Cách mưu cầu lẽ thật (5)
Gần đây, có vài người nghe được một vài tin đồn tiêu cực phải không? (Thưa, phải.) Lúc nghe những tin đồn đó thì các ngươi có phản ứng gì? Trong lòng có sợ hãi không? Có hiếu kỳ không? Các ngươi có muốn biết đó là những tin đồn gì không? (Thưa, chúng con không muốn biết, bởi vì chúng con đã biết con rồng lớn sắc đỏ thường nói không thành có để bịa đặt tin đồn. Bất kể nó nói gì thì cũng đều là giả. Do đó, chúng con không có hứng thú đối với chi tiết của những tin đồn đó, cũng không muốn tìm hiểu những lời của quỷ mà nó nói.) Con rồng lớn sắc đỏ bịa đặt đủ loại tin đồn để mê hoặc và làm bại hoại người ta, nhiều người nghe tin đồn rồi thì bị mê hoặc. Có người sợ hãi đến nỗi không dám tiếp nhận con đường thật, có người tiếp nhận rồi thì cũng trở nên nghi hoặc, không muốn tin Đức Chúa Trời nữa. Những người này, lúc chưa nghe tin đồn của con rồng lớn sắc đỏ thì có vẻ có đức tin nơi Đức Chúa Trời, chẳng nghi hoặc chút nào, cũng sẵn lòng đi theo Đức Chúa Trời và làm bổn phận. Nhưng khi nghe tin đồn rồi thì họ lập tức nảy sinh sự nghi hoặc, không còn tâm tư để đi theo Đức Chúa Trời và làm bổn phận nữa. Nhất là những người bị con rồng lớn sắc đỏ bắt, có người khi bị con rồng lớn sắc đỏ dùng cực hình dồn ép thì thỏa hiệp với nó và phủ nhận danh Đức Chúa Trời, có người còn ký “Tam thư”, thậm chí bị ép buộc chửi Đức Chúa Trời, có không ít người như vậy. Các ngươi đều đã nghe qua không ít tin đồn và tuyên truyền tiêu cực, cũng đều chứng kiến con rồng lớn sắc đỏ bắt người tin Đức Chúa Trời rồi thì tiến hành tẩy não họ – thực sự là nó đã mê hoặc được khá nhiều người. Nó còn lợi dụng những người đã phản bội Đức Chúa Trời này phục vụ cho nó, giám sát hội thánh, đi theo và bám đuôi những người tin Đức Chúa Trời. Để tiêu diệt tôn giáo tín ngưỡng và xóa sổ hội thánh của Đức Chúa Trời, mà con rồng lớn sắc đỏ xem việc trấn áp và bắt bớ dân được Đức Chúa Trời chọn là công việc quan trọng của quốc gia hay một nhiệm vụ chính trị, và thực hiện việc này một cách đặc biệt rốt ráo, đặc biệt dốc sức. Chuyện này khiến cho khá nhiều người tin Đức Chúa Trời cảm thấy sợ hãi, không dám tin Đức Chúa Trời hay làm bổn phận nữa. Nhất là khi nghe được những tin đồn do con rồng lớn sắc đỏ bịa đặt này, khá nhiều người đã bị mê hoặc. Đối với những tin đồn này, nhà Đức Chúa Trời từ sớm đã tổng hợp chúng lại và thực hiện phân định chúng, nên không cần nói đến chúng ở đây nữa. Nếu ngươi thực sự bị bắt, rồi con rồng lớn sắc đỏ dùng những tin đồn này để tẩy não ngươi, bức ép ngươi bày tỏ thái độ, bức ép ngươi ký “Tam thư”, thì ngươi nên làm gì? Hiện tại, các ngươi biết được những tin đồn do con rồng lớn sắc đỏ bịa đặt đều là giả, là thứ mê hoặc và lừa người. Mặc dù thái độ của các ngươi là không nghe, không xem và không tin chúng, nhưng nếu những tin đồn này được đặt ra trước mặt ngươi, khiến ngươi nghe được và thấy được chúng rồi, thậm chí khiến ngươi cho rằng chúng là sự thật, thì ngươi có thể dao động không? Trong lòng ngươi sẽ nghĩ gì? Ngươi có muốn biết chân tướng sự thật không? Ngươi có muốn xác minh chúng không? Đối với chuyện con rồng lớn sắc đỏ bịa đặt tin đồn để mê hoặc và dọa dẫm người ta, hoặc là dùng tin đồn và thuyết vô thần để làm công tác tư tưởng và tẩy não người ta, thì chúng ta có cần thông công lẽ thật để tiêm phòng trước cho mọi người không? Đây có phải là một công tác tất yếu không? Có những người nói: “Con rồng lớn sắc đỏ bịa đặt tin đồn về chúng ta nhiều năm rồi, nhất là bịa tin đồn về Đấng Christ, về người được Đức Thánh Linh sử dụng, nó còn bịa tin đồn về hội thánh và công tác của hội thánh. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ làm cho rõ mấy chuyện này, cũng chẳng bày tỏ rõ thái độ hay quan điểm của mình, chẳng biện minh gì cả. Làm như vậy có thích đáng không?” Có những người từ khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời cho đến bây giờ, đều chẳng hề phân định cho thấu đủ loại tin đồn đến từ con rồng lớn sắc đỏ và giới tôn giáo. Trong lòng họ lúc nào cũng đặt một dấu chấm hỏi về những chuyện này. Dấm chấm hỏi này không hẳn là hoàn toàn không tin, cũng không hẳn là hoàn toàn tin. Thay vào đó, họ đang đứng ở lập trường trung gian mà nhìn nhận những chuyện này, cho rằng có khả năng những chuyện này đều là do con rồng lớn sắc đỏ lớn bịa đặt, mà cũng có khả năng là chúng là sự thật. Cái “cũng có khả năng” này có phải là một dạng quan điểm tìm kiếm lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Đây là dạng quan điểm muốn xác minh và xác nhận về tin đồn, hoặc là quan điểm chờ đợi và quan sát, chờ người biết chuyện tiết lộ một vài tình hình thực tế cho mình. Các ngươi nói xem, người có hai dạng quan điểm này thì sẽ đem lại hậu quả gì? Họ có gặp nguy hiểm không? Trong hai dạng quan điểm này, quan điểm nào có thể khiến người ta đứng vững được? (Thưa, cả hai dạng quan điểm này đều không thể khiến người ta đứng vững. Nếu người ta có cách nghĩ “cũng có khả năng” này thì cho thấy họ vẫn chưa xác định chắc chắn về con đường thật, trong họ vẫn còn phần hoài nghi. Đối với họ, dạng tin đồn này chính là một sự cám dỗ rất lớn. Nếu không thể xác định chắc chắn về con đường thật, không thể tin vào lẽ thật, không thể nhìn thấu thực chất của con rồng lớn sắc đỏ, thì người ta thực sự gặp nguy hiểm lớn rồi.) Những người này đến tận bây giờ vẫn chưa xác định chắc chắn về con đường thật. Thực chất của họ là gì? (Thưa, là kẻ chẳng tin.) Họ chính là kẻ chẳng tin. Có nhiều người bám chặt vào hai dạng quan điểm này không? Chắc chắn là có không ít. Khi những người này nghe tin đồn, thì trong lòng họ sẽ nảy sinh sự nghi hoặc đối với Đức Chúa Trời, sẽ muốn biết rốt cuộc chuyện đó là thế nào, muốn làm cho rõ tin đồn đó là thật hay giả. Nhưng vì họ không biết cách tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chuyện này, nên cuối cùng chẳng có kết quả gì. Thật ra, vấn đề đó vẫn cứ tồn tại trong lòng họ, chưa được giải quyết. Lúc nghe những tin đồn này, các ngươi có tìm kiếm lẽ thật không? Các ngươi tìm kiếm lẽ thật để mổ xẻ và phân định tin đồn, hay là các ngươi phân rõ đúng sai từng cái một để xem chúng rốt cuộc là thật hay là giả? Các ngươi nghe tin đồn rồi, thì trong lòng chỉ nghĩ rằng chúng không có thật, hoàn toàn là do con rồng lớn sắc đỏ bịa đặt tin đồn để bôi nhọ, chứ các ngươi chẳng dựa vào lẽ thật và sự thật mà phản bác. Thực ra trong lòng các ngươi vẫn còn tồn tại ít nhiều sự nghi hoặc, các ngươi chỉ đơn giản dùng vài câu nói mang tính đạo lý để giải tỏa nghi ngờ của mình mà thôi. Suy nghĩ như vậy thì có thể đứng vững được không? Như vậy thì có phải là đang tìm kiếm lẽ thật không? Như vậy thì có phải là đã hiểu lẽ thật và đạt được lẽ thật không? Những vấn đề đó đã được giải quyết từ căn nguyên chưa? (Thưa, chưa được giải quyết.) Vậy các ngươi có muốn dùng lẽ thật để giải quyết những vấn đề này, để các ngươi có sự phân định đối với những tin đồn này và không bị chúng mê hoặc, để trong lòng các ngươi không có bất kỳ nghi vấn nào, hoàn toàn tiêu trừ sự nghi hoặc, suy đoán và phòng bị đối với Ta hay không? Có vài người cảm thấy: “Từ khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời cho đến nay, chúng con luôn nghe Ngài giảng đạo, tiếp nhận sự chăm tưới và chăn dắt của Ngài, ai cũng có một vài thu hoạch và tiến bộ. Nhưng chúng con chưa thực sự sống cùng với Ngài, chưa thực sự tiếp xúc với con người Ngài, nên về chuyện con người Ngài rốt cuộc thế nào, tính cách và phẩm chất nhân tính của Ngài như thế nào, cuộc sống của Ngài như thế nào, thì chúng con hoàn toàn không biết, hoàn toàn không hiểu”. Nghĩa là đối với biểu hiện và sự bộc lộ về mọi phương diện trong nhân tính của xác thịt này, cũng như việc sinh hoạt, thái độ và biểu hiện cụ thể trong việc đối nhân xử thế của xác thịt này, người ta luôn đặt một dấu chấm hỏi và có sự nghi ngại. Người ta có sự nghi ngại này, một mặt là do tự thân người ta không xác định chắc chắn 100% về sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Mặt khác là do người ta hiểu lẽ thật quá nông cạn, lại còn bị ảnh hưởng bởi tin đồn đến từ giới tôn giáo hoặc con rồng lớn sắc đỏ. Vì vậy mà các ngươi sẽ có rất nhiều suy đoán về Ta. Đương nhiên, nội dung những suy đoán này chắc chắn không tích cực hay chính đáng, chắc chắn có một số nội dung tăm tối và tiêu cực. Đối với các ngươi mà nói, có những suy đoán như vậy là chuyện tốt hay chuyện xấu? Chúng là một dạng gánh nặng phiền phức, một dạng trói buộc, hay là một dạng khích lệ? Các ngươi nói xem. (Thưa, nếu trong lòng người có những suy đoán không tốt này, thì đây không phải là chuyện tốt, mà là một dạng gánh nặng phiền phức. Chúng sẽ khiến người ta đề phòng Đức Chúa Trời, chứ chúng chẳng giúp đỡ người ta chút gì trong việc tin Đức Chúa Trời.) Những thứ tiêu cực này có ảnh hưởng gì đối với các ngươi? Chúng sẽ tạo nên hậu quả gì? Trong một vài hoàn cảnh nhất định, những thứ này có gây nguy hiểm cho ngươi không? (Thưa, có.) Bởi vì những thứ này là một dạng gánh nặng phiền phức, không phải là chuyện tốt đối với ngươi, vậy ngươi có nên dùng lẽ thật mà giải quyết chúng không? Hay là nên gạt chúng sang một bên, mặc kệ chúng, cũng không cần nghĩ đến, chờ tới lúc thực sự gặp vấn đề mới tính? Thái độ của các ngươi đối với chuyện này là thế nào? (Thưa, lúc nghe những tin đồn đó, thì đúng là con gạt chúng sang một bên, mặc kệ chúng. Nhưng vừa nghe Đức Chúa Trời thông công xong, con mới nhận ra rằng khi gặp những vấn đề này thì phải dùng lẽ thật mà giải quyết. Nếu không, người ta sẽ không rũ bỏ được gánh nặng phiền phức này trong lòng, rồi trong một bối cảnh nào đó, nó có thể dẫn đến hậu quả không tốt, thậm chí người ta còn có thể hoài nghi và phủ nhận Đức Chúa Trời, như vậy thì rất nguy hiểm.) Mặc dù ngoài miệng, ngươi nói những thứ này là tin đồn, nhưng nếu chẳng bao giờ thực sự phân định được những tin đồn này hoặc có thái độ đúng đắn với chúng, trong lòng luôn chứa chấp những thứ tiêu cực này, thì ngươi sẽ thường xuyên bị chúng kìm kẹp. Đối với ngươi, những tin đồn này chính là một thứ bom hẹn giờ, sẽ nổ tung bất kỳ lúc nào hay ở đâu. Hậu quả chắc chắn là không dám nghĩ đến, ngươi sẽ bị nổ tung đến mức tan xương nát thịt. Hiện tại, chẳng phải những người ký “Tam thư” đã bị bom này nổ cho tan xương nát thịt sao? Khi họ ký “Tam thư” rồi, con rồng lớn sắc đỏ vẫn không buông tha cho họ, nó còn yêu cầu họ buộc phải chửi Đức Chúa Trời mấy câu mới được. Mặc dù trong lòng không tình nguyện, nhưng họ cũng hết cách, họ đành thuận theo Sa-tan để khỏi bị ngồi tù. Họ chửi Đức Chúa Trời rồi thì cảm thấy hy vọng được phúc của mình không còn nữa, hoàn toàn tiêu tùng rồi. Họ không cần tiếp tục suy ngẫm xem những tin đồn này là thật hay giả, những lo lắng, ưu tư, nhút nhát, sợ hãi trong bao nhiêu năm tin Đức Chúa Trời đều hoàn toàn tan biến. Đồng thời, hy vọng được cứu rỗi của họ cũng tan tành theo đó. Các ngươi nói xem, ngay cả khi người ta hoài nghi Đức Chúa Trời nhập thể hoặc dòng chảy này, thì chửi Đức Chúa Trời có phải là việc nên làm không? (Thưa, không.) Khi con rồng lớn sắc đỏ khiến ngươi chửi Đức Chúa Trời, tại sao ngươi lại nghe theo nó? Bất kể là ai, ngay cả khi phủ nhận con đường thật và phủ nhận dòng chảy này, thì cũng không nên chửi Đức Chúa Trời. Người có thể chửi Đức Chúa Trời thì là loại người gì? (Thưa, người có thể chửi Đức Chúa Trời thì có nhân tính ác, lại còn đặc biệt thù hận lẽ thật, và đi theo quyền thế của Sa-tan.) Các ngươi nói xem, nếu trong lòng người ta thực sự tin có Đức Chúa Trời, tin Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, tin nhân loại là do Đức Chúa Trời tạo dựng, sự sống của con người là do Đức Chúa Trời ban cho, tin Đức Chúa Trời là Đấng tể trị vạn vật – thì người ta có chửi Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Họ vĩnh viễn sẽ không làm vậy. Bất kể trong hoàn cảnh nào, họ cũng sẽ không chửi Đức Chúa Trời. Ngay cả khi hoài nghi danh của Đức Chúa Trời Toàn Năng, hoài nghi dòng chảy công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng, thì họ cũng tuyệt đối không chửi Đức Chúa Trời. Loại người có thể chửi Đức Chúa Trời thì không chỉ phủ nhận dòng chảy này hay là phủ nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng nhập thể, mà họ còn phủ nhận công tác của Đức Chúa Trời và lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ. Vậy đây là loại người gì? (Thưa, họ thuộc số ma quỷ, phủ nhận Đức Chúa Trời trong lòng.) Loại người này cùng một bè lũ với ma quỷ và Sa-tan, họ không phải là dân được Đức Chúa Trời chọn, không phải là chiên của Đức Chúa Trời, họ không phải là người. Có những người sau khi bị con rồng lớn sắc đỏ bắt, vì không hiểu lẽ thật và không có sự phân định, nên khi nghe những tin đồn này thì nghi hoặc. Họ nảy sinh sự nghi hoặc đối với Đức Chúa Trời, khi bị uy hiếp và dụ dỗ, bị dồn ép bằng cực hình, thì họ phủ nhận danh Đức Chúa Trời, phủ nhận dòng chảy công tác của Đức Thánh Linh, phủ nhận hội thánh. Như vậy là đủ đến mức phản bội Đức Chúa Trời rồi. Nhưng có những người còn có thể chửi Đức Chúa Trời – như vậy thì quá thiếu lương tâm và lý trí, không thể tha thứ, đây chính là phạm phải tội không thể tha thứ. Nếu ngươi chửi người khác, công kích, xét đoán hoặc phỉ báng người khác, thì xét theo pháp luật, cùng lắm ngươi sẽ bị phán tội phỉ báng, hoặc nặng nhất thì cũng là tội công kích cá nhân. Như vậy thì không tính là nghiêm trọng, không đến nỗi chết. Nhưng người ta có thể chửi Đức Chúa Trời, thì tính chất của vấn đề khác đi rồi, nó không chỉ đơn thuần là chửi Đức Chúa Trời, mà đây chính là báng bổ Đức Chúa Trời! Báng bổ là gì? Chính là công kích, phỉ báng, chửi bới, bôi nhọ một cách trực tiếp những điều tích cực, lẽ thật hoặc Đức Chúa Trời – đây đều là báng bổ. Đức Chúa Trời thì thánh khiết và chí cao vô thượng, Ngài tể trị toàn nhân loại, là Đấng cung ứng sự sống cho nhân loại, là nguồn gốc sự sống của nhân loại. Thực chất, thân phận và địa vị của Đức Chúa Trời là chí cao vô thượng, Đức Chúa Trời hoàn mỹ, thiện mỹ, thánh khiết, không chút tỳ vết và không có gì đáng trách. Chính vì Đức Chúa Trời thánh khiết, hoàn mỹ và chí cao vô thượng, còn là nguồn gốc sự sống của nhân loại, cho nên bất kỳ sự bôi nhọ, công kích và chửi bới nào từ loại người thọ tạo đối với Đức Chúa Trời đều là sự báng bổ. Vậy hẳn các ngươi đã hiểu rốt cuộc “báng bổ” là gì rồi nhỉ? (Thưa, công kích, chửi bới và bôi nhọ Đức Chúa Trời thì đều là báng bổ.) Nếu giải thích từ “báng bổ” thì nó nghĩa là bôi nhọ, xét đoán hoặc kết tội những điều tích cực, nhất là bôi nhọ, xét đoán hoặc kết tội lẽ thật và Đức Chúa Trời – đây gọi là báng bổ. Cho nên, từ “báng bổ” này chỉ có thể dùng để mô tả sự bôi nhọ, chửi bới, công kích và xét đoán của nhân loại đối với Đức Chúa Trời – như vậy là tương đối xác đáng. Khi người ta xét đoán, chửi bới, công kích và kết tội người khác, nếu không đúng sự thật, thì cũng lắm cũng chỉ là phỉ báng, còn nếu phù hợp sự thật thì không phải là phỉ báng. Nhưng con người mà xét đoán và kết tội Đức Chúa Trời, thì đó chính là bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen – như vậy là báng bổ rồi. Tính chất của chuyện con người dám kết tội Đức Chúa Trời là gì? Đức Chúa Trời có tội sao? (Thưa, không có.) Đức Chúa Trời thánh khiết và không có tội, do đó, bất kỳ sự bôi nhọ, công kích, xét đoán, chửi bới nào đối với Đức Chúa Trời đều gọi là báng bổ. Những người chửi Đức Chúa Trời cho rằng: “Chỉ cần nói vài câu chửi Đức Chúa Trời là mình có thể được thả ra, có thể thoát khỏi nguy hiểm. Trường hợp này thì Đức Chúa Trời cũng không ghi nhớ đâu”. Trong mắt con người, thì đó chỉ là chửi vài câu và có vẻ chẳng phải là vấn đề lớn gì, nhưng Đức Chúa Trời thì nhìn nhận chuyện này thế nào? Ngươi có thể chửi Đức Chúa Trời thì cho thấy trong lòng người đã phủ nhận Đức Chúa Trời rồi. Trong lòng nảy sinh sự thù hận thì người ta mới có thể chửi Đức Chúa Trời. Bất kể ngươi chủ động hay là bị người khác cưỡng ép, thì đó đều là một dạng biểu hiện phủ nhận và thù hận Đức Chúa Trời. Do đó, dạng hành vi và cách làm này chính là báng bổ, không sai chút nào.
