi thật sự không tỏ ra mấy sự vâng lời đích thực. Ngươi nên làm gì trong tình huống này để thể hiện sự vâng lời đích thực? Ngươi có thể làm gì để thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời? Đây là lúc ngươi cần suy ngẫm và thông công về khía cạnh này của lẽ thật. Nếu ngươi muốn dồn hết sự trung thành trong mọi việc để thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời, thì ngươi không thể làm thế chỉ bằng việc thực hiện một bổn phận; ngươi phải chấp nhận mọi sự ủy thác Đức Chúa Trời giao cho ngươi. Cho dù nó có phù hợp với sở thích hay sự quan tâm của ngươi hay không, hay là điều gì đó ngươi không hứng thú hoặc chưa từng làm trước đó, hay là điều gì đó khó khăn đi nữa, ngươi vẫn phải chấp nhận nó và vâng phục. Ngươi không chỉ phải chấp nhận nó, mà ngươi còn phải chủ động hợp tác, tìm hiểu về nó và trải nghiệm lối vào. Ngay cả khi ngươi chịu gian khổ, mệt mỏi, bị sỉ nhục hay bị tẩy chay, ngươi vẫn phải dốc hết sự trung thành của mình. Chỉ thực hành theo cách này thì ngươi mới dốc hết được sự trung thành vào mọi việc và đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời. Ngươi phải coi đó là bổn phận mình phải làm tròn, không phải là công việc cá nhân. Ngươi nên hiểu bổn phận là như thế nào? Là điều mà Đấng Tạo Hóa – Đức Chúa Trời – giao cho ai đó làm; đây là cách sinh ra bổn phận của con người. Sự ủy nhiệm Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi là bổn phận của ngươi, và việc ngươi thực hiện bổn phận của mình theo yêu cầu của Đức Chúa Trời là điều thiên kinh địa nghĩa. Nếu ngươi thấy rõ ràng rằng bổn phận này là sự ủy nhiệm từ Đức Chúa Trời, rằng đây là tình yêu thương của Đức Chúa Trời và là các phước lành của Đức Chúa Trời đang đến trên ngươi, thì ngươi sẽ có thể tiếp nhận bổn phận của mình với lòng yêu kính Đức Chúa Trời, ngươi sẽ có thể lưu tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời khi thực hiện bổn phận, và ngươi sẽ có thể vượt qua mọi khó khăn để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Những ai thực sự dâng mình cho Đức Chúa Trời không bao giờ có thể từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời, họ không bao giờ có thể từ chối bất kỳ bổn phận nào. Dù Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi bổn phận gì, bất kể nó kéo theo những khó khăn gì, ngươi cũng không được từ chối, mà phải tiếp nhận. Đây là con đường thực hành, tức là thực hành lẽ thật và dâng trọn sự trung thành trong mọi việc để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Trọng tâm ở đây là gì? Nằm ở cụm từ “trong mọi việc”. “Mọi việc” không nhất thiết có nghĩa là những thứ ngươi thích hay giỏi, càng không phải là những thứ ngươi quen thuộc. Đôi lúc, đó là những việc mà các ngươi chẳng giỏi làm, những việc mà các ngươi cần phải học hỏi; những việc khó hoặc những việc khiến ngươi phải chịu khổ. Tuy nhiên, bất kể việc đó là gì, miễn sao Đức Chúa Trời đã ủy thác cho ngươi, thì ngươi phải tiếp nhận nó từ Ngài, ngươi phải tiếp nhận và phải làm tròn bổn phận đó, cống hiến hết sự trung thành của mình và thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là con đường thực hành. Bất kể điều gì xảy ra, ngươi cũng phải luôn tìm kiếm lẽ thật, và một khi ngươi chắc chắn loại thực hành nào phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời đó là cách mà ngươi nên thực hành. Chỉ có làm như vậy thì ngươi mới đang thực hành lẽ thật, và chỉ có theo cách này, ngươi mới có thể bước vào thực tế lẽ thật.
Có một câu nữa từ khúc ca này, được viết như sau: “Tôi cởi mở và ngay thẳng, không lừa lọc, sống trong sự sáng”. Ai ban con đường này cho con người? (Thưa, là Đức Chúa Trời.) Nếu ai đó cởi mở và ngay thẳng thì họ là một người trung thực. Họ đã hoàn toàn cởi mở tấm lòng và tâm hồn mình với Đức Chúa Trời, không giấu giếm điều gì và không trốn tránh điều gì. Họ đã trao trọn vẹn trái tim mình cho Đức Chúa Trời và bày tỏ lòng mình với Ngài, nghĩa là họ đã dâng trọn bản thân mình cho Ngài. Vậy, liệu có thể nào họ vẫn còn bị Đức Chúa Trời ghẻ lạnh không? Không, không thể, và vì thế, họ dễ dàng quy phục Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời nói rằng họ giả dối, họ thừa nhận vậy. Nếu Đức Chúa Trời nói rằng họ kiêu ngạo và tự nên công chính thì họ cũng thừa nhận điều đó. Và họ không chỉ thừa nhận những điều này rồi thôi – họ có thể ăn năn, phấn đấu hướng đến các nguyên tắc lẽ thật, chỉnh đốn và sửa sai khi họ nhận ra sai lầm của mình. Tự lúc nào không hay, họ sẽ khắc phục nhiều cách làm sai trái của mình, và họ sẽ trở nên ngày càng bớt giả dối, lừa lọc, qua loa chiếu lệ. Sống theo cách này càng lâu, họ sẽ càng trở nên quang minh chính đại, và họ sẽ càng tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành một người trung thực. Sống trong sự sáng nghĩa là như thế. Mọi vinh quang này đều thuộc về Đức Chúa Trời! Khi người ta sống trong sự sáng thì đó là do Đức Chúa Trời đang thực hiện – đó không phải là điều để họ khoe khoang. Khi người ta sống trong sự sáng, họ hiểu được mọi lẽ thật, họ có tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời, họ biết tìm kiếm và thực hành lẽ thật trong mọi vấn đề mình gặp phải, và họ sống có lương tâm và lý trí. Mặc dù họ không thể được gọi là những người công chính nhưng trong mắt Đức Chúa Trời, họ có chút hình tượng giống con người, và chí ít, lời nói hay việc làm của họ không đua tranh với Đức Chúa Trời, họ có thể tìm kiếm lẽ thật khi có chuyện xảy đến với họ, và họ có thể có tấm lòng vâng phục Đức Chúa Trời. Do đó, họ tương đối an toàn và chắc chắn, và không thể nào phản bội Đức Chúa Trời. Mặc dù họ không có sự hiểu biết sâu cho lắm về lẽ thật, nhưng họ có thể vâng lời và quy phục, họ có lòng yêu kính Đức Chúa Trời, và có thể lánh khỏi điều ác. Khi được giao một bổn phận hay một nhiệm vụ nào đó, họ đều dốc hết tâm trí vào đó, và thực hiện hết khả năng của mình. Loại người này đáng tin cậy và Đức Chúa Trời yên tâm về họ – những người như thế này sống trong sự sáng. Những người sống trong sự sáng có thể tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời không? Liệu họ vẫn có thể che giấu lòng mình với Đức Chúa Trời không? Họ vẫn còn những bí mật mà họ không thể nói với Đức Chúa Trời không? Liệu họ vẫn có bất kỳ mánh khóe mờ ám lận lưng nào không? Họ không có. Họ đã hoàn toàn mở lòng với Đức Chúa Trời, và họ không còn che đậy hay giấu giếm bất kỳ điều gì. Họ có thể thật thà tâm sự với Đức Chúa Trời, thông công với Ngài về bất cứ điều gì, và để Ngài biết mọi việc. Không có gì mà họ không nói với Đức Chúa Trời và không có gì mà họ không cho Ngài thấy. Khi người ta có thể đạt được tiêu chuẩn này, cuộc sống của họ trở nên nhẹ nhàng, tự do và được giải thoát.
