Cách mưu cầu lẽ thật (8)

Mấy ngày vừa qua, chúng ta đã thông công về chủ đề cách phân định các phương diện khác nhau của tố chất, phải không? (Thưa, phải.) Thông qua việc thông công về biểu hiện cụ thể của các phương diện khác nhau của tố chất và các trình độ tố chất, liệu các ngươi có thể tổng kết được thế nào là tố chất tốt, tố chất trung bình, thế nào là tố chất kém và thế nào là không có tố chất hay không? Chúng ta đã thông công khá nhiều về phương diện này rồi, nên các ngươi phải có thể tổng kết được nội dung này, sau đó phải biết đối chiếu với bản thân trong đời sống thường nhật. Có như vậy, khi các ngươi đánh giá bản thân và đánh giá người khác mới tương đối chính xác hơn một chút. Nếu không biết tổng kết, thì khi gặp phải một vài người trong đời sống thường nhật, ngươi sẽ không biết phân định, đối với những biểu hiện và sự bộc lộ trong các phương diện khác nhau của bản thân, ngươi cũng không biết phân định. Như vậy chẳng phải là đã nghe vô ích rồi sao? Ngươi phải giỏi việc tổng kết. Tổng kết nghĩa là gì? Nghĩa là từ trong những nội dung cụ thể của đủ loại phương diện này mà tìm ra được nguyên tắc để phân định hoặc nguyên tắc để nhận biết các loại sự việc, sự vật, như vậy thì sẽ đạt được mục đích của việc tổng kết. Khi tìm được nguyên tắc rồi, ngươi sẽ biết vận dụng nguyên tắc lẽ thật để nhìn nhận con người và sự vật, biết phân định các loại người, cũng biết phân định bản thân, như vậy chứng tỏ ngươi hiểu lẽ thật rồi. Khi đã hiểu một phương diện của lẽ thật và biết vận dụng nó, ngươi có thể đạt đến bước vào thực tế lẽ thật của phương diện này. Vậy, có phải cũng cần tổng kết một chút đối với những nội dung cụ thể về các phương diện khác nhau của tố chất hay không? (Thưa, phải.) Phải tổng kết một chút, như vậy người ta mới có thể hiểu rõ về nguyên tắc lẽ thật liên quan đến phương diện tố chất.

Đối với người có tố chất tốt thì nên đánh giá tổng thể như thế nào, có phải là cần phải biết nguyên tắc hay không? (Thưa, phải.) Chúng ta đã thông công một cách chi tiết về nhiều biểu hiện cụ thể, và dùng những biểu hiện cụ thể này để đánh giá tố chất của một người như thế nào. Vậy biểu hiện tổng thể của người có tố chất tốt là gì? Là trong lòng họ có những nguyên tắc cụ thể về cách hành xử và hành động. Trong trường hợp không hiểu lẽ thật hoặc chưa nghe về lẽ thật, thì họ cũng đã có một vài nguyên tắc cơ bản nhất trong việc nhìn nhận con người và sự việc, trong cách hành xử và hành động rồi. Nghĩa là họ đã có một vài ranh giới trong việc làm người. Đến một mức độ nhất định, những ranh giới làm người này tương đối phù hợp hoặc gần với các nguyên tắc lẽ thật, ít nhất là gần với tiêu chuẩn của lương tâm và lý trí trong nhân tính. Sau khi hiểu một vài lẽ thật, nhờ việc ăn uống lời Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự chăm tưới, cung ứng của lời Đức Chúa Trời, ngay cả khi chưa trải qua quá nhiều chuyện hoặc là chưa trải qua hoàn cảnh đặc biệt nào, thì trong lòng họ vẫn có thể hiểu được và nắm vững một vài nguyên tắc lẽ thật. Rồi trong đời sống thực tế, họ sẽ có thể vận dụng những nguyên tắc này để xử lý các loại người, sự việc và sự vật. Đương nhiên, khi họ xử lý các loại người, sự việc và sự vật thì không chỉ là xử lý các vấn đề đơn giản và đơn lẻ, mà là khi gặp phải các loại người, sự việc và sự vật phức tạp, rối rắm, họ có thể vận dụng lời Đức Chúa Trời và các nguyên tắc lẽ thật để tiếp cận và xử lý. Đây là một biểu hiện của người có tố chất tốt khi gặp phải vấn đề liên quan đến nguyên tắc. Bởi vì tố chất của họ tốt, cho nên, thông qua sự chăm tưới và cung ứng của lời Đức Chúa Trời, bản thân họ có thể tìm được nguyên tắc từ trong lời Đức Chúa Trời để nhìn nhận và xử lý các loại người, sự việc và sự vật. Loại người có tố chất tốt này có thể một mình phụ trách một mặt công tác, và tự mình hoàn thành các hạng mục công tác. Đây chính là biểu hiện của tố chất tốt. Biểu hiện chính của nó là gì? (Thưa, biểu hiện chính của nó là việc bản thân họ, thông qua sự chăm tưới và cung ứng của lời Đức Chúa Trời, có thể tìm được các nguyên tắc từ trong lời Đức Chúa Trời để nhìn nhận và xử lý các loại người, sự việc và sự vật, có thể giải quyết vấn đề một cách độc lập và một mình phụ trách một mặt công tác.) Đúng vậy, thông qua việc ăn uống lời Đức Chúa Trời, họ có thể hiểu lẽ thật và tìm được nguyên tắc để nhìn nhận và xử lý các loại người, sự việc và sự vật, có thể độc lập đảm đương công tác, như vậy mới gọi là có tố chất tốt. Lúc trước chúng ta nói rằng người ta có thể độc lập đảm đương công tác là vì họ có các loại năng lực khác nhau. Còn bây giờ, khi dùng nguyên tắc lẽ thật để đánh giá người có tố chất tốt, thì đó chính là biểu hiện của người có tố chất tốt.

Biểu hiện của người có tố chất trung bình là gì? Chắc chắn là kém xa so với người có tố chất tốt. Tuy nhiên, bất kể là người có tố chất tốt hay là tố chất trung bình, thì trước khi chưa có được sự cung ứng của lời Đức Chúa Trời và chưa hiểu lẽ thật, họ cũng không có nguyên tắc đúng đắn cho việc làm người. Muốn nắm vững nguyên tắc làm người thì phải dựa trên nền tảng là đạt được sự cung ứng từ lời Đức Chúa Trời và đạt đến hiểu lẽ thật. Chỉ có thông qua trải nghiệm thực tế, người ta mới có thể dần dần hiểu được nguyên tắc làm người. Nếu là người có tố chất trung bình, thì khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ chỉ có thể hiểu được những ý cơ bản và tiêu chuẩn được yêu cầu mà lời Đức Chúa Trời đã bày tỏ. Họ chỉ hiểu về mặt đạo lý, nhưng khi xảy ra chuyện, họ vẫn không biết vận dụng các nguyên tắc lẽ thật. Chỉ có thông qua sự hướng dẫn và cung ứng của người khác, hoặc sau khi trải qua nhiều chuyện, họ mới hiểu được một vài nguyên tắc lẽ thật cơ bản. Từ “cơ bản” này nghĩa là gì? Nghĩa là, những nguyên tắc mà họ hiểu và nắm vững này về cơ bản là những nguyên tắc đơn lẻ và tương đối đơn giản, chỉ có thể giúp họ xử lý và giải quyết những vấn đề bình thường, còn khi gặp bối cảnh hoặc tình huống phức tạp thì họ không biết phải làm việc theo nguyên tắc như thế nào. Phải có người hiểu lẽ thật hướng dẫn và giúp đỡ thì họ mới có thể ứng phó với các vấn đề phức tạp và các nhiệm vụ đa hạng mục. Đây chính là biểu hiện của người có tố chất trung bình. Biểu hiện nổi bật của người có tố chất trung bình là gì? Là họ không thể hiểu lẽ thật và tìm được nguyên tắc thực hành từ lời Đức Chúa Trời một cách độc lập. Họ không thể hiểu chính xác tiêu chuẩn theo yêu cầu của Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì. Phải có người thông công và hỗ trợ, có người giúp họ kiểm định, nói rõ và nhắc nhở, thì họ mới có thể biết được. Phải như thế này: “Đây là nguyên tắc lẽ thật, mình phải ghi nhớ, phải thực hành theo nguyên tắc này, mình phải thực hiện theo sự sắp xếp công tác này”. Về phương diện lĩnh hội là vậy. Tiếp theo, về phương diện làm công tác, trong trường hợp không có bất kỳ kinh nghiệm nào trong công tác này, họ không thể nhanh chóng vận dụng các nguyên tắc lẽ thật vào việc nhìn nhận hoặc xử lý các loại người, sự việc và sự vật, mà chỉ có thể xử lý một vài công tác đơn lẻ trên nền tảng là hiểu được một vài nguyên tắc lẽ thật cơ bản. Khi gặp những công tác phức tạp liên quan đến nhiều nguyên tắc lẽ thật thì họ cần có người kiểm định, hỗ trợ và cung ứng. Đây là biểu hiện của người có tố chất trung bình. Về phương diện lĩnh hội cá nhân, họ cần người khác thông công cho, cần được giúp kiểm định. Họ cần nghe nhiều – nghe lẽ thật một phương diện thì chưa đủ, họ phải nghe lẽ thật nhiều phương diện, cuối cùng còn cần có người nói cho họ biết những nguyên tắc cơ bản trong các phương diện lẽ thật đó là gì, thì trong lòng họ mới có thể hiểu phần nào. Nhưng khi gặp phải những tình huống phức tạp, họ lại không biết nên lĩnh hội như thế nào, và vẫn phải tìm kiếm. Đây là về phương diện lĩnh hội. Về chuyện xử lý các loại sự việc trong công tác hoặc trong đời sống thực tế, thì năng lực xử lý vấn đề của họ cũng chỉ có thể đạt đến mức độ tuân thủ nguyên tắc lẽ thật để xử lý những công tác đơn lẻ. Còn khi gặp công tác phức tạp liên quan đến nhiều nguyên tắc lẽ thật thì họ có chút vất vả, cần phải tìm kiếm và cần có người kiểm định. Bản thân họ chưa chắc có thể làm tốt, họ cũng không xác định được liệu việc họ làm có phù hợp với nguyên tắc lẽ thật hay không, có lúc sẽ xảy ra sai lệch trong công tác của họ. Nhưng những sai lệch này chỉ đơn thuần là sai lệch, chứ không phải là lệch lạc, nếu là lệch lạc thì có nghĩa là tố chất kém rồi. Sai lệch và lệch lạc khác nhau: Sai lệch là làm những điều không hẳn phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, làm không tới nơi tới chốn hoặc là suy nghĩ không chu toàn, nhưng phương hướng thì không sai. Chẳng qua là vì kinh nghiệm công tác của họ không đủ hoặc vì họ hiểu lẽ thật còn nông cạn, nắm bắt nguyên tắc lẽ thật không đủ chuẩn xác, nên công tác họ làm không đủ đạt tiêu chuẩn. Cũng có thể công tác họ làm gần đạt tiêu chuẩn, nhưng muốn đạt đến hoàn toàn đạt tiêu chuẩn thì vẫn cần phải cải thiện. Đây là biểu hiện của người có tố chất trung bình. Đặc trưng chủ yếu của loại người này là gì? (Thưa, đó là không thể một mình làm tốt một công tác nào đó, mà cần có người khác giúp đỡ và hỗ trợ thì mới có thể hoàn thành một vài công tác.) Đặc trưng của họ chính là cho dù ở phương diện lĩnh hội hay là phương diện làm bổn phận, họ đều tương đối kém cỏi, về cơ bản, họ không thể độc lập làm tốt một công tác nào đó, mà cần có người hỗ trợ, kiểm định và nhắc nhở. Cho nên, lý trí cơ bản mà người có tố chất trung bình nên có chính là lúc hành động thì phải tìm kiếm và chờ đợi nhiều hơn. Đối với những chuyện mình nhìn không thấu thì phải nhanh chóng tìm kiếm một cách khiêm tốn – hoặc là tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời để làm nền tảng cho bản thân, hoặc là tìm kiếm từ cấp trên – đừng hành động một cách mù quáng và mơ hồ. Sau khi công tác một thời gian, nếu thấy mình còn nhiều chỗ mình mơ hồ thì hãy nhanh chóng tổng kết, ghi lại và tìm kiếm với cấp trên. Mục đích khi làm như vậy chính là để cấp trên kiểm định và xem thử những công tác ngươi làm trong khoảng thời gian này có sai lệch và kẽ hở nào không. Đừng quá tự cho mình là đúng, cho rằng mình có kinh nghiệm công tác, cũng đừng tự mình cảm thấy mình giỏi, mà phải tự biết rõ mình. Chúng ta đã nói về biểu hiện của tố chất trung bình rồi, vậy đặc trưng của người có tố chất trung bình là gì? (Thưa, không thể làm công tác một cách độc lập, cần phải có người hỗ trợ, giúp đỡ và kiểm định.) Vậy đặc trưng của họ về phương diện lĩnh hội lời Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, về phương diện lĩnh hội lời Đức Chúa Trời, họ chỉ có thể đạt đến lĩnh hội một vài nguyên tắc cơ bản, nhưng chưa thể vận dụng chúng vào công tác một cách thực tế.) Còn đặc trưng về phương diện năng lực công tác thì sao? (Thưa, về phương diện năng lực công tác, người có tố chất trung bình không thể nhanh chóng vận dụng các nguyên tắc lẽ thật để nhìn nhận hoặc xử lý các loại vấn đề. Mặt khác, họ chỉ có thể giữ vững được một công tác đơn lẻ, còn khi liên quan đến nhiều hạng mục công tác thì không nắm được nguyên tắc. Họ không biết phân chia các hạng mục công tác theo mức độ cấp bách và quan trọng để làm cho tốt các công tác, càng khỏi nói đến chuyện sắp xếp công tác một cách hợp lý. Họ cần có người kiểm định và cầm lái cho họ, luôn giúp đỡ và hỗ trợ họ, thì họ mới làm được.) Đúng vậy, người có tố chất trung bình có thể một mình làm một vài công tác đơn lẻ, hoặc là họ có thể xử lý một vài công tác đơn giản trên cơ sở là đã có kinh nghiệm công tác nhất định. Còn khi gặp phải vấn đề phức tạp, nhất là những công tác liên quan đến nhiều hạng mục nguyên tắc lẽ thật thì họ sẽ thấy mơ hồ, không biết nên thực hành như thế nào. Mới đây, họ cảm thấy nên làm thế này, một chốc sau lại cảm thấy nên làm thế kia, nhưng họ không biết cách nào mới phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Họ cũng không đánh giá được khi họ làm xong thì sẽ có hậu quả như thế nào, trong tình huống như vậy thì họ không còn đường để đi nữa. Người có tố chất trung bình chỉ có thể đảm đương một hạng mục công tác đơn lẻ, còn khi gặp phải công tác đa hạng mục hoặc công tác có chút phức tạp thì sẽ mơ hồ. Chẳng hạn như, có những lãnh đạo và người làm công trong số các ngươi, nếu được sắp xếp một hạng mục công tác thì họ còn có thể đảm đương, nhưng nếu sắp xếp cho họ hai, ba hạng mục công tác một lúc thì họ sẽ không xoay sở nổi, trong lòng dù muốn làm tốt cũng không làm được. Lúc họ đang bận rộn với công tác, chỉ cần có người hỏi vấn đề này kia, họ sẽ lập tức trở nên mơ hồ, không biết nên giải quyết như thế nào, kết quả là họ không làm không tốt được hạng mục công tác nào. Đây chính là biểu hiện của tố chất trung bình. Người có tố chất trung bình thì không thể cùng lúc đảm đương hai, ba hạng mục công tác. Nhất là khi gặp phải tình huống phức tạp hoặc là tình huống đặc biệt, thì họ lập tức trở nên mơ hồ, không biết làm như thế nào. Kết quả là những công tác vốn dĩ có thể làm tốt cũng không làm tốt được, như vậy thì hạng mục công tác mà họ đảm đương sẽ gặp rắc rối và bị chậm trễ. Cho nên, người có tố chất trung bình không thể đảm đương hai, ba hạng mục công tác cùng lúc, họ chỉ thích hợp làm những hạng mục công tác đơn lẻ và đơn giản mà thôi. Có những lãnh đạo và người làm công luôn nghĩ rằng, làm công tác rất đơn giản, nên khi người khác đưa ra vấn đề gì họ cũng không thèm để ý, không cho đó là vấn đề, còn cảm thấy đầu óc của người khác có vấn đề mới suy nghĩ mọi chuyện quá phức tạp như vậy. Kết quả là khi xảy ra vấn đề lớn và họ không giải quyết được, thì họ mới phản ánh lên trên. Những lãnh đạo và người làm công như vậy có quá ít trải nghiệm và không có sự thấu suốt. Làm công tác nào, họ cũng cho rằng sẽ thuận buồm xuôi gió, chỉ tuân thủ một vài quy định, cứ đâm đầu đi mãi một con đường mà thôi. Dù xảy ra bao nhiêu vấn đề, họ vẫn không nhận ra được, càng không nhận ra rằng nếu không giải quyết được những vấn đề này thì sẽ làm chậm trễ công tác tổng thể. Đây chính là biểu hiện của người có tố chất trung bình.

Thông thường, nếu người có tố chất trung bình mà có nhân tính về mọi mặt đều đạt tiêu chuẩn, thì về cơ bản, họ có thể đảm đương công tác đơn lẻ. Lý do Ta nói họ không thể độc lập hoàn thành công tác toàn diện là bởi vì tố chất của họ chỉ có thể đạt đến mức làm tốt công tác đơn lẻ. Nghĩa là với những công tác liên quan đến hứng thú, sở thích và sở trường của họ thì tố chất của họ còn có thể đảm đương được. Nhưng khi đối mặt với sự phức tạp của công tác đa hạng mục thì họ lại mơ hồ, dù họ có chút trải nghiệm thực tế nhưng tố chất của họ vẫn không đủ tầm. Một vài người nói: “Có phải vì tôi còn trẻ quá không?”. Không phải, nếu tố chất của ngươi bình thường, thì kể cả khi đã qua 40, 50 tuổi, ngươi vẫn không thể đảm đương được công tác đa hạng mục. Tại sao lại nói như vậy? Vì dù thông qua trải nghiệm thực tế mà ngươi tích lũy được đôi chút, có thể làm được một vài công tác đơn lẻ, nhưng ngươi vẫn cần có người hướng dẫn, kiểm định hoặc theo sát thì mới có thể độc lập hoàn thành công tác – chứ chẳng bao giờ có thể độc lập đảm đương công tác đa hạng mục. Điều này cho thấy ngươi có tố chất trung bình. Có vài người sau nhiều năm trải nghiệm cũng tích lũy được một vài kinh nghiệm, đạt đến hiểu một vài nguyên tắc lẽ thật, nhưng họ vẫn không thể đảm đương được công tác đa hạng mục, nhất là công tác nào buộc họ phải một mình phụ trách một mặt công tác. Khi gặp phải tình huống phức tạp, họ lại trở nên mơ hồ, không biết phân chia công tác theo mức độ cấp bách và quan trọng. Người như vậy chắc chắn có tố chất trung bình. Về năng lực công tác của một người, kinh nghiệm công tác chỉ chiếm một phần, chứ không chiếm thế chủ đạo, tố chất và năng lực về các phương diện khác nhau mới chiếm thế chủ đạo. Kinh nghiệm công tác chẳng qua chỉ cho ngươi sự tham khảo, đương nhiên cũng là thứ có giá trị, bởi vì nó xuất phát từ trải nghiệm, nhưng những kinh nghiệm công tác thực tế này không thể giúp ngươi nắm vững nguyên tắc của công tác đa hạng mục một cách chính xác hơn. Nếu ngươi có tố chất tốt, thực sự hiểu nguyên tắc lẽ thật, thì dù ngươi không có kinh nghiệm công tác hoặc sự từng trải của ngươi không mấy phong phú, ngươi vẫn có thể độc lập đảm đương công tác tổng thể, cũng có thể một mình phụ trách một mặt công tác. Nhưng người có tố chất trung bình thì không đạt đến việc độc lập hoàn thành công tác tổng thể, họ chỉ có thể hoàn thành công tác đơn lẻ, còn phải thường xuyên cần người nhắc nhở, kiểm định, giúp đỡ và hướng dẫn. Cho nên, đối với người có tố chất trung bình mà nói, ngươi đừng tưởng rằng ngươi có thể làm tốt một công tác đơn lẻ nào đó là có thể đảm đương công tác đa hạng mục hoặc có thể một mình phụ trách một mặt công tác rồi. Nghĩ như vậy là ảo tưởng, là nhận thức sai lầm. Có khoảng cách giữa chuyện ngươi có thể độc lập hoàn thành một công tác đơn lẻ với chuyện ngươi có thể một mình hoàn thành công tác đa hạng mục – nghĩa là một mình phụ trách một mặt công tác, chuyện này ngươi cứ từ từ thể nghiệm thì sẽ biết. Những lời này có lẽ không dễ hiểu lắm, chỉ có người nào đã từng làm lãnh đạo và người làm công nhiều năm và có trải nghiệm thực tế thì mới có thể hiểu được, còn anh chị em bình thường có lẽ sẽ không hiểu lắm, đúng không? Lãnh đạo và người làm công từng đảm đương công tác đa hạng mục nên đã có trải nghiệm thực tế, họ hiểu được sự khác biệt trong vấn đề này – khi làm công tác thì họ có nguyên tắc, còn người có tố chất trung bình sẽ không với tới được chuyện này. Biểu hiện của người có tố chất trung bình vậy là đã được tổng kết xong.