Có những người chẳng bao giờ buông bỏ các loại tin đồn, luôn cảm thấy những tin đồn này có khả năng là thật. Đối với những tin đồn mà đảng cầm quyền là con rồng lớn sắc đỏ, giới tôn giáo và người ngoại đạo lan truyền, nhất là những tin đồn, tuyên bố đăng trên mạng, họ luôn muốn xác minh xem chúng có thật hay không. Nếu Đức Chúa Trời chẳng bao giờ bày tỏ thái độ, nhà Đức Chúa Trời cũng không làm cho rõ sự thật, thì họ sẽ hoàn toàn tin rằng những tin đồn này là thật, sẽ phủ nhận và phản bội Đức Chúa Trời – vấn đề ở đây là gì? Rốt cuộc họ dựa vào điều gì để tin Đức Chúa Trời? Nếu họ dựa vào chuyện tin đồn có thật hay không, thì họ sai trầm trọng rồi. Thật ra, đối với nhiều tin đồn, những bài giảng, mối thông công và phim ảnh của nhà Đức Chúa Trời đã mổ xẻ và phản bác rất rõ ràng rồi, Ta không cần nói chi tiết về chúng ở đây nữa. Vậy các ngươi có còn muốn xác minh những tin đồn nào không? Hôm nay, chúng ta sẽ phơi bày hết về chủ đề này. Nếu các ngươi muốn xác minh, thì Ta sẽ cho các ngươi một lời, để khỏi có một vài người luôn cảm thấy: “Chẳng phải Ngài có chuyện gì đó giấu chúng con, không muốn chúng con biết sao? Chúng con luôn có chút dò không thấu được Ngài. Mặc dù chúng con đi theo Ngài và đã nghe nhiều lẽ thật đến vậy, nhưng về chuyện những tin đồn này là thật hay giả, thì trong lòng chúng con vẫn chưa chắc chắc. Cho nên trong lòng chúng con luôn có ý niệm và ý nghĩ muốn xác minh chúng”. Nếu các ngươi muốn xác minh, thì hãy mạnh dạn nói ra. Chúng ta hãy công khai nói về chuyện này. Ta sẽ có một lời cho các ngươi – chẳng có gì để giấu cả. Có người nào muốn xác minh không? (Thưa, không.) Các ngươi không muốn xác minh với nền tảng là không tin tin đồn đến từ con rồng lớn sắc đỏ, hay là vì các ngươi có thái độ kiểu: “Mình không muốn quan tâm chuyện này, chuyện đến đâu thì đến” nên không muốn xác minh? Hay là các ngươi sợ rằng khi đã xác minh rồi, thì sẽ thất vọng, không có cách nào đối diện chuyện này, không biết mình có đứng vững nổi không, và không muốn đối diện với dạng hậu quả này? Bất kể nội dung của những tin đồn này là gì, bất kể các ngươi có muốn xác minh hay không, có muốn nghe xem Ta có lời nào hay bình luận nào về những tin đồn này hay không, bất kể các ngươi có dạng thái độ nào, thì thái độ của Ta chỉ có một mà thôi: Nếu các ngươi hiểu lẽ thật, thì tự nhiên sẽ có thể phân định được những tin đồn này, còn nếu các ngươi không hiểu lẽ thật, cũng không tìm kiếm lẽ thật, thì Ta chẳng có gì để nói với các ngươi cả. Bởi vì Ta đã nói quá nhiều lời bày tỏ lẽ thật rồi, Ta không cần giải thích những tin đồn này cho các ngươi – đây đâu phải là công tác Ta nên làm. Các ngươi nghe giảng đạo nhiều như vậy rồi, mà vẫn không biết phân định sao? Nếu không biết phân định thì các ngươi không hiểu lẽ thật. Đối với người không hiểu lẽ thật thì nói bao nhiêu cũng vô dụng, cũng tương đương với nói chuyện với người ngoại đạo, nói bao nhiêu thì họ cũng không hiểu. Do đó, đối với bất kỳ tin đồn nào, Ta đều không có gì để nói! Ta không muốn giải thích bất kỳ điều gì, cũng không muốn nói gì, không muốn phân bua biện bạch gì. Bất kể thế giới bên ngoài nói cái gì, Ta đều không có gì để nói! Các ngươi nghe rõ chưa? (Thưa, nghe rõ rồi.) Không có gì để nói, đây là một dạng thái độ. Ngoài ra, lời Ta muốn nói với các ngươi về chuyện này là gì? Chính là bất kể lúc nào, thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời sẽ không thay đổi, địa vị của Đức Chúa Trời sẽ không thay đổi, tâm tính của Đức Chúa Trời sẽ không thay đổi, thẩm quyền và quyền năng của Đức Chúa Trời sẽ không thay đổi, sự thật rằng Đức Chúa Trời tể trị nhân loại và cung ứng sự sống cho nhân loại sẽ không thay đổi, sự thật về Đức Chúa Trời nhập thể sẽ không thay đổi, sự thật rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, đường đi và sự sống vĩnh viễn sẽ không thay đổi. Những lời này có đủ để giải quyết những sự nghi hoặc của các ngươi chưa? (Thưa, đủ rồi.) Về những chuyện này, Ta chỉ có những lời này để nói với các ngươi. Nếu các ngươi nghe mà hiểu, thì hãy tiếp nhận. Nếu các ngươi nghe mà chưa hiểu thì cứ từ từ suy ngẫm. Nếu trong lòng ngươi còn thấy nghi hoặc, và những lời này cũng không giải quyết được sự nghi hoặc của ngươi, vậy thì Ta không còn cách nào khác nữa. Ngươi cứ thuận theo tự nhiên, Ta chỉ có thể nói vậy với ngươi, chỉ có thể làm đến mức này thôi. Làm như vậy có thích hợp không? (Thưa, thích hợp.) Những lời này có thể có tác động nhất định đối với người ta không? Khi đối diện các loại sự vật phức tạp, nếu mối quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời phát sinh vết nứt, hoặc con người nảy sinh sự nghi ngờ với Đức Chúa Trời, mà những lời này không thể giải quyết được những vấn đề ngươi đang đối diện, vậy thì ngươi chính là một kẻ chẳng tin. Điều ngươi tiếp nhận không phải là lẽ thật, mà là lời nói dối của Sa-tan, là bất kỳ lời của quỷ nào do Sa-tan nói. Cũng như A-đam và Ê-va thời ban sơ, Đức Chúa Trời phán: “Quả của mọi cây trong vườn, các ngươi đều được ăn. Chỉ có quả của cây thiện ác thì các ngươi không được ăn, ăn thì sẽ chết”. Họ nghe lời Đức Chúa Trời phán thì cũng ghi nhớ trong lòng. Nhưng lúc Sa-tan nói với họ: “Đức chúa trời phán rằng không được ăn quả của cây thiện ác – không hẳn là vậy đâu. Các ngươi ăn vào thì không nhất định phải chết”. Lúc đó, A-đam và Ê-va liền nghi hoặc, họ vứt bỏ lời Đức Chúa Trời mà tin vào lời của con rắn, họ hoài nghi rằng lời Đức Chúa Trời phán là lời nói dối. Bởi vì con rắn nói với họ lời này, nên họ không còn tin Đức Chúa Trời, không còn nghe lời Đức Chúa Trời, mà hoàn toàn nghe lời nói dối của con rắn. Có thể hình dung được kết quả cuối cùng là gì. Họ tin và tiếp nhận lời con rắn nói với họ, đồng thời họ cũng đang phủ nhận lời Đức Chúa Trời phán, cho rằng lời của Đức Chúa Trời là lời nói dối. Họ không còn tin rằng lời Đức Chúa Trời phán là thật, cũng không còn tin vào thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ hoài nghi Đức Chúa Trời, hoài nghi rằng Đức Chúa Trời có dụng tâm đối với họ, hoài nghi Đức Chúa Trời dùng lời nói dối để lừa họ. Nhưng ngược lại, họ tin rằng lời con rắn nói là thật, là vì muốn tốt cho họ. Kết quả cuối cùng là họ bị con rắn dụ dỗ, bị Sa-tan làm cho bại hoại, rời xa sự chăm sóc của Đức Chúa Trời, không còn sự bảo vệ của Ngài nữa, và đi vào con đường không lối về.
Với các ngươi, vấn đề tin đồn đã được giải quyết chưa? Nếu chưa được giải quyết, thì các ngươi hãy tự mình từ từ tiêu hóa chuyện này. Còn về cách tiếp cận tin đồn, Ta cũng đã thông công rất nhiều rồi. Nếu như vẫn còn người nào nhìn không thấy và không biết phân định các loại tin đồn, thì hãy tự mình thông công và giải quyết. Mặc dù chuyện này không tính là chuyện lớn gì, nhưng trong cuộc sống thường nhật, chúng là chuyện có thể thường xuyên quấy nhiễu tâm tư và cuộc sống của người ta. Mặc dù có vài tin đồn không đến mức đoạt mạng ngươi, nhưng cũng là một dạng quấy rối với ngươi, giống như con ruồi hôi thối không cắn người nhưng làm người ta ghê tởm – chúng cứ thỉnh thoảng xuất hiện để quấy rối người ta. Nhất là khi ngươi yếu đuối, gặp thất bại và bước lùi, hoặc tiêu cực, thì những tin đồn và lời của quỷ này sẽ xuất hiện quấy nhiễu ngươi, hành hạ ngươi trong lòng, kéo chân ngươi lại, từng chút một lôi ngươi xuống nước. Có những người cứ như vậy mà rút lui và không tin nữa. Ngươi xem, những người bị đẩy đến nhóm B và các hội thánh phổ thông đang gặp nguy hiểm lớn, nhưng những người đang làm bổn phận toàn thời gian thì không gặp nguy hiểm sao? Có một bộ phận người cũng gặp nguy hiểm rất lớn, bộ phận này là ai? Chính là loại người chẳng bao giờ hiểu lẽ thật này. Họ nghe bao nhiêu lời Đức Chúa Trời rồi mà đều không hiểu. Trong lòng họ luôn nghi hoặc: “Tại sao mình chẳng nghe ra câu nào trong lời của Đức Chúa Trời là lẽ thật vậy? Ai cũng nói lẽ thật là con đường, là sự sống, tại sao mình chẳng có cảm giác đó là sự sống? Mình cũng đã nghe không ít lời Đức Chúa Trời, vậy mà trong sự sống của mình chẳng xuất hiện sự thay đổi nào. Mình vẫn cứ là mình, chẳng thay đổi gì!” Họ chẳng bao giờ hiểu lẽ thật là gì, cũng không hiểu công tác của Đức Chúa Trời, luôn mơ hồ về khải tượng, dạng người này gặp nguy hiểm rồi. Loại người này mà nghe tin đồn thì chẳng bao giờ tìm kiếm lẽ thật để phân định, họ chỉ biết tránh né và cự tuyệt. Nếu tránh được thì họ may mắn thoát nạn, còn tránh không được thì họ bị Sa-tan bắt đi mất. Các ngươi nói xem, chuyện loại người này có thể bị Sa-tan bắt đi, có phải là ngẫu nhiên không? (Thưa, không.) Những người chẳng bao giờ hiểu lẽ thật, chẳng bao giờ hiểu tin Đức Chúa Trời nghĩa là gì, thì có phải là chiên của Đức Chúa Trời không? Họ có thể nghe hiểu lời Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Những người này chẳng bao giờ nghe hiểu lời Đức Chúa Trời, cũng chẳng tìm kiếm lẽ thật, lại còn luôn quan tâm những chuyện như “Khi nào thì ngày của Đức Chúa Trời đến vậy? Khi nào thì chúng ta được vào thiên quốc vậy?” Những chuyện nên hiểu khi tin Đức Chúa Trời thì họ đều không hiểu cho rõ, họ hồ đồ đến mức độ như vậy đó! Các ngươi nói xem, Ta đem lời trong lòng ra nói với loại người hồ đồ này, thì Ta có cảm nhận gì? Vinh hạnh hay là đau buồn? Hay là cảm thấy phẫn nộ? Thấy những người này thì trong lòng ta bực bội. Những kẻ hồ đồ này tin Đức Chúa Trời thì có thể đạt được gì chứ? Con rồng lớn sắc đỏ mà bắt họ và tẩy não họ rồi, thì họ sẽ bị tỏ lộ và đào thải. Những người này chẳng hiểu chút lẽ thật nào, nhà Đức Chúa Trời không cần loại người này. Đây là mượn con rồng lớn sắc đỏ mà tỏ lộ và đào thải họ. Các ngươi nói xem, như vậy là không có lòng yêu thương sao? (Thưa, không phải.) Dạng người này mà chưa bị con rồng lớn sắc đỏ bắt, chưa bị những tin đồn này mê hoặc, thì họ chẳng bám mãi vào hội thánh sao? Trường hợp nào mới khiến họ rút lui? (Thưa, là thông qua tin đồn của con rồng lớn sắc đỏ. Họ nghe và tin vào tin đồn rồi thì sẽ rút lui.) Chính là mượn ma trảo của vật làm nền là con rồng lớn sắc đỏ để bắt họ đi, thế là họ không tin nữa. Thật ra, những người này không lĩnh hội được lẽ thật, cũng không làm được bổn phận gì, phục vụ còn không được. Họ ở trong nhà Đức Chúa Trời cho đủ số, cứ sống qua ngày chờ chết. Mỗi một người họ đều đáng thương, thế mà họ còn nói mình là người đi theo Đức Chúa Trời, là dân được Đức Chúa Trời chọn, như vậy chẳng phải là bôi tro trát trấu sao? Người đi theo Đức Chúa Trời thì ít nhất phải là con người, chứ không phải là kẻ chết không có linh hay là súc vật. Người đi theo Đức Chúa Trời thì phải là người có thể nghe hiểu lời Đức Chúa Trời. Người có thể nghe hiểu lời Đức Chúa Trời, có thể hiểu lẽ thật, mới là chiên của Đức Chúa Trời. Mà chiên của Đức Chúa Trời thì mới thật lòng làm bổn phận và đi theo Đức Chúa Trời. Còn ai không phải là chiên của Đức Chúa Trời thì không thật lòng đi theo. Họ lẻn vào hội thánh là có mục đích, chính là để được phúc. Trong lòng họ đâu có Đức Chúa Trời, họ tin bao nhiêu năm cũng không thể nào có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Ma quỷ, Sa-tan, và những người bị ô quỷ, tà linh nhập này cũng biết đây là con đường thật, cũng muốn được phúc, nhưng Đức Chúa Trời có muốn họ không? (Thưa, không.) Các loại tà linh và ô quỷ mà nhập vào động vật, tu luyện sau bao nhiêu năm đó thì thành tinh, chúng luôn muốn biến thành người, chẳng sẵn lòng làm ô quỷ, tà linh hay tinh linh của các loài động vật, chúng muốn lên cấp cao nhất – làm người. Tương tự như vậy, những kẻ hồ đồ này cũng muốn nâng cao cấp bậc của mình, muốn làm dân được Đức Chúa Trời chọn. Ngươi nói xem, Đức Chúa Trời có muốn dạng người này không? Ngài không muốn. Họ lẻn vào hội thánh thì cũng vô ích thôi, cũng bị thanh lọc đi. Thanh lọc họ đi rồi thì nhà Đức Chúa Trời sẽ thuần khiết, hội thánh sẽ thuần khiết. Những người còn sót lại ít nhất cũng phải là người thừa nhận thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời, thừa nhận Đức Chúa Trời là lẽ thật, đường đi và sự sống, có thể cam tâm phục vụ Đức Chúa Trời. Còn những kẻ hồ đồ này có thể đạt đến việc như vậy không? Họ còn kém xa lắm, họ đều là kẻ chết không có linh, thế mà còn luôn muốn được phúc, luôn muốn vào vương quốc, luôn muốn lên thiên đàng. Dã tâm và dục vọng của họ không nhỏ, cũng không nhìn xem mình là thứ gì, chẳng biết tự lượng sức! Những người này bị đào thải là đúng rồi. Các ngươi có cảm thấy đáng tiếc cho họ không? (Thưa, không đáng tiếc.) Từ đầu, Đức Chúa Trời đã phán: “Điều Ta muốn là sự xuất sắc nơi con người, hơn là nhân số đông”. Đây là một tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu dân được Ngài chọn, cũng là yêu cầu và nguyên tắc đối với nhân số của hội thánh. “Điều Ta muốn là sự xuất sắc nơi con người”, cái “xuất sắc” này là nói đến những binh lính tinh nhuệ của vương quốc hay là nói đến những người đắc thắng? Đều không chính xác. Nói cho chính xác thì “xuất sắc” này là nói đến những người có nhân tính bình thường, là con người chân chính. Trong nhà Đức Chúa Trời, mà ngươi có thể làm được bổn phận của con người, có thể được sử dụng như một con người, không cần người khác lôi ngươi, kéo ngươi, thúc ngươi mà ngươi có thể làm được trách nhiệm, bổn phận và nghĩa vụ của con người, không phải là thứ phế vật, không phải là kẻ ăn bám, kẻ vô lại – ngươi có thể gánh vác trách nhiệm và nghĩa vụ của con người, có thể gánh vác sứ mạng của con người – như vậy thì ngươi mới là loài người đạt tiêu chuẩn! Còn những kẻ vô lại, không chuyên tâm vào việc chính đáng, thì có thể gánh vác được sứ mạng của con người không? (Thưa, không thể.) Có người thì không sẵn lòng gánh vác trách nhiệm, có người thì gánh vác không nổi – họ là phế vật. Không gánh vác được trách nhiệm của con người thì không thể được gọi là con người. Ngươi xem những người thiểu năng trí tuệ, ngu ngốc, bại não, và cơ thể bị liệt, thì có thể được gọi là người tiêu chuẩn không? (Thưa, không thể.) Tại sao lại không thể? Dạng người này không có năng lực sinh hoạt, không có năng lực sinh tồn, không có năng lực tự chăm sóc bản thân. Họ hoàn toàn dựa vào sự giúp đỡ và chăm sóc của người khác, không thể sống tự lập, không thể gánh vác được trách nhiệm và nghĩa vụ của một con người. Những người ở trong nhà Đức Chúa Trời mà không thể gánh vác nổi bổn phận của mình, thì không phải là người bình thường, và Đức Chúa Trời không muốn họ. Bất kể ngươi làm lãnh đạo và người làm công, hay là làm một công tác liên quan đến nghiệp vụ kỹ thuật, ngươi đều phải gánh vác được công tác trong chức phận của mình. Ngoài chuyện có thể tự lo được việc sinh hoạt và sinh tồn của bản thân, thì ngươi sống đâu phải chỉ là hít thở, đâu phải là ăn uống vui chơi, mà là có thể gánh vác được sứ mạng mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi. Người như vậy mới xứng được gọi là loài thọ tạo, mới xứng được gọi là người. Những người ở trong nhà Đức Chúa Trời mà luôn muốn ăn chực, muốn sống bừa cho xong, muốn trà trộn cho đến cuối cùng thì được phúc, chẳng gánh vác được công tác nào hay trách nhiệm nào, chuyện sứ mạng thì càng khỏi nói đến. Dạng người này thì phải bị đào thải, không đáng tiếc. Bởi vì kẻ bị đào thải đâu phải là con người, họ không có tư cách để được gọi là người. Ngươi gọi họ là phế nhân, kẻ vô lại, hay kẻ lông bông, gì cũng được, tóm lại không xứng được gọi là người. Ngươi giao cho họ một hạng mục công tác thì họ không thể độc lập hoàn thành nó, ngươi giao cho họ một nhiệm vụ thì họ không gánh vác nổi trách nhiệm của mình, không làm được nghĩa vụ của mình – vậy thì họ tiêu tùng rồi. Dạng người này không xứng được sống, nên chết đi cho rồi. Đức Chúa Trời tha cho họ một mạng đã là ân đãi họ rồi, đã là ơn trời cho rồi.
Về chủ đề tin đồn này, chúng ta nói đến đây thôi. Các ngươi mà còn có vấn đề gì thì có thể nêu ra để thông công, hoặc tự các ngươi tìm kiếm lẽ thật để giải quyết. Chúng ta sẽ không nói về nó nữa, vậy được không? Các ngươi có ý kiến gì không? (Thưa, không có.) Nếu vẫn còn vấn đề gì mà Ta chưa nói đến, thì các ngươi hãy tự nghĩ biện pháp để giải quyết. Ta đã làm tròn trách nhiệm trong chuyện này rồi. Nếu có người hỏi: “Chúng con vẫn chưa có được đáp án mình muốn, những tin đồn này là thật hay là giả? Ngài cho chúng con một câu trả lời rõ ràng đi”. Ngay cả khi Ta cho các ngươi câu trả lời rõ ràng này, thì có thể giải quyết được vấn đề gì chứ? Vì vậy, Ta nói các ngươi hãy tự tìm đáp án đi, Ta không có gì để nói. Chuyện này tùy vào các ngươi đã có sự phân định hay chưa. Người đạt được lẽ thật thì sẽ không bao giờ bị mê hoặc. Thật ra, những tin đồn này đã tỏ lộ rất nhiều người. Những người tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi mà chẳng đạt được lẽ thật thì đều bị tỏ lộ cả – đây là sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Đây chính là câu trả lời của Ta. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Ta muốn nói với các ngươi điều gì nào? Lời Ta muốn nói đều nằm trong mấy quyển “Lời xuất hiện trong xác thịt”, cũng ở trong các bài giảng. Những lời này chính là lời mà Ta muốn nói với các ngươi. Vậy chưa đủ sao? (Thưa, đã đủ.) Nếu có vài người vẫn cưỡng cầu, nói rằng: “Vậy Ngài có câu trả lời gì đối với những tin đồn này không?” Ta nói là không có, Ta vẫn không có gì để nói. Lời muốn nói thì Ta đã nói không ít trong mọi bài giảng. Nếu các ngươi sẵn lòng tìm kiếm lẽ thật, có thể tiếp nhận và tuân thủ những lời này, thì vấn đề của các ngươi sẽ được giải quyết. Nếu các ngươi không tiếp nhận những lời này, thì vấn đề của các ngươi sẽ mãi mãi là vấn đề. Ta đã làm tròn trách nhiệm rồi, chuyện này chẳng có quan hệ gì đến Ta nữa. Các ngươi đã nghe rõ chưa? (Thưa, đã nghe rõ.)
Chúng ta hãy tiếp tục thông công về chủ đề “Cách mưu cầu lẽ thật”. Trong thời gian qua, chúng ta vẫn nói về nội dung liên quan đến “buông bỏ” nằm trong “Cách mưu cầu lẽ thật”, nói đến chủ đề lớn là “buông bỏ những rào cản giữa bản thân và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài”. Nội dung đầu tiên trong chủ đề này là buông bỏ quan niệm và tưởng tượng của con người về Đức Chúa Trời. Trong nội dung này, chúng ta đã nói đến quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời, nó liên quan đến một vấn đề tương đối phức tạp, đó là sự khác nhau giữa điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Trong chuyện này có rất nhiều chi tiết. Trong cuộc sống thường nhật, lúc gặp phải những vấn đề này, người ta luôn lẫn lộn khái niệm, chẳng phân rõ ràng rốt cuộc chúng thuộc về loại vấn đề nào, nên phân chia như thế nào. Chẳng hạn như, đối với một vài biểu hiện, người ta vẫn không thể phân cho rõ rốt cuộc chúng liên quan đến nhân tính hay là điều kiện bẩm sinh. Còn có một vài biểu hiện mà người ta cũng chẳng thể phân cho rõ rốt cuộc chúng là vấn đề liên quan đến tâm tính bại hoại hay là nhân tính. Những chuyện này, người ta đều không phân biệt được rõ ràng. Người ta thường xem một vài vấn đề hoặc khuyết điểm trong điều kiện bẩm sinh là tâm tính bại hoại, hoặc xem một vài khiếm khuyết và vấn đề trong nhân tính là tâm tính bại hoại. Thậm chí có lúc đó là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại, mà người ta lại xem nó là một dạng điều kiện bẩm sinh không thể thay đổi. Do đó, khi liên quan đến những vấn đề về ba phương diện điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại trong quá trình tin Đức Chúa Trời, thì người ta thường cảm thấy rất mơ hồ, chẳng phân rõ được. Lần trước, chúng ta đã thông công một phần rồi, đương nhiên cũng đã nêu ra một vài ví dụ, nhưng Ta cảm thấy như vậy vẫn chưa được cụ thể lắm. Hôm nay, chúng ta sẽ tiếp tục đưa ra những vấn đề trong ba phương diện này và thông công cụ thể hơn. Ta sẽ nói về một vài biểu hiện và ví dụ cụ thể, sau đó các ngươi hãy phân định xem chúng nằm trong phương diện điều kiện bẩm sinh, nhân tính hay là tâm tính bại hoại. Nếu các ngươi không phân định được, thì chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứu và thảo luận chuyện đó. Các ngươi thấy sao? (Thưa, tốt.) Lần trước, chúng ta đã thông công tương đối nhiều hơn về điều kiện bẩm sinh, nên sự phân định của các ngươi về phương diện này đương nhiên cũng rõ ràng hơn phần nào. Nhưng vẫn có một vài thứ tương đối ngấp nghé ranh giới hoặc tương đồng với những khía cạnh trong nhân tính, và người ta vẫn không thể phân cho rõ rốt cuộc nên quy chúng vào điều kiện bẩm sinh hay là nhân tính. Ta sẽ đưa ra một vài biểu hiện hoặc một vài hành vy, cách làm, rồi sau đó các ngươi sẽ nói xem rốt cuộc nên quy chúng vào phương diện nào. Thông công như vậy thì có ích lợi gì? Các ngươi mà biết nên quy biểu hiện nào vào phương diện gì rồi, thì sẽ biết nên tiếp cận nó thế nào và xử lý nó thế nào.
Trước hết, chúng ta hãy nói về biểu hiện thứ nhất: làm việc chu đáo, nghĩa là người này rất cần cù. Cái này thuộc về phương diện nào? (Thưa, là biểu hiện của nhân tính.) Vậy đây là ưu điểm hay khiếm khuyết trong nhân tính? (Thưa, là ưu điểm trong nhân tính.) Rất chu đáo, rất chăm chỉ, đây là ưu điểm trong nhân tính. Thích gọn gàng sạch sẽ và giữ vệ sinh – đây là dạng biểu hiện nào? (Thưa, là ưu điểm trong nhân tính.) (Thưa, đây là thói quen sinh hoạt tốt, thuộc về điều kiện bẩm sinh.) Đây là điều kiện bẩm sinh sao? Đây có phải là một ưu điểm và điểm mạnh trong nhân tính không? (Thưa, phải.) Vừa mới có người nói đây là điều kiện bẩm sinh, nói như vậy là không đúng. Chuyện này liên quan đến nhân tính, cũng liên quan đến thói quen sinh hoạt, đương nhiên cũng là ưu điểm và điểm mạnh trong nhân tính. Biểu hiện tiếp theo: Có những người lười biếng, siêng ăn nhát làm, không thích làm việc. Khi nào không làm việc thì tâm trạng họ đặc biệt khoan khoái, còn hễ làm việc thì tâm trạng họ không tốt, sẽ buồn rầu, bực bội và nổi cáu. Khi có việc thì họ cảm thấy uể oải, không có sức lực, không muốn làm việc. Còn khi nói đến chuyện ăn uống vui chơi thì họ có sức lực vô tận. Lười biếng là dạng vấn đề nào? (Thưa, là nhân tính không tốt.) Ít nhất, đây là khiếm khuyết trong nhân tính, là một khuyết điểm và vấn đề lớn trong nhân tính. Chuyện này vẫn chưa lên đến mức là nhân tính không tốt. Nếu họ thường xuyên sai khiến hoặc lợi dụng người khác, bản thân không làm việc mà cứ bắt người khác làm thay, đây là vấn đề gì? (Thưa, là nhân tính không tốt.) Bảo họ làm chút việc thì họ tìm đủ loại lý do và cái cớ mà thoái thác, đơn giản là không muốn làm. Khi muốn đạt được mục đích gì đó thì họ không nói ra, mà lại dùng đủ loại phương thức và thủ đoạn, hoặc là dùng lời nói dối và việc lừa gạt, để khiến người khác làm, còn bản thân họ thì tránh đi mà hưởng an nhàn. Đây là vấn đề gì? (Thưa, là tâm tính bại hoại và tâm tính tà ác.) Đây chỉ là tâm tính bại hoại thôi sao? Loại người thích lợi dụng và sai khiến người khác thì trước hết có nhân tính không tốt và phẩm chất nhân tính tồi tệ. Thứ hai, thủ đoạn gian xảo để sai khiến người khác của họ đã bộc lộ rằng tâm tính của họ là giả dối và tà ác. Dạng biểu hiện thích lợi dụng và sai khiến người khác này cho thấy nhân tính của họ không tốt, cho thấy tâm tính bại hoại của họ nghiêm trọng – giả dối và tà ác. Ngươi xem, có biểu hiện chỉ có nghĩa là nhân tính không tốt hoặc là có khuyết điểm nào đó trong nhân tính, chứ chưa lên đến mức tâm tính bại hoại. Nhưng có một vài biểu hiện, trên nền tảng là nhân tính tồi tệ, thì trực tiếp liên quan đến tâm tính bại hoại rồi. Do đó, không có biểu hiện nào đơn giản cả. Có biểu hiện không chỉ liên quan đến một, mà là hai vấn đề.
Phù phiếm – cái này thuộc phương diện vấn đề nào? (Thưa, thuộc khiếm khuyết trong nhân tính.) Đúng rồi, đây là khiếm khuyết trong nhân tính. Nếu chỉ là thích trang điểm, thích làm cho mình xinh đẹp, thích khiến người khác khen là ưa nhìn, xinh đẹp, lịch lãm, trẻ trung, muốn khiến người khác đánh giá cao hoặc nhận xét tốt về ngoại hình của mình, như vậy thì chỉ giới hạn trong vấn đề của nhân tính. Đây là phương diện vấn đề gì trong nhân tính? Quá rõ ràng, nó không phải là ưu điểm mà là khiếm khuyết. Có những người nói: “Trên đời này ai chẳng thích cái đẹp, sao như vậy mà là khiếm khuyết được?” Tại sao lại nói phù phiếm là khiếm khuyết trong nhân tính? Bởi vì phù phiếm là khiếm khuyết, biểu hiện phù phiếm thì không chính đáng, nhìn bề ngoài thì cũng không đúng mực, không có tôn nghiêm, cung kính, hay nghiêm túc, không khiến người khác thấy là đàng hoàng đứng đắn, không ở mức trông đúng mực, mà là quá đáng và nghiêm trọng hơn so với mức chú trọng bề ngoài chính đáng. Người phù phiếm thì đặc biệt chú trọng làm đẹp và thể hiện bản thân, khiến người khác chú trọng đến hình tượng của mình, thậm chí còn có chút mặt dày vô sỉ – nói cách khác, loại người này bị vẻ bên ngoài ảnh hưởng và kìm kẹp trong rất nhiều chuyện. Đây chính là khiếm khuyết trong nhân tính. Chẳng hạn như, có những người chưa trang điểm thì không dám ra khỏi nhà, trên người chưa xịt chút nước hoa thì không thoải mái gặp mặt ai. Trong lòng họ luôn chú ý đến những chuyện này, luôn muốn quá mức về chuyện làm đẹp bản thân để khiến người khác đánh giá cao và yêu thích mình. Như vậy là quá phù phiếm, đã trở thành khiếm khuyết rồi. Mà khiếm khuyết này vượt quá phạm vi và tiêu chuẩn được yêu cầu của nhân tính bình thường. Quá phù phiếm là một khiếm khuyết trong nhân tính. Về biểu hiện này, nói đến đây là xong.
Biểu hiện tiếp theo là mê nổi bật. Cái này thuộc phương diện biểu hiện nào? (Thưa, là khuyết điểm trong nhân tính, thích lộ diện, thích khoe khoang.) Vậy trong chuyện này có tâm tính bại hoại không? (Thưa, cũng có, bởi vì họ mê nổi bật, nên muốn khoe khoang bản thân, muốn nổi một chút.) Mê nổi bật và luôn muốn thể hiện bản thân thì là vấn đề gì? Là vì bản thân có tài năng lãnh đạo, hay là vì bản thân hiểu lẽ thật và có mang gánh trọng trách? Nếu có mang gánh trọng trách, có năng lực công tác, có thể đảm đương một hạng mục công tác, thì đó không phải là mê nổi bật. Vậy mê nổi bật là dạng vấn đề gì? Một mặt, nó là khiếm khuyết trong nhân tính. Loại người này mê nổi bật, đi đến đâu cũng mê khoe khoang bản thân, chỉ sợ người khác không thấy. Họ nói chuyện thì tương đối khoác lác, khoa trương, hoành tráng. Càng đông người thì họ càng muốn nói, họ luôn muốn có một vị trí giữa mọi người. Mê nổi bật thì không đến mức là nhân tính không tốt, nó không liên quan đến phẩm chất nhân tính. Nó chỉ là khiếm khuyết trong nhân tính, là một khuyết điểm và vấn đề thôi. Tại sao lại nói nó là một khuyết điểm hay vấn đề trong nhân tính? Bởi vì nó là biểu hiện không có lý trí. Ngươi có thể đảm đương được công tác không mà cứ luôn muốn nổi bật? Tại sao họ luôn muốn nổi bật? Có phải vì bị dã tâm và dục vọng chi phối không? Có phải vì yêu thích địa vị, yêu thích được người khác đánh giá cao, yêu thích xuất đầu lộ diện không? Có phải là vì thích có uy thế giữa mọi người và cao hơn người một bậc, thích lãnh đạo người khác không? (Thưa, phải.) Có phải nhân tính của loại người này bộc lộ ra rồi không? Đó là dạng nhân tính gì? Là dạng nhân tính không có lý trí. Đây chẳng phải là khiếm khuyết trong nhân tính sao? (Thưa, phải.) Một mặt, đây là khiếm khuyết trong nhân tính. Mặt khác, loại người này đâu có ngẫu nhiên lộ diện hay khoe khoang bản thân, mà bởi vì họ bị dã tâm và dục vọng chi phối, thích địa vị, thích quyền lực, thích có tiếng nói quyết định, cho nên họ mới mê nổi bật. Vậy chẳng phải chuyện này cũng có liên quan đến tâm tính bại hoại sao? (Thưa, phải.) Đây là tâm tính bại hoại gì? (Thưa, là kiêu ngạo.) Đây là kiêu ngạo. Ngươi dựa vào đâu mà nổi bật? Ngươi dựa vào cái gì mà muốn có tiếng nói quyết định, muốn lãnh đạo người khác? Có những người nói: “Tôi hiểu lẽ thật, có mang gánh trọng trách”. Cho dù ngươi có mang gánh trọng trách thì còn phải xem ngươi có thể làm được công tác thực tế hay không. Đâu phải ngươi có mang gánh trọng trách và muốn làm là có thể làm tốt. Hai chuyện này chẳng có quan hệ lô-gic gì với nhau. Ngươi muốn làm và mê làm không đồng nghĩa với ngươi có thể làm, hoặc có thể đảm đương nổi công tác lãnh đạo. Ngươi mê nổi bật và thích địa vị, thì mọi người buộc phải bầu chọn ngươi sao? Vậy nguyên tắc để bầu chọn lãnh đạo hội thánh là gì? (Thưa, phải dựa vào chuyện người đó có năng lực công tác hay không, có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, có phải là người đúng hay không.) Ít nhất, ngươi phải là người đúng, phải có hiểu biết thuộc linh, còn phải có năng lực công tác, như vậy thì mới phù hợp điều kiện để được bồi dưỡng, ngươi phải có đủ mấy điều này. Nếu ngươi đều không có mấy điều này, nhưng vì ngươi mê nổi bật mà mọi người bầu chọn ngươi làm lãnh đạo, có thể có chuyện đó sao? Không thể nào. Vậy ngươi luôn mê nổi bật, luôn mê khoe khoang bản thân, đây chẳng phải là kiêu ngạo sao? (Thưa, phải.) Đây là kiêu ngạo và không biết tự lượng sức. Xét về nhân tính, thì kiêu ngạo là không có lý trí, còn nếu lấy lẽ thật mà đánh giá, thì nó là một phương diện tâm tính bại hoại, nằm trong số tâm tính Sa-tan. Dạng biểu hiện mê nổi bật này vừa là khiếm khuyết trong nhân tính vừa là một tâm tính bại hoại, nó cũng liên quan đến hai vấn đề. Mặc dù mê nổi bật không đến mức là nhân tính kém hay nhân tính không tốt, nhưng trong đó có biểu hiện cụ thể của sự thiếu lý trí, cũng là một dạng biểu hiện của tâm tính kiêu ngạo. Nếu người ta chỉ mê nổi bật, không chèn ép hay trừng trị người khác, cũng không dùng thủ đoạn của kẻ ác để gây bất hòa hay kéo bè kết phải, vậy thì nó chỉ là khiếm khuyết trong nhân tính thôi. Nhưng nếu người ta có những biểu hiện của kẻ ác hoặc kẻ địch lại Đấng Christ, có làm một vài việc ác, vậy thì khiếm khuyết trong nhân tính này đã thăng cấp rồi. Nó đã trở thành cái gì rồi? Trở thành nhân tính kém, xấu và ác – những phương diện này được dùng để đánh giá dạng nhân tính này. Đồng thời, những biểu hiện của tâm tính bại hoại mà họ bộc lộ ra vừa có sự kiêu ngạo, vừa có sự hung ác, đương nhiên còn có những biểu hiện cụ thể hơn nữa. Vậy thì cứ dựa vào mức độ tâm tính bại hoại họ bộc lộ mà xác định tính chất nhân tính họ. Nếu họ chỉ mê nổi bật, không có biểu hiện của nhân tính ác, không chèn ép hay trừng trị người khác, không ở sau lưng người khác mà kéo bè kết phái và tạo vương quốc độc lập, không dùng một vài thủ đoạn bất thường để mê hoặc và khiến người khác nghe theo mình, vậy thì cái mê nổi bật này chỉ là khiếm khuyết trong nhân tính thôi. Nhưng một khi họ có làm việc ác, thì nó không còn là khiếm khuyết trong nhân tính nữa, mà là vấn đề gì rồi? (Thưa, là nhân tính kém, xấu và ác.) Đúng vậy, như vậy thì không còn là khiếm khuyết trong nhân tính nữa, mà là nhân tính ác rồi. Mê nổi bật thì chỉ là có khiếm khuyết trong nhân tính. Nếu người này có hiểu biết thuộc linh, cũng có tố chất và năng lực công tác nhất định, thì các ngươi có bầu chọn họ làm lãnh đạo không? (Thưa, có.) Tại sao lại bầu chọn họ? (Thưa, vì họ không nằm trong số kẻ ác.) Họ mê nổi bật thì chỉ là một dạng bộc lộ tâm tính bại hoại thôi, trong cái mê nổi bật của họ không có thành phần ác, và họ không phải là kẻ ác. Chỉ cần họ đáp ứng điều kiện để làm lãnh đạo thì có thể bầu chọn họ làm lãnh đạo và bồi dưỡng thêm cho họ. Mặc dù nói mê nổi bật là biểu hiện của lý trí kém trong nhân tính, nhưng bởi vì họ có thể làm công tác, có năng lực công tác, cũng có hiểu biết thuộc linh, có năng lực lĩnh hội lẽ thật, lại còn sẵn lòng làm chút công tác, sẵn lòng làm người phụ trách, vậy thì có thể bầu chọn họ. Tại sao có thể bầu chọn họ? Bởi vì nhân tính của họ đạt tiêu chuẩn, tố chất của họ cũng đạt tiêu chuẩn, chỉ cần họ không phải là kẻ ác hay kẻ địch lại Đấng Christ, thì họ sẽ không trừng trị hay chèn ép người khác, không tạo vương quốc độc lập – có thể bầu chọn họ làm lãnh đạo. Nhưng nếu trong cái mê nổi bật của họ có nhân tính ác, thì có bầu chọn cho dạng người này không? (Thưa, không.) Khi còn chưa được bầu làm lãnh đạo, mà họ đã bắt đầu giở mánh khóe, ở sau lưng người ta thì kéo bè kết phái, thay đổi lá phiếu. Để đạt được mục đích của mình, họ giở trò, thậm chí còn có thể bịa tin đồn và nói xấu về những người tốt tương đối mưu cầu lẽ thật và có thể làm bổn phận ở quanh họ. Họ làm rất nhiều việc trái lẽ thật, trái đạo đức của nhân tính, còn làm một vài việc ác. Vậy các ngươi có thể bầu chọn loại người này làm lãnh đạo không? (Thưa, không thể.) Tại sao lại không thể bầu chọn cho loại người này? (Thưa, bởi vì nhân tính của họ ác.) Nói cụ thể là vì họ là kẻ ác, không phù hợp với nguyên tắc dùng người của nhà Đức Chúa Trời – nhà Đức Chúa Trời đâu có dùng kẻ ác. Dân được Đức Chúa Trời chọn mà rơi vào tay kẻ ác thì sẽ có hậu quả gì? Một mặt, họ sẽ bị trừng trị và chèn ép, mặt khác, hội thánh sẽ trở nên rời rạc và không còn trật tự nữa. Như vậy thì mọi việc ngươi làm sẽ không còn là làm bổn phận nữa, mà là đang phục vụ cho kẻ ác, là bị kẻ ác khống chế mà đi theo kẻ ác rồi, thế thì hậu quả sẽ là gì? Thì hy vọng được cứu rỗi của ngươi sẽ tiêu tùng. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Nếu hai người cùng mê nổi bật, cùng có tâm tính bại hoại là kiêu ngạo như nhau, thì mọi người dựa vào điều gì để bầu người nào làm lãnh đạo? (Thưa, dựa vào nhân tính của họ.) Đúng vậy, dựa vào nhân tính. Sự bộc lộ các phương diện của tâm tính bại hoại như kiêu ngạo, giả dối hay cương ngạnh là điều mà ai cũng có, mỗi một người đều như nhau, vậy khác biệt nằm ở chỗ nào? Nằm ở nhân tính. Nhìn bề ngoài, thì có người phóng túng hơn, có người thì bảo thủ hơn, có người tương đối hồ đồ và ẩu tả, có người thì tương đối khôn khéo và tỉ mỉ, có người thì hướng ngoại hơn, có người thì hướng nội hơn. Tính cách của người ta có những biểu hiện bề ngoài khác nhau, chắc chắn thực chất nhân tính của họ cũng khác nhau. Có người có ranh giới tối thiểu về lương tâm và đạo đức, có người thì chẳng có. Thậm chí có người vừa ác, vừa tàn, vừa độc, giết người không chớp mắt, ăn tươi nuốt sống người ta, việc xấu gì cũng có thể làm. Cho nên kẻ ác mà trừng trị người khác thì rất tùy tiện, các ngươi mà rơi vào tay kẻ ác thì sẽ không còn những ngày tháng tươi đẹp, sẽ sống mà chẳng thấy ánh mặt trời. Nếu rơi vào tay kẻ ác thì cũng giống như rơi vào tay con rồng lớn sắc đỏ vậy, các ngươi đã thể nghiệm chuyện này chưa? (Thưa, rồi.) Biểu hiện nổi bật nhất và rõ ràng nhất về mặt nhân tính của kẻ ác chính là ác, độc và tàn, chẳng có ranh giới tối thiểu về đạo đức, chẳng có tiêu chuẩn của lương tâm. Xét từ thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật, thì họ chẳng có chút lòng kính sợ Đức Chúa Trời nào cả. Họ cả gan làm bậy, việc gì cũng dám làm, chẳng có ranh giới tối thiểu của lương tâm, đối với lẽ thật thì chẳng tiếp nhận chút nào. Bề ngoài thì khi làm bổn phận, họ cũng có thể ra sức, có thể chịu khổ, cũng có thể bố thí. Nhưng đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật, thì họ chẳng kính sợ chút nào. Mỗi lần nói đến việc làm chứng cho Đức Chúa Trời, làm chứng cho Đức Chúa Trời nhập thể, làm chứng về thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời, làm chứng về việc Đức Chúa Trời đã trả giá vì nhân loại, đã dốc cái giá tâm huyết và dùng sinh mạng mà cứu rỗi nhân loại, thì họ chẳng có gì để nói, cũng chẳng muốn nói. Trong lòng họ xem thường Đức Chúa Trời. Nhưng đến lúc làm chứng cho bản thân thì họ lại có nhiều lời để nói, cứ thao thao bất tuyệt. Mê nổi bật chỉ là trong nhân tính có khiếm khuyết. Nếu loại người này không hành ác, có ranh giới tối thiểu của lương tâm và đạo đức, thì khi hiểu một vài lẽ thật rồi, về cơ bản họ sẽ có thể chiếu theo ranh giới tối thiểu của lương tâm mà đánh giá một vài chuyện, lương tâm của họ còn có tác dụng. Chẳng hạn như, họ thấy có người khác giới rất hợp ý và muốn tiếp xúc với người đó, nhưng vì họ có ranh giới tối thiểu của lương tâm và có liêm sỉ, nên tự nhiên họ sẽ có thể ràng buộc bản thân. Kẻ ác thì bất chấp những điều này, họ thích ai thì cứ cưỡng ép mà tiếp xúc với người đó, ngươi mà không đồng ý thì họ sẽ nghĩ đủ cách để trừng trị ngươi, khiến ngươi khuất phục và làm ngươi phải khổ sở. Người có ranh giới tối thiểu của lương tâm thì sẽ chịu sự ràng buộc của lương tâm, sẽ không phạm một vài vi phạm, sẽ không làm một vài việc quá đáng, bởi vì họ có liêm sỉ. Nếu họ hiểu lẽ thật, mức độ tiếp nhận lẽ thật tương đối sâu và mạnh, thì họ sẽ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, bởi vì sợ Đức Chúa Trời và kính sợ Đức Chúa Trời, nên thường họ không làm những việc quá đáng. Do đó, người có ranh giới tối thiểu của lương tâm mà làm lãnh đạo thì quá có ích cho các ngươi. Ít nhất họ sẽ không làm tổn thương các ngươi, càng không làm chậm trễ hay hại đến các ngươi, lại còn có thể cung ứng và giúp đỡ phần nào cho các ngươi. Nhưng kẻ ác thì không như vậy, họ không chỉ dùng lời lẽ mê hoặc ngươi, mà còn dùng đủ loại thủ đoạn để trừng trị ngươi, chèn ép ngươi, và chà đạp ngươi. Ngươi mà không phục họ, không nghe theo họ, hoặc có tranh chấp trong chuyện gì đó với họ, thì họ chẳng những công kích ngươi mà còn kết tội ngươi, sẽ khiến ngươi mất mặt, còn muốn khiến ngươi khuất phục. Như vậy thì ngươi hoàn toàn rơi vào tay họ rồi. Khác biệt lớn nhất giữa loài người bại hoại thông thường và kẻ ác nằm ở chỗ nhân tính họ là thiện hay ác và lương tâm họ có tác dụng hay không. Kẻ ác thì không có lương tâm, cho nên họ cũng chẳng có liêm sỉ, việc xấu gì cũng có thể làm. Loài người bại hoại thông thường thì mặc dù nhân tính cũng có chút khiếm khuyết và khuyết điểm, nhưng vì họ chịu sự ràng buộc của lương tâm và lý trí, nên có rất nhiều việc quá đáng mà họ sẽ không làm. Ngay cả khi không tin Đức Chúa Trời, thì họ cũng sẽ không làm một vài việc ác rành rành, những việc như gian dâm, trộm cướp thì họ không làm được. Ngươi xem, khi ngươi chưa tin Đức Chúa Trời, lúc còn ở trong thế gian, mà có người để ngươi làm việc dâm loạn thì ngươi có làm không? Làm việc dâm loạn là nói đến việc gì? Chính là có nhiều bạn tình, thậm chí có quan hệ với nhiều người khác giới cùng lúc, mà chẳng có cảm giác là mình làm sai, trong lòng cũng không thấy áy náy. Các ngươi có thể làm như vậy không? (Thưa, không thể.) Ngươi xem những dâm phụ, kỹ nữ, lưu manh – họ sẽ có thể như vậy. Chẳng phải các ngươi khác với họ sao? (Thưa, phải.) Khác ở chỗ nào? Ở chỗ có lương tâm và lý trí của nhân tính hay không. Lương tâm và lý trí cho ngươi ý thức liêm sỉ, nên ngươi sẽ không làm việc dâm loạn, và ngươi có một tiêu chuẩn: “Làm người như vậy là không tốt, mình không làm loại người đó đâu. Mình sẽ vạch rõ giới hạn với loại người đó. Có bị đánh chết thì mình cũng không làm việc dâm loạn đâu”. Nếu bị bán đứng và rơi vào trường hợp đó, thì có người nói: “Tôi thà chết cũng không làm loại người đó!” Có người thì chịu đựng sỉ nhục và bất công mà miễn cưỡng làm, nhưng trong lòng họ không cam tâm, hễ có cơ hội là sẽ thoát đi. Nhưng có những người, trong tình huống người khác không để họ làm, mà họ vẫn muốn làm, không kiếm được tiền mà vẫn cứ làm – chỉ là họ thích làm việc dâm loạn, kiếm được tiền hay không đâu quan trọng. Có phải hai loại người này khác nhau không? (Thưa, phải.) Đây chính là sự khác biệt về nhân tính. Khác biệt về nhân tính rất quan trọng. Nếu các ngươi có thể nhìn thấu sự khác biệt về biểu hiện nhân tính của các loại người, thì các ngươi sẽ biết cách nhìn người. Do đó, khi đánh giá một người nào đó thì không thể hoàn toàn dựa vào tâm tính bại hoại của họ, dựa vào biểu hiện và sự bộc lộ trong một lúc nào đó hoặc trong một sự việc nào đó của họ mà đánh giá. Thay vào đó, phải dựa vào nhân tính của họ, dựa vào thực chất bản tính của họ mà đánh giá rốt cuộc họ là dạng người gì. Về biểu hiện mê nổi bật, chúng ta nói đến đây thôi.
Chúng ta hãy tiếp tục nói về một biểu hiện khác. Có những người làm việc có phương pháp, có vạch điểm chính, có thứ tự, có thể thông qua suy nghĩ và nghiền ngẫm mà xác định được việc gì làm trước, việc gì làm sau, có trình tự, có phương án, không làm việc hấp tấp. Bất kể làm việc gì, dù là việc đơn giản nhất như giặt quần áo, họ cũng có trình tự, phải giặt riêng đồ tối màu và sáng màu, giặt bao nhiêu áo quần thì dùng bao nhiêu nước, bao nhiêu nước giặt, không lãng phí – những chuyện này họ đều có kế hoạch, đều có thứ tự và tính toán kỹ lưỡng đến vậy. Đây là phương diện biểu hiện nào? (Thưa là ưu điểm và điểm mạnh trong nhân tính.) Vậy những ưu điểm này có thể đồng nghĩa rằng loại người này có nhân tính tốt hay không? (Thưa, không.) Nó chỉ là một ưu điểm và điểm mạnh trong nhân tính, chưa đến mức là phẩm chất của nhân tính hay nguyên tắc làm người, cũng không liên quan đến tâm tính bại hoại. Nó chỉ là một dạng thói quen sinh hoạt hoặc là một dạng thái độ đối với việc sinh hoạt. Có những người làm việc thì có vạch điểm chính, có kế hoạch, có thể nắm bắt quy luật. Họ làm xong rồi, người ta nhìn vào thì cảm thấy hài lòng. Đây là người có tố chất tốt. Nhưng người có tố chất kém thì không như vậy, họ làm việc gì cũng rối bòng bong, cũng hỗn loạn, chẳng có vạch điểm chính, chẳng có kế hoạch, cứ làm loạn cả lên, loạn đến rối tung bung bét. Đây là vấn đề gì? (Thưa, là khiếm khuyết trong nhân tính.) Khiếm khuyết này trong nhân tính liên quan đến điều gì? (Thưa, liên quan đến tố chất quá kém.) Loại người có tố chất quá kém thì gọi là người không có não. Có người, khi Ta bảo họ: “Ngươi là kẻ não heo, chuyện đơn giản như vậy mà cũng không hiểu sao?” thì họ nói: “Con đâu có não”. Không có não nghĩa là gì? Nghĩa là không có tố chất hoặc tố chất kém, đây là vấn đề về tố chất. Vấn đề này được quy vào phương diện gì? Chẳng phải là điều kiện bẩm sinh sao? (Thưa, phải.) Bẩm sinh họ đã là thứ không có não, vậy còn cần huấn luyện họ sao? Loại người làm việc gì cũng không có kế hoạch, không vạch điểm chính, một việc đơn giản mà làm mất nửa ngày khiến việc quan trọng bị chậm trễ, thì đó là người không có tố chất hoặc có tố chất kém. Người ngoại đạo thường nói những người có nhân tính không tốt là không có tố chất. Chẳng hạn như, có vài người thấy ai xả rác, không giữ vệ sinh hoặc hét to nơi công cộng và gây ảnh hưởng đến việc học hành hay nghỉ ngơi của người khác, thì sẽ nói đó là người không có tố chất. Ta thì nói đó là không biết khuôn phép, không có nhân tính – sao có thể gọi đó là không có tố chất được chứ? Không có tố chất là nói đến điều gì? Tố chất là nói đến điều gì? Hiệu suất và hiệu quả trong hành động, đấy gọi là tố chất. Vậy người hành động mà không vạch điểm chính, thì có phải là có tố chất kém không? (Thưa, phải.) Đấy cũng là một khiếm khuyết trong nhân tính của người ta. Vậy khiếm khuyết này có phải là bẩm sinh không? Có dễ thay đổi không? Có thể thông qua huấn luyện mà thay đổi nó không? Bảo heo leo cây thì có thể được hay không? Nó đâu có tư chất đó, đâu có tố chất đó. Làm việc mà chẳng vạch điểm chính là vấn đề về tố chất.
Làm việc đầu voi đuôi chuột thì thuộc dạng vấn đề gì? (Thưa, là khiếm khuyết trong nhân tính.) Đây là một khiếm khuyết trong nhân tính. Có người bắt đầu làm một việc gì đó thì lên kế hoạch rất tốt, có những hoạt động rất lớn, triệu tập một vài người, còn làm báo cáo và phân nhiệm vụ, thậm chí còn bày tỏ quyết tâm. Nhưng họ làm một hồi thì chẳng thấy gì nữa, họ cũng chẳng theo sát, giám sát hay kiểm tra tình hình việc đó. Nếu không có người hiểu lẽ thật giám sát và chỉ đạo thì chuyện này có thể xôi hỏng bỏng không, thậm chí có khi còn xuất hiện hậu quả xấu, khiến công tác thành một mớ hỗn độn. Còn có những người giảng đạo lý thì rất rõ ràng minh bạch, nhưng đến lúc làm việc thì chẳng có con đường, cũng chẳng có phương án cụ thể. Lúc xuất hiện trường hợp đặc biệt hoặc tình huống không ngờ, thì họ chẳng biết nên xử lý thế nào, cũng chẳng thông công với người khác hay là hướng về Bề trên mà tìm kiếm và hỏi ý kiến. Khi bắt đầu làm việc thì có vẻ họ có đức tin, vào tư thế chiến đấu, trông như muốn làm việc lớn một phen, nhưng họ làm một hồi thì mất tinh thần, rồi đào thoát, cứ như thể tan biến vào không khí vậy. Có người hỏi họ: “Hiện tại anh đang làm việc gì? Việc đó làm như thế nào rồi?” thì họ nói: “Việc đó làm không thành rồi”. Họ làm không thành mà cũng không phản ánh sớm một chút, chậm trễ hai, ba tháng mà cũng chẳng có kết quả gì. Như vậy chẳng khiến người ta phẫn nộ sao? (Thưa, phải.) Dạng người này quá đáng ghê tởm rồi! Loại người này chẳng những làm việc kiểu đầu voi đuôi chuột, mà còn có một vấn đề nữa, đó là bất kể làm việc gì, họ càng làm thì càng loạn. Khi mới bắt đầu làm thì họ còn vạch ra được chút điểm chính, có chút ý tưởng, chút thứ tự, nhưng họ làm một hồi thì trong lòng mơ hồ, chẳng biết tại sao lại làm việc này, hay kết quả muốn đạt được khi làm việc này là gì. Có người khuyên họ nên tìm kiếm, thì họ nói: “Không cần tìm kiếm, cứ như vậy mà làm, đằng nào mọi người cũng đang ngồi không mà”. Ngươi xem, lúc mới làm thì khí thế của họ lớn lắm, như sấm động vậy. Nhưng làm một hồi thì chẳng thấy gì nữa, chỉ nghe tiếng sấm chứ chẳng thấy mưa đâu, chẳng có kết quả gì. Ngươi mà không hỏi han, không theo sát, không kiểm tra, thì họ sẽ xôi hỏng bỏng không, thậm chí còn không báo cáo gì. Quyết tâm họ bày tỏ khi mới bắt đầu đã đi đâu rồi? Đã quên cả rồi. Kế hoạch họ viết ban đầu đâu rồi? Đã không còn thấy đâu nữa. Ý tưởng họ có ban đầu đâu rồi? Đã mất rồi, họ chẳng còn biết nữa. Họ là thứ như vậy đấy! Loại người này, khi ngươi thấy nhiệt tình ban đầu của họ thì có vẻ họ là người làm được việc, nhưng thật ra họ là thứ vô tích sự, căn bản không phải là người làm việc một cách thiết thực, mà là người không an phận. Họ chỉ sẵn lòng xuất đầu lộ diện, chứ không muốn chịu khổ, còn sợ gánh trách nhiệm, và làm việc gì cũng bỏ dở giữa chừng. Nhân tính của dạng người này như thế nào? (Thưa, nhân tính kém.) Các ngươi nói xem, loại người này có thể hoàn thành được việc gì không? (Thưa, không thể.) Họ làm việc gì cũng đầu voi đuôi chuột, thành một mớ hỗn độn, phong cách họ lúc nào cũng vậy. Bất kể làm bổn phận gì, mới đầu thì họ hăng hái lắm, nghe nhạc và ngân nga hát theo. Sau một thời gian, thì họ không còn hứng thú, bỏ ngang việc và không làm nữa. Đây là thứ gì vậy? Dạng người này có đáng ghê tởm không? (Thưa, đáng ghê tởm.) Việc mình không chắc chắn sẽ hoàn thành được, mà còn muốn làm bừa, khoe tài, ba hoa bốc phét. Họ không biết năng lực bản thân đến chừng nào sao? Họ không làm được việc này, không làm nên cơm cháo gì, tại sao không nói một tiếng? Đừng có làm chậm trễ công chuyện chứ! Họ chẳng nói tiếng nào, làm chậm trễ công chuyện của ngươi, rồi còn cố lừa ngươi, đây chẳng phải là nhân cách thấp hèn sao? (Thưa, phải.) Nhân cách của họ quá thấp hèn! Có thể giao phó cho dạng người này xử lý công chuyện không? (Thưa, không thể.) Họ có đáng tin cậy không? (Thưa, không đáng tin cậy.) Loại người này không đáng tin cậy. Nếu họ cam đoan với ngươi, thì ngươi có dám tin tưởng họ không? (Thưa, không dám.) Đây là loại người gì? Có phải là kẻ lừa đảo không? (Thưa, phải.) Mặc dù họ không lừa tiền, cũng không lừa tình ngươi, nhưng cách đối nhân xử thế của họ quá đáng ghê tởm, khiến người ta kinh tởm. Căn nguyên khiến dạng người này làm người ta kinh tởm là gì? Loại người này có nhân cách thấp hèn, làm người thì không an phận, mê bốc phét, mê khoe tài, mê nổi bật, mê khoe khoang bản thân, làm việc thì chẳng đều đặn. Đồng thời, họ còn không biết tự lượng sức, chẳng biết bản thân có bao nhiêu vóc giạc hay có thể làm việc gì. Thế mà họ còn muốn khoe tài, việc quan trọng gì cũng dám nhận. Họ nhận việc rồi mà chẳng làm cho tốt, làm chậm trễ nhiều việc lớn, thế nhưng họ vẫn bình chân như vại, chỉ cần bản thân họ có thể lộ diện là được rồi. Đây chẳng phải là kẻ tiểu nhân đê tiện sao? (Thưa, phải.) Vậy chẳng phải nhân tính của loại người này rất kém sao? (Thưa, phải.) Nếu gặp phải loại người này, các ngươi có dám giao việc lớn hay việc quan trọng cho họ không? (Thưa, không dám.) Chẳng hạn, ngươi muốn ra ngoài để rao truyền phúc âm, mà con ngươi còn quá nhỏ, cần tìm người trông nom, vậy ngươi phải tìm dạng người nào? Ngươi có dám tìm dạng người làm việc không có trách nhiệm, không thể làm trước sau như một, và không đáng tin cậy này không? (Thưa, không dám.) Tại sao không dám? Bởi vì có khi họ sẽ để lạc mất con ngươi. Ngươi hỏi tại sao con ngươi bị lạc, thì họ nói: “Tôi không biết, tôi vừa mới chợp mắt một chút thì chẳng thấy con chị đâu nữa. Chẳng lẽ có thể trách tôi sao? Nó có chân, tự biết đi, cũng đâu có cột vào tôi. Không thể trách tôi được!” Họ còn chối bỏ trách nhiệm. Đây chẳng phải là thứ vô lại sao? (Thưa, phải.) Chuyện quan trọng như tính mạng con người thì không thể giao cho dạng người này được. Họ làm người thì không an phận, không có nhân cách hay tôn nghiêm, khi xuất hiện vấn đề thì dám giở trò vô lại, dám chống chế. Mặc dù tật xấu làm việc đầu voi đuôi chuột chỉ là một khiếm khuyết trong nhân tính, nhưng khiếm khuyết này là vấn đều quá nghiêm trọng, đây là vấn đề về nhân cách. Có những người thích xuất đầu lộ diện, thích ôm đồm, nhưng lại không dám gánh trách nhiệm. Ngay khi gặp phải khó khăn là họ sẽ nhanh chóng đùn đẩy trách nhiệm, biến mình thành người đứng ngoài cuộc, họ chẳng có chút trách nhiệm gì. Họ lại còn đặc biệt không an phận, làm việc thì chẳng đều đặn. Chuyện đến mức độ này thì không còn là một khiếm khuyết trong nhân tính nữa, mà là nhân cách quá thấp hèn và nhân tính quá kém rồi. Tại sao lại nói nhân tính của loại người này quá kém? Chính là vì họ không đáng tín nhiệm, ngươi chẳng dám giao bất kỳ việc gì cho họ. Bất kể giao việc gì, họ đều rất hăng hái nhận lời, nhưng ngươi vừa quay đi thì họ lặn mất tăm, ngươi cũng chẳng biết họ tính làm gì nữa, chưa biết chừng vài ngày sau họ mới ló mặt ra. Nếu ngươi không hỏi họ xem chuyện đó được làm thế nào rồi, thì họ cũng không báo cáo cho ngươi, như thể chẳng có chuyện gì. Đây là thứ gì vậy? Họ quá vô trách nhiệm rồi! Chút việc đó mà họ cũng không qua nổi bài kiểm tra, không đáng tin cậy, thì ngươi nói xem, họ còn có thể làm việc gì chứ? (Thưa, chẳng làm được việc gì cả.) Ngươi giao con cho họ, thì bất kỳ lúc nào cũng có thể xuất hiện vấn đề. Hoặc con ngươi bị ngã và bị thương, hoặc nó ăn phải thứ không nên ăn, hoặc nó ra ngoài chơi, đi rong ruổi rồi bị kẻ xấu bắt cóc – những chuyện này đều có khả năng xảy ra. Bởi vì họ không có trách nhiệm, nhân cách quá thấp hèn, làm việc gì cũng không có ranh giới tối thiểu của lương tâm, chỉ biết thỏa mãn ham muốn ích kỷ của mình, ngoài ra chẳng quan tâm chuyện gì nữa. Khi ngươi nhờ họ xử lý công chuyện, họ cảm thấy không nhận lời thì sẽ làm ngươi mất mặt. Vì cân nhắc cho thể diện và để thỏa mãn lòng hư vinh của mình mà họ nhận lời, nhưng sau đó lại chẳng có chút trách nhiệm gì, nói thì hoành tráng lắm nhưng lại chẳng làm tốt được – đây gọi là không đáng tin cậy. Loại người này có tốt hay không? (Thưa, không tốt.) Có thể bầu chọn người làm việc đầu voi đuôi chuột làm lãnh đạo không? (Thưa, không thể.) Tại sao không thể? (Thưa, vì họ có thể làm hại đến công tác của nhà Đức Chúa Trời.) Đúng rồi, xem họ nói chuyện và hứa hẹn thì có vẻ họ có bản lĩnh, ai cũng sẵn lòng tin tưởng người có thể nói chuyện bốc phét, nhưng họ bắt tay vào làm việc rồi thì không thể lường trước nổi. Họ làm cho việc rối tung lên mà cũng chẳng báo cho ngươi một tiếng, xuất hiện vấn đề gì họ cũng chẳng giải thích cho ngươi. Ngươi còn đầy lòng mong đợi họ xử lý tốt công chuyện, kết quả lại là họ làm chuyện rối tung mà vẫn bình chân như vại, căn bản chẳng xem việc ngươi giao cho họ ra gì. Họ làm việc thì không an phận, Có người toàn dựa vào hứng thú, sở thích và lòng hiếu kỳ của mình mà làm việc, có người còn mê khoe mẽ, chỉ toàn làm những việc khoe mẽ và được lộ diện. Dạng người này không phải là người an phận và có trách nhiệm, không phải là người có thể hành động một cách thiết thực, như vậy thì phiền phức rồi. Chuyện này vẫn chưa liên quan đến chuyện có hiểu biết thuộc linh, có thể tiếp nhận lẽ thật, có sự thuận phục và có mưu cầu lẽ thật hay không, vẫn chưa liên quan đến những chuyện đó. Xét về nhân tính mà thôi, thì đây là người không đáng tin cậy. Có thể bầu chọn dạng người này làm lãnh đạo được không? (Thưa, không thể.) Người có nhân tính không đạt tiêu chuẩn thì còn chẳng có giá trị bồi dưỡng gì, tại sao vậy? Bởi vì nhân cách họ quá thấp hèn, ngay cả nhân cách và tôn nghiêm cơ bản mà họ còn không có. Do đó họ không đạt tiêu chuẩn để làm lãnh đạo hoặc được bồi dưỡng để làm lãnh đạo.
Tiếp theo, chúng ta nói đến chuyện làm việc cẩn trọng, nó nằm trong phương diện biểu hiện nào? (Thưa, nó là ưu điểm trong nhân tính.) Làm việc cẩn trọng, không lỗ mãng, gặp chuyện thì có thể điềm tĩnh mà tiếp cận, có thể tìm kiếm lẽ thật, đây là ưu điểm trong nhân tính. Trong xã hội tà ác này, trong các tập thể người có bối cảnh phức tạp này, khi xuất hiện các loại con người, sự việc và sự vật, thì ngươi cần đối diện một cách cẩn trọng. Ngay cả khi làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời mà gặp phải các loại chuyện, thì trong đó cũng có một vài trường hợp phức tạp, ngươi nên đối diện chúng một cách cẩn trọng. Chẳng hạn như, khi làm bổn phận mà gặp phải kẻ ác quấy nhiễu, thì trước hết ngươi nên học cách phân định, sau đó dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà tiếp cận chúng, đây là một dạng thái độ nên có đối với bổn phận. Làm việc cẩn trọng thì liên quan đến điều gì? Liên quan đến lý trí của con người. Khi gặp phải chuyện mình không thể nhìn thấu, thì ngươi cần cẩn trọng. Ngay cả khi ngươi hiểu được một vài lẽ thật, nhưng lúc ngươi vẫn chưa nhìn thấu thực chất và căn nguyên của một vài chuyện đặc biệt nào đó, thì ngươi có cần cẩn trọng hay không? (Thưa, cần.) Với những chuyện như vậy, ngươi càng cần cẩn trọng. Cẩn trọng không phải là bảo thủ, rón rén, không phải là không dám làm, hoặc sợ gánh trách nhiệm, không phải là những điều này. Cái cẩn trọng được nói ở đây nên là một ưu điểm trong nhân tính. Biểu hiện của thể của cẩn trọng là gì? Chính là lúc làm việc thì trước hết tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, sau đó tiếp tục tìm kiếm trình tự thực hành cụ thể, con đường thực hành cụ thể và kết quả muốn đạt được khi làm việc này hay hạng mục công tác này. Nghĩa là mang một tấm lòng cẩn thận và cẩn trọng mà tiếp cận những chuyện quan trọng và bổn phận của mình. Đương nhiên, có một số người khi tiếp cận các loại vấn đề trong cuộc sống thường nhật cũng đặc biệt cẩn trọng, không bất cẩn mà cẩn thận chặt chẽ. Đây cũng không phải chuyện xấu, đây cũng có thể nói là ưu điểm của nhân tính, không phải khuyết điểm. Có thể nói cẩn thận là ưu điểm của nhân tính. Có thái độ cẩn thận thì chỉ có thể đem lại ích lợi cho người ta, tuyệt đối sẽ không đem lại bất kỳ sự kìm kẹp hay ràng buộc nào. Nếu ngươi gặp chuyện mà không dám nói năng, không dám làm bất kỳ việc gì, không dám tiếp xúc với bất kỳ ai, lá rơi cũng sợ bể đầu, thì đó là cẩn trọng quá mức rồi. Suốt ngày cứ sống trong thế giới riêng của mình, sống một cách cẩn thận dè dặt, đây là cẩn trọng sao? (Thưa, không phải.) Ra ngoài mua thứ gì đó thì sợ bị người ta lừa, mở việc làm ăn thì sợ mất vốn, mua nhà thì sợ mua phải hung trạch, mua máy tính thì sợ máy bị virus – bởi vì sợ hãi quá mức nên trói buộc bản thân, chẳng dám làm bất kỳ việc gì, tiến một bước mà cũng thấy khó khăn – cái cẩn trọng mà chúng ta nói ở đây chắc chắn không phải là nói đến những biểu hiện này. Những biểu hiện này cho thấy người ta vô tri, khiếp nhược, ấu trĩ, không có năng lực sinh tồn độc lập – đây chính là biểu hiện của tố chất kém. Nghĩa là khi đối diện với xã hội tà ác này, đối diện với những tập thể người phức tạp này, thì họ không có biện pháp ứng phó nào. Lúc nào họ cũng lo lắng sợ hãi, chùn chân không dám tiến tới. Họ không sợ bị lừa, bị gạt thì sợ bị hại, bị giết. Họ chẳng dám tiếp xúc với bất kỳ ai, chẳng dám làm bất kỳ việc gì. Ra ngoài đi làm thì họ sợ người ta không trả công cho. Có những phụ nữ thậm chí còn không dám đi làm vì sợ bị người ta ức hiếp. Có những người thậm chí không dám ra khỏi cửa vì sợ gặp người xấu, khi mua đồ thì sợ bị người ta cướp. Tóm lại, cái gì họ cũng sợ. Đây chẳng phải là cẩn trọng quá mức sao? Đây gọi là cẩn thận dè dặt, như vậy chẳng phải là bị bệnh thần kinh sao? Có những người có tâm thái như vậy, cả ngày sợ chuyện này chuyện kia, kết quả là chẳng dám làm việc gì, cũng chẳng dám ra ngoài gặp ai, chỉ có thể ở yên trong nhà. Đây là loại người gì? (Thưa, người bị bệnh thần kinh.) Đây gọi là bị bệnh thần kinh, bất thường, không phải là người. Không có năng lực phán đoán nào, làm việc gì cũng chẳng có nguyên tắc hay ranh giới tối thiểu, dạng người này thuộc loại súc vật đầu thai rồi, chẳng có nhân tính bình thường, cái cẩn thận dè dặt của họ cũng không phải là cẩn trọng. Cẩn trọng là nói đến điều gì? Cẩn trọng nghĩa là làm việc thì có chừng mực, có phương pháp, có khuôn phép, dựa trên nguyên tắc này mà làm việc tương đối nghiêm ngặt, khi gặp chuyện thì điềm tĩnh, không liều lĩnh, không lỗ mãng, không bốc đồng, có thể tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, tìm kiếm phương pháp khôn ngoan – đấy gọi là cẩn trọng, đấy mới là ưu điểm của nhân tính.
Mê bốc phét, mê chém gió – dạng người này có rất nhiều, đây cũng là trào lưu của xã hội tà ác. Có rất nhiều người nói chuyện thì cứ phóng đại sự thật, bịa chuyện bừa bãi. Lời họ nói ra chẳng có chút gì là phù hợp với sự thật, toàn nói chuyện trên trời. Thế mà họ còn tự cho rằng mình có bản lĩnh, chẳng có chút liêm sỉ nào. Loại người này có đáng tin cậy không? (Thưa, không đáng tin cậy.) Loại người này có nhân cách hay tôn nghiêm không? (Thưa, không có.) Loại người này không có nhân cách hay tôn nghiêm, không đáng được tôn trọng, không đáng tin cậy. Vậy có thể giao phó cho họ làm những việc quan trọng không? (Thưa, không thể.) Vậy mê chém gió là vấn đề gì? (Thưa, là khiếm khuyết trong nhân tính.) Đây là khiếm khuyết trong nhân tính, nhưng vẫn còn phải xem nhân tính của người này như thế nào – xem nhân tính của họ có ác hay không, có thể tiếp nhận những điều tích cực hay không. Nếu người này chỉ có tính vô lại, chịu sự ảnh hưởng của cuộc sống trong gia đình hay hoàn cảnh xã hội lâu năm mà dần tạo nên thói xấu là ba hoa bốc phét, nói năng không có trách nhiệm và bất kể hậu quả, thì đây chỉ là khiếm khuyết trong nhân tính, chứ họ vẫn chưa xấu, chỉ dừng ở mức tính vô lại quá nghiêm trọng mà thôi. Nếu ngoài ba hoa bốc phét ra, người này khi chung sống với người khác thì rất ngang ngược, rất hung ác, mục đích họ ba hoa bốc phét là để áp chế người khác, khiến những thứ mà họ ba hoa bốc phét cao hơn, tốt hơn và vượt trên những thứ của người khác, như vậy thì đây không phải là vấn đề về tính vô lại nữa. Đây là vấn đề gì? (Thưa, là nhân tính xấu.) Đây chính là vấn đề về nhân tính xấu. Vậy trong chuyện này có tâm tính bại hoại không? (Thưa, có.) Có tâm tính bại hoại gì? (Thưa, hung ác.) Là kiêu ngạo và hung ác. Có những người mê bốc phét thì chỉ là có tính vô lại nghiêm trọng, do thói quen và hoàn cảnh sống tạo thành. Họ đơn giản không hiểu cái gì là nói thật, nói lời trong lòng, nói tình hình thực tế, nói chuyện cuộc đời và chuyện chính đáng. Họ không có ý thức này. Ở trong gia đình và trường học của họ không có dạng giáo dục này, khi họ bước vào xã hội rồi, thì càng không có dạng giáo dục này. Do đó đó, tính vô lại bẩm sinh của họ trở nên rất nghiêm trọng. Họ cứ cợt nhả, chẳng có hình tượng đàng hoàng, chỉ mê ba hoa bốc phét để khoe khoang bản thân và khiến người khác đánh giá cao mình. Ngoài thứ này ra, trong lòng họ chẳng còn dã tâm, dục vọng hay nhu cầu gì khác. Nếu họ chỉ có những biểu hiện này, thì đó chỉ là tính vô lại, là một khiếm khuyết trong nhân tính. Nhưng nếu họ bốc phét có mục đích, bốc phét để thể hiện rằng bản thân rất có năng lực, rất có bản lĩnh, cao hơn người thường, khác với người thường, và vượt trên người thường, thì đây không còn là vấn đề về tính vô lại nữa. Họ mê bốc phét là do có tư tưởng chỉ đạo, do bị lòng tham địa vị, dã tâm và dục vọng chi phối. Họ dùng cách thức bốc phét để áp chế người khác, khiến người khác phục họ, khiến người khác cảm thấy mình thấp hơn họ, không bằng họ, có thể cung kính và thuận theo họ – đây là cái ác trong nhân tính họ. Họ mê bốc phét là vì muốn chiếm thế thượng phong: “Anh có gì thì tôi có nấy, anh có thể làm gì thì tôi cũng có thể làm nấy, anh biết chuyện gì thì tôi cũng biết chuyện ấy, anh từng thấy cái gì thì tôi cũng từng thấy cái ấy. Tôi chẳng thua kém anh!” Thậm chí, ngươi có ăn một món ăn nào đó, rõ ràng món đó họ chưa từng ăn, nhưng vẫn muốn nói là từng ăn rồi, lại còn nói là ăn nhiều hơn ngươi, ngon hơn ngươi. Ngay cả chuyện không có mà họ vẫn cứ bốc phét. Mục đích của họ khi bốc phét là gì? Chính là muốn áp đảo ngươi, so bì với ngươi, khiến ngươi cảm thấy họ giỏi hơn ngươi, họ không có cái gì thua ngươi cả. Họ bị một dạng dã tâm và dục vọng chi phối. Dưới sự chi phối của dạng dã tâm và dục vọng này, biểu hiện trong nhân tính của họ chỉ là tính vô lại, hay đã là nhân tính ác? (Thưa, là nhân tính ác.) Trong chuyện này có tâm tính bại hoại không? (Thưa, có.) Chịu sự chi phối của dã tâm và dục vọng, thì đấy chính là tâm tính bại hoại. Là tâm tính bại hoại gì? (Thưa, là kiêu ngạo và hung ác.) Đúng vậy, có hai dạng tâm tính bại hoại là kiêu ngạo và hung ác này, ngoài ra còn có chút tà ác nữa. Nghĩa là ngươi nói ra bất kỳ điều gì, thì họ đều nghiền ngẫm sẵn trong lòng, luôn muốn làm màu, luôn có tâm tư tà ác và cách nghĩ cực đoan đối với những chuyện này. Chẳng hạn như, ngươi nói: “Nhà tôi đi xe Toyota, xe Nhật đấy”, thì họ nói: “Xe nhật ăn thua gì, xe Đức mới tốt. Chiếc xe Đức tôi từng lái, chẳng những có tính năng tốt, mà lái hơn chục năm rồi vẫn không hư – tốt hơn nhiều so với xe của anh!” Họ phải áp đảo ngươi mới được. Ngươi nói: “Tôi vẫn chưa tốt nghiệp cấp ba”, thì họ nói: “Tôi tốt nghiệp cấp ba rồi, anh đố kỵ với tôi chứ gì?” Thật ra, họ còn chưa tốt nghiệp cấp hai, nhưng họ muốn áp đảo ngươi. Họ thích hưởng thụ cảm khác được người khác đố kỵ, đánh giá cao và ngưỡng vọng. Ngươi xem, khi tiếp nhận thông tin gì từ bất kỳ ai, thì phản ứng của họ đều là tà ác và cực đoan, họ chẳng có tư duy của nhân tính bình thường. Người bình thường mà nghe người khác có thứ gì tốt thì sẽ nói: “Anh có thứ này thì hay quá. Cụ thể nó có đặc điểm gì, ưu điểm gì, anh nói cho tôi nghe được không? Cho tôi được mở mang tầm mắt được không?” Người có nhân tính bình thường thì sẽ phản ứng như vậy. Nhưng người mê bốc phét thì không có nhân tính bình thường, họ sẽ nghĩ: “Anh có thứ đó, tại sao tôi lại không có chứ? Tôi không có thì cũng phải nói là có, còn phải nói là thứ của tôi tốt hơn của anh!” Ngươi mà bảo họ cho ngươi xem thứ đó, thì họ sẽ nói: “Tôi không cho anh xem đâu!”, thật ra, họ đâu có thứ đó. Đây chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Nói cách khác, khi gặp bất kỳ chuyện gì, thấy hoặc tiếp nhận thông tin gì, thì phản ứng của họ đều cực đoan, đều không phù hợp nhân tính, đều tà ác. Do đó, trong tâm tính của họ có chút tà ác. Nghĩa là khi ngươi chuyện gẫu hoặc thông công bình thường với họ, cảm thấy mình vẫn chưa nói điều gì có thể khiến họ có những ý nghĩ quá đáng, nhưng trong đầu họ đã có cả đống ý nghĩ rồi. Họ đã đố kỵ ngươi, không phục ngươi và hận ngươi rồi, lại còn muốn áp chế ngươi – trong đầu họ tràn ngập những chuyện này. Ngươi nói xem, như vậy có phải là tà ác không? (Thưa, phải.) Người tà ác thì không đơn thuần. Đa số những biểu cảm, ngôn ngữ và cử chỉ mà họ bộc lộ ra đều không phù hợp với lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Có khả năng trong lời lẽ của họ có phần nào tính công kích, ngoài công kích ra, còn có khả năng họ có những lời không thật, có những lời bốc phét. Bởi vì trong họ có những tâm tư tà ác, dưới sự chi phối của tâm tư tà ác thì lời lẽ họ nói ra đều là nói dối, đều là thứ phát xuất từ Sa-tan và ma quỷ. Dạng người như vậy thì không có nhân tính, không phải là con người. Người mê ba hoa bốc phét có hai loại, nên dựa vào thực chất trong nhân tính mà xác định tính chất họ. Nghĩa là nhìn xem họ có tính vô lại không, nhân tính có ác không, xem họ có vấn đề nào. Nếu họ có nhân tính ác, có tính vô lại nghiêm trọng, có thể làm nhiều việc ác, vậy thì họ không phải là người tốt rồi, nên xác định tính chất họ là kẻ ác. Nhưng nếu họ chỉ ba hoa một chút, có chút tính vô lại, nhưng không làm ra việc xấu gì, vẫn có chút lương tâm và lý trí, cũng có thể làm một vài việc tốt, vậy thì họ vẫn được tính là người có nhân tính tốt. Đây không phải là vấn đề lớn, nếu họ có tố chất tốt, thì vẫn có thể bầu chọn họ làm người phụ trách, làm lãnh đạo hoặc người làm công. Nếu người ta cùng có biểu hiện ba hoa bốc phét như nhau, thì hãy nhìn xem nhân tính của họ thiện hay ác. Nếu chỉ là họ có tính vô lại, thì đó là khiếm khuyết trong nhân tính, không liên quan đến tâm tính bại hoại. Nhưng nếu đằng sau việc bốc phét của loại người này còn có ý định hoặc dã tâm, thì họ có nhân tính ác, như vậy thì liên quan đến tâm tính bại hoại rồi. Xét về nhân tính, thì họ có nhân tính ác, tâm tính bại hoại có liên quan là kiêu ngạo, tà ác hoặc hung ác. Nó vừa liên quan đến phẩm chất nhân tính kém, vừa liên quan đến tâm tính bại hoại, phải vậy không? (Thưa, phải.)
Lại nói thêm về một biểu hiện nữa: cẩu thả. Làm việc gì cũng cẩu thả thì thuộc phương diện vấn đề gì? (Thưa, là khiếm khuyết trong nhân tính.) Loại người này nhìn chuyện gì cũng sơ sài, đại khái, chẳng nắm được điểm chính. Họ làm gì cũng rất ẩu tả, chẳng làm được những công tác tỉ mỉ, chẳng hạn như công tác văn tự hoặc công tác bảo quản văn kiện. Họ cũng không làm được những việc tỉ mỉ. Khi may áo quần, có lúc họ may ống quần thành ống tay áo, có lúc thì may tay dài thành tay đùi, có lúc thì may lưng 66 phân thành 61 phân, không may rộng thì may chật. Bất kể làm việc gì họ cũng ẩu tả như vậy, lỗ mãng như vậy, vụng về như vậy, kết quả là việc gì cũng không làm tốt được. Thậm chí họ còn ẩu tả đến mức độ nào? Những thứ nên mang theo khi ra ngoài xử lý công chuyện mà họ cũng quên. Chẳng hạn như, họ đi gặp luật sư vì chuyện kiện tụng, mà chẳng đem theo chứng minh thư, cũng chẳng đem theo chứng cứ luật sư yêu cầu, bỏ quên rất nhiều thứ. Có lúc họ còn không biết những vật dụng quan trọng của mình nằm ở đâu, cũng không để tâm mà ghi nhớ. Do đó, họ thường quên trước quên sau, chuyện làm việc và sinh hoạt của họ thành một mớ hỗn độn. Đối với công tác và bổn phận, loại người này chẳng bao giờ nghiêm túc. Họ làm việc gì cũng qua loa đại khái, nghĩa là họ xem chuyện gì cũng xem đại khái, nghe lời nào cũng nghe đại khái, nói chuyện gì cũng nói đại khái, ghi nhớ chuyện gì cũng nhớ đại khái. Vì vậy mà họ không làm được và không thích hợp làm những công tác quan trọng và cơ mật. Nếu sự ẩu tả của họ chỉ liên quan đến chuyện sinh hoạt và vệ sinh của họ, không ảnh hưởng đến người khác, không ảnh hưởng đến một vài chuyện quan trọng, thì sự ẩu tả của họ chỉ là khiếm khuyết trong nhân tính – xuất hiện vấn đề gì, bản thân họ chịu trách nhiệm là xong chuyện. Nhưng nếu là chuyện liên quan đến bổn phận, đến công tác quan trọng, hoặc liên quan đến tiền đồ và số phận của người ta, liên quan đến chuyện người ta đi hay ở, v.v., thì không thích hợp để cho loại người này làm, bởi vì họ quá ẩu tả. Một mặt, họ không kỹ lưỡng với những chuyện này, họ chỉ nhìn đại khái, lười động não, lười tốn tâm tư hay sức lực để xử lý những chuyện này. Mặt khác, phong cách và phương thức làm việc của họ chính là qua loa đại khái từ đầu đến cuối, lại còn quên trước quên sau. Nếu chỉ liên quan đến cuộc sống cá nhân của họ, thì vẫn không bị tính là vấn đề lớn gì, nhưng nếu có liên quan đến công tác quan trọng hoặc chuyện cơ mật thì họ có thể làm hỏng chuyện, thậm chí là gây đại họa. Chẳng hạn như, có người có chuyện gấp cần đi Paris, nhưng lại ẩu tả mua thành vé đi Roma, thế mà họ còn cảm thấy rất cao hứng: “Hôm nay mình mua được vé hời quá!” Người khác nhìn vào thì nói: “Đương nhiên là hời rồi, nên đi Paris, tại sao anh lại mua vé đi Roma chứ?” Như vậy là quá ẩu tả rồi. Loại người này nhìn mọi chuyện với sự khinh thường, có thái độ ứng phó và tạm bợ. Họ liếc mắt nhìn đại khái một cái là coi như xong việc. Họ có dạng thái độ vô trách nhiệm như vậy đấy. Đương nhiên đây cũng là dạng thái độ không muốn để tâm và lười biếng. Họ lười để tâm, lười động não, lười dốc tâm tư để xử lý bất kỳ chuyện gì. Loại người ẩu tả này không thích hợp để làm công tác quan trọng, nhất là công tác liên quan đến văn tự, đến việc bảo quản văn kiện, hoặc công tác nghiệp vụ kỹ thuật cơ mật. Vậy loại người này mà làm lãnh đạo thì có thể đảm đương nổi không? (Thưa, không thể, họ làm công tác thì lúc nào cũng không đến nơi đến chốn, đều làm bừa, đại khái, thiếu đầu thiếu đuôi. Họ không làm được công tác thực tế.) Loại người này làm công tác thì không có chi tiết, lúc nào cũng qua loa đại khái, lơ là. Họ nói năng cũng luôn ba phải, luôn thích nói những lời như “đại khái”, “có lẽ”, “gần như”, “có khả năng”. Loại người này chẳng hoàn thành được việc gì. Rất nhiều công tác của nhà Đức Chúa Trời, chẳng hạn như công tác hành chính, công tác nhân sự, công tác liên quan đến đời sống hội thánh và công tác phúc âm, đều có những chi tiết cụ thể. Loại người ẩu tả này nhìn thấy công tác cần được làm một cách tỉ mỉ thì đau đầu, hoang mang, trong lòng luống cuống, họ không sẵn lòng làm những công tác tỉ mỉ này. Họ có dạng thái độ lười biếng này, đến lúc làm công tác thì luôn cảm thấy: “Làm đại khái là được rồi, đằng nào cũng xấp xỉ với sự sắp xếp công tác”. Họ luôn giữ thái độ “xấp xỉ là được” này, vậy thì công tác có thể được làm tốt không? (Thưa, không thể.) Họ nhìn người cũng nhìn đại khái, nhìn nhận lãnh đạo và người làm công cũng đại khái, nhìn nhận người phụ trách các nhóm cũng đại khái. Người ta hỏi họ: “Vậy người phụ trách này tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi?” thì họ nói: “Có vẻ là tin ba năm rồi”. Tin Đức Chúa Trời mới ba năm thì có khả năng vẫn chưa thiết lập được nền tảng, người này mà làm người phụ trách thì có thể đáng tin cậy không? Người ẩu tả chẳng nhìn thấu được chuyện này. Do đó, họ nói chuyện lúc nào cũng thích nói những lời như “đại khái”, “có lẽ”, “gần như”, “có khả năng”, “có vẻ”, họ chẳng có cách nói chính xác. Người ta hỏi: “Khi tin Đức Chúa Trời, anh ấy đã từng làm lãnh đạo chưa?” thì họ nói: “Có vẻ chưa làm, bởi vì chưa nghe anh ấy nói về chuyện đó”. Ngươi xem, đối với bất kỳ chuyện gì, họ cũng không nghiêm túc. Ngươi mà hỏi họ chi tiết thì họ sẽ chỉ dựa vào cảm giác và ấn tượng của mình mà trả lời. Họ sẽ không nói: “Tôi phải đi hỏi và xác nhận ngay mới được”. Họ sẽ không nghiêm túc như vậy. Đối với họ, chuyện gì cũng đại khái, xấp xỉ là được rồi. Có người hỏi: “Tại sao người ta phải sống tỉ mỉ như vậy?” Câu này mặc dù cũng có mặt đúng – những chuyện trong cuộc sống của xác thịt mà có chút ẩu tả thì cũng chấp nhận được. Nhưng liên quan đến công tác của hội thánh thì không được ẩu tả, làm công tác ẩu tả thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả. Hạng mục công tác nào cũng đều nhờ có sự bố trí, sắp xếp, theo sát và đốc thúc cụ thể, thì mới có thể đạt được kết quả tốt. Nếu chỉ làm một cách ẩu tả và sơ sài, thì công tác nào cũng không thể có kết quả. Do đó, ẩu tả là khiếm khuyết trong nhân tính. Loại người này không đảm đương nổi công tác quan trọng, nhất là không đảm đương nổi công tác của lãnh đạo và người làm công. Loại người này, bất kể gặp chuyện gì cũng chỉ nghe đại khái mà đã cho là mình hiểu rồi. Như công tác thiết lập hội thánh chẳng hạn, thiết lập hội thánh như thế nào, có bao nhiêu người thì thiết lập được một hội thánh, có bao nhiêu hội thánh thì thiết lập được một tiểu giáo khu, có bao nhiêu tiểu giáo khu thì thiết lập được một giáo khu – đối với những chuyện này, sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời đều có quy định cụ thể, còn có quy định cụ thể cho những trường hợp đặc biệt. Thế nhưng họ chẳng tìm kiếm hay tìm hiểu về những chuyện này, vậy mà còn nói là biết cách làm rồi. Bảo họ nói chi tiết xem sao, thì họ trả lời: “Chỉ là thiết lập hội thánh thôi mà. Nhân số lên đến mức nhất định thì thiết lập thôi”. Nhưng khi bị hỏi tiếp: “Vậy cụ thể thiết lập như thế nào?” , thì họ không nói ra được chi tiết. Nếu họ mới làm lãnh đạo, chưa biết cách thiết lập hội thánh thì còn có thể thông cảm được. Nhưng vấn đề là họ không biết mà cũng không nghiêm túc, không học tập, không tìm kiếm. Dạng người này có thể làm tốt công tác của hội thánh không? (Thưa, không thể.) Với loại người này, thì chỉ có hai từ cho họ thôi – bước xuống! Họ không đảm đương nổi công tác lãnh đạo. Không có công tác nào phức tạp bằng công tác nhào nặn con người. Nếu ngươi không có lòng thận trọng và trách nhiệm, làm công tác thì ẩu tả, không tỉ mỉ, thì cho dù tố chất của ngươi tốt đến thế nào, ngươi cũng không đảm đương nổi. Quá ẩu, làm việc gì cũng làm đại khái, chỉ chú trọng nét khái quát và làm cho có hình thức, chứ không chú trọng chi tiết, cũng chẳng biết nghiêm túc, vậy thì ngươi tuyệt đối không đảm đương nổi công tác của lãnh đạo và người làm công. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)
Cẩu thả là khiếm khuyết trong nhân tính. Vậy còn làm việc tỉ mỉ và nghiêm túc, lại còn có thể nắm bắt được điểm cốt lõi và trọng điểm, có thể phát hiện ra vấn đề nằm ở đâu, và nhìn thấu được thực chất vấn đề – đây có phải là ưu điểm trong nhân tính không? (Thưa, phải.) Thái độ của người tỉ mỉ khi làm việc thì khá đứng đắn, khi làm việc thì rất tỉ mỉ, nghiêm túc, có thể an tĩnh lòng mình, không bộp chộp – đây là ưu điểm trong nhân tính. Mặc dù người có ưu điểm trong nhân tính này có thể đảm đương công tác toàn thời gian, nhưng nếu họ làm việc quá chậm, hiệu suất công tác không cao, vậy thì kết quả sẽ không được tốt lắm. Chuyện này liên quan đến điều gì? Liên quan đến tố chất, một điều nằm trong điều kiện bẩm sinh. Ngươi cho rằng người tỉ mỉ thì đều có thể làm tốt công tác sao? Quan điểm này không đúng. Có những người làm việc rất tỉ mỉ đến mức có chút thần kinh quá nhạy cảm. Chẳng hạn như, lúc rửa rau, thì họ phải rửa mặt trước rồi rửa mặt sau, bỏ đi hết lá vàng, cắt bỏ hết lỗ sâu ăn, bảo đảm rửa hoàn toàn sạch sẽ. Làm việc tỉ mỉ là ưu điểm trong nhân tính, nhưng nếu tỉ mỉ đến mức không có nguyên tắc, quá chăm chăm chuyện vặt vãnh, thì không cần thiết và không có hiệu suất. Như vậy là có tố chất kém, không làm nên chuyện và không gánh vác nổi công tác. Có những người tỉ mỉ, khi làm việc thì nắm được nguyên tắc, nắm được điểm cốt lõi và trọng điểm, hành động thì nhanh và nhạy, phán đoán cũng nhanh, có thể nhanh chóng giải quyết vấn đề, như vậy nghĩa là họ có tố chất tốt. Làm việc tỉ mỉ không đồng nghĩa với làm việc có hiệu suất hay là làm việc có kết quả tốt, mà chỉ có nghĩa là họ có thể ngồi yên, an tĩnh, không hấp tấp, không nói chuyện trên trời, không lỗ mãng. Như vậy cùng lắm chỉ là ưu điểm trong nhân tính, chứ chưa đến mức tố chất tốt. Có những người làm việc thì rất tỉ mỉ, trông có vẻ rất nghiêm túc, không sốt ruột cũng không hoảng hốt, và rất an tĩnh. Nhưng họ xử lý công chuyện thì chẳng có hiệu suất, chẳng biết phân chia việc theo mức độ quan trọng và cấp bách. Họ cứ ôm mãi những việc không quan trọng, làm mãi vẫn không xong, khiến người khác nhìn vào thì phát bực, chỉ muốn đá cho họ một cái. Họ làm việc quá chậm, chẳng có chút hiệu suất nào, đơn giản là phế vật! Người có năng lực sinh tồn bình thường thì làm việc nhanh hơn họ gấp mười lần, hai mươi lần. Họ làm quá chậm, bất kể làm bao nhiêu việc rồi, họ cũng không tìm được quy luật, không tìm được nguyên tắc, chẳng có mẹo gì, cũng chẳng có hiệu suất. Việc vốn làm mất một tiếng thì họ có thể làm mất một ngày, việc vốn làm mất một ngày thì họ có thể làm mất năm ngày, việc vốn làm mất năm ngày thì họ có thể làm mất mười ngày, ngươi nhìn vào thì thấy phát bực. Có những phụ nữ làm việc cứ lề mà lề mề, biết rõ một lát nữa cần phải ra ngoài xử lý công chuyện, thế mà cứ nhất quyết phải gội đầu. Khi gội đầu, họ cũng chẳng tìm được phương pháp, thay vì gội cả đầu một lần, họ lại gột từng sợi, nửa tiếng sau vẫn chưa gội xong. Vậy chẳng phải là bị bệnh thần kinh sao? Vì chuyện gội đầu mà họ làm chậm trễ chuyện chính đáng. Càng có chuyện thì họ càng không sốt ruột, còn có thể chuyên tâm làm những chuyện không quan trọng. Họ làm chậm trễ việc lớn rồi mà cũng chẳng sốt ruột hay lo lắng. Ngươi mà hối thúc thì họ còn viện ra cả đống lý do: “Tôi không làm xong mấy việc chính đáng này thì sao mà được?” Thấy dạng người này thì trong lòng ngươi sẽ nghĩ thế nào? Ngươi sẽ hận không thể đá cho họ một cái. Loại người này chẳng đáng bị đá sao? (Thưa, đáng.) Đối với dạng người này, dù có việc để làm thì cũng không cần để họ làm. Họ làm quá chậm, quá vụng! Các ngươi nhìn thấy loại người làm việc kiểu ì ạch chậm chạp này thì có sốt ruột không? (Thưa, có.) Họ nói: “Tôi làm việc tỉ mỉ mà!” Ta thì nói: “Ngươi làm tỉ mỉ như vậy thì có ích gì? Những người khác cũng chẳng cẩu thả hơn ngươi bao nhiêu, nhưng họ làm nhiều việc hơn ngươi, còn làm tốt nữa. Cái tỉ mỉ của ngươi có thể đạt được kết quả gì sao? Đây là điểm mấu chốt. Nếu ngươi làm việc rất tỉ mỉ, còn có thể có hiệu suất, có kết quả tốt, vậy thì cái tỉ mỉ đó có giá trị. Nhưng nếu ngươi làm việc mà chỉ có sự tỉ mỉ, cuối cùng lại chẳng có kết quả hay hiệu suất gì, vậy thì có ích gì không? Chẳng có ích gì cả!” Có những người may áo quần thì đặc biệt tỉ mỉ, nhưng chẳng bao giờ may đúng kích cỡ. Họ không nhìn cho chuẩn được chuyện bộ áo quần đó có hợp với người mặc không, họ chẳng phân biệt được tay áo ngắn quá hay dài quá, chẳng biết áo quá chật hay quá rộng, chẳng biết độ rộng tiêu chuẩn của cổ tay áo, chẳng biết cổ áo có thích hợp không. Dạng người này mà may đồ thì chắc chắn sẽ không đạt tiêu chuẩn. Nếu vừa tỉ mỉ vừa có nguyên tắc, thì đó thực sự là ưu điểm trong nhân tính. Nhưng nếu chỉ tỉ mỉ mà không có nguyên tắc, không nắm được điểm mấu chốt, lúc nào cũng làm quá lên và cắm đầu ngẫm nghĩ về những chuyện chẳng quan trọng, như vậy thật khiến người ta thấy ghét. Đa số mọi người xem từ “tỉ mỉ” này mang nghĩa tốt, nhưng không phải trong trường hợp nào thì tỉ mỉ cũng là ưu điểm, chuyện này phải phân theo trường hợp. Có những người tỉ mỉ theo kiểu mù quáng, chẳng có nguyên tắc, vậy thì đó không phải là tỉ mỉ, mà là thần kinh quá nhạy cảm, không nắm bắt được điểm mấu chốt, là có tố chất kém, làm việc không nắm được mẹo, không nắm được nguyên tắc. Do đó, trong mắt Ta, mặc dù biểu hiện tỉ mỉ hoặc phương thức làm việc tỉ mỉ này là một ưu điểm trong nhân tính, nhưng đồng thời còn cần nhìn xem tố chất của người đó như thế nào. Nếu không luận tố chất, thì thái độ làm việc tỉ mỉ vẫn là thứ tốt. Nếu đã có tố chất, làm việc có hiệu suất, có thể tuân thủ nguyên tắc, lại thêm tính tỉ mỉ, thì chính là đã hay lại càng hay, như vậy thì thực sự là ưu điểm của nhân tính.
Giờ hãy nói về một biểu hiện khác: mê khoe khoang. Cái này thuộc về phương diện vấn đề nào? (Thưa, là tâm tính bại hoại.) Chẳng hạn như, có người đánh máy đặc biệt nhanh. Vì muốn khiến người khác biết mình có sở trường này, nên họ cố ý gõ bàn phím thật to, ý là “Nghe nhịp đánh máy của tôi là anh biết tôi đánh máy nhanh đến thế nào rồi!” Có người là sinh viên đại học, lúc nào cũng nói những lời như “thời chúng tôi học đại học”, “giáo sư đại học của chúng tôi”, “sân trường đại học của chúng tôi”, v.v.. Đây là dạng biểu hiện gì? (Thưa, là khoe khoang.) Đây gọi là khoe khoang. Có người mua được chiếc xe mới, sợ người khác không biết đây là xe của hãng cao cấp. Khi xuống xe rồi, họ vẫn không đi, mà nán lại một lát, nhìn xem có dấu vân tay hằn trên cửa sổ xe không, nhìn xem xe có bị chợt sơn ở đâu không. Tại sao họ cứ quanh quẩn bên chiếc xe vậy? Để khiến người khác biết đó là xe của họ. Đây là biểu hiện gì? (Thưa, là khoe khoang.) Có người mới mua điện thoại cao cấp, vì để khiến người khác thấy được vậy mà vào lúc rõ ràng điện thoại đã hết pin, họ vẫn giả vờ đang nghe điện thoại. Đây gọi là gì? (Thưa, là khoe khoang.) Tại sao họ lại muốn khoe khoang? Có phải vì lòng hư vinh của họ chồm lên không? Có những người mặc áo khoác lông chồn, vào căn phòng rất ấm rồi mà vẫn không cởi ra. Người khác hỏi họ: “Chị không nóng à?”, thì họ trả lời: “Không nóng, tôi mặc áo lông chồn mà, ấm lắm!” Họ cho rằng người khác chẳng biết gì cả! Họ mà cởi áo ra thì cũng phải làm sao khoe được nhãn hiệu, khoe với người ta: “Chiếc áo này không những là áo lông chồn, mà còn là của nhãn hiệu cao cấp ABC, chị chẳng biết đâu!” Người ta không biết, thì ngươi khoe cái gì? Vậy chẳng phải là khoe vô ích sao? Có những người còn khoe khoang với Ta: “Ngài đang mặc áo lông vịt đấy à? Ngài nên mặc áo lông chồn đi, ấm lắm!” Ta bảo: “Cũng ấm đấy, nhưng cái áo đó nặng quá!” Họ mặc áo lông chồn mà còn khoe khoang trước mặt Ta. Các ngươi nói xem, loại người mê khoe khoang này có phải là nông cạn không? Nếu luận về nhân tính, thì họ có hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất là đặc biệt phù phiếm, về những thứ vật ngoài thân và vật chất như đồ ăn, áo mặc, và vật dụng, họ đều muốn khoe khoang. Họ không áp chế nổi lòng muốn khoe khoang của mình, luôn muốn cho người khác thấy, cho người khác biết rằng thứ họ mặc, thứ họ dùng đều là hàng cao cấp, không tầm thường. Người khác biết vậy rồi thì sao chứ? Ngay cả khi người ta thấy rồi mà chẳng đánh giá cao họ, thì họ vẫn cứ khoe. Như vậy chẳng phải là nông cạn sao? (Thưa, phải.) Nông cạn, ấu trĩ, đây chính là vấn đề khác của người mê khoe khoang. Ngươi nói xem, mê khoe khoang như vậy thì có thể đạt được gì chứ? Để có cảm giác tồn tại sao? Là việc tất yếu sao? Làm vậy chẳng phải là thừa thãi à? (Thưa, phải.) Thời thập niên 1980 và 1990, giày da của người ta mà bị mòn bẹt thì họ sẽ đóng đế sắt vào, đi trên đường thì tạo ra tiếng đặc biệt to. Có người mua giày xong, còn chưa mang mà đã đóng đế sắt vào, chỉ để khiến người khác biết họ có đôi giày da. Làm vậy khiến họ tự tin và có cảm giác hưởng thụ. Họ cho rằng: “Được người khác chú ý là chuyện tốt, chứng tỏ bản thân mình có sức hút, có cảm giác tồn tại. Cho nên mình phải chia sẻ những sở trường, điểm mạnh và những thứ tốt mình có với mọi người”. Đây thật sự là chia sẻ sao? Đây gọi là phô trương. Trong thế gian, chẳng phải có rất nhiều người mê phô trương sao? (Thưa, phải.) Có phải người ta đều cảm thấy như vậy là rất bình thường không? Chẳng có ai khinh thường loại người này, cũng chẳng có ai nhìn loại người này với ánh mắt khác lạ. Bởi vì trên thế gian, ai cũng là loại người này, ai cũng chìm đắm trong đủ loại hưởng thụ vật chất, địa vị và tiền bạc, cho nên thế gian này tôn sùng những thứ đó. Trong nhà Đức Chúa Trời, thì loại người này khiến người ta cảm thấy ghê tởm, không thèm để mắt đến. Tại sao vậy? Vì người tin Đức Chúa Trời, từ khi bắt đầu thiết lập nền tảng cho đến khi từng chút một hiểu lẽ thật và ý nghĩa của việc làm người, thì đã thờ ơ với những chuyện hưởng thụ vật chất và những thứ phù phiếm của thế gian. Trong lòng họ không mấy hăng hái mưu cầu những vật ngoài thân này. Mục tiêu và phương hướng mưu cầu của họ đã thay đổi rồi, những thứ họ cần trong thế giới nội tâm cũng đã khác đi rồi. Cách nhìn nhận của họ đối với nhu cầu vật chất cũng khác. Họ cảm thấy những thứ này đều trống rỗng, không thể thỏa mãn nhu cầu nội tâm của mình. Vì vậy mà việc khoe khoang và phô trương đủ thứ của họ cũng giảm bớt. Người tin Đức Chúa Trời cùng lắm sẽ khoe khoang và phô trương những gì? Phô trương chút kỹ năng và điểm mạnh của mình. Chẳng hạn như, có người mê ca hát thì sẽ luôn muốn khiến người khác nghe được giọng mình. Họ nói: “Anh xem giọng tôi hay đến thế nào này!” Họ chỉ sợ mọi người không biết là họ biết hát, họ luôn muốn khoe khoang bản thân. Tóm lại, mê khoe khoang là một khiếm khuyết trong nhân tính, là một dạng biểu hiện của nhân tính chưa trưởng thành, còn ấu trĩ và nông cạn. Khi chỉ hiểu được chút câu chữ đạo lý, còn chưa thực sự đạt được lẽ thật hoặc bước vào thực tế lẽ thật, thì người ta rất dễ phạm phải tật xấu mê khoe khoang này, và khiếm khuyết này trong nhân tính không phải là thứ dễ khắc phục. Bởi vì khi chưa đạt được lẽ thật, thì những thứ mà người ta có thể khoe khoang và phô trương chính là vốn liếng và sự tự tin để họ sống. Ngươi tự tin làm người và có động lực làm việc đều là nhờ ngươi dựa vào những thứ như tướng mạo, khí chất, điểm mạnh, trình độ học vấn, trình độ hoặc kỹ thuật nghiệp vụ v.v. mà sống. Do đó, đại đa số mọi người đều có tật xấu mê khoe khoang ở những mức độ khác nhau, chúng lại còn khó khắc phục, khó để người ta chống lại chúng. Khi người ta đã hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, đã có vóc giạc nhất định và có thể thờ ơ với những chuyện chẳng liên quan đến lẽ thật, thì họ cho rằng không cần khoe khoang và phô trương, cho rằng những thứ này không đại diện cho chuyện người ta có nhân tính hay vóc giạc, đương nhiên càng không đại diện cho chuyện người ta được cứu rỗi, có thể thuận phục lẽ thật và Đức Chúa Trời. Do đó, có những người trước đây mê khoe khoang, nhưng đến lúc hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật rồi, thì dục vọng này của họ yếu dần đi, và chẳng biết từ lúc nào, khiếm khuyết này trong nhân tính cũng được khắc phục và tan biến rồi. Chẳng hạn như, có người mặc một áo thun hơi đắt tiền, bất cẩn làm bẩn nó một chút, thế là liền lo lắng. Người khác bảo: “Anh lo lắng cái gì chứ? Chẳng phải đem đi giặt là xong à?” thì họ nói: “Anh có biết cái áo này tôi mua hết 200 tệ không?” Họ nhất định phải nói giá ra cho người khác biết thì mới hài lòng. Người ta hiểu lẽ thật rồi mà lại gặp phải chuyện như vậy thì sẽ có thể tiếp cận một cách đúng đắn, sẽ không nói giá ra. Lúc đó lòng hư vinh của họ đã được kiềm chế đến một mức độ nhất định rồi. Như vậy chẳng phải cho thấy nhân tính của họ đã tương đối trưởng thành, không còn nông cạn và ấu trĩ lắm nữa sao? (Thưa, phải.) Từ đó, khiếm khuyết mê khoe khoang trong nhân tính của họ sẽ được khắc phục.
Biểu hiện tiếp theo là trọng phú khinh bần. Có vài người thấy ai giàu có thì liền nhanh chóng bợ đỡ, nói những câu như: “Da chị đẹp quá, tướng mạo cũng đẹp. Chị thật tôn quý, nước bọt chị nhổ còn đáng giá hơn đám bần cùng chúng tôi!” Khi nói chuyện với người giàu có, người có thân phận và địa vị, thì họ đặc biệt mềm mỏng. Nhưng thấy ai là nông dân thì họ đều muốn cười nhạo, dù nói thẳng hay nói khéo cũng đều hạ thấp người ta. Thái độ của họ đối với người nghèo và người giàu hoàn toàn khác nhau. Họ sẵn lòng hùa theo nhu cầu của người giàu, thậm chí cam nguyện làm nô lệ của người giàu. Còn đối với người nghèo, thì họ đối đãi kiểu khác – người ta có khó khăn và nhờ họ giúp đỡ thì họ cũng chẳng thèm để ý. Cách họ đối đãi với những người có thân phận thấp kém, có địa vị xã hội thấp hoàn toàn khác với cách họ đối đãi với những người có địa vị cao trong xã hội. Đây chính là trọng phú khinh bần. Đây là vấn đề gì? (Thưa, là khiếm khuyết trong nhân tính.) Đây là khiếm khuyết trong nhân tính sao? Đây là vấn đề gì trong nhân tính? (Thưa, là nhân cách thấp hèn.) Nó là vấn đề về nhân cách trong nhân tính, là nhân cách thấp hèn. Gặp người giàu thì họ khom lưng khuỵu gối, thành cháu chắt của người ta, còn gặp người nghèo thì họ lại muốn làm tổ tiên của người ta. Họ là thứ gì vậy? Đối đãi người khác như vậy là không có nguyên tắc! Người nghèo chỉ là có ít tiền hơn một chút, điều kiện sinh hoạt kém hơn một chút – chứ họ có làm gì đắc tội ngươi sao? Người nghèo thì nhất định phải có nhân tính không tốt sao? Người giàu thì nhất định có nhân tính tốt sao? Loại người trọng phú khinh bần này dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà đánh giá và nhìn nhận người khác sao? Rõ ràng là không phải vậy. Ai có tiền thì họ cho rằng người đó cao thượng, vĩ đại, còn ai nghèo thì họ cho rằng người đó thấp hèn. Họ dùng tiền bạc để đánh giá người khác. Vậy thì họ có phải là người tốt không? Nhân tính của loại người này như thế nào? (Thưa, nhân tính không tốt.) Thấy người giàu là họ cười ngoác cả miệng, thấy người nghèo là nét mặt họ sa sầm, họ đổi nét mặt nhanh thật đấy! Người giàu bảo họ xách chậu phân thì họ cũng sẵn lòng, nhưng rót một ly nước cho người nghèo thì họ chẳng sẵn lòng. Họ là thứ gì vậy? Chẳng phải họ có nhân cách thấp hèn sao? (Thưa, phải.) Loại người này làm lãnh đạo thì có tốt không? (Thưa, không tốt.) Tại sao lại không tốt? Họ không đảm nhiệm được vai trò lãnh đạo ở phương diện nào? (Thưa, họ đối đãi với người khác một cách không có nguyên tắc. Khi chọn và dùng người, họ cũng không dựa vào nguyên tắc lẽ thật, mà lại dựa vào chuyện người ta có địa vị xã hội, có tiền hay không. Họ mà làm lãnh đạo thì sẽ đề bạt những người có địa vị và có tiền. Nếu những người được đề bạt đó là kẻ ác, thì hội thánh đó sẽ thành nơi kẻ ác nắm quyền, sẽ nát tan.) Loại người này không thích hợp làm lãnh đạo. Một mặt là vì họ có nhân cách thấp hèn và làm việc không có tiêu chuẩn của lương tâm. Mặt khác, nếu để họ làm lãnh đạo thì họ có thể khiến hội thánh trở nên giống như xã hội và hội thánh do họ lãnh đạo sẽ biến thành đoàn thể xã hội. Họ sẽ đề bạt những người có tiền có thế, có thân phận và địa vị, có nhiều mối quan hệ và hanh thông trong xã hội lên làm nhóm trưởng và người phụ trách. Còn những người có nhân tính tốt, có tố chất, biết mưu cầu lẽ thật, nhưng lại có địa vị xã hội thấp hèn như nông dân, người nghèo, người không có trình độ học vấn hoặc không biết nói lời êm tai, thì đều bị họ chà đạp dưới chân. Như vậy thì chẳng phải giống hệt xã hội rồi sao? Có gì khác nhau không? Trong xã hội, chẳng phải những người có tiền, có địa vị là người nắm quyền sao? Chẳng phải những người có thân phận, có nhiều mối quan hệ, có quyền có thế là người chiếm giữ địa vị và nổi bật trong mọi tầng lớp, lĩnh vực và đoàn thể của xã hội sao? Nhà Đức Chúa Trời mà giống với xã hội thì còn là nhà Đức Chúa Trời sao? Vậy thì sẽ không còn là nhà Đức Chúa Trời nữa, không thể được gọi là hội thánh nữa, mà là đoàn thể xã hội rồi. Loại người trọng phú khinh bần mà làm lãnh đạo thì sẽ có hậu quả hệt như vậy. Loại người này thấy ai có địa vị thì sẽ thành tay sai của người đó, ngươi nói xem, người làm tay sai thì có nguyên tắc gì không? Có ranh giới tối thiểu trong việc làm người không? (Thưa, không có.) Loại người này làm người thì không có nguyên tắc hay ranh giới tối thiểu gì, gặp hoàn cảnh nguy hiểm thì sẽ có thể làm Giu-đa, quốc gia mà suy vong thì sẽ có thể làm kẻ phản quốc, họ mà làm lãnh tụ thì sẽ thành giặc bán nước, họ chính là thứ như vậy! Do đó, họ không phù hợp để làm lãnh đạo! Bởi vì họ sẽ không làm công tác thực tế, sẽ làm hại anh chị em, sẽ chà đạp những người thực sự mưu cầu mưu cầu lẽ thật và có nhân tính, trong khi đó lại đề bạt những người có nhân tính ác mà có địa vị, có mặt mũi trong xã hội, như vậy thì trái ngược với nguyên tắc đề bạt người của nhà Đức Chúa Trời rồi. Những người này mà làm vua nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời rồi, thì công tác của hội thánh còn có thể được thực hiện thông suốt nữa không? (Thưa, không thể.) Công tác của hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn sẽ bị tiêu tùng trong tay họ. Những người này sẽ cấu kết với nhau, lợi dụng lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Các anh chị em mưu cầu lẽ thật đều sẽ bị bài xích, bị gạt sang một bên, chưa biết chừng còn bị đẩy sang nhóm B hoặc bị thanh trừ, không còn đường sống. Có phải sẽ như vậy không? (Thưa, phải.) Giữa những người như vậy có mối quan hệ thế nào? Họ mà tụ tập lại với nhau thì gọi nhau là anh em, khoác vai bá cổ, khoe khoang về lịch sử huy hoàng lúc ở trong xã hội, nói mình có thể xử lý việc gì cho đối phương, sau đó hỏi đối phương có thể xử lý việc gì cho mình, lợi dụng lẫn nhau. Như vậy thì có khác biệt gì với người trong xã hội không? Họ mà tụ tập với nhau thì không ăn uống lời Đức Chúa Trời, không thông về công lẽ thật, không thông công về nhận thức trải nghiệm cá nhân, cũng chẳng nói về chuyện nhận biết bản thân, chẳng mổ xẻ tâm tính bại hoại của mình. Thay vào đó, họ nói chuyện khi ở xã hội thì họ hanh thông thế nào, đã từng làm những việc nở mày nở mặt nào, đã có lịch sử huy hoàng gì, đã từng cùng ăn uống với những quan chức nào, bợ đỡ quan chức nào – họ toàn nói mấy chuyện này. Đây mà là người tin Đức Chúa Trời sao? Họ còn so đo địa vị, bối cảnh, năng lực và thủ đoạn với nhau, cấu kết với nhau và lợi dụng lẫn nhau, mối quan hệ giữa họ là vậy. Ngươi mà là dân thường, là nông dân, không thể xử lý việc cho họ, thì họ sẽ cảm thấy ngươi chẳng ra gì, căn bản không lọt nổi vào mắt của họ, phải đứng sang một bên. Họ mà tụ tập với nhau thì sẽ bàn luận chuyện gì? Bàn luận xem thương hiệu áo quần nào vừa ra mẫu mới, có xe nào vừa ra mắt, ai mua viên kim cương mấy ca-ra, nhà của ai vừa bị đấu giá, cổ phiếu của ai xuống hay lên, công ty của ai lên sàn chứng khoán, ai bợ đỡ quan chức chính phủ, ai giao du với dân giang hồ, ai tốn bao nhiêu lễ vật, bao nhiêu tiền để đút lót hòng làm việc gì đó – toàn là mấy chuyện này. Ngươi nói xem, vậy có đáng ghê tởm không? Nếu cả ngày họ nói những chuyện đó trong hội thánh, thì đời sống hội thánh và công tác hội thánh chẳng bị họ quấy nhiễu và hủy hoại sao? Ngươi nói xem, có thể chọn dạng người này làm lãnh đạo không? (Thưa, không thể.) Họ là phần tử đầu cơ. Ngay khi phát hiện ra trong hội thánh có dạng người này, thì các ngươi nên vạch trần họ và thanh lọc họ đi, nhà Đức Chúa Trời không giữ loại người này. Phần tử đầu cơ mà ở nhà Đức Chúa Trời thì chính là thứ sống cho qua ngày và lừa để được phúc. Họ căn bản không tiếp nhận lẽ thật, không tiếp nhận bất kỳ điều tích cực nào. Hơn nữa, những người này làm bổn phận thì không có chút lòng thành nào, chẳng muốn bỏ ra chút gì, mà chỉ muốn được lợi, không có lợi thì không làm. Anh chị em đều đang chuyên tâm làm bổn phận và nỗ lực công tác, còn họ thì gạt bổn phận sang một bên, chỉ toàn bận rộn với việc riêng của mình, thậm chí còn ăn uống chơi bời. Họ còn thường xuyên lên mạng, dành rất nhiều thời gian để tra tìm một vài thứ họ thích nhất và muốn nhất, như thời trang, làm đẹp và làm tóc, thực phẩm chức năng cao cấp. Họ đi đến đâu cũng lừa lọc đảo điên, đi đến đâu cũng tìm người cùng loại với mình, thấy ai cùng loại với mình thì tâm đầu ý hợp, trong khi đó lại chẳng qua lại với các anh chị em đích thực. Ở trong hội thánh, họ là thứ lạc loài, là thứ không phải người. Thấy dạng người này thì ngươi phải tránh xa. Ngoài ra, nếu đa số mọi người chưa phân định được, hoặc lãnh đạo chưa phân định được, lại còn cảm thấy họ là anh chị em có đức tin thật, thì các ngươi phải đứng ra vạch trần họ và thanh lọc họ đi. Các ngươi đã hiểu chưa? Tại sao cần thanh lọc loại người này? (Thưa, vì loại người này mà ở trong hội thánh thì dễ gây nhiễu loạn, đem lại bầu không khí không tốt, có thể ảnh hưởng đến việc làm bổn phận và mưu cầu lẽ thật của người khác.) Đúng vậy, họ phá hoại bầu không khí của hội thánh. Bản thân họ không mưu cầu lẽ thật, mà còn muốn làm ảnh hưởng người khác, níu chân người khác. Họ làm việc đáng một đồng tiền công mà lại đòi tiền công mười đồng. Ngươi dùng dạng người này thì còn không bằng nuôi chó. Nuôi chó thì nó trông nhà trông cửa, còn có lòng trung thành với chủ! Nó không giở trò sau lưng người ta, nên ngươi khỏi phải lo hậu họa về sau. Nếu trong hội thánh nuôi dưỡng một người trọng phú khinh bần, thì sẽ có hậu quả gì? Họ có thể giúp đỡ cho dân được Đức Chúa Trời sao? Họ có thể đem lại lợi ích cho người khác sao? (Thưa, không thể.) Một khi họ bị tỏ lộ rồi, khi mọi người đều nhìn thấu họ rồi, thì nên thanh lọc họ đi. Nếu còn cho cho họ ở lại, thì họ chỉ gây gián đoạn và nhiễu loạn, chỉ quấy phá, chỉ đem lại tai họa cho hội thánh mà thôi. Chờ đến lúc họ gây đại họa rồi, ngươi mới thu dọn tàn cục thì phiền phức rồi. Chúng ta đâu muốn phiền phức, chúng ta muốn yên tâm. Việc và bổn phận người ta nên làm thì nhiều, đừng chuốc lấy những phiền phức này.
Còn có một loại người nữa: thích bợ đỡ ai quyền thế. Người bợ đỡ ai quyền thế thì có tốt không? (Thưa, không tốt.) Không tốt ở chỗ nào? Loại người này quá xu nịnh. Thấy ai có địa vị là họ không ngừng bợ đỡ, chủ động nói chuyện và tâm sự với người ta, nấu ăn, giặt áo quần và dọn vệ sinh cho người ta, việc gì họ cũng sẵn lòng làm. Nếu ngươi không có địa vị, họ mà thấy ngươi thì cũng giả vờ không thấy, ngươi mà chủ động tiếp cận họ, thì họ vừa thấy ngươi là nét mặt liền khó chịu. Loại người này có tốt hay không? Nên quy loại vấn đề này vào phương diện nào? (Thưa, loại người này có nhân cách thấp hèn, nhân tính thì kém.) Nhân tính của họ không tốt, nhân cách thì thấp hèn. Nhân tính của họ không tốt đến mức độ nào? (Thưa, không có nhân cách hay tôn nghiêm.) Loại người chủ động bợ đỡ ai quyền thế thì có phải là người lương thiện không? (Thưa, không phải.) Vậy họ là loại người gì? Người thích bợ đỡ ai quyền thế thì có phẩm cách nhân tính như thế nào? Họ có hai bộ mặt khác nhau để đối đãi với cùng một người. Họ chẳng sợ người khác nhìn thấu, còn tự nhiên thể hiện bản thân như không có chuyện gì. Loại người này có liêm sỉ không? (Thưa, không có.) Loại người không có liêm sỉ thì có thể bị quy vào loại kẻ ác không? (Thưa, có thể.) Tại sao có thể quy họ vào loại kẻ ác? Họ có hai bộ mặt khác nhau trong cách đối đãi với người khác. Chúng ta hãy phân tích căn nguyên hai bộ mặt khác nhau này của họ. Loại người này đặc biệt yêu thích địa vị, yêu thích người có thân phận và quyền thế. Thấy ai có địa vị là họ liền cười tươi rạng rỡ, bảo gì nghe nấy, nịnh nọt và bợ đỡ người ta không chút do dự, lấy lòng người ta mà không chút xấu hổ. Bất kể là vì họ muốn lấy lòng người khác, hay là họ có ý định và mục đích khiến người khác đánh giá cao và đề bạt họ, thì tóm lại thái độ của họ đối với người khác có vấn đề và trái với nguyên tắc lẽ thật. Vậy tại sao họ có dạng thái độ này đối với người có địa vị? (Thưa, họ làm vậy vì lợi ích của bản thân.) Chuyện này chứng tỏ họ đặc biệt yêu thích địa vị. Bản thân họ không có năng lực, hoặc không có tư cách, điều kiện, hay cơ hội để đạt được địa vị. Nhưng nhờ việc bợ đỡ và thân cận với người có địa vị, họ cũng có thể thỏa mãn dục vọng về địa vị của mình. Do đó, họ sẽ có thể không chút ngần ngại và mặt dày vô sỉ mà bợ đỡ, lấy lòng người khác. Nhân cách như vậy thì quá thấp hèn rồi. Họ không quan tâm người có địa vị này là dạng người thế nào, không phân định xem người này có nhân tính tốt hay không, có phải là kẻ ác hay không. Chỉ cần người này có địa vị, có tiền, thì cho dù người này là kẻ ác, họ cũng muốn bợ đỡ. Như vậy chẳng phải là quá thiếu nguyên tắc rồi sao? (Thưa, phải.) Với họ, người có địa vị thì nói gì cũng đúng, cũng hay, nói kiểu gì cũng được, chỉ cần là người có địa vị thì sẽ được họ đối tốt. Họ chẳng có chút nguyên tắc nào, lại còn tốt với người đó đến mức bất thường, như vậy thì họ chẳng có chút liêm sỉ gì để nói đến. Họ mặc kệ cái nhìn của người khác, cũng mặc kệ đánh giá của người khác. Người khác nhìn nhận họ thế nào, họ cũng không xem ra gì. Trong lòng họ nghĩ: “Tôi cứ thích người có địa vị đấy, tôi cứ tốt với họ đấy. Có địa vị thì có gì không tốt chứ? Các người chẳng có địa vị, thì đâu xứng để tôi đối tốt với các người!” Loại người này không có nguyên tắc, không có tôn nghiêm, mặc kệ người khác nhìn nhận mình thế nào, cũng mặc kệ Đức Chúa Trời đánh giá mình thế nào. Họ là người có nhân cách thấp hèn. Khi họ hành động như vậy, thì lương tâm của họ không có tri giác, lý trí của họ cũng chẳng có tiêu chuẩn để phân xét. Họ chẳng có ranh giới tối thiểu, làm người thì yếu bóng vía. Khi gặp người có địa vị, thì họ liền co lại, biến thành nô lệ, thành cháu chắt của người ta. Ai có địa vị thì thành tổ tiên của họ. Dạng người này có nhân cách hay tôn nghiêm không? (Thưa, không có.) Họ nói ra bao nhiêu lời sến súa với người có địa vị cũng được, đứng trước mặt bao nhiêu người, họ đều dám nói như vậy. Họ mặc kệ cái nhìn của người khác, mặc kệ người khác nhìn nhận họ thế nào, họ chỉ nhắm đến thỏa mãn dục vọng của bản thân mà thôi. Đấy là biểu hiện của họ đối với người có địa vị. Nhưng khi người có địa vị đó bị mất địa vị rồi thì sao? Thì họ sẽ đổi sang bộ mặt khác. Họ sẽ đối đãi với người đó như thế nào? (Thưa, họ sẽ ngay lập tức không thèm quan tâm nữa.) Mặt họ liền sa sầm, thái độ thì khác hẳn trước đấy: “Anh không còn địa vị nữa mà vẫn muốn tôi đối tốt với anh hả? Mơ đi!” Người đó mà muốn nhờ họ rót giúp cốc nước thì họ mặc kệ, muốn nhờ họ giúp một tay, họ cũng mặc kệ. Người đó muốn nói chuyện tâm tình với họ, thì họ nói: “Anh xứng hả? Anh có tư cách gì mà nói chuyện với tôi? Nghĩ mình là ai chứ?” Tâm tính của họ hung ác quá! Không có địa vị là phạm pháp sao? Vừa mất chức quan là con người ta thay đổi liền sao? Không còn là con người như trước nữa à? Tại sao lại không xứng nói chuyện với họ nữa? Tại sao họ không thể giúp người ta một tay chứ? Ngay cả động vật gặp phải khó khăn gì và cần con người giúp đỡ, thì vì lương tâm, người ta vẫn giúp cho, ân cần trông nom và chăm sóc cho, huống hồ gì là con người? Thế mà họ chẳng có nổi một chút tình người đó. Ngoài những biểu hiện này ra, có người còn quá đáng hơn nữa. Họ thầm nghĩ: “Trước đây, tôi đối tốt với anh là vì thấy anh có địa vị. Bây giờ anh không có địa vị nữa mà vẫn muốn tôi tôn trọng và chừa mặt mũi cho anh, nói chuyện cũng chừa lối thoát cho anh, còn muốn tôi vâng lời anh như trước đây sao? Không có cửa đâu! Tôi không giẫm đạp anh là may rồi!” Họ là thứ gì vậy? Người ta có khó khăn mà họ chẳng những mặc kệ, lại còn đạp sau lưng người ta một cái, tìm cơ hội ức hiếp và áp chế người ta. Họ là thứ người gì vậy? (Thưa, là kẻ ác.) Bộ mặt thật của kẻ ác đã lộ ra rồi phải không? Đối đãi với người có địa vị thì họ cư xử như cháu chắt của người ta, có khuôn có phép, cười tươi chào đón, nói chuyện cũng biết lựa lời nói theo. Nếu người làm quan nói có thể trồng khoai tây trên mặt trăng, thì họ sẽ tiếp lời: “Khoai tây trồng trên mặt trăng mà ăn thì ngon lắm!” Chờ đến khi người đó không còn địa vị nữa thì thái độ của họ hoàn toàn khác hẳn. Người đó nói gì, cho dù có đúng thì họ cũng chẳng nghe. Cho dù lời người đó nói có nhận thức thực sự thì họ cũng chẳng thèm quan tâm, chẳng chịu tiếp nhận, chỉ thấy người ta không vừa mắt thôi. Trong lòng họ nghĩ: “Anh không có địa vị vị thì nói gì cũng chẳng có trọng lượng. Anh nói có đúng thì cũng có ích gì chứ? Anh có thực tế lẽ thật đi nữa thì tôi cũng chẳng thích anh. Tôi chỉ thích chà đạp người không có địa vị – không chà đạp họ thì thật phí cơ hội!” Họ là thứ gì vậy? Ngươi không có địa vị thì họ thấy ngươi không vừa mắt, ngươi có tốt với họ thế nào đi nữa cũng vô ích. Ngươi có đặt họ ngang hàng với mình và đối đãi với họ theo nguyên tắc, thì cũng không thể khiến họ thay đổi thái độ với ngươi. Loại người này có nhân tính không? (Thưa, không có.) Không có nhân tính thì có những biểu hiện gì? Có phải là hung ác không? (Thưa, phải.) Người mê bợ đỡ ai quyền thế thì có tâm tính hung ác cực độ, Ta đơn giản là ghê tởm dạng người này. Trong mắt dạng người này, ngươi mà có địa vị thì khuyết điểm hay khiếm khuyết của ngươi đều trở thành ưu điểm và điểm mạnh. Còn ngươi mà không có địa vị, thì điểm mạnh và ưu điểm của ngươi đều là khuyết điểm và khiếm khuyết. Ngươi nói gì cũng chẳng có trọng lượng, họ nhìn ngươi thì thấy chỗ nào cũng không vừa mắt, luôn muốn ức hiếp ngươi, chà đạp ngươi, áp chế ngươi. Vậy chẳng phải là tâm tính hung ác sao? (Thưa, phải.) Đối với người không có địa vị, họ muốn ức hiếp thế nào thì ức hiếp thế ấy, họ cảm thấy không ức hiếp người hiền lành là có tội. Ngay cả khi ngươi không chọc vào họ, thì họ cũng có thể chủ động bới lông tìm vết, ức hiếp ngươi và chà đạp ngươi, đặc biệt xem thường ngươi. Như thể ngươi không có địa vị là có tội, là không xứng được sống, không xứng ở trước mặt họ vậy. như thể ngươi không có địa vị thì sẽ rước họa vào thân, sẽ gặp đen đủi vậy. Họ là thứ gì vậy? Loại người này có nên được cho lưu lại trong hội thánh không? (Thưa, không nên.) Người đặc biệt bợ đỡ ai quyền thế thì có thể được bầu chọn làm lãnh đạo không? (Thưa, không thể.) Tại sao lại không thể. Chính là vì họ đối đãi với người có địa vị như vậy – bản thân họ mà thực sự có địa vị rồi thì họ chẳng làm kiểu một đảng nắm quyền, duy ngã độc tôn sao? Vậy thì nguy to rồi! Sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời, các sắc lệnh quản trị của hội thánh và kiến nghị của các anh chị em, thì họ đều không nghe, thậm chí những người không có địa vị mà nói gì, làm gì thì cũng đều bị họ chèn ép. Hội thánh đó sẽ bị hủy hoại trong tay họ. Loại người này có ham muốn quyền lực cực mạnh, một khi họ được như ý nguyện rồi, thì hậu quả thật không dám nghĩ đến. Loại người bợ đỡ ai quyền thế này đặc biệt hung ác và có nhân cách đặc biệt thấp hèn. Đặc trưng chủ yếu trong tâm tính bại hoại của họ là gì? (Thưa, là hung ác.) Là tà ác, hung ác, còn có chán ghét lẽ thật. Đặc biệt tà ác nghĩa là họ có hai bộ mặt khác nhau khi đối đãi với cùng một người, biến đổi đặc biệt nhanh. Như vậy chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Người không có địa vị chẳng chọc gì họ cả, nhưng họ sẽ có thể chủ động công kích, ức hiếp và chà đạp người ta. Như vậy chẳng phải là hung ác sao? (Thưa, phải.) Bất kể người khác có địa vị hay không, họ đều không thể hành động theo nguyên tắc, không thể đối đãi với người khác một cách công bằng. Ngươi mà nói với họ: “Trong nhà Đức Chúa Trời thì lẽ thật nắm quyền, và mọi người được đối đãi một cách công bằng”, thì họ có tiếp nhận không? (Thưa, không tiếp nhận.) Họ bỏ ngoài tai, và nghĩ bụng: “Đối đãi mọi người một cách công bằng gì chứ? Người ta đơn giản là có cao có thấp, có quý có hèn, người có địa vị thì cao quý, người không có địa vị thì là thứ rẻ rách!” Đấy là lô-gic và nguyên tắc nhìn nhận, đối đãi người khác của họ. Họ không tiếp nhận nguyên tắc lẽ thật, lại còn nói lý luận lệch lạc của mình. Dạng người này chẳng phải là người chán ghét lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Họ dùng lô-gic xử thế, nguyên tắc xử thế và nhãn quang riêng của mình về việc xử thế mà tiếp cận địa vị và quyền thế, dùng nguyên tắc và phương thức xử thế của riêng mình mà xử lý những chuyện này, mà thay thế yêu cầu và nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời về chuyện đối đãi người khác. Như vậy chẳng phải là không tiếp nhận lẽ thật và công khai đối đầu lẽ thật sao? Trong lòng họ cho rằng: “Anh có địa vị rồi, thì trong lòng tôi, anh là lão đại”. Đức Chúa Trời và lẽ thật chẳng có địa vị trong lòng họ rồi. Đây là tâm tính gì? Ngang ngược đến vậy, ngoan cố một cách ngu ngốc đến vậy, thì chẳng phải là không tiếp nhận lẽ thật sao? Chẳng phải là chán ghét lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Chính là tâm tính này. Chỉ xét về nhân tính, thì dạng người này có nhân cách thấp hèn, quá đáng ghê tởm, không đáng để qua lại. Nhưng nếu xét về tâm tính, thì không chỉ là chuyện họ có đáng để qua lại hay không. Loại người này có tâm tính hung ác và tà ác, không phải là đối tượng được cứu rỗi. Họ đều phải chịu sự trừng phạt và chết, họ mang tội chết rồi. Loại người này một mực bợ đỡ ai quyền thế, có bộ mặt của con chó giữ nhà, khiến người ta thấy ghê tởm. Loại người này mà làm lãnh đạo hội thánh thì chính là một phần tử nguy hiểm. Các ngươi mà bầu chọn loại người này làm lãnh đạo hội thánh, thì các ngươi sẽ gặp tai ương. Có những lãnh đạo tiểu giáo khu ngu muội và không nhìn thấu người khác, còn có thể chỉ định loại người này làm ứng viên để bầu chọn lãnh đạo hội thánh, kết quả là khiến cho các anh chị em trong hội thánh bị bịt mắt đánh lừa. Loại người giỏi xun xoe nịnh nọt và bợ đỡ ai quyền thế, trông bề ngoài có vẻ rất nhiệt tình, lại biết nghe lời lãnh đạo răm rắp này, thì rất dễ được chọn làm ứng viên. Vì có vài lãnh đạo và người làm công thích những người xun xoe nịnh hót và a dua tâng bốc mình, chẳng nhìn thấu được loại người giả hình này một khi làm lãnh đạo hội thánh rồi thì sẽ đem lại hậu quả gì. Thường thì một khi được bầu chọn và có địa vị rồi, là loại người này lập tức lộ hung tướng và bắt đầu quấy nhiễu hội thánh. Những lãnh đạo này thấy người do mình chọn là kẻ ác thì hối hận, nhưng không có cách nào bù đắp được hậu quả mà hành động của họ gây ra cho hội thánh. Chuyện này hoàn toàn là vì lãnh đạo và người làm công có tâm tính bại hoại, làm việc không có nguyên tắc mà ra. Những người tôn sùng ai có địa vị và quyền thế thì đều không phải là người yêu thích lẽ thật. Họ thấy ai có địa vị thì bợ đỡ người đó, thấy lãnh đạo và người làm công thì cười tươi rạng rỡ. Có những lãnh đạo không chịu nổi cám dỗ này, thấy người ta cười tươi rạng rỡ thì vui vẻ quá đỗi, muốn đề bạt người ta hòng thể hiện năng lực của mình. Thực ra, người ta xun xoe họ và cười tươi rạng rỡ với họ là có ý định hiểm ác cả, thế mà họ còn cho rằng người này thật sự không tệ. Chờ đến lúc người này làm lãnh đạo rồi, thì chẳng chịu phục ai, có thấy người đã để đề bạt mình thì cũng chẳng thèm để ý. Lúc đó, lãnh đạo này mới hiểu ra rằng người này vốn không phải người tốt và mình đã đề bạt sai người rồi. Trong trường hợp đó thì nên làm thế nào? Chẳng phải nên bù đắp sao? (Thưa, phải.) Bù đắp như thế nào? (Thưa, nhanh chóng vạch trần người này, sau đó thì cách chức.) Người này không làm được công tác thực tế, là kẻ hồ đồ chỉ biết bợ đỡ và xun xoe nịnh hót ai quyền thế. Lãnh đạo nên nhanh chóng cách chức người này, và hối hận vì bản thân lúc đó đã mù mắt mù lòng, không biết phân định người và dùng sai người, bây giờ nhanh chóng bù đắp vẫn còn kịp. Đối với loại người bợ đỡ ai quyền thế, các ngươi đã nhìn thấu được chưa? (Thưa, đã nhìn thấu được rồi.) Loại người này chẳng phải thứ tốt gì.
Tiếp theo, chúng ta hãy nói một chút về biểu hiện liên quan đến điều kiện bẩm sinh. Có năng lực ghi nhớ phi thường thì thuộc phương diện biểu hiện nào? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Trí nhớ đặc biệt tốt, ghi nhớ thì chuẩn, nhớ các bài văn, các đoạn lời Đức Chúa Trời, thánh ca hoặc một sự sắp xếp công tác nào đó đặc biệt rõ ràng và chuẩn xác – như vậy thì được quy vào phương diện nào? (Thưa là tố chất tốt, nằm trong điều kiện bẩm sinh.) Đây là điều kiện bẩm sinh, còn về chuyện quy nó vào mục cụ thể nào trong điều kiện bẩm sinh, thì Ta cảm thấy không nên quy nó vào tố chất. Nếu chỉ là năng lực ghi nhớ tốt, có thể ghi nhớ các chuyện, ghi nhớ nhiều, chuẩn và chắc chắn, thì nó cùng lắm là nằm trong phạm trù sở trường, bản lĩnh và năng lực. Còn về chuyện tố chất người ta tốt hay không tốt, thì phải nhìn xem năng lực lý giải của họ như thế nào. Nếu người ta có năng lực ghi nhớ đặc biệt tốt, đối với một đoạn ca từ, một đoạn tri thức và đạo lý, hoặc một kỹ năng nghiệp vụ thì họ có thể ghi nhớ đặc biệt tốt, nhanh và chắc chắn, nhưng những thứ mà họ ghi nhớ chỉ là một vài thứ cứng đờ mang tính quy định, chứ không liên quan đến nguyên tắc lẽ thật, không thể được vận dụng và thực hiện trong cuộc sống thực tế hoặc công tác – nếu họ chỉ đơn giản là có năng lực ghi nhớ tốt – vậy thì đây chỉ là sở trường và năng lực nằm trong điều kiện bẩm sinh, chứ không lên đến mức độ tố chất. Chúng ta vừa mới nói tố chất là gì? (Thưa, là hiệu suất và hiệu quả khi làm việc.) Nếu ngươi có năng lực ghi nhớ tốt, tố chất cũng tốt, thì ngươi nên có những biểu hiện và đặc trưng nào? Chính là ngươi nghe được một thứ gì đó, với nền tảng là có thể ghi nhớ chính xác thứ đó, ngươi còn có thể nắm được điểm mấu chốt, tìm ra được nguyên tắc, tìm ra con đường thực hành và phương án thực hiện, sau đó có thể vận dụng chúng một cách thực tế trong cuộc sống hiện thực và công tác, làm việc có hiệu suất và hiệu quả. Nghĩa là những lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật mà ngươi ghi nhớ không dừng lại ở tầm mức lý luận, mà được ngươi thực hiện vào trong bổn phận và trở thành thực tế lẽ thật của ngươi, đem lại kết quả trong công tác mà mọi người có thể thấy được, đồng thời cũng nâng cao hiệu suất công tác – như vậy thì ngươi không những có trí nhớ tốt, mà còn có tố chất tốt. Không phải có năng lực ghi nhớ tốt là có tố chất tốt. Thay vào đó, có năng lực lý giải, khi gặp chuyện thì có thể tìm kiếm lẽ thật, có thể tìm được nguyên tắc thực hành lẽ thật, thực hiện công tác không sai lệch, lại còn thực hiện một cách chính xác, nhanh chóng và có hiệu quả – như vậy mới gọi là có tố chất tốt. Có tố chất tốt không phải là chuyện ngươi hiểu được một vài đạo lý và đạt đến việc có thể nói lưu loát về chúng. Thay vào đó, có tố chất tốt là chuyện sau khi hiểu và nắm vững một vài lẽ thật rồi, ngươi có thể vận dụng chúng một cách linh hoạt trong khi làm công tác và bổn phận, biến chúng thành một phần trong cuộc sống hiện thực của ngươi, biến chúng từ lý luận thành thực tế, để cho các nguyên tắc lẽ thật có tác dụng và đạt kết quả trên người ta, đem lại ích lợi và điều tốt cho người ta – như vậy gọi là có tố chất. Còn chỉ dừng lại ở mức hiểu câu chữ và đạo lý, chứ chẳng biết thực hiện công tác, không tìm được nguyên tắc hay biện pháp – nghĩa là nguyên tắc lẽ thật đó vĩnh viễn là một dạng lý luận với ngươi, và ngươi chẳng có biện pháp, chẳng có phương thức hay con đường nào để biến nó thành thực tế – vậy chính là không có tố chất, hoặc là có tố chất kém. Trí nhớ của ngươi có tốt đến đâu, thậm chí là vượt quá người thường, đến mức gần như dị năng, thì cái đó cũng không đồng nghĩa với chuyện ngươi có tố chất tốt. Tố chất tốt là nói đến điều gì? Dùng cái gì để đánh giá tố chất tốt? (Thưa, là nhìn xem người ta có thể lý giải được nguyên tắc của công tác hay không, có thể thực hiện nguyên tắc đó đến nơi đến chốn và đạt được kết quả hay không.) Nghĩa là nhìn vào hiệu suất và hiệu quả, phải vậy không? (Thưa, phải.) Có những người ghi nhớ sự sắp xếp công tác rất nhanh, rất chuẩn, cũng có thể lý giải sự sắp xếp công tác về mặt lý luận. Nhưng đến khi thực hiện, mà có người hỏi họ: “Công tác này nên làm thế nào? Anh có ý tưởng, có phương án gì không? Có trình tự gì không?”, thì họ nói: “Không có, tôi không biết làm.” Như vậy thì không phải là có tố chất, cùng lắm thì đó chỉ là một sở trường mà thôi. Ta nhớ là khi thông công lần đầu về chủ đề này, chúng ta đã nói về vấn đề này rồi. Có lẽ các ngươi quên rồi, lần này, các ngươi lại quy năng lực ghi nhớ phi thường vào phạm trù tố chất. Luôn lý giải sai lầm về sở trường và bản lĩnh của của người ta, luôn quy một sở trường hoặc bản lĩnh nào đó vào trong phạm trù tố chất tốt, như vậy là sai trầm trọng. Nếu giải quyết được vấn đề này và các ngươi biết được sở trường là gì, bản lĩnh hay năng lực là gì, và tố chất thực sự là gì, thì sẽ có ích cho việc phân định con người và sự tiến bộ trong lối vào sự sống của bản thân. Ít nhất, nó có thể khiến tâm tính kiêu ngạo của ngươi được kiềm chế phần nào, không còn vì bản thân biết ca hát, biết nhảy múa, mà nhận lầm rằng bản thân có tố chất tốt quá chừng quá đỗi. Bây giờ, các ngươi còn có thể đánh giá kiểu đó nữa không? (Thưa, không.) Vậy người biết ca hát cần có điều gì thì mới là có tố chất tốt? (Thưa, cần có năng lực lĩnh hội, biết hát như thế nào là phù hợp nguyên tắc, và phải có ngộ tính.) Ngộ tính là điều rất then chốt. Ngươi xem, người ta cùng biết một vài lý thuyết âm nhạc như nhau, nhưng khi hát ra thì hiệu quả lại khác nhau. Có những người có thể tìm tòi và tìm kiếm con đường cho việc hát, họ nghe các bài hát khác nhau, các giai điệu khác nhau, còn nghe các phong cách hát khác nhau của những người khác nhau, nghe xem cách hát nào có thể làm cảm động và đem lại sự hưởng thụ cho người khác. Từ trong quá trình này, họ tìm ra được một chút cảm giác nào đó, rồi dựa vào cảm giác đó mà tiếp tục tìm tòi và rèn luyện. Sau một thời gian thì họ cảm thấy mình hát tốt rồi, mọi người cũng sẵn lòng nghe họ hát. Họ dần dần tiếp tục đối chiếu cái này với lý thuyết, và xác định được rằng con đường thực hành này là đúng. Họ có thể tìm tòi con đường thực hành để thay đổi phương thức ca hát, thay đổi cách hát sai lầm của mình lúc trước. Sau đó, họ có thể tiến thêm một bước, thực hiện và vận dụng những thứ tốt, đúng, và tích cực mà mình đã tìm tòi được vào trong việc ca hát của mình. Họ có thể ngộ ra được hát như thế nào là đúng, hát như thế nào là sai, hát như thế nào thì đem lại cảm giác tốt, hát như thế nào thì đem lại cảm giác không tốt. Như vậy là có tố chất tốt. Nếu họ chỉ biết về mặt lý thuyết, nhưng đến lúc hát thì không kết hợp được với lý thuyết, sự lĩnh hội của họ còn lệch lạc, thì đó chính là tố chất không tốt. Ngươi xem, có vài người ca hát – khi người khác nói rằng họ dùng giọng giả để hát, thì họ có thể tiếp thu, sau khi rèn luyện một hai năm thì họ đã có sự xoay chuyển. Mặc dù họ hát không quá thành thục, nhưng họ đã hát đúng tông đúng giọng của mình rồi. Nhưng có những người dùng giọng giả để hát, người khác nghe ra được rõ ràng là vậy, thế mà họ vẫn cảm thấy bản thân đang dùng giọng thật, đang hát đúng tông đúng giọng của mình – họ không phân biệt rõ được sự khác biệt này. Vậy thì họ không có tố chất, không có ngộ tính, không ngộ ra được. Đây chính là điểm khác biệt giữa tố chất và sở trường. Ngươi giỏi ca hát, thì đó là sở trường của ngươi, là điều kiện bẩm sinh. Tuy nhiên, việc ngươi có thể hát hay, có thể ngộ ra được tinh túy, nguyên tắc và điểm cốt yếu trong lĩnh vực này và nghề nghiệp này hay không, thì đó là vấn đề về tố chất. Nếu ngươi có thể ngộ ra được tinh túy, điểm cốt yếu và nguyên tắc, thì ngươi sẽ có thể trở thành ca sĩ, thành danh ca. Nếu ngươi thích ca hát, học cũng nhanh, nắm vững chuẩn về giai điệu, nhịp điệu và chuẩn âm, thì chỉ có thể nói đó là sở trường bẩm sinh, là ngươi giỏi về kỹ năng nghiệp vụ này. Tuy nhiên, vì ngươi có tố chất rất thường, rất có hạn, mãi chỉ có thể dừng lại ngang phạm trù sở trường này, chứ không đạt đến việc nắm vững điểm mấu chốt, không đạt đến việc trở thành ca sĩ thực thụ hay danh ca, thì đây chính là chịu sự hạn chế bởi tố chất. Người có tố chất tốt thì có tiềm lực, có chỗ cho sự phát triển, còn người có tố chất trung bình và kém thì không có tiềm lực hay chỗ cho sự phát triển. Do đó, bất kể ngươi có sở trường về phương diện nào, chỉ cần ngươi có tố chất kém thì tất nhiên ngươi sẽ chịu sự hạn chế bởi tố chất. Ngươi có giỏi đến thế nào trong một phương diện nào đó, có thích và hứng thú với phương diện nào đó đến đâu đi nữa, nhưng vì có tố chất kém, nên ngươi cũng chẳng có bất kỳ tiềm lực phát triển nào. Chuyện này là bởi ngươi không vượt qua tố chất của mình được. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Ta nói như vậy rồi, thì các ngươi có thể mất tự tin trong việc ca hát không? Ta chỉ đang nói chuyện đang bàn, khi đang thông công về sự khác biệt giữa tố chất và sở trường và thì đem sở trường này của các ngươi ra làm ví dụ. Nhưng nhà Đức Chúa Trời không yêu cầu các ngươi thành danh ca thực thụ, phải hát chuẩn đến mức độ nào, phải hát có phong cách gì, hay phải có thành công lớn – không cần đạt đến những chuyện này. Các ngươi cứ dựa vào tố chất và sở trường vốn có của mình mà phát huy chúng cho tốt là được rồi. Chỉ cần có sự bộc lộ chân tình, có lòng thành là được rồi. Đừng vì Ta nói trong các ngươi có vài người có tố chất kém hoặc tố chất quá thường, không có chỗ để phát triển, mà các ngươi nản lòng và từ bỏ, không cần như vậy. Các ngươi có nản lòng không? (Thưa, không.) Phải tiếp cận đúng đắn với chuyện này. Nếu Ta không lấy chuyện của chính các ngươi làm ví dụ, thì có khả năng các ngươi không cảm nhận được, cũng không nhận biết thấu triệt cho lắm, và Ta nói như thế nào, các ngươi cũng chẳng nhập tâm. Để khiến các ngươi nhận biết cho thấu triệt, ta phải đưa ra vài ví dụ để mọi người nghe xong thì sẽ hiểu rõ hơn. Làm vậy thì các ngươi sẽ lý giải chính xác hơn phần nào về khác biệt giữa tố chất và sở trường. Các ngươi có phiền với cách thông công này không? (Thưa, không phiền.) Không phiền là được. Hãy tiếp cận cho đúng đắn với chuyện này. Nên luyện tập thế nào thì cứ luyện tập như vậy. Ngươi hãy để tâm mà luyện tập, hướng tới mục tiêu và phương hướng tốt mà luyện tập, như vậy thì luôn tốt hơn giậm chân tại chỗ và chùn chân bó gối. Ngay cả khi tố chất ngươi có hạn hoặc kém, thì ngươi vẫn phải nỗ lực luyện tập, cố đạt đến những gì bản thân có thể đạt đến trong phạm vi tố chất hữu hạn của mình. Chúng ta phải tận tâm, tận lực, mang thái độ có trách nhiệm và trung thành mà làm bổn phận và hạng mục công tác này. Đây là nguyên tắc thực hành nên có. Không được vì sở trường của mình không có tiềm lực phát triển và sau này không được nở mày nở mặt, mà tiêu cực và từ bỏ. Như vậy là không được, như vậy rõ ràng không phải là nguyên tắc lẽ thật ngươi nên có khi đối đãi với chuyện này. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)
Trong ba phương diện điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại đều có nhiều nội dung cụ thể cần hiểu rõ. Có cần thiết phải thông công về những chuyện này không? (Thưa, có.) Có rất nhiều phương diện mà người ta đều hiểu nửa vời và không nói rõ ràng được. Người ta có chút sở trường thì đã cảm thấy nhân cách của mình cao thượng, cảm thấy mình tôn quý và không có tâm tính bại hoại, cảm thấy mình có nhân tính tốt và tố chất cao. Chuyện này đều do người ta phân biệt không rõ về các vấn đề khác nhau này mà ra. Các loại vấn đề này mà càng liên quan đến chi tiết, thì nội dung thông công càng nhiều, nói một hai buổi thì không xong, nên phải thông công nhiều lần. Được rồi, hôm nay chúng ta thông công đến đây thôi. Tạm biệt!
Ngày 14 tháng 10 năm 2023