Trích đoạn 37
Thực hiện bổn phận chủ yếu căn cứ vào những nguyên tắc nào? Người ta phải làm theo những tiêu chuẩn, nguyên tắc và yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời, thực hành theo lẽ thật, và hết tâm hết sức làm tốt bổn phận của họ, coi lời Đức Chúa Trời, coi lẽ thật và coi việc bảo vệ công tác cùng những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời làm nguyên tắc. Vậy thì người ta thường làm gì cho chính bản thân mình? Họ làm bất cứ điều gì họ thích, làm việc gì cũng đặt chữ lợi lên đầu, lợi ích của bản thân là trên hết. Họ làm bất cứ điều gì có lợi cho bản thân, hoàn toàn là để thoả mãn mong muốn xác thịt ích kỉ mà không cân nhắc đến chính nghĩa, lương tâm và lý trí dù chỉ một chút; bởi những sự ấy không ở trong trái tim họ. Họ chỉ biết dựa vào tâm tính Sa-tan và làm việc theo những sở thích của con người, giở quỷ kế ở khắp nơi và sống dựa vào triết lý của Sa-tan. Đó là cách sống gì? Đó chính là cách sống của Sa-tan. Khi đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, người ta nên làm việc theo những nguyên tắc của lẽ thật, và người ta phải có lương tâm lý trí, phải có giới hạn – đó là mức độ tối thiểu. Có người nói rằng: “Hôm nay tâm trạng tôi không tốt, nên tôi muốn qua loa chuyện này thôi”. Đó có phải cách làm có lương tâm không? (Thưa, không phải.) Những khi muốn qua loa, trong lòng ngươi có tri giác được không? (Thưa, có.) Có lúc nào ngươi không tri giác được không? (Thưa, có.) Vậy thì sau đó ngươi có thể tự kiểm điểm ra nó không? (Thưa, có thể tự kiểm điểm một phần.) Và sau khi tự kiểm điểm ra, thì liệu lúc lại có những ý nghĩ qua loa và chiếu lệ tương tự, ngươi có thểchống lại chúng và giải quyết chúng không? (Khi con ý thức được như vậy, con cũng có thể chống lại phần nào những ý nghĩ đó.) Mỗi lần ngươi chống lại những ý nghĩ và nguyện vọng của mình thì đều cần một cuộc đấu tranh, và nếu chiến đấu đến cuối cùng mà những ham muốn ích kỉ của ngươi vẫn chiếm ưu thế, thì ngươi đã cố ý chống đối Đức Chúa Trời và đang lâm nguy. Giả sử ngươi đã tin Đức Chúa Trời trong mười năm, ba năm đầu tiên ngươi chỉ lăn lộn nhưng vẫn có sự nhiệt tình, nhưng rồi ba năm sau đó ngươi ý thức được rằng tin Đức Chúa Trời còn phải thực hành lẽ thật, bước vào thực tế lẽ thật và chống lại xác thịt mình. Thế rồi, từng chút một, ngươi bắt đầu nhận thức được sự bại hoại và sự ác độc của bản thân với bản tính gian ác và kiêu ngạo nơi mình, lúc này ngươi có nhận thức chân thật với bản thân – ngươi nhận thức được bản chất bại hoại của mình. Ngươi cảm thấy việc chấp nhận lẽ thật là vô cùng cần thiết, và đó là then chốt để giải quyết thứ tâm tính bại hoại, chỉ khi đó ngươi mới cảm thấy rằng việc không có thực tế lẽ thật là quá đáng thương. Mặc dù trong lòng luôn có một phen tranh đấu mỗi lần sự bại hoại được bộc lộ, nhưng mỗi lần trong lòng tranh đấu đều chẳng thắng nổi những ham muốn ích kỉ và vẫn hành động theo sở thích của bản thân. Trên thực tế, chính trong lòng họ cũng rõ ràng rằng tâm tính Sa-tan vẫn đang làm chủ, vì vậy rất khó để đưa lẽ thật vào thực hành. Điều đó chứng tỏ rằng họ không có chút thực tế lẽ thật nào cả, và thật khó để nói liệu rốt cuộc họ có thể đạt đến được cứu rỗi hay không. Nếu ngươi thực sự có ý chí thì nên đưa lẽ thật mà ngươi hiểu vào thực hành, cho dù tâm tính bại hoại nào ngăn cản khi ngươi thực hành lẽ thật đi nữa, thì ngươi nên cầu nguyện và cậy dựa Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những tâm tính bại hoại, dám tuyên chiến với chúng và chống lại xác thịt mình. Nếu có đức tin như vậy thì ngươi có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Mặc dù thỉnh thoảng cũng có lúc thất bại, nhưng ngươi không nản lòng và vẫn có thể đắc thắng trước Sa-tan bằng cách cầu nguyện với Đức Chúa Trời và ngưỡng vọng Đức Chúa Trời. Chiến đấu như thế mấy năm, thời gian đắc thắng xác thịt và thực hành lẽ thật nhiều hơn, thời gian thất bại của ngươi từng bước giảm dần, mà cho dù thỉnh thoảng có thất bại thì ngươi cũng sẽ không tiêu cực, vẫn sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, ngưỡng vọng Đức Chúa Trời, cho đến khi ngươi có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Đó nghĩa là có hy vọng cho ngươi, và đã đến lúc xua tan mây mù để nhìn thấy bầu trời xanh. Thực hành lẽ thật chỉ cần có lúc thành công, thì chứng tỏ rằng ngươi là một người có ý chí và có hy vọng có thể đạt đến được cứu rỗi. Những người mưu cầu lẽ thật cuối cùng sẽ bước vào thực tế lẽ thật sau nhiều lần trải qua thất bại, cho dù họ có thất bại bao nhiêu lần và tiêu cực thế nào đi nữa, miễn là họ có thể cậy dựa và ngưỡng vọng Đức Chúa Trời, thì họ sẽ luôn luôn có lúc thành công. Dù họ có thất bại bao nhiêu lần, dù có lặp đi lặp lại bao nhiêu lần, miễn là không bỏ cuộc thì vẫn còn hy vọng cho họ. Rồi một ngày nào đó họ thực sự phát hiện mình có thể thực hành lẽ thật, có thể làm việc theo nguyên tắc, không thỏa hiệp với Sa-tan trong những vấn đề then chốt, đặc biệt là trong việc thực hiện bổn phận của mình, không từ bỏ bổn phận của mình, và có thể đứng vững làm chứng, họ tuyệt đối có hy vọng được cứu rỗi.
Mỗi khi thực hành lẽ thật, ngươi đều phải trải qua một cuộc đấu tránh trong lòng. Các ngươi nói xem liệu có ai thực hành lẽ thật mà không trải qua trận chiến không? Tuyệt đối không. Trừ khi người này đã bước vào thực tế lẽ thật và rất ít bộc lộ tâm tính bại hoại của mình, thì về cơ bản mới không có cuộc đấu tranh lớn nào. Nhưng vẫn sẽ có một số cuộc đấu tranh trong những tình huống và bối cảnh đặc biệt. Nghĩa là người càng hiểu lẽ thật thì càng ít chiến đấu, và càng không hiểu lẽ thật thì càng chiến đấu nhiều. Đặc biệt là những người mới tin Đức Chúa Trời, họ chiến đấu vô cùng kịch liệt trong lòng mỗi khi thực hành lẽ thật. Tại sao lại kịch liệt? Điều này là do con người không chỉ có những sở thích và lựa chọn xác thịt riêng mà còn có những khó khăn thực tế, ngoài ra, họ còn có những trở ngại của tâm tính bại hoại. Ngươi hiểu được một phương diện của lẽ thật thì phải chiến đấu với bốn chướng ngại này, tức là ít nhất phải vượt qua ba hoặc bốn trong số chúng thì mới có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Ngươi đã bao giờ trải nghiệm việc liên tục chiến đấu với tâm tính bại hoại như thế chưa? Khi cần thực hành lẽ thật và bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, ngươi có thể vượt qua sự kìm kẹp của tâm tính bại hoại và đứng về phía lẽ thật không? Ví dụ như ngươi phối hợp cùng một người khác thực hiện công tác thanh lọc hội thánh, nhưng người đó luôn thông công với các anh chị em rằng Đức Chúa Trời cứu rỗi con người ở mức độ lớn nhất, rằng phải đối xử với mọi người bằng tình yêu thương và cho họ cơ hội ăn năn. Từ trong mối thông công của người đó, ngươi ý thức được rằng ở đây có vấn đề, và mặc dù những lời người đó nói nghe có vẻ khá đúng, nhưng khi phân tích cụ thể mới phát hiện người đó đang có ý định và mục đích, không sẵn lòng đắc tội bất cứ ai và không muốn thực hiện sắp xếp công việc. Khingười đó thông công như thế, thì một số người có vóc giạc nhỏ bé và thiếu sự phân định sẽ có thể bị người đó nhiễu loạn, mù quáng nói về tình yêu thương một cách không có nguyên tắc, không chú trọng phân định người khác, không vạch trần hay tố giác những kẻ địch lại Đấng Christ, những kẻ ác và những kẻ chẳng tin. Đây là một sự cản trở cho công tác thanh lọc hội thánh. Nếu những kẻ địch lại Đấng Christ, những kẻ ác và những kẻ chẳng tin không bị thanh trừ một cách kịp thời, thì sẽ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường lời Đức Chúa Trời cũng như việc thực hiện bổn phận bình thường của những người được Đức Chúa Trời chọn, và đặc biệt sẽ gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, đồng thời gây tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Lúc này, ngươi nên thực hành thế nào? Khi nhìn ra vấn đề, ngươi phải đứng lên vạch trần người đó, phải ngăn chặn người đó và bảo vệ công tác của hội thánh. Nếu ngươi cân nhắc rằng: “Mình và người đó là cộng sự. Nếu mình trực tiếp vạch trần người đó mà người đó không tiếp nhận thì chẳng phải mình và người đó sẽ trở mặt sao? Không, mình không thể nói thẳng ra như thế mà phải khéo léo hơn một chút”. Thì ngươi chỉ nhắc nhở và khuyên bảo người đó đơn giản mấy câu. Sau khi nghe những gì ngươi nói, người đó không tiếp nhận, và cũng đưa ra hàng loạt lý do để bác bỏ ngươi. Ngươi thấy đấy nếu người đó không tiếp nhận, công tác của nhà Đức Chúa Trời sẽ phải chịu tổn hại. Ngươi làm thế nào đây? Ngươi cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, xin Người hãy an bài và sắp đặt việc này. Người hãy sửa dạy người đó, con chẳng còn cách nào nữa”. Ngươi cảm thấy mình không thể ngăn chặn người đó liền buông trôi bỏ mặc. Đây có phải là biểu hiện của việc có trách nhiệm không? Ngươi có đang thực hành lẽ thật không? Nếu ngươi không thể ngăn chặn người đó, tại sao ngươi không báo cáo việc này với lãnh đạo và người làm công? Tại sao ngươi không mang đến nhóm họp để mọi người thông công và thảo luận? Nếu ngươi không làm như vậy, thì sau đó trong lòng ngươi thực sự sẽ không tự trách mình sao? Nếu ngươi nói: “Tôi không thể quản lý được chuyện này, vì vậy tôi sẽ mặc kệ. Tôi không thẹn với lòng”, vậy lòng ngươi là gì đây? Đó là tình yêu thương chân thực hay là lòng lừa dối? Lòng ngươi thật xấu xa vì ngươi sợ làm mất lòng kẻ khác mà không giữ vững nguyên tắc khi có chuyện xảy đến. Thực ra, trong lòng ngươi hiểu rõ rằng người đó có mục đích riêng khi làm như vậy và chuyện này ngươi không thể nghe theo người đó. Tuy nhiên, ngươi chẳng thể giữ vững nguyên tắc và hạn chế người đó mê hoặc người khác, và điều này cuối cùng lại gây tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Ngươi có tự trách mình sau việc này không? (Thưa, có.) Liệu việc tự trách mình có thể bù đắp được thiệt hại không? Không thể bù đắp được. Sau đó, ngươi lại ngẫm nghĩ rằng: “Dù sao thì mình cũng đã làm hết trách nhiệm của mình rồi, Đức Chúa Trời cũng biết. Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng con người”. Đây là những lời gì vậy? Chúng là những lời nói dối lừa dối cả con người lẫn Đức Chúa Trời. Ngươi đã không làm hết trách nhiệm của mình mà còn tìm lý do và cái cớ để chối bỏ trách nhiệm. Đây là dối trá và cương ngạnh. Một kẻ như thế liệu có chút thật lòng nào đối với Đức Chúa Trời không? Kẻ ấy có tinh thần chính nghĩa không? (Thưa, không.) Đó là một kẻ không tiếp nhận lẽ thật một chút nào, một chủng loại thuộc về Sa-tan. Khi có chuyện xảy đến, ngươi sống dựa vào những triết lý xử thế của mình mà không thực hành lẽ thật. Ngươi luôn sợ đắc tội với người khác, nhưng lại không sợ xúc phạm đến Đức Chúa Trời, và thậm chí còn có thể hy sinh lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để bảo vệ những mối quan hệ cá nhân của mình. Hậu quả của việc làm như vậy là gì? Ngươi sẽ bảo vệ được các mối quan hệ cá nhân của mình khá tốt, nhưng ngươi sẽ xúc phạm đến Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ ghét bỏ ngươi, nổi giận với ngươi. Bên nào nặng bên nào nhẹ đây? Nếu ngươi không cảm giác được thì ngươi đã hoàn toàn mụ mẫm; điều này chứng tỏ rằng ngươi không hiểu lẽ thật chút nào. Nếu ngươi cứ tiếp tục như thế mà không bao giờ tỉnh ngộ thì thực sự quá nguy hiểm, cuối cùng ngươi sẽ không thể đạt được lẽ thật. Ngươi sẽ là người chịu tổn thất. Nếu ngươi không tìm kiếm lẽ thật trong chuyện này, và ngươi thất bại, thì liệu sau nàyngươi có thể tìm kiếm lẽ thật không? Nếu ngươi vẫn không thể, thì đó sẽ không còn là vấn đề chịu tổn thất nữa – cuối cùng ngươi sẽ bị đào thải. Nếu ngươi có động cơ và quan điểm của “người ba phải” thì trong mọi sự, ngươi đều không có khả năng thực hành lẽ thật và giữ vững nguyên tắc, và ngươi sẽ luôn thất bại và ngã nhào. Nếu ngươi không tỉnh ngộ và không bao giờ tìm kiếm lẽ thật thì ngươi là kẻ chẳng tin, và ngươi sẽ không bao giờ đạt được lẽ thật và sự sống. Vậy thì ngươi nên làm gì? Khi gặp phải loại chuyện này, ngươi phải cầu nguyện Đức Chúa Trời, kêu cầu Ngài, cầu xin Ngài cứu rỗi, và xin Đức Chúa Trời ban cho ngươi thêm đức tin và sức mạnh để ngươi có thể giữ vững nguyên tắc, làm điều ngươi nên làm, làm việc theo nguyên tắc, đứng vững lập trường ngươi nên đứng, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và không khiến công tác của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại. Nếu ngươi có thể đạt đến chống lại lợi ích cá nhân, thể diện và quan điểm của một “người ba phải”, và nếu ngươi làm điều ngươi nên làm bằng tấm lòng trung thực, trọn vẹn thì ngươi đã đánh bại được Sa-tan và đã đạt được phương diện này của lẽ thật. Nếu ngươi một mực giữ vững triết lý của Sa-tan mà sống, giữ gìn mối quan hệ của mình với mọi người và không bao giờ thực hành được lẽ thật, không dám giữ vững nguyên tắc, thế thì ngươi có thể thực hành lẽ thật trong những chuyện khác không? Ngươi vẫn sẽ không có đức tin, không có sức mạnh. Nếu ngươi không bao giờ có thể tìm kiếm hoặc tiếp nhận lẽ thật, thì đức tin nơi Đức Chúa Trời như vậy có thể đạt được lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Và nếu không đạt được lẽ thật thì có thể được cứu rỗi không? Không thể được. Nếu các ngươi luôn sống dựa vào triết lý của Sa-tan, hoàn toàn không có thực tế của lẽ thật, thì các ngươi tuyệt đối không thể được cứu rỗi. Các ngươi phải thấy rõ rằng việc đạt được lẽ thật là điều kiện cần thiết để được cứu rỗi. Vậy, làm sao các ngươi có thể đạt được lẽ thật? Nếu ngươi có thể thực hành lẽ thật, nếu ngươi có thể sống dựa vào lẽ thật, và lẽ thật trở thành cơ sở sinh tồn của ngươi thì ngươi sẽ đạt được lẽ thật và có sự sống, và như thế ngươi sẽ là người được cứu rỗi.
Trích đoạn 38
Có một số người thực hiện bổn phận nhưng lại thiếu quá nhiều kiến thức chuyên môn, học hỏi một chút thôi cũng đã khó, đây là chuyện gì vậy? Chính là do tố chất kém cỏi. Những người có tố chất kém cỏi không thể vươn tới được lẽ thật và việc học hỏi đối với họ cũng chẳng dễ dàng gì. Hầu hết những người có tố chất kém cỏi đều có những khuyết điểm chí mạng. Họ chẳng những không có lương tâm và lý trí mà trong lòng còn không có chỗ cho Đức Chúa Trời. Đôi mắt họ đờ đẫn vô hồn. Họ giống như những con thú, chỉ biết ăn uống, chơi bời, dốt nát kém cỏi, học cái gì cũng chỉ đơn giản là xem qua, hiểu được một chút bề nổi lại cho rằng mình đã hiểu rồi, người khác có nói thêm thì cũng chẳng chịu nghe, tự cảm thấy không cần thiết, người ta nói gì cũng nghe không lọt tai, không tiếp thu. Kết quả là họ làm việc gì cũng không thành, đích thực là phế vật. Tố chất kém cỏi vốn đã là thứ chí mạng. Nếu tâm tính còn không tốt, lại thêm thiếu đạo đức, không chịu lắng nghe lời khuyên của người khác, không tiếp nhận những điều tích cực, không sẵn lòng học hỏi và tiếp thu những điều mới thì những người như vậy quả thực là phế vật! Người thực hiện bổn phận phải có lương tâm và lý trí, phải biết năng lực bản thân ở mức nào, biết mình thiếu sót ở đâu, khiếm khuyết thứ gì và nên bổ sung những gì. Luôn cảm thấy bản thân thiếu sót rất nhiều, mà còn không chịu học hỏi và tiếp thu những điều mới thì sẽ có thể bị đào thải. Khi trong lòng cảm nhận được nguy cơ này thì sẽ có động lực để sẵn sàng học hỏi. Một mặt, vừa phải trang bị thêm nhiều lẽ thật, mặt khác, phải học thêm kiến thức chuyên môn để thực hiện bổn phận, vậy thì việc thực hành mới có tiến bộ, thực hiện bổn phận mới có thể đạt được kết quả tốt. Chỉ khi nào thực hiện tốt bổn phận của mình và sống thể hiện ra hình tượng giống con người thì sống mới có giá trị. Vậy nên, việc thực hiện bổn phận là điều có ý nghĩa nhất. Một số người có tâm tính không tốt, không những thiếu hiểu biết mà còn rất kiêu ngạo, luôn cảm thấy chuyện gì cũng tìm kiếm và nghe lời người khác thì sẽ bị coi thường, cảm thấy mất mặt và không có tôn nghiêm. Sự thực lại trái ngược, ngươi kiêu ngạo, tự cho mình là đúng, chẳng chịu học gì, mọi phương diện đều lạc hậu, cổ lỗ, không có kiến thức, thiếu suy nghĩ và trình độ mới đáng xấu hổ. Đấy mới là đánh mất nhân cách và tôn nghiêm. Có người làm gì cũng không tốt, học cái gì cũng chỉ biết nửa vời, hiểu được một chút đạo lý đã thấy thỏa mãn và cho rằng mình có bản lĩnh. Kết quả là họ làm gì cũng không thành, không hề có chút hiệu quả nào. Ngươi nói xem họ đã không hiểu gì, không làm được việc gì, lại còn không phục, luôn cố nói lý lẽ, nhưng khi làm thì chuyện gì cũng làm không tốt, đích thị là thứ ương ương dở dở. Không làm nổi việc gì thì có phải là phế vật không? Có phải là kẻ bỏ đi không? Những người có tố chất quá kém, ngay đến cái việc đơn giản nhất cũng không làm được, thì chính là kẻ bỏ đi, sống cũng không có chút giá trị nào. Có những người nói: “Tôi lớn lên ở nông thôn, không có văn hóa, không có kiến thức, tố chất kém cỏi, không giống như các người sống ở thành phố, có văn hóa, có kiến thức nên mới có thể làm tốt mọi việc”. Nói vậy có đúng không? (Thưa, không đúng.) Không đúng ở đâu? (Thưa, một người có thể làm được việc hay không chẳng có liên quan gì đến môi trường, mà chủ yếu phụ thuộc vào việc người đó có nỗ lực học tập và có phấn đấu đủ hay không.) Đức Chúa Trời đối đãi với con người thì không căn cứ vào trình độ văn hóa cao hay thấp, không căn cứ vào hoàn cảnh nơi họ sinh ra, cũng không căn cứ vào tài năng của họ cao hay thấp, mà căn cứ vào thái độ của mỗi người đối với lẽ thật. Thái độ này liên quan đến những gì? Nó liên quan đến nhân tính và tâm tính con người. Tin Đức Chúa Trời thì phải đối đãi với lẽ thật một cách đúng đắn. Ngươi có thái độ tiếp nhận lẽ thật và thái độ khiêm tốn, thì dù tố chất kém một chút, Đức Chúa Trời vẫn sẽ khai sáng cho ngươi và để ngươi đạt được gì đó. Nếu ngươi có tố chất tốt nhưng luôn kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, lúc nào cũng nghĩ rằng mình nói gì cũng đúng, còn người khác nói gì cũng sai, từ chối bất cứ đề xuất nào người khác nêu ra, và thậm chí lẽ thật được thông công như thế nào, ngươi cũng không tiếp nhận, luôn chống đối, vậy thì một người như ngươi có được Đức Chúa Trời khen ngợi không? Liệu Đức Thánh Linh có làm công tác trên một người như ngươi không? Ngài sẽ không làm. Đức Chúa Trời sẽ phán rằng ngươi có tâm tính xấu và không xứng đáng nhận sự khai sáng của Ngài, và nếu ngươi không hối cải, Ngài thậm chí sẽ lấy đi những gì ngươi đã từng có. Bị tỏ lộ là như thế đó. Những người như vậy sống rất đáng thương, rõ ràng bản thân họ chẳng là gì, phương diện nào cũng không ổn, lại luôn cảm thấy mình không sai, mình giỏi hơn người khác về mọi mặt, không bao giờ nói về nhược điểm, khuyết điểm, sự yếu đuối và tiêu cực của bản thân trước mặt người khác. Họ luôn phô trương, luôn tạo cho người khác một ấn tượng giả tạo để người ta nghĩ rằng họ có thể làm được bất cứ điều gì, họ không yếu đuối, không cần sự giúp đỡ của ai, không cần thiết phải lắng nghe ý kiến của ai và cũng không cần phải học hỏi điểm mạnh của người khác để bù đắp điểm yếu của mình, bản thân họ luôn mạnh hơn kẻ khác. Đây là kiểu tâm tính gì? (Thưa, là kiêu ngạo.) Quá kiêu ngạo. Người như vậy sống thật đáng thương! Họ có thực sự tốt thế không? Có thực sự làm được việc không? Trước đây họ đã làm hỏng rất nhiều việc, lại còn tưởng rằng bản thân cái gì cũng tốt, có phải là quá thiếu lý trí không? Người thiếu lý trí đến mức này thì thành kẻ hồ đồ rồi. Người như vậy không học điều mới, cũng không tiếp nhận những thứ mới mẻ, bên trong con người họ rất cằn cỗi, hẹp hòi và nghèo nàn, họ không thể ngộ ra được bất cứ nguyên tắc nào, không nắm vững được nguyên tắc nào, không hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, chỉ biết tuân thủ quy định, nói câu chữ và đạo lý, khoe mẽ bản thân trước mặt người khác, kết quả là chẳng hiểu gì về lẽ thật, không có một chút thực tế lẽ thật nào, lại còn kiêu ngạo như vậy, đích thị là một kẻ hồ đồ, bất chấp lý lẽ, chỉ có thể bị đào thải.
Khi đang hợp tác với người khác để thực hiện bổn phận, các ngươi có thể cởi mở với những ý kiến bất đồng không? Các ngươi có thể để cho người khác lên tiếng không? (Thưa, có một chút. Trước đây, rất nhiều lần con không muốn lắng nghe các góp ý của anh chị em và cứ nhất quyết làm mọi việc theo ý mình. Chỉ sau này, khi sự thật tỏ lộ là con đã sai thì con mới thấy rằng hầu hết các góp ý của họ đều đúng, rằng kết quả mà mọi người thảo luận thực sự thích hợp, rằng quan điểm riêng của mình là sai và còn thiếu sót. Sau khi trải nghiệm điều này, con đã lĩnh hội được rằng sự phối hợp hài hòa rất quan trọng.) Và chúng ta có thể thấy được gì từ điều này? Sau khi trải nghiệm điều này, ngươi có thu được chút lợi ích và hiểu ra được lẽ thật không? Các ngươi nghĩ rằng có ai là hoàn hảo không? Cho dù mọi người có mạnh đến đâu, hoặc có khả năng và tài năng đến đâu, thì họ vẫn không hoàn hảo. Mọi người phải nhận ra điều này, đó là sự thật. Đó cũng là thái độ mà mọi người phải có đối với điểm mạnh và ưu điểm hoặc khuyết điểm của họ; đây là lý tính mà mọi người nên có. Với lý tính như thế, ngươi có thể đối xử phù hợp với các điểm mạnh và khuyết điểm của bản thân cũng như của người khác, và điều này sẽ khiến ngươi có thể làm việc với mọi người một cách hòa hợp. Nếu ngươi đã hiểu được khía cạnh này của lẽ thật và có thể bước vào phương diện này của thực tế lẽ thật, thì ngươi có thể sống hòa hợp với anh chị em mình, học hỏi những điểm mạnh của nhau để bù đắp điểm yếu của bản thân. Theo cách này, dù thực hiện bổn phận gì hay làm việc gì, thì ngươi cũng sẽ luôn luôn làm tốt hơn và được Đức Chúa Trời chúc phúc. Khi so sánh, nếu ngươi luôn nghĩ rằng mình khá tốt và người khác kém hơn, và nếu ngươi luôn muốn có tiếng nói cuối cùng, thì phiền phức rồi. Đây là vấn đề về tâm tính. Người như vậy có phải là rất kiêu ngạo và tự cho mình là đúng không? Nếu người khác nói đúng, nhưng ngươi cảm thấy rằng nếu tiếp thu lời đề nghị của họ, thì họ có thể sẽ coi thường ngươi, cảm thấy ngươi không bằng họ, nên ngươi quyết định không nghe họ, chỉ muốn tìm mọi cách để ba hoa khoác lác áp đảo họ, để họ đánh giá cao mình. Ngươi luôn dùng cách thức này để chung sống với người khác, liệu có đạt được sự phối hợp hài hòa hay không? Chẳng những không đạt được sự phối hợp hài hòa, mà còn gây ra tác dụng xấu, về lâu về dài, mọi người sẽ cho rằng ngươi quá giả dối và xảo quyệt, không thể nhìn thấu được. Ngươi không thực hành lẽ thật, không phải người trung thực, người ta sẽ có ác cảm với ngươi. Nếu mọi người đều có ác cảm với ngươi, chẳng phải là ngươi bị bỏ rơi rồi sao? Ngươi nói xem, đến con người còn bỏ rơi thì Đức Chúa Trời sẽ đối đãi thế nào với những người như thế? Đức Chúa Trời cũng ghê tởm ngươi. Tại sao Đức Chúa Trời lại ghê tởm những người như vậy? Mặc dù tấm lòng thực hiện bổn phận của họ là chân thật, nhưng phương thức của họ lại khiến Đức Chúa Trời ghê tởm, tâm tính mà họ bộc lộ ra, mỗi một tâm tư, suy nghĩ và ý định của họ đều tà ác trong mắt Đức Chúa Trời, khiến Ngài buồn nôn và ghê tởm. Người luôn dùng những thủ đoạn đê tiện để nói năng và làm việc, nhằm khiến mọi người đánh giá cao mình, loại hành vi này đến Đức Chúa Trời cũng thấy ghê tởm.
Khi người ta làm bổn phận của mình hay bất cứ công tác nào trước mặt Đức Chúa Trời, lòng họ phải thuần khiết: phải như một bát nước sạch – trong suốt, không có tạp chất. Vậy dạng tâm thái nào là đúng đắn? Cho dù ngươi đang làm gì, ngươi cũng có thể thảo luận với những người khác về bất cứ điều gì trong lòng mình, bất cứ ý tưởng nào mình có thể có. Ai đó nói cách làm của ngươi sẽ không hiệu quả, và họ đề xuất một ý tưởng khác. Ngươi cảm thấy rằng đó là một cách khá hay nên ngươi bỏ cách làm của mình và làm theo cách của người kia. Khi làm thế, mọi người thấy rằng ngươi có thể tiếp thu ý kiến của người khác, có thể chọn con đường đúng đắn, hành động có nguyên tắc, minh bạch và rõ ràng. Trong lòng ngươi không có sự tối tăm, và ngươi hành động, nói năng bằng lòng thành và thái độ trung thực. Ngươi nói thẳng nói thật, một là một, hai là hai, không mưu mẹo, không bí mật, mà là một người rất minh bạch. Chẳng phải đó là một dạng thái độ sao? Đây là một thái độ đối với con người, sự vật và sự việc, thái độ này thể hiện tâm tính của người này. Trái lại, một người không bao giờ cởi mở và nói ra những gì họ nghĩ với người khác. Làm việc gì cũng không bao giờ bàn thảo với người khác, mà thay vào đó là khép mình, có vẻ phòng thủ với người khác trong mọi việc. Họ khép chặt lòng mình nhất có thể. Chẳng phải đây là một người giả dối sao? Ví dụ, họ có một ý tưởng mà họ cho là cao minh, và nghĩ rằng: “Bây giờ tôi không nói ra ý tưởng này đâu. Nếu tôi chia sẻ, các người có thể sử dụng nó và cướp công của tôi. Tôi sẽ giữ lại đã”. Hoặc nếu có điều gì đó mà họ không hiểu hết, họ sẽ nghĩ: “Bây giờ tôi không nói ra đâu. Ngộ nhỡ tôi nói ra, rồi ai đó nói điều gì cao siêu hơn, chẳng phải tôi sẽ trông như kẻ ngốc sao? Mọi người sẽ nhìn thấu tôi, thấy được điểm yếu của tôi trong việc này. Tôi không được nói gì cả”. Bất kể họ suy xét thế nào, có ý định gì, thì họ đều sợ mọi người sẽ nhìn thấu họ. Họ luôn tiếp cận bổn phận của chính mình và mọi người, sự vật và sự việc bằng kiểu quan điểm và thái độ này. Đây là dạng tâm tính gì? Là tâm tính quanh co, giả dối và tà ác. Nhìn bề ngoài thì mọi điều họ cho rằng mình nói được thì đều nói hết với người khác, nhưng bên dưới vẻ ngoài ấy, họ giữ lại một số điều. Giữ lại những gì? Đó là những thứ liên quan đến thể diện và lợi ích của chính mình. Họ coi những thứ này là việc riêng tư, tuyệt đối không thể nói ra, không được cho ai biết, kể cả với bố mẹ mình, tuyệt đối không được nói. Thế thì phiền phức rồi! Ngươi nghĩ ngươi không nói thì Đức Chúa Trời sẽ không biết sao? Ngươi miệng thì nói Đức Chúa Trời biết, nhưng trong lòng có chắc chắn rằng Đức Chúa Trời biết không? Con người trước nay không ý thức được rằng “Đức Chúa Trời biết tất cả những điều này. Trong lòng tôi nghĩ gì, dù tôi không để lộ ra nhưng Đức Chúa Trời vẫn đang âm thầm dò xét, Đức Chúa Trời chắc chắn biết rõ điều đó, tôi không thể giấu Đức Chúa Trời, cho nên tôi buộc phải nói ra những chuyện đó, thông công một cách thẳng thắn và cởi mở với các anh chị em, bất luận ý nghĩ, ý kiến của tôi tốt hay xấu, tôi cũng phải nói thật lòng, không thể quanh co và giả dối, ích kỷ và đê tiện, tôi phải làm một người trung thực”. Nếu có thể nghĩ như vậy, thì đó là tâm thái đúng đắn. Hầu hết mọi người đều sẽ giở thói khôn lỏi, sẽ không tìm kiếm lẽ thật. Người ta rất xem trọng lợi ích, thể diện của mình và vị trí hoặc tầm quan trọng của bản thân trong lòng người khác. Đó là thứ duy nhất mà người ta yêu quý. Người ta nắm chặt lấy những thứ này và coi chúng như mạng sống của chính mình. Và cách họ được Đức Chúa Trời nhìn nhận hoặc đối xử như thế nào chỉ có tầm quan trọng thứ yếu; trong lúc này, họ phớt lờ điều đó; trong lúc này, họ chỉ suy nghĩ xem họ có phải là sếp của nhóm hay không, liệu người khác có nể phục họ và liệu lời nói của họ có trọng lượng hay không. Mối quan tâm đầu tiên của họ là chiếm giữ vị trí đó. Khi ở trong một nhóm, hầu như tất cả mọi người đều tìm kiếm loại vị trí này, loại cơ hội này. Khi họ tài cao, tất nhiên họ muốn trở thành người quan trọng nhất; nếu họ có khả năng bình thường, họ vẫn muốn giữ vị trí cao hơn trong nhóm; và nếu họ giữ vị trí thấp trong nhóm, có tố chất và năng lực bình thường, họ cũng sẽ muốn người khác xem trọng mình, không thể để người khác coi thường mình. Thể diện và tôn nghiêm của những người này là trận địa tối hậu của họ: họ nhất định phải giữ vững cho bằng được. Họ có thể không có nhân cách, và không được Đức Chúa Trời chấp thuận hay đồng ý, nhưng trong một nhóm, họ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội dùng mánh khóe vì thể diện, địa vị và sự xem trọng của những người khác – đó là tâm tính Sa-tan. Nhưng mọi người đều không ý thức được điều này. Họ cho rằng họ phải bám vào chút thể diện này cho đến tận cùng. Họ không biết được rằng chỉ khi những thứ viển vông và hời hợt này bị loại bỏ hoàn toàn và gạt sang một bên thì họ mới trở thành một con người đích thực. Nếu một người bảo vệ những thứ đáng lẽ phải vứt bỏ này như sự sống của họ, thì họ sẽ đánh mất sự sống của mình. Họ không biết lợi hại gì. Và vì vậy, khi họ hành động, họ luôn chừa lại gì đó, luôn cố gắng bảo vệ thể diện và địa vị của chính mình, họ đặt những điều này lên hàng đầu, vì bản thân mà nói năng, ngụy biện. Vì bản thân mà làm đủ mọi việc. Có chuyện gì vẻ vang rạng rỡ là họ luôn lao tới, để mọi người biết rằng họ có phần. Thực ra chuyện đó không liên quan gì đến họ, nhưng họ không bao giờ muốn bị bỏ lại phía sau, luôn sợ người khác coi thường mình, luôn sợ người khác nói rằng họ chẳng là gì, việc gì cũng làm không được, tài cán gì cũng không có. Chẳng phải tất cả những điều này là do tâm tính Sa-tan chi phối sao? Khi ngươi có thể buông bỏ những thứ như thể diện và địa vị, ngươi sẽ thoải mái và tự do hơn nhiều; ngươi sẽ đặt chân lên con đường làm người trung thực. Nhưng đối với nhiều người, điều này không dễ đạt được. Ví dụ, khi máy quay xuất hiện, mọi người tranh nhau đứng trước; họ thích mặt của họ ở ngay trước máy quay, lên hình được càng nhiều càng tốt; họ sợ không lên hình đủ, và sẽ trả bất kỳ giá nào để có cơ hội đạt được điều đó. Và chẳng phải toàn bộ điều này là do tâm tính Sa-tan của họ chi phối sao? Đây chính là tâm tính Sa-tan. Ngươi đã được lên hình – vậy thì sao? Mọi người đánh giá cao ngươi – vậy thì sao? Họ sùng bái ngươi – vậy thì sao? Có bất kỳ điều nào trong số này chứng minh ngươi có thực tế lẽ thật không? Không điều nào trong số này có bất kỳ giá trị gì cả. Khi ngươi có thể vượt qua những điều này – khi ngươi trở nên thờ ơ với chúng, và không còn cảm thấy chúng quan trọng nữa, khi thể diện, hư vinh, địa vị, và sự xem trọng của mọi người không còn kiểm soát tâm tư và hành vi của ngươi, càng không kiểm soát cách ngươi thực hiện bổn phận của mình – khi đó hiệu quả việc thực hiện bổn phận của ngươi sẽ ngày càng tốt, ngày càng thuần khiết.
Trích đoạn 39
Có người khi thực hiện bổn phận thì không bao giờ đàng hoàng thật thà, mà luôn tìm kiếm điều mới để trở nên nổi bật và nói lời khoa trương. Điều này có tốt không? Họ có thể phối hợp hài hòa với những người khác không? (Thưa, không thể.) Nói lời khoa trương thì là loại tâm tính gì? (Thưa, là kiêu ngạo và tự cho mình là đúng.) Đó là tâm tính kiêu ngạo và tự cho mình là đúng. Tính chất trong những hành động của họ là gì? (Thưa, họ đang muốn xây dựng sự độc lập, một mình một cõi và lập phe phái riêng.) Lập phe phái riêng nghĩa là khiến mọi người nghe lời mình, và không làm việc theo nguyên tắc lẽ thật. Ý định và mục đích của họ là xây dựng sự độc lập và một mình một cõi, nên hành động của họ có ý phá rối. Phá rối nghĩa là gì? Chính là có ý phá hoại, có tính chất làm gián đoạn và nhiễu loạn. Vốn dĩ, đa số các vấn đề có thể được giải quyết thông qua sự thông công và thảo luận của mọi người, hầu hết các quyết định được đưa ra đều phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, vừa đúng vừa chính xác. Tuy nhiên, có người cứ luôn không phục sự đồng thuận này; họ không những không tìm kiếm lẽ thật mà còn không quan tâm đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Họ đưa ra lý luận kỳ quặc để thể hiện bản thân và khiến người khác coi trọng. Họ muốn bác bỏ những quyết định đúng đắn đã được đưa ra cũng như bác bỏ sự lựa chọn của mọi người. Đây chính là phá rối, phá hoại, làm gián đoạn và nhiễu loạn. Đây là tính chất của việc nói lời khoa trương. Vậy, họ làm như vậy thì có vấn đề gì? Một mặt, họ đang bộc lộ tâm tính bại hoại và không hề thuận phục. Mặt khác, những người thích làm theo ý mình này luôn muốn xuất đầu lộ diện và khiến người khác coi trọng mình, kết quả là họ làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh. Không có lẽ thật, họ không thể nhìn thấu mọi chuyện, mà vẫn luôn muốn nói lời khoa trương để khoe khoang bản thân, không mảy may tìm kiếm lẽ thật. Đây chẳng phải là bừa phứa sao? Muốn làm tốt bổn phận thì cần học cách phối hợp với người khác. Hai người cùng bàn bạc thì luôn nhìn nhận mọi chuyện một cách toàn diện và chính xác hơn một người. Luôn muốn hành động theo ý mình hoặc luôn nói lời khoa trương để khiến người khác đi theo mình thì thật nguy hiểm và đang đi con đường của riêng mình. Làm chuyện gì cũng phải bàn bạc với người khác và lắng nghe ý kiến của mọi người trước. Nếu quan điểm của đa số mọi người là đúng và phù hợp với lẽ thật thì ngươi nên tiếp nhận và thuận phục. Dù ngươi làm gì thì tuyệt đối không được nói lời khoa trương. Nói lời khoa trương trong bất kỳ nhóm người nào cũng không bao giờ là điều tốt. Khi ngươi nói lời khoa trương mà phù hợp với nguyên tắc lẽ thật và được đa số mọi người tán thành thì còn chấp nhận được, nhưng nếu đi ngược lại nguyên tắc lẽ thật và gây bất lợi cho công tác của hội thánh thì ngươi phải chịu trách nhiệm và gánh hậu quả vì hành động của mình. Ngoài ra, nói lời khoa trương là vấn đề về tâm tính. Điều này chứng tỏ ngươi không có thực tế lẽ thật, mà vẫn đang sống theo tâm tính bại hoại của mình. Khi nói lời khoa trương, ngươi đang muốn lãnh đạo người khác, cầm đầu người khác và cũng đang muốn một mình một cõi, lập phe phái riêng; ngươi muốn khiến những người được Đức Chúa Trời chọn đều lắng nghe ngươi, đi theo ngươi và thuận phục ngươi. Làm như vậy là đang đi theo con đường địch lại Đấng Christ. Ngươi có đảm bảo rằng ngươi có thể làm cho những người được Đức Chúa Trời chọn bước vào thực tế lẽ thật không? Ngươi có thể đưa họ vào vương quốc của Đức Chúa Trời không? Bản thân ngươi không có lẽ thật, và có thể cả gan làm những chuyện chống đối và phản bội Đức Chúa Trời. Nếu ngươi vẫn muốn dẫn dắt những người được Đức Chúa Trời chọn đi theo con đường này, chẳng phải ngươi đã trở thành tội nhân hay sao? Phao-lô đã trở thành tội nhân và vẫn đang bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Nếu đi theo con đường địch lại Đấng Christ thì ngươi đang đi theo con đường của Phao-lô, kết cục và số phận cuối cùng của ngươi sẽ chẳng khác gì của Phao-lô. Cho nên, người tin và đi theo Đức Chúa Trời thì không được nói lời khoa trương mà phải học cách tìm kiếm lẽ thật, tiếp nhận lẽ thật cũng như thuận phục lẽ thật và Đức Chúa Trời. Chỉ có như thế, họ mới có thể đảm bảo mình không đi theo con đường riêng và có thể đi theo Đức Chúa Trời mà không lệch hướng. Nhà Đức Chúa Trời yêu cầu con người phối hợp hài hòa khi thực hiện bổn phận của mình. Điều này có ý nghĩa và cũng là con đường thực hành đúng đắn. Trong hội thánh, phàm là người hiểu lẽ thật và có năng lực lĩnh hội thì có khả năng có được sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Thánh Linh trên mình. Ngươi nên nắm bắt sự khai sáng và soi sáng của Đức Thánh Linh, cũng như chăm chú đi theo và phối hợp chặt chẽ để đi trên con đường chính xác nhất là con đường mà Đức Thánh Linh dẫn dắt. Với những người mà Đức Thánh Linh công tác trên họ, ngươi phải đặc biệt chú ý đến cách Ngài công tác và dẫn dắt họ. Ngươi nên thường xuyên thông công với những người khác, đưa ra đề xuất, bày tỏ quan điểm của mình, đây là bổn phận và cũng là tự do của ngươi. Nhưng cuối cùng, khi đưa ra quyết định, nếu chỉ mình ngươi đưa ra quyết định cuối cùng, khiến mọi người đều nghe lời ngươi và làm theo ý ngươi thì ngươi đang đi ngược lại nguyên tắc. Ngươi nên đưa ra lựa chọn đúng đắn dựa trên ý kiến của đa số mọi người, sau đó đưa ra quyết định. Nếu đề xuất của đa số mọi người không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật thì ngươi nên giữ vững lẽ thật. Chỉ có như thế mới phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Nếu ngươi luôn nói lời khoa trương, luôn muốn nói một chút lý luận cao siêu để khiến mọi người coi trọng, nhưng thực ra lòng ngươi cảm thấy làm vậy không đúng, thế thì đừng ép mình phải nổi bật. Đây có phải là bổn phận ngươi nên thực hiện không? Bổn phận của ngươi là gì? (Thưa, cố gắng hết sức để thực hiện bổn phận mà mình nên làm và hiểu bao nhiêu thì nói bấy nhiêu. Nếu con không có quan điểm riêng thì nên học cách lắng nghe đề xuất của mọi người nhiều hơn, học phân định một cách sáng suốt và đạt đến phối hợp hài hòa với mọi người.) Nếu chuyện gì ngươi cũng không nhìn thấu, cũng không có quan điểm gì thì hãy học cách nghe lời, thuận phục và tìm kiếm lẽ thật. Đây là bổn phận ngươi nên thực hiện và là thái độ đàng hoàng thật thà. Nếu ngươi không có quan điểm gì, lại còn luôn sợ mất mặt, sợ không thể hiện được bản thân, sợ bị sỉ nhục – nếu ngươi sợ bị mọi người ghét bỏ và không có chỗ trong lòng họ nên ngươi luôn muốn ép mình phải nổi bật, luôn muốn nói lời khoa trương, đề xuất một số chủ trương hoang đường và phi thực tế và khiến người khác phải tiếp nhận – thì đó có phải là thực hiện bổn phận của mình hay không? (Thưa, không phải.) Vậy đó là đang làm gì? Chính là đang phá hoại. Nếu các ngươi thấy người nào luôn làm những việc này thì phải hạn chế họ. Hạn chế như thế nào? Ngươi không cần khiến họ im lặng hoàn toàn hay không cho họ bất kỳ cơ hội nào để nói. Ngươi có thể để họ thông công và không nên gạt họ ra rìa, nhưng mọi người quanh họ cần biết phân định. Đây là nguyên tắc. Ví dụ, nếu có người đưa ra quan điểm sai lầm mà hoàn toàn phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người, đa số mọi người đều ủng hộ và tán thành họ, nhưng một số ít người có chút phân định có thể nhận ra rằng quan điểm đó đã bị lẫn tạp ý của con người, có dã tâm và dục vọng cá nhân, thì những người này nên vạch trần họ khiến họ phản tỉnh và nhận biết bản thân. Làm như vậy là đúng. Nếu không ai biết phân định hay nói lên ý kiến mà chỉ làm người dễ dãi thì chắc chắn sẽ có người nịnh bợ, tán đồng và ủng hộ họ, như thế sẽ dung dưỡng dã tâm và dục vọng của họ. Sau đó, người đó sẽ bắt đầu thực sự có được quyền lực trong hội thánh. Lúc này, mọi chuyện sẽ trở nên nguy hiểm vì họ có thể hợp lực với những người ủng hộ để tạo thành thế lực riêng, làm việc ác và quấy rối công tác của hội thánh. Như vậy chính là đi theo con đường địch lại Đấng Christ. Một khi nắm quyền kiểm soát hội thánh, họ sẽ trở thành kẻ địch lại Đấng Christ và bắt đầu xây dựng vương quốc độc lập của riêng mình.
Trích đoạn 40
Khi có chuyện xảy ra, mọi người nên cùng nhau cầu nguyện nhiều hơn và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, tuyệt đối không được dựa vào ý riêng của mình mà hành động tùy tiện. Chừng nào mọi người đều đồng tâm hợp ý cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, thì sẽ có thể nhận được sự khai sáng, soi sáng bởi công tác của Đức Thánh Linh, và sẽ có thể nhận được phước lành của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus đã phán gì? (“Nếu hai người trong các ngươi thuận nhau ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc chi, thì Cha ta ở trên trời sẽ cho họ. Vì nơi nào có hai ba người nhơn danh ta nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ” (Ma-thi-ơ 18:19-20).) Điều này nói lên vấn đề gì? Nó cho thấy rằng con người không thể rời xa Đức Chúa Trời, phải dựa vào Đức Chúa Trời, không thể đi một mình, và việc đi theo con đường riêng của mình là không thể chấp nhận được. Nói rằng con người không thể đi một mình có nghĩa là gì? Có nghĩa là các ngươi phải phối hợp hài hòa, đồng tâm hợp ý và có mục tiêu chung. Có thể nói nôm na là “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Vậy làm thế nào để các ngươi có thể trở nên giống như hòn núi cao? Các ngươi phải phối hợp hài hòa, đạt đến đồng tâm hợp ý, vậy thì Đức Thánh Linh mới công tác. Nếu ai cũng che giấu bí mật riêng và chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, không ai chịu trách nhiệm cho công tác của hội thánh, ai cũng muốn phủi bỏ trách nhiệm, chẳng muốn đứng ra đảm đương, dốc sức hay chịu khổ và trả giá, thì Đức Thánh Linh có công tác hay không? (Thưa, không.) Vì sao vậy? Khi con người sống trong tình trạng sai lầm và không cầu nguyện với Đức Chúa Trời, không tìm kiếm lẽ thật, thì Đức Thánh Linh sẽ từ bỏ họ, và Đức Chúa Trời sẽ không hiện diện. Làm sao những kẻ không tìm kiếm lẽ thật lại có thể có được công tác của Đức Thánh Linh chứ? Đức Chúa Trời ghê tởm họ, Ngài giấu mặt với họ và Đức Thánh Linh cũng ẩn giấu với họ. Khi Đức Chúa Trời không còn làm công tác, ngươi có thể làm gì tùy thích. Một khi Ngài đã gạt ngươi sang một bên, chẳng phải ngươi đã tiêu đời sao? Ngươi sẽ chẳng làm được gì. Tại sao những người ngoại đạo lại gặp khó khăn khi làm mọi việc? Chẳng phải là mỗi người bọn họ đều che giấu suy nghĩ riêng của mình sao? Họ che giấu suy nghĩ riêng của mình và không thể hoàn thành được bất cứ điều gì – làm gì cũng cực kỳ chật vật, ngay cả những vấn đề đơn giản nhất cũng chật vật. Sống dưới quyền lực của Sa-tan chính là như vậy. Nếu các ngươi hành động như những người ngoại đạo, vậy thì các ngươi có gì khác với những người ngoại đạo chứ? Không khác gì cả. Nếu quyền lực trong hội thánh nằm trong tay những người không có lẽ thật và những kẻ đầy tâm tính Sa-tan, thì thực tế chẳng phải Sa-tan đang nắm quyền sao? Nếu hành động của những người nắm quyền trong hội thánh đều trái với lẽ thật, thì Đức Thánh Linh sẽ không công tác, và Đức Chúa Trời sẽ giao bọn họ cho Sa-tan. Một khi đã bị giao cho Sa-tan, đủ thứ xấu xa như lòng đố kỵ và thói tranh chấp giữa người với người, v.v. sẽ lộ ra hết. Những hiện tượng này nói lên điều gì? Chúng cho thấy rằng Đức Thánh Linh đã ngưng công tác và rời đi rồi, Đức Chúa Trời cũng không còn công tác nữa. Mà nếu Đức Chúa Trời không còn công tác nữa thì những câu chữ, đạo lý mà con người hiểu được có còn hữu dụng hay không? Chúng trở nên vô dụng. Khi không còn công tác của Đức Thánh Linh, người ta sẽ thấy trống rỗng trong lòng, không còn cảm nhận được gì, giống như kẻ đã chết, lúc này họ mới chết lặng. Mọi cảm hứng, sự khôn ngoan, trí thông minh, thấu suốt và sự khai sáng của con người đều đến từ Đức Chúa Trời; đều là công tác của Đức Chúa Trời. Khi người ta tìm kiếm lẽ thật trong chuyện nào đó mà đột nhiên hiểu ra và có được con đường, thì sự sáng đó đến từ đâu? Đều đến từ Đức Chúa Trời. Cũng như khi con người thông công về lẽ thật, ban đầu họ không có hiểu biết gì cả, nhưng trong quá trình thông công, họ lại được soi sáng và có thể nói về một số hiểu biết. Đó là sự khai sáng và công tác của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh chủ yếu công tác vào lúc nào? Chính là khi dân sự được Đức Chúa Trời chọn thông công về lẽ thật, khi người ta cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và khi con người đồng tâm hợp ý thực hiện bổn phận. Đó là những lúc Đức Chúa Trời hài lòng nhất. Vì vậy, khi thực hiện bổn phận, dù ít hay nhiều người, dù trong hoàn cảnh hay thời điểm nào, các ngươi cũng đừng quên điều này – hãy đồng tâm hợp ý. Sống trong tình trạng đó thì các ngươi mới có được công tác của Đức Thánh Linh.
Trích đoạn 41
Trong nhà Đức Chúa Trời, chỉ cần là người mưu cầu lẽ thật thì đều đoàn kết trước Đức Chúa Trời chứ không chia rẽ. Tất cả họ đều vì một mục tiêu chung: đó là làm tốt bổn phận của mình, làm tốt công tác được phân cho mình, hành động theo nguyên tắc lẽ thật, làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và thỏa mãn tâm ý của Ngài. Nếu mục tiêu của ngươi không phải vì điều này mà là vì bản thân ngươi và để thỏa mãn những ham muốn ích kỷ của bản thân, thì đó là sự bộc lộ tâm tính bại hoại của Sa-tan. Trong nhà Đức Chúa Trời, bổn phận được thực hiện theo nguyên tắc lẽ thật, trong khi hành động của người ngoại đạo do tâm tính Sa-tan của họ chi phối. Đây là hai con đường hoàn toàn khác nhau. Người ngoại đạo giữ kín chuyện trong lòng, mỗi người đều có mục đích và tính toán riêng, ai cũng sống vì lợi ích của riêng mình nên họ thấy có lợi thì phải giành, có lợi thì không nhường. Họ bị chia rẽ, không đoàn kết, bởi vì họ không hướng tới một mục tiêu chung. Ý định và tính chất của việc họ làm là giống nhau, tất cả đều vì bản thân. Trong đó, không có lẽ thật nắm quyền; tất cả đều bị tâm tính bại hoại của Sa-tan nắm quyền và làm chủ. Họ đều bị tâm tính Sa-tan bại hoại khống chế, không thể kìm nổi bản thân và kết quả là ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Trong nhà Đức Chúa Trời, nếu các nguyên tắc, phương thức, động cơ và ngọn nguồn cho hành động của các ngươi giống với của người ngoại đạo, nếu các ngươi cũng bị tâm tính bại hoại của Sa-tan đùa bỡn, khống chế và thao túng và nếu ngọn nguồn cho hành động của ngươi là vì lợi ích, danh tiếng, thể diện và địa vị của chính ngươi, thì giữa cách ngươi thực hiện bổn phận và cách người ngoại đạo làm mọi việc sẽ không có gì khác biệt. Nếu mưu cầu lẽ thật thì các ngươi nên thay đổi cách làm việc, từ bỏ lợi ích của bản thân cũng như ý định và dục vọng cá nhân. Khi làm việc, trước tiên các ngươi nên thông công với nhau về lẽ thật, hiểu tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời, sau đó phân công nhau xem ai giỏi làm việc gì, ai kém ở việc gì. Ngươi nên nhận phần việc mình có thể làm và giữ vững bổn phận của mình, không được tranh giành hay cướp đoạt thứ gì mà phải học cách nhường nhịn và bao dung. Nếu có người mới bắt đầu thực hiện bổn phận hoặc mới chỉ học các kỹ năng cho một lĩnh vực nhưng chưa đủ trình độ đáp ứng một số việc thì ngươi không được ép buộc họ. Ngươi phải giao cho họ những việc dễ hơn một chút để họ có thể dễ dàng đạt được kết quả hơn khi thực hiện bổn phận của mình. Đó là sự bao dung, nhẫn nại và có nguyên tắc, là một phương diện mà nhân tính bình thường nên có; đó là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người và là điều mà con người nên thực hành. Nếu ngươi tương đối giỏi ở lĩnh vực nào đó và đã làm trong lĩnh vực đó lâu hơn hầu hết những người khác, thì việc khó hơn nên được giao cho ngươi. Ngươi nên đón nhận điều này từ Đức Chúa Trời và thuận phục. Đừng kén chọn, trách móc và nói: “Tại sao lại gây khó dễ cho tôi? Họ giao việc dễ cho người khác và giao việc khó cho tôi. Chẳng phải họ đang làm khó tôi sao?”. “Làm khó ngươi” nghĩa là sao? Việc được sắp xếp phù hợp cho từng người, ai giỏi hơn thì làm nhiều hơn. Nếu ngươi đã học được nhiều và Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi nhiều thì gánh nặng hơn nên được giao cho ngươi, không phải để làm khó ngươi mà là vì phần việc đó hoàn toàn phù hợp với ngươi. Đây là bổn phận của ngươi, đừng kén chọn, từ chối hay trốn tránh. Tại sao ngươi cho rằng phần việc đó là khó? Thực ra, nếu ngươi để tâm một chút vào phần việc của mình thì sẽ hoàn toàn làm được. Nếu ngươi cho rằng phần việc đó là khó, có sự thiên vị và cố tình gây khó dễ cho ngươi, thì đó là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại. Ngươi đang từ chối thực hiện bổn phận và không tiếp nhận từ Đức Chúa Trời. Đó không phải là thực hành lẽ thật. Thực hiện bổn phận mà còn kén chọn, việc gì nhẹ nhàng và dễ dàng thì làm, chỉ làm vì sĩ diện thì đây là tâm tính bại hoại của Sa-tan. Ngươi không thể tiếp nhận bổn phận hay thuận phục thì chứng tỏ ngươi vẫn phản nghịch Đức Chúa Trời, ngươi đang đối kháng, từ chối và trốn tránh Ngài. Đây là tâm tính bại hoại. Khi biết đây là tâm tính bại hoại rồi thì ngươi nên làm gì? Nếu ngươi cảm thấy phần việc giao cho người khác có thể được hoàn thành dễ dàng còn phần việc giao cho ngươi thì khiến ngươi bận rộn trong thời gian dài và phải mất công sức để tìm tài liệu nên trong lòng ngươi không vui, ngươi cảm thấy không vui thì có đúng đắn hay không? Chắc chắn là không. Vậy, ngươi nên làm gì khi cảm thấy điều này không đúng? Nếu ngươi cảm thấy chống đối và nói: “Mỗi lần phân công công việc, họ đều giao cho tôi việc khó khăn, bẩn thỉu và đòi hỏi khắt khe, nhưng lại giao cho người khác việc nhẹ nhàng, đơn giản, nở mày nở mặt. Chẳng phải họ nghĩ tôi chỉ là người dễ bắt nạt sao? Phân công như thế này thật không công bằng!”, thì suy nghĩ này của ngươi là sai. Bất kể việc phân công có sai lệch nào hay không, có hợp lý hay không, thì Đức Chúa Trời đang dò xét điều gì? Điều Ngài dò xét là lòng người. Ngài xem liệu ai đó có thuận phục trong lòng hay không, họ có thể đảm đương một số gánh nặng cho Ngài hay không và họ có phải là người yêu kính Ngài hay không. Nếu đánh giá dựa vào yêu cầu của Đức Chúa Trời thì lý do của ngươi không có cơ sở, việc thực hiện bổn phận của ngươi không đạt tiêu chuẩn và ngươi không có thực tế lẽ thật. Ngươi không thuận phục chút nào, khi làm vài việc bẩn thỉu hoặc đòi hỏi khắt khe thì oán trách. Vấn đề ở đây là gì? Đầu tiên tâm thái sai. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là thái độ của ngươi đối với bổn phận là sai. Nếu ngươi luôn nghĩ tới thể diện và lợi ích của bản thân, không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời và không thuận phục chút nào thì đó không phải là thái độ đúng đắn mà ngươi nên có đối với bổn phận của mình. Nếu ngươi chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời và có lòng yêu kính Ngài thì ngươi đối đãi như thế nào với những việc bẩn thỉu, đòi hỏi khắt khe hoặc khó khăn? Khi đó, tâm thái của ngươi sẽ khác: việc gì khó thì ngươi sẽ chọn làm việc đó, tìm kiếm những trọng trách để gánh vác, đảm nhận những việc người khác không muốn làm, và ngươi làm như thế chỉ để yêu kính Đức Chúa Trời và thỏa mãn Ngài. Lòng ngươi sẽ tràn ngập niềm vui và không có lời oán trách nào. Việc bẩn thỉu, đòi hỏi khắt khe và khó khăn tỏ lộ về con người. Ngươi có khác biệt gì với những người chỉ làm những việc nhẹ nhàng và nở mày nở mặt? Ngươi không tốt hơn họ là bao, không phải như vậy sao? Ngươi phải nhìn những việc này như vậy. Cho nên, việc thực hiện bổn phận tỏ lộ rõ nhất về con người. Có người lúc bình thường thì nói rất hay, luôn miệng nói rằng sẽ nguyện yêu kính và thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng lúc gặp khó khăn khi thực hiện bổn phận của mình thì lại buông ra đủ loại lời oán trách và tiêu cực. Rõ ràng họ là những kẻ đạo đức giả. Nếu người yêu mến lẽ thật gặp khó khăn khi thực hiện bổn phận của mình thì họ sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật và để tâm thực hiện bổn phận, ngay cả khi sự sắp xếp cho bổn phận đó không thích hợp. Cho dù gặp phải việc nặng nhọc, bẩn thỉu hoặc khó khăn, họ sẽ không oán trách, và có thể làm tốt việc của mình, thực hiện tốt bổn phận của mình với lòng thuận phục Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy vui vẻ khi làm vậy và Đức Chúa Trời nhìn thấy thì cũng được an ủi. Loại người này được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nếu ai đó ngay khi gặp phải việc bẩn thỉu, khó khăn hoặc đòi hỏi khắt khe thì giận dỗi và cáu kỉnh, không để ai chỉ trích họ thì họ không phải là người thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời. Họ chỉ có thể bị tỏ lộ và đào thải. Bình thường khi gặp tình trạng này, các ngươi có thể ý thức được mức độ nghiêm trọng của vấn đề này không? (Thưa, có thể ý thức một chút.) Nếu có thể ý thức được một phần trong đó, liệu ngươi có thể xoay chuyển bằng sức mạnh, đức tin và vóc giạc của chính mình không? Ngươi cần phải xoay chuyển thái độ này. Đầu tiên, ngươi cần nghĩ: “Thái độ này là sai. Đây chẳng phải là kén cá chọn canh trong việc thực hiện bổn phận của mình sao? Đây không phải là thuận phục. Thực hiện bổn phận nên là một chuyện vui vẻ, nên cam tâm tình nguyện. Tại sao mình không hạnh phúc mà lại thấy buồn bực? Mình biết rõ bổn phận là gì, biết đó là điều nên làm, vậy tại sao mình không thể cứ thế thuận phục? Mình phải đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện cũng như nhận biết sự bộc lộ những tâm tính bại hoại này nơi sâu thẳm nội tâm mình”. Sau đó, khi làm việc này thì ngươi nên cầu nguyện: “Thưa Đức Chúa Trời, con đã cứng đầu thành thói và không nghe lời ai. Thái độ của con là sai và con không thuận phục. Xin Ngài sửa dạy con và khiến con thuận phục. Con không muốn buồn bực và không muốn phản nghịch Ngài nữa. Xin Ngài cảm động con và cho con có thể làm tốt bổn phận của mình. Con không muốn sống vì Sa-tan; con muốn sống vì lẽ thật và thực hành lẽ thật”. Khi cầu nguyện như vậy, tình trạng bên trong ngươi sẽ có chiều hướng tốt. Khi tình trạng có chiều hướng tốt thì ngươi sẽ có thể thuận phục và cảm thấy: “Thực sự thì việc này không có gì cả, chỉ là mình làm nhiều hơn còn người khác làm ít hơn, họ chơi thì mình không chơi, họ tán gẫu thì mình không tán gẫu. Đức Chúa Trời đã trao cho mình thêm một gánh nặng, một trọng trách; đó là vì Ngài coi trọng mình, ân đãi tôi và điều đó chứng tỏ rằng mình có thể đảm nhận trọng trách này. Đức Chúa Trời quá tốt với mình và mình nên thuận phục”. Chẳng biết tự bao giờ, thái độ của ngươi sẽ thay đổi. Khi mới tiếp nhận bổn phận, ngươi đã có thái độ không tốt và không thể thuận phục nhưng ngươi đã có thể kịp thời xoay chuyển, kịp thời tiếp nhận sự dò xét và sửa dạy của Đức Chúa Trời. Ngươi đã có thể kịp thời đến trước Đức Chúa Trời với thái độ thuận phục, thái độ tiếp nhận và thực hành lẽ thật, cho đến khi ngươi có thể đón nhận hoàn toàn bổn phận của mình từ Đức Chúa Trời và cam tâm nguyện ý làm tốt bổn phận này. Có một quá trình chiến đấu trong việc này. Quá trình chiến đấu đó chính là quá trình ngươi thay đổi, quá trình ngươi tiếp nhận lẽ thật. Việc con người cam tâm nguyện ý và thuận phục bất cứ chuyện gì xảy ra với họ mà không đắn đo là chuyện không thể. Nếu có thể làm được điều đó thì chứng tỏ rằng họ không có tâm tính bại hoại và không cần Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi họ. Con người có cách nghĩ, có thái độ không đúng, có tình trạng sai lầm và tiêu cực. Đây đều là những vấn đề hiện thực và có tồn tại. Nhưng khi những trạng thái tiêu cực và phản diện này cũng như các cảm xúc tiêu cực và tâm tính bại hoại làm chủ và khống chế hành vi, tâm tư và thái độ của ngươi thì việc ngươi làm, cách ngươi thực hành và con đường ngươi chọn sẽ phụ thuộc vào thái độ của ngươi đối với lẽ thật. Ngươi có thể có cảm xúc, có trạng thái tiêu cực hoặc phản nghịch, nhưng khi những điều này xuất hiện trong quá trình ngươi thực hiện bổn phận của mình, thì chúng cũng sẽ dễ dàng bị xoay chuyển vì ngươi đến trước Đức Chúa Trời, vì ngươi hiểu lẽ thật, vì ngươi tìm kiếm Đức Chúa Trời và vì ngươi có thái độ thuận phục và tiếp nhận lẽ thật. Khi đó, ngươi sẽ thuận lợi trong việc thực hiện tốt bổn phận của mình, có thể chiến thắng sự kìm kẹp và khống chế mà tâm tính bại hoại của Sa-tan áp đặt lên ngươi. Cuối cùng, ngươi sẽ thành công trong việc làm tốt bổn phận của mình, hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời cũng như thu hoạch được lẽ thật và sự sống. Quá trình thực hiện bổn phận của con người và đạt được lẽ thật cũng là quá trình thay đổi tâm tính. Chính trong quá trình thực hiện bổn phận, con người nhận được sự khai sáng và soi sáng của Đức Thánh Linh, hiểu lẽ thật và bước vào thực tế. Cũng chính khi gặp khó khăn trong việc thực hiện bổn phận của mình, họ thường đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện, tìm kiếm và nắm bắt tâm ý của Ngài để giải quyết khó khăn, để có thể thực hiện bổn phận của mình một cách bình thường. Chính trong việc thực hiện bổn phận của mình mà con người tiếp nhận sự sửa dạy của Đức Chúa Trời cũng như sống dưới sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, dần dần học cách làm mọi việc theo nguyên tắc lẽ thật rồi thực hiện bổn phận của mình đạt tiêu chuẩn. Đây là lúc lẽ thật đang làm chủ và nắm quyền trong lòng ngươi.
Đối với một số người, dù cho họ có thể gặp phải vấn đề gì khi thực hiện bổn phận, thì họ cũng không tìm kiếm lẽ thật và họ luôn luôn hành động theo suy nghĩ, quan niệm, trí tưởng tượng và mong muốn của bản thân. Họ thường xuyên thỏa mãn những mong muốn ích kỷ của bản thân và tâm tính bại hoại của họ luôn luôn kiểm soát hành động của họ. Họ có thể trông như luôn thực hiện bổn phận nhưng vì họ chưa bao giờ tiếp nhận lẽ thật và không có khả năng làm mọi việc theo các nguyên tắc lẽ thật, nên cuối cùng họ không đạt được lẽ thật và sự sống, và trở thành một kẻ đem sức lực phục vụ đúng nghĩa. Vậy thì, những người như thế đang dựa vào điều gì khi thực hiện bổn phận của họ? Họ đang không dựa vào lẽ thật cũng như vào Đức Chúa Trời. Một chút lẽ thật mà họ hiểu được đó đã không nắm được quyền tối thượng trong lòng họ; họ đang dựa vào những ân tứ và tài năng của bản thân, vào bất kỳ sự hiểu biết nào họ có được, cũng như vào nghị lực hay thiện ý của họ để thực hiện những bổn phận này. Và nếu vậy thì, liệu họ có thể thực hiện bổn phận theo một tiêu chuẩn có thể chấp nhận được không? Khi con người dựa vào tính tự nhiên, quan niệm, trí tưởng tượng, chuyên môn và học hỏi để thực hiện bổn phận, thì mặc dù có vẻ như họ đang thực hiện bổn phận và không hành ác, nhưng họ đang không thực hành lẽ thật, và chưa làm được bất kỳ điều gì thỏa lòng Đức Chúa Trời. Cũng còn một vấn đề nữa không thể bỏ qua: Trong quá trình thực hiện bổn phận của mình, nếu các quan niệm, trí tưởng tượng và mong muốn cá nhân của ngươi không bao giờ thay đổi và không bao giờ được thay thế bằng lẽ thật, và nếu hành động và việc làm của ngươi không bao giờ được thực hiện theo các nguyên tắc lẽ thật, thì kết quả cuối cùng sẽ như thế nào? Ngươi sẽ không có lối vào sự sống, ngươi sẽ trở thành một kẻ đem sức lực phục vụ, do đó ứng nghiệm lời của Đức Chúa Jêsus: “Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhơn danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhơn danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhơn danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? Khi ấy, ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi ta!” (Ma-thi-ơ 7:22-23). Tại sao Đức Chúa Trời gọi những kẻ ra sức và đem sức lực phục vụ này là những kẻ hành ác? Có một điểm chúng ta có thể chắc chắn, và đó là dù cho những người này thực hiện bổn phận hay công tác gì, thì động cơ, động lực, ý định và suy nghĩ của họ hoàn toàn xuất phát từ những mong muốn ích kỷ, và chúng hoàn toàn là để bảo vệ tư lợi và triển vọng của họ, và để thỏa mãn thể diện, sự phù phiếm và địa vị của chính họ. Tất cả đều xoay quanh những suy xét và tính toán này, trong lòng họ không có lẽ thật, họ không có tấm lòng kính sợ và thuận phục Đức Chúa Trời – đây là gốc rễ của vấn đề. Ngày hôm nay, điều gì là quan trọng để các ngươi mưu cầu? Trong mọi sự, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật, và ngươi phải thực hiện bổn phận của mình một cách đúng đắn theo tâm ý của Đức Chúa Trời và theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi làm vậy, ngươi sẽ nhận được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Vậy, cụ thể thì điều gì liên quan đến việc thực hiện bổn phận theo yêu cầu của Đức Chúa Trời? Trong mọi việc ngươi làm, ngươi phải học cách cầu nguyện với Đức Chúa Trời, ngươi phải suy ngẫm về ý định của mình, suy nghĩ của mình, và liệu những ý định và suy nghĩ này có phù hợp với lẽ thật không; nếu chúng không phù hợp thì phải gạt sang một bên, sau đó ngươi nên hành động theo các nguyên tắc lẽ thật, và chấp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời. Việc này sẽ đảm bảo rằng ngươi đưa lẽ thật vào thực hành. Nếu ngươi có những ý định và mục đích riêng, và nhận thức rõ rằng chúng vi phạm lẽ thật và trái với tâm ý của Đức Chúa Trời nhưng vẫn không cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật để có giải pháp thì điều này thật nguy hiểm, ngươi dễ phạm điều ác và làm những việc chống đối Đức Chúa Trời. Nếu ngươi hành ác một hoặc hai lần và ăn năn thì ngươi vẫn còn hy vọng được cứu rỗi. Nếu ngươi cứ liên tục hành ác, nghĩa là phạm đủ mọi kiểu việc ác, mà vẫn không ăn năn, thì ngươi đang gặp phiền phức rồi: Đức Chúa Trời sẽ gạt ngươi sang một bên hoặc từ bỏ ngươi, tức là ngươi có nguy cơ bị đào thải; những người phạm mọi kiểu việc ác chắc chắn sẽ bị trừng phạt và đào thải.