Tiếp theo, chúng ta cùng tổng kết lại những biểu hiện của người có tố chất kém. Biểu hiện của người có tố chất kém chắc chắn là kém hơn người có tố chất trung bình một chút. Vậy biểu hiện của người có tố chất kém là gì? Đó là thông qua việc tự mình tìm kiếm hoặc ăn uống lời Đức Chúa Trời, dù về mặt câu chữ, họ có thể hiểu được ý nghĩa trong từng câu, từng đoạn của lời Đức Chúa Trời, hiểu được tâm ý và yêu cầu của Ngài là gì, nhưng họ lại hoàn toàn không hiểu được nguyên tắc lẽ thật hay tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nghĩa là, Đức Chúa Trời có tiêu chuẩn yêu cầu gì về cách nhìn nhận con người và sự việc, cách hành xử và hành động của con người, cũng như nguyên tắc lẽ thật trong chuyện này là gì, thì họ đều không hiểu. Khi tự mình độc lập ăn uống lời Đức Chúa Trời thì họ đọc mà không hiểu được những điều này, sau khi tiếp xúc với con người, sự việc và sự vật trong đời sống thường nhật, họ vẫn không hiểu, kể cả khi đã được thông công, họ vẫn không hiểu nguyên tắc lẽ thật là gì. Loại người này có một đặc trưng: đó là dù không hiểu nguyên tắc lẽ thật là gì, nhưng họ vẫn dựa vào cảm giác để có thể tổng kết ra quy định họ cần tuân thủ là gì. Những gì họ có thể nhớ chỉ là quy định, là một dạng giáo điều rập khuôn, một bộ khuôn phép. Chẳng hạn như, khi Đức Chúa Trời thông công một phương diện nào đó của nguyên tắc lẽ thật, Ngài đưa ra các ví dụ về những biểu hiện tích cực, biểu hiện tiêu cực, sự lĩnh hội đúng đắn và sự lĩnh hội lệch lạc của con người, cùng đủ loại biểu hiện khác, thì người có tố chất kém cuối cùng sẽ đạt được cái gì từ chuyện này? Họ nói: “Tôi biết rồi. Đức Chúa Trời không cho làm việc này, không cho làm việc kia. Đức Chúa Trời không cho ăn cái này, không cho ăn cái kia. Đức Chúa Trời không cho nói lời như thế này, không cho nói lời như thế kia, không cho dùng từ như vậy”. Họ ghi nhớ những điều này và cứng nhắc tuân thủ những điều này, cho rằng đây chính là nguyên tắc lẽ thật, nếu tuân thủ những quy định, câu nói và cách làm này thì nghĩa là đang tuân thủ nguyên tắc lẽ thật. Bất kể ngươi có nói rằng đây chỉ là tuân thủ quy định như thế nào đi nữa, họ cũng không tiếp nhận, họ chỉ muốn giữ vững quy định này, cho rằng mình đang thực hành lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Đối với loại người không có hiểu biết thuộc linh này thì không còn cách nào khác, nếu họ muốn tuân thủ quy định thì cứ để họ tuân thủ, chỉ cần họ không có ý định sai trái là được. Ví dụ như, có một lần Ta nói: “Khi cầu nguyện, các ngươi phải sùng kính, đừng cầu nguyện một cách tuỳ tiện. Nếu hoàn cảnh thích hợp thì tốt nhất là quỳ xuống mà cầu nguyện, cúi mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời mà cầu nguyện. Hơn nữa, khi cầu nguyện, các ngươi phải an tĩnh lòng mình trước mặt Đức Chúa Trời, dùng hết lòng mà cầu nguyện. Như vậy là sùng kính, cũng là có lòng kính sợ Đức Chúa Trời”. Người có tố chất kém nghe xong chỉ ghi nhớ một quy định, “Cầu nguyện mà muốn có lòng sùng kính và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, thì phải quỳ xuống”. Họ xem việc phải quỳ xuống cầu nguyện là nguyên tắc lẽ thật để tuân thủ, cho rằng đây chính là thực hành lẽ thật. Cho nên, bất kể trong hoàn cảnh nào họ đều nhất định phải quỳ xuống để cầu nguyện, lúc ăn cơm mà muốn cầu nguyện cũng phải chui xuống dưới gầm bàn để quỳ và cầu nguyện. Khi làm việc ngoài đồng, bất kể mặt đất bẩn cỡ nào, trong đất đai có thứ gì, họ cũng phải quỳ xuống để cầu nguyện. Thậm chí khi gặp phải tai họa hay chuyện lớn gì lúc ở giữa những người ngoại đạo, nếu muốn cầu nguyện với Đức Chúa Trời, họ cũng phải tìm một nơi kín đáo để quỳ xuống cầu nguyện. Họ cảm thấy cầu nguyện như vậy mới hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, cho nên, bất kể trong trường hợp nào, họ cũng phải quỳ xuống để cầu nguyện. Họ còn cho rằng làm như vậy là đang thực hành lẽ thật, còn cảm thấy mình là người có lòng sùng kính nhất, tuân theo con đường của Đức Chúa Trời nhất, là người yêu thích lẽ thật nhất, là người có thể thuận phục lẽ thật và lời Đức Chúa Trời nhất. Ngươi xem, đây là biểu hiện của người có tố chất kém. Sự lĩnh hội của loại người này kém và có vấn đề. Họ luôn quy định nguyên tắc vào trong một câu nói hoặc một quy định nào đó. Họ dùng phương thức lý giải câu chữ và kiến thức để lý giải lẽ thật, đương nhiên, họ cũng dùng phương thức tuân thủ quy định, câu chữ, câu nói và hình thức để thực hành lẽ thật. Bất kể ngươi thông công về nguyên tắc lẽ thật như thế nào, khi nghe xong, họ cũng chỉ cho đó là một câu nói, một quy định, một cách hành động hay một khẩu hiệu. Với họ, đây là chuyện tuân thủ một khuôn phép. Họ xem việc thực hành lẽ thật chỉ đơn giản như vậy, tức là chỉ giữ vững những chuyện nào được làm, những chuyện nào không được làm, là xong.

Người có tố chất kém, khi nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động, đều dùng quy định để đánh giá và tiếp cận. Bất kể hoàn cảnh bên ngoài hay con người, sự việc và sự vật xung quanh thay đổi như thế nào, họ vẫn cứ tuân thủ quy định đó một cách bất biến. Nếu ngươi nói họ không yêu thích lẽ thật và không thực hành lẽ thật, thì trong lòng họ sẽ thấy oan ức, nói rằng: “Tôi đã vứt bỏ nhiều như vậy, chịu khổ nhiều như vậy, đã tuân thủ và thực hành nhiều lời Đức Chúa Trời như vậy, tại sao lại nói tôi không yêu thích lẽ thật, không thực hành lẽ thật chứ? Tại sao lại còn nói tôi tuân thủ quy định? Oan uổng cho tôi quá!” Việc họ có thể nói ra những lời như vậy cho thấy vấn đề gì? Loại người có tố chất kém như vậy thì biểu hiện chính của họ là gì? Tố chất của họ kém ở chỗ nào? Họ hoàn toàn không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, cho nên bất kể được thông công về lẽ thật ở phương diện nào nhiều đến đâu, thì cuối cùng, họ chỉ quy về một cách hành động, một quy định, một câu nói hoặc một hình thức, chứ không phải là một nguyên tắc. Nếu ai đó nói một câu hoặc dùng một từ trái với quy tắc kia của họ, thì đối với họ, đó là làm trái với nguyên tắc lẽ thật. Như vậy thì thật phiền phức. Cho nên, người có tố chất kém, một mặt sẽ dùng đủ loại quy định, đủ loại hình thức, câu chữ và cách hành động để quy định rằng mình có thực tế lẽ thật. Mặt khác, còn có một chuyện phiền phức nữa: đó là họ thường dựa vào những đạo lý mà mình thường nói, những quy định và cách hành động mà mình thường tuân thủ để đánh giá người khác, thậm chí là đánh giá Đức Chúa Trời. Ngoài việc đánh giá ra, họ còn thường xuyên xét đoán người khác và Đức Chúa Trời, quy định người khác và Đức Chúa Trời. Chẳng hạn như, khi Ta nói: “Bình thường, Ta không dám ăn đồ lạnh, vì ăn vào dạ dày sẽ không chịu nổi. Nên nói chung là Ta không ăn đồ ăn sống hay đồ ăn lạnh”. Người có tố chất kém nghe xong thì nói: “Con hiểu ý Ngài rồi, sau này con sẽ chú ý không để Ngài ăn đồ sống hay lạnh nữa, bất kể lúc nào cũng không để Ngài ăn đồ sống hay lạnh”. Nhưng đến mùa hè, thời tiết oi bức, dâu tây ở nông trại chín rồi, một hôm Ta đến nông trại ăn hai quả dâu tây, người đó nhìn thấy liền có ý nghĩ: “Chẳng phải Ngài nói không ăn đồ sống và lạnh sao? Chẳng lẽ dâu tây không lạnh sao? Lúc trước chẳng phải Ngài nói ăn đồ lạnh thì dạ dày sẽ khó chịu sao? Vậy sao hôm nay Ngài lại ăn dâu tây chứ? Đây không phải là nói dối sao?” Trong lòng người đó nghĩ như vậy, chỉ là miệng không nói ra thôi. Các ngươi nói xem, người đó nhìn nhận sự việc có chính xác không? (Thưa, không chính xác.) Không chính xác ở chỗ nào? (Thưa, người đó xem một câu nói của Đức Chúa Trời là một quy định để đánh giá mọi thứ, mà không xem xét bối cảnh khi Đức Chúa Trời nói lời đó.) Người đó không biết những lời của Ta muốn nói điều gì. Trong trường hợp bình thường, sau khi ăn đồ sống và lạnh thì dạ dày Ta sẽ không thoải mái, nhưng cũng có trường hợp đặc biệt chứ. Chẳng hạn như, có lúc làm việc khiến cơ thể nóng lên, cộng thêm thời tiết nóng nực, nhiệt độ lên đến khoảng 30 độ, thì những đồ sống và lạnh này không đến mức quá lạnh, trong trường hợp này, Ta có thể ăn một lượng nhỏ, chứ không phải tuyệt đối không thể ăn. Cái gọi là “không thể ăn” chỉ có nghĩa là trong trường hợp bình thường thì không thể ăn, nhưng vào mùa hè nóng bức thì ăn một lượng nhỏ cũng được. Người có tố chất kém thì nghe mà không hiểu lời này. Người đó nghe xong thì chỉ xem đó như một loại quy định hoặc công thức, khi gặp những trường hợp đặc biệt, cũng áp dụng công thức này, thấy không áp dụng được thì trong lòng lại nghĩ không thông: “Không phải Ngài nói Ngài không thể ăn đồ sống và lạnh sao? Sao bây giờ lại ăn chứ? Chẳng phải là Ngài nói dối sao?” Việc người đó không thể hiểu lời Ta nói là do người đó kém ở chỗ nào? (Thưa, người đó không có năng lực lĩnh hội.) Người đó kém ở chỗ không biết dựa vào sự thay đổi của hoàn cảnh và các trường hợp đặc biệt để phán đoán và lĩnh hội chuyện này. Người có tố chất đủ dùng mà nhìn qua, họ sẽ biết rằng làm việc xong thì cơ thể sẽ nóng lên, cộng thêm thời tiết nóng nực, và sự thật rằng những loại trái cây này cũng không quá lạnh, ăn một lượng nhỏ cũng không thành vấn đề với Ta, đây là chuyện rất bình thường. Họ có thể hiểu và nghĩ thông suốt về chuyện này. Nhưng người có tố chất kém thì không nghĩ thông được, họ mắc kẹt ở điểm này và nảy sinh quan niệm trong lòng. Một khi quan niệm được hình thành thì sẽ gây ra hậu quả gì? Là dễ xét đoán và lên án người khác. Phải vậy không? (Thưa, phải.) Đương nhiên, chuyện nhỏ này cũng không phải là vấn đề gì lớn, nhưng họ vẫn cứ canh cánh mãi trong lòng: “Như vậy chẳng phải là nói dối sao? Thì ra Ngài cũng nói dối!”. Ngươi xem, chỉ một chuyện rất nhỏ vậy thôi mà họ đã dễ dàng quy định và xét đoán. Chuyện này còn chưa phải là chuyện gì to tát, mà họ đã nảy sinh quan niệm rồi. Người có tố chất kém thì ngay cả với chút chuyện nhỏ này, họ cũng không nhìn thấu và không có chút phân định. Cho dù nhìn nhận chuyện gì, họ cũng áp dụng quy định của mình một cách cứng nhắc, còn cho rằng người ta phải giữ vững quy định thì mới có lẽ thật. Bất kể ngươi nói năng và hành động phù hợp với nguyên tắc lẽ thật đến thế nào đi nữa, chỉ cần không hợp với quan niệm và tưởng tượng của họ, động chạm đến quy định trong nhận thức của họ, thì trong lòng họ sẽ xét đoán và lên án ngươi. Tuy rằng miệng họ không nói ra, nhưng trong lòng họ đã có quan niệm hoặc thành kiến với ngươi. Những người có tố chất kém này, bất kể đã nghe bao nhiêu bài giảng hoặc đã được thông công về phương diện lẽ thật nào, thì họ cũng luôn biến tất cả thành một cách nói, cách hành động hoặc một quy định, hơn nữa họ còn vô cùng hăng hái tuân thủ những cách nói, cách hành động và quy định này, còn cho rằng mình là người thực hành lẽ thật, mình có thể thuận phục lẽ thật và kính sợ Đức Chúa Trời. Thậm chí có lúc họ còn khiến bản thân cảm động đến phát khóc, cảm thấy mình thực sự yêu kính Đức Chúa Trời, thiên hạ chẳng có ai có thể yêu kính Đức Chúa Trời hơn mình. Thực ra, những gì mà họ tuân thủ chỉ là một quy định, một cách hành động. Họ thực hành như vậy và cứ cố chấp tuân thủ, mãi không thay đổi, còn cho rằng mình đã đạt được lẽ thật và được Đức Chúa Trời hoàn thiện rồi. Ngươi nói xem, như vậy có phiền phức hay không? (Thưa, phiền phức.)

Có phải các ngươi cũng thường xuyên bắt gặp những người tuân thủ quy định hay không? (Thưa, phải.) Chẳng hạn như, ngươi nói với người nấu ăn rằng, thời tiết bắt đầu nóng rồi, hãy pha chút trà đá mỗi ngày, làm đồ uống lạnh, khi dọn cơm thì trộn rau sống, cũng chính là món salad mà người phương Tây hay nói tới, như vậy mọi người sẽ dễ ăn cơm hơn. Người có tố chất kém liền ghi nhớ rằng: lúc thời tiết quá nóng thì nên ăn rau trộn, uống đồ lạnh, họ ghi nhớ và tuân thủ rất tốt. Nhưng có một ngày, thời tiết hạ nhiệt, họ mặc kệ có lạnh hay không, chỉ nghĩ rằng: “Bây giờ là mùa hè thì tôi phải làm món rau trộn và đồ uống lạnh, ngày nào tôi cũng làm để anh ăn cho thoả thích, cho mát lạnh tận tim, chứ tôi không quan tâm thời tiết có hạ nhiệt hay không!” Họ không chỉ làm món rau trộn, mà mì trộn cũng phải chần qua nước lạnh, ăn xong lại dọn ra đồ uống lạnh, còn bỏ thêm vài viên đá. Có người nhìn thấy thì nói: “Hôm nay lạnh như vậy, sao anh vẫn làm rau trộn? Đồ uống đã lạnh còn bỏ đá vào, anh muốn làm người ta đóng băng à?” Người nấu ăn cảm thấy đau lòng: “Tâm địa của mình xấu xa vậy sao? Mùa hè nóng như vậy, mình làm thế này chẳng phải là vì để cho mọi người thấy mát mẻ và có thể ăn được nhiều hơn sao? Chẳng phải mình đang tuân thủ nguyên tắc và hiểu cho mọi người sao? Mình sai ở đâu? Lại còn nói mình muốn làm mọi người bị lạnh cóng, mình thất đức vậy sao? Nhân tính của mình xấu xa vậy sao? Mọi người không biết hiểu cho người khác quá rồi!” Họ nấu ăn như vậy có phải là đang tuân thủ nguyên tắc không? Vậy nguyên tắc ở đây là gì? Là điều chỉnh chế độ ăn uống theo mùa và nhiệt độ. Mùa hè trời nóng thì ăn một số món ăn hoặc đồ uống tương đối mát mẻ có thể giúp người ta dễ ăn hơn, đây có phải là nguyên tắc không? Đây là nguyên tắc. Nhưng bây giờ nhiệt độ giảm mạnh, thì nguyên tắc này nên vận dụng như thế nào? (Thưa, khi nhiệt độ giảm mạnh thì không thể cứ làm rau trộn hay salad như trước nữa, mà phải dựa vào thời tiết để nấu những món ăn nóng, không thể cứ tuân thủ quy định như vậy được.) Đúng vậy, vào mùa hè, thỉnh thoảng thời tiết hạ nhiệt, thì ngươi không thể cứ khăng khăng giữ nguyên cái kiểu “mùa hè phải làm rau trộn và đồ uống lạnh”, không thể cứ tuân thủ cái quy định này. Nhiệt độ giảm mạnh thì việc ăn uống lập tức cũng phải thay đổi, không làm rau trộn và đồ uống lạnh được nữa, càng không thể thêm đá vào, thay vào đó, phải xào các món nóng, nấu chút mì nóng, phải dựa vào nhiệt độ và thời tiết để điều chỉnh việc ăn uống, đây chính là nguyên tắc. Nhưng người có tố chất kém thì không quan tâm nhiệt độ cao thấp hay thời tiết thế nào, chỉ cần là mùa hè thì họ sẽ giữ chặt cái kiểu làm đồ uống lạnh, làm rau trộn – đây là vấn đề gì? (Thưa, là tuân thủ quy định.) Đây là tuân thủ quy định, họ không biết vận dụng một cách linh hoạt theo tình hình. Người có tố chất kém thường có biểu hiện này khi làm việc, họ ghi nhớ một câu nói và xem đó là quy định để tuân thủ, bất kể hoàn cảnh, con người, sự việc và sự vật có sự thay đổi như thế nào, họ cũng không biết vận dụng nguyên tắc một cách linh hoạt để xử lý. Thực ra, nguyên tắc trong khía cạnh ăn uống được đặt ra nhằm đạt kết quả là giúp người ta ăn vào thấy cơ thể dễ chịu, những nguyên tắc này hoàn toàn không phải là quy định. Tuy nhiên, những người tuân thủ quy định thì bất kể nhiệt độ hay thời tiết như thế nào, bất kể ngươi ăn vào có thấy dễ chịu hay không, chỉ cần là mùa hè thì họ sẽ khăng khăng làm rau trộn và đồ uống, đây gọi là tuân thủ quy định. Thực hành theo nguyên tắc nghĩa là mọi việc mà chúng ta làm đều xoay quanh kết quả tốt đẹp cuối cùng. Còn tuân thủ quy định nghĩa là bất kể kết quả như thế nào, họ cũng chỉ chú trọng hình thức và chú trọng cách làm. Người có tố chất kém mà xử lý vấn đề thì sẽ làm theo cách như vậy, cho dù gặp chuyện gì, họ cũng dùng cách xử lý này.

Người có tố chất kém thì bất kể gặp phải chuyện gì, họ cũng không nhìn thấu được. Ngay cả khi đọc lời Đức Chúa Trời hoặc nghe giảng đạo thì sự lĩnh hội của họ cũng có chút lệch lạc và khó tránh khỏi có sai lệch. Bởi vì họ đang tuân thủ một quy định, một cách hành động và một nghi thức, chúng hoàn toàn khác với các nguyên tắc lẽ thật, cho nên từ đó sẽ nảy sinh ra rất nhiều thứ lệch lạc. Có thể nói, dù đối mặt với chuyện gì thì sự lĩnh hội của người có tố chất kém đều mang chút tính chất lệch lạc. Mặc dù trong những chuyện đơn giản và dễ làm, họ có thể đạt đến mức độ nghe lời và thuận phục, không xuất hiện sự sai lệch, nhưng khi liên quan đến những chuyện mang tính nguyên tắc hoặc là chuyện tương đối phức tạp, thì họ lại không nắm vững được nguyên tắc lẽ thật, chỉ biết tuân thủ quy định mà thôi. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Loại người có tố chất kém này hoàn toàn không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, chỉ biết tuân thủ quy định. Loại người này cũng rất phiền phức, họ rất nhiệt tình và kiên quyết trong việc tuân thủ quy định. Nếu ngươi thông công với họ, nói rằng: “Anh đang giữ quy định, chứ không phải đang tuân thủ nguyên tắc lẽ thật”, thì họ vẫn không tiếp nhận. Họ cảm thấy “Tôi đang kiên vững tuân thủ nguyên tắc, không thể thỏa hiệp với người khác! Người khác không tuân thủ nguyên tắc thì bị định tội, tôi giữ vững nguyên tắc mà cũng bị định tội, vậy thì bất công quá!” Thấy họ cố chấp như vậy, thì ngươi không thuyết phục họ nổi đâu. Có phải các ngươi cũng đã từng gặp qua loại người này rồi không? (Thưa, phải.) Chẳng hạn như, Ta bảo vài người rằng: “Nếu ngươi muốn học múa, thì lúc công tác không bận, mỗi ngày tranh thủ luyện tập hai tiếng, kiên trì một thời gian là sẽ học được”. Họ ghi nhớ câu nói: “Mỗi ngày kiên trì luyện tập hai tiếng”, rồi cho rằng mỗi ngày kiên trì luyện tập hai tiếng chính là thực hành lẽ thật và giữ vững nguyên tắc. Sau đó, dù làm bổn phận bận rộn đến đâu, mỗi ngày họ đều kiên trì tập múa hai tiếng đồng hồ. Trong những ngày mà công tác của hội thánh rất bận rộn, bận từ sáng đến tối, một ngày căn bản không dư ra được hai tiếng đồng hồ để tập, nhưng họ vẫn cứ muốn tập múa hai tiếng. Người khác nhắc nhở họ rằng làm vậy thì sẽ khiến công tác của hội thánh bị chậm trễ, nhưng họ vẫn không nghe, còn nói: “Việc tôi tập múa hai tiếng đồng hồ là do Đức Chúa Trời dặn dò, tôi phải làm như vậy. Nếu tôi không làm như vậy thì nghĩa là tôi không nghe lời và không có sự thuận phục”. Ngươi bảo họ đừng làm thì họ không chịu. Họ không biết dựa vào nhu cầu công tác hay nhu cầu của hoàn cảnh để xử lý và vận dụng cho linh hoạt. Họ không biết tại sao phải tập luyện hai tiếng đồng hồ, ý nghĩa của việc tập luyện hai tiếng đồng hồ là gì, kết quả cần đạt được là gì, những điều này họ đều không hiểu và không biết rõ. Đối với họ, thực hành lẽ thật chính là giữ vững một câu nói, một quy định hay một hình thức là đủ rồi, họ cho rằng như vậy là đang thực hành lẽ thật. Bất kể có đạt được kết quả hay không, bất kể kết quả như thế nào, họ cứ cứ đâm đầu đi mãi một con đường, mười con trâu cũng không kéo lại được. Ngay cả khi đã lệch lạc trong việc thực hành, họ vẫn cứ làm mãi như vậy, đã được nói cho biết đây là sai lầm mà họ vẫn cứ làm. Người như vậy có phải là rất phiền phức không? Ai thông công với họ cũng không được. Ngươi khó khăn lắm mới giải thích rõ cho họ, thì hôm nay họ đã hiểu được trong chuyện này, nhưng ngày mai lại tuân thủ quy định trong chuyện khác, mãi không dứt ra được, và ngươi cứ phải chỉnh đốn họ suốt. Họ không lệch sang trái thì lệch sang phải, không lệch trong chuyện này thì lại lệch trong chuyện kia, cứ lệch mãi không thôi. Ngươi thấy mà sốt ruột, nhưng có cố đến mấy vẫn không chỉnh đốn được họ, bởi vì sao? Vì tố chất của họ quá kém, đối với những điều tích cực và tiêu cực, phải và trái, đúng và sai, lẽ thật và quy định, họ chẳng bao giờ phân biệt rõ ràng được, chẳng có tiêu chuẩn để phân ranh giới, chẳng có năng lực để phân ranh giới giữa chúng, đơn giản là họ không biết phân ranh giới. Cho nên, những người có tố chất kém chỉ có thể làm một vài công tác mang tính quy định, việc vặt hoặc là những công tác đơn lẻ không liên quan đến nguyên tắc lẽ thật, chẳng hạn như làm việc theo thông lệ mỗi ngày, mấy giờ, mấy phút làm việc này, rồi mấy giờ mấy phút lại làm việc kia – nghĩa là họ chỉ có thể làm những công tác đơn giản, vốn chỉ cần giữ vững thời gian, hình thức và cách làm là có thể làm tốt. Nhưng đối với những công tác phức tạp hơn một chút thì họ không làm được, hễ được yêu cầu phải làm theo nguyên tắc lẽ thật và phải đạt được kết quả nào đó, thì họ không làm được. Nếu sắp xếp cho họ một hạng mục công tác cần họ vận dụng nguyên tắc lẽ thật cho linh hoạt, xử lý các loại vấn đề cho thỏa đáng và cần thích ứng theo hoàn cảnh, thì họ sẽ trở nên mơ hồ và không làm nổi. Phải có người giúp đỡ và chỉ bảo cho họ mới được, ngươi cũng đừng hy vọng một mình họ có thể làm tốt công tác. Vậy nên đối đãi như thế nào với loại người này? Mặc dù mỗi ngày, họ có thể kiên trì làm bổn phận theo thông lệ, nhưng hễ gặp trường hợp không ngờ thì họ sẽ không biết đối phó như thế nào, có khi còn ngưng làm bổn phận. Đối với loại người này, phải thường xuyên hỏi han và kiểm tra công tác của họ, hỏi rằng: “Trong khoảng thời gian này có chuyện gì gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh không? Có gặp vấn đề gì phức tạp mà không biết xử lý như thế nào không?” Họ suy nghĩ một hồi rồi nói: “Trong khoảng thời gian này, mọi chuyện đều rất ổn. Mọi người đều đang làm bổn phận, đều có thể nhóm họp và ăn uống lời Đức Chúa Trời bình thường. Không có ai gây nhiễu loạn và gián đoạn, cũng không nghe thấy ai tuôn ra những luận điệu sai lầm để mê hoặc người khác”. Họ không phát hiện được vấn đề gì, cũng không biết nên phản ánh cái gì, ngay cả chuyện đặt câu hỏi mà họ cũng làm được. Cho nên, ngươi đừng trông mong rằng khi có vấn đề xảy ra trong cuộc sống hiện thực hoặc trong lúc làm bổn phận thì tự họ có thể xử lý và giải quyết, hoặc là khi họ không biết xử lý thì có thể tìm kiếm và hỏi cấp trên, những điều này họ đều không đạt đến được, bởi vì tố chất của họ không đủ. Nếu loại người này không phản ánh vấn đề lên cấp trên, thì người ta còn tưởng rằng họ không gặp vấn đề gì, thực ra đâu phải như vậy. Đối với những vấn đề bình thường, họ cũng không phát hiện được, vấn đề chồng chất ra đó mà họ vẫn không xem đó là vấn đề, cho nên họ cũng không đi giải quyết vấn đề. Ngươi xem, họ có một cái đầu, trên đầu còn có hai con mắt, hai cái tai, họ biết nhìn, biết nghe, biết nói, nhưng lại không thể phát hiện và giải quyết vấn đề. Bởi vì họ không có tố chất, không có năng lực phát hiện và xử lý vấn đề, nên tướng mạo bề ngoài của họ có thông minh đến mấy cũng vô dụng thôi. Họ không biết đưa những gì họ thấy và nghe được vào não để suy nghĩ, không biết phân biệt liệu những chuyện này có phải là vấn đề hay không, nên xử lý như thế nào. Nếu không xử lý được vấn đề liên quan đến nguyên tắc lẽ thật, họ cũng không biết phản ánh lên trên. Tất cả những việc này, họ đều không làm được. Đây có phải là tố chất kém không? Có phải người có tố chất kém sẽ có biểu hiện như vậy không? (Thưa, phải.) Ngươi hỏi người có tố chất kém rằng: “Trong khoảng thời gian này trong công tác có xảy ra vấn đề gì không? Có chỗ nào anh không hiểu nguyên tắc không?”. Thì họ trả lời: “Không có vấn đề gì cả, mọi người đều đang bận rộn, mọi chuyện đang được làm rất tốt!”. Đối với họ, cái gì cũng tốt cả. Là lãnh đạo và người làm công, nếu như ngươi nghe họ nói mọi thứ đều tốt mà tin ngay, thì ngươi quá ngốc rồi, ngươi cũng chỉ là người có tố chất kém như họ mà thôi. Người có tố chất tốt chẳng những biết cách tìm hiểu vấn đề, mà còn phải có thể tự mình phát hiện ra vấn đề, biết trao đổi với người khác về vấn đề đó, trò chuyện một hồi tự nhiên sẽ khơi ra được vấn đề. Khi ngươi đã phát hiện ra vấn đề và hỏi người có tố chất kém xem nên xử lý như thế nào, thì họ sẽ nói: “Vấn đề gì vậy? Sao tôi không phát hiện ra chứ?”. Người có tố chất kém sẽ không phát hiện ra vấn đề, nên khi làm việc, ngươi phải giỏi tìm hiểu và phát hiện vấn đề, còn phải nắm chặt vấn đề không buông, sau đó giúp họ xử lý và giải quyết. Ngươi phải biết cách trò chuyện với họ, hỏi han và thăm dò họ theo kiểu trò chuyện để phát hiện vấn đề, trò chuyện một hồi thì họ sẽ nói ra vấn đề lúc nào không hay. Không trò chuyện như vậy thì thực sự sẽ không phát hiện được những vấn đề này. Khi ngươi trò chuyện với họ như vậy, họ sẽ được khơi gợi, và đột nhiên phát hiện ra những vấn đề này. Nếu ngươi không tìm hiểu tình hình theo cách này, thì dù thực sự đã nhìn thấy những chuyện này, họ cũng không nghĩ đó là vấn đề. Vậy nên, khi phơi bày vấn đề, ngươi phải làm rõ vấn đề từng chút một, như nặn kem đánh răng vậy, cho đến khi tất cả những vấn đề này được giải quyết xong, họ mới thấy xấu hổ một chút. Đây có phải là tố chất kém không? (Thưa, phải.) Người có tố chất kém thì có biểu hiện như vậy. Ngay cả khi có vấn đề, họ cũng không phát hiện ra được, bởi vì không phát hiện được vấn đề, nên họ chẳng bao giờ nêu ra được vấn đề hoặc giải quyết được vấn đề. Ngươi nói xem, không phát hiện ra vấn đề thì có thể làm tốt công tác không? Tuân thủ quy định thì có thể làm tốt công tác không? (Thưa, không thể.) Tuyệt đối không thể làm tốt được. Đây chính là biểu hiện của tố chất kém. Khi ngươi nói tố chất của họ kém, họ còn nghĩ rằng: “Tố chất của tôi tốt mà! Đức Chúa Trời nói một chuyện, tôi nghe xong lập tức nắm chắc một cách làm, một quy định, và có thể tuân thủ nó cả đời. Anh xem, chẳng phải tố chất của tôi rất tốt sao? Các anh đều không nắm được những điểm mấu chốt, còn tôi thì có thể. Chẳng hạn như, chỉ cần bảo tôi rằng mùa hè trời nóng thì nên ăn rau trộn, là tôi sẽ liên tục làm rau trộn và dọn đồ uống lạnh cho anh, tôi có thể giữ vững quy định mà. Anh xem, các anh đều không giữ được, lại còn luôn nói đến nguyên tắc, nguyên tắc không phải là quy định sao? Giữ vững những quy định đó thì chẳng phải cũng chính là giữ vững nguyên tắc sao?” Họ còn cảm thấy tố chất của mình tốt, có thể nắm được những điểm mấu chốt của vấn đề. Trong một bài giảng dài, họ vẫn có thể tìm được một câu nói, một cách làm, một quy định, thậm chí là một câu, một từ mà họ cảm thấy phải tuân theo. Ngươi xem, như vậy có phiền phức không? Loại người như thế này rất nhiều. Ngươi thông công về chi tiết của các phương diện lẽ thật thì họ nghe mà không hiểu, còn nói: “Thật phiền phức! Cứ giảng mãi không thôi. Chẳng phải chỉ là ‘đừng nói lời đó, đừng làm loại chuyện đó’ thôi sao? Tuân thủ câu nói đó là được rồi, chỉ là chuyện của một câu nói thôi, sao lại làm ra phiền phức đến vậy chứ? Còn phân ra các tình trạng, hoàn cảnh, nhân tính của các loại người, còn phân ra cái gì mà lĩnh hội lệch lạc và lĩnh hội đúng đắn, có cần phải chi tiết đến vậy không? Có cần tỉ mỉ vậy không? Đúng là làm lố!” Họ còn lên án người khác. Đây là biểu hiện của người có tố chất kém.

Đặc trưng của người có tố chất kém là gì? Là họ không hiểu nguyên tắc lẽ thật, đối với nguyên tắc lẽ thật ở bất kỳ phương diện nào, họ đều xem đó là một loại quy định và công thức, sau đó còn miệt mài tuân thủ không biết mệt. Họ biết giảng rất nhiều đạo lý, còn tưởng rằng mình đã hiểu nguyên tắc lẽ thật, nhưng thực ra, họ hoàn toàn không hiểu lẽ thật. Nếu ngươi giải thích một vài nguyên tắc làm công tác của lãnh đạo và người làm công, bảo họ làm công tác và xử lý các loại vấn đề trên cơ sở hiểu những nguyên tắc này, thì người có tố chất kém tuyệt đối sẽ không vận dụng được. Họ không hiểu những nguyên tắc lẽ thật này, cũng không biết vận dụng những nguyên tắc lẽ thật này để làm việc. Khi bắt đầu làm việc, họ toàn tuân thủ quy định, làm theo hình thức và áp dụng các giáo điều một cách máy móc. Có một vài người cũng muốn tuân thủ nguyên tắc lẽ thật, nhưng bởi vì tố chất kém và không thể đạt đến việc hiểu lẽ thật, nên cũng không tuân thủ được nguyên tắc. Bất kể làm công tác gì hoặc gặp phải vấn đề gì, họ chỉ biết bó tay bất lực, thậm chí là rối tung cả lên, chẳng làm tốt được công tác nào cả. Khi cấp trên thông công về các nguyên tắc, họ cảm thấy mình đã hiểu, lĩnh hội, hiểu rõ và ghi nhớ chúng cả rồi. Nhưng khi gặp phải vấn đề trong cuộc sống hiện thực thì họ lại trở nên mơ hồ, những đạo lý và quy định mà họ đã hiểu họ cũng không dùng được, thế là họ nghĩ: “Mình phải làm sao đây?” Họ không biết bắt đầu làm công tác từ đâu, không biết vận dụng phương thức gì để làm công tác, không biết thực hiện sự sắp xếp công tác như thế nào, càng không biết trước mắt nên giải quyết những vấn đề nào để có thể đảm bảo công tác của hội thánh được tiến hành bình thường, những điều này, họ đều không biết. Kết quả là, họ làm công tác bao lâu chăng nữa, thì cũng chẳng có bất kỳ kết quả nào, sự sắp xếp công tác cũng không được thực hiện. Họ còn không giải quyết được vấn đề làm sao để sống đời sống hội thánh nên tốt. Ngay cả những công tác cơ bản nhất, họ đều không thực hiện được và không biết cách thực hiện. Họ chỉ biết giảng đạo lý cho người ta và bắt người ta tuân thủ quy định. Nhưng khi liên quan đến việc thực hiện sự sắp xếp công tác và làm công tác cụ thể của hội thánh thì họ lại trở nên mơ hồ và không làm được. Trong lòng họ nghĩ: “Những sự sắp xếp công tác này nên thực hiện như thế nào đây? Nên tuân thủ những quy định nào?” Những chuyện này, họ đều không nhìn thấu được. Nhưng họ vẫn còn một chiêu cuối cùng: Họ cho rằng chỉ cần nhóm họp nhiều hơn là có thể giải quyết vấn đề. Do đó, cách làm công tác của họ là nhóm họp liên tục và giảng đạo liên tục. Họ giảng đến khi thấy mọi người sôi nổi và hưng phấn thì cho rằng vấn đề đã được giải quyết, không còn vấn đề gì nữa, chỉ cần tất cả mọi người đều có tinh thần thì công tác này xem như hoàn toàn được làm tốt rồi. Kết quả là sau khi nhóm họp mấy ngày liền, chẳng những không giải quyết được những vấn đề thực tế và việc làm bổn phận vẫn không đem lại kết quả gì, mà công tác của hội thánh còn không có tiến triển gì. Ấy vậy mà họ vẫn có tâm trạng giảng đạo. Người có tố chất kém thì làm công tác bao lâu cũng không thấy được hiệu quả, cho họ bao nhiêu thời gian thì họ cũng không thực hiện được sự sắp xếp công tác, vừa không có năng suất vừa không có hiệu quả, đây chính là biểu hiện của người có tố chất kém. Người có tố chất kém thường có những biểu hiện như Ta vừa mô tả, vậy người không tố chất thì càng khỏi phải nói. Bất kể đã nghe bao nhiêu bài giảng và được người khác thông công cho họ bao nhiêu lẽ thật, họ cũng không nắm được nguyên tắc lẽ thật, thậm chí cũng không nắm được những quy định cơ bản nhất nên tuân thủ. Tố chất của họ kém đến mức này thì họ không thể với tới nguyên tắc lẽ thật. Ngay cả khi người khác thông công lẽ thật cho, họ cũng không tìm được con đường thực hành, phải có người chỉ vẽ cụ thể thì họ mới biết nên thực hành như thế nào. Loại người này như thể đầu thai làm súc sinh vậy, trong lòng họ luôn mơ hồ không rõ, mãi không phân biệt rõ ràng được cái gì là nguyên tắc và cái gì là quy định. Trong lòng họ còn nghĩ: “Sao khi nghe những thứ này đầu mình lại quay cuồng, lại buồn ngủ vậy?”. Cuối cùng họ tổng kết ra một điều: “Chẳng những mình không với tới nguyên tắc lẽ thật, mà thậm chí mình không tuân thủ được quy định, sau này trong mình có bao nhiêu nhiệt huyết thì tỏa ra bấy nhiêu ánh sáng, có bao nhiêu năng lực thì ra sức bấy nhiêu, có thể làm chút gì thì cứ làm chút đó, vậy là được rồi”. Có người còn tự an ủi mình rằng: “Mình không biết cách tuân thủ quy định, cũng không hiểu nguyên tắc lẽ thật, nhưng mình có tấm lòng yêu kính Đức Chúa Trời!” Nếu họ thực sự có thể yêu kính Đức Chúa Trời thì cũng không tệ, nhưng người có tố chất kém như thế thì ngay cả lẽ thật cũng không hiểu, vậy tình yêu kính Đức Chúa Trời của họ có thể là thật sao? Người không có tố chất thì cũng không có năng lực lĩnh hội về mọi phương diện, ngay cả năng lực để tuân thủ quy định cũng không có. Có một số người có tố chất kém nhưng khi thực hành lẽ thật, ít nhiều gì họ cũng có thể nắm bắt nửa vời về các nguyên tắc, quy định hoặc công thức, và từ đó thực hành được một chút lẽ thật. Còn người không có tố chất thì ngay cả những điều mang tính quy định, họ cũng không nắm bắt được, không tuân thủ được, đây là loại người đáng thương hơn cả.

Nếu chúng ta dùng nguyên tắc lẽ thật để đánh giá tố chất của người ta như thế này, thì những biểu hiện có liên quan chính là những biểu hiện mà chúng ta vừa mới thông công. Vậy nếu dùng tiêu chí là người ta có hiểu biết thuộc linh hay không để đánh giá, thì nên đánh giá như thế nào? Người có tố chất tốt thì chắc chắn là người có hiểu biết thuộc linh, phải không? (Thưa, phải.) Cái gọi là có hiểu biết thuộc linh có nghĩa là họ có thể hiểu lẽ thật, có thể nắm vững nguyên tắc lẽ thật và vận dụng lẽ thật để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nguyên tắc lẽ thật xuất hiện trong quá trình họ tin Đức Chúa Trời, họ cũng có thể vận dụng lẽ thật để xử lý các loại vấn đề nội bộ trong nhà Đức Chúa Trời. Vậy đối với các loại vấn đề bên ngoài thì sao? Bởi vì họ có hiểu biết thuộc linh, có năng lực xử lý các loại sự việc, cho nên, họ cũng biết vận dụng một vài nguyên tắc tương đối thuận theo nhân tính hoặc gần với những điều tích cực để xử lý những chuyện ở thế giới bên ngoài. Bởi vì các loại sự việc và sự vật có biến đổi thế nào cũng không đổi cốt lõi, và về cơ bản, người có tố chất tốt có thể nắm vững những nguyên tắc trong đó, cho nên, về cơ bản có thể nói, người có tố chất tốt là người có hiểu biết thuộc linh. Có hiểu biết thuộc linh không có nghĩa là có thể giao tiếp với cõi thuộc linh, mà là họ có thể hiểu thông suốt về nguyên lý và nguyên tắc của các loại sự việc, sự vật, đây là cách nói dễ hiểu, đơn giản và trực tiếp. Có thể hiểu được nguyên lý của sự việc, sự vật thuộc thế giới bên ngoài và các nguyên tắc liên quan đến lẽ thật chính là biểu hiện của người có tố chất tốt. Vậy dùng tiêu chí có có hiểu biết thuộc linh hay không để đánh giá biểu hiện của người có tố chất trung bình thì nên đánh giá như thế nào? Người có tố chất trung bình chính là, một nửa hiểu, một nửa không, phần thì hiểu, phần thì không. Phần mà họ có hiểu biết thuộc linh là phần mà tố chất của họ có thể đạt đến. Nhờ nghe thông công về các phương diện lẽ thật liên quan đến việc tin Đức Chúa Trời mà họ có thể hiểu được chúng, thậm chí trong trường hợp không có ai chỉ vẽ, họ vẫn có thể nắm bắt những nguyên tắc nên nắm vững trong đó. Phần mà họ không có hiểu biết thuộc linh chính là phần mà tố chất của họ không đạt đến, nếu như không có ai hướng dẫn và chỉ vẽ, thì họ sẽ không có nguyên tắc thực hành, không thể làm bổn phận một cách bình thường hoặc giải quyết được các vấn đề, họ cần được chăm tưới, hướng dẫn và chỉ vẽ thì mới biết cách làm công tác và xử lý vấn đề – đây chính là biểu hiện của mặt không có hiểu biết thuộc linh nơi họ. Về cơ bản có thể nói, người có tố chất trung bình là người có hiểu biết thuộc linh, nhưng mức độ có hiểu biết thuộc linh của họ thì kém hơn của người có tố chất tốt, họ nửa hiểu, nửa không mà thôi. Vậy họ kém ở chỗ nào? Kém ở mức độ nắm vững các nguyên tắc lẽ thật, nghĩa là họ không thể độc lập hoàn thành các hạng mục công tác khác nhau. Vậy nếu dùng chuyện có hiểu biết thuộc linh hay không để đánh giá người có tố chất kém, thì nên đánh giá như thế nào? Có dễ đánh giá hay không? Người có tố chất kém thì có có hiểu biết thuộc linh không? (Thưa, không có hiểu biết thuộc linh.) Với người có tố chất kém, ngươi chỉ cần nhìn vào biểu hiện của họ là biết họ không có hiểu biết thuộc linh, bởi vì họ chỉ biết tuân thủ quy định. Còn người không có tố chất thì thực ra là không có linh của con người, mà không có linh của con người thì cũng giống súc sinh, đều không có hiểu biết thuộc linh. Đối với loại người này thì không cần dùng tiêu chí có hiểu biết thuộc linh hay không để đánh giá. Người không có linh thì bất kể nhìn nhận chuyện gì hay là đối đãi với loại người nào, thì đều không biết đánh giá, họ cũng không có bất kỳ quan điểm nào liên quan đến những điều tích cực hay tiêu cực. Họ chỉ có chút tính toán hẹp hòi để bảo vệ lợi ích của mình và tránh bị thiệt mà thôi. Khi ngươi nói ra một quan điểm, nếu họ quen ngươi, biết ngươi có tố chất tốt và sự lĩnh hội đúng đắn, biết ngươi là nhân vật chính diện, thì họ sẽ nghe theo quan điểm của ngươi. Còn nếu không quen ngươi, thì họ sẽ khinh thường ngươi, quan điểm ngươi đưa ra có đúng đắn và phù hợp với nguyên tắc lẽ thật đến mấy, họ cũng không tiếp nhận. Họ đâu biết đó là điều đúng đắn, đâu biết đó là điều mà con người nên tiếp nhận, cũng đâu biết quan điểm tốt này có lợi ích gì đối với họ hoặc có thể mang đến cho họ bao nhiêu sự giúp đỡ – những điều này họ đều không biết. Còn khi nhân vật phản diện đưa ra một quan điểm tiêu cực, nếu nhân vật phản diện này có thế lực mạnh, là người mà họ xem trọng và sùng bái, thì dù biết tiếp nhận quan điểm tiêu cực này sẽ có hại cho mình, họ vẫn cứ tiếp nhận. Đây là loại người gì? (Thưa, là người không có tố chất.) Họ là người không có tố chất, nghĩa là không có năng lực phân biệt sự việc và sự vật. Bất kể gặp phải chuyện gì, họ cũng không nhìn thấu, cũng không có nguyên tắc mà bản thân nên tuân thủ, loại người này mà đi theo kẻ xấu, kẻ ác thì có thể làm chuyện xấu, còn đi theo người tốt thì cũng có thể làm chút chuyện tốt, vì họ không có năng lực phân biệt sự việc và sự vật mà. Cho nên mới nói, loại người này là người chết không có linh. Nếu người có tố chất kém chung sống nhiều năm với người có tố chất tốt hoặc với những người tích cực, thì họ cũng có thể được ảnh hưởng bởi những gì họ nghe và thấy, có thể học được một vài điều tốt, giữ vững một vài quy định tốt, giữ vững một vài câu nói và cách làm tích cực hoặc tư tưởng và quan điểm tích cực. Nhưng người chết không linh thì không học được và không tuân thủ được ngay cả những tư tưởng và quan điểm tích cực, những cách làm và quy định tốt, những lối nghĩ tốt, hoặc là một vài lối sống và thường thức sống tích cực. Khi sống độc lập thì trạng thái sống của một người hồ đồ nơi họ sẽ hoàn toàn bại lộ. Đây chính là biểu hiện của người chết không linh.

Người có hiểu biết thuộc linh thì ít ra cũng có tố chất trung bình, nếu có thể với tới lẽ thật và hiểu lẽ thật, thì họ là người có tố chất tốt. Người không có hiểu biết thuộc linh thì chắc chắn là có tố chất kém hoặc không có tố chất – hai loại người này chắc chắn là người không có hiểu biết thuộc linh. Chỉ người có tố chất tốt mới có thể nói là có hiểu biết thuộc linh trọn vẹn. Còn mức độ có hiểu biết thuộc linh của người có tố chất trung bình thì cũng bình thường, nghĩa là có rất nhiều chuyện mà tố chất của họ không với tới và không đạt đến có hiểu biết thuộc linh. Họ chỉ có thể đạt đến có hiểu biết thuộc linh và độc lập xử lý trong những chuyện bình thường mà thôi. Còn khi gặp phải những chuyện phức tạp hoặc công tác đa hạng mục, thì họ không độc lập xử lý được bởi vì họ không với tới hoặc là không hiểu được nguyên tắc lẽ thật có liên quan trong đó. Cho nên, mức độ có hiểu biết thuộc linh của họ rất bình thường. Đặc trưng của loại người có tố chất kém là không với tới nguyên tắc lẽ thật, chỉ biết tuân thủ quy định, bởi vì họ không hiểu được nguyên tắc lẽ thật, thậm chí không hiểu ngay cả khái niệm nguyên tắc lẽ thật là gì, lại còn cho rằng nguyên tắc lẽ thật chính là quy định. Do đó, loại người này rõ ràng là không có hiểu biết thuộc linh. Đặc trưng chủ yếu của loại người không có hiểu biết thuộc linh này là những tư tưởng và quan điểm mà họ bộc lộ ra trong cách hiểu về các loại người, sự việc và sự vật đều lệch lạc. Nên hiểu “sự lệch lạc” này như thế nào? Nghĩa là nó hoàn toàn lệch khỏi quỹ đạo tư duy của nhân tính bình thường, hoàn toàn lệch khỏi quỹ đạo nhu cầu của nhân tính bình thường, đây chính là lệch lạc. Ngươi nghe xong tư duy và lô-gic khi nói chuyện của họ thì cảm thấy kỳ quặc, mỗi lần nghe họ bày tỏ một quan điểm hoặc nói một chuyện gì đó, ngươi sẽ cảm thấy kinh ngạc. Kinh ngạc có nghĩa là gì? Là khi ngươi nghe xong thì cảm thấy khó tin, trong lòng nghĩ: “Sao họ có thể có loại ý nghĩ này nhỉ? Sao nó chẳng giống với suy nghĩ của người bình thường? Ý nghĩ này quá kỳ quặc, sao nó lại có chút mơ mộng hão huyền vậy?” Trong lòng ngươi sẽ cảm thấy vô cùng kỳ quặc và hoang đường. Người nói ra những lời luôn khiến cho người khác cảm thấy kinh ngạc chính là người lệch lạc, cực kỳ lệch lạc. Chẳng hạn như, nếu ngươi hỏi họ: “Anh ăn cơm chưa?”, thì họ trả lời: “Hôm nay trời lạnh quá”. Hai điều này có liên quan gì với nhau không? (Thưa, không.) Ngươi hỏi: “Sao hôm nay anh mặc ít vậy?”, thì họ nói: “Hôm nay tôi đã uống một tách trà gừng”. Câu trả lời đó có liên hệ tất yếu đến câu hỏi mà ngươi hỏi không? Câu trả lời của họ có tư duy và lô-gic bình thường không? (Thưa, không có.) Người có tư duy và lô-gic bình thường thì nên trả lời như thế nào? Có thể nói: “Hôm nay mặc ít áo là bởi vì trong phòng rất ấm, hơn nữa, bên ngoài nắng to, nhiệt độ hơi cao”. Hoặc cũng có thể nói: “Tôi mặc ít là bởi vì tôi vừa mới tập thể dục xong, người rất nóng”. Nhưng nếu có người hỏi: “Tại sao anh mặc ít vậy?”, mà họ trả lời: “Bởi vì hôm nay tôi đi giày bông”, câu trả lời này chẳng liên quan gì đến câu hỏi. Nghĩa là dòng suy nghĩ và lô-gic của họ không phù hợp với tư duy và lô-gic của nhân tính bình thường. Nó là một ý nghĩ và dòng suy nghĩ kỳ quái đến mức bất kỳ người có tư duy nhân tính bình thường nào cũng không nghĩ đến. Cho nên, ngươi nghe xong thì sẽ cảm thấy kỳ quặc, muốn trò chuyện với họ thì cũng không thể ăn khớp được, lúc nào cũng hỏi một đằng, trả lời một nẻo, không có cách nào nào trò chuyện tiếp được. Chẳng hạn, có một người đang học may quần áo, Ta hỏi: “Ngươi học may quần áo tới đâu rồi? Biết may áo bông chưa?” Câu trả lời phù hợp với tư duy và lô-gic bình thường sẽ là gì? (Thưa, “Đã biết may” hoặc “Chưa biết may”.) Như vậy là có lô-gic và tư duy bình thường. Hoặc cũng có thể trả lời: “Thỉnh thoảng, con may đẹp hơn một chút, người dạy may xem xong thì nói tạm được, tạm đạt yêu cầu. Nhưng những chỗ phức tạp, thì con làm chưa đạt tiêu chuẩn, và phải làm lại”. Những câu trả lời này có phải là câu trả lời của những người có tư duy và lô-gic bình thường không? (Thưa, phải.) Còn những người không có tư duy và lô-gic bình thường thì trả lời như thế nào? Ta hỏi: “Bây giờ ngươi biết may loại áo bông này chưa?” Người đó trả lời: “Con vừa mới đến là đã học may loại quần áo này”. Ta hỏi: “Vậy bây giờ ngươi biết may chưa?” Người đó vẫn trả lời: “Con vừa mới đến là đã học may loại quần áo này”. Ta tự nhủ: “Mình nghe mà chẳng hiểu nổi. Vừa mới đến đã học may loại quần áo này, vậy bây giờ có biết may hay không? Sao mình không đoán ra được?” Ta nghe lời này thì cảm thấy kỳ quặc. Ta hỏi người đó có thể may loại quần áo này hay không, thì người đó nói vừa mới đến đã học may cái này. Ta không biết sao người đó lại có thể nhảy sang chủ đề này, chuyện này có liên quan gì đến chuyện người đó biết may hay không chứ? Ta tự nhủ rằng nhảy chủ đề như vậy thì Ta không theo được. Ngay cả khi Ta hỏi hai, ba lần liên tiếp: “Vậy bây giờ ngươi có biết may không?”, người đó đều trả lời: “Vừa mới đến, con đã học may cái này, người dạy may cũng hướng dẫn con may cái này, con chủ yếu may cái này”. Ta vẫn chưa nhận được câu trả lời mà Ta muốn nghe, đến bây giờ Ta vẫn không biết rốt cuộc người đó có biết may không. Các ngươi phân tích thử xem, lô-gic trong lời này của người đó là gì, tại sao lại nói như vậy. (Thưa, lời này của người đó có chút kiểu “hỏi một đằng, trả lời một nẻo”, người ta nghe xong sẽ phải đoán ý của người đó, nhưng vẫn không biết rốt cuộc người đó có biết may hay không.) Người đó có muốn cho Ta biết hay là không? Người đó có muốn cho Ta câu trả lời chính xác không? Trong câu trả lời của người đó đang ám chỉ rằng: “Con đã nói với Ngài rồi, con vừa mới đến đã chủ yếu con học may cái này, đến bây giờ cũng đã một tuần rồi, vậy chắc chắn là con biết may rồi. Chẳng phải Ngài nên hiểu được ý con nói sao? Sao mà Ngài lại không hiểu vậy?” Các ngươi có thể hiểu được ý này thông qua câu trả lời của người đó không? (Thưa, không thể.) Nếu câu trả lời của người đó cho ngươi có được đáp án chính xác, biết người đó có biết làm hay không, thì những lời này của người đó hợp lô-gic. Nhưng câu trả lời của người đó chỉ cho ngươi một ý nghĩa mơ hồ, không để ngươi thực sự biết được liệu họ có biết làm hay không. Người nào toàn nói những lời như vậy thì chẳng phải là rất hồ đồ sao? Nếu như họ cố ý trả lời như vậy, thì đó là vấn đề về nhân phẩm; nếu họ không cố ý, mà câu trả lời của họ không liên quan trực tiếp đến đáp án mà ngươi muốn biết, thì đó là do tư duy và lô-gic của họ có vấn đề. Nếu tư duy và lô-gic có vấn đề, thì có phải loại người này có tố chất kém không? Có phải là lệch lạc không? (Thưa, phải.) Đây là một loại biểu hiện của sự lệch lạc. Người đó cho rằng “Con đã nói với Ngài rằng, lúc con mới đến đã học may cái này, vậy kết quả đương nhiên là con biết may rồi”. Đáp án mà họ muốn truyền đạt là “Con biết may rồi”. Nhưng mà người có tư duy bình thường nghe xong câu trả lời đó vẫn không có được đáp án chính xác, vì vậy, câu trả lời của người đó “Con mới đến đã học làm cái này rồi” lại chẳng có mối liên hệ lô-gic nào với việc họ muốn nói cho ngươi biết rằng họ đã biết làm cả. Vậy câu trả lời của họ có phải là nói nhảm hay không? (Thưa, phải.) Đã nói nhảm, lại còn nghĩ rằng mình biết nói chuyện và đã trả lời xong câu hỏi rồi – đây có phải là tố chất kém không? (Thưa, phải.) Đây là một trong những biểu hiện của tố chất kém. Người đó không có tư duy và lô-gic của nhân tính bình thường, cho dù ngươi hỏi thế nào, người đó cũng không nhận ra được mấu chốt của vấn đề là gì, hay tại sao ngươi cứ hỏi mãi câu đó. Hỏi đến lần thứ ba, người đó vẫn trả lời như cũ, còn thấy mất kiên nhẫn: “Sao hỏi mãi chưa xong vậy? Tôi đã nói ngay từ đầu rồi, mà anh không hiểu, vẫn cứ hỏi tiếp!” Ngay cả khi người ta hỏi đến ba lần, người đó vẫn không nhận ra được câu trả lời của mình không rõ ràng và không phải là câu trả lời mà người ta cần, mình nên đổi cách nói để trả lời đối phương rõ ràng rằng mình biết làm hay không, chứ đừng để người ta phải đoán. Người đó không ý thức được những lời mình nói ra khiến người khác cảm thấy thế nào, nghe xong thì có phản ứng gì – những điều này người đó đều không ý thức được. Đây chính là không có tố chất. Ngươi hỏi mấy lần, người đó đều trả lời giống nhau, lại còn cảm thấy những gì mình nói đều thật lòng, không giả dối, và nghĩ rằng: “Một chuyện mà anh hỏi mấy lần, tôi đều trả lời như nhau – tôi đang thực hành làm người trung thực, có cái gì nói cái đó”. Đây có phải là tố chất kém không? (Thưa, phải.) Ngươi hỏi chuyện của anh A, thì họ luôn nói chuyện của chị B, ngươi hỏi chuyện của chị B, thì họ luôn trả lời chuyện của anh A. Người không có tư duy bình thường thì tâm tư của họ không sáng sủa và tư duy lộn xộn, đây là biểu hiện chính của tố chất kém. Tóm lại, biểu hiện của những người có các loại tố chất khác nhau chính là như vậy. Dù đánh giá bằng tiêu chí là năng lực hiểu và vận dụng nguyên tắc lẽ thật, hoặc bằng tiêu chí là liệu họ có hiểu biết thuộc linh hay không, thì đều dùng những biểu hiện này. Tuy chúng ta nói có phần khái quát, nhưng có phải về cơ bản, các ngươi vẫn có thể đối chiếu lời Ta với cuộc sống hiện thực không? (Thưa, phải.) Vậy về chủ đề tố chất, có phải chúng ta đã tổng kết gần xong rồi không? (Thưa, phải.) Về chủ đề tố chất, chúng ta nói đến đây thôi.

Các ngươi nói xem, mức độ người ta chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời có liên quan gì đến tố chất tốt xấu của người ta không? Có phải người ta chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời vì tố chất của họ quá kém không? Các ngươi đã từng nghĩ đến vấn đề này chưa? Đây có phải là vấn đề không? (Thưa, đây là vấn đề.) Có vài người nói rằng: “Vì tố chất của chúng tôi kém, tố chất mà Ðức Chúa Trời ban cho chúng tôi không tốt, cho nên chúng tôi chống đối và phản nghịch Ngài rất nghiêm trọng”. Lời này có đúng không? (Thưa, không đúng.) Dựa vào những sự khác biệt giữa điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại mà trước đây chúng ta đã thông công, thì nên quy tố chất vào phương diện nào? (Thưa, điều kiện bẩm sinh.) Nên quy vào điều kiện bẩm sinh. Vậy ngươi có biết các phương diện của điều kiện bẩm sinh có liên quan gì đến nhân tính và tâm tính bại hoại của con người không? Trước tiên hãy nói về tố chất, liệu tố chất có quyết định mức độ phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời của người ta không? (Thưa, không quyết định.) Tại sao lại nói nó không quyết định? Vì điều này liên quan đến lý do tại sao người ta chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời. Có phải người ta phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời vì tố chất của họ kém không? (Thưa, không phải, mà là vì người ta có tâm tính bại hoại.) Đúng vậy, nói như vậy là phù hợp với tình hình thực tế. Ngươi chống đối, phản nghịch Đức Chúa Trời và không thể thuận phục lẽ thật, đâu phải do tố chất của ngươi kém cỏi, mà do ngươi có tâm tính bại hoại. Cho nên, ngươi không thể vì mình có thể chống đối Đức Chúa Trời mà oán trách Ngài đã ban cho ngươi tố chất kém. Tố chất hay bất kỳ phương diện nào trong điều kiện bẩm sinh vốn chỉ là một loại điều kiện của con người, chúng là những điều kiện bẩm sinh vốn có của loài thọ tạo như ngươi. Bất kể là điều kiện bẩm sinh về phương diện nào, nó sẽ không dẫn đến việc chống đối Đức Chúa Trời, cũng không liên quan gì đến tâm tính bại hoại. Chẳng hạn như, vóc dáng ngươi cao cũng không có nghĩa là tâm tính bại hoại của ngươi ít đi. Ngươi xinh đẹp và trắng trẻo, cũng không có nghĩa là ngươi không tâm tính bại hoại. Ngươi sinh ra trong một chủng tộc được mọi người xem trọng và ngưỡng mộ, cũng không có nghĩa là ngươi không có tâm tính bại hoại. Nói cách khác, cho dù Đức Chúa Trời đã ban cho người ta điều kiện bẩm sinh nào, cho dù điều kiện bẩm sinh của người ta như thế nào, thì chúng đều không liên quan gì đến tâm tính bại hoại của người ta. Chẳng hạn như, ngoại hình của người ta vốn dĩ sẽ không dẫn đến việc chống đối Đức Chúa Trời. Thế nhưng, vì con người có tâm tính bại hoại, nên khi ai đó trở nên xinh đẹp thì họ sẽ cảm thấy: “Mình xinh đẹp, nên mình phải có địa vị và được người khác tôn trọng”, đây chính là những sự bộc lộ của tâm tính bại hoại. Có những người mượn điều kiện là ngoại hình đẹp để phát huy sở trường của mình, rồi bộc lộ ra rất nhiều câu nói và hành động sai lầm. Những câu nói và hành động này đều do tâm tính bại hoại gây ra, chứ không phải do điều kiện bẩm sinh của người ta gây ra. Bất kể tố chất của ngươi tốt hay kém, thì bản thân tố chất cũng sẽ không dẫn đến việc chống đối Đức Chúa Trời. Nếu tố chất của ngươi tốt nhưng ngươi không hiểu lẽ thật hoặc không tiếp nhận lẽ thật, thì vì ngươi có tâm tính bại hoại, nên ngươi vẫn sẽ chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời như thường. Nếu như tố chất của ngươi kém, nhưng ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật, khi hiểu được Đức Chúa Trời bảo ngươi làm gì hoặc không làm gì thì có thể tuân theo, có thể không hành động theo tâm tính bại hoại, vậy thì ngươi sẽ không phản nghịch Đức Chúa Trời, không lươn lẹo trốn việc, qua loa chiếu lệ, cũng không ngoan cố theo ý mình hay tùy ý làm càn. Bất kể tố chất của ngươi kém hay không, chỉ cần ngươi có tâm tính bại hoại, thì ngay cả khi có thể hiểu lời Đức Chúa Trời, ngươi vẫn sẽ phản nghịch Ngài và chống đối Ngài. Bởi vì ngươi lấy tâm tính bại hoại làm sự sống, nên bên trong ngươi tự nhiên sẽ có thể nảy sinh ra các loại tư tưởng và quan điểm của Sa-tan, triết lý xử thế của Sa-tan và các loại quan điểm để nhìn nhận con người và sự việc của Sa-tan, ngươi sẽ khoe khoang bản thân, bảo vệ bản thân, luôn muốn trở nên nổi bật và đứng trên người khác, thậm chí muốn khống chế và thống trị người khác. Những biểu hiện này đều bắt nguồn từ bản tính Sa-tan nơi người ta. Nếu ngươi dựa vào bản tính và sự sống của Sa-tan mà làm đủ loại việc khác nhau, vậy bất kể tố chất của ngươi tốt xấu, ngươi cũng sẽ chống đối Đức Chúa Trời. Tố chất tự nó sẽ không dẫn đến chuyện chống đối Đức Chúa Trời. Nếu tố chất của ngươi kém, nhưng khi hiểu được lời Đức Chúa Trời thì ngươi có thể hành động theo lời của Đức Chúa Trời hay không? Nếu ngươi không có tâm tính bại hoại hoặc ngươi sống không dựa vào tâm tính bại hoại, thì ngươi tuyệt đối có thể đạt đến chuyện này. Ví dụ như, khi người ta có sở trường ở phương diện nào đó, họ thường cảm thấy: “Có sở trường này thì mình đã hơn người khác rồi, mình nên có địa vị trong nhà Đức Chúa Trời, nên làm lãnh đạo và trụ cột của nhà Đức Chúa Trời”. Những ý nghĩ này không phải do chuyện ngươi có sở trường gây ra, mà là do tâm tính bại hoại gây ra. Bởi vì người ta lấy tâm tính bại hoại làm sự sống, nên những gì họ bộc lộ ra, sống thể hiện ra và biểu hiện ra, cũng như những góc độ, lập trường và nguyên tắc để nhìn nhận các loại người, sự việc và sự vật của họ, hết thảy đều do họ lấy tâm tính bại hoại làm sự sống mà ra, chứ không phải là do bất kỳ điều kiện bẩm sinh nào mà Đức Chúa Trời ban cho họ. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Ta thông công những lời này là có ý gì? Mục đích của việc thông công những lời này chính là để khiến các ngươi hiểu và nhận thức rõ ràng hơn về tình hình thực tế của mình, nhận thức được tố chất của mình thế nào – đừng làm người không có lý trí, cũng đừng vì tố chất của mình trung bình hoặc kém mà vùng vẫy vô ích, thậm chí còn đưa ra những lời biện hộ vô nghĩa để cho thấy tố chất của mình không kém. Những cách làm này đều không có giá trị gì cả. Ta thông công những điều này là để khiến ngươi hiểu một cách chính xác về tố chất cũng như các năng lực khác nhau của mình, sau đó tìm được đúng vị trí của mình và làm người theo đúng chức phận của mình. Như vậy càng có lợi hơn cho ngươi trong việc làm tốt vai trò của một loài thọ tạo, đứng đúng vị trí của một loài thọ tạo, và làm tốt bổn phận của một loài thọ tạo. Đương nhiên, ở một mức độ nhất định nào đó, việc thông công những điều này cũng có lợi hơn cho ngươi trong việc thoát khỏi tâm tính bại hoại. Bất kể tố chất hoặc các năng lực khác nhau của ngươi đang ở cấp độ nào, thì chúng đều không quyết định mức độ ngươi chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời. Cũng có thể nói rằng tâm tính bại hoại của ngươi không phụ thuộc vào chuyện tố chất của ngươi ở cấp độ nào, càng không phụ thuộc vào điều kiện bẩm sinh của ngươi ra sao. Tâm tính bại hoại của người ta nảy sinh trong xác thịt bẩm sinh vốn có của con người. Sau khi con người bị Sa-tan làm cho bại hoại, thì tâm tính bại hoại đó đã trở thành sự sống bên trong con người. Khi chưa thoát khỏi tâm tính bại hoại, thì ngươi sẽ dựa vào sự sống của Sa-tan mà lợi dụng điều kiện bẩm sinh của ngươi để nói năng và hành động. Điều này cũng có nghĩa là, trước khi thoát khỏi tâm tính bại hoại, ngươi đang lợi dụng các điều kiện bẩm sinh khác nhau mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi để phục vụ mục đích của ngươi. Như vậy có thể nói: Nếu ngươi không thoát khỏi tâm tính bại hoại thì có nghĩa là ngươi đang lợi dụng hoặc chà đạp các điều kiện bẩm sinh mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi; nếu ngươi đang trong quá trình mưu cầu lẽ thật và thực hành lẽ thật để thoát khỏi tâm tính bại hoại, thì ngươi đang lợi dụng các điều kiện bẩm sinh mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi một cách chính đáng và hiệu quả; khi ngươi chuyển từ lấy tâm tính bại hoại làm sự sống sang lấy lẽ thật làm sự sống, thì ngươi đang sử dụng những điều kiện bẩm sinh mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi một cách chính đáng và đúng đắn, hoặc nói cách khác là có ý nghĩa hơn. Giờ các ngươi đã hiểu chưa? Điều kiện bẩm sinh vốn không phải là căn nguyên khiến nhân loại chống đối Đức Chúa Trời, mà chính tâm tính bại hoại của Sa-tan và sự sống mà Sa-tan gieo vào trong con người mới là căn nguyên khiến con người chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời, có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Có phải vấn đề này về cơ bản đã sáng tỏ rồi không? (Thưa, phải.)

Trước khi thông công về chủ đề tố chất này, chúng ta đã thông công một vài biểu hiện về điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Lần trước chúng ta đã thông công về những biểu hiện nào? (Thưa, những biểu hiện được thông công trong lần trước là làm việc chu đáo, làm việc có thứ tự, làm việc đầu voi đuôi chuột, làm việc thận trọng, còn có các phương diện khác như ba hoa khoác lác, cẩu thả, thích thể hiện, trọng giàu khinh nghèo, nịnh bợ quyền thế, trí nhớ siêu phàm, v.v.) Chúng ta sẽ không thông công thêm về những điều này nữa. Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công các biểu hiện khác nhau của điều kiện bẩm sinh, nhân tính và những sự bộc lộ của tâm tính bại hoại. Khi thấy những biểu hiện này, ngươi phải biết chúng thuộc về dạng biểu hiện nào, phải có thể phân biệt và phân định được chúng, khi đó ngươi mới có thể tiếp cận chúng một cách đúng đắn. Nếu có biểu hiện nào đó liên quan đến điều kiện bẩm sinh, nghĩa là thứ không thể thay đổi, thì ngươi không cần quan tâm đến nó. Nếu nó thuộc về những khuyết điểm hoặc tật xấu của nhân tính mà có thể khắc phục, chỉnh đốn, hoặc thay đổi được, thì ngươi hãy thử chỉnh đốn và thay đổi chúng. Còn nếu chúng là thứ không cần khắc phục, không ảnh hưởng đến việc ngươi làm bổn phận hoặc mưu cầu lẽ thật, thì ngươi không cần để ý đến chúng. Nếu một biểu hiện nào đó không phải là vấn đề về điều kiện bẩm sinh, cũng không phải là vấn đề về nhân tính, mà là vấn đề liên quan đến tâm tính bại hoại, vậy ngươi nhất định phải thay đổi nó. Nếu ngươi không biến đổi hoặc thay đổi nó, thì một dạng sự sống do tâm tính bại hoại chi phối sẽ cắm rễ và nắm quyền trong ngươi, những gì ngươi sống thể hiện ra và bộc lộ ra không chỉ là những vấn đề nhỏ nhặt như không hòa hợp với người khác, hoặc là khiến người ta không ưa và không đem lại sự xây dựng cho người ta. Thay vào đó, những gì ngươi sống thể hiện ra và bộc lộ ra đã lên đến mức độ làm trái với lẽ thật, làm trái với nguyên tắc lẽ thật, chống đối Đức Chúa Trời, từ bỏ Đức Chúa Trời, đối địch với Đức Chúa Trời, thậm chí có thể nói là đối lập với Ngài. Chính vì tâm tính bại hoại có tính chất như vậy, cho nên một khi những biểu hiện này liên quan đến tâm tính bại hoại thì ngươi nhất định phải nhận thức được tâm tính bại hoại đó, sau đó tìm kiếm lẽ thật, hiểu và nắm vững nguyên tắc thực hành lẽ thật, khi ngươi thực hành theo nguyên tắc lẽ thật để thay thế những tâm tính bại hoại này, thì những tâm tính bại hoại này sẽ không còn nắm thế chủ đạo trong sự sống của ngươi nữa, mà thay vào đó, lẽ thật trở thành sự sống của ngươi, nắm thế chủ đạo cuộc sống thường nhật và những gì ngươi sống thể hiện ra.

Chúng ta sẽ tiếp tục thông công về các biểu hiện khác nhau của điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Lần trước, đã thông công đến biểu hiện cuối cùng là trí nhớ tốt, phải không? (Thưa, phải.) Vậy biểu hiện hay quên thì thuộc phương diện nào? (Thưa, thuộc điều kiện bẩm sinh.) Nó là điều kiện bẩm sinh, cũng là khuyết điểm của nhân tính, chỉ thuộc hai phương diện này thôi. Vậy hay quên có phải là tâm tính bại hoại không? (Thưa, không phải.) Rõ ràng là không phải. Có người hay quên là bởi vì bẩm sinh trí nhớ đã kém, có người là vì đã lớn tuổi, bộ não bị lão hóa, trí nhớ suy giảm, nên hay quên. Nếu hay quên là do bẩm sinh thì nó sẽ thuộc điều kiện bẩm sinh, nếu là do sau này mới có, thì đó là khuyết điểm của nhân tính. Bẩm sinh đã hay quên thì đương nhiên cũng bị xem là một khuyết điểm, phải không? (Thưa, phải.)

Biết lập kế hoạch khi làm việc thì thuộc phương diện nào? (Thưa, thuộc ưu điểm của nhân tính.) Đây là ưu điểm của nhân tính. Trước khi làm việc gì, những người này sẽ lên kế hoạch trước, sau đó làm theo trình tự, không bồng bột, không liều lĩnh, không khinh suất. Họ làm việc một cách điềm tĩnh, không phải nổi hứng lên là cứ thế mà đi làm, thay vào đó, trước khi đi, họ phải suy xét xem nên đi như thế nào, đi với ai, gặp tình huống đặc biệt thì phải làm sao, cần mang theo giấy tờ hay đồ dùng gì, hoặc xét theo hoàn cảnh ở đó thì có cần mang theo một ít đồ dùng sinh hoạt thiết yếu hay không, v.v.. Họ có thể suy xét mọi điều này. Trước khi làm việc gì đó, họ sẽ chuẩn bị đầy đủ, những chuyện mà họ suy xét sẽ nhiều hơn và kỹ càng hơn. Họ sẽ đánh giá trước về sự khác nhau giữa điều kiện có lợi và bất lợi, còn phân biệt được những tình huống tốt nhất và những hậu quả xấu nhất. Họ sẽ có sự sắp xếp hợp lý để đạt được kết quả tốt nhất. Bởi vì họ biết lập kế hoạch, biết sắp xếp hợp lý, cho nên, họ làm việc thường tương đối chu toàn hơn. Các tình huống bất ngờ sẽ ít xảy ra hơn trong những chuyện hay hành trình mà họ sắp xếp, kết quả làm việc của họ cũng sẽ tốt hơn. Người cùng làm việc với họ sẽ không cảm thấy lo lắng, thay vào đó sẽ thấy thoải mái hơn. Vậy thì biết lập kế hoạch, nói một cách tương đối, là thuộc về ưu điểm của nhân tính, có thể nói như vậy hay không? (Thưa, có thể.) Biết lập kế hoạch là như vậy. Thế thì, hay tính toán có tốt hay không? (Thưa, không tốt, nó là khuyết điểm của nhân tính.) Biết lập kế hoạch là ưu điểm, là điểm mạnh của nhân tính, là điều tích cực, còn hay tính toán lại là khuyết điểm của nhân tính. Chẳng hạn như, hai người ăn bữa cơm tổng cộng hết mười tệ, lúc trả tiền, người hay tính toán trả năm tệ rưỡi, đối phương trả bốn tệ rưỡi, thì họ cảm thấy: “Như vậy là không thích hợp, anh ta trả ít hơn năm hào, ai cũng nên trả năm tệ mới phải, như vậy mới công bằng và hợp lý”. Chút khoản tiền nhỏ nhặt này mà họ cũng muốn tính toán. Nếu phải chịu thiệt thì trong lòng họ sẽ không thoải mái, luôn muốn tìm cơ hội tính kế đề bù lại, nếu không bù lại được thì họ ăn không ngon, ngủ không yên. Hay tính toán là khuyết điểm của nhân tính, nếu nó trở nên nghiêm trọng và họ tính toán ngay cả trong những chuyện lớn, luôn muốn trục lợi, chiếm lợi từ người khác, hoặc thường xuyên dùng một vài quỷ kế để phục vụ cho sự tính toán của mình, thì đây không chỉ là khuyết điểm của nhân tính, mà còn liên quan đến tâm tính bại hoại. Nếu người hay tính toán không gây ra ảnh hưởng cho người khác hoặc không gây tổn hại đến lợi ích của người khác, mà chỉ hay tính toán những chuyện nhỏ nhặt của cuộc sống thường nhật, rồi cuối cùng dẫn đến làm việc luôn bất thành, luôn làm không tốt, thì đây chính là khuyết điểm của nhân tính.

Tính keo kiệt là dạng vấn đề nào? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Những biểu hiện nào thuộc về tính keo kiệt? Chẳng hạn như, người keo kiệt chuẩn bị lái xe ra ngoài, thì có người nói: “Vừa hay tiện đường, anh cho tôi đi nhờ một đoạn, năm phút là tới nơi rồi, tôi sẽ trả anh chút tiền xăng xe”. Họ sợ người ta ngồi nhờ xe xong không trả tiền, nên tìm lý do không cho người ta lên xe của họ, đây chính là keo kiệt. Lại có những người, khi người khác mượn đồ của họ, thì họ không muốn cho mượn, còn nói: “Tôi đang dùng, không tiện cho anh mượn, anh tìm người khác mà mượn nhé”. Họ vô cùng keo kiệt, khắt khe, không có mối quan hệ qua lại bình thường với người khác, cực kỳ sợ người khác chiếm lợi từ mình, trong khi lại luôn muốn chiếm lợi từ người khác, đây gọi là keo kiệt. Còn có người, khi ngươi mượn họ mười tệ để ăn một bữa cơm rồi mua thêm chút đồ, thì họ ngẫm nghĩ: “Tôi chỉ cho anh mượn năm tệ để ăn thôi, một xu cũng không cho anh mượn thêm!” Ngày hôm sau gặp nhau, họ còn nói: “Bữa ăn hôm qua thế nào? Anh đã xài hết năm tệ chưa?” Trong lời nói đó có ý nhắc khéo ngươi: “Mau trả tiền đi! Anh còn nợ tôi tiền một bữa ăn đấy, nếu không trả tiền cho tôi thì phải đãi tôi một bữa!” Loại người này làm người thì cực kỳ so đo, cực giỏi tính toán. Họ không chỉ cực giỏi tính toán về mặt vật chất, mà khi qua lại với người khác cũng đặc biệt giỏi tính toán. Bất kể ai nói gì với họ, họ cũng phải nghiên cứu, ngẫm nghĩ xem đối phương nói lời này là có ý gì. Nếu lời này làm tổn thương đến họ hoặc gây tổn hại cho lợi ích của họ, thì họ sẽ lập tức trả đòn. Ngay cả khi nói chuyện, họ cũng muốn chiếm lợi, tuyệt đối không thể chịu thiệt. Đây không còn là lòng dạ hẹp hòi hay là keo kiệt nữa, mà đã là tâm tính bại hoại rồi. Nếu chỉ liên quan đến vấn đề lúc nào cũng muốn chiếm lợi và không chịu thiệt khi qua lại về vật chất và tiền bạc trong đời sống thường nhật, thì đây chỉ là khuyết điểm của nhân tính, vẫn chưa đến mức tâm tính bại hoại. Tuy nhiên, nếu có liên quan đến nguyên tắc hành xử và hành động, thì đây không còn là khuyết điểm của nhân tính, mà đã lên đến mức tâm tính bại hoại rồi. Vậy sự hào phóng thuộc phương diện gì? (Thưa, thuộc ưu điểm của nhân tính.) Nó có thể được xem là ưu điểm của nhân tính. Khi chung sống với người khác, người hào phóng không quá so đo chuyện được mất lợi ích. Người ta chiếm của họ chút lợi, lấy của họ chút đồ, hoặc có lúc mượn tiền họ không trả, thì họ cũng không quá tính toán về những chuyện này. Họ tương đối hào phóng và khoan dung với người khác – đây là ưu điểm của nhân tính.

Lòng dạ hẹp hòi là dạng vấn đề nào? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Nó là một khuyết điểm của nhân tính. Lòng dạ hẹp hòi có những biểu hiện nào? (Thưa, thích chấp nhặt.) Ví dụ như, lúc ăn cơm mà có người bảo họ: “Sức ăn của anh khoẻ thật đấy, ăn nhiều hơn người bình thường rồi”, thì họ liền tức giận, “Ý anh nói tôi tham ăn chứ gì!” Ngươi không cẩn thận mà nói một câu làm tổn thương họ hoặc khiến họ khó chịu, thì họ để bụng và không bỏ qua. Họ có thể giận ngươi nửa tháng trời, không nói chuyện với ngươi, mà ngươi vẫn không biết tại sao lại như vậy. Thực ra, ngươi chỉ nói vu vơ, không có ý mỉa mai họ, không ngờ họ nghe xong lại phóng đại lời này lên, cho rằng ngươi đang cười nhạo họ. Chút chuyện nhỏ nhặt mà họ cũng để trong lòng, hơn nữa, còn phóng đại đến vô hạn, chuyện bé xé ra to, không khoan dung chút nào – đây chính là lòng dạ hẹp hòi. Người ta có thể lòng dạ hẹp hòi tới mức nào? Họ có thể ngang bướng như con nít, chẳng ai dám chọc vào. Khi chung sống với họ, thì ngươi luôn phải cẩn thận từng li từng tí, không dám nói chuyện một cách bình thường với họ, bởi vì ngươi mà nói chuyện bình thường với họ, biết đâu được có câu nào đó đắc tội với họ hoặc làm họ tổn thương thì sẽ có hậu quả ngay – đến lần sau gặp lại, mặt họ sẽ sa sầm, không nhìn thẳng vào ngươi, thậm chí còn đập phá đồ đạc. Ngươi cố nói chuyện với họ, thì họ cũng không thèm để ý. Ngươi nói chuyện nhỏ nhẹ hay là dỗ dành họ thế nào cũng không được. Ngươi ngồi với họ thì họ liền tránh né, phớt lờ ngươi. Bất kể dã bao nhiêu tuổi, họ vẫn luôn nổi giận như trẻ con và hành động ngang bướng – đây có phải là lòng dạ hẹp hòi không? (Thưa, phải.) Đây là khuyết điểm của nhân tính. Loại người này thì khó mà sống chung được. Khi anh chị em mở lòng thông công với nhau, chỉ ra những thiếu sót cho nhau, thì không ai dám chỉ ra cho họ. Nhưng mà không thông công với họ, thì họ không hài lòng, còn nảy sinh vài ý nghĩ, cảm thấy: “Các người chỉ mở lòng thông công và giúp đỡ lẫn nhau, chẳng xem tôi là anh chị em”. Không nói gì với họ thì không được, phải nói chút gì đó: “Anh cũng rất tốt, chỉ là có lúc tính nóng nảy của anh không ổn lắm. Nhưng chúng tôi cũng có chỗ không đúng, nói chuyện cũng thường không để ý”. Nếu ngươi không nói như vậy, mà chỉ nói họ có tính khí không tốt, lòng dạ hẹp hòi thì không được, họ sẽ nổi giận ngay. Khi chung sống với họ, ngươi phải đặc biệt cẩn thận, nói chuyện cũng phải thận trọng. Chỉ cần nói một câu không phù hợp là ngươi sẽ phải gánh chịu hậu quả. Cho nên, chung sống với họ cực kỳ mệt mỏi. Người ngoại đạo có một câu, họ nói loại người này là “trái tim pha lê”, nghĩa là cực kỳ dễ bị tổn thương, động một chút là tổn thương, là khóc, không ăn, không ngủ và trở nên tiêu cực. Họ nói: “Các anh đều nói tôi không tốt, đều không thích tôi, đều không nói chuyện với tôi, đều xa lánh tôi, không muốn ở gần tôi”. Vậy có phải là như con nít không? (Thưa, phải.) Có người nói: “Trái tim pha lê này của anh dễ vỡ quá, chịu chút tổn thương là nát tan tành, ai mà dám vạch trần anh? Ai mà dám qua lại với anh? Mọi người đều sợ qua lại với anh”. Nếu như nói loại người này có nhân tính ác thì cũng không khách quan, họ thực sự không làm việc ác gì. Chỉ là tính cách nhỏ nhen của họ quá nghiêm trọng – ngang bướng, hay so đo, nóng nảy như trẻ con, không thể đụng vào, cũng không thể chọc giận. Ngươi khoan dung với họ, thì họ nói ngươi xem thường họ, không xem họ ra gì; ngươi nghiêm túc với họ, thì họ nói ngươi so đo với họ – ngươi làm kiểu gì cũng sai. Nếu ngươi chung sống với loại người này mà có phương thức thích hợp và dỗ dành được họ, thì cho dù tố chất của họ hơi kém, họ cũng có thể làm tốt bổn phận. Nhưng nếu phương thức của ngươi không thích hợp và xảy ra chuyện gì đó khiến họ không vui, thì họ sẽ tiêu cực, và ngươi phải tìm đủ mọi cách để dỗ dành họ. Người có lòng dạ hẹp hòi cũng rất phiền phức. Chỉ chút chuyện nhỏ cũng có thể khiến họ khóc nửa ngày trời, khóc đến nỗi mắt đỏ hoe. Có chút chuyện không vừa ý là họ bĩu môi cả buổi. Khi họ nổi cơn giận, thì giận tận nửa tháng, không thèm quan tâm tới ai, cũng chẳng nói chuyện với ai. Loại người này có tính khí không tốt, lòng dạ thì hẹp hòi, nhưng công tác nên làm thì họ vẫn làm, chỉ là họ làm với tâm trạng tức giận, đợi đến khi tâm trạng tốt lên, họ mới có thể làm việc bình thường. Xét về tổng thể, khuyết điểm và vấn đề trong nhân tính của loại người này rất nghiêm trọng. Họ dễ tạo bầu không khí căng thẳng, cũng dễ gây phiền phức và tạo gánh nặng cho cả bản thân và người khác. Loại người này không có tấm lòng rộng lượng của người trưởng thành, không có thái độ xử thế của người trưởng thành. Họ có chút giống trẻ con tầm mười tuổi, nói họ hiểu chuyện thì không hẳn, vì họ đâu quá hiểu chuyện, nhưng nói họ không hiểu chuyện thì cũng không hẳn, vì họ luôn nói chuyện như người lớn. Nếu ngươi đối đãi với họ như người lớn, biết đâu được ngươi nói ra câu nào không hợp ý họ thì họ sẽ thấy mình bị kìm kẹp, rồi đột nhiên nổi nóng như con nít. Nhưng nếu ngươi đối đãi với họ như con nít, thì họ lại nghĩ ngươi xem thường họ. Tóm lại, họ rất không bình thường. Đây là một khuyết điểm của nhân tính. Nếu người ta có loại vấn đề này thì nên thay đổi, cố gắng học cách bao dung và nhẫn nhịn, học cách dùng phương thức đúng đắn và thái độ đúng đắn để tiếp cận và xử lý vấn đề, dùng phương thức lý tính của người bình thường để chung sống với người khác. Ngay cả khi đa số mọi người không tiếp nhận lẽ thật, không tiếp nhận phương thức đúng đắn, thì ngươi cũng không nên vì thế mà bị kìm kẹp và ảnh hưởng, bị ràng buộc hay trói buộc. Thay vào đó, ngươi phải kiên trì làm theo phương thức đúng đắn. Ngay cả khi ngươi cảm thấy vất vả cũng không được từ bỏ – đây cũng là quá trình học tập. Dần dần, nhân tính, sự thấu suốt, cũng như các phương diện khác của ngươi, sẽ chín chắn và ngươi sẽ trưởng thành. Dấu hiệu của sự trưởng thành là gì? Là có thể chung sống hoà thuận với đa số mọi người, ai nói có chút khó nghe, nói đùa hoặc là nói những lời làm tổn thương đến ngươi, ngươi đều có thể khoan dung, thấu hiểu và có thể tiếp cận một cách đúng đắn. Nếu lời người khác nói khó nghe nhưng lại nói đúng tình hình thực tế của ngươi, thì ngươi nên tiếp nhận và thừa nhận. Nếu người ta vô tình nói một câu đắc tội với ngươi, mà ngươi thấy đối phương không cố ý nói vậy, thì nên chọn cách bao dung. Nếu có người cố ý nhắm vào ngươi, nói những lời rất đau lòng, thì ngươi phải bình tĩnh lại, cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm: “Tại sao họ lại muốn nhắm vào mình như vậy? Dụng ý của họ là gì? Họ là kẻ ác hay đây chỉ là sự bộc lộ tâm tính bại hoại? Nếu họ là kẻ ác, thì mình phải phân định thêm và đề phòng họ hơn. Nếu họ nói đúng và phù hợp với lẽ thật thì mình sẽ tiếp nhận, nếu họ nói sai thì mình không cần tranh luận với họ. Nếu họ chỉ bộc lộ tâm tính bại hoại, thì phải xem họ có thể tiếp nhận lẽ thật hay không, nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật thì mình sẽ thông công lẽ thật với họ, nếu họ không tiếp nhận lẽ thật thì mình chỉ còn cách nhẫn nại mà thôi”. Thế chẳng phải giải quyết được vấn đề rồi sao? Như vậy, khi chung sống với đủ mọi loại người, ngươi và mọi người sẽ có thể bao dung cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau, chung sống hòa thuận với nhau – như vậy thì luôn tốt hơn là làm người có lòng dạ hẹp hòi. Người có lòng dạ hẹp hòi một mặt sẽ mang đến sự quấy nhiễu rất lớn cho người khác, mặt khác, trong bất kỳ tập thể nào, họ cũng không hòa nhập được với người khác, có vẻ rất cô độc, rất lạc loài. Có những người tốt bụng cảm thấy ngươi đáng thương và ai cũng muốn giúp ngươi, bởi vì ai cũng là anh chị em với nhau, thế mà ngươi lúc nào cũng cô lập bản thân như vậy, ngươi nói xem, mọi người thấy ngươi như vậy thì có khó xử không? (Thưa, khó xử.) Tại sao ngươi lại lạc loài như vậy? Chính là vì nhân tính của ngươi có khuyết điểm về phương diện này, vậy thì ngươi nên khắc phục, nên thay đổi dần, phải không? (Thưa, phải.)

Tính khí không tốt, nóng nảy – cái này thuộc phương diện nào? (Thưa, khuyết điểm của nhân tính.) Tính khí không tốt cũng có thể gọi là nóng nảy, vậy nó có bị xem là khuyết điểm của nhân tính không? (Thưa, không.) Vậy nên nhìn nhận thế nào? Một người có tính khí tốt, bề ngoài hiền lành mà lòng dạ hiểm ác, nói chuyện thì lúc nào cũng điềm đạm, hoà nhã, không tranh cãi với ai, và luôn nói những lời làm vui lòng người khác, như vậy có tốt không? (Thưa, không tốt.) Nếu có người nói họ thô thiển, họ sẽ nói “Thô thiển cũng được, không chuốc rắc rối là được”. Nếu người ta nói họ hói đầu, họ sẽ nói: “Hói đầu cũng được, người hói thì thông minh”. Nghĩa là cho dù người ta nói gì, đối đãi với họ như thế nào, họ cũng không bao giờ nổi nóng hay nổi giận, người như vậy có tốt không? (Thưa, không tốt.) Rốt cuộc, họ thích kiểu người nào, họ có tư tưởng và quan điểm gì đối với người tốt và việc tốt, đối với người ác và việc ác, họ tán thành người tốt và chán ghét kẻ ác hay là tán thành kẻ ác và chán ghét người tốt, họ không có quan điểm và lập trường rõ ràng về những chuyện này, cũng không bình luận về bất kỳ chuyện gì. Bất kể gặp phải chuyện gì, họ cũng cười cho qua, vô cùng hòa nhã và không nóng nảy, đây có phải là ưu điểm của nhân tính không? (Thưa, không phải.) Tính khí tốt không phải là ưu điểm của nhân tính, vậy tính khí không tốt có phải là khuyết điểm của nhân tính không? Tính khí có tốt hay không liệu có thể quyết định nhân tính của một người như thế nào hay không? (Thưa, không thể quyết định.) Ví dụ như, có người thấy ai đó làm bổn phận qua loa chiếu lệ thì cũng mặc kệ, thấy ai đó gây nhiễu loạn công tác của hội thánh thì cũng không căm phẫn, còn nói: “Không sao, sau này anh sẽ tốt hơn thôi, cứ thong thả. Đức Chúa Trời lao tâm khổ tứ vì chúng ta, chúng ta phải báo đáp tình yêu thương của Ngài, phải đền đáp ơn Ngài, không được qua loa chiếu lệ. Lần sau chú ý hơn nhé”. Tính khí của người này có tốt không? (Thưa, tốt.) Có người thấy ai đó không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời thì nói: “Anh bảo vệ lợi ích nhà Đức Chúa Trời một chút được không? Anh mà quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời thì tốt quá. Chúng ta phải làm người tốt, không làm người tốt thì Đức Chúa Trời không yêu thích đâu. Mà đã làm người thì tối thiểu phải bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời chứ – sau này chú ý hơn nhé”. Họ có nóng nảy không? (Thưa, không.) Tính khí họ rất tốt, phải không? Có người dù gặp chuyện gì cũng không tức giận. Khi thấy có vài người rao truyền phúc âm thường báo cáo số liệu giả để lừa gạt Bề trên và nhà Đức Chúa Trời, họ nói: “Nếu như đa số mọi người đều báo cáo số liệu giả như vậy, thì đây chính là dòng chảy công tác của Đức Thánh Linh – chúng ta phải thuận phục thôi!” Có người liền phản bác, nói rằng: “Báo cáo số liệu giả là nói dối, là lừa gạt Đức Chúa Trời, tôi không thể làm vậy được”. Họ nói: “Tại sao lại không chứ? Người ta đều báo cáo số liệu giả, tốt khoe xấu che, sao anh lại ngu ngốc đến vậy?” Họ thấy người ta báo cáo số liệu giả thì trong lòng vui mừng, còn khi thấy có người giữ vững nguyên tắc, không báo cáo số liệu giả, họ lại nổi nóng, tức giận đập bàn: “Tại sao lại không báo cáo số liệu giả? Anh muốn đi ngược lại dòng chảy của Đức Thánh Linh sao? Anh không báo cáo số liệu giả thì tôi sẽ cách chức anh! Tôi sẽ thanh trừ anh!” Nổi nóng như thế này thì sao? (Thưa, không tốt.) Như vậy là nổi cơn tà hỏa rồi. Lúc nên nổi nóng thì không nổi nóng, lúc không nên nổi nóng thì lại nổi nóng bừa bãi, đem chuyện tà ác nói thành chuyện chính nghĩa, đem việc báo cáo số liệu giả nói thành dòng chảy của Đức Thánh Linh mà khen ngợi hết lời, còn muốn đẩy mạnh chuyện đó – đây có phải là tà môn không? (Thưa, phải.) Thấy ai không chịu báo cáo số liệu giả thì đập bàn đập ghế, nổi giận, trừng mắt, muốn cách chức và thanh trừ người ta – đây là “nổi giận lôi đình”! Con rồng lớn sắc đỏ thì có “hành động lôi đình”, màn ra oai của ma quỷ đó gọi là “hành động lôi đình”, còn của những người này là “nổi giận lôi đình”. Ngươi không chịu báo cáo số liệu giả mà người ta đập bàn đập ghế, nổi giận lôi đình với ngươi, vậy trong tình huống này, các ngươi có dám giữ vững nguyên tắc, chỉ báo cáo con số thực tế, không báo cáo số liệu giả hay không? Các ngươi có dám đứng lên chỉ trích và vạch trần họ, nói rằng: “Anh ép người ta báo cáo số liệu giả thì anh chính là ma quỷ! Anh còn gọi việc đi theo kẻ địch lại Đấng Christ bằng cách báo cáo số liệu giả là dòng chảy của Đức Thánh Linh, chẳng phải anh đang báng bổ Đức Thánh Linh và báng bổ Đức Chúa Trời sao? Anh không phân biệt được đúng sai và báng bổ Đức Thánh Linh, mà còn nghĩ mình là thiên sứ chính nghĩa. Ai làm trái ý anh, không báo cáo số liệu giả thì không được, anh lại còn nổi giận. Anh không có chút tinh thần chính nghĩa nào, chẳng những không vạch trần và lên án những chuyện tà ác, ngược lại còn nổi giận đùng đùng với những ai giữ vững lẽ thật và không báo cáo số liệu giả, thậm chí còn “nổi giận lôi đình” với họ. Như vậy chẳng phải là cố ý gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của nhà Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải cách tính chất hành động của anh cũng giống của con rồng lớn sắc đỏ sao?”. Ngươi dám nói vậy không? Vậy nên, bây giờ chúng ta hãy xem xét lại, tính khí không tốt rốt cuộc là khuyết điểm của nhân tính hay là ưu điểm của nhân tính. Chuyện này không thể vơ đũa cả nắm, mà còn phải xem người này gặp phải những chuyện gì thì nổi giận, gặp phải những chuyện gì thì không nổi giận, cũng như lý do gì khiến bình thường tính khí của họ không tốt. Phải xem người này mưu cầu điều gì, xem họ có nguyên tắc làm người không, xem thái độ của người này đối với lẽ thật như thế nào, thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời, công tác của Ngài, lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và công tác của hội thánh rốt cuộc như thế nào. Nếu vì bảo vệ nguyên tắc lẽ thật, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời, mà họ luôn nổi nóng mỗi khi đối mặt với các loại người, sự việc và sự vật tà ác, thì đây là ưu điểm của nhân tính. Nhưng nếu họ chẳng bao giờ nổi nóng hay tức giận khi đối mặt với những điều tà ác, những điều chống đối Đức Chúa Trời, như thể chúng chẳng liên quan gì đến họ, thì đây không chỉ là khuyết điểm của nhân tính, mà còn là nhân tính xấu, không có tinh thần chính nghĩa, và đương nhiên thuộc về tâm tính bại hoại. Vậy, khi liên quan đến tính khí thì nên nhìn nhận như thế nào? Chính là, người có tính khí tốt thì chưa chắc nhân tính của họ cũng tốt, người có tính khí không tốt cũng chưa chắc nhân tính của họ là xấu – phải xem họ nổi nóng vì chuyện gì. Nếu họ nổi nóng vì những chuyện tà ác, đen tối, không phù hợp với lẽ thật, làm trái nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời, gây tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, họ vì sốt ruột, lo lắng nên mới hay nổi giận và tính khí không tốt, như vậy thì không phải là nhân tính họ không tốt, mà là họ đang quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, đây là ưu điểm của nhân tính. Ngược lại, khi gặp những điều tiêu cực, mà họ không nổi nóng chút nào, không đứng ra bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, không bảo vệ lời chứng của Đức Chúa Trời, cũng không giữ vững nguyên tắc lẽ thật và đứng ra ngăn chặn, hạn chế, chỉ biết mặc kệ cho những chuyện gây nhiễu loạn và gián đoạn này phát triển tràn lan, thì mặc dù người như vậy trông có vẻ có tính khí khá tốt, nhưng thực ra phẩm chất nhân tính của họ rất tồi tệ. Có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Phải nhìn nhận chuyện tính khí không tốt thì như thế nào? Phải phân biệt được tính khí của họ không tốt đối với chuyện gì, phải xem phẩm chất nhân tính của họ như thế nào, sự mưu cầu của họ và con đường họ đi là gì, xem thái độ mà họ đối với lẽ thật, đối với Đức Chúa Trời, đối với công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời là gì. Nhìn nhận như vậy có chính xác hay không? (Thưa, chính xác.) Nếu một người không có tinh thần chính nghĩa gì, mà trong cuộc sống thường nhật và trong lúc tiếp xúc với người khác, tính khí lại nóng nảy, dễ nổi giận, đầy huyết khí, thường xuyên nổi giận đùng đùng, còn thường vì một chút chuyện nhỏ nhặt mà tranh cãi, đối đầu với người khác, thậm chí còn chửi tục, đây không chỉ là khuyết điểm của nhân tính, mà là phẩm chất nhân tính tồi tệ. Xét từ phương diện tâm tính bại hoại thì người này có tâm tính hung ác, không ai dám chọc vào họ. Tính khí của họ không tốt không phải là do họ bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa, bảo vệ những điều tích cực, bảo vệ nguyên tắc lẽ thật hay là bảo vệ lợi ích và công tác của nhà Đức Chúa Trời, mà là do họ bảo vệ hết thảy lợi ích của mình, bảo vệ thể diện, địa vị, hư vinh, vật chất, tiền tài, v.v. của mình. Người có tính khí không tốt như vậy có thể bị xếp vào loại có phẩm chất nhân tính tồi tệ. Về chuyện tính khí không tốt thì phải xét theo tình huống cụ thể, xem họ nổi giận vì chuyện gì và có ý định gì. Nếu là vì bảo vệ lợi ích của bản thân, bảo vệ thể diện và địa vị của mình, chỉ vì một câu nói mà có thể nổi giận và gây gổ ầm ĩ, thì đây chính là phẩm chất nhân tính tồi tệ. Nếu họ thường rất rộng lượng trong những chuyện liên quan đến lợi ích cá nhân – chẳng hạn như khi người ta nói chuyện nhắm vào họ, làm tổn hại chút thể diện của họ hoặc chiếm chút lợi từ họ, thì họ thường không chấp nhất, không nổi nóng – nếu họ có thể không so đo, có thể nhường nhịn khi tiếp xúc với người khác, nhưng lại nổi giận khi thấy có người gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, khiến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời chịu tổn hại, thì đây không phải là phẩm chất nhân tính không tốt. Thay vào đó, đây là tinh thần chính nghĩa mà nhân tính nên có, là ưu điểm của nhân tính.

Hay hờn dỗi thuộc về dạng vấn đề nào? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Nó là khuyết điểm của nhân tính. Loại người nào thì hay hờn dỗi? (Thưa, người có lòng dạ hẹp hòi.) Những ai có lòng dạ hẹp hòi, nhỏ nhen, có tính trẻ con thì đều hay hờn dỗi. Gặp chút chuyện nhỏ, động một chút là họ giận, không nói chuyện với ngươi nữa, không gặp mặt ngươi nữa, ngươi có gọi điện thì họ cũng không bắt máy. Ngươi vô ý nói một câu làm họ tổn thương, thì họ sẽ buồn bực, phớt lờ người suốt thời gian dài, ngươi có hỏi thì họ cũng không nói. Ngươi hỏi họ: “Anh sao vậy? Có vấn đề gì thì mình cùng giải quyết. Nếu tôi nợ anh thì tôi sẽ bù đắp. Nếu tôi nói câu nào làm tổn thương anh thì cho tôi xin lỗi, anh cần tôi làm gì, tôi cũng có thể làm vì anh mà”, thì họ vẫn không nói gì, cứ hờn dỗi thôi. Người như vậy có phiền phức không? (Thưa, phiền phức.) Đây là nhân tính không bình thường. Vấn đề về phương diện nhân tính mà chưa tới mức phẩm chất nhân tính thì đều thuộc về khuyết điểm của nhân tính. Khuyết điểm nghĩa là trong nhân tính bình thường thiếu mất thứ gì đó – thái độ hoặc cách thức đối nhân xử thế không bình thường, không trưởng thành, không với tới tiêu chuẩn lý trí của nhân tính bình thường, như vậy là khuyết điểm. Hay hờn dỗi, một mặt sẽ khiến người ta phiền lòng và không thích chung sống với người như vậy. Mặt khác, người hay hờn dỗi không trưởng thành, giống như trẻ con vậy. Thường thì trẻ con mười mấy tuổi mới có biểu hiện như thế, chứ người trưởng thành thì không. Loại người này mà có mối quan hệ thân thiết với ngươi thì sẽ thân như hình với bóng, nhưng đến lúc không thân thiết nữa thì trở mặt, hờn dỗi, không nói chuyện với ngươi, trả lại hết những gì ngươi từng cho họ, cả đời không qua lại với ngươi nữa. Rồi chưa biết chừng đến một ngày nào đó, họ lại làm lành, lại thân như hình với bóng với ngươi. Đây là biểu hiện không trưởng thành. Hễ là những biểu hiện không trưởng thành thì đều được gọi là khuyết điểm của nhân tính, hay hờn dỗi cũng là khuyết điểm của nhân tính. Người hay hờn dỗi mà làm một bổn phận nào đó thì rất dễ làm chậm trễ công chuyện. Ngươi chẳng biết khi nào họ sẽ bị tổn thương và có thể hờn dỗi mấy ngày liền chỉ vì một câu nói làm họ đau lòng. Bất kể bổn phận quan trọng đến đâu, họ cũng có thể bỏ dở giữa chừng, còn không nói lại với ngươi một tiếng, ngươi còn tưởng rằng họ đang làm bổn phận bình thường, nhưng thực ra họ đã dừng làm công tác đó từ lâu rồi. Cho nên, tuyệt đối đừng giao công tác quan trọng cho người dễ hờn dỗi, nhất là những công tác mang tính then chốt lại càng không được giao cho họ, bởi vì họ cực kỳ ngang bướng, lúc nào cũng dễ cáu, hay hờn dỗi, thiếu lý trí, do đó dễ dẫn đến bỏ ngang công tác đang làm trong quá trình làm bổn phận. Nếu công tác này nhất định phải do họ làm hoặc không có ai thay thế được họ, thì khi giao việc cho họ, ngươi phải tìm người giám sát quá trình họ làm công tác. Còn nếu có người khác thay thế được họ thì đừng giao công tác quá quan trọng cho họ. Chẳng hạn như, có người có chút tố chất, họ có thể làm công tác của lãnh đạo hội thánh, nhưng khi có anh chị em nào nói những lời khiến họ tổn thương là họ lại hờn dỗi: “Tôi từ chức đây, các anh muốn để ai làm lãnh đạo thì cứ để người đó làm đi. Tôi về nhà sống cuộc sống của tôi, tôi không quan tâm chuyện này nữa!” Chỉ cần nổi cơn hờn dỗi là họ lại có thể bỏ ngang mà đi, cũng không biết bao giờ mới quay trở lại. Người như thế có đáng tin cậy không? (Thưa, không đáng tin cậy.) Họ có thể trút giận lên bổn phận và công tác của hội thánh, có thể bỏ ngang việc đang làm bất kỳ lúc nào, đây có phải là biểu hiện không trưởng thành không? (Thưa, phải.) Họ xem bổn phận và công tác của hội thánh như trò chơi đóng vai của trẻ con mà đem ra đùa giỡn, đây chính là biểu hiện không trưởng thành. Trẻ con chơi trò đóng vai thì chỉ là chơi trò chơi, chúng giận dỗi và không chơi nữa thì cũng không làm chậm trễ chuyện gì. Nhưng người ta mà xem việc làm công tác hội thánh hoặc làm một bổn phận nào đó cũng giống như trẻ con chơi trò đóng vai, nói không làm là không làm nữa, như vậy chẳng phải sẽ làm chậm trễ công chuyện sao? Chuyện này đâu chỉ làm chậm trễ việc của cá nhân họ – nếu họ là lãnh đạo hội thánh, thì công tác của hội thánh cũng sẽ bị họ làm chậm trễ. Nếu họ đang làm một bổn phận quan trọng, thì bổn phận quan trọng ấy cũng sẽ bị họ làm chậm trễ. Cho nên, lúc chọn người để dùng thì phải xem người ấy có vấn đề về phương diện “hay hờn dỗi” hay không, nếu có thì có nghiêm trọng hay không? Nghiêm trọng tới mức nào? Liệu có bỏ ngang việc đang làm không? Khi hờn dỗi, liệu có đùng đùng bỏ về nhà không làm bổn phận nữa không, ai gọi cũng không quay lại không? Loại người này quá khó nhằn, tuyệt đối đừng dùng họ, toàn thân họ đều là gai mà thôi. Đối với họ, dỗ dành cũng không được, sửa dạy cũng không xong, thông công lẽ thật kiểu gì họ cũng không dễ tiếp nhận. Cứ phải chờ đến khi tự mình nghĩ thông suốt và hiểu rõ rồi thì họ mới có thể dịu lại, lý trí mới khôi phục lại bình thường. Cho nên, ngoài chuyện có tâm tính bại hoại ra, nếu như người ta còn có rất nhiều khuyết điểm hoặc tật xấu trong nhân tính, thì hễ gặp chuyện gì khiến họ không vui, họ sẽ bị tiêu cực và không gượng dậy nổi. Ngay cả khi họ có chút ý chí, sẵn lòng mưu cầu lẽ thật để được cứu rỗi, cũng có lòng muốn làm tốt bổn phận và làm loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn, nhưng một khi gặp khó khăn hoặc chuyện không vui, thì họ lại không thể bước tiếp. Do đó, nếu người ta muốn mưu cầu lẽ thật và làm tốt bổn phận, thì nhất định phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết bất kỳ khuyết điểm hoặc tật xấu nào trong nhân tính của mình. Nếu ngươi không có lòng khao khát Đức Chúa Trời cháy bỏng và lòng khát khao lẽ thật, thì ngươi sẽ không sẵn lòng khắc phục những khuyết điểm của nhân tính này hoặc không có đủ ý chí để khắc phục, vậy thì ngươi sẽ phải đối mặt rất nhiều vấn đề nan giải. Nếu ngay cả những khuyết điểm cá nhân này mà ngươi cũng không thay đổi được, không vượt qua được, thì chuyện thoát khỏi tâm tính bại hoại lại càng khó hơn.

Chúng ta tiếp tục nói về phương diện thích chiếm lợi, nó là dạng vấn đề gì? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Đây là khuyết điểm của nhân tính sao? Thích chiếm lợi là vấn đề về phẩm chất nhân tính. Lợi gì cũng muốn chiếm, ngay cả những cái lợi nhỏ như một cọng rau, một tờ giấy, một chai nước nhỏ mà họ cũng chiếm, thì đây là vấn đề về phẩm chất nhân tính, phẩm chất nhân tính của họ tồi tệ, chứ không phải chỉ là khuyết điểm của nhân tính. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Loại người này có phẩm chất nhân tính tồi tệ, nhân cách thì thấp hèn. Họ đi trung tâm thương mại mua đồ thì lúc nào cũng muốn mặc cả với người khác, luôn hỏi có thể giảm giá hay không. Họ ra chợ mua mấy hào rau cũng phải cãi vã với người ta không thôi. Họ vào khách sạn, thấy khăn mặt, bàn chải đánh răng và kem đánh răng dùng một lần, vì đều là đồ tặng miễn phí, nên họ sẽ không bỏ sót món nào, phải mang hết về nhà, rất sợ để sót lại dù chỉ một món. Có vài người nói: “Họ thích chiếm lợi có phải vì họ nghèo không?”. Không phải, nhân cách của loại người này là vậy thôi. Nhà họ cũng không thiếu tiền, nhưng họ vẫn muốn chiếm lợi này cho bằng được. Loại người này sau khi tin Đức Chúa Trời rồi thì thậm chí còn chiếm lợi của nhà Đức Chúa Trời. Có người không ăn cơm ở nhà mình mà cứ đến nhà tiếp đãi ăn chực, còn giả vờ là đi giúp nhà tiếp đãi làm việc. Đồ của anh chị em họ cũng lén dùng. Đồ của mình thì không dùng mà luôn dùng đồ của người khác, quần áo của mình thì không mặc mà luôn mặc áo quần của người khác, thấy người khác giặt đồ thì bảo người khác tiện tay giặt giúp họ hai bộ, rồi lại mang bảy, tám bộ đưa cho người ta giặt, như vậy rõ ràng là chiếm lợi. Nhân phẩm của họ là vậy. Rõ ràng nhà họ có tiền mà còn muốn mượn tiền anh chị em, người ta hỏi khi nào thì trả, thì họ nói: “Khi nào có tiền thì trả, không có tiền thì trả cái gì? Muốn tiền thì không có đâu, muốn mạng thì có một cái mạng đây!” Họ nói lời này là có ý gì? Rõ ràng là họ không muốn trả, cũng không hề có ý định trả, họ chỉ muốn chiếm lợi mà thôi, muốn dùng tiền của người khác để hưởng thụ, để tiêu cho thoải mái, mục đích của họ chính là như vậy. Thấy ai mua đồ mới, họ cũng cảm thấy rất hứng thú, chỉ luôn nghĩ đến việc mượn để dùng, người ta cần dùng và không muốn cho mượn, mà họ vẫn cố mượn cho bằng được, dùng tới nỗi cũ và hỏng cũng không trả, dùng như thể đó là đồ của mình. Loại người này đi đến đâu cũng chiếm lợi, mượn đồ thì không bao giờ trả. Đây là khuyết điểm của nhân tính sao? (Thưa, không phải.) Đây là nhân cách thấp hèn và phẩm chất nhân tính tồi tệ. Các ngươi đã từng gặp loại người này chưa? (Thưa, đã gặp rồi.) Cũng có không ít người như như vậy. Các ngươi nói xem, loại người này có thể thực hành lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Loại người này đa số là người như thế nào? Có phải là thứ vô lại hay không? Chiếm bao nhiêu lợi của người khác thì lương tâm của họ cũng không áy náy gì, ngươi nói xem, họ có lương tâm không? (Thưa, không có.) Người không có lương tâm là loại người gì? Chúng ta tạm thời không nói đến họ là người tốt hay là kẻ ác, nhưng ít nhất, họ không có tiêu chuẩn và điều kiện cơ bản cần có của nhân tính để thực hành lẽ thật. Trước đây, chúng ta đã từng thông công rằng, nếu muốn thực hành lẽ thật thì ít nhất người ta phải có lương tâm. Trong lương tâm con người thì có liêm sỉ. Người luôn chiếm lợi của người khác mà lương tâm lại không thấy áy náy thì có liêm sỉ không? (Thưa, không có.) Người không có liêm sỉ thì có thể thực hành lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Họ hành ác mà không cảm thấy gì, không có sự quở trách của lương tâm, cho nên những chuyện làm việc chính nghĩa hoặc đi theo chính đạo đều không có sức hấp dẫn gì đối với họ, bởi vì trong nhân tính của họ không có nhu cầu về phương diện này. Nhu cầu của họ là gì? Chính là lúc nào cũng bảo vệ lợi ích của mình để không bị tổn thất, đồng thời cũng muốn chiếm lấy lợi ích của người khác làm của riêng để phục vụ cho mình. Trong nhân tính của họ, không có bất kỳ sự quở trách hay áy náy gì về những chuyện này, cũng không có bất kỳ cảm giác xấu hổ gì. Cho nên, loại người này khó mà thực hành lẽ thật. Tín điều làm người của họ chính là, hễ thứ gì có lợi cho mình, dù là về vật chất hay tinh thần, thì cũng không được từ bỏ, dù một chút cũng không được bỏ sót. Còn đối với những gì tốt đẹp, có giá trị của người khác, thì lúc nào họ cũng muốn có được, muốn chiếm lấy, thậm chí là cưỡng chiếm. Một khi có cơ hội là họ sẽ chiếm lấy những thứ tốt của người khác làm của riêng, tuyệt đối không thể bỏ lỡ cơ hội, nếu bỏ lỡ thì sẽ hối hận cả đời, đây là tín điều làm người của họ. Vì bị tín điều này chi phối, nên khi chiếm được lợi hoặc chiếm lợi ích của người khác làm của riêng, họ lại cảm thấy yên lòng vững dạ và đặc biệt có cảm giác thành tựu. Nếu như không chiếm được lợi, bỏ lỡ một cơ hội chiếm lợi, thì họ sẽ cảm thấy thất bại, cảm thấy mình ngu ngốc. Họ chiếm được lợi thì trong lòng mới dễ chịu, vui vẻ và bình an. Còn thấy lợi mà không chiếm được thì trong lòng họ sẽ khó chịu và bất an: “Món lợi này mà không chiếm thì phí quá, nếu để người khác chiếm mất thì chẳng phải mình bị thiệt sao?” Ngươi xem, họ bị tín điều này chi phối thì có thể làm người tốt được không? (Thưa, không được.) Khi thực hành lẽ thật, người ta cần vứt bỏ rất nhiều thứ, chẳng hạn như những thứ về mặt tinh thần mà con người yêu quý như thể diện và địa vị, cùng một vài thứ về mặt vật chất. Tất cả những thứ này đều liên quan đến lợi ích cá nhân, khi thực hành lẽ thật thì đòi hỏi người ta phải chống lại, chế ngự, thoát khỏi và vứt bỏ những thứ này. Loại người thích chiếm lợi này thì không làm được bất kỳ điều nào trong số đó. Chuyện buông bỏ thể diện và địa vị, họ không làm được, chuyện buông bỏ bất kỳ lợi ích vật chất nào, họ càng không làm được. Khi thực hành lẽ thật, họ cũng không làm được. Vậy họ có thể thực hành lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Do đó, bắt họ thực hành lẽ thật thì sẽ rất vất vả. Đối với những thứ tốt về mặt tinh thần và vật chất, họ đều muốn chiếm làm của riêng, không bao giờ buông bỏ được, mà như vậy là hoàn toàn mâu thuẫn và đi ngược lại nguyên tắc thực hành lẽ thật. Chính vì vậy mà họ không thể thực hành lẽ thật. Ngươi xem những người đặc biệt thích chiếm lợi này đi, họ chiếm lợi tới mức nào? Tới mức đến nhà người khác chơi, thì phải uống chút nước của người ta, ăn chút đồ của người ta, rồi mới chịu về. Ngươi nói xem, người có loại phẩm chất nhân tính như vậy thì có thể thực hành lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Tiêu chuẩn để họ đánh giá mọi sự việc, sự vật chính là dựa trên nguyên tắc xem mình có thể chiếm lợi hoặc được lợi hay không. Lợi ích là nguyên tắc đánh giá hết thảy sự việc, sự vật của họ. Họ làm người mà chỉ chăm chăm chiếm lợi của người khác, chỉ cần không chịu thiệt mà còn chiếm được lợi thì họ sẽ cảm thấy đáng giá. Họ cho rằng, làm người thì phải biết chiếm lợi, chỉ có thường xuyên chiếm được lợi mới là người có trí thông minh và lanh lợi, ai mà không biết chiếm lợi thì chính là kẻ ngốc! Tiêu chuẩn làm người của họ chính là chỉ chiếm lợi và không chịu thiệt. Lấy phương thức như vậy làm tiêu chuẩn làm người, thì họ có thể thực hành lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Vậy lẽ thật có chỗ trong lòng họ không, có thể nắm quyền trong lòng họ không? (Thưa, không thể.) Vậy họ có thể thực hành những lẽ thật nào? (Thưa, lẽ thật nào, họ cũng không thực hành được.) Họ không thực hành được lẽ thật nào cả, nhân cách của họ quá thấp hèn, khiến người ta khinh bỉ. Lại có một số người làm bổn phận ở nhà Đức Chúa Trời, khi nhà Đức Chúa Trời cấp phát cho một ít đồ dùng sinh hoạt, họ thường xuyên lấy cớ đã dùng hết để nhận thêm, chứ thực ra họ vẫn còn. Tại sao họ luôn muốn nhận thêm? Họ nghĩ: “Cái lợi này nếu mình không chiếm mà để cho người khác chiếm mất, chẳng phải mình chịu thiệt sao?” Ngươi xem, đây là loại nhân cách gì? Tiêu chuẩn đánh giá hết thảy mọi sự của loại người này chính là dựa trên nguyên tắc rằng bản thân có thể chiếm được lợi hay không, có được lợi ích hay không. Những gì họ suy nghĩ trong nội tâm chỉ toàn là lợi ích. Ngươi có thông công những điều tích cực, hoặc thông công lẽ thật với họ như thế nào, họ cũng không tiếp nhận, chuyện này không hệ tại ở chuyện tố chất của họ như thế nào, hay họ có thể hiểu hay không – mà là do tín điều làm người của họ có vấn đề. Họ sẽ hoàn toàn không tiếp nhận và thực hành những điều tích cực, cũng sẽ không tuân theo nguyên tắc lẽ thật, vì nhân cách của họ quá thấp hèn mà. Các ngươi nói xem, chúng ta có cần thông công lẽ thật với loại người này không? (Thưa, không cần thông công.) Tại sao lại không cần thông công? (Thưa, vì họ mãi mãi không thể thực hành lẽ thật.) Trong nhân tính của họ không có tri giác của lương tâm, không có điều kiện cơ bản để thực hành lẽ thật. Trong lòng họ chỉ có chuyện chiếm lợi và được lợi. Có thể nói, loại người này căn bản là không xứng để nghe lẽ thật, không xứng để nghe giảng đạo về chuyện được cứu rỗi. Ngươi thấy đấy, trước đây các ngươi còn chưa hiểu rõ vấn đề thích chiếm lợi này là gì, phải không? Các ngươi còn nghĩ rằng nó là khuyết điểm của nhân tính, nhưng nó có phải là khuyết điểm của nhân tính không? (Thưa, không phải.) Có phải bây giờ các ngươi đã hiểu rồi không? Vậy đây là vấn đề gì? (Thưa, là vấn đề về phẩm chất nhân tính và nhân cách của loại người này rất thấp hèn.)

Tiếp theo, hãy nói đến chuyện hay bố thí. Nếu người ta hay bố thí mà không bị lẫn tạp bất kỳ mục đích nào, chỉ đơn thuần là một loại hành vi hoặc là một loại cách làm thường thấy trong đời sống thường nhật, thì việc hay bố thí này nên được xem là ưu điểm của nhân tính. Cho đi vẫn tốt hơn nhận lại, ít nhất thì người hay bố thí có lòng cảm thông với người khác, trong nhân tính họ có phần tử tế, không keo kiệt, không quá xem trọng vật chất. Hơn nữa, khi tương đối dư dả của cải thì họ sẽ lấy những thứ dư ra hoặc mình không dùng tới nhưng lại thích hợp cho người khác dùng mà đem cho người khác, mang lại sự thoải mái hoặc tiện lợi hơn trong cuộc sống của người khác. Xét từ xuất phát điểm của họ khi làm những chuyện này, ít nhất thì loại người hay bố thí này có nhân tính tử tế, có biểu hiện mang tính thực chất của sự đồng cảm và thương xót với người khác, đây là ưu điểm của nhân tính. Phẩm chất nhân tính của loại người này tương đối tốt, tốt hơn nhiều so với những kẻ ác tuỳ tiện chiếm đồ của người khác, nhân cách của họ cũng cao hơn phần nào. Họ bố thí và giúp đỡ người khác mà không cầu báo đáp, cũng không cầu người khác nói tốt về họ hoặc là để lại tiếng thơm gì, đó chỉ là một thái độ làm người hoặc cách sống của họ. Chẳng hạn như, họ thấy ai thiếu quần áo thì vội đem quần áo dư của mình đưa cho người đó mặc; họ thấy nhà người ta nghèo, ăn không đủ no, thì đem gạo nhà mình tặng cho người ta một ít, để người ta cũng có thể ăn no; họ mua máy tính mới, thấy máy tính của người khác gần như không dùng được nữa, bèn đưa máy tính cũ của mình cho người ta dùng. Họ bố thí mà không cầu báo đáp, chỉ là nhân phẩm của họ như vậy thôi, đây chính là ưu điểm của nhân tính, cũng được xem là một biểu hiện của phẩm chất nhân tính tốt. Loại hành vi hay bố thí này hoàn toàn không xấu, nhưng có người vì bản thân hay bố thí nên thường cảm thấy: “Mình tốt bụng, mình cao quý, mình rộng rãi. Rất nhiều người sau khi được mình bố thí và giúp đỡ đã có cuộc sống dễ chịu hơn. Mình là đối tượng được Đức Chúa Trời cứu rỗi, Ngài mà không cứu rỗi người như mình thì còn cứu rỗi người như thế nào nữa chứ?” Họ thường tự cho mình là “người tốt thường hay bố thí”. Giả dụ có người bảo họ: “Nhân tính của anh không tốt, anh làm rất nhiều chuyện trái với lẽ thật, anh cũng không yêu thích lẽ thật”, họ nghe vậy liền nổi giận. Đây là vấn đề gì? Có những người gia đình tương đối khá giả, anh chị em xung quanh đều từng nhận ân huệ từ họ, nên họ luôn ngẫm nghĩ: “Trong hội thánh, tôi đối xử với những người này không tệ, họ đều nhận được sự giúp đỡ từ tôi. Vậy chẳng phải tôi cũng có uy danh và địa vị trong lòng những người này sao? Chẳng phải tôi là người có tố chất tốt nhất, có nhân tính tốt nhất trong hội thánh sao? Chẳng phải tôi nên làm lãnh đạo sao? Chẳng phải các anh chị em đều phải nghe lời tôi sao?” Đây là dạng vấn đề gì? Có phải là vấn đề về tâm tính bại hoại không? (Thưa, phải.) Mới có chút hành vi tốt mà đã không biết tự lượng sức mình rồi, đã vậy còn xem đây là vốn liếng, luôn muốn làm lãnh đạo hội thánh, tự phụ và cảm thấy mình khác với người thường rồi. Họ chẳng liên hệ lời Đức Chúa Trời vạch trần các tâm tính bại hoại khác nhau với bản thân mình, chỉ cảm thấy mình hay bố thí thì có nghĩa mình là người tốt, không có tâm tính bại hoại nào, làm gì cũng đúng, nên làm lãnh đạo và tấm gương trong hội thánh, anh chị em đều nên noi theo mình. Những sự bộc lộ này là gì? (Thưa, là tâm tính bại hoại.) Biểu hiện này đã lên đến ngưỡng tâm tính bại hoại rồi. Tuy hay bố thí là ưu điểm của nhân tính, nhưng nếu vì thế mà quy định bản thân là người tốt và chắc chắn được cứu rỗi, thì dạng tư tưởng và quan điểm này có đúng hay không? Họ xem hành vi tốt là hay bố thí này có nghĩa là họ có phẩm chất nhân tính tốt và nhân cách cao quý, thậm chí còn xem việc hay bố thí nghĩa là đang thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời. Như vậy là sai hoàn toàn. Đây là kiêu ngạo, tự nên công chính và không tự biết rõ mình. Có thể nói, hay bố thí là một loại hành vi tốt của con người. Người hay bố thí cùng lắm cũng chỉ có phẩm chất nhân tính tương đối tốt, tốt hơn so với người chiếm lợi. Nhưng ngươi không thể vì mình có hành vi tốt là hay bố thí mà nói mình là người tốt và không có tâm tính bại hoại, nói mình có thực tế lẽ thật, có tư cách làm lãnh đạo hội thánh để đứng trên người khác mà ra lệnh. Đây chính là tâm tính kiêu ngạo của con người. Tuy ngươi hay bố thí và giúp đỡ người khác – có chút hành vi tốt – đây là ưu điểm của nhân tính, nhưng điều đó không thể chứng tỏ ngươi không có tâm tính bại hoại. Nếu ngươi lấy việc hay bố thí và giúp đỡ người khác làm vốn liếng, có dã tâm muốn làm lãnh đạo hội thánh, muốn làm người đứng trên thiên hạ, thì đây chính là tâm tính bại hoại. Như vậy, có phải các ngươi đã phân biệt được rồi không? Có phẩm chất nhân tính tốt không có nghĩa là không có tâm tính bại hoại. Có những người khi chung sống và qua lại với người khác thì về cơ bản tương đối ổn – họ không chiếm lợi của người khác, mà còn có thể bố thí giúp đỡ người khác – họ có một chút ưu điểm của nhân tính. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với họ một thời gian, ngươi sẽ phát hiện họ là người rất kiêu ngạo, thích bốc phét, có lúc còn nói dối, lại còn rất giả dối. Ngươi có chỉ trích họ, thì họ không chịu tiếp nhận, còn có chút hung ác, thậm chí còn đập bàn trước mặt ngươi mà nói rằng: “Tôi tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy, có ai chưa từng nhận lợi ích từ tôi không? Cứ hỏi thử anh chị em xem, tôi đã từng chiếm lợi của ai chưa? Tôi từng hãm hại ai chưa, từng làm hại ai chưa?” Chưa từng hãm hại người khác nghĩa là người tốt sao? Không hãm hại người khác chẳng phải là điều tối thiểu mà con người nên làm sao? Ngươi vênh váo gì chứ? Không hãm hại hay làm hại ai là điều mà con người nên làm, chứ không phải là vốn liếng. Ngươi không chiếm lợi của người khác đâu có nghĩa là ngươi có thể thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời, ngươi nên học cách phản tỉnh bản thân, có thể tiếp nhận sự chỉ trích và giúp đỡ của người khác, như vậy mới là người có lý trí. Bây giờ ngươi bị tỉa sửa là do ngươi đã bộc lộ tâm tính bại hoại, do việc ngươi làm không phù hợp với lẽ thật, chứ không phải phủ nhận sự thật rằng hành vi tốt là hay bố thí của ngươi là điều tích cực, cũng không phủ nhận phẩm chất nhân tính của ngươi. Thay vào đó, việc tỉa sửa và vạch trần ngươi là do ngươi phạm sai lầm và làm trái nguyên tắc lẽ thật. Nếu ngươi có thể tiếp nhận, thì ngươi chính là người yêu thích lẽ thật và có thể thực hành lẽ thật; nếu ngươi không tiếp nhận, vậy việc ngươi hay bố thí cùng lắm cũng chỉ là ưu điểm về phương diện nhân tính. Thế nhưng, vì bị sự kiêu ngạo, hung ác và tà ác trong tâm tính bại hoại của ngươi chiếm thế chủ đạo, nên ngươi không tiếp nhận được lẽ thật, khiến con người ngươi trở nên quá thấp hèn, không có giá trị. Đến khi bị tỉa sửa thì loại người này lại làm ầm lên, bắt đầu nói đến tư cách, loè ra chút hành vi tốt trước đây. Họ giống như con chó điên nhảy dựng lên, chút hình tượng đẹp đẽ còn sót lại cũng tan biến hết, bản tính của họ đã bị bại lộ hoàn toàn. Mọi người đều thấy rõ ràng và nói: “Thứ người này có tâm tính bại hoại quá nghiêm trọng, họ là kẻ ác, miệng lưỡi chua ngoa! May mà chưa chọn họ làm lãnh đạo hội thánh. Họ mà làm lãnh đạo hội thánh thật thì sẽ như con hổ không ai dám vuốt lưng – ai cố cách chức họ thì họ sẽ không để yên cho người ta, còn liều mạng với người ta nữa. Như vậy thì nguy lắm!” Nếu ngươi chỉ xét từ một hành vi tốt hoặc một phương diện phẩm chất trong nhân tính của họ, thì căn bản không thấy được tâm tính bại hoại của họ ra sao, thái độ của họ đối với lẽ thật là như thế nào, hoặc họ có thể thuận phục lẽ thật hay không. Khi tâm tính bại hoại của họ bộc lộ ra, sau đó bị vạch trần và tỉa sửa, thì thái độ của họ đối với lẽ thật mới dần dần hiện rõ và bại lộ. Cho nên, phẩm chất nhân tính hoặc ưu khuyết điểm trong nhân tính của một người không thể hoàn toàn quyết định chuyện họ có tiếp nhận lẽ thật hay không. Chỉ dựa vào phẩm chất nhân tính hoặc ưu khuyết điểm của nhân tính thì cũng không nhìn ra được thái độ của họ đối với lẽ thật là như thế nào. Chỉ khi họ bộc lộ tâm tính bại hoại hoặc bị vạch trần và tỉa sửa, thì thái độ của họ đối với lẽ thật mới lộ ra, khi đó mới biết được con người họ có yêu thích lẽ thật hay không, có thể thực hành lẽ thật hay không, đến cuối cùng thì hy vọng được cứu rỗi của họ là bao nhiêu. Xét từ chuyện người này hay bố thí và giúp đỡ người khác thì có thể thấy nhân tính của họ có ưu điểm và khuyết điểm gì. Rồi thông qua một loạt vấn đề – chẳng hạn như vì họ hay bố thí và giúp đỡ người khác mà kiêu ngạo và tự nên công chính, chỉ muốn làm lãnh đạo và đứng trên người khác – là có thể thấy rõ thái độ của họ đối với lẽ thật. Dựa trên thái độ của họ đối với lẽ thật thì có thể thấy rõ chuyện họ có thể đạt được sự cứu rỗi hay không. Thông qua những hành vi này, ngươi có thể phân định những ưu điểm và nhược điểm trong nhân tính của họ, phân định được phẩm chất nhân tính của họ, đồng thời cũng biết phân biệt sự khác nhau giữa nhân tính và tâm tính bại hoại, nhưng như vậy thì ngươi vẫn chưa thể hoàn toàn nhìn ra chuyện cuối cùng họ có thể được cứu rỗi hay không hoặc kết quả của họ sẽ thế nào. Muốn biết một người có được cứu rỗi hay không thì phức tạp hơn một chút, còn phải xem sau khi bộc lộ tâm tính bại hoại, người đó có thể tiếp nhận lẽ thật và phản tỉnh bản thân hay không, có thực sự hối cải không, phải căn cứ vào mấy phương diện này mà xem xét.

Mê xã giao thì thuộc phương diện nào? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Nó là điều kiện bẩm sinh, là một phương thức xử thế khi ở giữa các nhóm người. Có người thích kết giao với người khác, chẳng ngại phiền hà gì, bất kể là người có tính cách như thế nào, họ cũng kết giao được và sẵn lòng kết giao. Có người lại muốn tránh né đám đông, không sẵn lòng kết giao với người khác. Chuyện này có liên quan nhất định đến tính cách bẩm sinh. Chuyện liên quan đến tính cách thì chắc chắn có liên quan đến điều kiện bẩm sinh. Mê xã giao có liên quan đến tính cách của người ta, nó không liên quan đến ưu khuyết điểm của nhân tính, đương nhiên cũng không liên quan đến bất kỳ tâm tính bại hoại nào. Biểu hiện này tương đối đơn giản. Sống khép kín thì thuộc phương diện nào? (Thưa, nó là một dạng tính cách bẩm sinh.) (Thưa, nó là một khuyết điểm của nhân tính.) Có chút bất đồng trong chuyện này rồi – vậy rốt cuộc sống khép kín là dạng vấn đề gì? (Thưa, sống khép kín nghĩa là tính cách không được tốt lắm.) Tính cách không được tốt lắm nghĩa là khuyết điểm của nhân tính. Tự bản thân tính cách cũng là một điều kiện bẩm sinh, do đó sống khép kín vừa là điều kiện bẩm sinh vừa là khuyết điểm trong nhân tính. Nó không nằm trong tâm tính bại hoại, cũng không liên quan đến chuyện làm người. Sống khép kín nghĩa là luôn né tránh người khác, không sẵn lòng trao đổi ý nghĩ của mình với người khác, thích hành động một mình, không thích qua lại với người khác, cũng không thích sống giữa nhóm người. Họ chỉ thích ở trong một môi trường cô độc, hoặc ở một góc nào đó. Khi có đông người thì họ không sẵn lòng nói chuyện. Họ cũng không giỏi chuyện trò với với người khác. Khi chuyện trò với người khác thì họ bồn chồn và hoảng sợ, hoặc là rơi vào cảnh khó xử và ngượng ngùng. Đây là vấn đề về tính cách nằm trong điều kiện bẩm sinh, dĩ nhiên cũng liên quan đến khuyết điểm trong nhân tính, phải không? (Thưa, phải.)

Giờ hãy nhìn vào tính nhát gan – đây là dạng vấn đề gì? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) (Thưa, đây là khuyết điểm trong nhân tính.) Nó là điều kiện bẩm sinh, cũng là khuyết điểm trong nhân tính. Các ngươi nói xem, nhát gan là gì? Là trời tối thì không dám ra khỏi nhà, sợ chuột, sợ rết, sợ bò cạp, còn sợ gặp chuyện rắc rối và không sẵn lòng đối diện với những chuyện phức tạp – đây đều là biểu hiện của nhát gan. Có người thấy rắn liền sợ đến ngất xỉu. Có người nghe ai đó nói có tai nạn xe cộ thì sợ đến mức run rẩy cả người. Có người nghe nói rằng tin Đức Chúa Trời thì bị bách hại, còn có thể bị bắt và lãnh án tù, thì sợ đến nỗi không dám tin nữa. Còn có người không dám ngồi tàu lượn cao tốc. Chuyện gì mà bản thân có chút không nhìn thấu hoặc chưa làm qua, thì họ không dám tham gia cũng không dám thử. Họ không chỉ là không dám thử làm công việc nguy hiểm hoặc hoạt động nguy hiểm, mà còn sợ làm một số việc mà người bình thường nên làm trong cuộc sống bình thường. Chẳng hạn như, bảo họ học lái xe, thì họ nói: “Tôi không dám lái xe đâu. Trên đường nhiều xe như vậy, xe chạy nhanh như vậy, lỡ bị tông thì biết làm thế nào?” Có người bảo họ: “Sao anh cứ luôn sợ tông xe vậy? Anh không biết cẩn thận một chút à?” Nhưng họ vẫn cứ sợ: “Xe mà đã chạy rồi thì không còn do tôi kiểm soát nữa, đến lúc thực sự tông xe rồi, thì chẳng ai kiểm soát nổi đâu!” Họ sẽ luôn suy nghĩ theo hướng tiêu cực, vì vậy họ làm việc gì cũng không thành. Nhát gan là điều kiện bẩm sinh, cũng là khuyết điểm trong nhân tính. Người nhát gan khi làm việc gì cũng cẩn thận và tỉ mỉ, thường thì họ sẽ không phạm phải sai lầm lớn nào, không làm việc xấu lớn nào, nhưng nhìn từ phương diện nào thì cũng không thể xem đây là ưu điểm – đây là một khuyết điểm trong nhân tính. Vậy to gan thì sao? Những câu từ nào thường có tương quan với to gan? (Thưa, là to gan ngu ngốc, cả gan làm càn.) Cả gan làm càn, gan to bằng trời, ăn gan hùm mật gấu, chúng đều có ý là to gan. Vậy to gan rốt cuộc là tốt hay xấu? (Thưa, còn tùy xem là chuyện gì.) Chuyện này phải xem tình huống và xem đó là loại người gì. Nếu xét theo nhân tính, thì to gan không được tính là ưu điểm hay khuyết điểm – chúng ta sẽ quy nó vào trong điều kiện bẩm sinh. Xem xét sự to gan của người ta thì phải phân ra, xem là to gan về chuyện gì, xem họ có ranh giới trong hành động không, còn phải xem nhân phẩm của họ thế nào. Nếu nhân phẩm xấu, thì tính to gan của họ sẽ có thể khiến họ vi phạm pháp luật, hành ác và phạm tội, đi đâu cũng chiếm lợi và kiếm chác, gian lận và lừa đảo. Nếu người ta đưa họ tiền để làm việc xấu, thì họ cũng có thể làm. Để chiếm lợi, việc gì họ cũng dám làm, không màng đến hậu quả và không suy xét cho người khác. Người cả gan làm càn như vậy thì có tốt không? (Thưa, không tốt.) Có người vì làm ăn mà lừa gạt khắp nơi, việc làm ăn của họ là phi pháp – chỉ là một công ty vỏ bọc chứ chẳng có hoạt động thực sự nào. Nhưng vì họ to gan, cộng thêm biết lừa bịp, nên họ nhất thời phát tài to, ở nhà lầu, đi xe hơi – họ hưởng thụ sung sướng, nhưng tiền và những thứ vật chất mà hưởng thụ đều là do họ to gan lừa gạt mà có, đây mà là chuyện tốt sao? Ngươi nói xem, to gan kiểu này có tốt hay không? (Thưa, không tốt.) Do đó, đối với người to gan thì phải nhìn xem họ đi con đường nào. Nếu vì to gan mà dám gian lận và lừa đảo, thì đó là làm việc đại ác. Ngươi càng lừa nhiều người, càng chiếm nhiều lợi từ người khác, thì sự trừng phạt sau này ngươi phải chịu chẳng nghiêm trọng hơn sao? Đây chẳng phải là đem lại tai họa sao? (Thưa, phải.) Nếu ngươi nhát gan mà muốn gian lận và lừa đảo, thì ngươi sẽ lừa ít hơn, sau này sẽ chịu sự trừng phạt nhẹ hơn phần nào. Vậy đối với loại người không đi theo chính đạo, họ nhát gan một chút hay to gan một chút thì tốt hơn? (Thưa, nhát gan một chút thì tốt hơn.) Đối với loại người không đi theo chính đạo và có thể gian lận, lừa đảo, loại người không xem pháp luật ra gì và luôn muốn tận dụng kẽ hở của luật pháp để kiếm tiền cách dễ dàng, cùng loại người lúc nào cũng có thể vi phạm pháp luật, thì to gan chính là tai họa của họ – là khuyết điểm và điều tệ hại trong nhân tính của họ. Nhát gan lại là chuyện tốt cho họ, còn là một sự bảo vệ cho họ. Người nhát gan thì kiếm tiền để có thể cho già trẻ trong nhà được ấm no, hưởng thụ thêm một chút xa xỉ phẩm, vậy là thấy đủ rồi. Sau này họ sẽ bị trừng phạt nhẹ hơn một chút. Còn người to gan thì dám làm xằng làm bậy, lừa người hại người, vì để bản thân được hưởng thụ mà chiếm đoạt những thứ của người khác. Họ chiếm lợi từ người khác rồi thì sau này có phải đền bù không? (Thưa, có.) Nếu họ có kiếp sau, thì sự trừng phạt họ chịu sẽ nghiêm trọng, có khi qua một hai kiếp vẫn chưa hết. Có người dành cả đời mở nhà hàng hoặc làm ăn, kiếm được một hai triệu tệ, thậm chí là hàng chục triệu tệ, thế mà bản thân họ chẳng được hưởng thụ chút nào vì phải dùng hết tiền lời để trả nợ, đến năm 70, 80 tuổi vẫn chưa trả xong, chuyện này là thế nào? Đây chính là nhân quả báo ứng – có lẽ vì kiếp trước họ tham lam chiếm đoạt của người khác quá nhiều, nên kiếp này luôn phải trả nợ. Đây chẳng phải là vì ở kiếp trước, lòng tham của họ quá lớn, gan của họ quá to, và chiếm lợi của người khác quá nhiều, nên ở kiếp này họ phải chịu báo ứng sao? (Thưa, phải.) Với những người không đi theo chính đạo, thì nhát gan một chút chính là sự bảo vệ cho họ, còn to gan thì không phải là tín hiệu tốt gì cho họ.

Nếu người ta đi theo chính đạo, thì to gan có tốt hay không? (Thưa, tốt.) Tốt ở chỗ nào? (Thưa, nếu to gan, thì khi gặp phải sự bức hại, họ vẫn có thể kiên vững tin Đức Chúa Trời.) Cái to gan này không chỉ là sự can đảm của xác thịt, nếu là sự can đảm của xác thịt thì dạng to gan này chính là sự hấp tấp và lỗ mãng, có chút manh động và mù quáng. Chẳng hạn như, nếu gan ngươi to và ngươi bị bắt vì tin Đức Chúa Trời, thì ngươi có sợ phải chịu cực hình không? Ngươi có sợ chết không? Ngươi có sợ phải ngồi tù hai mươi, ba mươi năm không? Nếu ngươi sợ, vậy lời ngươi nói “tôi không sợ” lúc mới tin Đức Chúa Trời chính là sự hấp tấp, chứ không phải là to gan thực sự. Biểu hiện nào không phải là hấp tấp? Chính là khi ngươi mới tin Đức Chúa Trời thì có sự can đảm nhất định, nhưng cũng có đức tin chân thật. Đức tin chân thật này là nói đến điều gì? Chính là chuyện khi tin Đức Chúa Trời thì ngươi có quyết chí: “Nếu tôi vì tin Đức Chúa Trời mà bị bách hại, bị bắt và chịu cực hình, thì tôi phải có thể sẵn sàng hy sinh tính mạng. Bất kể chịu hành hạ kiểu gì hay đến mức độ nào, tôi cũng không bán đứng hội thánh, không làm Giu-đa – tôi không sợ chết!” Một mặt là vậy. Mặt khác, nếu ngươi thực sự bị bắt giữ và bách hại, con rồng lớn sắc đỏ uy hiếp để khiến ngươi bán đứng hội thánh, mà ngươi có thể nhìn thấu quỷ kế của Sa-tan, không chịu sự kìm kẹp của nó, còn có thể đứng vững làm chứng và nói rằng: “Hết thảy mọi sự của con người, kể cả chuyện sinh tử, đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, tôi không sợ!”. Như vậy thì không phải là hấp tấp, cũng không phải là sự can đảm đơn thuần, mà là đức tin chân thật. Ngươi có đức tin chân thật này và có thể đứng vững làm chứng, thì đây chính là ưu điểm của ngươi. Giả sử ngươi không có đức tin chân thật, mà chỉ nói “Tôi không sợ, cùng lắm là chết thôi mà”, kết quả là khi bị bắt thì ngươi sợ đến nỗi tè ra quần. Sau khi bị bắt, chuyện đầu tiên ngươi nghĩ đến là: “Mình có bị tra tấn không? Da thịt mình có chịu khổ nổi không? Nếu dùi cui điện mà dí vào người mình, thì mình có chịu nổi không? Chịu tra tấn nghiêm trọng thì mình có chết không? Mình chết rồi thì Đức Chúa Trời có ghi nhớ không? Mình có thể được cứu rỗi không? Nếu thực sự mình chịu không nổi, thì mình sẽ bán đứng hội thánh và làm Giu-đa. Mình chẳng quan tâm đến chuyện mình làm Giu-đa thì sau này sẽ bị trừng phạt hay diệt vong – ít ra trước mắt, mình sẽ không phải chịu đau đớn”. Đây chẳng phải là đánh mất lời chứng sao? Nếu Đảng Cộng sản cứ uy hiếp ngươi, dùng người nhà của ngươi mà dọa dẫm – không cho con gái ngươi học đại học, không cho cha mẹ ngươi được bảo hiểm y tế, tước đi mọi quyền lợi của gia đình ngươi – thì ngươi sẽ sợ hãi, sẽ không còn đức tin chân thật nữa. Sự can đảm của ngươi đi đâu mất rồi? Gan ngươi to thật sao? Nếu ngươi không có đức tin chân thật, thì cái to gan của ngươi chỉ là sự hấp tấp, còn nếu ngươi có đức tin chân thật thì sự can đảm của ngươi mới là thật. Khi chưa bị bắt, mà ngươi nghĩ bụng: “Đức Chúa Trời sẽ không để mình bị bắt đâu”, và ngươi trở nên to gan vì ý nghĩ đó, thì đó không phải là thực sự can trường và có đức tin. Nếu lúc chưa bị bắt mà ngươi nghĩ cho thấu mọi chuyện này và nói: “Chuyện sinh tử của con người đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời thực sự muốn mạng của mình thì mình nên thuận phục. Còn về đích đến sau này của mình thế nào, thì chỉ cần một câu của Đức Chúa Trời là đủ. Đức Chúa Trời đối đãi với mình thế nào, cho mình đích đến ra sao, thì đều là sự công chính của Đức Chúa Trời, và mình sẽ thuận phục. Nếu Đức Chúa Trời để mình chết trong tù, thì đó là vinh hạnh của mình, mình sẵn lòng đem cái mạng này dâng lên Đức Chúa Trời. Bất kể phải chịu đau khổ đến mức nào, mình luôn có một tín điều bất biến, đó là mình đem cái mạng này giao vào trong tay Đức Chúa Trời, bất kể Sa-tan có hành hạ, chà đạp hoặc dùng cực hình thế nào, mình cũng không thỏa hiệp với Sa-tan. Mình không lo sợ chuyện mình có chết hay không. Dù mình có chết, thì đó cũng là do sự tể trị của Đức Chúa Trời, là điều mà Đức Chúa Trời đã tiền định. Mình vẫn cảm tạ và ca ngợi Đức Chúa Trời!” Ngươi phải có đức tin như thế. Ngươi có đức tin như thế thì mới có thể có sự can đảm đích thực. Khi chưa bị bắt, chưa gặp chuyện gì, mà ngươi nhìn thấu được những chuyện này, có đức tin chân thật và sự thuận phục thực sự đối với Đức Chúa Trời, cũng có nhận thức và sự tiếp nhận thực sự đối với những chuyện sinh tử này, có thể hoàn toàn phó thác bản thân trong tay Đức Chúa Trời, thì khi thực sự bị bắt và đối diện với chuyện sinh tử, những nhận thức này trong lòng ngươi sẽ không thay đổi – đức tin của ngươi sẽ không thay đổi. Bất kể hoàn cảnh thế nào, nếu đức tin của ngươi không bị hủy hoại hay đập tan, thì sự can đảm của ngươi sẽ tồn tại mãi. Nếu khi chưa bị bắt, khi chuyện thật chưa xảy đến với ngươi, mà ngươi không nghĩ cho thấu những chuyện này, chỉ đơn phương hão huyền cho rằng: “Mình sẵn lòng dâng hiến tính mạng. Mạng của mình là do Đức Chúa Trời ban – cùng lắm thì mình sẽ trở thành người tử đạo vì Đức Chúa Trời!” Kết quả là khi con rồng lớn sắc đỏ tra tấn và hành hạ ngươi, còn tuyên cho ngươi án tù mười năm, thì ngươi chết lặng: “Mình cứ tưởng chết là xong. Mình tử đạo thì sẽ được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Chẳng ngờ mình lại không thể làm được lời chứng đó, lại còn bị tuyên án tù mười năm. Mười năm, chứ đâu phải mười ngày hay mười tháng! Làm sao mình chịu nổi chứ?” Trước đó, ngươi không nghĩ đến những chuyện này, đến lúc này mà nghĩ thì có dễ nghĩ cho thông không? Sẽ có chút vất vả, phải không nào? (Thưa, phải.) Khi gặp phải khó khăn, thì người ta sẽ chỉ nghĩ xem làm sao để xử lý và làm sao để thoát khỏi nó. Nếu động lực để thoát khỏi khó khăn của ngươi mạnh, thì động lực để ngươi thích ứng với khó khăn trong khốn cảnh sẽ cực kỳ yếu. Do đó, khi đối diện với khó khăn, ngươi sẽ rất khó thuận phục hoàn cảnh như vậy. Trong trường hợp này thì nên giải quyết như thế nào? Thì phải nhanh chóng tìm kiếm lẽ thật mà nghĩ cho rõ ràng những chuyện đó, cũng phải nghĩ cho thông xem nên thực hành lẽ thật như thế nào và con đường ra sao. Chẳng hạn như, nếu phải ngồi tù mười năm, thì ngươi sẽ nghĩ điều gì? “Vợ (chồng) mình có ly hôn với mình không? Qua mười năm thì con mình sẽ lớn chừng nào? Mình đã không thực hiện trách nhiệm với vợ con, liệu họ có từ mặt mình không, sau này mình già, họ có nuôi mình không? Ra tù rồi, mình sống thế nào đây? Sau mười năm, cha mẹ mình đều già cả rồi, mình cũng không tận hiếu được cho cha mẹ, vậy có phải là mình bất hiếu không? Mười năm sau, công tác của Đức Chúa Trời đã kết thúc chưa? Ở trong tù, mình chẳng đạt được điều gì, chẳng nhóm họ, chẳng nghe giảng đạo, cũng chẳng hiểu được lẽ thật, vậy chẳng phải mình sẽ bị lạc hậu mười năm sao? Vậy chẳng phải cũng tương đương với bị đào thải sao? Đức Chúa Trời còn muốn mình nữa không? Mình chịu những cái khổ này thì Đức Chúa Trời có ghi nhớ không? Nếu Ngài không ghi nhớ và mình không thể được cứu rỗi, vậy chẳng phải mình ngồi tù vô ích rồi sao? Qua thời gian mười năm đó, mọi chuyện thay đổi rất nhiều, mình chẳng đạt được gì mà còn mất mát quá nhiều”. Ngươi nghĩ đến những chuyện này thì khó khăn sẽ ập đến. Ngươi nên đối diện với những khó khăn này như thế nào? Chẳng phải ngươi nên nghĩ cách để sống qua ngày sao? Nếu ngươi không nghĩ cho thông những chuyện này, không đạt đến hiểu lẽ thật và nhìn thấu sự việc, một khi ngươi bị bắt thì chuyện sinh tử của ngươi đều tùy vào một ý nghĩ: Một khoảnh khắc khiếp đảm và sợ hãi thôi, một tâm tư ý niệm thôi, sẽ có thể dẫn đưa ngươi trở thành Giu-đa, bán đứng hội thánh và biến mọi công sức trước đó thành mây khói. Nếu ngươi không thể nghĩ thông và nhìn thấu những chuyện này, thì ngươi sẽ rất khó tránh chuyện lo lắng cho tiền đồ và số phận của mình, rất khó đem chuyện sinh tử phó thác vào tay Đức Chúa Trời và thuận theo mọi sự sắp đặt của Ngài. Trong chuyện sinh tử mà ngươi vẫn không thể nhìn thấu, lại còn có tâm lý cầu may, muốn len bừa qua ải, thì một khi gặp phải hoàn cảnh đó, ngươi sẽ bị tỏ lộ. Những người bị bắt chỉ qua một đêm là đã thành Giu-đa, ký “Tam thư” và bị Sa-tan đóng dấu của con thú. Có lúc chuyện sinh tử của con người tùy vào một ý nghĩ mà thôi, nếu không có lẽ thật thì rất khó qua được cửa ải này. Vậy to gan đích thực là gì? Dựa vào một sự bùng phát mãnh lực để làm được việc gì đó thì có phải là to gan đích thực không? Không phải, đó là bốc đồng. Người to gan đích thực thì trong lòng có sự phân định nhất định đối với rất nhiều điều tích cực và tiêu cực. Đối với những điều tích cực, họ có thể đồng ý, tiếp nhận và xác nhận chắc chắn từ trong lòng, đạt đến mức độ có thể thuận phục lẽ thật và sự tể trị của Đức Chúa Trời. Được như vậy thì ngươi mới có sự can đảm đích thực. Nếu trong lòng ngươi không có những điều này, thì sự to gan của ngươi chỉ là to gan ngu ngốc, là trâu mới sinh không biết sợ hổ. Cho nên, ở những nước chống đối Đức Chúa Trời mà ngươi tin và đi theo Đức Chúa Trời, thì không chỉ cần sự can đảm, mà quan trọng hơn nữa, ngươi cần có đức tin. Ngươi dám tin Đức Chúa Trời không phải vì gan ngươi to, mà vì ngươi có đức tin. Có những người nói: “Tôi cảm thấy tôi tin Đức Chúa Trời được là nhờ gan tôi to, không sợ bị bách hại”. Lời này có thể cũng đúng, vì ngươi có sự táo tợn nên mới tin Đức Chúa Trời được, nhưng Đức Chúa Trời thấy ngươi ngu muội, vô tri và đơn thuần, nên mới đặc biệt ân đãi ngươi, sắp đặt cho ngươi một vài hoàn cảnh, còn cho ngươi sự chăm tưới và cung ứng của lẽ thật. Ngươi nhờ vậy mà hiểu được và đạt được không ít lẽ thật. Cứ như vậy qua thời gian, trong sự táo tợn của ngươi có thành phần đức tin chân thật rồi, khi đó sự can đảm của ngươi mới càng thêm lớn mạnh, càng dám đối diện với những hoàn cảnh về sau hoặc những sự bách hại. Nếu ngươi không có đức tin chân thật, mà dựa vào một luồng mãnh lực, nói rằng: “Tôi dám tin Đức Chúa Trời, không sợ bị bách hại, không sợ bị bắt vào tù!” thì dạng can đảm đó không giữ vững được lâu. Nếu không có sự cung ứng của lẽ thật, không có Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh trong cuộc sống thực tế để huấn luyện, rèn luyện và dạy bảo ngươi cách đối diện các loại sự việc và sự vật, thì cái gan to của ngươi hoàn toàn là sự táo tợn, hoàn toàn không có đức tin chân thật. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Nếu đó thực sự là sự táo tợn, vậy thì ngươi là người hấp tấp, ngu muội và vô tri rồi. Có những người tin Đức Chúa Trời mà tư tưởng rất đơn thuần, suy nghĩ rất đơn giản, hoàn toàn không nghĩ đến chuyện đi theo Đức Chúa Trời thì sẽ gặp những nguy hiểm nào. Kết quả là khi gặp phải chúng rồi, họ mới biết đi theo Đức Chúa Trời không phải là chuyện đơn giản. Nếu nói to gan là ưu điểm của nhân tính, vậy ít ra thì những người này là người đơn thuần, đơn giản, không phức tạp, không chần chừ sợ trước sợ sau. Nhưng nếu cái gan to của ngươi là do bị ý định được phúc chi phối, và ngươi cảm thấy: “Tin Đức Chúa Trời rồi thì có thể được vào thiên đàng và có được phúc lớn, có thể tránh khỏi tai họa và khỏi phải chết. Vậy thì tôi tin, có ra sao thì ra!” Ngươi tin Đức Chúa Trời dưới sự chi phối của luồng mãnh lực táo tợn đó, không phải đơn thuần là muốn tin Đức Chúa Trời, mà thay vào đó là để kiếm phúc lành. Vậy thì cái gan to của ngươi cùng lắm là sự táo tợn, và không được tính là ưu điểm của nhân tính. Do đó, đối với những người to gan, ngươi phải biết nhìn xem thực chất nhân tính của họ thế nào. Nếu họ không có bất kỳ lương tâm và lý trí nào, chỉ táo tợn mà thôi, thì họ chẳng có mấy giá trị và không làm được việc gì có ý nghĩa. Nhưng nếu họ có thể tin Đức Chúa Trời và tiếp nhận lẽ thật, thì người như vậy mới có giá trị. Nếu to gan mà không có bất kỳ năng lực lĩnh hội nào, không thể hiểu lẽ thật, chỉ vì được phúc mới tin Đức Chúa Trời, vì được phúc mà có thể từ bỏ gia đình, sự nghiệp và không sợ bị bách hại – thì đây không phải là ưu điểm trong nhân tính, mà là tư tưởng và quan điểm sai lầm. Vậy tư tưởng và quan điểm sai lầm có phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không phù hợp.) Bất kể là nhát gan hay to gan thì đều liên quan đến điều kiện bẩm sinh, chứ không liên quan mấy đến thực chất nhân tính.

Nếu chúng ta không thông công về các biểu hiện khác nhau của điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại, thì tự thân các ngươi có biết phân định không? (Thưa, với các biểu hiện đơn giản thì có lẽ chúng con cũng biết, nhưng phức tạp hơn một chút thì sẽ không biết.) Vậy đã thông công về sự khác biệt giữa điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại rồi, giờ các ngươi đã biết phân định chúng chưa? (Thưa, đã biết phân định hơn trước đây một chút.) Vậy nếu Ta đưa ra một vài ví dụ đặc thù, thì các ngươi có biết dựa vào những lời Ta đã thông công mà phân định không? Khó nói lắm, phải không? Vậy lần sau, chúng ta sẽ tiếp tục thông công về các dạng vấn đề khác nhau liên quan đến chủ đề này. Thông công thêm thì các ngươi sẽ tìm ra được một vài quy luật về cách phân định các dạng vấn đề khác nhau. Về các biểu hiện khác nhau của nhân tính, điều kiện bẩm sinh và tâm tính bại hoại, các ngươi cơ bản đều biết phân định những biểu hiện đã được thông công rồi. Còn về những biểu hiện chưa được thông công, thì có lẽ chỉ những người có hiểu biết thuộc linh hoặc những người biết tìm kiếm lẽ thật mới có thể phân định được đôi chút. Còn những người có tố chất kém thì có lẽ sẽ với không tới và không biết phân định, vậy thì họ phải nghe thêm và hỏi thêm. Nếu không thông công về những chủ đề này, thì các ngươi sẽ mãi mãi mơ hồ không rõ, lời các ngươi nói cũng sẽ mơ hồ, giữa nhận thức của các ngươi và nhận thức thuần khiết của lẽ thật sẽ luôn có khoảng cách, phải không? (Thưa, phải.)

Hôm nay, chúng ta đã thông công về vấn đề tố chất. Giờ các ngươi đã biết phân định tố chất của con người là thế nào chưa? (Thưa, đại khái có thể phân định được rồi.) Nếu không biết phân định thì cứ từ từ trải nghiệm. Trong cuộc sống thường nhật, các ngươi sẽ tiếp xúc với những chuyện này. Hãy học cách đưa những lời trong mối thông công vào cuộc sống hiện thực, từng chút một liên hệ chúng với các biểu hiện của người ta – phân định bản thân và phân định người khác, nhận thức bản thân và nhận thức người khác. Dần dà, ngươi sẽ biết đánh giá những chuyện này và sẽ có tiêu chuẩn. Nguyên tắc nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động của ngươi sẽ ngày càng rõ ràng hơn. Chúng ta đã thông công nhiều về đủ mọi phương diện của việc phân định điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Bất kể là thông công về biểu hiện nào hay sự bộc lộ nào của nhân tính, thì đó đều không phải là những lời trống rỗng – chúng đều là những điều mà ngươi có thể tiếp xúc, thấy được và cảm nhận được trong cuộc sống hiện thực. Do đó, ngươi phải học cách nhìn nhận các loại chuyện và các loại người bằng cách liên hệ lời Đức Chúa Trời với chúng. Chỉ có học cách liên hệ các loại tình trạng và các loại vấn đề đã được thông công với cuộc sống hiện thực, thì ngươi mới có thể dần dà tiến bộ trong chuyện nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động, mới có thể có nhận thức chính xác về các vấn đề khác nhau liên quan đến lẽ thật, mới có thể dần dà nắm vững các nguyên tắc lẽ thật khác nhau. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Mặc dù những vấn đề được nói đến chủ yếu là để phân định các loại tình trạng và biểu hiện của người ta, chứ không trực tiếp khiến ngươi hiểu lẽ thật và bước vào lẽ thật, nhưng những vấn đề này đều sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của ngươi về lẽ thật và nguyên tắc lẽ thật, cùng lối vào lẽ thật và nguyên tắc lẽ thật của ngươi. Do đó, mặc dù trong quan niệm của con người, những vấn đề này chỉ liên quan đến nhân tính, điều kiện bẩm sinh hoặc một vài tâm tính bại hoại rõ rệt, nhưng bất kể là dạng vấn đề nào, dạng câu nói nào, cũng đều có liên quan đến lối vào lẽ thật của con người. Do đó, những vấn đề này đều là những vấn đề mà ngươi buộc phải gặp trên con đường bước vào lẽ thật, ngươi tránh cũng không được. Các dạng vấn đề và biểu hiện khác nhau của nhân tính, bất kể là tích cực hay tiêu cực, đều là những thứ mà ngươi sẽ đối diện và có thể tiếp xúc trong các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống thường nhật. Nếu đối diện với các loại vấn đề khác nhau mà ngươi không biết phân định và cứ vơ đũa cả nắm, xem những nguyên tắc lẽ thật đã được thông công là quy định và đạo lý, vậy thì ngươi vĩnh viễn không thể bước vào thực tế lẽ thật. Tại sao? Bởi vì ngươi vĩnh viễn không hiểu được lẽ thật là gì.

Được rồi, hôm nay thông công đến đây thôi. Hẹn gặp lại!

Ngày 25 tháng 11 năm 2023

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (4)

Tiếp theo: Cách mưu cầu lẽ thật (9)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger