Những lời về cách đối đãi lẽ thật và Đức Chúa Trời

Trích đoạn 1

Có người bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời khi thấy những lời Đức Chúa Trời bày tỏ quả đúng là lẽ thật. Tuy nhiên, khi vào nhà Đức Chúa Trời và thấy Đức Chúa Trời là một người bình thường, trong lòng họ lại nảy sinh quan niệm. Họ không kiềm chế lời nói và hành vi của mình nữa mà trở nên buông thả, nói năng vô trách nhiệm, phán xét và phỉ báng một cách tùy tiện. Đấy chính là cách những kẻ ác như thế bị phơi bày. Những sinh vật vô nhân tính này thường xuyên hành ác và gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, kết cục của họ sẽ chẳng tốt đẹp gì! Họ công khai chống đối, phỉ báng, phán xét và xúc phạm Đức Chúa Trời, công khai báng bổ và đối nghịch Ngài. Những kẻ như thế đáng phải nhận sự trừng phạt nghiêm khắc. Một số kẻ thuộc bè lũ lãnh đạo giả, sau khi bị tước bổn phận thì không ngừng oán giận Đức Chúa Trời. Họ chộp lấy thời cơ trong những buổi hội họp để không ngừng lan truyền quan niệm và trút lời oán trách; thậm chí dám thốt ra những lời cay độc hay những lời để xả giận. Những kẻ đó chẳng phải là ma quỷ sao? Sau khi bị thanh trừ khỏi nhà Đức Chúa Trời, họ cảm thấy hối hận, cho rằng mình đã lỡ lời vì nhất thời ngu muội. Một số người không phân định được họ, nói rằng: “Họ thật đáng thương và trong lòng họ cũng đã hối hận rồi. Họ nói họ đội ơn Đức Chúa Trời, nói họ không biết về Ngài, nên hãy tha thứ cho họ”. Liệu có thể tha thứ dễ dàng như thế không? Con người còn có tôn nghiêm, huống hồ là Đức Chúa Trời! Những kẻ này buông lời phỉ báng và báng bổ xong thì tỏ vẻ hối hận với vài người, họ tha thứ cho chúng, nói rằng chúng chỉ nhất thời ngu muội mà thôi, nhưng liệu đó có phải là nhất thời ngu muội không? Trong lời họ nói luôn có ý định, thậm chí còn dám phán xét Đức Chúa Trời. Nhà Đức Chúa Trời đã cách chức họ, nên họ mất hết phúc phần của địa vị, và trong nỗi sợ bị đào thải, họ tuôn ra những lời oán trách rồi sau đó lại khóc lóc trong cay đắng và ân hận. Làm vậy có ích gì không? Lời đã nói ra thì như bát nước hắt đi, không thể lấy lại được. Liệu Đức Chúa Trời có dung thứ cho những kẻ tùy tiện chống đối, phán xét và báng bổ Ngài không? Ngài cứ vậy bỏ qua sao? Nếu vậy thì Đức Chúa Trời sẽ không có tôn nghiêm. Có người lỡ chống đối rồi thì nói: “Lạy Đức Chúa Trời, huyết báu của Ngài đã cứu chuộc con. Ngài dạy chúng con tha thứ bảy mươi lần bảy, vậy thì Ngài cũng nên tha thứ cho con!”. Đúng là vô liêm sỉ! Một số người thì phát tán tin đồn về Đức Chúa Trời, rồi hoang mang sợ hãi sau khi phỉ báng Ngài. Sợ bị trừng phạt, họ liền quỳ xuống cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời! Xin đừng bỏ con, xin đừng trừng phạt con. Con xin thú tội, ăn năn, con đội ơn Ngài, con sai rồi”. Nói xem, những kẻ như thế có thể được tha thứ không? Không thể! Tại sao lại không thể? Vì việc họ làm đã xúc phạm tới Đức Thánh Linh, và tội báng bổ Đức Thánh Linh thì sẽ không bao giờ được tha thứ, dù ở đời này hay đời sau! Đức Chúa Trời giữ đúng lời Ngài. Ngài có sự tôn nghiêm, sự thịnh nộ, và tâm tính công chính. Ngươi nghĩ Đức Chúa Trời cũng giống con người, rằng nếu ai đó tử tế x với Ngài thêm một chút, Ngài sẽ bỏ qua những vi phạm trước đó của họ ư? Không có chuyện đó đâu! Nếu chống đối Đức Chúa Trời, liệu ngươi có kết cục tốt đẹp không? Nếu ngươi chỉ nhất thời ngu muội mà làm gì đó sai trái hoặc thỉnh thoảng bộc lộ một chút tâm tính bại hoại, thì có thể hiểu được. Nhưng nếu ngươi trực tiếp chống đối, phản nghịch và đối lập với Đức Chúa Trời, và phỉ báng, báng bổ và loan tin đồn về Ngài, thì ngươi coi như xong thật rồi. Những kẻ như thế không cần phải cầu nguyện làm gì nữa; chỉ việc chờ bị trừng phạt thôi. Không thể tha thứ cho họ! Đến lúc đó, đừng có trơ trẽn mà nói rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy tha cho con!”. Ta rất tiếc phải nói rằng, ngươi có cầu xin đến mấy cũng vô ích mà thôi. Nếu đã hiểu được một ít lẽ thật, mà còn cố ý vi phạm thì không thể được tha thứ. Trước kia, Ta đã phán rằng Đức Chúa Trời không ghi nhớ những vi phạm của người ta. Đó là nói đến những lỗi nhỏ không liên quan đến sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời và không xúc phạm tâm tính của Ngài, chứ không bao gồm việc phỉ báng hay báng bổ Đức Chúa Trời. Nếu ngươi báng bổ, phán xét hay phỉ báng Đức Chúa Trời dù chỉ một lần, thì đó sẽ là vết nhơ mãi mãi không thể xóa sạch. Con người cứ muốn tùy tiện báng bổ và lăng mạ Đức Chúa Trời, rồi sau đó muốn lợi dụng Ngài để nhận lãnh phước lành. Trên đời này làm gì có chuyện tiện lợi đến thế! Con người luôn nghĩ Đức Chúa Trời thương xót và từ ái, nghĩ rằng Ngài nhân từ, có tấm lòng bao la vô hạn, không ghi nhớ những vi phạm của con người và bỏ qua cho những vi phạm và hành vi trước kia của họ. Những chuyện nhỏ đã qua thì cho qua. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ không tha thứ cho những ai công khai chống đối và báng bổ Ngài.

Mặc dù hầu hết mọi người trong hội thánh đều thực sự tin Đức Chúa Trời, nhưng trong lòng họ không kính sợ Ngài. Chứng tỏ đa số họ không có hiểu biết thực sự về tâm tính của Đức Chúa Trời, nên thật khó để họ kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Nếu người ta tin Đức Chúa Trời mà không tôn kính hay kính sợ Ngài, và khi công tác của Đức Chúa Trời động chạm đến lợi ích của mình thì mở miệng nói năng không chút kiêng dè, thì lúc họ nói xong chẳng phải cũng là hồi kết cho họ sao? Rồi họ phải trả giá cho những gì mình nói, và đây không phải chuyện đơn giản. Khi có người báng bổ, phán xét Đức Chúa Trời, trong lòng họ có biết mình đang nói gì không? Ai nói thì trong lòng người đó đều biết mình nói gì. Trừ những người bị tà linh ám và người có lý trí bất thường, còn lại những ai bình thường đều biết mình nói gì. Nếu nói không biết thì là đang nói dối. Khi nói ra, họ nghĩ: “Tôi biết Ngài là Đức Chúa Trời. Tôi nói Ngài làm vậy là không thích hợp đấy, Ngài làm gì được tôi? Tôi nói xong thì Ngài sẽ làm gì?”. Họ cố ý làm vậy để gây nhiễu loạn người khác, để lôi kéo người khác về phe họ, khiến người khác nói và làm những điều tương tự. Họ biết những gì họ nói chính là đang công khai chống đối Đức Chúa Trời, biết như thế là chống lại Đức Chúa Trời, báng bổ Ngài. Sau khi suy nghĩ kĩ lại, họ mới thấy mình sai: “Mình vừa nói gì vậy? Đó chỉ là một phút bốc đồng và mình thật sự hối hận!”. Sự hối hận đó chứng tỏ lúc đó họ biết chính xác mình đang làm gì; không phải là họ không biết. Nếu ngươi nghĩ họ chỉ nhất thời ngu muội và hồ đồ, rằng họ không hiểu cho thấu đáo, thì không hẳn đúng đâu. Có thể con người không hiểu thấu đáo, nhưng nếu đã tin Đức Chúa Trời thì ngươi phải có thường thức tối thiểu. Tin Đức Chúa Trời thì ngươi phải kính sợ và tôn kính Ngài. Ngươi không được tùy tiện báng bổ Đức Chúa Trời, không được phán xét hoặc phỉ báng Ngài. Ngươi có biết “phán xét”, “báng bổ” và “phỉ báng” nghĩa là gì không? Khi nói điều gì đó, chẳng lẽ ngươi không biết liệu mình có đang phán xét Đức Chúa Trời hay không? Một số người hay nói về chuyện họ đã từng tiếp đãi Đức Chúa Trời, thường xuyên gặp Ngài, đã trực tiếp nghe thông công của Đức Chúa Trời. Gặp ai họ cũng kể dông dài những chuyện này, toàn những chuyện ngoài lề; họ chẳng có chút hiểu biết chân thực nào cả. Có thể họ không có ý gì xấu khi kể những chuyện này. Có thể họ có ý tốt cho các anh chị em và muốn khích lệ mọi người. Nhưng tại sao họ lại chọn những điều này để nói? Nếu họ đã chủ động nhắc đến chuyện này, thì hẳn họ có ý định gì đó: chủ yếu là để khoe khoang bản thân và khiến mọi người ngưỡng mộ mình. Nếu họ muốn giúp mọi người thêm lòng tin và khích lệ mọi người tin Đức Chúa Trời, thì có thể đọc thêm lời Ngài cho họ nghe, đó là lẽ thật cơ mà, tại sao cứ phải nói những chuyện bên ngoài này? Căn nguyên khiến họ nói những điều này là vì họ không lòng kính sợ Đức Chúa Trời chút nào. Họ không sợ Đức Chúa Trời. Sao họ có thể làm loạn và nói năng tùy tiện trước Đức Chúa Trời như thế? Đức Chúa Trời có tôn nghiêm! Nếu nhận thức được điều đó, họ có còn làm như thế không? Trong lòng con người không kính sợ Đức Chúa Trời. Họ tùy tiện nói Đức Chúa Trời thế này hay Đức Chúa Trời thế nọ vì động cơ cá nhân của họ, để đạt được mục đích riêng và khiến người khác coi trọng họ. Đây đơn giản là phán xét và báng bổ Đức Chúa Trời. Trong lòng những kẻ như thế không hề kính sợ Đức Chúa Trời. Họ đều là những kẻ chống đối và báng bổ Đức Chúa Trời, một lũ tà linh và ma quỷ. Có những người đã tin Đức Chúa Trời vài năm, nhưng sau khi bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ, họ biến thành Giu-đa, thậm chí theo con rồng lớn sắc đỏ mà báng bổ Đức Chúa Trời. Có người thì rao truyền phúc âm lại hùa theo người trong tôn giáo nói những lời phán xét công tác của Đức Chúa Trời và lên án Ngài. Họ biết nói như vậy là chống đối và báng bổ Đức Chúa Trời, nhưng vẫn không quan tâm. Bất kể động cơ của ngươi là gì, thì nói như vậy vẫn là không thích hợp. Ngươi không nói điều gì khác được ư? Tại sao phải nói những điều này? Đó chẳng phải là báng bổ Đức Chúa Trời sao? Nếu những lời đó thốt ra từ miệng ngươi, thì ngươi đang báng bổ Đức Chúa Trời đấy. Dù ngươi cố ý hay không, thì nói ra những điều này chính là không có lòng sùng kính. Trong lòng ngươi căn bản không có sự kính sợ với Đức Chúa Trời. Ngươi hùa theo người khác mà nói những lời báng bổ để làm họ vui và lấy lòng họ. Ngươi thật không biết sùng kính; ngươi là kẻ cùng phường với ma quỷ! Liệu Đức Chúa Trời có để ngươi tùy ý đùa cợt với Ngài, tùy ý phán xét, hạn định, và báng bổ Ngài như thế không? Đây là chuyện kinh khủng! Nếu ngươi nói gì đó sai trái và lỡ xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, thì ngươi tàn đời rồi. Đây là chuyện chết người đấy! Có người nghĩ: “Người trong tôn giáo bị các mục sư và trưởng lão mê hoặc, đa số bọn họ đã nói những lời báng bổ, phán xét Đức Chúa Trời và lên án công tác của Ngài. Một số người đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt và ăn năn. Vậy họ có được cứu rỗi không? Nếu họ đều bị Đức Chúa Trời ruồng bỏ thì sẽ có rất ít người được cứu rỗi; hầu như không ai được cứu rỗi”. Ngươi không hiểu rõ được chuyện này đúng không? Tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính và Ngài công chính với tất cả mọi người. Vào thời Nô-ê, chỉ có tám người được cứu, được cho lên thuyền lớn; số còn lại đều bị hủy diệt. Ngươi có dám nói Đức Chúa Trời bất công không? Nhân loại đã bị bại hoại nặng nề. Họ đều thuộc về Sa-tan; đều chống đối Đức Chúa Trời, đều hèn hạ và vô giá trị. Nếu không thể tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, thì họ sẽ bị hủy diệt như thường. Có thể có người tự nhủ: “Nếu không ai được Đức Chúa Trời cứu rỗi thì chẳng phải công tác của Ngài là vô nghĩa sao? Có vẻ nếu thiếu con người thì Đức Chúa Trời không thể cứu rỗi nhân loại. Nếu Đức Chúa Trời từ bỏ con người, thì sự quản lý của Ngài cũng sẽ biến mất”. Ngươi nhầm rồi. Kể cả không có con người, Đức Chúa Trời vẫn sẽ tiếp tục kế hoạch quản trị của Ngài y như vậy. Con người đã quá tự đề cao mình. Trong lòng con người không có sự kính sợ với Đức Chúa Trời, họ không hề sùng kính trước Đức Chúa Trời, và không hề có thái độ biết điều. Bởi con người sống dưới quyền lực của Sa-tan và thuộc về Sa-tan, nên họ có thể phán xét và báng bổ Đức Chúa Trời mọi nơi mọi lúc. Đây là chuyện kinh khủng, là sự xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời!

Trích đoạn 2

Những người tin Đức Chúa Trời cần phải nắm rõ một vài điều then chốt. Ít nhất, trong lòng họ phải biết tin Đức Chúa Trời là gì; tin Đức Chúa Trời thì nên hiểu những lẽ thật nào; nên thực hành thuận phục Đức Chúa Trời ra sao; khi thuận phục Đức Chúa Trời thì nên hiểu những lẽ thật và những lời nào của Ngài, nên sở hữu những thực tế nào để có thể đạt đến khiến Ngài hài lòng. Nếu có đức tin và quyết tâm như thế, thì dù có lúc nảy sinh quan niệm hay ý định nào đó, ngươi cũng sẽ dễ dàng buông bỏ. Những người không có đức tin như thế sẽ luôn kén chọn trong việc thuận phục, và đôi khi còn hay soi mói, tranh cãi, nuôi lòng oán giận, nói lời oán trách… đủ mọi loại hành vi phản nghịch này đều sẽ thỉnh thoảng xảy ra! Không chỉ là một hoặc hai trường hợp hy hữu, cũng không chỉ là ý nghĩ thoáng qua, mà đúng hơn là có thể nói ra những lời phản nghịch và làm những việc phản nghịch. Nó cho thấy tâm tính phản nghịch của con người đã vô cùng nghiêm trọng. Con người có tâm tính bại hoại, ngay cả khi họ có quyết tâm thuận phục Đức Chúa Trời, thì sự thuận phục của họ vẫn có giới hạn, chỉ mang tính tương đối, ngẫu nhiên, nhất thời và có điều kiện, chứ không tuyệt đối. Con người có tâm tính bại hoại nên sự phản nghịch của con người đặc biệt nghiêm trọng. Họ thừa nhận Đức Chúa Trời nhưng không thể thuận phục Ngài, họ sẵn lòng lắng nghe lời Ngài nhưng không thể thuận phục những lời đó. Họ biết Đức Chúa Trời tốt lành và muốn yêu kính Ngài, nhưng lại không yêu kính được. Họ không thể lắng nghe Đức Chúa Trời trong mọi sự, không thể để Ngài sắp đặt mọi sự. Họ vẫn có những lựa chọn của riêng mình, vẫn có những ý định và động cơ cá nhân, cũng như có những âm mưu, ý nghĩ và lề lối riêng. Có lề lối riêng và những cách làm riêng thì không có cách nào thuận phục Đức Chúa Trời, mà chỉ có thể làm theo ý mình và phản nghịch Đức Chúa Trời. Con người phản nghịch đến vậy đấy! Vì vậy, bản tính của con người không chỉ là những tâm tính bại hoại đơn giản như tự nên công chính, tự cao, kiêu ngạo, hoặc là thỉnh thoảng nói dối và lừa gạt Đức Chúa Trời ở bề ngoài; mà thực chất của con người đã trở thành thực chất của Sa-tan. Khi xưa, thiên sứ trưởng đã phản bội Đức Chúa Trời như thế nào? Và con người ngày nay thì sao? Thành thật mà nói, dù các ngươi có thể tiếp nhận hay không, con người ngày nay không chỉ triệt để phản bội Đức Chúa Trời như Sa-tan đã từng, mà còn trực tiếp đối địch với Đức Chúa Trời trong lòng, trong tư tưởng và ý thức hệ của họ. Đây là Sa-tan làm bại hoại loài người và biến họ thành ma quỷ; loài người đã thực sự trở thành hậu duệ của Sa-tan. Có thể các ngươi sẽ nói: “Chúng tôi không đối địch với Đức Chúa Trời. Ngài phán gì, chúng tôi đều nghe nấy”. Đó chỉ là bề ngoài; nhìn thì có vẻ như Đức Chúa Trời phán gì thì ngươi nghe nấy. Thực ra, khi Ta chính thức thông công và phán lời, hầu hết mọi người đều không có quan niệm, đều ngoan ngoãn và thuận phục. Nhưng khi Ta phán lời và làm việc trong nhân tính bình thường, hoặc sống và hoạt động trong nhân tính bình thường, thì họ lại nảy sinh quan niệm. Mặc dù trong lòng muốn dành chỗ cho Ta, nhưng lòng họ lại không chứa nổi Ta, và dù được thông công lẽ thật thế nào đi nữa thì họ cũng không thể buông bỏ những quan niệm của mình. Điều này cho thấy con người chỉ có thể thuận phục Đức Chúa Trời một cách tương đối, chứ không tuyệt đối. Ngươi biết Ngài là Đức Chúa Trời, ngươi biết Đức Chúa Trời nhập thể phải có nhân tính bình thường, vậy tại sao ngươi lại không thể tuyệt đối thuận phục Ngài? Đức Chúa Trời nhập thể là Đấng Christ, là Con Người; Ngài có cả thần tính và nhân tính bình thường. Bề ngoài, Ngài có nhân tính bình thường, nhưng thần tính của Ngài sống và công tác bên trong nhân tính bình thường đó. Hiện tại, Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt là Đấng Christ, Ngài có thần tính và nhân tính. Nhưng một số người chỉ có thể thuận phục lời phán và công tác thần tính của Ngài. Họ xem những lời thần tính và ngôn ngữ thâm sâu của Ngài là lời Đức Chúa Trời, nhưng lại xem nhẹ những lời phán và công tác của Ngài trong nhân tính bình thường. Có những người thậm chí còn nảy sinh ý nghĩ và quan niệm, tin rằng chỉ có ngôn ngữ thần tính của Ngài mới là lời của Đức Chúa Trời, còn ngôn ngữ nhân tính của Ngài thì không phải. Những người như vậy có thể tiếp nhận mọi lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ không? Họ có thể được Đức Chúa Trời làm tinh sạch và hoàn thiện không? Không thể, bởi những người này lĩnh hội một cách sai lầm và không có cách nào đạt được lẽ thật. Tóm lại, thế giới nội tâm của con người đặc biệt phức tạp, và những vấn đề phản nghịch này cũng đặc biệt phức tạp – không cần phải bàn sâu hơn về chuyện này. Con người có thể thuận phục thần tính của Đức Chúa Trời, nhưng không thể thuận phục các công tác và lời phán của nhân tính bình thường của Ngài, điều này cho thấy họ chưa thực sự thuận phục Đức Chúa Trời. Sự thuận phục của con người đối với Đức Chúa Trời luôn có điều kiện; họ lắng nghe những gì họ tin là đúng và hợp lý, chứ không sẵn lòng lắng nghe những gì họ nghĩ là sai và phi lý. Họ không thuận phục những điều mình không sẵn lòng lắng nghe hoặc những điều mình không làm được. Đó có phải là thuận phục đích thực không? Tuyệt đối không phải. Điều này cho thấy tâm tính của con người không tốt, tâm tính của họ đặc biệt tồi tệ và xấu xa – đây chính là điểm mấu chốt! Tức là, ngay cả khi con người có thuận phục Đức Chúa Trời một chút, thì đó vẫn luôn là sự thuận phục có chọn lọc và có điều kiện, chứ họ không bao giờ tuyệt đối thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu nói rằng một người biết nghe lời và thuận phục, thì đó chỉ là cách nói tương đối, bởi vì ngươi chưa động chạm đến lợi ích của họ, chưa thực sự tỉa sửa họ, chưa tỉa sửa họ đến mức tối tăm mặt mũi. Một khi ngươi thực sự tỉa sửa họ, họ sẽ tranh cãi với ngươi và mang vẻ mặt ủ rũ cả ngày. Ngươi hỏi họ câu nào họ cũng không trả lời, ngươi bảo họ làm gì họ cũng không sẵn lòng làm. Khi ngươi bảo họ làm việc gì đó mà họ không sẵn lòng làm, thì họ sẽ bắt đầu dằn mâm xắn chén và kiếm chuyện với ngươi. Tâm tính của con người có thể xấu xa đến mức đó! Ngươi biết Ngài là Đức Chúa Trời, vậy tại sao ngươi lại đối đãi với Ngài như vậy? Làm vậy đâu khác gì những người Pha-ri-si và Phao-lô xưa kia. Phao-lô có biết Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời không? Tại sao ông lại bức bách các môn đồ của Jêsus? Tại sao ông lại bắt bớ nhiều môn đồ của Jêsus đến vậy? Sau cùng, Jêsus thấy Phao-lô bức bách các môn đồ quá tàn nhẫn, nên trên đường đến Đa-mách, Ngài đã đánh ngã Phao-lô. Một vầng sáng bao phủ Phao-lô và ông ngã xuống đất. Sau khi ngã xuống, ông hỏi Đức Chúa Jêsus: “Lạy Chúa, Chúa là ai?”. Đức Chúa Jêsus nói: “Ta là Jêsus mà ngươi bắt bớ” (Công Vụ Các Sứ đồ 9:5). Từ đó trở đi, Phao-lô lành tính hơn rất nhiều. Nếu Jêsus không “soi sáng” và đánh ngã Phao-lô, thì ông đã không tiếp nhận Jêsus, chứ đừng nói đến việc rao giảng vì Ngài. Câu chuyện này chứng tỏ điều gì? Nó chứng tỏ bản tính con người xấu xa đến cùng cực.

Người ta thường nói: “Con người chúng ta đều có tâm tính bại hoại; không ai trong chúng ta có thể thỏa mãn Đức Chúa Trời” và “Con người tự nên công chính và rất tự cao. Họ luôn tin rằng mình tốt, mình hơn những người khác!”. Thực ra, đây là cách hiểu sơ sài nhất; đây chỉ là một phương diện nhỏ của tâm tính bại hoại. Tại sao ngươi không bàn luận về những ý niệm, ý định phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời trong bản tính của ngươi? Đức Chúa Trời bảo ngươi làm thế này, ngươi lại làm thế kia. Đức Chúa Trời công tác theo cách này, ngươi lại yêu cầu Ngài công tác theo cách khác. Đây chẳng phải là đang phân cao thấp với Đức Chúa Trời sao? Mọi người đều có loại tâm tính này; không ai có thể thoát khỏi nó. Có thể vài người sẽ nói: “Điều này không đúng với tôi, tôi đâu có biết!”. Đó là bởi vì ngươi chưa tiếp xúc với Đức Chúa Trời. Một khi ngươi tiếp xúc với Ngài, và sau một tuần từ từ tìm hiểu Ngài, thì đảm bảo ngươi sẽ thay đổi và bộc lộ con người thật của mình. Đây không phải là nói quá, cũng chẳng phải là đánh giá thấp ngươi. Ngày nay, con người không chỉ có tâm tính bại hoại; bản tính của họ cũng bại hoại mất rồi. Nhân tính bình thường của họ đã bại hoại đến mức tả tơi và không còn tồn tại; nghĩa là con người không còn nhân tính bình thường nữa. Đức Chúa Trời nhập thể có nhân tính bình thường, nhưng con người đều có tâm tính bại hoại, nhân tính bình thường cũng chẳng còn lại bao nhiêu, điều đó khiến họ không thể hòa hợp với Đức Chúa Trời. Họ chắc chắn sẽ có những bất đồng và tranh chấp với Đức Chúa Trời trong nhiều việc, thậm chí đối địch với Ngài. Nguyên nhân là do con người không có lòng kính sợ hay thuận phục Đức Chúa Trời. Cũng không thể yêu cầu con người rằng: “Vì ngươi thừa nhận Ngài là Đức Chúa Trời, nên bất kể Ngài nói gì đi nữa, ngươi đều phải thuận phục”, càng không thể đòi hỏi họ phải nhân nhượng Đức Chúa Trời trong mọi chuyện. Vấn đề không nằm ở việc nhân nhượng; con người là loài thọ tạo, và suy cho cùng, Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời và con người là con người – ở giữa phải có ranh giới. Như trong Thời đại Luật pháp, tôi tớ của Áp-ra-ham đã cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời như thế nào? “Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi ơi!” (Sách sáng thế 24:12). Ông đã phân biệt thứ bậc rất rõ ràng, trong khi con người ngày nay lại tin rằng: “Đức Chúa Trời không quá khác biệt với chúng ta. Ngài cũng có nhân tính bình thường, có những nhu cầu, có đầy đủ hỷ nộ ai lạc, có cuộc sống và những hoạt động của nhân tính bình thường. Mặc dù Ngài thực hiện công tác thần tính, nhưng nhân tính bình thường của Ngài là không thể thiếu!”. Ngay khi con người có ý tưởng sơ bộ về “nhân tính bình thường” bên trong mình, họ sẽ có xu hướng xem công tác, lời phán và tâm tính của Đức Chúa Trời như nhân tính bình thường của con người, phủ nhận thực chất thần tính của Ngài. Như thế là phạm phải một sai lầm nghiêm trọng; nó khiến chúng ta không có cách nào nhận thức Đức Chúa Trời, có phải vậy không? Các ngươi chưa tiếp xúc với Đức Chúa Trời; ai trong số các ngươi dám nói: “Nếu được tiếp xúc với Đức Chúa Trời trong một năm, tôi đảm bảo mình sẽ không hề phản nghịch”? Không ai có thể chắc chắn đến vậy. Hầu hết mọi người đều đã tin Đức Chúa Trời hơn 10 hoặc 20 năm, tuy nhiên không ai có thể đạt đến thực sự thuận phục Ngài. Điều này đủ để cho thấy con người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc, và tâm tính của Sa-tan đã thâm căn cố đế trong lòng người; có những thứ bại hoại mà ngươi thậm chí không thể tự mình khai quật ra được. Ta đã phán rất nhiều lời, bày tỏ rất nhiều lẽ thật, nhưng hiếm có người nào thực sự hiểu được lẽ thật. Con người hiện tại chấp mê bất ngộ; họ tê dại và đờ đẫn đến một mức độ nào đó. Họ không phải chỉ là ngu muội một chút, mà là bản tính phản nghịch của họ đã thành hình rồi, nhưng các ngươi vẫn chưa nhìn thấu điều này.

Có những người tiếp xúc với Đấng Christ được một hoặc hai ngày, thấy Ngài xa lạ và có cảm giác hơi dè dặt: “Đây là Đức Chúa Trời!”. Trong lòng họ có ý niệm này, nhưng sau 10 ngày hoặc nửa tháng tiếp xúc với Ngài, dần dần họ trở nên quen thuộc và ngày càng gần gũi với Ngài, trong lòng họ bắt đầu phóng túng, cũng không còn phân biệt địa vị giữa họ và Ngài. Dường như hoàn toàn bình đẳng, không có bất kỳ thứ bậc nào; họ nghĩ Đức Chúa Trời chia sẻ cuộc sống và niềm vui với họ là điều hợp lý. Đôi khi Ta tự hỏi, tại sao con người lại như thế? Nếu Ta luôn tỉa sửa và giáo huấn họ, chắc chắn họ sẽ ngoan ngoãn và phục tùng. Có lúc khi Ta trò chuyện một cách bình đẳng, họ nghĩ: “Hừm, nhìn xem, Đức Chúa Trời đối xử với mình thật tốt!”. Việc Ta đối xử tốt với ngươi không chứng tỏ rằng ngươi không có tâm tính phản nghịch, cũng không chứng tỏ rằng thực chất bản tính của ngươi là tốt. Chẳng phải vậy sao? Với một số người, khi Ta đối xử với họ tốt hơn chút và mỉm cười nhẹ với họ, thì họ không còn biết trời cao đất dày là gì, quên mất mình đến từ đâu, thân phận và thực chất của mình là gì – họ quên tất cả những điều này. Bản tính của con người là xấu xa đến cùng cực; họ không hề có chút lý trí nào! Có người nghĩ rằng mình là người tốt, vậy hãy thử tiếp xúc với Đức Chúa Trời trong một khoảng thời gian, xem tất cả sự phản nghịch và chống đối bên trong ngươi bị phơi bày ra sao. Tiếp xúc với Đức Chúa Trời một thời gian — Ta sẽ không nhắc nhở, quở trách hay tỉa sửa ngươi, cũng sẽ không có ai thông công với ngươi; cho ngươi tự mình trải nghiệm, để xem ngươi có thể trải nghiệm đến mức độ nào. Nếu không đạt được lẽ thật, ngươi chắc chắn sẽ thất bại thảm hại, hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi. Tâm tính phản nghịch của con người quá nghiêm trọng; trong lòng không có chỗ cho người khác! Tâm tính phản nghịch, bản tính Sa-tan và tâm thái kiêu ngạo của ngươi không có chỗ cho người khác. Sau khi tiếp xúc với Ta một thời gian, một số người có thể sẽ nảy sinh những ý niệm sai lầm; nếu những ý niệm này không được giải quyết, một khi chúng biến thành quan niệm hoặc sự xét đoán, thì những người này sẽ rơi vào nguy hiểm. Có người nói: “Đó là bởi vì Ngài quá phổ thông và bình thường. Lúc tin Đức Chúa Jêsus thì tôi đâu có như vậy”. Khi ngươi tin vào Đức Chúa Jêsus thì cũng vậy thôi. Nếu đặt các ngươi vào thời đại của Jêsus, thì các ngươi cũng sẽ chẳng làm tốt hơn những người Pha-ri-si, trong lòng của các ngươi sẽ chứa đầy quan niệm. Đừng nghĩ rằng các ngươi sẽ tốt hơn Giu-đa. Hắn có thể phản bội Đức Chúa Trời và ăn trộm tiền của Ngài để tiêu; ngươi có thể không bán đứng Ngài hay tiêu tiền của hội thánh một cách phung phí, nhưng ngươi cũng không thuận phục Chúa, và chắc chắn trong ngươi chứa đầy quan niệm, sự phản nghịch và chống đối. Lời và công tác của Đức Chúa Jêsus là sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời. Tại sao Giu-đa có thể chống đối Đức Chúa Trời? Bản tính của hắn quá xấu xa; trong lòng hắn không có chỗ cho Đấng Christ và hắn khăng khăng đối địch với Ngài. Chẳng phải ngày xưa Phi-e-rơ cũng chịu nhiều đau khổ sao? Sau cùng, vì lúc đó nhân tính của ông tương đối tốt hơn những người khác một chút, và ông có thể mưu cầu yêu kính Đức Chúa Trời, nên cuối cùng ông đã được hoàn thiện. Lúc đó, ông cũng có vài quan niệm và ý kiến về Jêsus, nhưng vì có thể mưu cầu yêu kính Chúa, nên sau cùng ông đã có được chút nhận thức về Đức Chúa Jêsus. Vì thế, đừng khoác lác; đừng cam đoan rằng ngươi có thể thành công và đạt được điểm số tuyệt đối trong chuyện mà ngươi chưa từng trải nghiệm, như vậy là không đúng và không thực tế. Ngươi phải trải nghiệm chuyện đó trước, thì nhận thức và kiến giải mà ngươi chia sẻ mới có tính thực tế. Đừng nói rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, hãy đến nhà con, con hứa sẽ không làm Ngài tức giận như những kẻ khác. Con hứa sẽ không vô nhân tính như những kẻ khác”. Chưa chắc đâu, bởi vì những thứ của nhân tính bình thường bên trong con người đã bị phá hoại; nhân tính bình thường của họ đã không còn, lương tâm và lý trí của họ cũng vậy – lẽ thường của nhân tính bình thường, ăn nói đơn thuần và trung thực, khả năng nghe lời và thuận phục, tất cả những điều tích cực này đã không còn trong con người nữa. Thế nên, các nguyên tắc sinh hoạt và mục tiêu cuộc đời của con người đều đã thay đổi; họ đều tuân theo triết lý Sa-tan và bị bản tính của Sa-tan chi phối. Miệng lưỡi họ gian manh và giả dối, gió chiều nào ngả theo chiều đó, và họ giỏi nói những lời thuận tai – họ tin rằng sống như vậy là quá tốt. Tại sao nói rằng con người bị làm cho bại hoại sâu sắc? Bị làm cho bại hoại sâu sắc như vậy, con người còn có chút nhân tính bình thường nào không? Ngươi cho rằng mình có tâm tính bại hoại, cho rằng mình chỉ hơi cuồng vọng, tự nên công chính và kiêu ngạo, hơi giả dối trong lời nói hoặc hơi qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận – chỉ vậy thôi. Nhưng nhận thức như thế là quá nông cạn; chỉ mới nhìn thấy bề nổi. Quan trọng là bản tính con người rất tà ác, mọi người đều tôn sùng tà ác, phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời, nhân tính bình thường của họ đã biến mất, không còn tồn tại nữa, chẳng phải thế sao? Vậy con người nên làm gì để đạt đến phù hợp với tiêu chuẩn của một loài thọ tạo? Quan trọng là tìm ra con đường thực hành và phương pháp thực hành phù hợp từ lời Đức Chúa Trời. Các ngươi đều biết rằng, trong nhân loại không có người nào quá tốt đẹp, vậy hiện tại, sao lại nói rằng một số người có nhân tính trong khi những người khác thì không? Những người có nhân tính có thể thực sự thực hành những lẽ thật này không? Họ cũng không thể đưa chúng vào thực hành; nói một cách tương đối thì tâm địa họ lương thiện và hiền hòa hơn một chút, có trách nhiệm hơn một chút đối với công tác – nhưng những điều này chỉ là tương đối, không phải tuyệt đối. Nếu ngươi đánh giá ai đó và nói rằng người này tuyệt đối tốt đẹp, không hề có chút lỗi lầm hay phản nghịch nào, rằng họ hoàn toàn nghe lời và thuận phục, không hề qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận của mình, thì chẳng phải là quá khoa trương rồi sao? Nói vậy có đúng với sự thật không? Thực sự có người như vậy sao? Cách lĩnh hội đó của ngươi là lệch lạc rồi. Nhưng nếu các ngươi cho rằng: “Con người chúng ta tiêu đời rồi. Không ai trong chúng ta là người tốt cả, vậy thì tin Đức Chúa Trời có ích gì? Mình sẽ không tin nữa và chờ chết thôi!”. Nghĩ vậy cũng thật lố bịch. Các ngươi luôn suy nghĩ cực đoan, như thể không hiểu được tiếng người; các ngươi không ngả sang phải thì ngả sang trái. Nếu Ta phán nhẹ nhàng và hiền hòa hơn, thì các ngươi sẽ không biết mình, còn nếu Ta phán quá nặng nề và gay gắt thì các ngươi lại ủ rũ, bắt đầu tiêu cực và thậm chí cam tâm sa đọa. Có những người khi nghe thấy lời phán xét và lên án của Đức Chúa Trời thì liền sụp đổ và tin rằng mình tiêu đời rồi, không còn hy vọng được cứu rỗi. Đây chính xác là những người khó cứu nhất, vì họ không hiểu nổi tiếng người! Hiện tại, Đức Chúa Trời phán lời và vạch rõ con người để họ nhận thức được căn nguyên bản tính bại hoại của mình, và hiểu tại sao con người có thể phản nghịch Đức Chúa Trời. Vạch rõ những điều này thì có lợi cho con người. Nếu chúng không được vạch rõ, ngươi sẽ tin đến cùng mà không bao giờ biết mình, luôn cho rằng thiên sứ trưởng cuồng vọng, hoặc nói rằng người này kiêu ngạo, người kia phản nghịch. Còn bản thân ngươi thì sao? Cũng có người luôn nói: “Quả thực chúng ta phản nghịch Đức Chúa Trời”, nhưng vẫn không biết sự phản nghịch của mình đến từ đâu, không nhìn thấu hay nhận thức được thực chất của những tình trạng đó. Điều này có nghĩa là họ không có cách nào thay đổi và không có cách nào được cứu rỗi. Các ngươi có lĩnh hội được những lời này không? (Thưa, có thể.)

Có hai phương diện chính trong những gì mà Ta vừa thông công. Một là, khi tin Đức Chúa Trời, người ta nên đạt đến thực sự thuận phục, hoàn toàn đạt đến tiêu chuẩn của một loài thọ tạo. Hai là, việc vạch rõ sự phản nghịch bên trong con người và vạch rõ bản tính của họ sẽ khiến họ biết mình. Nếu họ không được vạch rõ và được khiến cho biết mình, thì ai cũng sẽ nói mình tốt đẹp và hơn những người khác. Ví dụ, có người nói: “Tôi cũng vô cùng bại hoại”, nhưng khi tiếp xúc với người khác một thời gian thì họ tin rằng mình vẫn tốt hơn những người khác. Họ nghĩ: “Tôi chẳng ra gì; nhưng tôi thấy anh cũng chẳng ra gì, thậm chí còn tệ hơn tôi!”. Đừng nghĩ rằng ngươi hơn những người khác. Ngươi không hơn người khác chút nào cả; bản tính phản nghịch của con người đều giống nhau. Mọi thứ đã rõ ràng chưa? Bây giờ, khi đã thông công xong những điều này, các ngươi nghĩ sao? Có phải các ngươi đang nghĩ: “Mình đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, những tưởng bản thân thuận phục Đức Chúa Trời. Hôm nay, nghe Đức Chúa Trời thông công xong, mình mới nhận ra bản thân chưa thực sự thuận phục Ngài, và vẫn chưa xem Ngài là Đức Chúa Trời. Mình thậm chí không thể thuận phục Ngài – mình thực sự không hề có lý trí, mình quá hồ đồ trong đức tin!”. Nếu thực sự có được nhận thức đó, thì ngươi vẫn còn hy vọng đi đúng hướng trong đức tin vào Đức Chúa Trời và trở thành người thuận phục Ngài; chỉ khi đó ngươi mới có thể đạt được sự cứu rỗi.

Trích đoạn 3

Rất nhiều người tin Đức Chúa Trời mà không chú trọng đến việc thay đổi tâm tính sự sống mà chỉ chú trọng và quan tâm đến thái độ của Đức Chúa Trời đối với họ và việc trong lòng Đức Chúa Trời có họ hay không. Họ lúc nào cũng cố đoán xem mình là người như thế nào trong mắt Đức Chúa Trời và liệu mình có chỗ đứng trong lòng Ngài hay không. Rất nhiều người có kiểu suy nghĩ này, và nếu có gặp mặt Đức Chúa Trời thì họ sẽ luôn quan sát xem Ngài vui vẻ hay bực bội khi nói chuyện với họ. Rồi lại có những người luôn thăm dò từ người khác: “Đức Chúa Trời đã nhắc đến khó khăn của tôi chưa? Rốt cuộc Ngài nghĩ gì về tôi? Ngài có quan tâm đến tôi không?”. Có người còn gặp vấn đề nghiêm trọng hơn – chỉ cần Đức Chúa Trời liếc nhìn họ là họ cảm thấy như thể đã phát hiện ra vấn đề mới: “Ôi không, Đức Chúa Trời vừa liếc nhìn tôi, ánh mắt Ngài có vẻ không hài lòng lắm, đây không phải là dấu hiệu tốt”. Con người đặc biệt chú trọng những điều như vậy. Có người nói: “Đức Chúa Trời mà ta tin là Đức Chúa Trời nhập thể nên nếu Ngài không thèm để ý đến ta thì đó chẳng phải là dấu chấm hết cho ta hay sao?”. Khi nói vậy, ý họ là: “Nếu trong lòng Đức Chúa Trời không có ta thì tại sao ta phải mất công tin vào Ngài? Đừng tin nữa!”. Như vậy chẳng phải không có lý trí sao? Ngươi có biết tại sao con người nên tin vào Đức Chúa Trời không? Con người không bao giờ ngẫm nghĩ xem trong lòng họ có Đức Chúa Trời hay không, nhưng lại muốn trong lòng Đức Chúa Trời có họ. Họ mới kiêu căng tự đại làm sao! Đây là phần thiếu lý trí nhất trong họ. Thậm chí có người thiếu lý trí đến mức khi Đức Chúa Trời hỏi thăm về người khác mà không nhắc đến tên họ, hoặc quan tâm, chăm sóc người khác mà không quan tâm, chăm sóc họ, thì họ thấy không bằng lòng rồi bắt đầu than oán và oán trách Đức Chúa Trời, nói rằng Ngài không công chính, thậm chí còn không công bằng, không hợp lý. Đây là vấn đề thuộc về lý trí của họ, thần kinh của họ cũng có đôi chút bất thường. Trong hoàn cảnh bình thường, con người luôn nói sẽ vâng phục sự an bài và sắp đặt của Đức Chúa Trời, bất kể Đức Chúa Trời đối xử với họ như thế nào, họ cũng sẽ không oán trách, và Đức Chúa Trời xử lý và tỉa sửa, hoặc phán xét và hành phạt họ thế nào cũng được, thế nhưng khi gặp những chuyện như vậy trong thực tế họ lại không tiếp nhận. Con người có lý trí không? Con người tự đánh giá bản thân quá cao và tin rằng mình quan trọng đến mức, chưa bàn đến chuyện xử lý và tỉa sửa, chỉ cần nhận thấy ánh mắt Đức Chúa Trời nhìn mình không ổn lắm là họ đã cảm thấy mình không còn hy vọng đạt được sự cứu rỗi rồi. Hoặc nếu Đức Chúa Trời nói với họ bằng giọng nghiêm khắc hơn và làm họ đau lòng thì họ trở nên tiêu cực và bắt đầu nghĩ rằng tin vào Đức Chúa Trời là vô nghĩa. Họ nghĩ: “Đức Chúa Trời phớt lờ tôi thì sao tôi tiếp tục tin vào Ngài được?”. Có người không phân biệt được kiểu người này và nghĩ rằng: “Hãy xem niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời mới chân thật làm sao. Đức Chúa Trời quan trọng với họ đến nhường nào. Đức Chúa Trời nhìn họ một cái là họ có thể xem xét ra được là ý gì. Họ vô cùng trung thành với Đức Chúa Trời – họ thực sự coi Đức Chúa Trời dưới đất như Đức Chúa Trời trên trời”. Có phải là như vậy không? Những người này quá hồ đồ, chuyện gì cũng không nhìn thấu được; vóc giạc của họ quá nhỏ bé và họ thực sự tỏ lộ đủ mọi thứ xấu xí. Con người thiếu lý trí đến vậy đấy – họ có quá nhiều yêu cầu dành cho Đức Chúa Trời và đòi hỏi ở Ngài quá nhiều, không hề có chút lý trí nào. Con người luôn yêu cầu Đức Chúa Trời làm cái này cái kia nhưng lại không thể hoàn toàn vâng phục hay thờ phượng Ngài. Thay vào đó, họ đặt ra cho Đức Chúa Trời những yêu cầu vô lý theo sở thích cá nhân, đòi hỏi Ngài phải hết mực độ lượng, không bao giờ nổi giận vì bất cứ điều gì, và mỗi khi gặp con người, Ngài phải luôn mỉm cười và trò chuyện với họ, chu cấp và thông công về lẽ thật cho họ. Họ còn yêu cầu Ngài phải luôn kiên nhẫn và giữ nét mặt dịu dàng với họ. Con người có quá nhiều yêu cầu; họ quá nhiều chuyện! Các ngươi nên kiểm xét về những vấn đề này. Con người quá thiếu lý trí, đúng không? Họ không những không thể hoàn toàn vâng phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, không thể tiếp nhận mọi điều từ Đức Chúa Trời, mà ngược lại còn áp đặt thêm yêu cầu lên Đức Chúa Trời. Những con người với đòi hỏi như vậy sao có thể trung thành với Đức Chúa Trời? Làm sao họ vâng phục được sự an bài của Đức Chúa Trời? Làm sao họ yêu kính được Đức Chúa Trời? Con người ai cũng đặt ra yêu cầu về việc Đức Chúa Trời nên yêu thương họ, khoan dung với họ, chiếu cố và bảo vệ họ, quan tâm và chăm sóc họ như thế nào, nhưng không ai trong số họ đặt ra bất cứ yêu cầu nào cho chính bản thân về việc họ nên yêu kính Đức Chúa Trời, nghĩ về Ngài, quan tâm đến Ngài, làm Ngài hài lòng, giữ Ngài trong lòng và thờ phượng Ngài như thế nào. Những điều này có tồn tại trong lòng người không? Đây là những điều mà con người nên đạt đến, vậy tại sao họ không để tâm mưu cầu chúng? Có người hăng hái được một thời gian, phần nào buông bỏ được nhiều điều và dâng hiến bản thân, nhưng lại không kéo dài được lâu; gặp một chút trở ngại là có thể khiến họ trở nên nản lòng, thất vọng và oán trách. Con người gặp quá nhiều khó khăn, người mưu cầu lẽ thật, tìm cách yêu kính và làm hài lòng Đức Chúa Trời thì lại quá ít. Con người hoàn toàn thiếu lý trí, họ đứng sai vị trí và coi bản thân mình là cực kỳ quý giá. Lại có những người nói: “Đức Chúa Trời xem chúng ta như con ngươi trong mắt Ngài. Ngài không ngần ngại để Con trai duy nhất của Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá để cứu chuộc loài người. Đức Chúa Trời đã trả giá đắt để chuộc lại chúng ta – chúng ta vô cùng quý giá và ai cũng có chỗ trong lòng Đức Chúa Trời. Chúng ta là một nhóm người đặc biệt và có địa vị cao hơn những người ngoại đạo – chúng ta là cư dân của thiên quốc”. Họ nghĩ rằng bản thân rất cao quý và vĩ đại. Trước đây, nhiều lãnh đạo cũng có tâm thái này, sau khi được đề bạt thì cảm thấy họ có địa vị, có thân phận trong nhà Đức Chúa Trời rồi. Họ nghĩ: “Đức Chúa Trời coi trọng và nghĩ tốt về mình, Ngài đã cho phép mình làm lãnh đạo. Mình phải cố gắng hết sức chạy ngược chạy xuôi làm việc cho Ngài”. Họ cực kỳ hài lòng về bản thân mình. Tuy nhiên, một thời gian sau, họ làm việc xấu và phơi bày bản chất thật của mình, sau đó bị cách chức, rồi trở nên chán nản và cúi gằm mặt. Khi hành vi không đẹp của họ bị phơi bày và xử lý, họ càng trở nên tiêu cực hơn và không tiếp tục tin nữa. Họ thầm nghĩ: “Đức Chúa Trời quá vô tâm trước cảm xúc của mình, Ngài không hề quan tâm đến việc chừa lại chút thể diện cho mình. Người ta nói Đức Chúa Trời cảm thông với sự yếu đuối của con người, vậy tại sao mình lại bị loại bỏ chỉ sau vài vi phạm nhỏ?”. Sau đó họ nản lòng và muốn từ bỏ đức tin. Những người như vậy có đức tin thật vào Đức Chúa Trời không? Nếu họ còn không thể chấp nhận việc bị xử lý và tỉa sửa thì vóc giạc của họ quá nhỏ bé, không chắc về sau họ có thể chấp nhận lẽ thật hay không. Những người như vậy đang gặp nguy hiểm.

Con người không yêu cầu cao ở bản thân, nhưng lại yêu cầu cao ở Đức Chúa Trời. Họ yêu cầu Ngài phải đặc biệt ân đãi họ, phải kiên nhẫn và bao dung với họ, yêu thương, chu cấp cho họ, và mỉm cười với họ, nhẫn nhịn họ, thông cảm cho họ và chăm sóc họ về nhiều mặt. Họ yêu cầu Ngài không chút nghiêm khắc với họ hoặc không làm bất cứ điều gì khiến họ buồn dù chỉ một chút, và họ chỉ hài lòng nếu Ngài tâng bốc họ mỗi ngày. Con người thiếu lý trí đến vậy đấy! Họ không rõ nên làm gì, nên đạt được gì, nên có quan điểm thế nào, nên đứng ở vị trí nào để phụng sự Đức Chúa Trời và nên đặt mình vào vị trí nào cho phù hợp. Những người có chút địa vị đánh giá bản thân rất cao, những người không có địa vị cũng đánh giá bản thân khá cao. Con người không bao giờ biết mình. Tin Đức Chúa Trời thì ngươi phải đạt đến cảnh giới bất kể Ngài nói với ngươi thế nào, nghiêm khắc với ngươi ra sao, phớt lờ ngươi đến mức nào, ngươi vẫn có thể tiếp tục tin mà không oán trách và tiếp tục thực hiện bổn phận như bình thường. Khi đó ngươi sẽ là người trưởng thành và từng trải, sẽ thực sự có một chút vóc giạc và một chút lý trí của người bình thường. Ngươi sẽ không đòi hỏi ở Đức Chúa Trời, không còn những dục vọng quá đáng và không đặt ra cho người khác hay Đức Chúa Trời những yêu cầu theo sở thích của mình nữa. Như thế thì ngươi sẽ có chút hình tượng giống con người. Hiện tại, các ngươi có quá nhiều yêu cầu, những yêu cầu này vô cùng quá quắt, và các ngươi có quá nhiều ý định của con người. Điều này chứng tỏ ngươi đang đứng không đúng vị trí; ngươi đang đứng ở vị trí quá cao, ngươi cho là bản thân quá đáng kính – như thể vị trí của ngươi không thấp hơn Đức Chúa Trời là bao. Người như thế thì khó xử lý lắm, đây chính là bản tính của Sa-tan. Nếu tình trạng như vậy tồn tại trong ngươi, chắc chắn ngươi sẽ suy nghĩ tiêu cực thường xuyên hơn và ít khi bình thường hơn, nên tiến triển sự sống của ngươi sẽ bị chậm. Ngược lại, những người có tâm hồn đơn sơ và không nhiều chuyện sẽ dễ dàng chấp nhận lẽ thật và có tiến triển nhanh hơn. Những người có tâm hồn đơn sơ không phải chịu nhiều đau khổ như thế, nhưng ngươi lại nặng tình cảm, quá nhiều chuyện và luôn đòi hỏi ở Đức Chúa Trời nên mới gặp trở ngại lớn khi tiếp nhận lẽ thật và có tiến triển sự sống chậm. Có những người bất kể bị công kích và bài xích thế nào cũng không thay đổi điều họ mưu cầu, và họ không hề bị ảnh hưởng dù chỉ một chút. Đó là những người rộng lượng, nên họ phải chịu ít khổ nạn và trong lối vào sự sống, họ gặp ít trở ngại hơn một chút. Ngươi nhiều chuyện và luôn bị ảnh hưởng bởi điều này điều khác – ai nhìn ngươi bằng ánh mắt không ổn, ai coi thường ngươi, ai phớt lờ ngươi, hay Đức Chúa Trời đã nói gì khiến ngươi kích động, Ngài đã nói những lời khắt khe nào làm ngươi đau lòng và tổn thương lòng tự tôn, hay Ngài đã ban điều tốt đẹp nào cho người khác mà không ban cho ngươi – rồi ngươi trở nên tiêu cực và thậm chí còn hiểu lầm Đức Chúa Trời. Đó là những người nhiều chuyện và có phần không chịu nghe lý lẽ. Bất kể người khác thông công lẽ thật với họ thế nào, họ cũng không tiếp nhận và vấn đề của họ sẽ không được giải quyết. Những người này là khó xử lý nhất.

Ta thường nghe các ngươi thông công như thế này: “Con vấp ngã khi đang thực hiện công chuyện và về sau, khi đã trải qua một chút đau khổ, con đã đạt được một chút hiểu biết”. Con người đa phần đều có kiểu trải nghiệm này – trải nghiệm này rất hời hợt. Có thể đạt được chút hiểu biết này sau nhiều năm trải nghiệm, và con người có thể đã phải trải qua rất nhiều khổ nạn và phải đương đầu với sóng gió chỉ để đạt được chút hiểu biết và biến đổi nhỏ này. Thật đáng thương làm sao! Có quá nhiều sự uế tạp trong đức tin của con người, họ phải rất chật vật mới có thể tin vào Đức Chúa Trời! Đến nay, vẫn còn rất nhiều sự uế tạp trong mỗi con người, và họ vẫn đòi hỏi nhiều ở Đức Chúa Trời – tất cả những điều này đều là sự uế tạp của con người. Có sự uế tạp như vậy là bằng chứng cho thấy nhân tính của họ có vấn đề, và đó là sự bộc lộ tâm tính bại hoại của họ. Giữa những yêu cầu chính đáng và không chính đáng mà con người đặt ra cho Đức Chúa Trời có sự khác biệt – điều này phải được phân biệt rõ ràng. Người ta phải rõ ràng về việc con người nên đứng ở vị trí nào và có lý trí như thế nào. Ta nhận thấy có những người lúc nào cũng chú ý đến nét mặt của ta với con người và luôn nghiên cứu xem Đức Chúa Trời đối xử tốt và tệ với ai. Nếu họ thấy Đức Chúa Trời nhìn mình với nét mặt không ổn, hoặc nghe Ngài vạch trần, kết tội mình thì họ sẽ không thể cho qua – bất kể ngươi thông công với họ thế nào cũng không có tác dụng, và dù cho bao nhiêu thời gian trôi qua đi chăng nữa thì họ cũng không thể gượng dậy. Họ tự quy kết mình, bám víu vào một lời nói thoáng qua và dùng nó để quy kết thái độ của Đức Chúa Trời đối với mình. Họ chìm trong tiêu cực, dù ai thông công lẽ thật thế nào, họ cũng không sẵn lòng tiếp nhận. Đây chính là không biết lý lẽ. Có thể thấy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, con người không có chút nhận thức nào, căn bản là không hiểu gì. Chừng nào con người còn có thể ăn năn và biến đổi thì thái độ của Đức Chúa Trời đối với họ cũng sẽ thay đổi. Nếu thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời không thay đổi thì liệu thái độ của Đức Chúa Trời đối với ngươi có thay đổi được không? Nếu ngươi thay đổi thì cách Đức Chúa Trời đối xử với ngươi sẽ thay đổi, nhưng nếu ngươi không thay đổi thì cách Đức Chúa Trời đối xử với ngươi cũng sẽ không thay đổi. Có những người đến bây giờ vẫn không biết Đức Chúa Trời căm ghét điều gì, thích điều gì, không biết hỷ nộ ai lạc của Ngài, sự toàn năng và khôn ngoan của Ngài, họ thậm chí còn không thể nói về một vài chuyện cảm tính – đây chính là điều khiến con người khó xử lý đến thế. Những lời khuyên bảo tận tình của Đức Chúa Trời, con người chẳng ghi nhớ gì, nhưng nếu Ngài chỉ nói một câu nghiêm khắc hay nói một câu xử lý, tỉa sửa, phán xét thì lòng họ đau đớn. Vì sao con người không chú trọng những lời hướng dẫn tích cực, trong khi lại trở nên buồn bã, tiêu cực và không thể phục hồi khi nghe những lời phán xét, tỉa sửa và xử lý? Cuối cùng, có thể phải mất một thời gian dài suy ngẫm họ mới gượng dậy được, và họ sẽ chỉ tỉnh ngộ sau khi kết hợp điều này với vài lời an ủi của Đức Chúa Trời. Nếu không có những lời an ủi này, họ sẽ không thể thoát khỏi sự tiêu cực của mình. Khi mới bắt đầu trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, con người có rất nhiều nhận thức sai lầm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Họ luôn tin rằng mình đúng, lúc nào cũng bảo thủ và không tiếp nhận những điều người khác nói. Chỉ khi đã có từ ba đến năm năm trải nghiệm, họ mới dần bắt đầu hiểu, nhìn thấu, nhận ra rằng họ đã sai, và cảm nhận được để xử lý họ khó như thế nào. Có vẻ đến lúc đó họ mới trưởng thành. Khi có nhiều trải nghiệm hơn thì họ bắt đầu hiểu Đức Chúa Trời, những hiểu lầm của họ về Đức Chúa Trời giảm bớt, họ không còn oán trách và bắt đầu có đức tin bình thường vào Đức Chúa Trời. So với trước đây, vóc giạc của họ giống của người trưởng thành hơn. Trước đây, họ giống như trẻ con – hay hờn dỗi, trở nên tiêu cực và xa lánh Đức Chúa Trời nào đó, oán trách khi phải đối mặt với một số vấn đề nào đó, nảy sinh quan niệm khi nghe vài lời nào đó của Đức Chúa Trời, bắt đầu nghi ngờ Đức Chúa Trời tại thời điểm nào đó – khi vóc giạc của người ta quá nhỏ bé thì chuyện sẽ thành như thế đấy. Giờ đây khi đã có rất nhiều trải nghiệm và đã đọc lời của Đức Chúa Trời trong vài năm thì họ đã có tiến triển và trở nên ổn định hơn nhiều so với trước kia. Tất cả đều là kết quả của việc hiểu lẽ thật – chính lẽ thật đã phát huy tác dụng trong họ. Bởi vậy, chỉ cần con người hiểu và tiếp nhận lẽ thật thì không có khó khăn nào họ không giải quyết được và bất kể họ trải nghiệm trong bao lâu, họ sẽ luôn thu hoạch được điều gì đó. Tất nhiên là nếu họ không trải nghiệm đủ lâu thì sẽ không được, nhưng chỉ cần có thu hoạch từ mỗi trải nghiệm của mình thì họ sẽ nhanh chóng trưởng thành trong sự sống.

Việc các ngươi hiện đang được bồi dưỡng để trở thành lãnh đạo, chấp sự hoặc người giám sát, hoặc để thực hiện các bổn phận quan trọng, không chứng tỏ rằng các ngươi có vóc giạc lớn hơn. Các ngươi chỉ có tố chất hơn người bình thường một chút, mưu cầu nghiêm túc hơn người khác một chút và có giá trị bồi dưỡng các ngươi hơn một chút. Chứ nó không có nghĩa là các ngươi có thể vâng phục Đức Chúa Trời hoặc để tuân theo sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, cũng không có nghĩa là các ngươi đã buông bỏ tiền đồ và hy vọng của mình. Con người chưa có thứ lý trí này. Khi công tác, các ngươi vẫn có ít nhiều tiêu cực, chưa gạt bỏ ý định và khát khao được ban phước, thậm chí còn cả quan niệm và tưởng tượng của con người. Đồng thời, khi công tác, các ngươi mang một chút mặc cảm, như thể ngươi đang lập công chuộc tội chứ không phải cam tâm tình nguyện công tác. Các ngươi cũng chưa đạt đến mức độ bất kể Đức Chúa Trời đối xử với mình thế nào thì ngươi cũng chỉ quan tâm đến việc hành động phù hợp với ý muốn và yêu cầu của Ngài. Các ngươi có thể đạt được điều này không? Con người không có lý trí này. Ai cũng muốn đọc vị Đức Chúa Trời, họ nghĩ rằng: “Thái độ của Đức Chúa Trời đối với mình chính xác là gì? Ngài đang dùng mình để dâng sự phục vụ hay đang cứu rỗi và hoàn thiện mình?”. Ai cũng muốn đọc vị theo cách này, họ chỉ không dám nói ra mà thôi. Việc họ không dám nói ra chứng tỏ vẫn còn một thứ chi phối họ: “Nói về chuyện đó cũng chẳng có nghĩa lý gì – bản tính của tôi là thế, không thay đổi được đâu. Miễn tôi không làm điều gì xấu là được rồi – tôi không đòi hỏi quá nhiều ở bản thân”. Họ tự hạn chế mình ở vị trí thấp nhất có thể rồi rốt cuộc chẳng hề có tiến triển, trong khi lại mang lối suy nghĩ qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận. Chỉ khi đã được thông công vài lần thì các ngươi mới bắt đầu hiểu một chút lẽ thật và biết một chút thực tế lẽ thật. Dùng ngươi hay không dùng ngươi, thái độ của Đức Chúa Trời đối với ngươi thế nào – những chuyện này không quan trọng. Điều quan trọng nằm ở nỗ lực chủ quan của ngươi, con đường ngươi chọn đi và liệu rốt cuộc ngươi có thể biến đổi hay không – đây là những điểm quan trọng nhất. Nếu ngươi không biến đổi thì thái độ của Đức Chúa Trời đối với ngươi có tốt đến mấy cũng vô ích. Hễ gặp chuyện thì ngươi lại vấp ngã, và không có một chút lòng trung thành nào, thì dù thái độ của Đức Chúa Trời đối với ngươi có tốt đến mấy cũng không có tác dụng. Điều quan trọng là con đường con người chọn đi. Trước đây Đức Chúa Trời có thể đã nguyền rủa ngươi và nói với ngươi những lời căm hận và chán ghét, nhưng nếu giờ ngươi đã thay đổi thì thái độ của Đức Chúa Trời đối với ngươi cũng sẽ thay đổi. Con người luôn lo sợ, không yên tâm và thiếu đức tin thật, điều này cho thấy họ không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời. Giờ khi đã hiểu một chút, liệu về sau các ngươi có còn trở nên tiêu cực và yếu đuối khi gặp chuyện không? Các ngươi có thể thực hành lẽ thật và đứng vững trong lời chứng của mình không? Các ngươi có thể thật sự vâng phục Đức Chúa Trời không? Nếu đạt được những điều này thì các ngươi sẽ có lý trí của nhân tính bình thường. Các ngươi hiện giờ không có chút kiến thức về tâm tính bại hoại của con người cũng như sự cứu rỗi và ý muốn của Đức Chúa Trời hay sao? Ít nhất các ngươi cũng phải biết đại khái. Một ngày nào đó, khi các ngươi có thể bước vào một vài thực tế trong số mọi khía cạnh của lẽ thật thì các ngươi sẽ hoàn toàn sống thể hiện ra nhân tính bình thường.

Trích đoạn 4

Điều quan trọng nhất khi mưu cầu lẽ thật là tập trung vào việc đọc lời của Đức Chúa Trời, có thể đạt được bao nhiêu từ việc đọc lời của Đức Chúa Trời thì tùy thuộc vào khả năng lĩnh hội của mỗi người. Mặc dù mọi người đều đọc lời của Đức Chúa Trời, nhưng một số người có thể đọc ra được ý nghĩa thực sự của lời Đức Chúa Trời và thấy được ánh sáng, và miễn là đọc lời của Đức Chúa Trời họ sẽ đạt được điều gì đó. Tuy nhiên, những người khác thì không như vậy. Khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ chỉ tập trung vào việc hiểu các giáo lý. Kết quả, họ đã đọc mấy năm hiểu rất nhiều đạo lý, tuy nhiên, khi gặp vấn đề, họ vẫn không thể giải quyết và hoàn toàn không thể sử dụng được chúng. Chuyện gì đang xảy ra đây? Mặc dù mọi người đều đọc lời của Đức Chúa Trời như nhau nhưng hiệu quả lại khác nhau. Những ai yêu lẽ thật thì có thể tiếp nhận nó, trong khi những người không yêu lẽ thật thì không sẵn lòng tiếp nhận nó ngay cả khi họ đọc lời của Đức Chúa Trời. Dù gặp phải vấn đề gì, họ cũng sẽ không tìm kiếm lẽ thật trong lời của Đức Chúa Trời. Những người có một chút trải nghiệm có thể nói ra một số điều thực tế và nói ra một số hiểu biết thực tế về lẽ thật khi họ đọc lời của Đức Chúa Trời, đây mới là hiểu lẽ thật. Những người không có trải nghiệm mà đọc lời Đức Chúa Trời thì chỉ nắm bắt được nghĩa đen của lời Đức Chúa Trời mà không có chút hiểu biết trải nghiệm nào, đây không được coi là hiểu lẽ thật. Một số người lãnh đạo thường nói với những người khác rằng họ đặc biệt đến hội thánh để cung cấp lẽ thật. Lời này nói có đúng không? Lời “cung cấp lẽ thật” này không thể nói tùy tiện được. Ai sở hữu lẽ thật? Ai dám tuyên bố rằng họ cung cấp lẽ thật? Lời này có phải là quá lớn lao không? Khi các ngươi tin Đức Chúa Trời và đi theo Ngài, các ngươi chỉ là người tiếp nhận và mưu cầu lẽ thật. Nếu các ngươi làm được điều này thì đã khá tốt rồi. Ngay cả khi người ta có thể hiểu một số lẽ thật và nói về một số trải nghiệm hiểu biết về lẽ thật, cũng không thể nói rằng họ cung cấp lẽ thật vì không ai sở hữu lẽ thật cả. Nói một vài hiểu biết trải nghiệm sao có thể gọi là cung cấp lẽ thật? Vì vậy, lãnh đạo và chấp sự chỉ có thể nói là làm công tác chăm tưới và đặc biệt chịu trách nhiệm về việc bước vào sự sống của anh chị em trong hội thánh, chứ không thể nói là cung cấp lẽ thật. Ngay cả khi người ta có một chút vóc giạc, cũng không thể nói là có cung cấp lẽ thật cho người khác, tuyệt đối không thể nói như vậy được. Có bao nhiêu người hiểu được lẽ thật? Vóc giạc của con người có xứng được nói là cung cấp lẽ thật không? Ngay cả khi ai đó có một số trải nghiệm và hiểu biết về lẽ thật, cũng không thể nói rằng họ biết cung cấp lẽ thật. Tuyệt đối không thể nói như vậy được, nói như vậy thật quá thiếu lý trí. Một số người vẫn tự hào trong việc chăm tưới hội thánh và cung cấp lẽ thật, như thể họ hiểu rất nhiều lẽ thật, nhưng kết quả là họ không thể phân biệt được giữa lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ. Đây không phải là một sự mâu thuẫn sao? Nếu ai đó hỏi ngươi lẽ thật là gì, ngươi nói: “Lời Đức Chúa Trời là lẽ thật; lẽ thật là lời Đức Chúa Trời”, người như thế có hiểu lẽ thật không? Nếu ngươi chỉ biết nói câu từ giáo lý và không có trải nghiệm hiểu biết về việc lẽ thật là gì thì ngươi không đủ tư cách để cung cấp cho người khác. Ngày nay, những người làm lãnh đạo đều thiếu trải nghiệm; họ chỉ là có một chút tố chất và bằng lòng mưu cầu lẽ thật. Họ thích hợp để bồi dưỡng và huấn luyện, đồng thời có thể đóng vai trò đi đầu trong việc thực hiện bổn phận. Ngay cả khi họ có thể thông công một vài hiểu biết, nhưng làm sao có thể nói là cung cấp lẽ thật được? Làm lãnh đạo và chấp sự đa phần đều có thể nói về một số hiểu biết, nhưng điều đó không có nghĩa là họ có thực tế lẽ thật. Suy cho cùng, họ đã nghe đạo nhiều năm và có một chút hiểu biết đơn giản; họ sẵn lòng thông công lẽ thật và giúp đỡ phần nào cho người khác, nhưng cũng không thể nói là họ đang cung cấp lẽ thật. Cung cấp lẽ thật là điều lãnh đạo và chấp sự có thể làm được sao? Tuyệt đối không được. Lãnh đạo và chấp sự giảng đạo và chăm tưới hội thánh; quan trọng nhất, phải có khả năng giải quyết những vấn đề thực tế mới là thực sự có thể chăm tưới hội thánh. Hiện nay, hầu hết những người lãnh đạo và chấp sự vẫn chưa giải quyết được bao nhiêu vấn đề thực tế. Ngay cả khi có thể thông công một chút hiểu biết về lẽ thật, về cơ bản phần lớn vẫn thuộc về câu từ giáo lý, chưa thông công thấu đáo thực tế lẽ thật. Như vậy thực sự có thể giải quyết được vấn đề sao? Hầu hết các lãnh đạo và chấp sự chỉ có một chút khả năng lĩnh hội và chưa có nhiều trải nghiệm thực tế. Có thể nói rằng họ hiểu lẽ thật hơn và có nhiều thực tế lẽ thật hơn những người khác không? Không thể nói như vậy được, những điều đó còn chưa đủ. Một số lãnh đạo và chấp sự được đề bạt đơn thuần là để bồi dưỡng; họ được phép thao luyện vì họ có một số tố chất, một chút khả năng lĩnh hội nhất định và có môi trường gia đình phù hợp. Không phải cứ đề bạt ai thì người đó sở hữu thực tế lẽ thật và có thể cung cấp lẽ thật. Chỉ là những người mưu cầu lẽ thật đều đạt được sự khai sáng và ánh sáng trước những người khác, nhưng chút ánh sáng này chưa với tới lẽ thật, nó không thuộc về lẽ thật, nó chỉ phù hợp với lẽ thật. Chỉ những gì Đức Chúa Trời bày tỏ trực tiếp mới là lẽ thật. Phàm những điều thuộc về sự khai sáng của Đức Thánh Linh đều chỉ phù hợp với lẽ thật, bởi vì Đức Thánh Linh khai sáng con người theo vóc giạc của họ, không trực tiếp bày tỏ lẽ thật với họ. Thay vào đó, Ngài ban cho họ ánh sáng mà họ có thể đạt được. Ngươi phải hiểu điều này. Nếu một người có một chút nhìn nhận về lời Đức Chúa Trời và có một số hiểu biết trải nghiệm, thì chúng có được tính là lẽ thật không? Không tính. Nhiều nhất chỉ là có một chút hiểu biết về lẽ thật. Những lời khai sáng của Đức Thánh Linh không đại diện cho lời Đức Chúa Trời, không đại diện cho lẽ thật và không thuộc về lẽ thật. Chỉ có thể nói là có một chút hiểu biết về lẽ thật và có một chút sự khai sáng của Đức Thánh Linh thôi. Nếu người ta đạt được một vài hiểu biết về lẽ thật rồi cung cấp cho người khác, thì cũng chỉ là cung cấp hiểu biết trải nghiệm của mình cho người khác thôi, không thể nói là cung cấp lẽ thật cho người khác được. Nói là thông công lẽ thật thì còn được, đó là cách nói thích hợp. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì những gì ngươi thông công đều là sự hiểu biết về lẽ thật; vẫn chưa với tới lẽ thật. Vì vậy, chỉ có thể nói là thông công một số hiểu biết trải nghiệm; làm sao có thể nói là cung cấp lẽ thật được? Cung cấp lẽ thật không phải là một việc dễ dàng. Ai xứng đáng nói câu này? Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể cung cấp lẽ thật cho con người. Con người có thể làm được không? Cho nên nhất định phải nhìn thấu chuyện này. Đây không chỉ là vấn đề dùng từ không chính xác mà mấu chốt là vi phạm và bóp méo sự thật, đây là chuyện bé xé ra to. Con người có một số hiểu biết trải nghiệm về lời Đức Chúa Trời, nhưng không thể nói rằng con người có lẽ thật hoặc rằng họ thuộc về lẽ thật. Tuyệt đối không thể nói như vậy. Cho dù con người đạt được bao nhiêu hiểu biết từ lẽ thật, cũng không thể nói rằng họ sở hữu sự sống của lẽ thật, càng không thể nói là họ thuộc về lẽ thật, tuyệt đối không thể nói như vậy. Con người chỉ hiểu một chút lẽ thật, có một chút ánh sáng và một vài con đường để thực hành, có một chút thực tế về sự vâng phục và một số thay đổi thực sự. Nhưng không thể nói rằng họ đã đạt được lẽ thật. Đức Chúa Trời cung cấp sự sống cho con người bằng cách bày tỏ lẽ thật. Đức Chúa Trời cũng yêu cầu con người phải hiểu lẽ thật và đạt được lẽ thật để phụng sự Đức Chúa Trời, làm hài lòng Đức Chúa Trời. Ngay cả khi con người trải nghiệm công việc của Đức Chúa Trời, đến một ngày họ đạt được lẽ thật, thì vẫn không thể nói rằng con người thuộc về lẽ thật, càng không thể nói rằng con người sở hữu lẽ thật. Bởi vì con người dù có trải nghiệm bao nhiêu năm thì lẽ thật họ đạt được cũng là một phần có hạn và nông cạn. Lẽ thật là điều huyền bí nhất; là Đức Chúa Trời có gì và là gì. Với lẽ thật, dù con người có trải nghiệm cả đời thì những gì họ đạt được cũng rất có hạn và họ không bao giờ có thể đạt được lẽ thật một cách trọn vẹn, không thể nào hiểu lẽ thật một cách trọn vẹn hoặc sống thể hiện ra lẽ thật. Vì vậy, Đức Chúa Trời nói rằng con người luôn là trẻ sơ sinh ở trước mặt Đức Chúa Trời, đây chính là ý Ngài.

Một số người cho rằng khi con người có trải nghiệm và nhận thức về lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ, có nhận thức một cách thấu đáo về mọi khía cạnh của lẽ thật, và có thể hành động theo lẽ thật, thì họ sẽ có thể bày tỏ lẽ thật. Người như vậy sẽ sống là Đấng Christ, giống như Phao-lô đã nói: “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi” (Phi-líp 1:21). Quan điểm này có đúng không? Đây chẳng phải là lại đang hô vang luận điệu “Đức Chúa Trời – con người” sao? Điều này là hoàn toàn sai lầm! Con người chung quy phải hiểu một chuyện, cho dù ngươi có bao nhiêu nhận thức và trải nghiệm về lẽ thật, ngay cả khi ngươi đã bước vào thực tế lẽ thật, có thể quy phục sự sắp đặt và bố trí của Đức Chúa Trời, đạt tới khả năng quy phục Đức Chúa Trời và làm chứng cho Ngài, và cho dù lối vào sự sống của ngươi có cao hay sâu đến đâu, thì sự sống của ngươi vẫn là sự sống của con người, con người không bao giờ có thể trở thành Đức Chúa Trời. Đây là điều tuyệt đối mà con người bắt buộc phải hiểu. Ngay cả khi đến cuối cùng, ngươi có trải nghiệm và hiểu biết về mọi phương diện của lẽ thật, có thể vâng phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời và đã là người được hoàn thiện rồi, thì cũng không thể nói rằng ngươi thuộc về lẽ thật. Ngay cả khi ngươi có thể nói ra được lời chứng trải nghiệm chân thật, cũng không có nghĩa là ngươi có thể bày tỏ lẽ thật. Trước đây, trong tôn giáo, người ta thường nói “bên trong đã có sự sống của Đấng Christ rồi”. Đây là cách nói sai lầm và mơ hồ. Mặc dù bây giờ con người không còn nói như vậy nữa, nhưng hiểu biết của họ về chuyện này vẫn mơ hồ không rõ. Một số người sẽ nghĩ rằng: “Chúng ta đã đạt được lẽ thật và lẽ thật đã ở bên trong chúng ta, vậy thì chúng ta đã có lẽ thật và có lẽ thật trong lòng mình. Chúng ta cũng có thể bày tỏ lẽ thật rồi”. Điều này chẳng phải lại sai sao? Con người thường nói về việc họ có lẽ thật hay không, chủ yếu là nói về việc họ có trải nghiệm và nhận thức về lẽ thật hay không, và liệu họ có thể thực hành theo lẽ thật hay không. Mỗi một người đều trải nghiệm lẽ thật, nhưng trạng thái trải nghiệm của mỗi người đều khác nhau, những gì mỗi người đạt được từ lẽ thật cũng khác nhau. Có tổng hợp trải nghiệm và nhận thức của tất cả mọi người lại cũng sẽ không thể hoàn toàn đạt được thực chất của lẽ thật. Lẽ thật sâu sắc như vậy đấy! Tại sao nói rằng những thứ mà ngươi đạt được và nhận thức của ngươi không thể thay thế lẽ thật? Chút trải nghiệm và nhận thức mà ngươi thông công cùng người khác đó, sau khi người ta nghe xong thì sẽ có hiểu biết. Họ không cần một khoảng thời gian dài trải nghiệm là đã có thể hoàn toàn hiểu và đạt được nó. Ngay cả với những thứ sâu sắc hơn một chút, họ cũng sẽ không cần tới vài năm trải nghiệm. Nhưng đối với lẽ thật, con người có dùng cả đời cũng không trải nghiệm được một cách thấu triệt. Ngay cả khi gộp tất cả mọi người lại với nhau cũng sẽ không trải nghiệm được một cách thấu triệt. Có thể thấy được rằng lẽ thật quá sâu sắc. Không thể dùng ngôn ngữ để nói một cách thấu triệt về lẽ thật. Lẽ thật được nói bằng ngôn ngữ của con người là lẽ phải. Con người sẽ không bao giờ có thể trải nghiệm một cách thấu triệt, và không bao giờ có thể hoàn toàn đạt được việc sống thể hiện ra lẽ thật. Đó là vì ngay cả khi con người trải nghiệm vài nghìn năm, họ cũng sẽ không trải nghiệm hết được một điều nào đó của lẽ thật. Bất kể con người có trải nghiệm bao nhiêu năm đi nữa thì lẽ thật mà họ hiểu và đạt được vẫn sẽ có hạn. Có thể nói, lẽ thật chính là nguồn gốc sự sống vĩnh cửu của nhân loại. Đức Chúa Trời là ngọn nguồn của lẽ thật, và việc bước vào thực tế lẽ thật là một chuyện không có kết thúc và cũng không dừng lại được.

Lẽ thật là sự sống của chính Đức Chúa Trời; nó đại diện cho tâm tính của Ngài, thực chất của Ngài, Ngài có gì và là gì. Nếu nói rằng con người có chút trải nghiệm và nhận thức tức là có lẽ thật, vậy ngươi đã đạt được sự thánh khiết chưa? Tại sao ngươi vẫn bộc lộ sự bại hoại? Tại sao ngươi không thể phân biệt các loại người khác nhau? Tại sao ngươi không thể chứng thực cho Đức Chúa Trời? Ngay cả khi ngươi hiểu một số lẽ thật, ngươi có thể đại diện cho Đức Chúa Trời được không? Ngươi có thể sống thể hiện ra tâm tính của Đức Chúa Trời được không? Ngươi có thể có một số trải nghiệm và nhận thức về một khía cạnh nào đó của lẽ thật, và ngươi có thể chia sẻ một chút ánh sáng trong lời nói của mình, nhưng những gì ngươi có thể cung cấp cho mọi người thì cực kỳ hạn chế và không thể tồn tại lâu dài. Đó là bởi hiểu biết của ngươi và ánh sáng ngươi có được không đại diện cho thực chất của lẽ thật và không đại diện cho toàn bộ lẽ thật. Nó chỉ đại diện cho một mặt hoặc một khía cạnh nhỏ của lẽ thật, nó chỉ là một mức độ con người có thể đạt được và vẫn còn cách xa thực chất của lẽ thật. Một chút ánh sáng, sự khai sáng, trải nghiệm và nhận thức này không bao giờ có thể thay thế cho lẽ thật. Ngay cả khi tất cả mọi người đã có được thành quả thông qua việc trải nghiệm một lẽ thật và gộp tất cả những trải nghiệm, nhận thức của họ lại thì cũng sẽ không bao quát được toàn bộ và thực chất của lẽ thật này dù chỉ một câu. Như Ta đã từng nói trong quá khứ: “Ta tổng kết phần này bằng một câu cách ngôn cho thế giới loài người: Trong số loài người, không có ai yêu Ta”. Câu này là lẽ thật, chân lý của cuộc đời, một điều sâu sắc nhất và là sự bày tỏ của chính Đức Chúa Trời. Sau ba năm trải nghiệm, ngươi có thể có chút hiểu biết hời hợt, và sau bảy hoặc tám năm, ngươi có thể hiểu biết nhiều hơn một chút, nhưng sự hiểu biết này không bao giờ có thể thay thế cho câu lẽ thật đó. Sau hai năm, một người khác có thể có chút hiểu biết, hoặc hiểu biết nhiều hơn sau mười năm, hay thậm chí hiểu biết tương đối cao sau một đời người, nhưng sự hiểu biết của cả hai ngươi gộp lại cũng không thể thay thế cho câu lẽ thật đó. Cho dù cả hai ngươi cộng lại có thể có được bao nhiêu sự thông sáng, ánh sáng, trải nghiệm hay nhận thức, thì chúng cũng không bao giờ có thể thay thế cho câu lẽ thật đó. Nói thế nghĩa là sự sống của con người luôn là sự sống của con người, và cho dù nhận thức của ngươi có phù hợp với lẽ thật, ý muốn của Đức Chúa Trời hay những yêu cầu của Đức Chúa Trời đến đâu đi chăng nữa, thì nó cũng không bao giờ có thể thay thế được lẽ thật. Nói rằng người ta có lẽ thật nghĩa là người ta thực sự hiểu lẽ thật, sống thể hiện ra một số thực tế của lời Đức Chúa Trời, có chút hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời và có thể tôn cao, chứng thực cho Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, không thể nói rằng người ta đã sở hữu lẽ thật, bởi vì lẽ thật quá sâu sắc. Chỉ một câu lời Đức Chúa Trời cũng có thể khiến con người mất cả cuộc đời để trải nghiệm, và thậm chí sau mấy kiếp trải nghiệm, hoặc hàng mấy nghìn năm, họ cũng không thể hoàn toàn trải nghiệm thấu triệt một câu lời Đức Chúa Trời. Rõ ràng quá trình hiểu lẽ thật và biết Đức Chúa Trời quả thực là vô tận, và việc con người có thể hiểu được bao nhiêu lẽ thật trong một đời trải nghiệm là rất có hạn. Một số người nói rằng họ có lẽ thật ngay khi mới hiểu một chút câu chữ của lời Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải điều vô lý sao? Bất kể là ánh sáng hay nhận thức đều có vấn đề về chiều sâu. Những thực tế lẽ thật mà một người có thể bước vào trong suốt cuộc đời có đức tin là hữu hạn. Do đó, chỉ vì ngươi sở hữu một số nhận thức và ánh sáng không có nghĩa là ngươi sở hữu những thực tế lẽ thật. Chủ yếu ngươi phải xem liệu ánh sáng và nhận thức này có chạm đến thực chất của lẽ thật hay không. Đây là điều quan trọng nhất. Một số người cảm thấy họ sở hữu lẽ thật khi có được một chút ánh sáng và có thể chia sẻ một chút nhận biết hời hợt. Điều này khiến họ vui mừng, vì vậy họ trở nên tự mãn và tự phụ. Trên thực tế, còn lâu họ mới bước vào thực tế lẽ thật. Người ta có thể sở hữu lẽ thật nào? Những người có lẽ thật có thể sa ngã mọi lúc mọi nơi không? Khi con người có lẽ thật, làm sao họ vẫn có thể chống lại Đức Chúa Trời và phản bội Đức Chúa Trời được? Nếu ngươi tuyên bố rằng mình có lẽ thật, điều đó chứng tỏ bên trong ngươi có sự sống của Đấng Christ – điều đó thật vô lý! Ngươi đã trở thành Chúa, ngươi đã trở thành Đấng Christ sao? Đây là một câu nói vô lý và hoàn toàn là do con người suy diễn; nó thuộc về những quan niệm và tưởng tượng của con người, và không thể biện hộ được trước Đức Chúa Trời.

Khi nói đến việc mọi người hiểu lẽ thật, và dùng lẽ thật làm sự sống, sự sống này ám chỉ điều gì? Điều này nghĩa là lẽ thật ngự trị tối cao trong lòng họ, nghĩa là họ có thể sống theo lời Đức Chúa Trời, nghĩa là họ có nhận thức chân thật về những lời của Đức Chúa Trời và hiểu biết thực sự về lẽ thật. Khi mọi người sở hữu sự sống mới này bên trong mình, nó hoàn toàn đạt được bằng cách thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời. Điều này được xây dựng trên nền tảng lẽ thật của lời Đức Chúa Trời, và đạt được bằng việc họ sống trong phạm vi của lẽ thật. Tất cả những gì sự sống con người chứa đựng là nhận thức và trải nghiệm của họ về lẽ thật. Đây là nền tảng của nó và nó không vượt qua phạm vi đó; đây là sự sống được đề cập đến khi nói về việc có được sự sống và lẽ thật. Có thể sống theo lẽ thật của lời Đức Chúa Trời không có nghĩa là lẽ thật ở bên trong con người, cũng không có nghĩa là nếu họ sở hữu lẽ thật như sự sống của mình, thì họ sẽ trở thành lẽ thật, và sự sống bên trong họ trở thành sự sống của lẽ thật; càng không thể nói rằng họ là sự sống và lẽ thật. Cuối cùng, sự sống của họ vẫn là sự sống của một con người. Nếu ngươi có thể sống theo lời Đức Chúa Trời và có nhận thức về lẽ thật, nếu nhận thức này bén rễ bên trong ngươi trở thành sự sống của ngươi và lẽ thật ngươi đạt được thông qua trải nghiệm sẽ trở thành nền tảng cho sự tồn tại của ngươi, nếu ngươi sống theo những lời này của Đức Chúa Trời thì không ai có thể thay đổi được điều đó, và Sa-tan không thể lừa dối hay làm ngươi bại hoại, khi đó ngươi sẽ đạt được sự sống và lẽ thật. Tức là, sự sống của ngươi chỉ có lẽ thật, chỉ có sự hiểu biết, trải nghiệm và sự thông sáng lẽ thật của ngươi, bất kể có làm gì, ngươi cũng sẽ sống theo những điều này, và ngươi sẽ không vượt ra ngoài phạm vi của chúng. Sở hữu thực tế của lẽ thật nghĩa là như vậy, cuối cùng những gì công tác của Đức Chúa Trời muốn đạt được chính là những người như vậy. Nhưng cho dù mọi người hiểu lẽ thật đến đâu, thì thực chất của họ vẫn là thực chất của loài người, và hoàn toàn không thể so sánh với thực chất của Đức Chúa Trời. Đó là vì trải nghiệm của họ về lẽ thật mãi mãi không hết, họ không thể hoàn toàn sống thể hiện ra lẽ thật, và chỉ có thể sống thể hiện ra một chút lẽ thật cực kỳ hạn chế mà con người có thể đạt được, vậy thì làm sao họ có thể trở thành Đức Chúa Trời được? Nếu đích thân Đức Chúa Trời hoàn thiện một nhóm những Đức Chúa Trời lớn và nhỏ, chẳng phải là quá lộn xộn sao? Hơn nữa, đây cũng là chuyện không thể, chuyện hoang đường, là ý nghĩ hoang đường của con người. Đức Chúa Trời tạo ra trời đất và vạn vật, sau đó Ngài tạo ra con người, để con người vâng phục và thờ phượng Ngài. Đức Chúa Trời tạo ra con người là việc có ý nghĩa nhất. Đức Chúa Trời chỉ tạo ra con người chứ không tạo ra Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời công tác dưới hình thức nhập thể, đây không phải là tạo ra Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không tạo ra chính Ngài; Ngài tự có thực chất của riêng mình, điều này không bao giờ thay đổi. Con người không biết Đức Chúa Trời thì nên đọc nhiều lời Đức Chúa Trời, thường xuyên tìm kiếm lẽ thật thì mới có thể hiểu được lẽ thật. Con người không thể dựa trên tưởng tượng mà nói xằng nói bậy. Nếu ngươi có một chút trải nghiệm với lời Đức Chúa Trời, và đang sống theo trải nghiệm và nhận thức chân chính về lẽ thật, thì lời Đức Chúa Trời sẽ dần dần trở thành sự sống của ngươi. Tuy nhiên, ngươi vẫn không thể nói rằng lẽ thật là sự sống của ngươi hoặc rằng những gì ngươi bày tỏ ra là lẽ thật; nếu đây là ý kiến của ngươi, thì ngươi sai rồi. Nếu ngươi chỉ có một vài trải nghiệm về một khía cạnh nào đó của lẽ thật, điều này có thể đại diện cho việc ngươi có lẽ thật không? Liệu điều này có thể được coi là đạt được lẽ thật không? Ngươi có thể giải thích cặn kẽ lẽ thật không? Ngươi có thể phát hiện tâm tính của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời có gì và là gì từ lẽ thật không? Nếu không đạt được những hiệu quả này, điều này chứng tỏ rằng việc chỉ trải nghiệm một khía cạnh nào đó của lẽ thật không thể coi là thực sự hiểu lẽ thật hay biết Đức Chúa Trời, càng không thể nói là đã đạt được lẽ thật. Mọi người đều có trải nghiệm với chỉ một khía cạnh và một phạm vi của lẽ thật; họ trải nghiệm lẽ thật trong phạm vi giới hạn của mình và không thể chạm đến mọi mặt của lẽ thật. Mọi người có thể sống thể hiện ra ý nghĩa ban đầu của lẽ thật không? Chút ít trải nghiệm của ngươi chiếm bao nhiêu phần trăm? Chỉ một hạt cát trên bãi biển; một giọt nước giữa đại dương. Do đó, cho dù nhận thức và những cảm giác mà ngươi có được từ những trải nghiệm của ngươi quý giá đến mức nào, thì chúng vẫn không thể được xem là lẽ thật. Chỉ có thể nói rằng chúng phù hợp với lẽ thật. Lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời, nội hàm và thực tế của lẽ thật bao hàm một phạm vi rất rộng, không ai có thể hiểu thấu hay bác bỏ được. Miễn là ngươi có nhận thức chân thực về lẽ thật và Đức Chúa Trời, ngươi sẽ hiểu được một số lẽ thật, sẽ không ai có thể bác bỏ được những nhận thức chân thực này, và những chứng ngôn có thực tế của lẽ thật sẽ tồn tại mãi mãi. Đức Chúa Trời khen ngợi những ai có thực tế lẽ thật. Miễn là ngươi mưu cầu lẽ thật và ngươi có thể dựa vào Đức Chúa Trời để trải nghiệm lời Đức Chúa Trời cũng như có thể chấp nhận lẽ thật làm sự sống của mình cho dù ngươi có ở môi trường nào đi nữa, thì ngươi cũng sẽ có một con đường, có thể tồn tại và được Đức Chúa Trời chấp thuận. Ngay cả khi một chút mà con người đạt được phù hợp với lẽ thật, cũng không thể nói đó là lẽ thật, càng không thể nói họ đã đạt được lẽ thật. Một chút ánh sáng mà con người đã đạt được chỉ phù hợp cho bản thân họ hay một số người khác trong một phạm vi nhất định, nhưng sẽ không phù hợp trong phạm vi khác. Cho dù trải nghiệm của một người sâu sắc đến đâu, nó vẫn rất hạn chế, và trải nghiệm của họ sẽ không bao giờ đạt được chiều sâu của lẽ thật. Ánh sáng và nhận thức của một người không bao giờ có thể so sánh được với lẽ thật.

Khi con người có một số trải nghiệm về lời Đức Chúa Trời, hiểu được một chút lẽ thật và một chút ý muốn của Đức Chúa Trời, khi họ có một số nhận thức về Đức Chúa Trời, tâm tính có chút biến đổi và được làm cho tinh sạch rồi, thì cũng chỉ có thể nói rằng ngươi vẫn là một con người, vẫn là loài người thọ tạo, nhưng đây chính là con người bình thường mà Đức Chúa Trời muốn có được. Vậy ngươi là loại người như thế nào? Có người nói: “Tôi là người có lẽ thật”. Nếu nói như vậy thì không thỏa đáng. Ngươi chỉ có thể nói: “Tôi là người từng trải qua việc bị Sa-tan làm cho bại hoại, rồi lại trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, cuối cùng đã hiểu được lẽ thật và tâm tính bại hoại được làm cho tinh sạch. Tôi chỉ là một người được Đức Chúa Trời cứu rỗi”. Nếu ngươi nói: “Tôi là người có lẽ thật. Lời Đức Chúa Trời, tôi đều đã trải nghiệm và đều đã hiểu. Đức Chúa Trời phán câu nào, có ý nghĩa gì, có bối cảnh như thế nào và phán trong tình trạng nào, tôi đều biết cả. Đây không phải là có lẽ thật sao?”. Ngươi lại sai rồi. Ngươi có một số trải nghiệm và có một chút ánh sáng về lời Đức Chúa Trời không có nghĩa là ngươi có lẽ thật. Những người chỉ hiểu và biết nói một chút giáo lý càng không thể nói như vậy. Rốt cuộc con người nên đứng ở vị trí nào trước Đức Chúa Trời và trước lẽ thật, rốt cuộc con người là gì và sự sống bên trong con người rốt cuộc là gì, sự sống của Đức Chúa Trời là gì, con người bắt buộc phải hiểu thấu đáo. Con người phải hiểu rốt cuộc mình có thực chất gì. Có một số người trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong vài ngày, hiểu được một số câu chữ giáo lý thì liền cảm thấy mình đã có lẽ thật. Đây là những người kiêu ngạo nhất và không có chút lý trí nào. Chuyện này cần được phân tích để con người có thể thực sự hiểu bản thân và biết nhân loại, để họ biết nhân loại bại hoại rốt cuộc là thứ gì, cuối cùng sau khi con người được hoàn thiện thì có thể đạt đến mức độ nào, nên xưng hô như thế nào và dùng danh xưng gì thì mới thích hợp. Con người nên biết những chuyện này chứ đừng lúc nào cũng mơ tưởng hão huyền. Làm người thì thực tế một chút vẫn tốt hơn, như vậy họ sẽ yên ổn hơn một chút. Một số người khi tin Đức Chúa Trời vẫn luôn mưu cầu những ước mơ của riêng mình và luôn muốn sống thể hiện ra sự sống và hình tượng của Đức Chúa Trời. Điều này có thực tế không? Con người luôn muốn có sự sống của Đức Chúa Trời, đây có phải là một chuyện nguy hiểm không? Đó là sự kiêu ngạo và dã tâm của con người, giống như sự kiêu ngạo và dã tâm của Sa-tan vậy. Có người, sau khi làm công tác ở hội thánh một thời gian thì bắt đầu suy nghĩ: “Sau khi con rồng lớn sắc đỏ sụp đổ, chúng ta có nên trở thành vua và nắm quyền không? Hay là ai cũng quản lý vài tòa thành nhỉ?”. Một người có thể bộc lộ ra những thứ như vậy thì thật là khủng khiếp. Những người không có trải nghiệm thì hay nói giáo lý và mơ tưởng hão huyền. Họ còn cảm thấy mình thông minh, dường như họ đã đạt được đức tin nơi Đức Chúa Trời, sống là Đấng Christ và là Đức Chúa Trời. Đây đều là môn đồ của Phao-lô và đi trên con đường của Phao-lô. Nếu đến chết vẫn không ăn năn thì những người này đều sẽ trở thành những kẻ địch lại Đấng Christ và phải chịu hình phạt nghiêm khắc.

Trích đoạn 5

Về những lời Đức Chúa Trời đã phán, khi lắng nghe, các ngươi có đối chiếu với bản thân mình hay chỉ nghe như giáo lý, nghĩ lướt qua trong đầu để hiểu ý nghĩa là coi như xong việc? Các ngươi lắng nghe với thái độ và ý định gì? Nếu các ngươi thực sự hiểu lời Đức Chúa Trời phán – rằng những ai không thực hành lẽ thật thì sau này sẽ bị đào thải, trong mắt Đức Chúa Trời, những ai không thực hành lẽ thật thì không phải là người tốt, mà là kẻ ác – thì các ngươi nên tự phản tỉnh bản thân, nhìn xem hành động nào của mình là không thực hành lẽ thật, phương pháp nào cũng như thái độ nào bị Đức Chúa Trời xem là biểu hiện của việc không thực hành lẽ thật. Các ngươi đã từng suy ngẫm những vấn đề này chưa? Các ngươi đã phản tỉnh bản thân chưa? Chỉ đọc lướt qua lời Đức Chúa Trời thôi là chưa đủ. Các ngươi phải suy ngẫm, phải phản tỉnh, đối chiếu suy nghĩ và hành động của mình với những lời phơi bày từ Đức Chúa Trời, đạt được sự biết mình, thì các ngươi mới có thể thực sự ăn năn và thay đổi. Nếu các ngươi đọc lời Đức Chúa Trời mà không suy ngẫm hay phản tỉnh bản thân, chỉ chú trọng hiểu giáo lý là coi như xong việc, thì tin Đức Chúa Trời như thế sẽ không có lối vào sự sống hay những thay đổi thực sự. Vì vậy, khi đọc lời Đức Chúa Trời phải suy ngẫm, tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh bản thân là điều rất quan trọng. Lời của Đức Chúa Trời là gì? Đó là thực tế của mọi điều tích cực, là lẽ thật, là đường đi, và là sự sống mà Đức Chúa Trời ban cho con người. Lời Đức Chúa Trời không phải là giáo lý, không phải là khẩu hiệu, không phải một loại học thuyết lý luận hay tri thức triết học, mà là những lẽ thật con người phải hiểu, những lẽ thật và sự sống phải đạt được. Do đó, lời Đức Chúa Trời có liên quan mật thiết đến cuộc sống, sự sống của con người, con đường nên đi cũng như kết cục và đích đến của họ. Nếu người ta thực sự hiểu và đạt được lẽ thật, mọi sự của họ sẽ thay đổi tương ứng. Nếu người ta trước sau vẫn không thể hiểu lẽ thật, không thể sống theo lời Đức Chúa Trời, thì họ không thể đạt được những thay đổi thực sự, cũng không được Đức Chúa Trời khen ngợi. Kết cục và đích đến của người đó chỉ có thể là trầm luân và bị diệt vong. Đối với con người, lời Đức Chúa Trời và lẽ thật được Đức Chúa Trời bày tỏ quan trọng đến vậy đấy. Nếu ngươi đọc lời Đức Chúa Trời mà không suy ngẫm, không phản tỉnh bản thân, không liên hệ chúng với những vấn đề và khó khăn thực tế của bản thân, thì những điều ngươi có thể hiểu được rất hời hợt, ngươi cũng không thể hiểu lẽ thật hay nắm bắt được ý muốn của Đức Chúa Trời. Vì vậy, ngươi phải học cách suy ngẫm lời Đức Chúa Trời thì mới có thể hiểu được lẽ thật. Điều này rất quan trọng. Có nhiều cách để suy ngẫm lời Đức Chúa Trời: Ngươi có thể đọc thầm chúng và cầu nguyện trong lòng, tìm cầu sự khai sáng và soi sáng từ Đức Thánh Linh; ngươi cũng có thể thông công và cầu nguyện – đọc cùng với những ai mưu cầu lẽ thật; và tất nhiên, ngươi có thể kết hợp thông công giảng đạo vào trong suy ngẫm của ngươi để làm sâu sắc sự nhận thức và lĩnh hội của mình về lời Đức Chúa Trời. Cách thức thì nhiều và đa dạng. Tóm lại, nếu khi đọc lời Đức Chúa Trời, con người mong muốn đạt được một sự hiểu biết về chúng, thì điều quan trọng là phải suy ngẫm và cầu nguyện – đọc lời Đức Chúa Trời. Mục đích của việc cầu nguyện – đọc lời Đức Chúa Trời không phải là để có thể đọc thuộc lòng chúng, cũng không phải là để ghi nhớ chúng; đúng hơn, đó là để có được sự hiểu biết chính xác về những lời này sau khi đã cầu nguyện – đọc và suy ngẫm về chúng và để biết ý nghĩa của những lời được Đức Chúa Trời phán dạy này, cũng như ý định của Ngài. Đó là tìm thấy ở đó con đường thực hành, và để tránh rẽ sang con đường của riêng mình. Ngoài ra, là để có thể phân biệt giữa tất cả các loại trạng thái và loại người khác nhau được mặc khải trong lời Đức Chúa Trời, để có thể đối xử với từng loại người theo đúng các nguyên tắc, đồng thời, tránh đi sai đường. Một khi ngươi học được cách cầu nguyện – đọc và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, và làm điều đó thường xuyên, thì chỉ khi đó lời Đức Chúa Trời mới có thể bén rễ trong lòng ngươi và trở thành sự sống của ngươi.

Trích đoạn 6

Trong thời kỳ sau rốt, Đấng Tạo Hóa đã công khai phán tất cả những lời này và tỏ lộ mọi loại người. Giờ đây, mọi loại người đều đối mặt với lẽ thật, con đường thật và lời phán của Đấng Tạo Hóa, mọi loại tiếng nói và quan điểm đều bị vạch trần: có người thì có tư tưởng và quan điểm lệch lạc, có người thì tự cho mình là đúng và kiêu ngạo, có người thì bảo thủ, bám chặt vào văn hóa truyền thống và trở nên thối nát, lại có người thì ngu muội và vô tri. Thậm chí có người thù hận và thù địch với lẽ thật, điên cuồng cắn xé như chó điên, tùy ý phán xét cũng như mặc ý lên án lẽ thật và điều tích cực. Họ phán xét và lên án không chút kiêng dè bất kỳ điều tích cực và sự bày tỏ lẽ thật nào, cũng chẳng cố gắng phân biệt đúng sai hoặc xem liệu điều đó có lẽ thật hay không. Những người này là thú vật và ma quỷ. Khi con người đối mặt với lẽ thật và con đường thật, nhiều quan điểm khác nhau của họ sẽ tỏ lộ và vạch trần những thứ xấu xa của Sa-tan mang tính hẹp hòi, ngoan cố, cương ngạnh, kiêu ngạo trong họ. Các ngươi phải học cách phân định, mở rộng tầm hiểu biết của mình từ điều này cũng như tìm kiếm một chút lẽ thật. Những kẻ không tin và không đón nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt đều bộc lộ những điều này, vậy các ngươi có những biểu hiện này không? Đôi khi, cách biểu hiện và cách nói của ngươi thì khác, nhưng thực ra các ngươi cũng bộc lộ tâm tính giống như họ. Cũng tương tự như việc một số người tiếp nhận Đức Chúa Jêsus tin rằng hễ ai không đón nhận Đức Chúa Jêsus thì đều là kẻ thấp kém. Họ tin rằng vì họ đã đón nhận sự cứu rỗi trên thập tự giá của Đức Chúa Jêsus nên họ là loài người cao cấp và coi thường mọi người. Đây là loại tâm tính gì? Họ thiếu hiểu biết, quá hẹp hòi, cực kỳ kiêu ngạo và tự cho mình là đúng. Họ thấy những người khác đang bộc lộ tâm tính bại hoại nhưng không thấy chính mình cũng đang bộc lộ tâm tính bại hoại giống như thế. Vậy các ngươi có những biểu hiện này không? Chắc chắn là có vì tâm tính bại hoại của toàn nhân loại là giống hệt nhau và chỉ nhờ công tác và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, nhu cầu trong công tác của Ngài hoặc sự tiền định của Ngài mà có khác biệt về thực chất bản tính, sự mưu cầu và khao khát của mỗi loại người. Có những người không có tâm, không có linh. Họ là người chết, súc sinh và không hiểu đức tin, là những người thấp kém nhất trong loài người và không thể được coi là con người. Những người tiếp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời thì hiểu hơn về lẽ thật, sự thấu suốt của họ và nhận thức về về Đức Chúa Trời của họ cũng cao hơn, lý luận và quan điểm của họ ở tầm cao hơn. Giống như việc những người trong Cơ Đốc giáo có nhận thức về Đức Chúa Trời cũng như có kiến thức về sự sáng tạo và công tác của Đấng Tạo Hóa cao hơn so với những người tin vào Đức Giê-hô-va và tuân thủ luật pháp, thì những người tiếp nhận giai đoạn công tác thứ ba có nhận thức về Đức Chúa Trời càng cao hơn so với những người trong Cơ Đốc giáo. Bởi vì mỗi giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời đều cao hơn giai đoạn trước, nên tất nhiên, sự hiểu của con người chắc chắn cũng ngày càng cao hơn. Song, nếu nhìn từ khía cạnh khác, tâm tính bại hoại mà các ngươi bộc lộ sau khi tiếp nhận giai đoạn công tác này về thực chất cũng giống tâm tính bại hoại mà những người trong tôn giáo bộc lộ. Khác biệt duy nhất là các ngươi đã tiếp nhận giai đoạn công tác này, nghe nhiều bài giảng, hiểu nhiều lẽ thật, có hiểu biết thực sự về thực chất bản tính của mình và nhờ việc tiếp nhận và thực hành lẽ thật mà đã có một vài thay đổi thực sự nào đó. Cho nên, khi nhìn lại biểu hiện của những người trong tôn giáo, các ngươi cho rằng họ bại hoại hơn mình. Nhưng thực ra, nếu đặt các ngươi chung với họ thì các ngươi sẽ thấy con người đều có thái độ giống nhau đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật, đều hành động theo quan niệm, tưởng tượng và sở thích của mình, tâm tính bại hoại của các ngươi đều giống nhau. Nếu họ đã tiếp nhận giai đoạn công tác này, nghe những bài giảng này và hiểu những lẽ thật này thì giữa các ngươi và họ sẽ không có nhiều khác biệt. Các ngươi có thể thấy gì từ chuyện này? Các ngươi có thể thấy rằng lẽ thật mang đến sự biến đổi cho con người, thấy rằng Đức Chúa Trời nói những lời này và giảng những bài này đều là sự cứu rỗi cho toàn nhân loại và cần thiết cho toàn nhân loại chứ không phải chỉ để làm thỏa mãn một nhóm người, một chủng tộc, một loại người đặc biệt hay những người mang màu da nhất định nào. Toàn nhân loại đều bị Sa-tan làm bại hoại, đều có tâm tính Sa-tan. Không có khác biệt lớn về thực chất bại hoại; chỉ là màu da, chủng tộc của họ, bối cảnh và chế độ xã hội ở nơi họ lớn lên không giống nhau, hoặc văn hóa truyền thống, bối cảnh và sự giáo dục mà họ tiếp nhận có chút khác nhau. Nhưng đây chỉ là vẻ bề ngoài, toàn nhân loại đã bị cùng một Sa-tan làm bại hoại và thực chất bản tính bại hoại của con người là giống nhau. Do đó, những lời và công tác này của Đức Chúa Trời không nhắm vào người thuộc bất kỳ nhóm dân tộc hay quốc gia nhất định nào, mà nhắm vào toàn nhân loại. Dù con người thuộc các chủng tộc khác nhau có khác biệt về văn hóa và bối cảnh, hoặc có khác biệt về sự giáo dục mà họ tiếp nhận thì trong mắt Đức Chúa Trời, tâm tính bại hoại của họ hoàn toàn giống nhau. Do đó, mặc dù Đức Chúa Trời thực hiện một giai đoạn công tác ở một nơi thì điều này vẫn ảnh hưởng đến sự thay đổi ở mọi nơi và áp dụng cho toàn nhân loại cũng như có thể cứu rỗi và cung cấp cho toàn nhân loại. Một số người nói: “Người châu Âu và người từ các quốc gia khác không phải là hậu duệ của con rồng lớn sắc đỏ, vậy chẳng phải là không phù hợp khi Đức Chúa Trời nói toàn nhân loại đều bại hoại trầm trọng sao?”. Những lời này có đúng không? (Thưa, không đúng. Toàn nhân loại có thực chất bản tính bị Sa-tan làm bại hoại giống nhau.) Đúng vậy, “hậu duệ của con rồng lớn sắc đỏ” chỉ là tên gọi dành cho những người thuộc một chủng tộc, không đồng nghĩa rằng thực chất của người có tên gọi này khác với của người không có tên gọi này. Trên thực tế, thực chất của họ vẫn giống nhau. Toàn nhân loại nằm trong tay của kẻ ác và đều bị Sa-tan làm cho bại hoại, thực chất bản tính bại hoại của họ hoàn toàn giống nhau. Giờ đây, khi người Trung Quốc nghe những lời này của Đức Chúa Trời thì họ phản nghịch và chống đối; họ có quan niệm và tưởng tượng. Đây là những gì họ biểu hiện. Khi Ngài phán những lời này với người của chủng tộc khác, họ cũng biểu hiện tưởng tượng, quan niệm, sự phản nghịch, kiêu ngạo, tự cho mình là đúng và thậm chí là chống đối – hoàn toàn giống nhau. Toàn nhân loại, bất kể chủng tộc và bối cảnh văn hóa, đều biểu hiện không gì khác ngoài hành vi của nhân loại bại hoại mà Đức Chúa Trời vạch trần.

Tâm tính bại hoại là thứ phổ biến chung trong toàn nhân loại; chúng đều giống nhau, có nhiều tương đồng hơn là khác biệt và không có sự khác biệt rõ ràng nào. Những lời Đức Chúa Trời phán và lẽ thật Ngài bày tỏ này không chỉ cứu rỗi một dân tộc, một quốc gia hay một nhóm người nào đó, mà là Đức Chúa Trời cứu rỗi toàn nhân loại. Các ngươi thấy gì từ điều này? Có ai trong nhân loại chưa bị Sa-tan làm bại hoại và thuộc về một loại người khác biệt không? Có ai không phải là đối tượng của sự tể trị của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Ý của Ta khi nói những lời này là gì? Đức Chúa Trời tể trị toàn nhân loại và toàn nhân loại do cùng một Đức Chúa Trời tạo ra. Bất kể nhóm dân tộc, loại người nào hay khả năng của họ ra sao thì họ đều được Đức Chúa Trời tạo ra. Trong mắt con người, một số người khác biệt với những người khác và vượt trội hơn, nhưng trong mắt Đức Chúa Trời thì họ đều giống nhau. Con người đều giống nhau trong mắt Đức Chúa Trời. Các ngươi thấy điều này ở đâu? Sự khác biệt về màu da và ngôn ngữ chỉ là vẻ bề ngoài, nhưng tâm tính bại hoại và thực chất bản tính của con người đều giống nhau. Đây là chân tướng của chuyện này. Khi đối mặt với bất kỳ người nào có tâm tính bại hoại của Sa-tan, lời của Đức Chúa Trời đều có thể đạt được kết quả. Lời của Ngài đều nhắm vào tâm tính bại hoại của con người và có thể giải quyết mọi tâm tính bại hoại của nhân loại. Điều này cho thấy tất cả những lời của Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, có thể cung cấp, làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại. Đây là chuyện không còn nghi ngờ gì nữa. Giờ đây, những lời mà Đức Chúa Trời bày tỏ trong thời kỳ sau rốt đã lan truyền đến tất cả các quốc gia và chủng tộc trên thế giới. Đây là sự thật! Vậy con người đã phản ứng như thế nào? (Thưa, đã có đủ mọi loại phản ứng.) Và tất cả những loại phản ứng này thể hiện hoặc phản ánh điều gì về thực chất của con người? Chúng cho thấy rằng thực chất bản tính của con người là giống nhau, phản ứng của họ giống với của người Pha-ri-si và người Do Thái khi Đức Chúa Jêsus đến để thực hiện công tác của Ngài. Họ ác cảm với lẽ thật, đầy sự tưởng tượng và quan niệm về Đức Chúa Trời, họ tin vào Ngài trong những quan niệm và sự tưởng tượng viển vông. Toàn nhân loại đều không biết Đức Chúa Trời và chống đối Ngài. Khi nghe lời Đức Chúa Trời, phản ứng đầu tiên của họ, hoặc những điều trong thực chất bản tính mà họ bộc lộ một cách tự nhiên, chính là sự chống đối và thù địch với Ngài; đây là điểm chung của tất cả họ. Khi đối mặt với lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ, mọi tiếng nói và quan điểm tiêu cực của họ đều nảy sinh từ thực chất bản tính của nhân loại bại hoại, và đại diện cho nhân loại này. Quan niệm và tưởng tượng của họ giống như của thầy tế lễ cả, thầy thông giáo và người Pha-ri-si về Đức Chúa Trời khi Đức Chúa Jêsus đến; chẳng thay đổi chút nào. Những người trong tôn giáo đó đã vác thập tự giá suốt 2.000 năm nhưng họ vẫn như vậy, không thay đổi chút nào. Khi con người chưa đạt được lẽ thật thì đây là những điều họ bộc lộ một cách tự nhiên và xuất phát từ họ một cách bẩm sinh, và đây là thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời. Vậy, nếu một người tin vào Đức Chúa Trời nhưng không mưu cầu lẽ thật thì tâm tính bại hoại của họ có thể được giải quyết không? (Thưa, không thể.) Cho dù họ đã tin bao lâu, nếu không mưu cầu lẽ thật thì họ sẽ không thể giải quyết vấn đề tâm tính bại hoại của mình. Hai nghìn năm trước, những người Pha-ri-si đã điên cuồng chống đối và định tội Đức Chúa Jêsus, rồi đóng đinh Ngài vào thập tự giá. Giờ đây, các mục sư, trưởng lão, linh mục và giám mục trong giới tôn giáo vẫn điên cuồng chống đối và định tội Đức Chúa Trời nhập thể, giống như người Pha-ri-si năm đó đã làm. Nếu một người đến giữa họ và làm chứng về Đức Chúa Trời nhập thể thì có thể bị họ bắt và xử tử. Nếu Đức Chúa Trời nhập thể đến rao giảng ở những nơi thờ phượng của các tôn giáo lớn thì chắc chắn họ vẫn đóng đinh Ngài vào thập tự giá hoặc giao Ngài cho những kẻ cầm quyền xử lý. Họ tuyệt đối sẽ không nương tay với Ngài bởi vì thực chất bản tính của nhân loại bại hoại đều giống nhau. Khi nghe những lời này, trong lòng các ngươi có phản ứng gì không? Các ngươi có nghĩ rằng những người đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm nhưng không hề mưu cầu lẽ thật thì rất đáng sợ không? (Thưa, chúng con có hơi cảm thấy như vậy.) Đó là chuyện rất đáng sợ! Cầm Kinh Thánh và thập tự giá, dựa vào luật pháp, mặc trang phục của người Pha-ri-si hay áo choàng của thầy tế lễ mà công khai chống đối và định tội Đức Chúa Trời trong đền thờ – chẳng phải đây là tất cả những chuyện mà người tin vào Đức Chúa Trời làm giữa thanh thiên bạch nhật sao? Những người định tội và chống đối Đức Chúa Trời ở đâu? Không cần tìm đâu xa. Trong số những người tin Đức Chúa Trời, bất cứ ai không tiếp nhận lẽ thật và chán ghét lẽ thật thì đều là kẻ chống đối Ngài, là kẻ địch lại Đấng Christ và là người Pha-ri-si.

Nếu con người không mưu cầu lẽ thật và không đạt được lẽ thật thì sẽ không bao giờ nhận biết Đức Chúa Trời. Khi không nhận biết Đức Chúa Trời, họ sẽ luôn thù địch với Ngài và không thể tương hợp với Ngài. Dù trong lòng ngươi có mong muốn chủ quan là yêu kính Đức Chúa Trời và không muốn chống đối Ngài đến nhường nào thì cũng vô ích. Chỉ có mong muốn hay muốn kiềm chế bản thân thì cũng vô ích, vì chuyện này không do ngươi tự quyết mà do bản tính của con người quyết định. Vì vậy, ngươi phải mưu cầu trở thành người có lẽ thật, mưu cầu thực hành lẽ thật, từ bỏ tâm tính bại hoại của mình, bước vào thực tế lẽ thật và đạt được sự tương hợp với Đức Chúa Trời; đây mới là con đường đúng đắn. Trong lòng các ngươi phải biết rằng điều quan trọng nhất trong việc tin Đức Chúa Trời là mưu cầu lẽ thật. Các ngươi phải ngộ được một số thứ thực tế về những khía cạnh nào nên bước vào đầu tiên khi bắt đầu mưu cầu lẽ thật cũng như việc các ngươi phải làm, cách tiếp cận bổn phận của mình, cách đối đãi với mọi loại người quanh mình, cách tiếp cận mọi loại sự việc và sự vật, nên áp dụng quan điểm nào khi tiếp cận và cách tiếp cận nào phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Nếu ngươi không tìm kiếm lẽ thật hoặc không hiểu nguyên tắc lẽ thật, mà chỉ biết tuân thủ quy định và xác định mọi thứ theo quy định, cũng như theo logic, quan niệm và tưởng tượng, thì cách thực hành của ngươi là sai và chỉ chứng tỏ rằng trong những năm tin Đức Chúa Trời, ngươi chỉ hết sức tuân thủ quy định mà không ngộ được lẽ thật và không có thực tế. Ngươi tuân thủ quy tắc và sống theo quan niệm và tưởng tượng thì mệt mỏi và vất vả nhưng lại chỉ là công dã tràng, và Đức Chúa Trời sẽ không khen ngợi ngươi chút nào. Đây gọi là có mệt chết thì cũng đáng đời! Nếu ngươi có sự hiểu biết thuộc linh và lĩnh hội một cách thuần túy khi đọc lời Đức Chúa Trời hoặc nghe giảng đạo và thông công thì càng trải nghiệm, ngươi sẽ càng hiểu và đạt được nhiều hơn, những thứ mà ngươi ngộ được sẽ đều là thực tế và phù hợp với lẽ thật. Khi đó, ngươi sẽ đạt được lẽ thật và sự sống. Nếu sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, những điều ngươi có được và hiểu được vẫn là những thứ của đạo lý và quy định, quan niệm và tưởng tượng cũng như quy tắc và quy định vẫn ràng buộc ngươi thì ngươi hoàn toàn tiêu tùng rồi. Điều này chứng tỏ rằng ngươi chưa có được lẽ thật và không có sự sống. Dù ngươi đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm hay nói được bao nhiêu câu chữ và đạo lý thì ngươi vẫn là một người ngớ ngẩn và hồ đồ. Mặc dù nói như thế nghe có vẻ không hay nhưng lại là sự thật. Có nhiều người đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm nhưng không thấy rằng lẽ thật và Đấng Christ nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời, và Đức Thánh Linh tể trị tất cả. Những người như vậy không hiểu biết gì và mù quáng. Có người thấy Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt con người, hoàn thiện một nhóm người nhưng lại đào thải nhiều người khác, nên họ nghi ngờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời và thậm chí cả sự công chính của Ngài. Những người như vậy có năng lực lĩnh hội không? Họ có hiểu biết gì không? Có thể nói rằng họ là những người ngớ ngẩn, không có chút hiểu biết nào. Những người ngớ ngẩn luôn nhìn mọi việc theo cách vô lý; chỉ những người hiểu lẽ thật mới có thể nhìn mọi việc một cách chính xác và phù hợp với sự thật.

Trích đoạn 8

Tính chất của vấn đề sửa đổi lời Đức Chúa Trời là gì? Nếu ngươi thay đổi lời Đức Chúa Trời hoặc sửa đổi lời Ngài, thì đây chính là sự chống đối và báng bổ Đức Chúa Trời nghiêm trọng nhất. Chỉ những kẻ thuộc giống loài Sa-tan mới có thể làm ra việc ác như thế, và họ không khác gì thiên sứ trưởng. Thiên sứ trưởng nói: “Hỡi Đức Chúa Trời, Ngài có thể tạo ra trời đất, vạn vật, làm những dấu kỳ và phép lạ – thì con cũng có thể. Ngài đã ngồi trên ngai, con cũng sẽ ngồi trên ngai. Ngài cai trị vạn quốc, con cũng cai trị vạn quốc. Ngài đã tạo ra loài người, còn con thì quản lý loài người!”. Thiên sứ trưởng kiêu ngạo như vậy đấy; nó không có chút lý trí nào. Tính chất của việc sửa đổi lời Đức Chúa Trời cũng giống như tính chất của thiên sứ trưởng. Vậy nên, sửa đổi lời Đức Chúa Trời là biểu hiện của việc trực tiếp chống đối và báng bổ Đức Chúa Trời. Người sửa đổi lời Đức Chúa Trời là những kẻ chống đối Ngài nhiều nhất và trực tiếp xúc phạm tâm tính Ngài. Đức Chúa Trời căm ghét nhất những kẻ sửa đổi lời Ngài. Có thể nói, sửa đổi lời Đức Chúa Trời chính là phỉ báng Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh, là tội lỗi không thể tha thứ. Ngoài sửa đổi lời Đức Chúa Trời, còn một việc khác cũng xúc phạm tâm tính của Ngài, đó chính là dám tùy ý thay đổi sự bố trí công tác, sau đó ban hành xuống hội thánh để mê hoặc dân sự được Đức Chúa Trời chọn, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh. Đây cũng là biểu hiện của việc trực tiếp chống đối Đức Chúa Trời và là việc xúc phạm tâm tính của Ngài. Một số người không hề có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Họ cho rằng sự bố trí công tác là do con người viết ra và đến từ con người, chỉ cần không phù hợp với quan niệm của họ là họ sẽ tùy ý thay đổi. Ngươi biết điều này vi phạm sắc lệnh quản trị nào không? (7. “Trong công việc và những vấn đề của hội thánh, bên cạnh việc thuận phục Đức Chúa Trời, phải tuân theo những hướng dẫn của người được Đức Thánh Linh sử dụng trong mọi việc. Sự vi phạm dù nhỏ nhất cũng không được chấp nhận. Phải tuyệt đối tuân phục, và không được phân tích đúng sai; việc đúng hay sai không liên quan gì đến ngươi. Ngươi chỉ cần quan tâm đến việc hoàn toàn thuận phục” (Mười sắc lệnh quản trị phải được vâng phục bởi dân sự được Đức Chúa Trời chọn trong Thời đại Vương quốc, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).) Bất cứ điều gì xúc phạm sắc lệnh quản trị thì cũng xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời, chỉ vậy mà ngươi cũng không thấy rõ sao? Một số người có thái độ quá láo xược đối với sự bố trí công tác từ Bề trên, họ cho rằng: “Bề trên bố trí công tác, còn chúng tôi thì làm việc trong hội thánh. Có những lời và những việc mà chúng tôi có thể vận dụng một cách linh hoạt, còn cụ thể thực hiện thế nào thì là việc của chúng tôi. Bề trên chỉ nói và bố trí công tác, còn người thực sự tiến hành công việc là chúng tôi. Vậy nên sau khi Bề trên giao việc, chúng tôi muốn làm thế nào thì làm, không ai có quyền can thiệp”. Nguyên tắc làm việc của họ là: Họ chỉ nghe những gì họ tin là đúng và không thèm nghe những gì họ tin là sai, họ xem niềm tin của mình là lẽ thật và nguyên tắc. Họ phản kháng bất cứ điều gì không hợp ý họ và sẽ không đội trời chung với ngươi trong những vấn đề đó. Khi những lời nói của Bề trên không hợp ý họ, họ sẽ tự tiện thay đổi cho vừa ý rồi mới ban hành xuống. Chưa được họ đồng ý thì không ai được phép ban hành. Trong khi ở những nơi khác, sự bố trí công tác từ Bề trên được ban hành mà không bị chỉnh sửa gì, thì những người này lại sửa đổi sự bố trí công tác rồi ban hành đến các hội thánh mà họ phụ trách. Những người như vậy luôn muốn gạt Đức Chúa Trời sang một bên, nóng lòng mong muốn làm cho mọi người tin vào họ, đi theo họ và vâng phục họ. Trong suy nghĩ của họ, có những phương diện mà Đức Chúa Trời không sánh bằng họ – họ cũng nên làm Đức Chúa Trời và con người nên tin vào họ. Đây chính là tính chất của chuyện này. Nếu hiểu được chuyện này, các ngươi có còn khóc lóc khi thấy họ bị cách chức không? Các ngươi có còn đồng tình với họ không? Các ngươi có còn nghĩ rằng: “Bề trên làm vậy là không phù hợp và không công bằng với mọi người. Sao lại nỡ lòng loại bỏ những người đã chịu khổ nhiều đến vậy?”. Những ai nói những lời này thì đều không có sự phân định. Họ đang chịu khổ vì ai? Có phải vì Đức Chúa Trời không? Có phải vì công tác của hội thánh không? Họ chịu khổ là để củng cố địa vị của bản thân và dựng nên vương quốc độc lập. Họ có đang phụng sự Đức Chúa Trời không? Có đang thực hiện bổn phận của mình không? Có trung thành và vâng phục Đức Chúa Trời hay không? Họ chỉ thuần túy là thuộc hạ của Sa-tan, làm việc dưới sự cầm quyền của ma quỷ, phá hoại kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời và làm nhiễu loạn công tác của Ngài. Họ đích thị là kẻ địch lại Đấng Christ! Có vài người nói: “Hãy nhìn xem họ đã chịu khổ bao nhiêu, đã bỏ ra không ít công sức để viết ra những tài liệu đó và ban hành cho các hội thánh”. Vậy Ta hỏi các ngươi, những gì họ viết có khai trí cho con người không? Rốt cuộc thì họ đang muốn đạt được mục đích gì? Ngươi có thể phân định được những điều này không? Hậu quả sẽ ra sao nếu ngươi bị họ mê hoặc? Ngươi đã cân nhắc chuyện đó chưa? Có những người còn thương hại loại người này và bảo: “Người ta đã chịu khổ quá nhiều, viết những tài liệu đó đâu hề dễ dàng. Nếu trong những gì họ viết có chút sai lệch hay méo mó, thì nhà của Đức Chúa Trời cũng nên tha thứ cho họ!”. Trong lời nói này có vấn đề gì? Chẳng lẽ chịu khổ nhiều thì có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi sao? Những người đó đang chịu khổ vì ai vậy? Nếu họ chịu khổ không phải để thỏa mãn Đức Chúa Trời và tôn vinh Ngài, mà để đạt được địa vị cho bản thân, vậy dù họ chịu khổ nhiều cách mấy thì cũng có ý nghĩa và giá trị gì? Chịu khổ theo cách ấy là ích kỷ, đê tiện, tà ác và vô sỉ! Nếu không loại bỏ kẻ địch lại Đấng Christ như thế này, thì hậu quả sẽ ra sao? Người ta sẽ có thể tùy ý gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, trở thành những kẻ chống đối Đức Chúa Trời mà bản thân không hề hay biết. Đây chẳng phải là gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời sao? Họ làm việc và chịu chút đau khổ để đạt được mục tiêu của mình, điều đó cho họ tư cách chống đối Đức Chúa Trời sao? Thế họ có nên chống đối và phản nghịch Ngài luôn không? Họ có nên tùy tiện, khinh suất và bất tuân Đức Chúa Trời không? Họ có thể muốn gì làm nấy hay không? Những người không có lẽ thật, không vâng phục Đức Chúa Trời, chỉ muốn hành động một cách mù quáng, nghĩ rằng mọi việc mình làm đều hợp lý và đúng đắn – những người này thuần túy là ma quỷ, chính là thuộc hạ do Sa-tan phái đến để gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh! Nếu ngươi không thể phân định những người như vậy, mà còn thông cảm, rơi nước mắt và cảm thấy bất bình thay cho họ, thì ngươi cũng là một kẻ nhu nhược, đần độn và hồ đồ. Có thể ngươi còn nghĩ: “Bề trên làm việc cũng đâu có hợp ý người. Họ đã phải chịu khổ rất nhiều, vậy mà Bề trên thẳng tay cách chức họ”. Nếu ngươi nói như vậy, thì ngươi cũng là thuộc hạ của Sa-tan và thuộc về ma quỷ. Có nhiều người sống theo các triết lý Sa-tan, không bao giờ vạch trần hay tố giác những lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ. Đến một ngày, chỉ khi những kẻ địch lại Đấng Christ gây ra họa lớn, họ mới phát hiện rằng những kẻ địch lại Đấng Christ thực sự mê hoặc con người. Một số người vẫn còn những quan niệm về chuyện này, họ nghĩ: “Đức Chúa Trời là toàn năng, và Bề trên thì phải biết trong hội thánh có bao nhiêu kẻ địch lại Đấng Christ chứ, phải cần chúng tôi tố giác hay sao?”. Kẻ thốt ra được những lời như vậy chẳng phải là những kẻ lệch lạc sao? Hiện tại, Đức Chúa Trời đang công tác trong nhân tính con người, và những lãnh đạo Bề trên cũng là con người. Vậy nếu không tiếp xúc trực tiếp thì làm sao Đức Chúa Trời biết được những chuyện trong hội thánh? Đã bao nhiêu lần, khi xảy ra các vụ việc địch lại Đấng Christ, chỉ khi có người tố giác và vạch trần, rồi Bề trên hạ lệnh điều tra, thì vấn đề mới được giải quyết. Khi công tác và dẫn dắt con người trong nhân tính bình thường, Đức Chúa Trời không hề siêu nhiên chút nào, mà vô cùng thực tế. Ngài chinh phục, đánh bại và hạ nhục Sa-tan, như vậy mới thể hiện được sự toàn năng và khôn ngoan của Ngài. Công tác của Đức Chúa Trời thực tế như vậy đấy; Ngài bố trí tất cả con người, sự vật và sự việc này để dân sự được Ngài chọn có thể rút ra bài học, đạt được sự phân định và có thêm kiến thức. Một khi dân sự được Ngài chọn đạt được sự phân định, thì những lãnh đạo giả, những kẻ địch lại Đấng Christ và những kẻ ác sẽ không thể thoát khỏi “lưới pháp luật”. Đức Chúa Trời sẽ dùng sự thật để phơi bày họ, để dân sự được Ngài chọn có thể nhìn rõ và hiểu thấu họ. Chẳng phải trước đây đã có nhiều kẻ ác và những kẻ địch lại Đấng Christ bị vạch trần, đào thải hay sao? Ngươi vẫn chưa thấy rõ chuyện này ư? Vậy thì ngươi quá hồ đồ rồi!

Có những người mặc dù không hiểu một vài phương diện trong sự bố trí công tác của nhà Đức Chúa Trời, nhưng họ vẫn có thể vâng phục và nói: “Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều đúng đắn và có ý nghĩa. Nếu chưa hiểu rõ thì chúng ta phải vâng phục trước, chứ không thể phán xét Đức Chúa Trời! Chúng ta phải nghe theo sự bố trí công tác, kể cả khi chúng không phù hợp với quan niệm của mình. Bởi chúng ta là con người, mà trí óc con người thì có thể nhìn ra điều gì chứ? Chỉ cần vâng phục sự bố trí của Đức Chúa Trời, rồi một ngày nào đó chúng ta sẽ hiểu. Cho dù đến ngày đó vẫn không hiểu hết được, thì chúng ta vẫn phải vui lòng vâng phục. Là con người thì nên vâng phục Đức Chúa Trời, đây là điều chúng ta nên làm”. Nhưng có một số người lại không giống vậy, khi nhìn vào sự bố trí công tác của nhà Đức Chúa Trời, trước tiên họ sẽ nghiên cứu và nói: “Đức Chúa Trời đã phán thế này, đã yêu cầu như thế này. Tôi thấy điều thứ nhất thì được, nhưng điều thứ hai thì không phù hợp lắm. Tôi sẽ sửa đổi nó”. Những người như thế có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không? Nếu ngươi tùy tiện sửa đổi sự bố trí công tác, thì tính chất của vấn đề này là gì? Chẳng phải là gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của nhà Đức Chúa Trời sao? Những thứ đó của ngươi có phải là lẽ thật không? Nếu ngươi thực sự có lẽ thật thì tại sao lại không bày tỏ nó? Tại sao ngươi lại chỉnh sửa lời Đức Chúa Trời? Khi làm như vậy, ngươi đã bộc lộ loại tâm tính gì? Đây là tâm tính kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, không phục tùng ai cả. Đối với sự bố trí công tác của Đức Chúa Trời mà ngươi dám kén cá chọn canh, thì tâm thái và tâm tính của ngươi đang có vấn đề nghiêm trọng. Dân sự được Đức Chúa Trời chọn phải biết phân định loại người này: thứ nhất, loại người này không thể thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề mà còn tự cho rằng mình hiểu lẽ thật và không chịu phục tùng ai cả; thứ hai, khi có những quan niệm đối với sự bố trí công tác, họ không đề xuất với nhà Đức Chúa Trời mà lại đi lan truyền khắp nơi; thứ ba, khi có những quan niệm đối với Đức Chúa Trời và công tác của nhà Đức Chúa Trời, họ chẳng những không giải quyết vấn đề mà còn kích động dân sự được Ngài chọn nảy sinh quan niệm về Ngài, nổi dậy phản đối Ngài, buộc Ngài phải làm theo ý họ và cuối cùng khiến Ngài khuất phục. Căn cứ vào ba biểu hiện này, có thể xác định loại người này là thứ gì. Họ có phải là người mưu cầu lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời không? Tuyệt đối không phải. Họ hoàn toàn không mưu cầu lẽ thật, lại còn bất mãn với Đức Chúa Trời. Họ có những quan niệm đối với Đức Chúa Trời và còn lan truyền chúng, khiến mọi người đều nảy sinh quan niệm đối với Ngài và nổi dậy phản đối, chống đối Ngài. Căn cứ vào điểm này, có thể xác định họ là kẻ địch lại Đấng Christ chính cống, họ trăm phần trăm là những kẻ địch lại Đấng Christ. Nên xử lý những người này như thế nào? Vẫn dùng tình yêu để giúp đỡ họ sao? Vô ích thôi, vì họ không tiếp nhận lẽ thật. Hay là tỉa sửa họ? Cũng đều vô ích, vì họ không tiếp nhận lẽ thật. Nếu tin Đức Chúa Trời mà lại không thể tiếp nhận lẽ thật thì đây là một vấn đề nghiêm trọng, không ổn rồi! Nếu ngươi nhìn nhận vấn đề này quá đơn giản và nghĩ rằng chẳng có gì to tát, thì một ngày nào đó ngươi sẽ xúc phạm Đức Chúa Trời. Ta đã từng thấy những người như vậy. Dù chưa bị thanh trừ, nhưng thật ra kết cục của họ đã được định đoạt từ lâu: họ chính là đối tượng sẽ bị đào thải.

Con người tin Đức Chúa Trời thì ít nhất phải có lòng kính sợ Ngài. Kính sợ Đức Chúa Trời là gì? Nghĩa là con người phải sợ Đức Chúa Trời, làm gì cũng phải cẩn trọng, chừa đường lui cho bản thân, không phải muốn làm gì thì làm. Chẳng hạn, khi nhà Đức Chúa Trời cách chức một vài lãnh đạo giả, có người cho rằng: “Chuyện này rất khó nói, chúng ta cũng không biết rốt cuộc họ đã làm gì, dù có biết thì cũng không thể nhìn thấu tính chất những việc họ làm. Đức Chúa Trời làm gì cũng đúng, chắc chắn một ngày nào đó Ngài sẽ làm rõ mọi chuyện để chúng ta hiểu được ý Ngài”. Nếu ngươi không hiểu tại sao nhà Đức Chúa Trời làm vậy nhưng vẫn có thể vâng phục, thì ngươi là người khá ngoan đạo và có chút lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Còn nếu ngươi không hiểu mà lại còn chống đối Đức Chúa Trời và gây nhiễu loạn cho công tác hội thánh, thì ngươi gặp rắc rối rồi. Mỗi khi hội thánh cách chức các lãnh đạo giả và khai trừ những kẻ địch lại Đấng Christ, luôn có một số người ủng hộ nhiệt thành sẽ cảm thấy giận dữ bất bình, vì vấn đề này mà công khai phán xét Đức Chúa Trời, nói rằng Đức Chúa Trời bất công và đòi Đức Thánh Linh phơi bày chuyện này. Loại người này dù có rao truyền phúc âm và thực hiện bổn phận xuất sắc đến đâu thì cũng vô dụng. Một lần phản bội sẽ vĩnh viễn định đoạt vận mệnh của ngươi. Ngươi phải nhìn thấu thực chất của sự phản bội, đừng nghĩ rằng chẳng có gì to tát. Có thể nói rằng mỗi người trong các ngươi đều đã chống đối Đức Chúa Trời, đều đã đôi lần vi phạm, nhưng tính chất lại khác nhau. Tính chất của chuyện này quá nghiêm trọng, là công khai phán xét và chống đối Đức Chúa Trời. Một số người luôn thích viết thứ này thứ kia, viết những bức thư rồi phát tán bừa bãi trong hội thánh, làm vậy có hợp với các nguyên tắc không? Những gì họ viết có phải lời chứng thật sự không? Chúng có phải là trải nghiệm sự sống không? Chúng có mang tính xây dựng cho dân sự được Đức Chúa Trời chọn không? Nếu câu trả lời là không, mà họ lại phát tán bừa bãi trong hội thánh, thì họ đang mê hoặc người ta, truyền bá tà thuyết và những lý lẽ sai trái, bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen và nói xằng nói bậy. Có người còn muốn viết sách và phát hành cho các hội thánh để trở nên nổi tiếng. Tấm gương của Phao-lô chưa đủ để dạy cho người ta những bài học sâu sắc sao? Ngươi vẫn còn muốn viết sách, muốn viết “tự thuật danh nhân”, “Sơ lược về Lẽ thật”. Ngươi đúng là không có lý trí! Có bản lĩnh thì hãy viết vài bài chứng ngôn trải nghiệm của bản thân xem. Trong bấy nhiêu năm tin Đức Chúa Trời, ngươi vẫn chưa chịu đủ phán xét và đau khổ sao? Ngươi vẫn chưa thể nhìn thấu điều này sao? Con người thì hiểu được điều gì chứ? Những câu chữ đạo lý mà ngươi giảng thậm chí không thể giải quyết vấn đề của chính ngươi, vậy mà ngươi còn muốn cung ứng cho người khác, thật là không tự mình biết mình một chút nào! Tại sao nhà Đức Chúa Trời lại phải in và phát hành sách một cách thống nhất? Bởi vì hầu hết những cuốn sách này chứa lời của Đức Chúa Trời, phần còn lại là những chứng ngôn trải nghiệm chân thực của dân sự được Đức Chúa Trời chọn. Đây đều là những điều tích cực và cần thiết cho dân sự được Đức Chúa Trời chọn. Nên những quyển sách mà hội thánh phát hành một cách thống nhất cũng đều cần thiết đối với công tác của hội thánh và lối vào sự sống của dân sự được Đức Chúa Trời chọn. Cách làm việc này cũng đến từ sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Các ngươi đều có thể thấy rõ, những quyển sách do nhà Đức Chúa Trời ban hành một cách thống nhất đều có giá trị nhất và cần thiết nhất. Trong thâm tâm, các ngươi biết rõ những lợi ích mà mình có thể nhận được khi nghe các bài giảng. Vậy nếu các ngươi phân định được những điều mà các lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ lan truyền, thì ngươi sẽ thực sự phân định được các lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ. Nhưng với vóc giạc hiện tại, ngươi chỉ hiểu được nhiều đạo lý trong đức tin vào Đức Chúa Trời, chứ chưa hiểu thấu được lẽ thật. Có những điều quan trọng mà ngươi vẫn chưa hiểu hết, cảm thấy mơ hồ, giống như ngắm hoa trong sương mù. Vậy nên ngươi vẫn chưa có chút thực tế lẽ thật nào, và cũng chưa biết phân định. Bất kể là người nào, có biểu hiện và nói năng thế nào trong hội thánh, ngươi cũng không thể phân định rõ ràng. Lại có những người cho rằng chỉ cần có tài hùng biện thì có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời, không có tài hùng biện thì không thể trình bày chứng ngôn trải nghiệm của mình. Điều này có đúng không? Nói như vậy là hoàn toàn sai lầm. Nếu ngươi có chứng ngôn trải nghiệm thì nói thế nào cũng là thực tế. Còn nếu không có chứng ngôn trải nghiệm thì có giảng đạo lý hay cách mấy cũng không thực tế. Tại sao vậy? Một người biết thuyết giảng câu chữ đạo lý không có nghĩa là họ sở hữu thực tế lẽ thật. Dù họ có hiểu được chút lẽ thật, thì sự hiểu biết đó cũng rất nông cạn và hạn chế, họ căn bản không thể viết ra bất kỳ chứng ngôn trải nghiệm nào. Nếu một người không có chứng ngôn trải nghiệm nhưng vẫn trơ trẽn thuyết giảng câu chữ đạo lý và giáo huấn người khác, thì họ đã trở thành người Pha-ri-si đạo đức giả, chỉ có thể bịa đặt chứng ngôn giả để mê hoặc mọi người, đây là chuyện bị Đức Chúa Trời nguyền rủa. Việc một người có thể đưa ra chứng ngôn đích thực hay không không phụ thuộc vào tài hùng biện của người đó. Hãy nhìn chứng ngôn trải nghiệm của Phi-e-rơ mà xem, ông đã viết bao nhiêu bức thư? Ông đã viết bao nhiêu bài chứng ngôn? Có thể chỉ có vài bài, nhưng Đức Chúa Trời đã ca ngợi Phi-e-rơ là người hiểu Ngài nhất, và là người thực sự yêu mến Ngài. Nếu ngươi thực sự có chứng ngôn trải nghiệm, thì chắc chắn ngươi đã thay đổi, đã trở nên trung thực hơn, không còn hành động nóng nảy hay làm những gì mà ngươi cho là tốt. Một khi ngươi nhận ra sự nhỏ bé, bần cùng và đáng thương của con người, ngươi sẽ không còn dám hành động tùy tiện hay viết sách, viết tiểu sử nữa. Những ai luôn muốn viết sách, viết tiểu sử, luôn muốn tạo dựng danh vọng cho mình dưới danh nghĩa cống hiến, thì đều là những kẻ kiêu ngạo tự đại và đầy dã tâm, không biết tự lượng sức, không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, mà chỉ thích hành động theo ý mình. Những người thực sự mưu cầu lẽ thật đều chú trọng làm tròn bổn phận của mình, hiểu rõ lẽ thật và hành động theo nguyên tắc. Làm tròn bổn phận, biến đổi tâm tính, bước vào thực tế lẽ thật và sở hữu chứng ngôn trải nghiệm đích thực – họ cảm thấy những điều này tuyệt vời hơn bất cứ gì khác. Những ai có thể mưu cầu theo cách này thì mới là những người thông minh và có lý trí nhất.

Trích đoạn 9

Nô-ê, Áp-ra-ham và Gióp trong Cựu Ước, nhân tính của họ đều có đặc trưng gì? Họ có đặc trưng nào trong nhân tính bình thường nên Đức Chúa Trời mới chấp nhận họ? (Thưa, họ đặc biệt có lương tâm và lý trí.) Hoàn toàn chính xác. Gióp sống đến từng tuổi đó, Đức Chúa Trời chưa bao giờ đích thân nói gì với ông, cũng không hiện ra trước mặt ông, vậy mà ông có thể lĩnh hội được, cảm nhận được mọi điều Ngài làm. Đến cuối cùng, Gióp còn đúc kết ra một câu nói thể hiện nhận thức đối với Đức Chúa Trời: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Câu nói này có ý nghĩa gì? Nó có nghĩa là: “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo Hóa. Ngài là Đức Chúa Trời của tôi, Ngài phán một câu, cho dù tôi chỉ có thể hiểu được một nửa cũng phải nghe theo, và không được làm theo một cách nửa vời”. Chỉ khi nhận thức của Gióp đối với Đức Chúa Trời đạt đến mức này, Đức Chúa Trời mới chấp nhận ông. Gióp có những trải nghiệm, thể nghiệm như vậy, thêm nữa ông có thể tiếp nhận và vâng phục sự thử luyện mà Đức Chúa Trời dành cho mình. Những điều này có được là dựa trên cơ sở ông có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Bất kể ông đã nhìn thấy Đức Chúa Trời hay chưa, bất kể Đức Chúa Trời đã làm gì với ông, bất kể Đức Chúa Trời đã thử luyện ông hay đã hiện ra với ông hay chưa, từ đầu đến cuối ông đều cho rằng: “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của tôi. Đối với những việc Đức Chúa Trời giao cho và những điều làm vui lòng Ngài, cho dù tôi có hiểu hay không thì vẫn phải tuân thủ. Tôi phải đi theo con đường của Ngài, phải nghe lời và vâng phục Ngài”. Trong Sách Gióp có ghi rằng, các con của Gióp thường tổ chức tiệc tùng nhưng ông chưa bao giờ tham gia. Thay vào đó, ông cầu nguyện và dâng lễ vật toàn thiêu thay cho chúng. Việc Gióp thường làm điều này chứng tỏ rằng trong thâm tâm ông biết rằng Đức Chúa Trời căm ghét thói ăn uống, vui chơi cũng như lối sống tiệc tùng của loài người. Trong lòng Gióp hiểu rằng đây là lẽ thật, và mặc dù ông chưa trực tiếp nghe Đức Chúa Trời phán điều này, nhưng trong lòng ông biết rằng đây chính là ý của Đức Chúa Trời. Vì Gióp hiểu được ý của Đức Chúa Trời nên ông có thể nghe lời và vâng phục Ngài. Lúc nào ông cũng luôn tuân theo điều này và không bao giờ tham gia vào việc ăn uống tiệc tùng. Gióp có hiểu lẽ thật không? Không. Ông có thể làm được điều này vì ông có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Ngoài lương tâm và lý trí, điều quan trọng nhất là ông có đức tin thực sự vào Đức Chúa Trời. Từ sâu thẳm trái tim mình, ông thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, và những gì Đấng Tạo Hóa nói đều là ý muốn của Đức Chúa Trời. Theo cách nói thời nay, đó là lẽ thật, là chỉ thị cao nhất, và đó là điều mà con người phải tuân theo. Bất kể con người hiểu ngầm được một ý của Đức Chúa Trời, hoặc một vài câu chữ mà Đức Chúa Trời phán, chỉ cần họ có thể tiếp nhận và tuân thủ, thì đó chính là lý trí mà con người nên có. Khi con người có lý trí này rồi, họ sẽ dễ dàng tuân theo, thực hành và vâng phục lời của Đức Chúa Trời hơn nhiều. Khi đó, chắc chắn sẽ không còn những khó khăn, đau khổ hay bất kỳ chướng ngại nào nữa. Gióp có hiểu được nhiều lẽ thật không? Ông có biết về Đức Chúa Trời không? Ông có biết Đức Chúa Trời có gì và là gì, hay tâm tính và thực chất của Ngài không? So với con người ngày nay, ông không biết và cũng hiểu rất ít về Ngài. Tuy nhiên, Gióp có được một điều, đó chính là hiểu được gì thì thực hành cái đó, sau khi hiểu thì sẽ nghe lời, tuân theo. Đây là chỗ cao quý nhất của nhân tính trong ông, và cũng là cái mà người khác hay xem thường nhất. Con người cho rằng: “Chẳng phải Gióp đã không tham gia tiệc tùng hay sao? Chẳng phải Gióp đã luôn dâng lễ toàn thiêu trước mặt Đức Chúa Trời hay sao? Theo cách nói ngày nay, chẳng phải Gióp đã không hề tham hưởng sự nhàn hạ của xác thịt hay sao?”. Đây chẳng qua chỉ là những chuyện bề ngoài, nhưng nếu nhìn nhận vào thực chất tâm tính và nhân tính của Gióp đằng sau sự việc này, ngươi sẽ hiểu đây không phải là một việc đơn giản, không phải là việc dễ dàng đạt được. Yêu cầu một người dân bình thường không tiệc tùng, người đó vì để tiết kiệm tiền thì sẽ dễ dàng làm được, nhưng Gióp lúc bấy giờ là một người giàu có, làm gì có người giàu có nào lại không tiệc tùng chứ? Vậy Gióp đã làm thế nào để có thể tuân thủ việc không tiệc tùng? (Ông biết Đức Chúa Trời căm ghét điều đó, nên ông có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác.) Đúng vậy. Việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác của Gióp được thực hành cụ thể như thế nào? Đó là ông biết những gì Đức Chúa Trời ghét chính là điều ác, vì vậy ông đã tuân theo lời của Đức Chúa Trời, việc Đức Chúa Trời ghét thì ông sẽ không làm, tuyệt đối không làm, ai nói cũng không làm theo, đây chính là kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Vậy Gióp làm sao có thể làm được việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác? Trong lòng ông đã nghĩ gì? Ông làm sao để có thể không làm những điều ác đó? Đó là vì ông có một tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Có tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là trong lòng ông sợ Đức Chúa Trời, tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại, trong lòng có địa vị dành cho Đức Chúa Trời. Không phải ông sợ Đức Chúa Trời trông thấy, cũng không phải là sợ Đức Chúa Trời tức giận, mà là vì ông tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại, sẵn lòng thỏa mãn Đức Chúa Trời, tuân thủ lời của Đức Chúa Trời, nên có thể kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác. “Kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” – lời này ngày nay ai cũng có thể nói, nhưng mọi người không biết Gióp đã làm được việc đó như thế nào. Thực ra, Gióp xem “kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” là đại sự cơ bản nhất trong việc tin Đức Chúa Trời, nên ông có thể tuân thủ câu này như là đang tuân thủ các điều răn, ông nghe lời Đức Chúa Trời vì trong lòng tôn kính Ngài là vĩ đại. Những điều mà Đức Chúa Trời nói, trong mắt những người xem thường chúng thì chỉ là một câu nói bình thường, nhưng trong lòng Gióp, đó là câu nói tối cao, là câu nói lớn nhất, quan trọng nhất. Cho dù là một câu nói mà con người xem thường, chỉ cần là lời của Đức Chúa Trời thì con người nên tuân theo, dù có bị chế giễu, phỉ báng cũng phải tuân theo, dù có lâm vào hoạn nạn hay chịu bách hại cũng phải tuân theo đến cùng, không được bỏ cuộc, đây chính là kính sợ Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa là mọi lời mà Đức Chúa Trời yêu cầu thì ngươi đều phải tuân theo, những việc mà Đức Chúa Trời quy định không được phép làm, những việc mà Ngài ghét, ngươi không biết thì đã đành, nhưng một khi đã biết thì nhất định không được làm, dù có bị gia đình từ mặt, bị người ngoại đạo cười chê, thậm chí là bị những người xung quanh mỉa mai chế giễu, thì ngươi vẫn có thể tuân thủ. Vì sao lại phải tuân thủ lời của Đức Chúa Trời? Xuất phát điểm của ngươi, nguyên tắc của ngươi là gì? Chính là: “Tôi phải tuân thủ lời của Đức Chúa Trời, thực hành theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Việc mà Đức Chúa Trời thích thì tôi kiên quyết phải làm, còn việc mà Đức Chúa Trời ghét thì tôi kiên quyết phải từ bỏ. Ý muốn của Đức Chúa Trời tôi không biết thì đã đành, nhưng nếu đã biết, đã hiểu thì tôi nhất định phải nghe theo và vâng phục, không ai có thể ngăn cản. Dù cho đến ngày tận cùng của thế giới cũng không thay đổi”. Đây chính là kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác.

Tiền đề để con người có thể đạt được việc lánh khỏi điều ác chính là có một tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Lòng kính sợ Đức Chúa Trời từ đâu mà có? Chính là từ việc tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại. Tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại có nghĩa là gì? Có nghĩa là biết rằng Đức Chúa Trời có quyền tối thượng trên mọi thứ, và trong lòng kính sợ Đức Chúa Trời, vì vậy trong bất kỳ việc gì con người cũng có thể sử dụng lời Đức Chúa Trời để đánh giá, sử dụng lời Đức Chúa Trời làm tiêu chuẩn và nguyên tắc của mình. Đây chính là tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại. Nói một cách đơn giản, đó chính là trong lòng có Đức Chúa Trời và luôn nhớ tới Đức Chúa Trời, làm việc gì cũng không được quá chìm đắm mà quên hết mọi sự, không được tự mình đảm đương hết mà phải để cho Đức Chúa Trời chủ trì và làm chủ. Trong mọi việc, con người phải nghĩ rằng: “Tôi tin vào Đức Chúa Trời và đi theo Đức Chúa Trời. Tôi chỉ là một tạo vật nhỏ bé được Đức Chúa Trời chọn lựa. Tôi nên từ bỏ những chủ trương, kiến nghị và những quyết định xuất phát từ ý muốn của mình, và để Đức Chúa Trời làm chủ. Đức Chúa Trời là Chúa của tôi, chỗ dựa của tôi, và là ngọn đèn dẫn đường cho tôi trong mọi việc tôi làm. Tôi phải làm mọi việc theo lời và ý muốn của Ngài, không được đặt mình lên hàng đầu”. Đây chính là trong lòng có Đức Chúa Trời. Khi ngươi muốn làm điều gì đó, đừng bốc đồng, đừng lỗ mãng. Trước tiên hãy nghĩ đến lời Đức Chúa Trời phán như thế nào, làm như thế liệu Đức Chúa Trời có căm ghét không, có phù hợp với ý muốn của Ngài không. Trước tiên, ngươi hãy tự hỏi lòng mình, suy nghĩ và cân nhắc, đừng hấp tấp. Hấp tấp là bốc đồng, do sự nóng nảy và ý muốn của con người mà ra. Nếu ngươi luôn hấp tấp và bốc đồng thì chứng tỏ là trong lòng ngươi không có Đức Chúa Trời. Vậy thì khi ngươi nói rằng mình tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại, chẳng phải đó chỉ là những lời nói suông sao? Thực tế của ngươi ở đâu? Không có thực tế thì ngươi không thể tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại. Trong bất kỳ việc gì ngươi cũng tự mình chủ trì, luôn làm theo ý mình. Ngươi nói rằng mình có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, vậy chẳng phải là nói bừa sao? Đây chính là đang lừa gạt người khác. Người có lòng kính sợ Đức Chúa Trời sẽ có biểu hiện cụ thể gì? Đó là tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại. Biểu hiện cụ thể của việc tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại chính là trong lòng có chỗ cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có vị trí quan trọng nhất trong lòng họ và họ để Đức Chúa Trời chủ trì, nắm quyền trong lòng mình. Khi có chuyện xảy ra, họ có tấm lòng vâng phục Đức Chúa Trời chứ không lỗ mãng, không hấp tấp và không dựa vào sự nóng nảy; trái lại, họ có thể bình tĩnh đối mặt và lắng lòng trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật. Khi làm việc, ngươi theo lời Đức Chúa Trời hay theo ý mình, ngươi để ý muốn của mình chủ trì hay để lời Đức Chúa Trời chủ trì, việc đó phải xem trong lòng ngươi có Đức Chúa Trời hay không. Ngươi nói rằng trong lòng mình có Đức Chúa Trời, nhưng khi có chuyện xảy ra, ngươi lại mù quáng làm loạn, để bản thân là người quyết định và để Đức Chúa Trời sang một bên, đây là biểu hiện của việc trong lòng có Đức Chúa Trời sao? Khi có chuyện xảy ra, một số người cũng có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nhưng sau khi cầu nguyện thì họ vẫn ngẫm nghĩ rằng: “Tôi thấy thế này là được hoặc tôi thấy thế kia là được”. Đó đều là ý của cá nhân ngươi, ai thông công với ngươi, ngươi cũng không nghe. Đây chẳng phải là biểu hiện của việc không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời sao? Vì ngươi không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật và không thực hành lẽ thật, nên khi ngươi nói rằng mình tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, thì đó chỉ là những lời nói suông. Những người trong lòng không có Đức Chúa Trời và không thể tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại là những người không có tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Những người không thể tìm kiếm lẽ thật khi gặp chuyện và không có lòng vâng phục Đức Chúa Trời đều là những người thiếu lương tâm và lý trí. Nếu thực sự có lương tâm và lý trí, khi gặp chuyện họ tự nhiên sẽ có thể tìm kiếm lẽ thật. Trước tiên họ phải nghĩ rằng: “Tôi tin vào Đức Chúa Trời. Tôi đến để mưu cầu sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Vì tôi có tâm tính bại hoại, làm việc gì cũng muốn chính mình chủ trì, luôn đi ngược lại ý muốn của Đức Chúa Trời, nên tôi bắt buộc phải hối cải, không thể tiếp tục phản nghịch Đức Chúa Trời như vậy nữa. Tôi phải học cách vâng phục Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời phán như thế nào, nguyên tắc lẽ thật là gì, tôi bắt buộc phải tìm kiếm”. Đây là tư tưởng và ý chí nảy sinh từ lý trí của nhân tính bình thường, đây là nguyên tắc và thái độ khi làm việc. Khi có lý trí của nhân tính bình thường, ngươi sẽ có thái độ này; khi không có lý trí của nhân tính bình thường, ngươi sẽ không có thái độ này. Vậy nên, việc có lý trí của nhân tính bình thường là điều mấu chốt và rất quan trọng. Điều này có quan hệ trực tiếp đến việc con người có hiểu được lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi hay không.

Trước: Những nguyên tắc một người nên cư xử

Tiếp theo: Những lời về việc tìm kiếm và thực hành lẽ thật

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger