Cách mưu cầu lẽ thật (3)
Suốt thời gian qua, chúng ta liên tục thông công về chủ đề mưu cầu lẽ thật. Nội dung liên quan đến chủ đề mưu cầu lẽ thật này rất rộng, nhưng bất kể nội dung có rộng đến đâu, cũng không thể tách rời những vấn đề liên quan đến chuyện nhìn nhận con người và sự việc, làm người và làm việc, mà người ta gặp phải trong cuộc sống thường nhật, phải vậy không? (Thưa, phải.) Những chuyện này đều là vấn đề hiện thực mà người ta gặp phải trong cuộc sống, không thoát ly khỏi cuộc sống thường nhật của con người, cũng không thoát ly khỏi nhân tính bình thường của con người. Những vấn đề này bao gồm thái độ và quan điểm của con người đối với các loại chuyện, còn có đủ loại đại sự mà người ta gặp phải trong sự sinh tồn và con đường cuộc đời của mình. Nội dung của lần thông công trước liên quan đến một phương diện thực hành của “buông bỏ” trong “Cách mưu cầu lẽ thật” – buông bỏ những rào cản giữa bản thân và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài. Việc thực hành này liên quan đến những gì? Liên quan đến mối quan hệ giữa người ta với Đức Chúa Trời, phải vậy không? (Thưa, phải.) Nội dung của mấy lần thông công trước liên quan đến cách người ta nên nhìn nhận các loại con người và sự vật theo nguyên tắc và tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu, cũng như cách xử lý các loại con người và sự vật. Nội dung của lần thông công trước liên quan đến mối quan hệ giữa con người với Đức Chúa Trời, nói cho người ta biết nên buông bỏ đủ loại quan niệm và tưởng tượng không hợp tâm ý của Đức Chúa Trời, không hợp yêu cầu của Đức Chúa Trời và không hợp nguyên tắc lẽ thật như thế nào. Những quan niệm và tưởng tượng này là vấn đề hiện thực tồn tại giữa con người và Đức Chúa Trời trong con đường tin Đức Chúa Trời và quá trình sinh tồn của con người. Chủ đề lớn “buông bỏ những rào cản giữa bản thân và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài” này được chúng ta chia ra thành bốn phương diện: Một là quan niệm và tưởng tượng, hai là yêu cầu vô lý, ba là đề phòng và nghi kỵ, bốn là nghiên cứu và thăm dò. Chúng ta đã mở đầu thông công với quan niệm và tưởng tượng. Điều thứ nhất, quan niệm và tưởng tượng, có liên quan đến công tác của Đức Chúa Trời – nghĩa là nó nói đến chuyện người ta có những quan niệm và tưởng tượng nào về công tác của Đức Chúa Trời. Chúng ta đã thông công đôi chút về chuyện này rồi. Mối thông công của chúng ta về phương diện này liên quan đến cách người ta nhìn nhận công tác của Đức Chúa Trời, đến chuyện nhận thức và cách nghĩ của con người về công tác của Đức Chúa Trời có những lệch nào nào, có những quan niệm và tưởng tượng nào. Những quan niệm và tưởng tượng này là thứ mà người ta nên buông bỏ. Khi buông bỏ những quan niệm, tưởng tượng này, và tìm kiếm lẽ thật, người ta sẽ có thể nhận thức được công tác của Đức Chúa Trời và có sự lĩnh hội thuần khiết về lời Đức Chúa Trời. Khi công tác của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người, thì người ta nên phản tỉnh và nhận biết bản thân, cũng nên buông bỏ những quan niệm và tưởng tượng của mình, chứ đừng có dựa vào quan niệm và tưởng tượng của bản thân mà nhận định rằng công tác của Đức Chúa Trời nên như thế này thế kia, hoặc Đức Chúa Trời muốn đạt hiệu quả như thế nào khi công tác trên người ta. Quan niệm và tưởng tượng của người ta về phương diện công tác của Đức Chúa Trời có ảnh hưởng trực tiếp đến lối vào sự sống của người ta và thái độ của người ta đối với Đức Chúa Trời. Do đó, quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời cũng là điều mà người ta buộc phải buông bỏ. Chẳng hạn như, chúng ta đã thông công rằng Đức Chúa Trời không thay đổi những phương diện như tố chất, tính cách, bản năng, v.v. vốn có của người ta. Những thứ như bẩm tính có từ khi sinh ra và bản năng của xác thịt không phải là đối tượng mà Đức Chúa Trời nhắm đến khi công tác. Điều mà Đức Chúa Trời nhắm đến khi công tác chính là tâm tính bại hoại của con người, là những thứ phản nghịch Đức Chúa Trời và không tương hợp với Đức Chúa Trời của con người. Nếu người ta tưởng tượng rằng khi công tác, Đức Chúa Trời muốn thay đổi tố chất và bản năng của con người, thậm chí là thay đổi tính cách, thói quen, quy luật sinh hoạt, v.v. của con người, thì đủ mọi mặt trong việc thực hành của người ta trong đời sống sẽ bị những quan niệm và tưởng tượng này ảnh hưởng và chi phối, sẽ không tránh khỏi có rất nhiều chỗ lệch lạc hoặc rất nhiều thứ cực đoan. Những chỗ lệch lạc và những thứ cực đoan này không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, chúng sẽ khiến người ta rời xa lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, thoát ra khỏi quỹ đạo của nhân tính bình thường. Chẳng hạn như, trong quan niệm và tưởng tượng của mình, ngươi cho rằng Đức Chúa Trời muốn thay đổi tố chất và năng lực của con người, thậm chí là thay đổi bản năng của con người, nếu ngươi cho rằng Đức Chúa Trời muốn thay đổi những thứ này, vậy thì ngươi sẽ có dạng mưu cầu như thế nào? Ngươi sẽ có sự mưu cầu lệch lạc và cố chấp, ngươi sẽ muốn mưu cầu tố chất cao, chú trọng học tập đủ loại kỹ năng, nắm vững đủ loại tri thức để khiến cho bản thân vươn đến mức có tố chất cao và năng lực cao, có kiến thức và sự tu dưỡng cao, thậm chí là có bản lĩnh cao hơn người thường – như vậy thì ngươi sẽ chú trọng vào năng lực và tài cán bề ngoài. Dạng mưu cầu như vậy đem lại cho người ta hậu quả gì? Như vậy thì người ta chẳng những không thể đi lên con đường mưu cầu lẽ thật, mà ngược lại sẽ đi con đường của những người Pha-ri-si. Người ta sẽ so đọ với nhau xem ai có tố chất cao, ai có ân tứ cao, ai có tri thức cao, ai có bản lĩnh lớn, ai có nhiều sở trường, ai có uy thế cao hơn giữa mọi người, được mọi người ngưỡng vọng và xem trọng. Như vậy thì người ta chẳng những không thể thực hành lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc lẽ thật, mà ngược lại, sẽ đi theo con đường dẫn đến rời xa lẽ thật.
Công tác của Đức Chúa Trời là để biến đổi tâm tính bại hoại cùng đủ loại tư tưởng, quan điểm sai lầm và trái lẽ thật của con người trong phạm vi của nhân tính bình thường, để cho lương tâm và lý trí của con người có thể được khôi phục và hoàn thiện. Nghĩa là ngươi càng hiểu lẽ thật thì lương tâm và lý trí của ngươi càng bình thường, còn tiếp tục phát triển theo phương hướng tốt nữa, chuyện này chẳng có gì siêu nhiên cả. Cái “bình thường” này là nói đến điều gì? Người ta mà có lương tri, có ý thức chính nghĩa, thì sẽ trở nên lương thiện – nói theo lối của con người thì nghĩa là người ta sẽ thông hiểu, chính trực, thấu tình đạt lý, không lệch lạc và cố chấp. Đây là hiệu quả mà Đức Chúa Trời muốn đạt đến về phương diện nhân tính. Người ta ngày càng hiểu lẽ thật thì một hiệu quả phụ có được chính là nhân tính của họ ngày càng bình thường. Nhưng nếu người ta mưu cầu theo quan niệm và tưởng tượng của mình, thì quan niệm và tưởng tượng của họ sẽ đem lại rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực và sự chỉ dẫn tiêu cực cho sự mưu cầu của họ, sẽ khiến họ dấn bước vào đủ loại con đường lệch lạch, cố chấp, cực đoan và sai lầm. Chẳng hạn như, trong quan niệm và tưởng tượng của mình, con người cho rằng công tác của Đức Chúa Trời là để nâng cao nhân tính của con người, để khiến người ta vượt quá bản năng, tố chất thậm chí là cả tuổi tác và giới tính của con người. Người ta mà có quan niệm như vậy thì sẽ mưu cầu, nỗ lực và mò mẫm theo phương hướng này. Dạng người như vậy thì sẽ chú trọng những điều gì? Một mặt, họ sẽ chú trọng tri thức, năng lực, bản lĩnh, ân tứ và tài cán, mặt khác, họ sẽ chú trọng những điều siêu nhiên. Có những biểu hiện siêu nhiên nào, các ngươi có biết không? (Thưa, có phải siêu nhiên nghĩa là trong chuyện gì đó, người ta trực tiếp phát sinh sự biến hóa về chất mà không cần trả giá hay không?) Cũng giống như chuyện có những người, bình thường thì không đọc lời Đức Chúa Trời, nhưng đến khi gặp chuyện thì đột nhiên lời Đức Chúa Trời hiện lên trong đầu, hoặc có những người vốn không biết ca hát hay nhảy múa, vậy mà khi được khích lệ thì đột nhiên có thể ca hát và nhảy múa, lại còn nhảy rất đẹp, hoặc có người chẳng bao giờ học ngoại ngữ nào, đột nhiên lại nói được một ngoại ngữ. Những chuyện này có phải là siêu nhiên không? (Thưa, phải.) Chẳng hạn như, ngươi có chuyện gấp cần ra ngoài, nhưng lại không biết lái xe, vì sự tình quá cấp bách, nên ngươi cầu nguyện một hồi thì cảm thấy nhiệt huyết dâng trào, đột nhiên biết lái xe luôn, đã vậy còn lái xe đằm như tài xế lão luyện. Người khác hỏi: “Làm sao anh lái xe giỏi vậy?” Ngươi nói: “Tôi cũng không biết, đây đều là việc Đức Chúa Trời làm, là do được Đức Thánh Linh làm cho cảm động. Anh xem, đôi tay này của tôi chẳng phải là tay của tôi nữa, chúng được Đức Thánh Linh nắm giữ rồi!” Thực ra, đây không phải là việc Đức Thánh Linh làm, mà là do một dạng linh nào đó nhập vào ngươi và thao túng ngươi, thế là ngươi biến thành một người khác, bản thân ngươi không còn điều khiển được mình nữa. Chuyện này có phải là vượt quá bản năng rồi không? Có phải là siêu nhiên không? (Thưa, phải.) Siêu nhiên có nghĩa là gì? Có phải hiện tượng tốt không? (Thưa, không, nó khiến người ta không còn bình thường nữa.) Ngươi không thông qua một khoảng thời gian học tập, cũng không có người trong ngành nào chỉ dẫn, mà đột nhiên biết một ngôn ngữ, biết một kỹ năng hoặc hiểu một dạng tri thức, thì đó là siêu nhiên. Người ta không cần mưu cầu lẽ thật, không cần tìm kiếm hay chờ đợi, cũng không cần trải nghiệm, vậy mà sau đó lại nói là tâm tính sự sống của mình đã biến đổi rồi, đây có phải là chuyện đáng sợ không? (Thưa, phải.) Nếu trong lòng và trong tiềm thức của ngươi còn tồn tại nhiều thứ thuộc về quan niệm và tưởng tượng, thì ngươi nên buông bỏ, đừng mưu cầu chúng. Bởi vì chúng không phải là nhận thức thực sự về công tác của Đức Chúa Trời, cũng không phù hợp với phương thức và nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ không làm công tác vượt quá nhân tính bình thường của ngươi. Hơn nữa, hiệu quả mà công tác của Đức Chúa Trời đạt được nơi ngươi tuyệt đối sẽ không phải là làm cho nhân tính bình thường của ngươi trở thành nhân tính siêu nhiên và được nâng cao. Ngoài ra, Đức Chúa Trời cũng sẽ không khiến ngươi từ một người bình thường thành một dị nhân. Cứ cho là trong quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, lương tâm của ngươi ngày càng nhạy cảm, ngày càng biết liêm sỉ, tâm địa cũng trở nên lương thiện, có thể quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, có thể bảo vệ công tác của hội thánh và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, hơn nữa ngươi nói năng và hành động không trái với lương tâm và lý trí, dần dần có thể đạt đến hành động dựa theo nguyên tắc lẽ thật, có thể dựa vào lời Đức Chúa Trời mà nhận diện các loại con người, sự việc và sự vật, vậy thì chứng tỏ con đường ngươi đi khi tin Đức Chúa Trời là đúng đắn. Nhưng nếu trong lúc cầu nguyện mà ngươi còn chú trọng chuyện nghe được âm thanh gì đó, trong lúc hướng về Đức Chúa Trời để tìm kiếm và cầu xin mà ngươi còn chờ đợi linh cảm, ánh sáng chói lòa hoặc sự mặc khải siêu nhiên nào đó, hơn nữa, lương tâm và lý trí của ngươi chưa được khôi phục và sửa đổi chút nào, chưa đạt đến mức có ý thức chính nghĩa và có thể thuận phục Đức Chúa Trời, vậy thì chứng tỏ rằng sự mưu cầu của ngươi và con đường ngươi đi có vấn đề, cũng có thể nói rằng ngươi căn bản chưa đi trên con đường mưu cầu lẽ thật. Trong tiềm thức, ngươi còn thường xuyên mưu cầu trở nên một người siêu nhiên, còn thường xuyên cảm thấy bản thân nên siêu thoát xác thịt – không ăn cũng không đói, mấy ngày không ngủ nghỉ gì cũng không mệt mỏi hay buồn ngủ – thậm chí ngươi còn mưu cầu chuyện vào những lúc cần thiết thì đột nhiên hiểu và nắm rõ những thứ ngươi vốn không hiểu và chưa học qua trong quá làm bổn phận. Những tưởng tượng về chuyện siêu nhiên này đều đến từ quan niệm và tưởng tượng của con người. Bởi vì chưa trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, nên tự nhiên người ta sẽ tràn đầy tưởng tượng về công tác của Ngài. Thực ra, công tác của Đức Chúa Trời là hiện thực và thực tế nhất. Đức Chúa Trời chẳng bao giờ dựa vào quan niệm và tưởng tượng của con người mà hành động, chẳng bao giờ làm những công tác đó nơi con người. Chỉ trong một vài tình huống đặc biệt và trên những người cực kỳ đặc biệt, Ngài mới làm một chút công tác siêu nhiên, nhưng những công tác này cũng chỉ là nhất thời, là nhu cầu do một tình huống đặc biệt, chứ không phải là phương thức công tác thường xuyên xuất hiện nơi con người trong việc cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời. Trong công tác quản lý của Ngài, Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi con người, làm cho con người thoát khỏi tâm tính bại hoại và đạt đến sự cứu rỗi. Phương thức công tác cơ bản của Ngài chính là cung ứng lẽ thật cho con người, để cho con người khi đã hiểu lẽ thật thì dựa theo nguyên tắc lẽ thật mà thực hành. Do đó, bất kể trong lòng ngươi và tiềm thức của ngươi có những quan niệm và tưởng tượng nào, bất kể quan niệm và tưởng tượng của ngươi có phù hợp lô-gic và nhu cầu tinh thần của ngươi đến đâu, bất kể là vì lý do gì, thì chúng mãi chỉ là quan niệm và tưởng tượng mà thôi. Ngươi nên buông bỏ chúng, chứ đừng bám giữ chúng. Bất kể Đức Chúa Trời làm công tác đến mức độ nào, làm bao lâu, thì con người mãi mãi là con người, sẽ không biến thành thiên sứ đâu. Cho dù ngươi có trở nên trắng từ đầu đến chân, tóc cũng trắng, mặt cũng trắng, áo quần cũng trắng, còn đeo thêm đôi cánh nữa, thì ngươi cũng không biến thành thiên sứ được – con người mãi mãi là con người thôi. Hơn nữa, “con người” nói ở đây là để chỉ người có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, chứ không phải nói đến người siêu phàm, càng không nói đến dị nhân. Những người này đều chẳng có điểm nào siêu nhiên, nhưng họ có một điểm khác biệt rõ rệt so với người ngoại đạo không tin Đức Chúa Trời: đó là họ không hành ác, họ hiểu lẽ thật rồi thì sẽ có thể đưa vào thực hành, họ hiểu được cách dựa vào lời Đức Chúa Trời, dựa theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật mà nhìn nhận con người và sự việc, làm người và hành động, chứ họ không sống dựa theo tâm tính bại hoại cùng đủ loại tư tưởng và quan điểm mà Sa-tan đã tiêm nhiễm cho con người. Bất kể trong quá trình tin Đức Chúa Trời, người ta mưu cầu theo quan niệm và tưởng tượng của mình trong bao nhiêu lâu, cảm thấy có bao nhiêu thu hoạch, thì trong mắt Đức Chúa Trời, chúng đều không được tính, đều không được Ngài ghi nhớ. Nói vậy nghĩa là gì? Nghĩa là nếu ngươi dựa theo quan niệm và tưởng tượng mà khắc chế đủ loại nhu cầu bình thường của xác thịt mình, hoặc là nỗ lực thay đổi bản năng, tố chất, năng lực, tính cách và quy luật, thói quen sinh hoạt của mình, thì bất kể ngươi có nỗ lực khắc chế và thay đổi chúng như thế nào, ngay cả khi ngươi thu hoạch được một vài kết quả, thì chúng cũng không đại diện cho việc ngươi đã có thu hoạch trên con đường thực hành lẽ thật, càng không đại diện cho việc ngươi đã là người mưu cầu lẽ thật rồi – Đức Chúa Trời không ghi nhớ những chuyện này. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)
Mặc dù quan niệm và tưởng tượng của con người là vô hình, nhìn bề ngoài thì thấy chúng không có tính cưỡng ép người ta phải nói gì, làm gì, hay là đi con đường như thế nào, nhưng tận sâu thẳm nội tâm và trong tiềm thức của người ta, chúng lại đang khống chế chặt tư tưởng và nội tâm của họ. Tại sao lại như vậy? Chính là vì những thứ người ta yêu thích và mưu cầu quá phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của họ, hơn nữa, những thứ này cũng hùa theo nhu cầu xác thịt của con người, thỏa mãn đủ loại dục vọng và lòng hiếu kỳ của con người. Chẳng hạn như, trong quan niệm và tưởng tượng, người ta cho rằng Đức Chúa Trời làm công tác là để khiến con người trở thành một người siêu phàm và khác với người thường, rằng dưới sự cảm động của Đức Thánh Linh thì người ta sẽ nói thành thạo vài ngôn ngữ. Chuyện này rõ ràng là vượt quá bản năng của con người, vượt quá phạm trù của nhân tính bình thường, nhưng đến mức độ rất lớn, nó lại thỏa mãn lòng hư vinh, hiếu kỳ và háo thắng của người ta. Nghĩa là, khi chưa đạt được lẽ thật, người ta sẽ thích thú một vài thứ siêu nhiên, những thứ siêu nhiên này sẽ khiến người ta cảm thấy bản thân mình có cảm giác tồn tại, có thể cao hơn người thường và khác với người thường – đây chính là những thứ mà nhân loại bại hoại yêu thích và khao khát. Mọi người đều hy vọng bản thân là người nổi bật trong nhân loại, là người khác với bất kỳ ai, là người duy nhất, độc nhất vô nhị, có thể khiến người khác xem trọng và ngưỡng mộ. Chẳng hạn như, trong nhân loại bại hoại có một hiện tượng là nếu thứ gì đó chỉ có một cái, thì những ai có tiền, có mặt mũi sẽ điên cuồng tranh nhau để mua, cuối cùng tranh đến mức độ nào? Đến mức cuối cùng sản phẩm này được bán ra với giá gấp mấy lần, thậm chí mấy chục lần so với giá gốc. Người mua được thứ này sẽ cảm thấy: “Xem đi, trên cả thế giới chỉ có một cái này thôi, mà tôi giành được nó rồi, chẳng phải tôi có thực lực sao? Chẳng phải tôi hơn người sao? Người khác đâu có được bản lĩnh của tôi!” Trong lòng họ sẽ cảm thấy sướng, cảm thấy bản thân đặc biệt, siêu phàm và có năng lực lớn. Đây là dạng tâm tính gì? (Thưa, là kiêu ngạo.) Chuyện này do tâm tính kiêu ngạo gây nên. Còn có người, khi mặc một bộ áo quần giống với người khác thì trong lòng sẽ không thoải mái. Nếu mặc một bộ đồ mà người khác mua không nổi và chưa từng thấy qua, ai thấy cũng phải ghen tị, thì trong lòng họ sẽ có cảm giác gì? (Thưa, sung sướng.) Họ sẽ cảm thấy đặc biệt sướng, cảm thấy mình khác với mọi người, cao hơn người khác một bậc. Chuyện này do tâm tính nào gây nên? (Thưa, kiêu ngạo.) Chuyện này cũng do tâm tính kiêu ngạo gây nên. Ngươi xem, gần như 100% mọi người đều có tâm lý này: Nếu họ biết một hạng mục kỹ thuật nghiệp vụ nào đó thì sẽ cảm thấy mình hơn mọi người khác, chẳng ai bằng mình. Nếu có người khác cũng biết kỹ thuật nghiệp vụ giống họ, thì họ còn đố kỵ với người ta, mong sao người khác đều không giỏi bằng họ. Tại sao họ lại có tâm lý này? (Thưa, họ muốn khiến bản thân trở nên khác biệt với mọi người.) Nếu chỉ có họ biết hạng mục nghiệp vụ này, thì khi ở giữa tập thể của mình, họ sẽ cao hơn người thường. Họ biết hạng mục kỹ thuật nghiệp vụ này thì sẽ sợ người khác học nó từ học. Khi người khác tìm họ nhờ giúp, thì họ có thể dạy cho hay không? (Thưa, không thể.) Họ chỉ có thể dạy cho ngươi một vài thứ đơn giản, còn những thứ quan trọng và mấu chốt nhất thì họ chẳng dạy cho ai, để ngươi tự nghiệm ra mà thôi. Thực ra trong lòng họ nghĩ gì? “Tôi mà dạy anh rồi thì còn có thể nổi bật sao? Mọi người đều biết rồi, thì tôi chẳng thành người thường sao? Các anh đều không biết, thì tôi mới là người cao nhất ở đây, các anh đều sẽ bợ đỡ tôi, vậy tôi chẳng có được cảm giác tồn tại sao? Ở giữa các anh, tôi chẳng có địa vị tối cao và là người có bản lĩnh nhất sao? Ở giữa các anh, tôi chẳng phải là lão đại sao?” Họ biết chút nghiệp vụ kỹ thuật thì sợ người khác học của mình, không muốn người khác được như mình. Ai mà có nghiệp vụ kỹ thuật hoặc sở trường giống họ, thì trong lòng họ chẳng vui vẻ, nên họ sẽ nghĩ đủ mọi cách để học chút gì đó hầu vượt quá người khác. Họ muốn cao hơn người khác, muốn luôn lấn át người khác để có được cảm giác tồn tại. Đây có phải là sự mưu cầu đúng đắn không? (Thưa, không.) Chính vì nhân loại bại hoại có khao khát và sự mưu cầu như thế này, nên rất tự nhiên, người ta sẽ nảy sinh đủ dạng quan niệm và tượng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, sẽ mưu cầu chuyện cao hơn người một bậc, có địa vị, có uy thế, có cảm giác tồn tại khi ở giữa mọi người, sẽ mưu cầu trở nên khác với mọi người, thậm chí trở thành siêu nhân và người siêu phàm trong mắt mọi người. Do đó, người ta nên buông bỏ những quan niệm và tưởng tượng này về công tác của Đức Chúa Trời. Vậy cụ thể thì nên thực hành việc này như thế nào? Chính là đừng mưu cầu ân tứ và tài cán cao, cũng đừng mưu cầu thay đổi tố chất và bản năng của mình, mà thay vào đó, dưới điều kiện vốn có là tố chất, năng lực, bản năng, v.v. của mình, ngươi hãy làm bổn phận và làm tất cả mọi việc dựa theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không cưỡng cầu những gì vượt quá năng lực hoặc tố chất của ngươi – ngươi cũng đừng tự làm khó mình. Ngươi cứ làm hết khả năng của mình dựa trên những gì ngươi nhận thức được và có thể đạt được, cũng như nên thực hành theo những gì mà điều kiện của ngươi cho phép, vậy là được rồi. Chẳng hạn như, tố chất và tài cán của ngươi thích hợp để làm trưởng nhóm, thì ngươi hãy làm cho tốt việc của trưởng nhóm, sắp xếp những công tác và nghiệp vụ thuộc phạm vi của trưởng nhóm, khắc phục từng cái một, thực hiện chúng theo phương thức và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời đã dạy bảo ngươi – làm như vậy thì ngươi sẽ đạt đến việc làm Đức Chúa Trời thỏa lòng rồi. Nếu ngươi dựa theo quan niệm và tưởng tượng mà cho rằng: “Vì mình có thể làm trưởng nhóm, nếu giờ mình nỗ lực vươn lên, chịu chút khổ, trả chút giá, lại thêm Đức Thánh Linh làm công tác lớn nơi mình, vậy chẳng phải mình sẽ có thể làm lãnh đạo hội thánh hoặc nhóm trưởng nhóm quyết sách sao? Có lẽ mọi người thấy mình không ổn, nhưng mình sẽ cầu xin Đức Chúa Trời – với Đức Chúa Trời thì không có gì khó thành sự cả! Mình không sẵn lòng làm công tác trưởng nhóm này, mình sẽ cầu nguyện xin Đức Chúa Trời cho mình đảm đương công tác lớn hơn nữa, làm lãnh đạo hoặc người làm công”. Mưu cầu như vậy thì có đúng hay không? (Thưa, không đúng.) Tại sao lại nói là không đúng? (Thưa, vì người đó luôn muốn làm việc vượt quá tố chất và năng lực của mình, không thể dựa vào tố chất và tài cán của mình mà an phận thủ thường giữ vững công tác của mình.) Luôn muốn làm siêu nhân thì không thích hợp, nó không phải là thứ mà người bình thường nên mưu cầu.
Có những người thường nói “Với Đức Chúa Trời thì không có chuyện gì khó”. Lời này là sự thật, mọi người đều có thể lý giải được. Nhưng có những người lại lĩnh hội lệch lạc, cho rằng hễ việc gì con người làm không được thì chỉ cần cầu nguyện Đức Chúa Trời là Ngài sẽ có thể hoàn thành cho, rằng con người mà cậy dựa Đức Chúa Trời như vậy thì sẽ có thể vượt quá bản năng của mình và biến thành siêu nhân. Sự thật có phải như vậy không? (Thưa, không phải.) “Với Đức Chúa Trời thì không có chuyện gì khó”, lời này rõ ràng nói đến quyền năng, thực chất và sự toàn năng của Đức Chúa Trời, cũng nói đến chuyện Đức Chúa Trời tể trị muôn vật, không có việc gì Ngài không hoàn thành được. Nhưng lời này không có ý rằng con người phải vượt quá nhân tính bình thường và trở nên siêu nhiên, bất kể Đức Chúa Trời toàn năng thế nào, thì công tác mà Ngài làm trên con người đều dựa trên nhân tính bình thường của con người và được thực hiện trong phạm vi của nhân tính bình thường. Đức Chúa Trời sắp đặt và điều động muôn vật, điều động con người, sự việc và vật để phục vụ cho việc hoàn thành đủ loại chuyện và hoàn thành sự thật mà Ngài muốn hoàn thành. Trong thời gian Đức Chúa Trời hoàn thành đủ loại chuyện, con người vẫn ở trong nhân tính bình thường, không có sự thay đổi nào, con người vẫn là con người. Bất kể Đức Chúa Trời toàn năng đến đâu, bất kể Đức Chúa Trời vận dụng phương thức nào để tể trị một chuyện nào đó hay hoàn thành một chuyện nào đó, thì loài người thọ tạo mãi mãi là loài người thọ tạo, vẫn cứ sống trong nhân tính bình thường, chẳng có chút gì là siêu nhiên cả. Các ngươi xem, có phải đây đều là sự thật không? (Thưa, phải.) “Không siêu nhiên” nghĩa là gì? Nghĩa là khi Đức Chúa Trời sắp đặt con người, sự việc và sự vật, thì người ta đều không có cách nào khác ngoài sinh sống, sinh tồn, làm mỗi một việc và sống dưới sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Nhưng khi ngươi sống trong thời khắc hiện tại, ý thức của ngươi có mơ hồ không? (Thưa, không.) Ngươi vẫn tỉnh táo. Vậy tố chất của ngươi được nâng cao và biến đổi trong chớp mắt sao? (Thưa, không.) Nó vẫn duy trì nguyên trạng. Vậy bản năng của ngươi biến đổi trong chớp mắt sao? Cũng không phải. Dưới sự tể trị, sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, bất kể ngươi trải nghiệm bao nhiêu chuyện, thì tính cách, thói quen và quy luật sinh hoạt của ngươi, cùng tố chất, năng lực và đủ loại chức năng của nhân tính bình thường nơi ngươi, đều không có bất kỳ sự biến đổi nào. Chỉ là trong lúc trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, thì người ta ở trong các loại hoàn cảnh riêng của mình mà trải nghiệm các loại con người, sự việc và sự vật, kết quả cuối cùng là người ta từ trong quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời mà có được kiến thức và học được một vài bài học. Nếu người ta mưu cầu lẽ thật thì sẽ có thể có được thu hoạch về lẽ thật và nhận thức về Đức Chúa Trời. Trong quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, tư duy của người ta bình thường, ý thức không mơ hồ, tố chất, năng lực và bản năng của người ta cũng được giữ nguyên dạng, không có thay đổi nào. Do đó, câu “Với Đức Chúa Trời thì không có chuyện gì khó” là nói đến chuyện Đức Chúa Trời toàn năng và sắp đặt muôn vật, chứ không phải nói đến chuyện làm cho con người trở nên siêu nhiên, cũng không phải chuyện thay đổi thực chất của loài người. Đức Chúa Trời không thay đổi thực chất của loài người, loài người vẫn là loài người, bất kể ngươi là nam hay nữ, thì chẳng có bất kỳ sự thay đổi nào về phương diện này. Đức Chúa Trời sắp đặt muôn vật, không có việc gì là không làm được, đây chính là sở hữu và hữu thể của Đức Chúa Trời, là điều mà Đức Chúa Trời có sẵn. Câu “Với Đức Chúa Trời thì không có chuyện gì khó” không phải nói đến chuyện con người trở nên siêu nhiên, cũng không phải nói con người không có việc gì là không làm được. Ngay cả khi có một vài người cá biệt có lúc có thể đạt được những thứ vượt quá tố chất của mình hoặc bản năng của xác thịt, nhưng đó cũng là việc Đức Thánh Linh làm. Chính Đức Chúa Trời ban cho người ta ân tứ này, chứ chẳng phải họ bẩm sinh đã có năng lực này. Điều này là bởi loài người thọ tạo đâu có năng lực thay đổi mọi sự mà Đức Chúa Trời tiền định. Ta sẽ đưa ra một vài ví dụ về bản năng của con người. Chẳng hạn như, khi nghe tiếng động kinh khủng, người ta sẽ có cảm thấy sợ hãi và co mình lại theo bản năng. Bất kể ngươi bao nhiêu tuổi, từ nhỏ ngươi đã như vậy, đến lúc chết ngươi vẫn như vậy, đây là bản năng. Bản năng nghĩa là gì? Nghĩa là chức năng vốn có của xác thịt, mãi mãi không thay đổi. Chỉ khi có bản năng vốn có, thì một người bình thường mới có thể duy trì được cuộc sống và sự sinh tồn của nhân tính bình thường. Do đó, bản năng của con người không phải là điều mà Đức Chúa Trời muốn thay đổi. Các ngươi đã hiểu chuyện này chưa? (Thưa, đã hiểu.) “Đức Chúa Trời không gì là không làm được” là nói đến điều gì? (Thưa, nói đến thẩm quyền và sự toàn năng của chính Đức Chúa Trời.) Có liên quan gì đến con người không? (Thưa, không liên quan gì đến con người, và không phải nói đến chuyện con người có thể làm được việc siêu nhiên.) Nó không nói đến chuyện dưới sự chi phối của Đức Chúa Trời thì con người không gì là không làm được. Ngay cả dưới sự chi phối của Đức Chúa Trời, con người cũng không thể đạt đến chuyện không gì là không làm được. Tại sao như vậy? (Bởi vì con người không phải là Đức Chúa Trời. Con người chỉ là loài thọ tạo, còn Đức Chúa Trời là Đấng độc nhất vô nhị.) Đúng rồi, chuyện là như vậy. Con người sẽ mãi mãi là con người, sẽ không biến thành một chủng loại khác, đương nhiên càng không biến thành Đức Chúa Trời, thuộc tính của con người sẽ không thay đổi. Thuộc tính của con người sẽ không thay đổi, vậy bản năng của con người sẽ thay đổi sao? (Thưa, sẽ không thay đổi.) Bản năng của con người sẽ không thay đổi, thói quen và quy luật sinh hoạt của con người, hoặc tính cách vốn có mà Đức Chúa Trời ban cho con người, cũng sẽ không thay đổi. Như chuyện quy luật sinh hoạt chẳng hạn. Loài người giống như đại đa số sinh vật, đều mặt trời mọc thì làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi. Khi buổi sáng thức dậy, bộ não đã được nghỉ ngơi tốt, cơ thể đã thoải mái rồi, thì họ bắt đầu làm việc, đến chiều tối, khi cơ thể bắt đầu mệt mỏi, ngáp, đầu óc cũng mệt, thì bắt đầu vào trạng thái nghỉ ngơi – đây là quy luật sinh hoạt rất bình thường. Đây là điểm chung của loài người, cũng là bản năng của loài người, đương nhiên cũng là quy luật sinh hoạt mà Đức Chúa Trời đã ấn định cho con người. Quy luật này được ấn định dựa vào chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, dựa vào mặt trời mọc và lặn. Nếu ngươi phá vỡ quy luật sinh hoạt này, có khả năng trong thời gian ngắn sẽ không có vấn đề gì lớn – khi thỉnh thoảng cảm thấy mệt mỏi và muốn ngủ, ngươi có thể khắc chế bản thân, uống chút trà hoặc cà phê thì sự mệt mỏi của cơ thể sẽ được xoa dịu phần nào – nhưng nếu kéo dài thì cơ thể ngươi sẽ xuất hiện vấn đề. Tại sao lại xuất hiện vấn đề? Bởi vì ngươi làm trái với quy luật sinh hoạt mà Đức Chúa Trời ấn định cho con người. Khi cơ thể ngươi xuất hiện vấn đề và ngươi đi khám, thì bác sĩ sẽ bảo: “Buổi tối, nhất định phải ngủ sớm, mười giờ là đi ngủ. Buổi sáng thì năm giờ thức dậy. Qua vài tháng thì bệnh của anh sẽ đỡ thôi”. Sau ba tháng ngươi thực hành theo lời bác sĩ dặn dò, thì mọi triệu chứng khó chịu trong cơ thể ngươi về cơ bản đều biến mất, thế là ngươi ngẫm nghĩ: “Hóa ra những vấn đề của cơ thể mình không phải là bệnh nặng, mà do mình sinh hoạt không theo quy luật”. Ngươi xem, quy luật sinh hoạt của con người có phải là thứ không thể phá vỡ không? (Thưa, phải.) Quy luật sinh hoạt của con người và các sinh vật khác đều giống nhau, đều là mặt trời mọc thì làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi. Đương nhiên, cũng có một vài loại sinh vật, như cú mèo chẳng hạn, ban ngày thì nghỉ ngơi, đến tối lại ra ngoài hoạt động, quy luật sinh hoạt của chúng khác với của loài người và các loại sinh vật khác, nhưng ngươi mà muốn phá vỡ quy luật của chúng thì cũng không thể làm được. Ngoài ra, có một vài sinh vật đến mùa đông thì sẽ ngủ đông. Vậy loài người có quy luật này không? (Thưa, không có.) Loài người không cần ngủ đông. Cuộc sống của loài người có quy luật – mỗi tuần nghỉ ngơi một hai ngày, mặt trời mọc thì làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi, liên tục duy trì quy luật làm việc và nghỉ ngơi bình thường này, như vậy thì cuộc sống của con người sẽ có thể được bảo đảm và sự sinh tồn của con người sẽ có thể được duy trì. Loài người có quy luật sinh hoạt của loài người, những quy luật này do Đức Chúa Trời ấn định. Chúng đều có ý nghĩa, đều để duy trì cuộc sống bình thường và sự sinh tồn của loài người. Do đó, công tác của Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ không phá vỡ quy luật sinh hoạt và sinh tồn của con người như người ta tưởng tượng. Ngươi cũng nên buông bỏ dạng quan niệm và tưởng tượng này đi. Nếu loài người cưỡng ép phá vỡ những quy luật mà Đức Chúa Trời ấn định cho loài người này, hoặc người ta bị một ý nghĩ về chuyện siêu nhiên nào đó chi phối nên luôn muốn thay đổi những quy luật này, thì đúng là ngu xuẩn. Nếu ngươi cho rằng thay đổi chúng thì sự sống của ngươi sẽ thăng hoa và nhân tính của ngươi sẽ được nâng cao, vậy thì ngươi cứ thử thay đổi chúng đi, xem ngươi có thể sống được bao lâu, xem những ngày tháng tiếp theo của ngươi sẽ biến đổi như thế nào, xem nhân tính bình thường của ngươi có được nâng cao hay không, xem ngươi có biến thành siêu nhân hoặc thiên sứ hay không. Nếu ngươi cho rằng Đức Chúa Trời mà làm công tác thì nên có yếu tố siêu nhiên, nên thay đổi quy luật sinh hoạt của ngươi, và ngươi cũng muốn cưỡng ép thay đổi chúng để khiến cho bản thân trở nên siêu phàm thoát tục, vậy thì ngươi có thể thử. Cũng có khả năng ngươi thử ba năm, năm năm, thì thực sự thay đổi được quy luật sinh hoạt và sinh tồn của mình. Nhưng để được như vậy thì chỉ có một trường hợp mà thôi, đó là khi xác thịt của ngươi không tồn tại nữa, lúc đó ngươi thực sự trở nên siêu nhiên, trở thành một làn khói, và “đắc đạo thành tiên” rồi. Nếu muốn làm cho cơ thể ngươi bình thường và khỏe mạnh, có thể tiếp nhận công tác và lời phán của Đức Chúa Trời, thì ngươi không nên dựa theo quan niệm và tưởng tượng mà mưu cầu làm cái gọi là siêu nhân hay mưu cầu cái gọi là nhân tính được nâng cao, thay vào đó, ngươi phải sống trong nhân tính bình thường, duy trì quy luật sinh hoạt và sinh tồn của nhân tính bình thường, cũng phải duy trì bản năng của nhân tính bình thường nơi mình. Ngươi đừng có yêu cầu vô lý với Đức Chúa Trời, những yêu cầu vô lý này của ngươi đều phát xuất từ tưởng tượng và quan niệm của ngươi. Bản năng, quy luật sinh hoạt, v.v. của ngươi đều không phải là đối tượng mà Đức Chúa Trời muốn thay đổi, cũng không phải thứ mà công tác của Đức Chúa Trời muốn thay đổi. Một người được cứu rỗi tuyệt đối không phải là người tràn đầy quan niệm và tưởng tượng, càng không phải là một siêu nhân hay một người khác loài. Thay vào đó, người được cứu rỗi là một người có nhân tính bình thường, có lương tâm và lý trí, là một người có thể nghe lời Đức Chúa Trời, có thể nhìn nhận con người và sự việc, làm người và hành động theo nguyên tắc lẽ thật, là một người thuận phục Đức Chúa Trời trong mọi chuyện, không có chút gì siêu nhiên, nhân tính cũng đặc biệt bình thường và thực tế.
Con người sống trong nhân tính bình thường còn chịu hạn chế bởi rất nhiều bản năng và nhu cầu của xác thịt. Chẳng hạn như, có lúc vì quá mệt hoặc đổ bệnh và cơ thể cần được nghỉ ngơi mà phải gác việc làm bổn phận lại hai ngày, có lúc vì hoàn cảnh căng thẳng mà người ta sẽ cảm thấy sợ hãi và không thể yên tâm làm bổn phận, hoặc vì tố chất và năng lực của bản thân có hạn và không thể đảm đương quá tốt một hạng mục công tác hoặc bổn phận nào đó, mà thường xuyên cảm thấy mắc nợ và khó chịu trong lòng – đây đều là biểu hiện bình thường trong phạm trù của nhân tính bình thường. Có lúc người ta bị tình cảm và nhu cầu của xác thịt kìm kẹp, có lúc người ta chịu sự hạn chế của bản năng xác thịt hoặc sự hạn chế của thời gian và tính cách – đây là chuyện bình thường và tự nhiên. Chẳng hạn như, có một vài người từ nhỏ tính cách đã rất hướng nội, không thích nói chuyện, không biết qua lại với người khác, mặc dù hiện tại đã là người trưởng thành 30, 40 tuổi mà vẫn không phá bỏ được loại tính cách này, vẫn không giỏi ăn nói, không giỏi về ngôn từ, cũng không giỏi qua lại với người khác. Sau khi làm lãnh đạo, cũng vì tính cách như vậy mà họ bị hạn chế và cản trở nhất định trong công tác, thường xuyên vì thế mà buồn bã, phiền não, và bị kìm kẹp rất nhiều. Tính cách hướng nội và không mê nói chuyện đều là biểu hiện của nhân tính bình thường. Nếu đây là biểu hiện của nhân tính bình thường thì Đức Chúa Trời có tính đây là vi phạm hay không? Không, đều không phải là vi phạm, Ngài sẽ đối đãi một cách đúng đắn. Cho dù ngươi có vấn đề, khuyết điểm hay tật xấu gì đi nữa, thì đối với Đức Chúa Trời đó đều không phải là vấn đề, Ngài chỉ xem trong những điều kiện vốn có của nhân tính bình thường, ngươi tìm kiếm lẽ thật như thế nào, thực hành lẽ thật như thế nào, hành động theo nguyên tắc lẽ thật như thế nào và tuân theo con đường của Đức Chúa Trời như thế nào, đây là những điều mà Đức Chúa Trời muốn nhìn vào. Do đó, trong những chuyện liên quan đến nguyên tắc lẽ thật, ngươi không nên bị hạn chế bởi những điều kiện cơ bản như tố chất, năng lực, bản năng, tính cách, thói quen hoặc quy luật sinh hoạt, v.v. của nhân tính bình thường, đương nhiên ngươi cũng không nên tiêu tốn sinh lực và thời gian vào việc khắc chế những điều kiện cơ bản này, cũng không nên cố gắng thay đổi nó. Chẳng hạn như, nếu ngươi có tính cách hướng nội, không mê nói chuyện, không giỏi ngôn từ, cũng không giỏi qua lại và tiếp xúc với người khác, thì đó đều không phải là vấn đề. Mặc dù người hướng ngoại mê nói chuyện, nhưng lời họ nói cũng đâu phải đều hữu dụng hoặc phù hợp với lẽ thật, do đó, hướng nội không phải là vấn đề, cũng không cần thử tìm cách thay đổi nó. Có lẽ ngươi nói: “Nếu tôi làm một người đi theo bình thường, thì tính cách hướng nội không phải là vấn đề. Nhưng nếu tôi làm lãnh đạo và người làm công, thì chẳng phải tôi phải thay đổi tính cách hướng nội của mình sao?” Nếu quá muốn thay đổi nó, thì ngươi có thể thử học hỏi về cách qua lại với người khác, hoặc là quy định bản thân mỗi ngày phải nói bao nhiêu lời, làm bao nhiêu việc, giao tiếp với mấy loại người. Nếu ngươi thực sự có năng lực để thay đổi tính cách vốn có của mình, thì đương nhiên nó không hẳn là một chuyện không tốt đối với công tác của hội thánh. Tuy nhiên, nếu tính cách ngươi bẩm sinh đã hướng nội, không giỏi ngôn từ, cũng không giỏi giao tiếp, không biết cách chuyện trò và qua lại với người khác, thì đó là chuyện mà không một người nào có thể thay đổi. Có những người có tính cách hướng nội, không sẵn lòng tiếp xúc với người khác, cũng không sẵn lòng chuyện trò với người khác, hơn nữa họ cũng không có mấy lời để nói. Trong lòng họ luôn cảm thấy nên nói một chút lời hữu dụng thì hơn, không cần phải nói những lời dư thừa, vì vậy mà họ không sẵn lòng nói nhiều. Hoặc có một vài người do tuổi tác quá nhỏ, chưa từng trải, nên lời lẽ ít ỏi. Hoặc có một vài người, tuổi tác không còn nhỏ nữa, cũng đã có sự từng trải rồi, nhưng vẫn có dạng tính cách hướng nội như vậy. Nếu ngươi thử thay đổi dạng tính cách này và dùng đủ loại phương thức để thay đổi nó, thì Ta nói cho ngươi biết, cả đời ngươi cũng không thay đổi được dạng tính cách này, bởi vì Đức Chúa Trời không làm dạng công tác này. Bất kể mặt mày, tướng mạo của ngươi giống cha, giống mẹ, hay giống người thân nào đó, thì tướng mạo đó sẽ không thay đổi, càng hơn thế nữa, tính cách của ngươi đặc biệt sẽ không thay đổi. Có những người nói: “Tính cách hướng nội không dễ thay đổi, vậy tính cách hướng ngoại có dễ thay đổi không?” Tính cách hướng ngoại cũng không dễ thay đổi như vậy. Người hướng ngoại thì mê nói chuyện, lời trong lòng họ cũng nhiều, không cho họ nói chuyện hoặc bắt họ nói chuyện ít đi, thì bản thân họ cũng không kiểm soát nổi mình, ai mà hạn chế họ nói chuyện thì chẳng khác gì lấy mạng họ vậy. Nếu bảo một người hướng nội qua lại với một người hướng ngoại, thì họ có ảnh hưởng đến nhau không? Ban đầu có thể sẽ có chút ảnh hưởng, vì thể diện mà hai người sẽ nhân nhượng nhau, bao dung cho nhau, hoặc nhẫn nhịn và thông cảm cho nhau. Nhưng qua thời gian dài, họ đã hiểu rõ nhau rồi, đều thấy rõ tính cách và tâm lý của người kia thế nào, không cần dùng cách nhẫn nhịn và thông cảm cho người kia nữa, thế là họ nhanh chóng phục hồi lại trạng thái ban đầu của mình. Tính cách ngươi vốn hướng nội thì bây giờ vẫn là hướng nội, khi nói năng và trò chuyện, ngươi chỉ biết thốt ra vài chữ, vài lời, chẳng có gì khác để nói. Người ta hỏi: “Anh đã ra ngoài à?”, ngươi đáp: “Có ra ngoài”. Họ mà hỏi tiếp: “Về khi nào vậy?” thì ngươi nói: “Vừa mới về”, chứ không kể xem đã xảy ra chuyện gì, cũng chẳng nói chút lời mà người ta muốn nghe. Nhưng người có tính cách hướng ngoại mà nói chuyện thì nói liên hồi như súng máy vậy, ngay cả khi ngươi cắt lời họ, thì một lát sau họ vẫn cứ nói tiếp. Tính cách của người ta có dễ thay đổi không? (Thưa, không dễ.) Đây là thứ mà mỗi loài thọ tạo sinh ra đã có, nó chẳng có quan hệ gì với tâm tính bại hoại hay thực chất nhân tính của người ta, nó chỉ là một dạng trạng thái mà người khác có thể thấy được bề ngoài, là một phương thức cá nhân để đối đãi với con người, sự việc và sự vật. Có người giỏi diễn đạt, có người thì không; có người thích mô tả, có người thì không; có người thích suy nghĩ trong nội tâm, có người thì không thích chỉ suy nghĩ trong nội tâm, mà phải bày tỏ ra cho mọi người đều nghe thấy thì mới cảm thấy vui sướng được. Đây là những phương thức xử lý khác nhau của người ta khi đối diện cuộc sống, con người, sự việc và sự vật, đây là tính cách của người ta. Dạng tính cách này có từ lúc sinh ra, nếu ngươi đã nhiều lần thử mà không có cách nào thay đổi được nó, thì Ta nói cho ngươi biết, bây giờ ngươi có thể tạm nghỉ được rồi, không cần phải làm mình mệt đến thế. Nó không thể thay đổi được, nên đừng cố thay đổi nó làm gì. Ngươi vốn dĩ có tính cách gì thì nó vẫn là tính cách đó, đừng cố gắng thay đổi tính cách để đạt đến được cứu rỗi, đó là suy nghĩ sai lầm – Chuyện ngươi có tính cách gì là một sự thật khách quan, ngươi không thể thay đổi được. Từ nguyên nhân khách quan mà nói, kết quả công tác mà Đức Chúa Trời muốn đạt được không liên quan gì đến việc tính cách của ngươi như thế nào, ngươi có thể đạt đến được cứu rỗi hay không cũng không liên quan gì đến việc tính cách của ngươi như thế nào, còn nữa, ngươi có phải là người thực hành lẽ thật, có thực tế lẽ thật hay không cũng không liên quan gì đến việc tính cách của ngươi như thế nào. Vì vậy, ngươi không nên thử thay đổi tính cách của mình chỉ vì thực hiện bổn phận nào đó hoặc đảm nhiệm vai trò người phụ trách một công tác nào đó, như thế là suy nghĩ sai lầm. Vậy ngươi nên làm gì? Bất kể ngươi có tính cách như thế nào, bất kể ngươi có điều kiện bẩm sinh như thế nào thì điều ngươi nên tuân thủ và thực hành chính là nguyên tắc lẽ thật. Đến cuối cùng, để đánh giá xem ngươi có tuân theo con đường của Đức Chúa Trời hay không, có thể được cứu rỗi hay không, thì Đức Chúa Trời không nhìn vào tính cách của ngươi, cũng không nhìn xem ngươi bẩm sinh có tố chất, bản lĩnh, kỹ năng, ân tứ, tài cán như thế nào, đương nhiên Đức Chúa Trời cũng không xem ngươi đã khắc chế được bao nhiêu bản năng và nhu cầu của xác thịt, mà là xem trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, ngươi có thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời hay không, có ý nguyện và ý chí mưu cầu lẽ thật hay không, xem cuối cùng ngươi có đạt đến thực hành lẽ thật, tuân theo con đường của Đức Chúa Trời hay không. Đây là điều Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy. Ngươi đã hiểu được điều này chưa? (Thưa, đã hiểu.)
Có những phụ nữ, khi hành động thì hùng hùng hổ hổ, nhanh chóng quyết liệt, quả quyết dứt khoát, tính cách giống như đàn ông. Dùng ngôn ngữ lưu hành hiện thời thì họ là gì? Là nữ hán tử. “Nữ hán tử” không còn là kẻ thô kệch ngốc nghếch, không còn là từ mang nghĩa chê bai nữa, mà là từ mang nghĩa khen. Nhưng Đức Chúa Trời nhìn nhận từ mang nghĩa khen này như thế nào? Ngươi hành động nhanh chóng quyết liệt, sát phạt dứt khoát, nhưng nguyên tắc thực hành và căn cứ hành động của ngươi là gì? Có phải là lẽ thật không? Có phải là lời Đức Chúa Trời không? Đây là điều mấu chốt. Nếu một người đàn ông hành động chậm rãi và tỉ mỉ, dùng cách nói của người ngoại đạo là dè dặt như đàn bà, thậm chí có người còn dùng một từ với nghĩa chê bai là “ẻo lả”, nhưng Đức Chúa Trời thì nhìn nhận như thế nào? Bất kể hành động có nhanh chóng quyết liệt và sát phạt dứt khoát, hay là dè dặt như đàn bà và ẻo lả, thì đây có phải là vấn đề không? (Thưa, không phải.) Nhanh chóng quyết liệt và sát phạt dứt khoát có phải là điểm mạnh không? (Thưa, không hẳn.) Vậy hành động dè dặt như đàn bà có phải là nhược điểm không? (Thưa, cũng không hẳn.) Mặc dù “nữ hán tử” và “ẻo lả”, một từ mang nghĩa khen, một từ mang nghĩa chê, nhưng đều không nên dựa theo ý mặt chữ mà đánh giá thực chất của hai dạng hành vi và cách làm này. Vậy nên dựa vào điều gì? (Thưa, dựa vào chuyện cái mà họ thực hành có phải là lời Đức Chúa Trời không.) Nên đánh giá dựa vào căn cứ hành động của họ, và cả hiệu quả mà họ muốn đạt đến. Nếu căn cứ hành động của họ là lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật, thì việc họ làm về cơ bản 90% không sai. Nhưng nếu họ chẳng những có thể dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà hành động, mà hiệu quả họ muốn đạt đến còn là bảo vệ lời chứng cho Đức Chúa Trời, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và đem lại sự gây dựng nhiều hơn nữa cho anh chị em, vậy thì có thể chắc chắn 100% rằng việc họ làm không sai. Ngươi đừng quan tâm chuyện họ sát phạt dứt khoát hay dè dặt như đàn bà – đừng quan tâm phương thức hành động bề ngoài của họ – chúng không quan trọng. Cái quan trọng là căn cứ hành động của họ có phải là nguyên tắc lẽ thật không, mục tiêu hành động của họ và hiệu quả họ muốn đạt đến có phải là để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và công tác của hội thánh, cũng như đem lại sự gây dựng cho nhiều người hơn nữa không. Vậy hình thức hành động của họ có quan trọng hay không? (Thưa, không quan trọng.) Bất kể ngươi là nữ hán tử, hay là dè dặt như đàn bà, thì đó đều không phải là cái mà Đức Chúa Trời nhìn vào, không phải là tiêu chuẩn để Đức Chúa Trời đánh giá người ta. Do đó, nếu phụ nữ mà như nữ hán tử, hành động nhanh chóng quyết liệt và sát phạt dứt khoát, thì có đáng để khen ngợi và kính trọng không? (Thưa, không xứng đáng.) Nhanh chóng quyết liệt và sát phạt dứt khoát có phải là nguyên tắc hành động không? (Thưa, không phải.) Bất kể là nam hay nữ, thì sát phạt dứt khoát và nhanh chóng quyết liệt đều không phải là nguyên tắc hành động. Vậy nguyên tắc hành động là gì? (Thưa, là hành động thì phải dựa vào nguyên tắc lẽ thật, hiệu quả muốn đạt đến phải là để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và đem lại sự gây dựng cho thêm nhiều người hơn nữa – nguyên tắc là vậy.) Đây là nguyên tắc cụ thể. Ngươi dựa vào nguyên tắc này mà hành động thì nghĩa là ngươi đang thực hành lẽ thật, còn ngươi không dựa vào nguyên tắc này mà hành động, thì trong mắt Ta, chỉ có thể dùng một từ để quy định sự sát phạt dứt khoát và nhanh chóng quyết liệt của ngươi, đó là làm xằng làm bậy. Quá rõ ràng, làm xằng làm bậy không phải là dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà hành động. Nhìn bề ngoài thì hành động như vậy dứt khoát, không do dự, có phong thái của lãnh đạo, của vua chúa, nhưng trên thực tế lại là làm xằng làm bậy. Làm xằng làm bậy thì gây ra hậu quả gì? Thì gây gián đoạn, nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh. Vậy thì Đức Chúa Trời có ghi nhớ không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời chẳng những không ghi nhớ, mà còn định tội. Do đó, ngươi nói ngươi là nữ hán tử, hành động nhanh chóng quyết liệt, sát phạt dứt khoát, thì có ích gì không? (Thưa, không.) Chỉ có tìm kiếm lẽ thật và hành động theo nguyên tắc lẽ thật mới gọi là bản lĩnh thực sự, mới là thực hành lẽ thật và mưu cầu lẽ thật, mới là việc mà người có nhân tính bình thường nên làm. Nếu ngươi nói: “Tính cách tôi là thế này, cũng không thay đổi được, biết làm sao chứ?” Chuyện này cũng dễ xử lý thôi. Tính cách của ngươi nhanh nhẹn hay chậm chạp đều không phải là vấn đề, không cần bị kìm kẹp vì những chuyện này, cũng không cần ngươi vì muốn đạt đến làm việc theo nguyên tắc mà nỗ lực thay đổi phương thức hành động của mình. Bất kể là phương thức gì, nếu căn cứ hành động của ngươi là nguyên tắc lẽ thật, hiệu quả ngươi muốn đạt đến là bảo vệ lời chứng cho Đức Chúa Trời, lợi ích của Đức Chúa Trời và công tác của nhà Đức Chúa Trời, thì đó là việc lành, là điều được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Ngược lại, bất kể bề ngoài ngươi làm bộ làm tịch và dè dặt như đàn bà, hay là ngươi nhanh chóng quyết liệt như lãnh đạo hoặc vua chúa – bất kể hình thức hành động bề ngoài của ngươi là gì – nếu ngươi không hành động theo nguyên tắc lẽ thật, thì ngươi đang gây gián đoạn và nhiễu loạn, và chúng là việc ác, bị Đức Chúa Trời định tội chứ không ghi nhớ. Đây là nguyên tắc để đánh giá người ta thiện hay ác, các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Vậy khi chúng ta đã thông công xong những lời này, các ngươi đã hiểu rõ được phần nào về những quan niệm và tưởng tượng của người ta về công tác của Đức Chúa Trời rồi phải không? (Thưa, phải.) Hiểu rõ những điều này rồi, thì các ngươi đã biết một vài lệch lạc của người ta trong quá trình tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật rồi phải không? Các ngươi cũng đã rõ ràng về cách thực hành rồi phải không? (Thưa, đã rõ ràng rồi.)
Mục đích của việc hiểu rõ quan niệm và tưởng tượng của con người, một mặt là để khiến người ta không còn sống dựa theo những quan niệm, tưởng tượng này và đi con đường sai lầm trong đời. Mặt khác là để khiến người ta trong lúc buông bỏ những quan niệm và tưởng tượng này thì cũng có thể thoải mái vui vẻ sống trong nhân tính bình thường mà làm tròn trách nhiệm và bổn phận của mình, không ép mình làm việc không thể. Nếu là việc mà bản thân có thể đạt đến và nên làm thì ngươi hãy dốc hết sức mà làm, nếu là việc mà tố chất và năng lực của ngươi với không tới, thì hãy tìm một người phối hợp hoặc tìm những anh chị em khác giúp đỡ, và làm hết khả năng của mình – nguyên tắc là vậy. Tóm lại, điều mà người ta nên hiểu trong chuyện này chính là trong thời gian Đức Chúa Trời công tác, nhân tính mỗi một người đều đang dần dà phát triển theo chiều hướng tốt trong quá trình tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, và trong phạm vi điều kiện cơ bản vốn có của nhân tính, chứ không phải là trở nên dị thường, siêu nhiên hoặc trở thành thứ khác loài. Do đó, nếu bổn phận ngươi làm có liên quan đến nghiệp vụ kỹ thuật, thì để đạt đến chuyện làm tốt bổn phận, ngươi nên dốc công sức mà chăm chỉ học tập và nghiên cứu kỹ thuật nghiệp vụ đó. Chứ ngươi đừng dựa vào tư tưởng và quan điểm “Đức Chúa Trời không có việc gì là không làm được, chuyện gì con người không làm được thì chỉ cần cầu nguyện là Đức Chúa Trời sẽ có thể hoàn thành cho” và tưởng tượng những chuyện siêu nhiên mà một mực chờ Đức Chúa Trời ra tay, còn bản thân thì chẳng dốc công sức mà học. Ngươi phải làm hết lòng, hết sức và hết trí trong phạm vi tố chất của mình có thể đạt đến. Còn những chuyện mà tố chất và năng lực của ngươi không đạt đến được, thì ngươi cũng không cần phải làm khó mình, không cần phải có bất kỳ mối lo, gánh nặng hay áp lực gì, thay vào đó ngươi nên nương nhẹ với bản thân. Như chuyện học kỹ thuật máy tính chẳng hạn. Tuổi ngươi ngày càng cao, dựa theo tuổi tác, tố chất và điều kiện hiện có của ngươi, thì ngươi học đánh chữ đã là chuyện không dễ. Nếu ngươi còn có thể học cách liên lạc với anh chị em và làm công tác trên mạng, thì cũng tính là khá tốt rồi. Nhưng ngươi lúc nào cũng thấy chưa thỏa mãn, còn có dục vọng, còn muốn phải học lập trình và giữ an ninh mạng, làm một vài việc mà kỹ sư mạng hay nhân sự công nghệ cao mới làm được. Như vậy có phải là ngu muội không? (Thưa, phải.) Học không được, thì ngươi tiêu cực và oán trách Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, tại sao con không học được thứ này? Tại sao Ngài không ban cho con dạng tố chất này? Tuổi con lớn thế này rồi, tại sao Ngài không thể cho con cải lão hoàn đồng? Chẳng phải Đức Chúa Trời không có việc gì là không làm được sao?” Ngươi có ý nghĩ như vậy và yêu cầu như vậy, thì ngươi sai rồi. Cái gọi là “làm bất kỳ việc gì trong khả năng, không vượt quá tố chất, năng lực và bản năng của con người” nghĩa là gì? Điều mà tố chất và năng lực của ngươi đạt đến được chính là điều mà Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi. Còn điều gì ngươi không đạt đến được thì Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi, bản thân ngươi cũng không cần yêu cầu nơi mình điều đó. Ngươi không làm được thì có người khác làm được, Đức Chúa Trời không yêu cầu bắt buộc phải là ngươi làm. Ngươi nói: “Tuổi con cao rồi, con không biết tải video lên, cũng không biết giữ an ninh mạng, càng không biết lập trình”, thế mà ngươi cứ đòi học – ngươi đã hỏi xem nhà Đức Chúa Trời có cần ngươi làm những công tác này hay chưa? Công tác thuộc chức phận của mình, ngươi đã làm tốt chưa? Công tác mà tố chất của ngươi đạt đến được, ngươi đã làm tốt chưa? Nếu ngươi chưa làm tốt những công tác này, mà còn đòi làm những việc bản thân không đạt đến, không với tới được, thậm chí cả đời cũng không học được, vậy ngươi nói xem, ngươi đang đọ sức với chính mình hay là đang đọ sức với Đức Chúa Trời đây? Như vậy có phải là rất phiền phức không? (Thưa, phải.) Ngươi luôn muốn vượt quá bản thân, muốn làm siêu nhân, nhưng Đức Chúa Trời đâu có yêu cầu ngươi làm vậy. Ngươi muốn làm siêu nhân thì chỉ có một lý do mà thôi, đó là ngươi muốn thể hiện bản thân, không chịu thua, không chịu khuất phục trước tuổi già. Ngươi đâu có chịu khổ và trả giá để làm tốt bổn phận, ngươi đâu có làm bổn phận dựa theo nguyên tắc làm người thật thà và giữ đúng vị trí của mình. Thay vào đó, ngươi muốn thông qua việc thách thức tố chất và năng lực của mình mà chứng tỏ mình chưa già: “Mình vẫn còn ổn, mình không kém người khác. Việc người khác làm được thì mình cũng làm được!” Như vậy thì có ý nghĩa gì không? (Thưa, không có.) Chẳng có ý nghĩa gì cả. Những công sức ngươi bỏ ra này chỉ là công cốc, chẳng có giá trị gì. Ngươi hết lòng, hết trí và hết sức làm tốt những việc mà điều kiện riêng của ngươi cho phép ngươi đạt đến được, thì Đức Chúa Trời sẽ hài lòng. Đừng thách thức bản thân, cũng đừng thách thức giới hạn của mình. Đức Chúa Trời biết tố chất và năng lực của ngươi như thế nào. Tố chất và năng lực mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi vốn đã được Ngài tiền định từ lâu rồi. Ngươi luôn muốn vượt quá những điều này thì chính là kiêu ngạo, không tự lượng sức mình, như thế là tự chuốc lấy rắc rối, cuối cùng chỉ có thể thất bại mà thôi. Có phải dạng người này không chuyên tâm vào việc chính đáng của mình không? (Thưa, phải.) Họ không làm người một cách có khuôn phép, không giữ vững vị trí của bản thân để làm tốt bổn phận của một loài thọ tạo, không tuân theo các nguyên tắc này mà làm việc, thay vào đó lúc nào cũng muốn thể hiện mình. Có một câu hai vế nói rằng: “Bà già điểm chút son, để ngươi có cái mà nhìn”. Mục đích của “bà già” khi làm vậy là gì? (Thưa, để phô bày bản thân.) Bà già muốn cho ngươi thấy rằng: “Bà già ta đây không tầm thường đâu, ta sẽ thể hiện cho cậu xem”. Bà ấy không muốn bị xem thường, mà muốn được xem trọng và tôn sùng, muốn thách thức giới hạn của mình và vượt qua bản thân. Đây có phải là bản tính kiêu ngạo không? (Thưa, phải.) Nếu có bản tính kiêu ngạo, thì ngươi không thật thà, ngươi không muốn làm người một cách có khuôn phép. Ngươi luôn muốn thách thức bản thân, người khác làm gì ngươi cũng muốn làm nấy. Người khác làm gì mà được nổi bật, đạt thành quả, có cống hiến, được mọi người khen ngợi, thì trong lòng ngươi khó chịu, đố kỵ và chênh vênh. Rồi ngươi muốn bỏ công tác trong tay mình để làm một công tác có thể giúp ngươi nở mày nở mặt, cũng muốn được người khác xem trọng. Nhưng ngươi không làm nổi công tác nở mày nở mặt đó, vậy chẳng phải là lãng phí thời gian sao? Chẳng phải là không chuyên tâm vào việc chính đáng sao? (Thưa, phải.) Đừng có chểnh mảng việc chính đáng, chểnh mảng việc chính đáng thì cuối cùng sẽ không có kết quả tốt đâu. Làm vậy thì chẳng những làm chậm trễ công chuyện, lãng phí thời gian, khiến người khác xem thường ngươi, mà còn khiến Đức Chúa Trời ghê tởm ngươi, cuối cùng ngươi chỉ hành hạ mình đến mức tiêu cực trầm trọng. Bất kể tuổi tác của người ta thế nào – dù là thanh niên, trung niên, hay lão niên – thì tố chất và tài cán của người ta đều có hạn, chẳng có ai hoàn mỹ cả. Ngươi đừng tính chuyện làm người hoàn mỹ, đừng tính chuyện cái gì cũng biết, cái gì cũng làm được, cái gì cũng hiểu – ngươi mà có tâm tính đó thì rất phiền phức.
Trong công tác của Đức Chúa Trời, tại sao khi nói với đủ loại người về bất kỳ chủ đề hay dạng vấn đề nào, Ngài cứ nói đi nói lại về cùng một chuyện nhắm đến những tình trạng và trường hợp khác nhau? Những người không có hiểu biết thuộc linh thì cho rằng: “Nói như vậy là quá chi tiết, quá dài dòng rồi, chúng tôi nghe đã hiểu cả rồi mà”. Ngươi nghe đã hiểu, nhưng có khả năng người khác nghe chưa hiểu, mà ngay cả khi ngươi nghe đã hiểu, vậy ngươi có thể giải quyết được đủ loại tình trạng và vấn đề sao? Nếu ngươi không giải quyết được, thì cho thấy ngươi vẫn hiểu nửa vời, nên ngươi đừng giả vờ đã hiểu rồi. Các loại tình trạng của người ta đều khác nhau. Chỉ khi nào nói xong về đủ loại tình trạng của đủ loại người và bao hàm đủ mọi tình trạng khác nhau rồi – nghĩa là khi đã nói về tình trạng của đủ loại người trong trong một vấn đề lớn, và mỗi một người đều đã hiểu phương diện lẽ thật này – thì vấn đề đó mới được giải thích rõ ràng. Nói như vậy nghĩa là sao? Nghĩa là mỗi một người sống dưới điều kiện riêng của mình sẽ nảy sinh những vấn đề khác nhau, vấn đề của mỗi một người đều khác nhau, tính cách, điểm mạnh và sở trường của mỗi người cũng khác nhau. Do đó, mỗi một người đều có điều kiện riêng và khó khăn riêng của mình, cũng có những tư tưởng và quan điểm khác nhau của riêng mình. Nhưng bất kể điều kiện riêng của người ta có khác nhau như thế nào, bất kể năng lực, tố chất, tầm nhìn nhận sự việc, hoặc tính cách và thói quen của người ta khác nhau như thế nào, thì tâm tính bại hoại và thực chất bản tính của nhân loại đều giống nhau. Nghĩa là bất kể các mặt điều kiện trong nhân tính của người ta có khác nhau đến thế nào, thì người ta vẫn có những điểm chung giống nhau. Tại sao nhân loại lại có những điểm chung giống nhau? Bởi vì thực chất tâm tính mà nhân loại dựa vào để sinh tồn đều giống nhau. Do đó, sau khi tình trạng và vấn đề của các loại người được vạch rõ, thì việc mà nhân loại phải làm cho được chính là thực hành theo lẽ thật và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu, như vậy thì vấn đề chung của nhân loại sẽ được giải quyết. Bất kể tính cách và tố chất của ngươi như thế nào, cũng bất kể ngươi có năng lực lớn thế nào, bất kể ngươi là nam hay nữ, ngươi sinh ra ở phương Đông hay phương Tây, người là người phương Nam hay phương Bắc, chỉ cần tâm tính bại hoại của ngươi được giải quyết thông qua việc tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận sự phán xét và hành phạt của lời Đức Chúa Trời, và thông qua việc thực hành lẽ thật, thì khó khăn của ngươi sẽ được giải quyết. Vậy thì mọi tình trạng khác nhau nảy sinh nơi người ta dưới bối cảnh là các vấn đề chung của nhân loại cũng sẽ được giải quyết. Tại sao lại nảy sinh các loại tình trạng khác nhau này nơi người ta? Chính là vì điều kiện vốn có trong nhân tính mà mỗi người có sẵn đều khác nhau. Chẳng hạn như, ngươi sinh sống ở phương Nam, có một vài thói quen và quy luật sinh hoạt của người phương Nam, cũng sẽ nảy sinh một vài tính cách và phương thức sinh hoạt đặc hữu của người phương Nam, vậy thì ở trong bối cảnh như vậy, ngươi sẽ nảy sinh một vài quan niệm và tưởng tượng đặc biệt, một vài tư tưởng và quan điểm đặc biệt, cùng một vài tình trạng đặc biệt. Nếu ngươi sinh ra ở phương Bắc, thì ngươi sẽ có tính cách và thói quen sinh hoạt của người phương Bắc, hoặc có một vài tình trạng nảy sinh từ một vài phong tục, bối cảnh văn hóa và phương thức giáo dục cố hữu của người phương Bắc. Như vậy thì những tình trạng nảy sinh nơi người sống ở phương Nam và phương Bắc sẽ khác nhau. Tuy nhiên, căn nguyên và thực chất của những tình trạng nảy sinh từ một vấn đề đồng nhất thì giống nhau, do đó chúng đều có thể được giải quyết bằng những lẽ thật giống nhau. Như vậy thì chuyện ngươi là người phương Bắc hay phương Nam, phương Đông hay phương Tây đều không quan trọng, chỉ cần ngươi là nhân loại thọ tạo thì vấn đề của ngươi đều có thể được giải quyết bằng lẽ thật. Các ngươi đã hiểu chưa? Vấn đề này có phức tạp không? (Thưa, nghe xong rồi thì con cảm thấy không phức tạp nữa.) Tại sao ngươi lại nói vấn đề này không phức tạp? (Thưa, mặc dù điều kiện, bối cảnh và tính cách riêng của người ta khác nhau, và chuyện này tự nhiên sẽ nảy sinh những tình trạng khác nhau. Nhưng căn nguyên nảy sinh những tình trạng khác nhau đó lại giống nhau và thực chất bại hoại của con người là giống nhau. Bất kể người ta bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại, cũng đều có thể dùng những lẽ thật giống nhau mà giải quyết. Do đó, lẽ thật có thể giải quyết vấn đề của tất cả mọi người.) Bất kể là người phương Nam, phương Bắc, phương Đông hay phương Tây, bất kể là nam hay nữ, trẻ hay già, bất kể điều kiện riêng của người ta như thế nào, thì tâm tính bại hoại của mọi người đều như nhau, và các loại tình trạng, các loại tư tưởng và quan điểm, cũng như các loại thái độ đối với lẽ thật nảy sinh từ những tâm tính bại hoại này đều có một điểm chung. Điểm chung này là gì? Chính là những thứ nảy sinh từ những tâm tính bại hoại này đều thuộc về Sa-tan, đều không phù hợp lẽ thật, đương nhiên, cụ thể hơn, có thể nói rằng chúng trái với lẽ thật. Do đó, bất kể chủng tộc, tôn giáo hay văn hóa của nhân loại bại hoại có những khác biệt gì, cũng bất kể người ta là da vàng, da trắng, da nâu hay da đen, thì mọi người đều là nhân loại bại hoại, và nhân loại đều có cùng thực chất chống đối Đức Chúa Trời, đây chính là điểm chung. Do đó, bất kể người dân ở quốc gia nào hay thuộc chủng tộc nào cũng đều được gọi chung là nhân loại bại hoại. Nghĩa là bất kể xét về màu da, tướng mạo, thói quen sinh hoạt hay văn hóa chủng tộc, thì những chủng tộc này cao quý hay thấp hèn, nghèo khó hay giàu có, bất kể họ tiếp nhận nền giáo dục thế nào, thì tóm lại, phép tắc mà họ dựa vào để sinh tồn đều đến từ Sa-tan, đều không phù hợp lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời. Ngay cả khi họ là chủng tộc giàu sang và cao quý, có bối cảnh tôn giáo cao thượng, thì thực chất của họ cũng là nhân loại bại hoại, cũng nằm trong chủng loại thuộc về Sa-tan và chống đối Đức Chúa Trời, đều nằm trong nhân loại bại hoại, đều chống đối Đức Chúa Trời, đều nằm trong số đối tượng bị phán xét và hành phạt trong công tác của Đức Chúa Trời, và những người trong số họ có thể tiếp nhận lẽ thật cũng là những người mà Đức Chúa Trời dự định cứu rỗi. Hàm ý của câu này là gì? Là khi ngươi chưa được cứu rỗi, dù bối cảnh văn hóa, giáo dục và tôn giáo của ngươi có cao thượng đến đâu, thì thực chất của ngươi vẫn là chống đối và đối địch với Đức Chúa Trời. Do đó, thực chất của nhân loại sẽ không thay đổi do màu da, tôn giáo, đất nước họ sinh ra, hay bối cảnh giáo dục và văn hóa của họ. Cũng như vậy, bất kể người ta thuộc chủng tộc nào, thì họ cũng không vì những điều kiện riêng của mình mà trở nên cao quý hay thấp hèn trong mắt Đức Chúa Trời. Vậy trong mắt Đức Chúa Trời, tiêu chuẩn để đánh giá người ta cao quý hay thấp hèn là gì? Chỉ có một tiêu chuẩn thôi, đó là xem ngươi có tiếp nhận lẽ thật không. Nếu ngươi tiếp nhận lẽ thật, vậy thì bất kể thuộc chủng tộc nào, mang màu da nào, ngươi cũng cao quý. Nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật, thì cả khi ngươi nói: “Tôi là người da trắng, tóc vàng, mắt xanh, gia đình tôi là hoàng tộc nhiều đời”, thì cũng vô ích thôi! Cho dù ngươi cao quý giữa nhân loại, nhưng nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật, thì trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi vẫn là nhân loại bại hoại, so với bất kỳ con người bại hoại nào thì ngươi vẫn y hệt, chẳng có khác biệt gì. Bất kể trong nhân loại có bao nhiêu người ngưỡng vọng ngươi, tôn kính ngươi, dâng cúng ngươi, thì cũng vô ích thôi, cũng sẽ không thay đổi được địa vị, thân phận và thực chất của ngươi trong mắt Đức Chúa Trời. Tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời khi đánh giá nhân loại – đương nhiên cũng là cao độ và tiêu chuẩn cố hữu của Đức Chúa Trời để đánh giá nhân loại – chính là đánh giá bằng lẽ thật. Ngươi yêu thích lẽ thật và thực hành lẽ thật thì ngươi cao quý, còn ngươi không thực hành lẽ thật thì xác thịt già cỗi của ngươi chính là một con người bại hoại, chẳng đáng một xu, còn không bằng con kiến trên mặt đất. Ngoại trừ những vi sinh vật mà con người không thấy được, thì kiến là loài tương đối nhỏ trong số mọi sinh vật. Quy luật sinh hoạt, phép tắc sinh tồn và bản năng của chúng hoàn toàn tuân theo quy luật mà Đức Chúa Trời ấn định. Chúng dựa vào khí hậu và nhiệt độ của bốn mùa mà thay đổi chuyện sinh hoạt, làm việc và nghỉ ngơi của mình, chẳng bao giờ chủ động thay đổi những quy luật và phép tắc này. Nhưng nhân loại thì không như vậy, nhân loại luôn muốn thay đổi hiện trạng, thay đổi thế giới, luôn có dã tâm, luôn phản bội và phản nghịch. Mặc dù kiến không có cơ quan để tiếp nhận lẽ thật, không có chức năng để lĩnh hội lẽ thật, nhưng ít ra nó không chống đối Đức Chúa Trời. Nhân loại thì không như vậy, họ sẽ chủ động ra tay công kích và chống đối Đức Chúa Trời. Do đó, trong mắt Đức Chúa Trời, nhân loại chưa đạt được lẽ thật và chưa được cứu rỗi thì chẳng đáng một xu. Sự thật có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Dựa vào sự thật mà đánh giá và xác định tính chất người ta thì hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Thông qua việc thông công những vấn đề này, người ta nên có cái nhìn và nhận thức đúng đắn về thực chất của nhân loại và hiệu quả mà công tác của Đức Chúa Trời muốn đạt đến. Sau khi hiểu được phương diện lẽ thật này, bất kể đối với loại người nào – dù có bối cảnh tôn giáo hay không, dù có thân phận và địa vị trong xã hội hay là có địa vị xã hội thấp kém, dù là người da trắng hay da màu – khi trao truyền phúc âm cho họ hoặc qua lại và thông công với họ, các ngươi sẽ không còn bị kìm kẹp nữa phải không? (Thưa, phải.) Nếu các ngươi không hiểu lẽ thật, thì đối với người thuộc chủng tộc khác, các ngươi sẽ không tránh khỏi chuyện xem trọng họ, hoặc cảm giác mình dò không thấu họ, không biết nên thông công hoặc qua lại với họ như thế nào. Vậy hiểu những lẽ thật này rồi thì có hỗ trợ cho các ngươi trong việc qua lại với họ hay không? Nó sẽ giúp cho các ngươi có thể đứng ở lập trường đúng đắn và dùng quan điểm đúng đắn để nhìn nhận toàn thể nhân loại này. Đây là ích lợi của việc hiểu lẽ thật. Hiểu lẽ thật rồi thì góc độ nhìn nhận sự việc của ngươi sẽ đúng đắn, cũng sẽ tương đối rộng rãi, không hẹp hòi lắm nữa. Nếu không, khi làm lãnh đạo và người làm công thì ngươi sẽ luôn thiếu tự tin, cảm thấy bản thân một là không có sự từng trải, hai là không có trải nghiệm, ba là không giỏi nói chuyện và không nhìn thấu tình trạng của đa số mọi người, nhất là hễ thấy người lớn tuổi là sợ hãi, bồn chồn, không dám nói chuyện. Còn có một vài người nói rằng: “Nhất là khi gặp người thâm niên trong tôn giáo, mà người ta lại hiểu tri thức Kinh Thánh, thì con không biết nên rao truyền phúc âm cho họ như thế nào. Trong lòng con thấy sợ, cảm giác mình thua người ta một bậc”. Ngươi hiểu bao nhiêu lẽ thật như vậy rồi, ngươi còn sợ cái gì chứ? Đây chẳng phải là nhìn không thấu sự tình hay sao? Người nào hiểu lẽ thật thì nên có thể giải quyết được những chuyện này, những vấn đề này, không để chúng kìm kẹp mình nữa.
Thông qua những chủ đề chúng ta thông công hôm nay, các ngươi hiểu được những phương diện lẽ thật nào rồi? Về công tác của Đức Chúa Trời, cách Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, phương thức Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, và những phương diện nơi con người mà Đức Chúa Trời thay đổi, các ngươi đã rõ cả chưa? (Thưa, đã rõ.) Rõ rồi thì chẳng phải các ngươi càng cảm nhận được tầm quan trọng của việc thực hành lẽ thật và dùng lẽ thật mà đánh giá hết thảy mọi sự rồi sao? (Thưa, phải.) Chẳng phải các ngươi càng cảm thấy việc mưu cầu lẽ thật và hiểu lẽ thật quá quan trọng sao? Nếu người ta không hiểu lẽ thật, thì chẳng nhìn thấu được chuyện gì, chẳng nhìn thấu các loại người, cũng chẳng nhìn thấu người thuộc mọi nước và mọi dân tộc, như vậy thì họ đúng là kẻ ngốc, kẻ đần độn rồi. Có những người thấy ai đeo kính thì cho rằng đó là giáo sư hay phần tử tri thức, thế là bị kìm kẹp và không dám nói chuyện, hễ thấy ai cao lớn, tướng mạo đẹp, thì cảm thấy mình thua họ một bậc. Sau khi hiểu lẽ thật rồi, người ta sẽ không còn bị những thứ này ảnh hưởng quá nhiều nữa phải không? Một mặt, họ sẽ không kìm kẹp bản thân, mặt khác, họ cũng sẽ cải thiện thái độ đối nhân xử thế đến một mức độ nhất định, cũng sẽ có kiến thức về chuyện đối nhân xử thế. Như vậy thì sẽ có ích cho việc làm bổn phận, nhất là có ích cho việc làm công tác của lãnh đạo và người làm công các cấp. Hiểu được đối tượng mà công tác của Đức Chúa Trời nhắm đến cùng hàm nghĩa thực sự trong công tác của Đức Chúa Trời rồi, thì người ta nên làm thế nào mới tiếp cận đúng đắn với điều kiện vốn có của riêng mình? Có mấy nguyên tắc? (Thưa, những điều mà con nghĩ đến được là người ta nên nhìn nhận đúng đắn những điều kiện của mình như tính cách, tố chất, v.v., không tiếp tục mưu cầu những điều siêu nhiên hay mưu cầu làm siêu nhân nữa, việc gì bản thân có thể làm được thì cứ làm hết khả năng của mình, việc gì mình với không tới thì cũng không cần cưỡng ép bản thân phải đạt đến. Sống như vậy thì sẽ được giải phóng hơn, nhân tính cũng ngày càng bình thường.) Trước hết, nếu ngươi muốn làm việc ngu muội và ngu xuẩn, thì trước tiên hãy tìm hiểu cho rõ xem điều kiện của ngươi như thế nào: tố chất của ngươi là gì, ngươi có sở trường gì, giỏi cái gì, không giỏi cái gì, cũng như dựa vào tuổi tác, giới tính, tri thức đã nắm vững và kiến thức, sự từng trải của mình mà xem mình có thể làm những việc gì và không thể làm những việc gì. Nghĩa là bản thân ngươi nên biết rõ mình có những điểm mạnh và điểm yếu nào trong bổn phận và công tác mình làm, tính cách của bản thân mình có những khuyết điểm và ưu điểm nào. Khi đã thấy rõ điều kiện và ưu khuyết điểm của bản thân mình rồi, thì ngươi hãy nhìn xem những ưu điểm và điểm mạnh nào nên được duy trì, những khuyết điểm và tật xấu nào có thể được khắc phục hoặc về cơ bản không thể khắc phục được – ngươi phải rõ những chuyện này. Muốn đạt đến thấy rõ ràng như vậy, thì một mặt bản thân ngươi phải tìm kiếm lẽ thật, đối chiếu với lời Đức Chúa Trời mà suy ngẫm và nhận biết, đồng thời cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tỏ lộ cho; mặt khác, ngươi cũng có thể hỏi các anh chị em xung quanh mình, bảo họ nhắc nhở và chỉ ra cho ngươi, như vậy thì ngươi sẽ hiểu rõ bản thân mình sâu sắc hơn, sẽ có thêm ý tưởng và manh mối về chuyện nhận biết bản thân. Có một vài vấn đề mà con người không thể giải quyết được. Chẳng hạn như, ngươi thường cảm thấy bồn chồn khi nói chuyện với người khác; lúc gặp chuyện, dù ngươi có ý nghĩ và quan điểm riêng, nhưng lại không thể nói rõ ra được. Ở chốn đông người thì ngươi đặc biệt bồn chồn, nói năng không mạch lạc, run đến líu lưỡi. Có người thậm chí bị nói lắp; lại có người khi ở nơi nào có người khác giới thì càng nói năng khó hiểu, đơn giản là không biết nên nói gì hay làm gì. Chuyện này có dễ khắc phục không? (Thưa, không dễ.) Ít nhất là không dễ khắc phục khuyết điểm trong thời gian ngắn, bởi vì nó là một phần điều kiện bẩm sinh của ngươi. Nếu sau vài tháng rèn luyện mà ngươi vẫn bồn chồn, thì sự bồn chồn sẽ biến thành áp lực, và áp lực gây ảnh hưởng tiêu cực lên ngươi, khiến ngươi sợ nói chuyện, sợ gặp gỡ người khác, sợ tham dự nhóm họp và sợ giảng đạo. Những nỗi sợ này có thể đánh gục ngươi. Vậy ngươi nên làm gì? Ngươi có thể suy ngẫm về vấn đề này và nói với người khác, xem người khác khi gặp phải vấn đề này thì có tâm thái gì, giải quyết ra sao. Ngươi cũng nên thực hành như thế. Chẳng hạn như, hôm nay ngươi nhóm họp với trạng thái không tệ, tâm trạng cũng rất vui vẻ, hơn nữa còn được cảm động nhờ việc đọc lời Đức Chúa Trời, và trong lòng rất muốn diễn đạt ý mình. Vừa hay nhóm nhỏ nhóm họp thì chỉ có mấy người, thế là ngươi thử thông công vài câu, và cảm thấy không tệ, cũng không bị bồn chồn. Trong tình huống không bị áp lực gì và không có chuẩn bị gì, ngươi tự do phát huy, nói đặc biệt hay, mọi người cũng rất cảm động và được gây dựng nhiều. Đây chẳng phải là có sự tiến bộ sao? Cứ bắt đầu rèn luyện nói chuyện và thông công ở buổi nhóm họp ít người của nhóm nhỏ, dần dần ngươi sẽ đạt đến việc nói chuyện bình thường, sự bồn chồn cũng dần dần biến mất. Rèn luyện như thế này sẽ đạt kết quả tốt nhất. Trước hết, hãy chọn buổi nhóm họp của nhóm nhỏ ít người hoặc không chính thức mà rèn luyện, ngẫu hứng nói chuyện và thông công như đang tám chuyện để khắc phục khuyết điểm này của ngươi. Có lúc ngươi nói được một phút thì cảm thấy có chút bồn chồn, càng nói thì trong lòng càng thấy mất tự tin, càng nói thì càng ít lời để nói, nếu vậy thì đừng nói nữa, hãy nhanh chóng kết lời và dừng lại. Có lúc ngươi nói được một hồi, thì mọi người đều sẵn lòng nghe, đều cảm thấy rất được giải phóng, với bầu không khí như vậy, chẳng biết từ lúc nào sự bồn chồn và áp lực nơi ngươi đã biến mất. Chỉ có trong trường hợp như vậy thì khuyết điểm này của ngươi mới có thể dần dà được cải thiện – nhưng nó sẽ không được khắc phục. Nếu ngươi cảm thấy sau một tháng rèn luyện mà tình trạng của mình vẫn không cải thiện gì nhiều, thậm chí trong lòng còn nảy sinh một dạng áp lực, khiến ngươi càng thêm bồn chồn, dẫn đến ảnh hưởng công tác, cuộc sống và bổn phận bình thường của ngươi, thì ngươi không cần rèn luyện nữa. Ngươi có thể làm bổn phận một cách bình thường là được rồi. Chỉ cần chú trọng làm tốt bổn phận, như vậy là đúng đắn rồi. Những thiếu sót, khuyết điểm đó, ngươi cứ giữ trong lòng, thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, sau đó tìm dịp thích hợp mà tập nói chuyện và qua lại với người khác, biểu đạt những lời trong lòng ngươi bằng cách nói rõ ràng từng câu từng chữ, có bài có bản. Như thế thì thiếu sót và khuyết điểm của ngươi sẽ dần dần được cải thiện. Cũng có thể sau một hoặc hai năm, khi ngươi trưởng thành hơn trong tuổi đời và quen thuộc hơn với những người quanh mình, thì ánh mắt và ý kiến của họ, cũng như bầu không khí tạo ra khi mọi người quy tụ, có lẽ không còn gây nên áp lực, sự kìm kẹp và trói buộc đối với ngươi, vậy thì có thể khuyết điểm của ngươi sẽ được khắc phục và giải quyết khi ở giữa những người này. Đây là dạng người mắc dạng nặng nhất của khuyết điểm này, họ chỉ có thể khắc phục nó thông qua thời gian dài tôi luyện và rèn luyện trong môi trường như vậy. Dĩ nhiên, cũng có những người dần dần giải quyết được khuyết điểm trong vòng ba đến năm tháng, khi giao tiếp và nói chuyện bình thường với người khác thì họ không bồn chồn, trừ phi gặp phải dịp nào quá đông người thì họ mới bồn chồn. Do đó, nếu ngươi khắc phục được thiếu sót và khuyết điểm này trong thời gian ngắn, thì cứ khắc phục. Nếu như khó khắc phục, thì cứ mặc kệ nó, đừng đấu tranh với nó, cũng không cần phải thách thức bản thân. Đương nhiên, khắc phục không được thì cũng không cần cảm thấy tiêu cực. Thậm chí nếu cả đời này ngươi không khắc phục được, thì Đức Chúa Trời cũng không định tội ngươi, bởi vì đây không phải là tâm tính bại hoại của ngươi. Ngươi sợ đứng trên sân khấu, ngươi bồn chồn và sợ hãi, những biểu hiện này không phải là tâm tính bại hoại. Cho dù chúng là bẩm sinh hay do môi trường sau này tạo nên, thì cùng lắm chúng chỉ là thiếu sót, là khuyết điểm trong nhân tính của ngươi. Nếu ngươi không thể thay đổi được chuyện này trong thời gian dài, hoặc suốt cả một đời, thì cũng không cần phải đắm chìm vào nó, đừng để nó kìm kẹp ngươi, cũng đừng tiêu cực vì nó, bởi vì nó không phải là tâm tính bại hoại của ngươi, cố thay đổi nó hoặc đấu tranh với nó cũng chẳng ích gì. Nếu ngươi không thay đổi được, thì cứ tiếp nhận nó, để nó tồn tại, tiếp cận nó một cách đúng đắn, bởi vì ngươi có thể để dạng thiếu sót và khuyết điểm này cộng sinh với ngươi, chúng cũng không ảnh hưởng đến việc ngươi đi theo Đức Chúa Trời và làm bổn phận. Chỉ cần ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật và làm bổn phận hết sức mình, thì ngươi vẫn có thể được cứu rỗi, nó không ảnh hưởng đến việc ngươi tiếp nhận lẽ thật hay được cứu rỗi. Do đó, ngươi không nên vì một thiếu sót hoặc khuyết điểm nào đó trong nhân tính mà thường xuyên bị kìm kẹp, thường xuyên tiêu cực và nản lòng, thậm chí vì nó mà vứt bỏ bổn phận, vứt bỏ việc mưu cầu lẽ thật và bỏ lỡ cơ hội được cứu rỗi. Như vậy thật không đáng chút nào, ai làm như vậy thì đúng là ngu muội và vô tri.
Có những người khi hát thì chỉ có thể hát lên đến quãng giữa, có rèn luyện thế nào cũng không hát được quãng cao, vậy thì nên làm thế nào? Vậy thì cứ hát quãng thấp và quãng giữa, hát tốt quãng thấp và quãng giữa là được rồi. Nếu ngươi luôn muốn thách thức bản thân, nói rằng: “Tôi hát quãng giữa rất tốt, tôi còn muốn thách thức bản thân hát quãng cao”, vậy ngay cả khi ngươi thách thức bản thân thành công thì cũng chẳng có ý nghĩa gì, cũng không có nghĩa là ngươi đã đạt được lẽ thật. Cùng lắm thì cũng chỉ có nghĩa là ngươi có thêm một kỹ năng, có thể làm thêm một bổn phận, có thể hát thêm một vài bài, có thể nở mày nở mặt hơn, vậy thì sao chứ? Ngươi nở mày nở mặt hơn thì nghĩa là ngươi thực hành lẽ thật nhiều hơn sao? Hai chuyện này có quan hệ gì với nhau không? (Thưa, không có.) Nếu ngươi có thể hát quãng giữa, thì cứ hát quãng giữa cho tốt, nếu ngươi hát quãng cao không tốt mà cứ nhất quyết phải dốc sức hát, kết quả là hát không đúng tông, còn tự làm mình mỏi mệt, mà Đức Chúa Trời cũng không ghi nhớ. Bất kể ngươi có thể hát quãng cao hay là có thể hát quãng giữa, chỉ cần ngươi có thể hát cho hay, trong bổn phận thì làm tròn lòng trung thành và làm hết khả năng của mình, không qua loa chiếu lệ hay gian xảo trốn việc, cũng không làm xằng làm bậy hay nói chuyện trên trời, bất kể về mặt kỹ thuật, cảm xúc hay âm sắc và nốt nhạc, ngươi đều nỗ lực hát sao cho đạt tiêu chuẩn, cho đẹp, cho nhập tâm, hát sao cho có thể khiến người ta cảm động, khiến người ta có thể tĩnh tâm trước mặt Đức Chúa Trời, khiến người ta nghe ngươi hát thì được gây dựng – như vậy chính là làm bổn phận đạt tiêu chuẩn. Ngươi mà luôn muốn thách thức giới hạn tối đa của bản thân, luôn muốn tạo đột phá cá nhân và vượt qua chính mình, thì đấy chính là bộc lộ tâm tính bại hoại của Sa-tan, chứ không phải là làm bổn phận. Sau khi làm tốt công tác thuộc chức phận của mình và việc mà bản thân mình có thể làm được rồi, thì lúc rảnh rỗi ngươi học thêm một vài thứ hữu dụng cho việc làm bổn phận, như vậy cũng được, nhưng đấy không phải là điều mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Nếu ngươi hát quãng giữa tốt rồi, lúc rảnh rỗi thì luyện tập hát quãng cao một chút, qua một thời gian thì có bước đột phá, qua hai năm hoặc ba năm khắc khổ và nỗ lực thì ngươi đã hát tốt được quãng cao. Ngươi có thể hát được cả quãng giữa lẫn quãng cao và có thể làm được cả hai bổn phận này, trong hai bổn phận này ngươi đều có thể làm theo nguyên tắc, dùng tấm lòng mà hát, không qua loa, không gian xảo trốn việc, cũng không nói chuyện trên trời – như vậy thì càng tốt, như vậy chính là việc lành và được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Nhưng nếu ngươi không đạt đến được những chuyện này, luôn cảm thấy: “Đức Chúa Trời đặt kỳ vọng cao nơi mình. Mình mà chỉ hát quãng giữa thì chẳng phải là gian xảo trốn việc sao? Đức Chúa Trời không hài lòng đâu!” Vậy thì đó là tưởng tượng của bản thân ngươi, là ngươi đang ức đoán về Đức Chúa Trời, lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử. Đức Chúa Trời đâu có yêu cầu ngươi như vậy. Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi làm tốt việc ngươi nên làm trong phạm vi tố chất và năng lực vốn có của ngươi. Ngươi dựa theo nguyên tắc do Đức Chúa Trời yêu cầu mà làm tốt, thì Đức Chúa Trời sẽ chấm cho ngươi điểm tuyệt đối. Nhưng với những việc trong phạm vi ngươi có thể đạt đến được, mà ngươi không nghiêm túc làm, cũng không chiếu theo nguyên tắc mà làm, luôn gian xảo trốn việc, luôn muốn nói chuyện trên trời, không luyện tập kỹ thuật mọi mặt của việc ca hát, mà còn muốn thách thức giới hạn tối đa của bản thân – ngươi mà làm như vậy thì chính là biểu hiện thiếu lý trí, kiêu ngạo và vô tri, Đức Chúa Trời sẽ không vui lòng. Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ không nói: “Người này có thể hát quãng giữa tốt, còn đang cố hát quãng cao nữa. Mặc dù hát không tốt nhưng vậy cũng là có lòng, mà có lòng là được rồi”. Đức Chúa Trời sẽ không nhìn nhận ngươi như vậy, ngươi đừng tự cảm thấy mình tốt. Đức Chúa Trời chỉ nhìn xem ngươi có làm người một cách có khuôn phép hay không, có phải là người làm tốt bổn phận của một loài thọ tạo hay không. Ngài nhìn xem liệu khi làm bổn phận ngươi có dựa trên những điều kiện vốn có Ngài cho ngươi mà làm hết lòng hết sức không, có làm việc theo nguyên tắc và đạt được hiệu quả mà Đức Chúa Trời muốn không. Nếu ngươi làm được tất cả những việc này, thì Đức Chúa Trời sẽ chấm cho ngươi mười điểm. Nếu như ngươi không dựa theo yêu cầu của Đức Chúa Trời mà làm, thì cho dù ngươi có nỗ lực hay bỏ công sức đi chăng nữa, nhưng nếu mọi việc ngươi làm chỉ là để thể hiện và khoe khoang bản thân, khi làmbổn phận thì không làm theo nguyên tắc hoặc hết lòng hết sức để làm Đức Chúa Trời hài lòng. Vậy thì những biểu hiện và hành vi của ngươi sẽ khiến Đức Chúa Trời ghê tởm. Tại sao Đức Chúa Trời lại ghê tởm chúng? Đức Chúa Trời phán rằng ngươi không chuyên tâm vào việc chính đáng, không hết lòng, hết sức, hết trí mà làm bổn phận, và ngươi không đi theo con đường đúng đắn. Đức Chúa Trời ban cho ngươi tố chất, ân tứ và tài cán đủ dùng, chỉ là ngươi không hài lòng, không trung thành với bổn phận, không bao giờ an phận, luôn muốn khoác lác và phô bày bản thân, cuối cùng khiến bổn phận rối tinh rối mù. Đức Chúa Trời ban cho ngươi tố chất, ân tứ và tài cán, mà ngươi không phát huy, không dốc hết sức lực, không đạt được thành quả gì. Dù ngươi vô cùng bận rộn, nhưng Đức Chúa Trời phán ngươi là thằng hề, không phải là một người biết an phận và chuyên tâm vào việc chính đáng. Đức Chúa Trời không thích dạng người này. Do đó, bất kể ngươi tính toán thế nào hay có mục tiêu gì, cuối cùng, ngươi đâu có dựa trên nền tảng là điều kiện vốn có do Đức Chúa Trời ban cho ngươi như tố chất, ân tứ, tài cán, năng lực, v.v. mà đạt đến việc hết lòng, hết trí, hết sức làm bổn phận dựa theo nguyên tắc do Đức Chúa Trời yêu cầu. Vậy thì Đức Chúa Trời sẽ không ghi nhớ việc ngươi làm, ngươi cũng không phải là đang làm bổn phận, mà thay vào đó, ngươi đang hành ác.
Các ngươi đã hiểu nguyên tắc thực hành về cách đối đãi đúng đắn với các điều kiện bẩm sinh của bản thân – nghĩa là các điều kiện và ưu khuyết điểm của bản thân – hay chưa? (Thưa, đã hiểu.) Bước thứ nhất là gì? Trước hết là đem ân tứ, năng lực và sở trường vốn có và có sẵn do Đức Chúa Trời ban cho ngươi, cùng với nghiệp vụ và kỹ thuật ngươi có thể với tới và đạt đến, mà phát huy tối đa, không giữ lại gì cả. Nếu ngươi đạt đến việc làm Đức Chúa Trời thỏa lòng trong mọi chuyện này rồi, và bản thân ngươi cảm thấy mình còn có thể vươn cao hơn nữa, vậy thì ngươi hãy nhìn xem những nghiệp vụ và kỹ thuật nào ngươi có thể nâng cao và đột phá trong phạm vi mà tố chất của ngươi có thể đạt đến. Rồi ngươi có thể dựa vào những gì tố chất của mình có thể với tới để tiếp tục học tập và nâng cao. Vậy, nên thực hành việc buông bỏ những quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời như thế nào? Trước tiên, ngươi phải hiểu rõ điều kiện bẩm sinh của mình là gì, Đức Chúa Trời ban cho ngươi những gì, ngươi nên vận dụng chúng như thế nào, làm sao để nó phát huy tiềm năng lớn nhất và phát huy đến mức tối đa, biến nó một điều kiện cơ bản để ngươi đạt đến chuyện trung thành làm bổn phận, chứ không phải là chướng ngại cho chuyện đó. Hãy hiểu rõ những điểm mạnh của mình và để chúng được phát huy. Hãy hiểu rõ những khuyết điểm và khiếm khuyết của mình, nếu có thể thay đổi chúng trong thời gian ngắn thì hãy thay đổi chúng, nếu không dễ thay đổi chúng thì cũng đừng để chúng trở thành chướng ngại và vật cản trong quá trình ngươi làm bổn phận, đừng để chúng kìm kẹp và ảnh hưởng ngươi, cũng đừng để chúng trói buộc và ràng buộc tay chân ngươi. Chẳng hạn như, sức khỏe của ngươi bẩm sinh đã không tốt, thể chất kém. Ngươi luôn muốn khắc phục chuyện này, muốn mình có thể ăn uống và thức khuya như người bình thường, nhưng Đức Chúa Trời không ban cho ngươi vốn liếng này. Vậy ngươi cứ dựa theo điều kiện riêng của mình mà ứng phó từng ngày trong cuộc sống thường nhật và hành động theo nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Ngươi đừng thách thức bản thân, đừng để khuyết điểm và khiếm khuyết riêng của ngươi trở thành chướng ngại và vật cản trên con đường ngươi đi theo Đức Chúa Trời, làm bổn phận và mưu cầu lẽ thật. Ngươi cũng đừng để chúng trở thành nguồn cơn khiến ngươi tiêu cực, càng đừng vì bản thân có khiếm khuyết, khuyết điểm hoặc thiếu sót về phương diện nào đó mà từ bỏ việc mưu cầu lẽ thật hoặc việc làm bổn phận, cũng đừng vì chúng mà nảy sinh sự đố kỵ hoặc căm ghét đối với người khác – đấy đều là những chuyện không nên. Ngươi phải tiếp cận một cách đúng đắn với khiếm khuyết và khuyết điểm của bản thân, nếu ngươi không thay đổi chúng được, thì nên cho phép chúng tồn tại, sau đó thì tìm kiếm lẽ thật và hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, có thể tiếp cận chúng một cách đúng đắn, không để chúng kìm kẹp mình. Tại sao phải làm như vậy? Bởi vì đây là lý trí mà người có nhân tính bình thường nên có. Nếu lý trí trong nhân tính của ngươi bình thường, thì ngươi nên đối mặt một cách đúng đắn với những khuyết điểm và khuyết điểm của mình, có thể thừa nhận và tiếp nhận chúng, như vậy sẽ có ích cho ngươi. Tiếp nhận chúng không có nghĩa là bị chúng kìm kẹp, cũng không có nghĩa là thường xuyên tiêu cực vì chúng, mà là đừng để chúng kìm kẹp ngươi, cũng như nhận ra rằng ngươi chỉ là thành viên bình thường trong nhân loại bại hoại, có khuyết điểm, có khuyết điểm, chẳng có gì để khoe khoang, nghĩa là chính Đức Chúa Trời nâng cao con người để họ làm bổn phận, chính Đức Chúa Trời muốn nhào nặn lời Ngài và sự sống vào trong họ, cho họ đạt được sự cứu rỗi, thoát khỏi quyền thế của Sa-tan – đây đều là do Đức Chúa Trời nâng cao con người. Bất kỳ con người nào cũng có khuyết điểm và khuyết điểm, ngươi nên để chúng cộng sinh với ngươi, đừng trốn tránh chúng, cũng đừng che đậy chúng, không cần thường xuyên cảm thấy vì chúng mà bị dồn nén trong nội tâm hay là thậm chí luôn cảm thấy mình thua người một bậc. Ngươi không thua người một bậc, nếu khi làm bổn phận mà ngươi có thể đạt đến dốc hết lòng, hết sức và hết ý, làm hết khả năng của mình và có tấm lòng chân thành, thì trước mặt Đức Chúa Trời, ngươi sẽ quý báu như vàng. Nếu ngươi làm bổn phận mà lại không thể trả giá và không trung thành, thì ngay cả khi điều kiện bẩm sinh của ngươi tốt hơn người bình thường, trước mặt Đức Chúa Trời, ngươi cũng không hề quý báu, còn chẳng bằng hạt cát. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Bất kể là tướng mạo bẩm sinh, tố chất và tài cán bẩm sinh, hoặc khuyết điểm và thiếu sót về phương diện nào đó trong nhân tính của ngươi, thì ngươi đừng để chúng kìm kẹp và ảnh hưởng đến lòng trung thành và sự thuận phục của ngươi đối với Đức Chúa Trời, cũng đừng để chúng ảnh hưởng đến việc ngươi mưu cầu lẽ thật, đương nhiên, càng không được để chúng ảnh hưởng đến đại sự là chuyện ngươi được cứu rỗi. Ngươi phải tiếp cận một cách đúng đắn với những khiếm khuyết và thiếu sót của mình, để chúng cùng tồn tại với ngươi. Nghĩa là ngươi đừng tiếp tục thử thay đổi chúng nữa, bởi vì căn bản chúng không ảnh hưởng chút gì đến chuyện ngươi hết lòng, hết sức làm bổn phận, đương nhiên chúng cũng không ảnh hưởng đến chuyện ngươi làm bổn phận theo nguyên tắc, càng không ảnh hưởng đến chuyện ngươi một đời mưu cầu lẽ thật khi tin Đức Chúa Trời, cũng không ảnh hưởng đến cách ngươi nhìn nhận con người và sự việc, làm người và hành động trong quá trình mưu cầu lẽ thật. Đương nhiên, ngươi cũng không cần lúc nào cũng cưỡng ép bản thân, nghĩ rằng: “Không được để lộ khuyết điểm, không được để người khác thấy khiếm khuyết của mình, không được để người khác xem thường mình!” Làm như vậy thì ngươi sẽ sống rất mệt mỏi. Nếu ngươi cho phép khiếm khuyết và khuyết điểm cùng tồn tại với ngươi, thì ngươi sẽ cho phép sự tồn tại của chúng, ngay cả khi người khác thấy khiếm khuyết của ngươi, thì chuyện đó có khi còn có ích cho ngươi, cũng là một sự bảo vệ cho ngươi, ngăn ngươi khỏi kiêu ngạo và tự đại. Đương nhiên, đối với nhiều người, bộc lộ khiếm khuyết của mình là một việc cần đến dũng khí. Có những người nói: “Người ta đều bộc lộ điểm mạnh và ưu điểm của mình. Ai lại cố ý bộc lộ điểm yếu và khiếm khuyết của mình chứ?” Nhưng đó không phải là cố ý bộc lộ, mà là cho phép chúng bộc lộ. Chẳng hạn như, ngươi nhút nhát, nói chuyện ở chỗ đông người thì thường thấy bồn chồn, thế là ngươi chủ động bảo người ta: “Khi nói chuyện, tôi rất dễ bị bồn chồn, mọi người thông cảm cho tôi nhé, đừng bới móc khuyết điểm của tôi là được”. Ngươi chủ động bộc lộ khuyết điểm của mình cho mọi người, để mọi người thông cảm và bao dung cho ngươi, để cho mọi người hiểu rõ ngươi, mà mọi người càng hiểu rõ ngươi thì lòng ngươi càng bình thản, càng không bị chúng kìm kẹp. Như vậy thì ngược lại còn đem lại ích lợi và sự giúp đỡ cho ngươi. Ngươi luôn che đậy khiếm khuyết và khuyết điểm của mình, thì chứng tỏ ngươi không muốn cùng tồn tại với chúng. Nếu ngươi cho phép chúng cùng tồn tại với ngươi, thì ngươi phải bộc lộ chúng ra, đừng cảm thấy mất mặt, nhụt chí, cũng đừng cảm thấy mình thua người một bậc, bản thân không ra gì và không có hy vọng được cứu rỗi. Chỉ cần ngươi có thể mưu cầu lẽ thật, có thể đạt đến hết lòng, hết sức và hết trí làm bổn phận theo nguyên tắc, có tấm lòng chân thành và không qua loa chiếu lệ, thì ngươi sẽ có hy vọng được cứu rỗi. Nếu có người nói: “Xem anh khiếp nhược và vô dụng thế nào kìa. Nói mấy câu mà cũng bồn chồn đến vậy, mặt mày đỏ hết cả lên”. Thì ngươi hãy nói: “Tôi có tố chất kém, không biết ăn nói. Các anh mà khích lệ tôi thì còn dám rèn luyện một chút”. Ngươi đừng cảm thấy bản thân không ra gì hay là thấy bị mất mặt. Bởi vì ngươi biết nó là khiếm khuyết của ngươi, là một vấn đề trong nhân tính của ngươi, thì ngươi phải đối diện thẳng với nó và chấp nhận nó, đừng để mình bị ảnh hưởng gì vì nó. Còn về chuyện lúc nào những khiếm khuyết và khuyết điểm này có thể thay đổi, thì ngươi đừng bận tâm, ngươi chỉ cần bận tâm chuyện sinh hoạt bình thường và làm bổn phận bình thường như vậy là được rồi. Ngươi chỉ phải ghi nhớ rằng những khiếm khuyết và khuyết điểm này trong nhân tính không phải là điều tiêu cực, cũng không phải là tâm tính bại hoại. Chỉ cần không phải là tâm tính bại hoại thì chúng sẽ không ảnh hưởng đến chuyện ngươi làm bổn phận hoặc mưu cầu lẽ thật, càng không ảnh hưởng chuyện ngươi đạt được sự cứu rỗi, đương nhiên, quan trọng hơn chút nữa, chúng sẽ không ảnh hưởng cách Đức Chúa Trời nhìn nhận ngươi. Như vậy thì ngươi đã yên tâm chưa? (Thưa, rồi.) Nếu ngươi còn lo chuyện bị người khác xem thường, vậy thì đó là vấn đề về tâm tính kiêu ngạo của ngươi, và ngươi phải giải quyết tâm tính kiêu ngạo này. Đây là con đường thực hành để tiếp cận một cách đúng đắn với những khiếm khuyết và khuyết điểm riêng của ngươi. Thực hành như vậy thì chẳng phải dễ buông bỏ chúng và không còn bị chúng kìm kẹp sao? (Thưa, phải.)
Giữa việc làm bổn phận một cách bình thường và những khiếm khuyết, khuyết điểm trong nhân tính có ảnh hưởng qua lại không? (Thưa, thông qua mối thông công của Đức Chúa Trời, thì hiện tại con hiểu rồi. Khiếm khuyết và khuyết điểm trong nhân tính không phải là tâm tính bại hoại, chúng sẽ không ảnh hưởng đến chuyện người ta làm bổn phận một cách bình thường. Chỉ cần dựa vào nguyên tắc mà làm bổn phận thì sẽ có kết quả tốt. Còn về khiếm khuyết và thiếu sót trong nhân tính, nếu chúng là thứ có thể khắc phục thì chúng con sẽ có thể khắc phục. Nếu không thể khắc phục trong thời gian ngắn thì nên cho phép chúng tồn tại và có thể tiếp cận chúng một cách đúng đắn.) Nếu trình độ văn hóa của ngươi thấp, nhưng bổn phận ngươi làm cần dùng đến tri thức văn hóa, vậy có phải là một khiếm khuyết không? (Thưa, phải.) Vậy thì nên giải quyết khó khăn này như thế nào? (Thưa, một mặt, có thể xét theo trình độ văn hóa của mình mà làm bổn phận nào thích hợp với mình. Nếu bổn phận đó thích hợp với mình, nhưng vẫn cần tri thức văn hóa nhất định, thì có thể tìm một vài anh chị em có trình độ văn hóa để phối hợp, lấy mạnh bù yếu, cùng nhau làm tốt bổn phận đó.) Có thể dùng lẽ thật để bù đắp cho trình độ văn hóa thấp không? (Thưa, có thể, bởi vì có lẽ thật thì sẽ có thể nhìn thấu mọi chuyện.) Văn hóa là thứ thuộc về tầm mức tri thức, tri thức ngươi có cao đến đâu mà không hiểu lẽ thật, thì khi nói chuyện hoặc viết bài, ngươi chỉ viết đúng ngữ pháp thôi, chứ ngươi đâu có nói cho thấu hay giải quyết được những vấn đề liên quan đến lẽ thật. Do đó, văn hóa không quan trọng, lẽ thật thì quan trọng hơn văn hóa. Đương nhiên, nếu ngươi không có nền tảng văn hóa, mà bổn phận ngươi làm lại liên quan đến tri thức văn hóa, thì ngươi sẽ không đảm đương nổi. Tuy nhiên, nếu ngươi hiểu lẽ thật, thì ngươi có thể chỉ dẫn cho người khác – có thể giám định về mặt nguyên tắc lẽ thật. Nếu trình độ văn hóa của ngươi thấp, năng lực diễn đạt kém, mà ngươi muốn giảng đạo hoặc thông công về lẽ thật, thì ngươi có thể tìm người có văn hóa giúp ngươi chỉnh lý, như vậy thì sẽ dễ dàng đạt kết quả khi ngươi thông công và giảng đạo. Nhưng ít nhất, ngươi phải hiểu lẽ thật. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật, lại không có văn hóa, thì ngươi không làm nổi bổn phận có liên quan đến văn hóa này, vậy ngươi nên làm bổn phận nào phù hợp với trình độ văn hóa của mình. Như vậy chẳng phải là giải quyết được vấn đề rồi sao? (Thưa, phải.) Do đó, dù nhìn từ bất kỳ góc độ nào, thì mưu cầu lẽ thật là điều quan trọng nhất. Khuyết điểm và thiếu sót của nhân tính thì ngươi có thể tránh được, nhưng con đường mưu cầu lẽ thật thì ngươi vĩnh viễn không tránh được. Bất kể nhân tính của ngươi hoàn mỹ, cao thượng cỡ nào, bất kể tật xấu, khuyết điểm của ngươi ít hơn so với người khác và sở trường nhiều hơn người khác đi chăng nữa, đều không có nghĩa là ngươi hiểu rõ lẽ thật, đều không thể thay thế được việc ngươi mưu cầu lẽ thật. Ngược lại, nếu mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ hiểu được nhiều lẽ thật, hiểu lẽ thật đủ sâu, đủ thực tế, thì sẽ bù đắp cho rất nhiều vấn đề và khiếm khuyết về khía cạnh nhân tính của ngươi. Chẳng hạn như, ngươi nhút nhát và có tính cách hướng nội, lại còn nói lắp, trình độ văn hóa không cao – nghĩa là ngươi có quá nhiều khiếm khuyết và thiếu sót – nhưng ngươi có trải nghiệm thực tế, mặc dù ngươi nói chuyện cứ lắp ba lắp bắp, nhưng cũng có thể thông công lẽ thật rõ ràng, mọi người nghe rồi thì được gây dựng, ngươi cũng giải quyết được vấn đề, làm cho người khác thoát ra khỏi sự tiêu cực và giải trừ được những sự oán trách, hiểu lầm của họ đối với Đức Chúa Trời. Ngươi xem, mặc dù ngươi nói chuyện lắp ba lắp bắp, nhưng lời của ngươi có thể giải quyết vấn đề – những lời như vậy mới quan trọng làm sao! Người không rành mà nghe ngươi nói thì bảo ngươi ít học, nói chuyện không có ngữ pháp gì cả, có lúc dùng từ chẳng ăn nhập cho lắm, cũng có thể ngươi dùng cách nói thông tục hoặc ngôn ngữ đời thường, chẳng giống phong độ của người có văn hóa cao và có thể xuất khẩu thành văn. Nhưng lời ngươi thông công có thực tế lẽ thật, có thể giải quyết khó khăn của người khác, mọi người nghe xong rồi thì mây mù bao quanh họ đều tiêu tan hết và mọi vấn đề của họ đều được giải quyết. Ngươi xem, hiểu lẽ thật có quan trọng không? (Thưa, quan trọng.) Nếu ngươi không hiểu lẽ thật, thì ngay cả khi ngươi có tri thức, nói năng thì xuất khẩu thành văn, nhưng mọi người nghe xong thì cảm thấy: “Lời anh nói toàn là đạo lý, chẳng có chút gì là thực tế lẽ thật, chẳng giải quyết được vấn đề thực tế nào, vậy lời anh nói chẳng phải đều là lời sáo rỗng sao? Như vậy là anh không hiểu lẽ thật rồi. Vậy chẳng phải anh đích thị là người Pha-ri-si sao?” Ngươi giảng quá nhiều đạo lý rồi, mà vấn đề vẫn không được giải quyết, trong lòng ngươi còn nghĩ: “Tôi nói thành tâm lắm rồi, thành khẩn lắm rồi, sao các anh nghe mà chẳng hiểu vậy?” Ngươi nói một mớ đạo lý rồi, nhưng mọi người tiêu cực thì vẫn cứ tiêu cực, hiểu lầm Đức Chúa Trời thì vẫn cứ hiểu lầm, những khó khăn tồn tại trong việc làm bổn phận của họ chẳng được giải quyết chút gì, vậy thì những gì ngươi nói đều là rác rưởi. Bất kể nhân tính của ngươi có bao nhiêu khiếm khuyết và khuyết điểm, nếu lời ngươi nói có thực tế lẽ thật, vậy thì những gì ngươi thông công sẽ có thể giải quyết vấn đề. Nếu những gì ngươi giảng là đạo lý, chẳng có chút nhận thức thực tế nào, vậy thì ngươi có nói thêm bao nhiêu cũng không thể giải quyết được vấn đề thực tế của người khác. Bất kể người khác nhìn nhận ngươi như thế nào, chỉ cần điều ngươi giảng không phù hợp với lẽ thật, không thể nhắm vào tình trạng của người khác, không giải quyết được khó khăn của người khác, thì người khác sẽ không sẵn lòng nghe. Vậy giữa lẽ thật và điều kiện riêng của người ta, điều nào quan trọng hơn? (Thưa, lẽ thật.) Mưu cầu lẽ thật và hiểu lẽ thật là điều quan trọng nhất. Do đó, bất kể ngươi có khiếm khuyết về mặt nhân tính hay điều kiện bẩm sinh, thì đừng để mình bị kìm kẹp. Mà thay vào đó, ngươi nên mưu cầu lẽ thật, mượn việc hiểu lẽ thật để bổ túc cho các dạng khiếm khuyết khác nhau của mình, nếu phát hiện ra khuyết điểm thì hãy nhanh chóng chỉnh đốn. Có những người chẳng chú trọng mưu cầu lẽ thật, mà luôn chú trọng giải quyết những khó khăn, khuyết điểm và khiếm khuyết trong nhân tính, cũng như chỉnh đốn vấn đề trong nhân tính của mình. Kết quả là họ dốc công sức mấy năm mà chẳng có kết quả rõ rệt nào, thế là họ thất vọng về bản thân, cảm thấy nhân tính của mình quá kém và hết thuốc chữa. Như vậy có phải là quá ngu muội không?
Có những người bề ngoài thì hòa nhã, biết bao dung và nhẫn nhịn, nói năng có tu dưỡng, làm công tác thì nhanh chóng quyết liệt, hô mưa gọi gió. Nhìn vào nhân tính của họ thì thấy có vẻ rất hoàn mỹ, và họ có phong độ tiêu chuẩn của nhân vật lãnh tụ. Tuy nhiên, lẽ thật nào, họ cũng không hiểu; đối với vấn đề về phương diện nào, họ cũng dùng đạo lý để giải quyết; công tác mang tính thực chất nào, họ cũng không làm được; sự sắp xếp công tác nào, họ cũng không thực hiện được – vậy chẳng phải họ là phế nhân sao? Đây chính là người Pha-ri-si tiêu chuẩn. Người Pha-ri-si chính là loại người bề ngoài thì mũ áo chỉnh tề, đứng đắn rộng rãi, có giáo dưỡng, hiểu khuôn phép, rất lịch sự, có lòng yêu thương, có thể bao dung và nhẫn nại. Họ cư xử đặc biệt đúng mực, nói chuyện với người khác thì đặc biệt hòa nhã, khiêm tốn và nhún nhường. Nhìn họ thì ngươi chẳng thấy có gì là kẽ hở, lỗ hổng hay khiếm khuyết cả. Xét về mặt nhân tính thì họ đặc biệt đáng tin cậy, có kiến thức, thanh cao và có phong độ, đúng như kiểu quân tử phong lưu nho nhã mà người Trung Quốc hay nói. Nhân tính của họ có vẻ hoàn mỹ, bề ngoài thì chẳng thấy có khuyết điểm gì, nhưng họ có hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời không? Họ có hiểu nguyên tắc để làm đủ loại chuyện không? Mỗi lần nhóm họp, họ có thể nói vài tiếng đồng hồ, những người không hiểu lẽ thật thì phục họ sát đất, cảm thấy họ xuất khẩu thành văn, nói rõ ràng mạch lạc. Nhưng những người hiểu lẽ thật mà nghe, thì sẽ biết mọi thứ họ nói toàn là đạo lý, căn bản không nhắm vào vấn đề của người ta để giải quyết được khó khăn thực tế của người ta. Bất kể khó khăn thực sự của người ta là gì, họ cũng chỉ biết giảng đạo lý suông và bàn luận viển vông. Nói xong rồi, họ còn cảm thấy rất đắc ý, cảm thấy bản thân đã hiểu lẽ thật và có thực tế lẽ thật rồi. Thực ra, điều mà họ mưu cầu chính là ngụy trang bề ngoài cho nhân tính của mình thật hoàn mỹ và tao nhã, đạt đến tầm cao cấp và đẳng cấp. Nhưng thực chất và tâm tính bại hoại chống đối Đức Chúa Trời của họ lại chẳng thay đổi chút nào. Những quan niệm của họ về Đức Chúa Trời, sự phản nghịch, hiểu lầm, đề phòng và nghi kỵ của họ đối với Đức Chúa Trời, nhất là những yêu cầu vô lý và dục vọng xa xỉ của họ đối với Đức Chúa Trời – chúng tràn đầy tâm tư họ. Họ chẳng mưu cầu lẽ thật chút nào, cũng chẳng tiếp nhận lẽ thật chút nào. Vậy, nếu nói nhân tính họ “hoàn mỹ”, thì cái “hoàn mỹ” này mang nghĩa xấu rồi. Bởi vì chẳng có nhân tính nào hoàn mỹ cả, cái “hoàn mỹ” của họ hoàn toàn là do tạo vỏ bọc và giả vờ mà có. Đâu có tồn tại nhân tính không có khiếm khuyết, nó là do vỏ bọc mà có, ngươi đừng có tin tưởng họ. Người nào bề ngoài càng hoàn mỹ thì ngươi càng phải đề phòng họ, càng phải quan sát và phân định họ. Phân định họ như thế nào? Ngươi hãy tiếp xúc với họ nhiều hơn, nói chuyện với họ nhiều hơn, nhìn xem họ có nhận thức gì về bản thân không. Nếu họ nói: “Tôi là ma quỷ, tôi là Sa-tan, tôi chống đối Đức Chúa Trời, tôi bại hoại! Tôi là tội nhân, tôi là đầu sỏ tội lỗi, Đức Chúa Trời không vui thích tôi, Ngài ghê tởm tôi!”, hoặc “Tôi là kẻ đui mù, ngu muội, bần cùng và đáng thương! Tôi bẩn thỉu và ô uế!”, thì những lời họ nói này có sự thật thực tế không? Có nhận thức mang tính thực chất không? (Thưa, không có.) Họ chẳng có chút nhận thức gì về tâm tính bại hoại của bản thân, chẳng hề thừa nhận sự thật rằng bản thân có tâm tính bại hoại. Họ chỉ học nói vài lời nói suông và lý luận. Những lời nói suông và lý luận này đâu phải là nhận thức đến từ những gì họ cảm nhận, trải nghiệm và thể nghiệm được nơi sâu thẳm nội tâm. Chúng đều là lời dễ nghe, toàn là vỏ bọc họ tạo ra cho bản thân. Ngươi mà yêu cầu họ nói thêm về trải nghiệm của bản thân, về chuyện họ nhận biết tâm tính bại hoại của mình như thế nào, đã trải nghiệm những sự tỉa sửa nào, rồi sau đó thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời mà giải quyết như thế nào, thì họ sẽ làm như thể không nghe ngươi nói gì, sẽ nói đôi ba câu vô dụng như: “Con người tôi có tố chất kém. Tôi sinh ra đã là tội nhân, là tiện nhân trong đống phân, tôi chẳng xứng được Đức Chúa Trời cứu rỗi! Tôi có tâm tính bại hoại, đi đến đâu cũng chẳng biết làm chứng cho Đức Chúa Trời, mà cứ thích có địa vị”. Nếu ngươi hỏi xem họ đã giải quyết chuyện đó thế nào, thì họ vẫn cứ được hỏi một đằng, trả lời một nẻo, nói rằng: “Người ta không được có địa vị. Người ta có địa vị rồi thì coi như tiêu tùng. Mưu cầu địa vị chính là dục vọng xa xỉ. Anh phải làm một người nhỏ bé nhất, đi đến đâu cũng ngồi ở cái ghế thấp nhất, ngồi ở chỗ nào không ai để ý nhất. Người ta phải khiêm hạ, đây gọi là khiêm tốn”. Họ có sự biến đổi mang tính thực chất không? Có trải nghiệm mang tính thực chất không? (Thưa, không có.) Những điều này, họ đều không có. Vậy họ có nhận thức về tâm tính bại hoại của mình không? (Thưa, không có.) Họ không có nhận thức này, vậy họ có tiếp nhận lẽ thật và lời Đức Chúa Trời không? (Thưa, không tiếp nhận.) Không thừa nhận bản thân có tâm tính bại hoại thì chẳng bao giờ tiếp nhận lẽ thật. Nếu có tiếp nhận lẽ thật, thì họ sẽ đối chiếu lời Đức Chúa Trời với từng lời nói, hành động và sự bộc lộ bại hoại của mình. Ngay lúc bộc lộ sự bại hoại, họ sẽ phản tỉnh bản thân, xem tại sao và trong bối cảnh nào thì họ có thể bộc lộ ra sự bại hoại, vào thời điểm đó họ nghĩ gì và bị điều gì chi phối. Thông qua sự vạch rõ của lời Đức Chúa Trời và việc liên hệ với bản thân, họ phát hiện ra đấy chính là tâm tính bại hoại, phát hiện ra bản thân vốn chẳng nên thánh và đơn thuần như mình tưởng tượng, phát hiện ra bản thân vốn cũng có sự giả dối, có lòng ích kỷ, có dã tâm và dục vọng, căn bản họ chẳng phải là người có thực tế lẽ thật. Họ có dạng trải nghiệm như vậy không? Không có. Họ nói nhiều lời lắm, mà chẳng có một sự thật nào có thể chứng thực rằng họ thừa nhận bản thân có tâm tính bại hoại. Họ tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm như vậy mà chẳng có chút trải nghiệm nào về lẽ thật, chỉ toàn giảng đạo lý, toàn ngẫm nghĩ cách để tạo vỏ bọc cho bản thân, trang điểm bản thân, và che đậy những khuyết điểm, khiếm khuyết trong nhân tính của mình. Họ lấy những hành vi, cách làm, thần thái, khí chất và phong độ giả thuộc linh bề ngoài mà trang điểm cho mình, trong khi đó lại che đậy vô cùng chắc chắn và kín kẽ những tâm tính bại hoại bên trong mình. Đối với các loại vấn đề hay lời nói khác nhau mà Đức Chúa Trời vạch rõ về tâm tính bại hoại của con người, thì họ chẳng tiếp nhận chút gì, chẳng lưu ý, cũng chẳng để vào lòng, họ chỉ dốc công sức vào bề ngoài của nhân tính mà thôi. Ngươi có bảo họ nói thêm nhận thức về Đức Chúa Trời, nói về chuyện liệu họ có nhận thức thực sự hoặc sự lĩnh hội nào về những lời hành phạt và phán xét của Đức Chúa Trời, những lời của Đức Chúa Trời vạch rõ tâm tính bại hoại của nhân loại và những lời của Đức Chúa Trời nói về tâm tính của Ngài hay không, thì họ sẽ né tránh chủ đề thực tế này, sẽ nói một loạt lý luận thuộc linh như: “Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời tể trị muôn vật, việc Đức Chúa Trời làm thật kỳ diệu! Đức Chúa Trời xứng đáng để con người xưng tụng và ca ngợi. Đức Chúa Trời độc nhất vô nhị. Quyền năng và thẩm quyền của Đức Chúa Trời chí cao vô thượng!” Người ta bảo: “Vậy anh nói về thể nghiệm của anh đi. Anh nhìn ra được tâm tính và sự thánh khiết của Đức Chúa Trời trong chuyện gì?” Thì họ nói: “Đức Chúa Trời quá vĩ đại, con người quá nhỏ bé, con người không xứng! Trong mắt Đức Chúa Trời, con người còn chẳng bằng con kiến trên mặt đất. Đức Chúa Trời nâng cao con người thôi!” Vậy họ có nhận thức nào không? (Thưa, không có.) Họ chẳng có nhận thức nào cả. Đây là loại người gì? (Thưa, là người Pha-ri-si giả hình.) Đây chính là người Pha-ri-si giả hình, chẳng tiếp nhận lẽ thật chút nào, trong mắt họ thì lời Đức Chúa Trời và lẽ thật chính là khẩu hiệu và đạo lý. Bình thường họ cũng đọc lời Đức Chúa Trời, viết ghi chú tĩnh nguyện, nhóm họp và cầu nguyện-đọc lời Đức Chúa Trời – những trình tự này thì họ làm chẳng thiếu cái nào, chẳng bỏ sót cái nào. Vậy, đọc những lời Đức Chúa Trời này rồi thì họ hấp thụ được những gì? Họ đạt được những gì? Họ đọc lời Đức Chúa Trời đâu phải để hiểu lẽ thật, càng không phải để đối chiếu lời Đức Chúa Trời với tâm tính bại hoại của mình, những quan niệm và tưởng tượng, hoặc những tư tưởng và điểm lệch lạc của mình, để có thể giải quyết vấn đề của mình và đạt đến có con đường để đi trong việc thực hành của mình. Họ đọc lời Đức Chúa Trời là để trang bị đạo lý, hầu cho vào lúc nhóm họp thì có thể giảng và dạy dỗ người khác. Nội dung họ nói mỗi lần mỗi khác, họ lại còn có thể nói thao thao bất tuyệt lâu giờ, chọn những lời Đức Chúa Trời khác nhau để nhắm vào những người khác nhau, đạt đến khiến người ta xem trọng và sùng bái họ. Có những người đặc biệt giỏi giả vờ, thậm chí họ có thể đê tiện đến mức độ nào? Họ nghe xong lời Ta giảng, thì cảm thấy hữu dụng, thế là họ ghi nhớ, đến lúc nhóm họp thì muốn tìm cơ hội để khoe tài. Nhất là khi ở giữa những người mới tin Đức Chúa Trời – những người này chưa nghe giảng đạo nhiều, dù có đọc qua một vài lời Đức Chúa Trời thì cũng chưa ghi nhớ được – thế là họ tận dụng cơ hội này, bắt đầu thể hiện và phô trương bản thân giữa những người mới. Mọi người nghe họ nói xong thì cảm thấy: “Người này có sự khai sáng của Đức Thánh Linh, là người thuộc linh”. Họ dùng những loại thủ đoạn này để phô trương bản thân hòng khiến người khác xem trọng và sùng bái mình, vậy chẳng phải là đê tiện sao? Vậy chẳng phải là mê hoặc người khác sao? (Thưa, phải.) Đây chính là mê hoặc người khác.
Nếu suốt một đời, ngươi đều tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, tìm kiếm lời Đức Chúa Trời làm căn cứ để giải quyết tâm tính bại hoại của mình và những thứ không phù hợp với lẽ thật nơi mình, thì cuối cùng tất nhiên ngươi là người được cứu rỗi. Nhưng nếu suốt một đời, ngươi tập trung dốc công sức và tìm con đường để giải quyết những khuyết điểm và khiếm khuyết trong nhân tính của mình, nghĩ đủ mọi cách để khiến bản thân không còn bất kỳ khuyết điểm và khiếm khuyết nào nữa, hầu cho từ đó trở thành một người khác với người thường, hoàn mỹ không tỳ vết. Thậm chí có người còn nói: “Tôi muốn trở thành một người thuần khiết, cao cấp và đẳng cấp, vượt quá hết thảy những người có nhân tính bình thường”. Vậy thì Ta nói cho ngươi một câu: ngươi mà làm như vậy thì sẽ thất bại thôi! Chuyện ngươi giải quyết bất kỳ khuyết điểm và khiếm khuyết nào trong nhân tính đều chẳng có liên quan gì đến chuyện ngươi được cứu rỗi, bởi vì ngươi đâu có đang mưu cầu lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình. Ngươi giải quyết những khuyết điểm và khiếm khuyết trong nhân tính của mình rồi, cùng lắm chỉ là nhìn bề ngoài thì không thấy những khuyết điểm trong nhân tính của ngươi, khiến ngươi trở thành một người bề ngoài có vẻ hoàn mỹ và thanh cao. Khỏi cần nói đến chuyện những khuyết điểm và khiếm khuyết trong nhân tính của ngươi căn bản không có khả năng thay đổi, ngay cả khi chúng có khả năng thay đổi, thì những khuyết điểm và khiếm khuyết lớn hơn của ngươi – chính là tâm tính bại hoại của ngươi – vẫn còn ẩn tàng trong ngươi! Ngươi càng tạo vỏ bọc cho bản thân, càng mưu cầu chuyện nhân tính của mình hoàn mỹ và không có khiếm khuyết gì, thì tâm tính bại hoại của ngươi sẽ càng quấn lấy và ràng buộc ngươi thâm căn cố đế, khiến ngươi càng thêm kiêu ngạo, giả dối, tà ác và cương ngạnh. Hậu quả của chuyện này là gì? Là khiến ngươi càng rời xa lẽ thật và rời xa con đường mưu cầu lẽ thật, cuối cùng kết cục của ngươi chính là bị đào thải, và ngươi sẽ tiêu tùng. Không có khả năng Đức Chúa Trời vì ngươi có bề ngoài hoàn mỹ hoặc trông có vẻ là một người thuần khiết, mà phá lệ cứu rỗi ngươi. Ngược lại, ngươi càng mưu cầu nhân tính hoàn mỹ và không có bất kỳ khiếm khuyết nào, thì Đức Chúa Trời càng ghê tởm ngươi và không công tác nơi ngươi. Nhưng có những người thường xuyên vì bản thân bộc lộ tâm tính bại hoại mà ân hận và đau lòng. Trong lúc ân hận, họ cũng nảy sinh ý chí mưu cầu lẽ thật, có thể chịu khổ và trả giá để đạt được lẽ thật, ngày ngày họ đều kiên trì đọc lời Đức Chúa Trời, gặp chuyện gì cũng cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật. Như vậy thì họ ngày càng thấu tỏ lẽ thật, từng bước đạt đến có một vài lối vào và thu hoạch về mọi phương diện lẽ thật, sống thể hiện ra một cách thực tế mọi phương diện lẽ thật. Cuối cùng, khi gặp phải đủ loại con người, sự việc, sự vật, họ đều có nguyên tắc lẽ thật tương ứng để thực hành và kiểm định. Sau nhiều năm trải nghiệm, thông qua sự hành phạt, phán xét và tỉa sửa của lời Đức Chúa Trời, cũng thông qua cái giá mình trả khi mưu cầu lẽ thật, mà bên trong họ dần dà có lẽ thật làm sự sống. Hy vọng được cứu rỗi của họ ngày càng lớn, xác suất họ phản nghịch và phản bội Đức Chúa Trời cũng ngày càng nhỏ. Mặc dù khuyết điểm và khiếm khuyết trong nhân tính của họ, cũng như điều kiện vốn có của họ, về cơ bản không có sự biến đổi gì, nhưng tâm tính bại hoại của họ đã ngày càng ít đi, tần suất họ chống đối và phản nghịch cũng ít đi, họ cũng ngày càng được Đức Chúa Trời thích, ngày càng đem lại sự gây dựng cho người khác, cũng ngày càng phù hợp để được sử dụng. Dạng người như vậy mà cứ đi theo con đường như vậy thì tất nhiên sẽ là đối tượng được cứu rỗi, họ chính là đối tượng mà công tác của Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Các ngươi hãy quan sát những người xung quanh mình, xem ai luôn một mực dốc công sức vào bề ngoài và những khiếm khuyết, khuyết điểm trong nhân tính, cực lực che đậy bản thân và giả vờ để được người khác xem trọng, tán thưởng và sùng bái, có được địa vị trong lòng người khác – loại người này chính là người Pha-ri-si. Kết quả cuối cùng của người Pha-ri-si chỉ có một mà thôi, chính là cùng diệt vong với loài chuột. Cho nên Ta nói rằng loại người này tiêu tùng rồi, bị đào thải rồi.
Từ đầu đến cuối, công tác Đức Chúa Trời làm đều không phải là để thay đổi khiếm khuyết và khuyết điểm trong nhân tính của người ta, mà chỉ là để khôi phục lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Điều Đức Chúa Trời muốn thay đổi chính là tâm tính bại hoại của người ta. Đương nhiên, Đức Chúa Trời cũng thường nói về chuyện loại bỏ tâm tính bại hoại của người ta và khiến người ta đạt đến sự cứu rỗi. Do đó, việc khôi phục nhân tính bình thường được xây dựng trên nền tảng nào? Nó được xây dựng trên nền tảng là việc người ta thoát khỏi tâm tính bại hoại. Nhân tính bình thường của người ta dần dần được khôi phục nghĩa là lương tâm của người ta đã có cảm giác, lý trí ngày càng bình thường, có thể đứng ở góc độ của nhân tính bình thường mà làm việc đúng đắn và nói lời đúng đắn, không gây gián đoạn hay nhiễu loạn, nói năng và hành động không bốc đồng, mù quáng hay dựa theo huyết khí, mà hoàn toàn dựa theo nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời, lý trí thì đặc biệt bình thường, nhân tính thì đặc biệt chính trực và lương thiện. Vậy dựa trên điều gì để có thể đạt đến những điều này và có thể khôi phục đến mức độ này? Chính là dựa trên chuyện tâm tính bại hoại đạt được sự biến đổi, dựa trên chuyện người ta thông qua việc thực hành lẽ thật và tiếp nhận sự phán xét, hành phạt của Đức Chúa Trời để thoát khỏi tâm tính bại hoại. Tuy nhiên, nếu tâm tính bại hoại không được thay đổi và người ta không thoát khỏi được chúng, thì ngay cả khi nhân tính của ngươi tương đối tốt, có chút lương tâm và lý trí, nhưng ngươi không có lẽ thật làm sự sống, thì lương tâm và lý trí của ngươi sẽ không nắm quyền làm chủ, ngươi vẫn thường xuyên bị tâm tính bại hoại ảnh hưởng, xúi giục và xui khiến mà làm ra những chuyện trái với lương tâm và lý trí. Do đó, ngay cả khi ngươi có chút tinh thần chính nghĩa nào, thì đó cũng chỉ là một dạng nguyện vọng hoặc ý chí. Chỉ là ngươi có chút nhân tính lương thiện, nhưng vì bên trong ngươi bị tâm tính bại hoại làm sự sống và khống chế, nên ngươi chỉ có thể đạt đến chuyện không hành ác, không chủ động lừa người, hại người, như vậy đã là rất tốt rồi. Nói cách khác, trong trường hợp lợi ích thiết thân của ngươi không bị ảnh hưởng thì mới có thể bảo đảm ngươi sẽ không hành ác, chứ ngay khi lợi ích thiết thân của ngươi bị ảnh hưởng thì tâm tính bại hoại của ngươi sẽ trỗi dậy để áp chế lương tâm và lý trí của ngươi, khiến ngươi bảo vệ lợi ích và quyền của mình, như vậy thì ngươi sẽ rất khó đạt đến để cho lương tâm và lý trí nắm quyền làm chủ. Tại sao lại như vậy? Tại vì lẽ thật không phải là sự sống của ngươi, thay vào đó, tâm tính bại hoại mới là sự sống của ngươi. Do đó, chỉ trong trường hợp lợi ích không bị tổn hại thì ngươi mới có thể bộc lộ một chút lương tâm hoặc lý trí của nhân tính. Còn ngay khi lợi ích của ngươi bị tổn hại hoặc đe dọa, thì tâm tính bại hoại của ngươi sẽ ngay lập tức trỗi dậy mà áp chế lương tâm và lý trí của ngươi, khiến ngươi làm những việc trái với lương tâm và lý trí, nghĩa là trái với đạo đức và đạo nghĩa, thậm chí việc gì ngươi cũng có thể làm. Đương nhiên, có thể nói rằng mọi việc ngươi làm này đều trái với lẽ thật, đây là chuyện tất nhiên. Do đó, điều mà một người sống thể hiện ra không tùy vào chuyện điều kiện trong nhân tính của họ là gì, mà tùy vào chuyện thực chất sự sống nội tại của họ là gì. Nếu họ thực sự có lẽ thật làm sự sống, vậy thì trong sự sống của họ sẽ có lẽ thật, có lời Đức Chúa Trời, có con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Thế thì lương tâm và lý trí trong nhân tính bình thường của họ sẽ được giữ nguyên ở trạng thái tối ưu và sẽ có thể phát huy tác dụng, làm cho họ đạt đến việc có thể thực hành lẽ thật và hành động theo nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu thực chất sự sống của một người nào đó là tâm tính bại hoại, vậy thì lương tâm và lý trí của họ sẽ bị hạ xuống đến mức tiêu chuẩn thấp nhất, nghĩa là chỉ là không xuống quá ranh giới tối thiểu của nhân tính. Ranh giới tối thiểu này là gì? “Người không phạm ta thì ta không phạm người. Người mà phạm ta chắc chắn ta phải phạm người”, “Mắt đền mắt, răng đền răng”, “Gậy ông đập lưng ông”. Còn gì nữa? “Thà làm chân tiểu nhân còn hơn làm ngụy quân tử”. Đây là ranh giới tối thiểu trong việc làm người của rất nhiều người ngoại đạo. Là một người ngoại đạo mà có thể thực hành như vậy thì cũng đã không tệ rồi. Từ trong chuyện này, các ngươi hiểu được những gì? Ngươi mà không mưu cầu lẽ thật, thì ngươi sẽ không thoát khỏi tâm tính bại hoại, thực chất sự sống của ngươi sẽ không nảy sinh sự biến đổi, mà thực chất sự sống của ngươi không nảy sinh sự biến đổi thì lương tâm và lý trí trong nhân tính bình thường của ngươi sẽ không được khôi phục về mặt thực chất, chỉ là không xuống quá ranh giới tối thiểu của nhân tính về mặt hình thức mà thôi. Tuy nhiên, nếu ngươi thoát khỏi tâm tính bại hoại rồi và thực chất sự sống của ngươi đã nảy sinh sự biến đổi, thì lương tâm và lý trí trong nhân tính bình thường của ngươi sẽ đạt đến việc được hoàn thiện và thăng hoa đến một mức độ nhất định. “Hoàn thiện” và “thăng hoa” này là nói đến điều gì? Chính là nói đến chuyện lương tâm và lý trí của ngươi được phát huy bình thường, không phải chỉ là không vượt quá ranh giới tối thiểu, mà là đạt đến được tiêu chuẩn thực hành lẽ thật. Ở giữa người ngoại đạo, những người được gọi là người tốt cũng chỉ là có chút lương tâm và lý trí, không làm việc ác rành rành, không vượt quá ranh giới tối thiểu của đạo nghĩa, như vậy là đã thực sự không tệ rồi, đã là người rất tốt rồi. Tuy nhiên, người có lẽ thật làm sự sống thì không chỉ như vậy, họ có năng lực phân định thị phi, biết nhận diện các loại thị phi, nhận diện các loại người. Vậy họ dựa vào điều gì để làm thế? Họ dựa vào nguyên tắc lẽ thật. Họ có nguyên tắc lẽ thật – đây chẳng phải là tiêu chuẩn cao hơn lương tâm và lý trí nhiều hay sao? (Thưa, phải.) Bởi vì họ hiểu lẽ thật, có lẽ thật làm sự sống, căn cứ để họ nhận diện các loại chuyện lại cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của nhân loại bại hoại thông thường, thì khi đối diện những chuyện phức tạp, họ sẽ kiên trì hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Nắm vững nguyên tắc lẽ thật rồi, thì tâm tư họ sẽ không vẩn đục, tư duy sẽ rõ ràng. Rõ ràng nghĩa là gì? Nghĩa là có lý tính. Bất kể gặp phải chuyện phức tạp đến đâu, thì họ đều khắc cốt ghi tâm nguyên tắc lẽ thật cho việc thực hành, họ nắm bắt lẽ thật chuẩn xác và thấu đáo, lẽ thật đã trở thành sự sống của họ rồi. Khi đối diện với các loại con người, sự việc và sự vật phức tạp, thì họ có tiêu chuẩn cơ bản, chính là giữ vững nguyên tắc lẽ thật. Những nguyên tắc lẽ thật này sẽ có thể khiến họ nhìn thấu thực chất của các loại sự vật phức tạp, nhìn thấu chân tướng vấn đề là gì, họ sẽ có thể nhận diện ra được những điều này. Đây chính là lý tính của họ. Có phải lý tính này cao hơn lý tính của những người thông thường không? (Thưa, phải.) Vậy khi đạt đến trình độ này, có phải lý tính của họ được thăng hoa và hoàn thiện rồi không? (Thưa, phải.) Dạng nhân tính bình thường như vậy chính là điều mà Đức Chúa Trời muốn, Đức Chúa Trời không muốn người hồ đồ. Có những người nói: “Tôi thật thà, hèn nhát, toàn bị ức hiếp”, lại có người nói: “Tố chất của tôi thật kém, tôi chẳng có bản lĩnh hay tài cán gì”. Đức Chúa Trời phán rằng những điều này không quan trọng, điều quan trọng là ngươi có hiểu nguyên tắc lẽ thật không. Ngươi mà hiểu nguyên tắc lẽ thật rồi, thì ngươi sẽ nói năng và hành động theo nguyên tắc và tiêu chuẩn của người trung thực, ngay cả khi bị người ngoại đạo cười nhạo và nói ngươi ngu muội, thì đó cũng không phải là ngu muội thật, tại sao lại như vậy? Tại vì ngươi hiểu nguyên tắc lẽ thật thì lý trí của ngươi sẽ kiện toàn và được hoàn thiện, cao hơn người bình thường. Khi gặp bất kỳ chuyện gì, ngươi cũng không bị hồ đồ, mà lúc nào cũng có nguyên tắc, lập trường và mục tiêu đúng đắn để làm căn cứ hầu xử lý những chuyện này. Đầu óc của ngươi sẽ sáng sủa và tâm tư của ngươi sẽ sáng tỏ. Ngươi hành động để đạt đến những nguyên tắc và tiêu chuẩn này, thì chắc chắn sẽ không trái với tâm ý của Đức Chúa Trời, chắc chắn ngươi sẽ hành động hợp tâm ý của Đức Chúa Trời. Khi ngươi đã hành động như vậy rồi, bất kể lúc đó người ta có nhìn thấu chuyện đó hay không, nhưng sau một thời gian, người ta hiểu ra được thì đều sẽ thấy phục, đều biết ngươi hành động như vậy là đem lại lợi ích rất lớn. Vậy căn nguyên nào dẫn đến việc đạt được hiệu quả như vậy? Chính là vì ngươi có lẽ thật làm sự sống. Chỉ khi đó, lý tính của ngươi mới có thể khiến ngươi có phán đoán, sự xác định tính chất và kết luận chuẩn xác đối với bất kỳ con người hay sự việc nào, có nguyên tắc thực hành chuẩn xác, đương nhiên có cả nguyên tắc chuẩn xác để giúp đỡ và hướng dẫn người khác. Đây chẳng phải là lý tính được thăng hoa và hoàn thiện rồi sao? Từ đâu mà nhân tính bình thường có dạng lý tính này? (Thưa, từ lẽ thật.) Có lẽ thật làm sự sống thì người ta mới là loài người mà Đức Chúa Trời muốn. Ngươi ngu muội, thật thà, hèn nhát, khi ở thế gian thì không được ưa chuộng và bị người khác ức hiếp, những chuyện này đều không quan trọng, đều không phải là chuyện mà Đức Chúa Trời nhìn vào. Hoặc ngươi ở trong thế gian rất có năng lực, đặc biệt biết nghe giọng nói và nhìn nét mặt mà đoán ý người khác, biết nhìn ra trào lưu, biết gió chiều nào xoay chiều ấy, thì chúng cũng vô dụng thôi, chúng cũng không đồng nghĩa với chuyện lý tính của ngươi kiện toàn. Chỉ khi ngươi tiếp nhận lẽ thật, hiểu lẽ thật, nắm rõ, thực hành và có trải nghiệm, thể nghiệm đối với mọi hạng mục lẽ thật, cũng như lẽ thật đã trở thành sự sống của ngươi rồi, thì sự nhận diện, phán đoán và quyết định của ngươi đối với các loại sự việc mới có thể chuẩn xác.
Về phương diện lương tâm, trước đây chúng ta đã nói qua rằng lương tâm là nói đến điều gì? Chính là tinh thần chính nghĩa và sự lương thiện trong nhân tính bình thường. Một người phải chính trực và lương thiện thì mới có thể được gọi là có lương tâm. Vây làm thế nào thì sự chính trực và lương thiện trong nhân tính bình thường mới có thể được hoàn thiện và thăng hoa sau khi người ta tin Đức Chúa Trời? Chuyện này phải được xây dựng trên nền tảng là hiểu lẽ thật. Nghĩa là một người hiểu lẽ thật rồi thì tiêu chuẩn làm người và hành động của họ sẽ là một mục tiêu tích cực, có tác dụng, giá trị và ý nghĩa tích cực đối với bản thân họ cũng như hết thảy mọi người. Đã hiểu lẽ thật rồi, thì khi nhìn nhận hoặc xử lý bất kỳ sự vật nào, họ sẽ có thể làm theo nguyên tắc lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã dạy. Trong mắt mọi người, người như vậy rất chính trực. Chính trực là nói đến điều gì? “Chính” nghĩa là không lệch trái lệch phải, không ngả theo huyết khí, cũng không ngả theo tình cảm, không ngả theo lợi ích và quan hệ riêng, cũng không ngả theo ý đồ riêng, mà thay vào đó, là thực hành hướng tới mục tiêu đúng đắn nhất, chính đáng nhất, mục tiêu được người khác tôn trọng, ngưỡng mộ và đánh giá cao nhất – cũng có thể nói là thực hành hướng tới mục tiêu được Đức Chúa Trời thấy là tốt và khen ngợi. Như vậy có phải là cao hơn cái chính trực mà nhân loại bại hoại nhìn nhận hay không? (Thưa, phải.) Cái chính trực này nghĩa là gì? Nghĩa là hoàn toàn phù hợp nguyên tắc lẽ thật, hoàn toàn lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ, và được xây dựng trên nền tảng là lương tâm. Khi hiểu lẽ thật, thì người ta có phương thức và nguyên tắc để hiểu rõ và giải quyết vấn đề cũng như xử lý sự tình rồi, vậy chẳng phải lương tâm của người đó rất hoàn mỹ sao? Chẳng phải đã đạt đến được hoàn thiện rồi sao? (Thưa, phải.) Vậy chẳng phải một con người chân chính, một loài thọ tạo chân chính thì nên có dạng lương tâm này sao, nên có sự chính trực ở tầng mức ý nghĩa này sao? (Thưa, phải.) Con người chân chính thì nên có sự chính trực ở tầng mức ý nghĩa phù hợp với lẽ thật này, chứ không phải là kiểu cương trực công chính, quang minh chính đại, hay “nam tử hán đại trượng phu, đi không đổi tên, ngồi không đổi tính” mà người ta nói đến. Đấy là huyết khí, chẳng có nội dung thực tế gì, hoàn toàn là do người ta giả vờ mà ra thôi. Chính trực thì có lẽ thật làm căn cứ và có sống thể hiện ra một cách thực tế. Nghĩa là người ta có nhân tính bình thường với nguồn gốc và xuất phát điểm là lẽ thật, có thể dựa vào lời Đức Chúa Trời mà tiếp cận và xử lý các loại chuyện – như vậy gọi là chính trực. Lương thiện thì càng khỏi phải nói, ít nhất, nó vượt quá tiêu chuẩn của lương tâm và lý trí. Trong lương thiện thì không có sự giả mạo, càng không có sự hung ác. Nó hoàn toàn là hành động dựa trên phương thức sao cho đem lại ích lợi và sự gây dựng cho người khác, đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời, hoàn toàn là hành động dựa trên mục tiêu và tiêu chuẩn là kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, làm thỏa lòng Đức Chúa Trời và tuân theo con đường của Đức Chúa Trời. Đây là chuyện lương thiện nhất và tốt đẹp nhất dưới gầm trời này và trong toàn vũ trụ. Người có lời Đức Chúa Trời và lẽ thật làm sự sống thì chắc chắn có tấm lòng lương thiện nhất, bởi vì họ có thể tiếp nhận lẽ thật, như vậy là hoàn toàn đạt đến tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người. Vì họ có dạng nhân tính này, nên ngươi nói họ chính trực thì cũng thích hợp, nói họ lương thiện thì cũng thích hợp. Bởi vì họ có thể tiếp nhận lẽ thật và thực hành lẽ thật, khi làm bổn phận thì họ không làm theo tình cảm, không có dã tâm và dục vọng, họ không mang độc tố của văn hóa truyền thống, tiêu chuẩn của họ để đánh giá đạo đức và nhân tính không bị lẫn tạp bất kỳ triết lý, tư tưởng hay quan điểm nào của Sa-tan – hoàn toàn phù hợp lẽ thật. Vậy ngươi nói xem, người có dạng lương tâm và lý trí này có phải đã rất hoàn thiện rồi không? (Thưa, phải.) Bởi vì họ có lẽ thật rồi, bởi vì thực chất sự sống mà họ sống thể hiện ra chính là lẽ thật, cho nên người có dạng thực chất sự sống này thì hoàn mỹ. Nếu nói “hoàn mỹ” mà các ngươi không thích nghe, thì Ta có thể nói thành “hoàn thiện”. Ít nhất trong mắt Đức Chúa Trời, người như vậy là hoàn thiện và là người được Đức Chúa Trời yêu thích. Đức Chúa Trời mượn chút lương tri, lý trí và ý thức liêm sỉ mà người ta có để nhào nặn lời Ngài và lẽ thật vào trong họ. Khi lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời được nhào nặn vào trong ngươi rồi, thì chẳng những lương tâm và lý trí của ngươi sẽ không bị yếu đi hay che lấp, mà còn trở nên càng bình thường và hoàn thiện. Dạng người như vậy chính là người mà Đức Chúa Trời muốn. Chúng ta sẽ không nói là hoàn mỹ, cứ nói là hoàn thiện đi. Tại sao lại không nói là hoàn mỹ? Nếu nói là hoàn mỹ, thì có vài người không hiểu chuyện thuộc linh sẽ nói: “Chẳng phải Ngài không cho phép làm người hoàn mỹ hay sao?” Cho nên, Ta phải tránh từ đó, để cho một vài người khỏi hiểu lầm. Thực ra, điều gì hoàn thiện trong mắt Đức Chúa Trời, thì cũng có thể nói là điều hoàn mỹ giữa nhân loại thọ tạo. Cái hoàn mỹ này không phải là cái hoàn mỹ trong tưởng tượng của con người, mà là một dạng sự vật tốt đẹp, một dạng lực lượng chính nghĩa, cũng là một điều tích cực, xứng đáng được người ta khen ngợi, khao khát, yêu quý, tôn trọng và trân quý. Do đó, nếu ngươi muốn lương tâm không chỉ dừng lại ở mức không làm việc gì vượt qua ranh giới tối thiểu của việc làm người, mà còn muốn làm cho lương tâm của ngươi nhạy bén hơn, có tri giác hơn, và làm cho lý trí của ngươi đạt đến phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì chỉ có một con đường mà thôi. Con đường này không phải là khắc phục các loại khuyết điểm và khiếm khuyết trong nhân tính, mà là mưu cầu lẽ thật, dốc công sức vào các lẽ thật khác nhau mà Đức Chúa Trời dạy cho con người, hiểu tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi khi liên quan đến các loại con người, sự việc và sự vật là gì, cũng như hiểu ngươi nên có cách nhìn nhận, đối đãi và xử lý các loại con người, sự việc và sự vật như thế nào. Đối với đủ loại chuyện này, Đức Chúa Trời đều có nguyên tắc và tiêu chuẩn mà Ngài yêu cầu. Nhiệm vụ của ngươi là gì? Chính là thực hành hướng tới phương hướng và mục tiêu này, theo những tiêu chuẩn này. Trước hết, hãy tìm kiếm và hiểu rõ tiêu chuẩn thực hành lẽ thật là gì. Tiếp theo, hãy dựa theo tiêu chuẩn do Đức Chúa Trời yêu cầu mà yêu cầu bản thân, đồng thời hãy buông bỏ các loại tư tưởng, quan điểm, khuôn phép, quy định, v.v. trong quan niệm và tưởng tượng của ngươi mà không phù hợp với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Sau đó, hãy để lời Đức Chúa Trời từng chút một trở thành nguyên tắc thực hành của ngươi. Trong lúc học cách buông bỏ, thì cũng đừng quên rằng: Mục đích của việc buông bỏ không phải là để ngươi làm một người vô tâm; Đức Chúa Trời muốn làm cho cuộc sống của ngươi phải có nội dung. Nội dung này là nói đến điều gì? Nó nói đến nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với các loại chuyện. Đương nhiên, Đức Chúa Trời không hy vọng người ta biến các nguyên tắc thực hành khác nhau thành lý luận sáo rỗng, chỉ nói trên môi miệng chứ chẳng thực hành. Thay vào đó, Đức Chúa Trời hy vọng người ta có thể vững vàng biến những nguyên tắc lẽ thật này thành một phần trong sự sống của họ, đưa lời Đức Chúa Trời vào trong cuộc sống hiện thực của họ. Như chuyện làm bổn phận chẳng hạn, tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người là gì? Là làm người một cách vững vàng thực tế và biết giữ phép tắc. Nghĩa là khi làm bổn phận thì ngươi phải vững vàng thực tế, đừng qua loa chiếu lệ, đừng cẩu thả lơ là, đừng làm cho xong quá trình, đừng làm cho người khác xem, cũng đừng khoe khoang bản thân, đương nhiên, quan trọng hơn nữa, ngươi phải hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Đức Chúa Trời bảo làm thế nào thì ngươi làm thế ấy, Đức Chúa Trời không cho làm việc gì thì ngươi đừng làm việc đó. Nếu không thể đạt đến mức không làm việc đó, thì hãy bắt đầu từ chuyện làm việc đó ít lại, chống lại ham muốn ích kỷ và ý thích của bản thân, dần dà đạt đến chuyện không làm việc đó nữa – chuyện này chẳng dễ thực hành sao? (Thưa, dễ.) Trong quá trình mưu cầu sự cứu rỗi, ngươi phải có thể giải quyết và buông bỏ các loại tâm tính bại hoại mà lời Đức Chúa Trời đã vạch trần. Đương nhiên, buông bỏ không phải là mục đích tối hậu. Mục đích tối hậu là ngươi tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và yêu cầu của Ngài với tiền đề là việc buông bỏ các loại tâm tính bại hoại. Việc tiếp nhận này không phải là để khiến ngươi thay đổi tâm trạng, cũng không phải để ngươi sống có tôn nghiêm, mà là để ngươi thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình. Đây chính là mục tiêu tối hậu, bởi vì ngươi thoát khỏi tâm tính bại hoại rồi, thì mới có thể đạt được sự cứu rỗi.
Trở ngại lớn nhất đối với việc người ta đạt được sự cứu rỗi chính là tâm tính bại hoại của họ. Ngươi có trình độ văn hóa thấp, tuổi tác đã cao, hoặc ăn nói vụng về và có năng lực diễn đạt kém, thì những chuyện này đều không phải là trở ngại lớn nhất đối với chuyện ngươi được cứu rỗi. Ngươi làm bổn phận mà năng lực nghiệp vụ kém, ngộ tính không ổn, thì đấy cũng chẳng phải là trở ngại lớn nhất đối với chuyện ngươi được cứu rỗi. Vậy trở ngại lớn nhất đối với chuyện ngươi được cứu rỗi là gì? Chính là tâm tính bại hoại của ngươi. Đương nhiên, các loại tâm tính bại hoại của con người bị vạch trần trong lời Đức Chúa Trời là thứ mà người ta không dễ giải quyết. Chuyện này không phải là vì người ta không sẵn lòng buông bỏ tâm tính bại hoại, cũng không phải vì tư tưởng và quan điểm của người ta cổ lỗ sĩ, đương nhiên càng không phải vì khiếm khuyết hoặc khuyết điểm trong nhân tính của người ta, cũng không phải vì người ta tê dại, phản ứng chậm, v.v., những thứ này đều không phải là căn nguyên vấn đề. Vậy thì vì chuyện gì? Chính là vì tâm tính bại hoại của người ta đã ăn sâu bén rễ trong lòng họ rồi, không phải muốn thoát khỏi là có thể thoát khỏi. Do đó, trong lúc làm bổn phận, tâm tính bại hoại của họ sẽ thường xuyên xuất hiện để gây nhiễu loạn và quấy phá. Chẳng hạn như, ngươi là lãnh đạo hội thánh, ngươi làm sai một chuyện, rồi bị tỉa sửa. Nếu như vậy thì ngươi nên tiếp nhận, thừa nhận mình đã làm sai, sẵn lòng hối cải, xoay chuyển cách làm sai lầm, và hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Đây là chuyện rất đơn giản, nhưng ngươi lại không làm được. Ngươi ngẫm nghĩ: “Tỉa sửa mình như vậy có phải là thấy mình không vừa mắt và muốn cách chức mình không?” Trong lòng ngươi nảy sinh sự oán trách và hiểu lầm, thậm chí còn nói lý lẽ với Đức Chúa Trời: “Vì thấy con không vừa mắt, nên Ngài muốn cách chức và đào thải con. Được thôi, con muốn nói cho ra ngô ra khoai. Mười bảy tuổi, con đã tin Đức Chúa Trời, những năm qua con luôn làm lãnh đạo, con đã từ bỏ gia đình và sự nghiệp, từ bỏ hôn nhân và gia đình – những điều này giờ tính thế nào đây?” Ngươi càng tính càng hăng. Đây chỉ là không buông bỏ được sao? Đâu phải. Tại sao ngươi không buông bỏ được những thứ này? Trong chuyện này còn có vấn đề mang tính căn nguyên nữa. Khi bị tỉa sửa, ngươi cảm thấy ấm ức, trong lòng oán trách và không phục, lại còn có thể nói lý lẽ và biện minh, thậm chí còn muốn nhờ người khác lên tiếng bất bình thay cho mình. Tại sao ngươi lại hành động như vậy? (Thưa, vì có tâm tính bại hoại.) Nguyên nhân và căn nguyên chỉ có một mà thôi: đó là tâm tính bại hoại của ngươi chưa được giải quyết. Có những người nói: “Chẳng phải vì tố chất và năng lực bẩm sinh của con không đủ để làm công tác sao?” Cũng có khả năng một số người có nguyên nhân này, bởi vì tố chất kém nên không đảm đương được công tác, cũng không hiểu lẽ thật, cho nên mới làm ra những chuyện gây gián đoạn và nhiễu loạn. Chẳng lẽ chuyện này chỉ vì tố chất của ngươi kém sao? Nó chỉ là một phương diện thôi. Vấn đề mang tính căn nguyên là do lương tâm của ngươi có vấn đề. Chuyện lương tâm có vấn đề thì có quan hệ trực tiếp với tâm tính bại hoại. Ngươi nên tiếp cận chuyện ngươi làm ra những chuyện gây nhiễu loạn và gián đoạn, rồi bị tỉa sửa như thế nào? Ngươi nên tiếp cận chuyện bản thân ngươi không thể đảm đương công tác như thế nào? Nếu ngươi có thể thực hành lẽ thật, thì những chuyện này đều không thành vấn đề, và ngươi đều có thể tiếp cận chúng một cách đúng đắn. Nhưng khi gặp chuyện như vậy, đa số mọi người có biểu hiện gì? Họ đều nói lý lẽ, oán trách, tiêu cực, thậm chí nói năng theo huyết khí: “Chẳng phải anh thấy tôi có tố chất kém và không có năng lực sao? Tố chất này chẳng phải do Đức Chúa Trời ban cho tôi sao? Thế mà còn trách tôi không làm nổi công tác! Thấy tôi không vừa mắt, thì nói từ sớm luôn đi!” Nếu bị tỉa sửa bằng những lời nghiêm khắc hơn một chút, thì họ sẽ cảm thấy: “Chẳng phải mình hết hy vọng được phúc rồi sao? Địa vị đời này của mình khó giữ, khả năng là đời sau cũng chẳng có hy vọng gì rồi”. Họ có ý tìm kiếm lẽ thật không? Họ có thể thuận phục trong lòng không? Họ đâu có dễ dàng thuận phục. Hết thảy những biểu hiện này, suy cho cùng, chính là vì người ta có tâm tính bại hoại. Ngươi có tố chất kém và không thể đảm đương công tác, thì đó chỉ là khuyết điểm và khiếm khuyết tự nhiên trong nhân tính của ngươi, chứ không phải là vấn đề. Ngay cả khi khuyết điểm và khiếm khuyết tự nhiên của ngươi rất lớn và ngươi không thể đảm đương công tác, thì Đức Chúa Trời cũng chẳng thấy phản cảm hay ghê tởm chút gì đối với ngươi. Nhưng ngươi đâu chỉ là không thể đảm đương công tác, mà ngươi còn không nhận biết vấn đề của mình, còn oán trách và chống đối, cuối cùng còn tiêu cực và bỏ ngang việc đang làm, đây là gì? Chính là tâm tính bại hoại, nó chính là điều mà ngươi cần giải quyết. Phải không nào? (Thưa, phải.) Sau khi giải quyết tâm tính bại hoại rồi, ngươi sẽ phù hợp để được sử dụng trong những công tác mà tố chất và điều kiện nhân tính của ngươi có thể đảm đương nổi. Tuy nhiên, nếu ngươi không giải quyết tâm tính bại hoại, không thể thực hành theo lẽ thật, không thể thuận phục sự tỉa sửa hoặc vạch trần đối với mình, vậy thì tố chất của ngươi có tốt đến đâu, điều kiện trong nhân tính của ngươi có cao đến đâu, thì ngươi cũng không phù hợp để được sử dụng. Hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Các ngươi nói xem, điều mà chúng ta vừa mới thông công có ý gì? (Thưa, khi tin Đức Chúa Trời, điều quan trọng nhất vẫn là phải nhận biết tâm tính bại hoại của mình. Trọng điểm phải giải quyết cũng là tâm tính bại hoại, chứ không phải là những khiếm khuyết và khuyết điểm bề ngoài trong nhân tính. Chúng con mà gặp phải hoàn cảnh nào đó, thì luôn xoay quanh những chuyện bên ngoài, căn bản chẳng giải quyết được vấn đề mang tính thực chất, cũng chẳng thể đạt đến việc thuận phục sự tỉa sửa hoặc hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt.) Nếu tâm tính bại hoại của ngươi đã được giải quyết, khi gặp chuyện, ngươi có thể nắm vững nguyên tắc lẽ thật và biết cách xử lý chuyện theo nguyên tắc, vậy thì ngươi sẽ có thể đạt đến phù hợp để được sử dụng trong việc làm bổn phận. Bất kể tố chất của ngươi cao hay thấp, bất kể ngươi có bao nhiêu tài cán, nếu tâm tính bại hoại của ngươi không được giải quyết, thì có đặt ngươi vào vị trí nào, ngươi cũng không phù hợp để được sử dụng. Ngược lại, nếu tố chất và năng lực của ngươi đều có hạn, nhưng ngươi hiểu được các nguyên tắc lẽ thật khác nhau, hiểu được những nguyên tắc lẽ thật cần hiểu và nắm vững trong phạm vi công tác của mình, thì tâm tính bại hoại của ngươi được giải quyết rồi, vậy ngươi sẽ là người phù hợp để được sử dụng. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Lời này có lẽ các ngươi cần tiêu hóa một thời gian thì mới có thể hiểu được hoàn toàn.
Hiện tại, khi làm bổn phận, đa số mọi người vẫn dựa vào ân tứ và tuân thủ quy định. Chỉ cần không phạm tội hay hành ác là họ đã cho rằng mình làm tốt bổn phận rồi. Họ chẳng chú trọng mưu cầu lẽ thật và phản tỉnh bản thân để giải quyết tâm tính bại hoại của mình. Đa số mọi người chỉ xoay quanh và vướng mắc với cách làm và hành vi, chứ chẳng chú trọng tìm kiếm lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc. Họ đã thấy hài lòng khi làm những việc mình có thể làm, cố hết sức không gây gián đoạn, nhiễu loạn hay phá hoại, chỉ vậy thôi. Đa số mọi người vẫn chưa bị tỉa sửa hoặc vạch trần, cũng chưa trải nghiệm sự hành phạt và phán xét, càng chưa trải nghiệm giai đoạn thử luyện nghiêm khắc, nên tâm tính bại hoại của đa số mọi người vẫn chưa bắt đầu biến đổi. Đây không phải là tin tốt, nhưng đây là sự thật. Ta đưa ra một vài ví dụ, thì các ngươi sẽ biết chuyện là thế nào. Ngươi xem, hiện tại, đa số người làm bổn phận đều là những người đi theo thông thường, họ chẳng có địa vị, cũng chưa đạt đến chuyện làm một hạng mục công tác nào đó khi đang có địa vị và quyền lực. Nguyên tắc thực hành cơ bản của đa số mọi người là nghe lời và thuận phục. Họ nghĩ rằng, đằng nào lãnh đạo cũng thông công dựa theo sự sắp xếp công tác của Bề trên, nên lãnh đạo bảo làm gì thì họ làm nấy, bảo làm thế nào thì họ làm thế ấy, không cần phân định đúng sai, không cần truy cứu xem làm vậy có phù hợp lẽ thật không, chỉ cần bảo đảm không làm sai là được rồi. Như vậy thì họ có nguyên tắc lẽ thật làm sự sống không? (Thưa, không.) Vậy trong trường hợp nào thì có thể kiểm chứng xem ngươi có lẽ thật làm sự sống hay không? Chính là khi ngươi được chọn làm lãnh đạo để làm công tác của hội thánh, chuyện đó tỏ lộ người ta nhất. Xem ngươi làm việc có nguyên tắc hay không và ngươi bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại, thì sẽ có thể chứng minh ngươi có thực tế lẽ thật hay không, có phù hợp để làm lãnh đạo và người làm công hay không. Nếu ngươi bộc lộ tâm tính bại hoại, thì ngươi nên tiếp cận chuyện đó như thế nào? Ngươi nên mở lòng và thông công về lẽ thật, hay là nên che giấu và giả vờ? Đây cũng là thời điểm tỏ lộ người ta nhất. Trong hội thánh, đa số mọi người đều không biết dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà nhìn nhận mọi chuyện, thay vào đó họ đều dựa vào quan niệm và tưởng tượng của bản thân, dựa vào ý thích của mình mà nhìn nhận và bình luận mọi chuyện. Đa số mọi người cho rằng: “Làm bổn phận thì chỉ cần đừng phạm sai lầm lớn, công tác cứ tiến tới như thế này, vậy là được rồi. Nếu xuất hiện sai lầm lớn, rồi bị cách ly để phản tỉnh, hoặc bị phân đến Nhóm B, thì xem như mình đen đủi thôi”. Trường hợp này cho thấy điều gì? Mặc dù ngươi có thể đạt đến việc nghe lời, thuận phục và bảo gì làm nấy trong quá trình làm bổn phận, nhưng chuyện đó đâu có nghĩa là ngươi có lẽ thật làm sự sống rồi, đâu có nghĩa là ngươi là người thuận phục Đức Chúa Trời rồi. Ngươi được chọn làm lãnh đạo và chiếm giữ địa vị lãnh đạo rồi, thì chuyện đó sẽ tỏ lộ ngươi. Tại sao lại như vậy? Tại vì ngươi có địa vị rồi thì sẽ có thể muốn gì làm nấy và một mình nắm trọn, ngươi sẽ có thể một tay che trời, lập vương quốc độc lập, hành động theo huyết khí và tâm tính bại hoại, theo dục vọng và dã tâm của mình. Như vậy thì ngươi vẫn không phù hợp để được sử dụng. Đến hiện tại, có thể nói rằng 99% mọi người đều đang ở trong tình trạng và trạng thái này. Mặc dù đa số mọi người đều làm bổn phận lâu năm, bề ngoài có vẻ tương đối biết nghe lời và có khuôn phép, nhưng chuyện đó có thể cho thấy rằng họ không còn tâm tính bại hoại nữa sao? (Thưa, không thể.) Về mặt hành vi thì không phóng đãng, bề ngoài thì có khuôn phép, nhìn vào thì có chút thể thống thánh đồ, nhưng tâm tính bại hoại của họ vẫn chưa biến đổi chút nào, bởi vì họ không chủ động tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình. Khi xuất hiện vấn đề trong công tác, bất kể là bị lãnh đạo hay Bề trên tỉa sửa, thì cùng lắm họ nghĩ: “Được thôi, bảo mình sửa thì mình sửa. Mình chịu thêm chút khổ, tốn thêm chút thời gian, nhanh chóng làm lại thôi”. Họ chỉ có dạng thái độ và tâm thái như vậy thôi. Mà như vậy thì không đồng nghĩa với chuyện họ thuận phục lẽ thật, không đồng nghĩa với sự thuận phục thực sự. Dạng tâm thái này từ đâu mà có? Chính là do khi tin Đức Chúa Trời thì người ta có một dạng khao khát tích cực, khao khát làm người tốt, khao khát làm loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn. Tâm nguyện này tạo nên dạng tâm thái này nơi người ta trong cuộc sống thường nhật và trong việc làm bổn phận. Nói theo kiểu của con người là: “Đừng gây rắc rối, ai cũng đàng hoàng đi”. “Đàng hoàng” là nói đến điều gì? Là nguyên tắc lẽ thật sao? Nó chỉ khiến ngươi nghe lời, giữ khuôn phép, không gây rối. Đây là yêu cầu thấp nhất đối với con người, đâu đến mức nguyên tắc lẽ thật. Vậy nguyên tắc lẽ thật là gì? Chính là ngươi phải chủ động tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời. Trong lúc bộc lộ tâm tính bại hoại, trong lúc có ham muốn ích kỷ hoặc huyết khí, cũng như trong lúc tâm tính bại hoại khiến ngươi nảy sinh một dạng tình trạng nào đó, thì ngươi phải chủ động đối chiếu những biểu hiện đó với lời Đức Chúa Trời. Với sự khai sáng, chỉ dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ của Đức Chúa Trời, thậm chí với sự phán xét và hành phạt nghiêm khắc của lời Đức Chúa Trời, từng chút một, ngươi thay đổi thái độ của mình đối với lời Đức Chúa Trời, mức độ tiếp nhận lời Đức Chúa Trời của ngươi ngày càng cao, ngươi ngày càng công nhận và thưa Amen với lời Đức Chúa Trời. Sau đó, ngươi tiếp nhận lời Đức Chúa Trời vào mình, buông bỏ những tư tưởng và quan điểm sai lầm, không còn bám giữ những thứ do con người truyền lại, có thể tiếp nhận lẽ thật, có thể dựa vào lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật mà xử lý những con người, sự việc và sự vật quanh mình, cũng như thay đổi góc độ, lập trường và quan điểm đối với con người, sự việc và sự vật. Đây chính là con đường để giải quyết tâm tính bại hoại. Vậy hiện tại các ngươi đã có dạng thực hành chủ động này chưa? Ta thấy là 99% mọi người vẫn chưa có. Bài viết lời chứng trải nghiệm của đa số mọi người đều là trải nghiệm của họ về một hoàn cảnh buộc họ phải hành động theo cách như vậy, và từ trong cách làm đó mà đạt đến “thuận phục Đức Chúa Trời”. Trong lòng họ còn thấy vui sướng, cảm thấy bản thân đã có thực tế lẽ thật rồi. Mặc dù ngươi viết bài lời chứng, nhưng thực ra, ngươi đang khoe khoang và làm chứng cho chính mình, tạo lập cho chính mình: “Chị xem đi, tôi có lời chứng này. Tôi đã không phụ lòng Đức Chúa Trời. Ở trong hoàn cảnh đó, tôi đã kiên trung giữ vững bổn phận của mình!”. Còn có một vài người viết bài lời chứng trải nghiệm về chuyện mình bị tỉa sửa thì đã phản tỉnh và nhận thức, nhận thức được bản thân mình qua loa chiếu lệ, không đạt đến thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời, và giờ sẵn lòng hối cải. Mặc dù họ có biểu hiện hối cải trong một thời gian, có vẻ không còn qua loa chiếu lệ nữa, nhưng tâm tính bại hoại của họ đã thay đổi rồi sao? Chưa đâu. Ở sau lưng người ta, họ vẫn còn kiêu ngạo, ngông cuồng, lập trường, góc độ và quan điểm nhìn nhận hay xử lý con người và sự việc của họ căn bản không dựa trên lời Đức Chúa Trời. Cho nên tâm tính bại hoại của họ đến bây giờ vẫn chưa bắt đầu có sự thay đổi! Vậy cái gọi là sự thay đổi này của ngươi là gì? Chỉ là thay đổi về hành vi và cách sống, giọng điệu, cách diễn đạt lẫn phong cách khi đối đãi với con người và sự vật cũng có một vài thay đổi. Đức tin của ngươi cũng đã mạnh mẽ hơn, có thể tìm kiếm lẽ thật khi trải nghiệm sự tỉa sửa trong đủ loại hoàn cảnh, bây giờ ngươi đã hiểu nhiều lẽ thật hơn, ý chí đi theo Đức Chúa Trời cũng kiên định hơn trước, những phương diện này đều có sự thay đổi rồi. Những thay đổi này khiến người ta càng thêm tin tưởng vào sự cứu rỗi, càng sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, càng tràn đầy hy vọng và thêm phần lạc quan đối với việc đi theo Đức Chúa Trời, bất kể gặp phải hoạn nạn hay sự thử luyện gì cũng không đến mức tiêu cực và thoái lui. Nhưng đó chỉ là sự thay đổi trong những gì mà nhân tính bình thường sống thể hiện ra. Những tư tưởng và quan điểm tương đối tích cực và chính diện này từng bước chiếm hữu lòng người, và đó là dấu hiệu cho thấy tâm linh người ta đang được thức tỉnh và hồi sinh. Nghĩa là người ta tích cực và hướng thượng hơn, khao khát những điều tích cực hơn, thêm tin tưởng vào việc mưu cầu lời Đức Chúa Trời, công tác của Đức Chúa Trời và yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đương nhiên, họ càng có khái niệm rõ ràng hơn về một hạng mục công tác quan trọng nhất mà Đức Chúa Trời muốn làm – công tác cứu rỗi con người. Dựa vào những điều kiện này, rất nhiều người khi làm bổn phận đã vững vàng thực tế hơn trước đây, có khuôn phép và biết nghe lời hơn trước đây. Hiệu suất khi làm bổn phận cũng cao hơn, nhất là công tác có tính kỹ thuật càng tiến triển nhanh hơn, không còn ì ạch như lúc trước, khi mà việc của hai, ba ngày phải mất bảy, tám ngày còn chưa làm xong, còn bây giờ làm hai, ba ngày là đã có thành quả rồi. Đương nhiên, đây cũng là tin tốt. Vậy tin xấu là gì? Chính là những biểu hiện và sự bộc lộ của các ngươi chỉ là sự thay đổi về hành vi, tư tưởng và ý thức, với một vài dấu hiệu cho thấy những điều tương đối chính diện, tích cực và lạc quan ở trong tiềm thức của ngươi đã được thức tỉnh. Nhưng những dấu hiệu này không đại diện cho việc tâm tính bại hoại của ngươi đã bắt đầu có sự thay đổi rồi. Đây là tin không tốt cho lắm, phải không nào? (Thưa, phải.) Mặc dù không tốt cho lắm, nhưng đây cũng là quá trình tất yếu để nhân loại bại hoại đạt đến được cứu rỗi. Con người đáng thương và bần cùng đến vậy, non nớt đến vậy, tốc độ bước vào sự sống và thoát khỏi tâm tính bại hoại của họ cũng chậm như vậy. Suy cho cùng, nguyên nhân của tốc độ chậm này chính là vì dạng nhân loại này không có cơ quan để tiếp nhận lẽ thật. Đối với lẽ thật, những điều tích cực và bất kỳ điều gì đến từ Đức Chúa Trời, họ đều tê dại như vậy đấy.
Có những người đã tin Đức Chúa Trời hơn chục năm, hai ba chục năm, đến bây giờ mới biết bản thân tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy mà chỉ biến đổi được một chút về mặt hành vi bề ngoài, thức tỉnh một chút trong tâm linh, chứ tâm tính bại hoại thì căn bản chẳng có sự biến đổi nào. Nhưng có những người thấy bản thân có chút biến đổi về hành vi thì cho rằng đó là sự biến đổi trong tâm tính sự sống, lại còn khoe khoang với người khác: “Anh xem, chẳng phải tâm tính sự sống của tôi biến đổi rồi sao?” Thực ra, ngươi chỉ có sự biến đổi về mặt hành vi, chứ chẳng có biểu hiện thực tế của sự biến đổi tâm tính, chẳng sống thể hiện ra được nhân tính bình thường. Vậy làm cách nào để thấy ra được người ta có sự biến đổi về tâm tính hay chưa? Để thấy được chuyện này thì không thể nhìn mặt mà đoán, không thể nhìn vào bề ngoài, cũng không thể nghe xem ngươi nói cái gì, càng không thể nghe ngươi bày tỏ ý chí và nguyện vọng – ý chí và nguyện vọng thứ trống rỗng nhất. Vậy thì nên nhìn vào chuyện gì? Hãy nhìn xem, trong trường hợp không có bất kỳ ai đốc thúc và giám sát, thậm chí không có ai giúp đỡ và hỗ trợ, liệu ngươi có con đường và năng lực dựa vào lời Đức Chúa Trời mà nhìn nhận và xử lý mỗi một chuyện hay không, liệu trong lòng ngươi có lời Đức Chúa Trời làm sự sống để ràng buộc ngươi trong mỗi một việc ngươi làm hay không. Nếu ngươi chưa đạt đến trình độ này, vậy thì chúng ta hãy nói thấp xuống một chút: liệu ngươi có ý thức lấy lời Đức Chúa Trời làm nguyên tắc cho mỗi một hành động và mỗi một lời nói của mình hay không. Nếu ngươi không đạt đến được như vậy, thì quá đáng tiếc, ngươi không có lẽ thật làm sự sống rồi. Tâm tính bại hoại vẫn là sự sống của ngươi, vẫn khống chế ngươi, điều khiển ý thức, tư tưởng và quan điểm của ngươi mọi nơi mọi lúc. Có lẽ mọi nơi mọi lúc, ngươi sẽ dựa vào cảm xúc hay tâm trạng, ý nguyện, phán đoán, cách nhìn hay ý thích của mình mà tiếp cận và xử lý bất kỳ con người, sự việc, sự vật nào. Ngươi vẫn còn gặp nguy hiểm rất lớn, vẫn không thể độc lập làm tốt bổn phận, không thể sinh sống độc lập – lúc nào cũng phải dựa vào người khác, rời xa sự hỗ trợ của người khác thì chắc chắc ngươi sẽ ngã gục. Như vậy thì vóc giạc của ngươi quá nhỏ, chứng tỏ ngươi chưa đạt được lẽ thật làm sự sống. Chưa đạt được lẽ thật làm sự sống nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi chỉ có một hai nguyên tắc để ràng buộc ngươi không làm việc xấu hoặc không phạm sai lầm lớn, nghĩa là trong trường hợp lý tính của ngươi bình thường, không bị ai xui khiến hoặc xúi giục, thì ngươi tuyệt đối sẽ không cố ý báng bổ, chửi mắng Đức Chúa Trời, hoặc là gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh. Nhưng ngươi không cố ý làm vậy đâu đồng nghĩa với ngươi không thể làm vậy. Có lẽ ngươi không chủ động làm vậy, nhưng ngươi vẫn có thể làm vậy một cách bị động. Cái bị động này là nói đến điều gì? Chính là tâm tính bại hoại của ngươi bất kỳ lúc nào cũng có thể trỗi dậy để điều khiển ngươi, khiến nói bất kỳ lời gì và làm bất kỳ việc gì, cũng khiến ngươi nhìn nhận người này, chuyện kia bằng quan điểm sai lầm bất kỳ lúc nào, sau đó dùng tâm tính bại hoại của ngươi mà xử lý loại chuyện này hay loại người nọ. Chẳng hạn như, ngươi làm một việc sai, và cảm thấy không thể để Bề trên biết chuyện này, không thể để lãnh đạo biết chuyện này, cũng không thể để bất kỳ ai biết chuyện này. Bất kể vì nguyên do gì, đằng nào ngươi cũng có những ý tưởng ma quỷ, nên ngươi che giấu chúng đi, không nói ra. Như vậy thì tâm tính bại hoại hay lẽ thật nắm quyền làm chủ đây? Quá rõ ràng là tâm tính bại hoại đang nắm quyền làm chủ rồi. Tâm tính bại hoại chi phối ngươi, khiến ngươi che giấu chuyện đó, không nói ra, và ngươi không vượt qua được chuyện này. Không vượt qua được nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi sẵn lòng thực hành lẽ thật mà ngươi hiểu, nhưng lại không có sức mạnh để thực hành, căn bản ngươi không thắng vượt được tâm tính bại hoại của mình. Như vậy thì ngươi gặp phiền phức rồi, ngươi sẽ không thực hành được lẽ thật. Nếu ngươi muốn che giấu và lừa gạt, thì ngươi tuyệt đối sẽ có thể làm ra việc che giấu và lừa gạt, nhất là che giấu với Bề trên, lừa gạt Bề trên, tốt khoe xấu che, thậm chí là dối trên lừa dưới. Ngươi nói: “Con yêu thích lẽ thật lắm, con là người thực hành lẽ thật. Mỗi một lẽ thật Đức Chúa Trời phán, con đều nghiêm túc ghi lại, suy ngẫm và tổng kết, sau đó thực hành trong cuộc sống hiện thực”. Ngươi nghĩ như vậy và có tâm nguyện như vậy, nhưng như vậy đâu đồng nghĩa với ngươi thực hành lẽ thật rồi. Tại sao? Tại vì trong ngươi có rất nhiều tư tưởng và quan điểm sai lầm đã chiếm hữu lòng ngươi, cho nên tâm tính bại hoại đã trở thành sự sống của ngươi. Tâm tính bại hoại đang làm chủ và chi phối tư tưởng, hành vi của ngươi. Ngươi muốn thực hành lẽ thật thì cũng vô ích, ngươi đâu làm chủ được bản thân mình. Do đó, nếu tâm tính bại hoại chưa được giải quyết, thì ngay cả khi làm bổn phận, ngươi cũng không có khả năng đạt đến chuyện làm việc theo nguyên tắc – ngươi mà có thể không chủ động và công khai xét đoán, chống đối và báng bổ Đức Chúa Trời thì đã rất ổn rồi. Nhưng với tâm tính bại hoại nắm quyền làm chủ trong lòng ngươi, thì phản nghịch hoặc chống đối Đức Chúa Trời là việc ngươi không muốn mà vẫn cứ làm. Có lẽ ngươi cho rằng chỉ trong trường hợp bị động hoặc cấp bách, ngươi mới làm ra việc lừa bịp Bề trên và lừa dối Đức Chúa Trời, trong trường hợp cấp bách, ngươi mới đàn áp người khác hoặc bộc lộ huyết khí. Vậy là do nhất thời cấp bách sao? Đâu phải, mà đây là kết quả do tâm tính bại hoại thâm căn cố đế đang nắm quyền làm chủ gây ra, đây là chuyện tất yếu. Tại sao lại là tất yếu? Tại vì đối với ngươi, lẽ thật mà ngươi hiểu chỉ là một dạng ý nguyện, một dạng tín niệm, chứ vẫn chưa trở thành sự sống của ngươi. Bất kể ngươi có tri thức hay không, tố chất cao hay thấp, ít nhất lẽ thật vẫn chưa trở thành sự sống của ngươi. Nghĩa là lẽ thật chưa nắm quyền làm chủ trong ngươi, thứ nắm quyền làm chủ trong ngươi chính là tâm tính Sa-tan và triết lý Sa-tan. Khi tâm tính Sa-tan chi phối ngươi, thì ngươi sẽ sống theo tâm tính Sa-tan, và vẫn nằm dưới quyền thế của Sa-tan. Trong trường hợp ngươi không bị tổn hại về lợi ích hay thể diện, trong trường hợp chuyện không liên quan đến địa vị và danh lợi của ngươi, thì ngươi sẵn lòng thực hành một chút lẽ thật. Nhưng ngay khi chuyện liên quan đến danh lợi, địa vị và đích đến của ngươi, thì tâm tính bại hoại sẽ nắm lấy và khống chế ngươi chặt chẽ, chắc chắn. Ngươi vẫn không có lòng thuận phục thực sự đối với Đức Chúa Trời, ngươi vẫn 100% có khả năng phản bội Đức Chúa Trời và lẽ thật. Xét từ những hiện tượng này, thì tâm tính bại hoại của ngươi đã được giải quyết chưa? Ngươi đã thoát khỏi được tâm tính bại hoại chưa? Lẽ thật đã làm sự sống của ngươi chưa? Khi có chuyện nào đó xảy ra, nếu mọi lẽ thật ngươi hiểu không thể thắng vượt tâm tính bại hoại của ngươi, không thể thắng vượt lựa chọn, ý nguyện, dục vọng, dã tâm, địa vị và danh tiếng của ngươi, vậy thì những lẽ thật mà ngươi hiểu không phải là sự sống của ngươi. Khi lẽ thật trở thành sự sống của ngươi rồi, thì ngươi tự nhiên sẽ có thể thắng vượt tâm tính bại hoại. Nếu ngươi không thắng vượt được tâm tính bại hoại, thì điều đó cho thấy lẽ thật vẫn chưa nắm quyền làm chủ trong ngươi, vẫn chưa trở thành sự sống của ngươi. Ngươi nói mình yêu thích lẽ thật, nhưng đó chỉ là một dạng khao khát hay tâm nguyện, chứ chẳng đại diện cho sự sống của ngươi. Con người mà có nhân tính bình thường thì đều sẽ có sự khao khát tích cực. Ngươi khao khát làm người tốt thì đồng nghĩa với ngươi là người tốt rồi sao? (Thưa, không.) Ngươi yêu thích lẽ thật, yêu thích sự công bằng và công chính, thì có nghĩa là ngươi có lẽ thật, có sự công bằng và công chính rồi sao? Ngươi đâu có những điều đó, ngươi chỉ khao khát những điều đó mà thôi. Khao khát là nói đến điều gì? (Thưa, nói đến một nguyện vọng tốt đẹp của người ta.) Đúng rồi, nó chính là một dạng nguyện vọng. Nó chẳng liên quan gì đến việc ngươi làm người một cách thực tế như thế nào, phải vậy không? (Thưa, phải.)
Hiện tại các ngươi đã có lẽ thật làm sự sống chưa? (Thưa, chưa có.) Làm thế nào để thấy được người ta có lẽ thật làm sự sống hay không? Bằng cách nhìn xem khi lợi ích của ngươi và lẽ thật phát sinh xung đột với nhau, khi lợi ích của ngươi bị tổn hại hoặc đe dọa, thì lẽ thật mà ngươi hiểu có thắng vượt được tâm tính bại hoại của ngươi không. Nếu thắng vượt được, thì ngươi là người có lẽ thật làm sự sống rồi. Nếu không thắng vượt được, thì chứng tỏ vóc giạc của ngươi quá nhỏ. Nhỏ đến mức độ nào? Ngươi không có lẽ thật làm sự sống, tình hình thực tế là vậy. Có vài người nói: “Nếu nói chúng con không có lẽ thật làm sự sống, vậy tại sao chúng con vẫn có thể buông bỏ tất cả để làm bổn phận ở nhà Đức Chúa Trời? Tại sao chúng con vẫn có thể chịu khổ và trả giá vì Đức Chúa Trời?” Thậm chí còn có người nói: “Con đã có phần nào lòng trung thành rồi, con đã được làm cho nên người đắc thắng rồi”. Thực ra, dạng tuyên bố như vậy lẫn tạp một vài quan niệm và tưởng tượng của con người. Con người có ý chí và lý tưởng thì không có gì sai, con người khao khát sự sáng, khao khát chính nghĩa, còn khao khát mưu cầu lẽ thật, khao khát sự cứu rỗi, v.v. đủ mọi nguyện vọng tốt đẹp này có thể thay đổi phần nào ý thức của người ta, cũng có thể thay đổi phương hướng con đường mà người ta đi, đương nhiên cũng có thể thay đổi một vài hành vi của người ta, thay đổi, về mặt bề ngoài, một vài khí chất và phương thức sinh tồn của người ta. Sự thay đổi này là nói đến điều gì? Chẳng hạn như, hiện tại ngươi có đức tin, tình trạng đặc biệt tốt, không tiêu cực, làm bổn phận thì đặc biệt thuận lợi, thế là ngươi cảm thấy mình đặc biệt có lòng trung thành, có tâm nguyện muốn được cứu rỗi và cũng có hy vọng đạt được sự cứu rỗi, cho nên ngươi cảm thấy mình chịu cái khổ gì cũng được. Nhưng giờ vui chóng qua, trong quá trình làm bổn phận, ngươi gặp phải một vài trắc trở và thất bại, bị tỉa sửa, còn đi chệch đường rất nhiều, thậm chí còn bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và đàn áp, chịu rất nhiều ấm ức, nên trong lòng người chẳng thấy thoải mái. Ngươi không hiểu lẽ thật, không biết tại sao lại xảy ra những chuyện này, ngươi cầu nguyện với Đức Chúa Trời mà cũng chẳng có được đáp án, thế là ngươi đau lòng. Những chuyện này xảy ra đến mức độ rất lớn thì khiến ý chí khao khát lẽ thật và sự sáng của ngươi chịu sự đả kích và tàn phá nhất định. Khi chịu sự tàn phá rồi, ngươi không muốn làm bổn phận nữa, cảm thấy làm bổn phận cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa. Đây là chuyện gì vậy? Tại sao lại thành ra thế này nhanh đến vậy? Tại sao so với trước đây, ngươi như một người khác hẳn vậy? Nếu ngươi có vóc giạc, có lẽ thật làm sự sống, thì lòng trung thành của ngươi sẽ không thay đổi. Nhưng vì ngươi không có lẽ thật làm sự sống, cho nên tình trạng và tâm thái bên trong ngươi, cùng với tinh thần tin Đức Chúa Trời và dâng mình của ngươi, khi nào cũng lúc nóng lúc lạnh, chẳng ổn định. Trong thời gian đó mà chuyện gì cũng thuận lợi và ngươi có tâm trạng tốt, thì ngươi sẽ có tinh thần, có nhiều lời để cầu nguyện, cũng sẵn lòng đọc lời Đức Chúa Trời, khi làm bổn phận cũng dốc sức, có bận một chút, mệt một chút cũng được, có chịu bao nhiêu cái khổ cũng được. Nhưng ngay khi có chút chuyện không thuận lợi, thì ngươi sẽ tiêu cực và yếu đuối, làm bổn phận thì chẳng có tinh thần, bỏ một bữa ăn hay mất một giấc ngủ là ngươi cảm thấy như mình vừa chịu cái khổ cực lớn, trong lòng sẽ oán trách: “Hà cớ gì mà mình phải chịu khổ chứ? Làm bổn phận cũng đâu kiếm được tiền, thật chẳng đáng mà!” Ngươi xem, tâm thái hoàn toàn khác.Tại sao lại có thể có sự biến đổi lớn đến vậy? Chính là vì ngươi không có lẽ thật làm sự sống, và tâm tính bại hoại của ngươi vẫn cứ tồn tại bên trong ngươi. Lúc người ta có nhiệt tâm thì cảm thấy bản thân chẳng có dã tâm hay dục vọng gì, chẳng có yêu cầu gì với Đức Chúa Trời. Nhưng thực ra, tâm tính bại hoại vẫn còn nắm quyền làm chủ trong họ, những thứ đó vẫn chưa được thay đổi. Lúc tích cực thì nhiệt tâm cực lớn, đặc biệt hăng hái, ai cản cũng không nổi, nhưng đến lúc tiêu cực thì như nhũn ra như bùn, ai cũng không vực dậy nổi. Họ lúc nào cũng cực đoan, chẳng ổn định chút gì cả. Điều này cho thấy họ thiếu thứ gì đó trong nhân tính bình thường. Họ thiếu thứ gì vậy? Chính là thiếu lẽ thật làm sự sống, chuyện là như vậy. Tình trạng của ngươi lúc nóng lúc lạnh, vừa mới tiêu cực đây, chốc sau đã tích cực, chuyện này do cái gì gây ra? Chính là do tâm tính bại hoại quấy phá. Hôm nay, nó khiến ngươi nghĩ thế này, ngày mai nó khiến ngươi nghĩ thế kia, nghĩ kiểu gì cũng phù hợp với ý nguyện và huyết khí của ngươi, cũng phù hợp với tình trạng, tâm trạng và cảm xúc lúc đó của ngươi. Nhưng bên trong người có lẽ thật thì khác. Lẽ thật mà làm sự sống của ngươi, thì bất kỳ lúc nào lẽ thật cũng khiến ngươi có định nghĩa chính xác và chân thực đối với mọi việc ngươi làm, chuyện này mãi mãi sẽ không thay đổi. Lẽ thật sẽ không khiến ngươi lúc nóng lúc lạnh, không khiến ngươi bởi vì một lần thất bại hoặc vấp ngã, vì một lần bị tỉa sửa hoặc trắc trở, mà tiêu cực và gục ngã, cũng sẽ không khiến ngươi tích cực đến mức ba ngày ba đêm không ngủ như kiểu tuổi trẻ giận dữ. Thay vào đó, lẽ thật khiến cho lý tính của ngươi được bình thường. Phải vậy không? (Thưa, phải.) Người ta mà hiểu lẽ thật rồi, và lẽ thật làm sự sống của người ta rồi, thì họ sẽ rõ ràng về khải tượng, sẽ biết tại sao mình muốn đi theo Đức Chúa Trời, tại sao mình muốn làm bổn phận, kết quả muốn đạt đến khi làm bổn phận là gì, mục đích, ý nghĩa và giá trị của việc chịu những cái khổ này là gì. Đối với những nguyên tắc lẽ thật này, cái nào họ cũng biết rõ ràng, không hồ đồ, không vẩn đục. Do đó, khi chịu khổ thì họ cũng cam tâm, cũng không oán trách gì, họ làm việc gì cũng có khuôn phép và nguyên tắc, chẳng bao giờ mất đi đức tin nơi Đức Chúa Trời, lúc tiêu cực thì cũng không oán trách hay rời xa Đức Chúa Trời, lúc tích cực thì cũng không có yêu cầu phụ thêm nào đối với Đức Chúa Trời, tình trạng của họ cũng rất bình thường. Hiện tại các ngươi có như vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì nên làm thế nào? (Thưa, từ bây giờ nên bắt đầu chú trọng mưu cầu lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại, chẳng còn con đường nào khác nữa.) Ngoài con đường mưu cầu lẽ thật ra, chẳng còn con đường nào khác nữa. Ta nói cho ngươi biết: Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, cứ luôn mãi để tâm tính bại hoại nắm quyền làm chủ và làm sự sống mình, thì ngươi sẽ không có đích đến tốt đẹp đâu, cùng lắm cũng sẽ trở thành một người phục vụ. Nhưng nếu ngươi mưu cầu lẽ thật, thì hy vọng được cứu rỗi của ngươi sẽ lớn, phúc lành cuối cùng ngươi đạt được cũng sẽ lớn. Ngươi mà mưu cầu lẽ thật thì sẽ có thể thoát khỏi sự trói buộc của tâm tính bại hoại, và tâm tính bại hoại sẽ không làm sự sống của ngươi nữa, thế là ngươi sẽ thực sự thấy hy vọng được cứu rỗi. Còn ngươi mà không mưu cầu lẽ thật, tâm tính bại hoại của ngươi vẫn chưa được giải quyết, mà ngươi còn muốn chỉ dựa vào cách khắc chế và dùng nghị lực để làm việc tốt và không hành ác, vậy thì khó mà nói được ngươi có thể đi đến tận cùng hay không. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Khi tin Đức Chúa Trời, vấn đề lớn nhất mà người ta phải giải quyết là gì? (Thưa, chính là giải quyết tâm tính bại hoại.) Giải quyết tâm tính bại hoại là điều mấu chốt nhất. Ngươi đừng cho rằng: “Hiện tại mình đang ở nhà Đức Chúa Trời và làm bổn phận toàn thời gian, dâng mình toàn thời gian, nên mình chính là người đắc thắng rồi!” Đức Chúa Trời phán về việc làm nên một nhóm người đắc thắng – người đắc thắng nghĩa là gì? “Chiên Con đi đâu, những kẻ nầy theo đó” (Khải Huyền 14:4). Đây là người đắc thắng theo tầng ý nghĩa đơn giản của từ này. Không được chỉ hài lòng với chuyện làm người đắc thắng mà thôi. Là người đắc thắng theo tầng ý nghĩa đơn giản này không đồng nghĩa với chuyện đã thoát khỏi tâm tính bại hoại hoặc là đã có lẽ thật làm sự sống. Những người cuối cùng được cứu rỗi thì không phải chỉ là người đắc thắng – không đơn giản như thế. Người đắc thắng chỉ có nghĩa là những người đã đắc thắng thế gian, đắc thắng Sa-tan, đắc thắng trào lưu tà ác và chính quyền tà ác, đấy gọi là người đắc thắng. Nếu ngươi chỉ hiểu được chút nguyên tắc lẽ thật, có thể nhất thời thắng vượt xác thịt và tình cảm, hoặc không bị đủ loại tin đồn kìm kẹp, không bị kẻ ác và kẻ chẳng tin quấy nhiễu, như vậy thì vẫn không thể hoàn toàn đạt đến tiêu chuẩn người đắc thắng. Chỉ có chút trải nghiệm nhỏ này thì chẳng có giá trị gì lớn. Điều gì mới có giá trị? Có lẽ thật làm sự sống mới là điều có giá trị nhất. Làm sao mới có thể khiến lẽ thật làm sự sống của mình? Chỉ có một con đường thôi, chính là ngươi phải đọc thêm lời Đức Chúa Trời, thực hành và trải nghiệm thêm lời Đức Chúa Trời, như vậy thì mới có thể đạt được lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, đạt đến khiến lẽ thật làm sự sống của ngươi. Ngươi mà có lẽ thật dẫn dắt cuộc đời ngươi, cuộc sống ngươi và nguyên tắc đối nhân xử thế của ngươi – ngươi mà thực hành như thế – thì ngươi có thực tế lẽ thật. Khi ngươi có thực tế lẽ thật rồi, thì tâm tính Sa-tan từng có của ngươi sẽ bị đẩy sang một bên. Trước khi quyết định làm như thế nào đó, thì ngươi hãy ngẫm nghĩ: “Cách nghĩ của mình đâu có đại diện cho nguyên tắc lẽ thật. Mình phải xem lời Đức Chúa Trời phán những gì”. Lần nào ngươi cũng ngẫm nghĩ như vậy, lần nào ngươi cũng nói năng và thực hành theo lời Đức Chúa Trời như vậy, thì lẽ thật chẳng từng chút một đi vào trong sự sống của ngươi sao? Góp ít thành nhiều, ngươi hãy để cho lẽ thật từng chút một đi vào trong lòng ngươi để thay đổi cuộc sống, quan điểm, hiện trạng sinh tồn và tình trạng của ngươi. Khi tình trạng của ngươi dần dà xuất hiện sự thay đổi và phát triển theo phương hướng tốt, thì khả năng ngươi hành ác, gây nhiễu loạn và gián đoạn sẽ ngày càng ít đi, khả năng ngươi khoe khoang bản thân cũng ngày càng ít đi. Thay vào đó, lời chứng thực hành theo nguyên tắc lẽ thật của ngươi ngày càng nhiều. Lúc gặp chuyện lớn phải phân đúng sai, thì nguyên tắc lẽ thật chiến thắng tâm tính bại hoại của Sa-tan nơi ngươi, chiến thắng ý nguyện, ý thích và tính toán của ngươi. Như vậy thì ngươi mới là người đắc thắng chân chính, như vậy thì ngươi mới là người có lẽ thật làm sự sống, mới là người có thể được cứu rỗi. Nếu không, ngươi mà chỉ hành động theo ý thích của mình, và cảm thấy: “Làm như thế này không sai, mình cam tâm tình nguyện làm những việc này, chẳng oán trách gì”, thì có ích gì không? Ngươi không oán trách, nhưng nguyên tắc thực hành của ngươi là gì? Việc thực hành của ngươi hoàn toàn đến từ ý thích của tâm tính bại hoại, đến từ tư tưởng và quan điểm sai lầm, đến từ lòng ích kỷ, từ dã tâm và dục vọng, từ tình cảm và huyết khí – toàn bộ đều do tâm tính bại hoại dẫn dắt. Đây là một sự sống bộc lộ tâm tính bại hoại, chứ không phải là sự sống bộc lộ lẽ thật. Nó không được Đức Chúa Trời ghi nhớ, mà còn bị Ngài định tội. Ngươi phải nghĩ đủ mọi cách để khiến mọi điều mình sống thể hiện ra, mọi lời nói việc làm của mình, mọi tư tưởng và quan điểm mình bộc lộ ra, đều phù hợp với lẽ thật, để những tư tưởng và quan điểm sai lầm do tâm tính bại hoại sản sinh trong lòng ngươi ngày càng ít đi, để những gì ngươi nghĩ trong lòng và quan điểm nhìn nhận sự việc của ngươi sẽ có liên quan đến đến lẽ thật và phù hợp lẽ thật. Ngươi phải mưu cầu theo phương hướng này và chú trọng vào phương hướng này, thì bên trong ngươi sẽ ngày càng có sự biến đổi, tình trạng của ngươi sẽ ngày càng tốt. Hiện tại, rất nhiều người đều biết nói câu chữ và đạo lý, nói rành mạch rõ ràng, nhưng khi nói về thực tế lẽ thật thì chẳng có gì để nói, chẳng nói ra được chút nhận thức thực tế nào. Chuyện này là sao? (Thưa, là không có lẽ thật.) Sự sống của ngươi vẫn là sự sống của tâm tính bại hoại, là sự sống của Sa-tan, chứ không phải là sự sống của lẽ thật.
Nội dung chúng ta vừa mới thông công, các ngươi nghe đã hiểu chưa? Nếu các ngươi thực sự nhận biết được rằng bản thân ngươi chưa thoát khỏi được tâm tính bại hoại của mình, vẫn sống dựa theo tâm tính bại hoại, thì các ngươi có tiêu cực không? (Thưa, nghe Đức Chúa Trời vừa mới nói là tâm tính bại hoại của chúng con vẫn chưa biến đổi, thì trong lòng con cảm thấy rất chênh vênh, cảm thấy bao năm qua mình liên tục ăn uống lời Đức Chúa Trời, trong một vài hoàn cảnh đặc biệt cũng chú trọng thực hành lẽ thật – vậy tại sao tâm tính bại hoại vẫn chưa biến đổi? Con có chút thất vọng, có chút tiêu cực. Nhưng nhờ Đức Chúa Trời chỉ dẫn và thông công từng chút một, nên trong lòng con đã hiểu được rằng con chỉ có chút hành vi tốt bề ngoài mà thôi, chứ tâm tính bại hoại vẫn còn nắm quyền làm chủ bên trong con. Quả thật là con chưa biến đổi gì. Khi nghe Đức Chúa Trời phán rằng lúc hành động thì trước hết phải suy ngẫm, rằng ý nghĩ của con người dù có tốt đến đâu cũng không đại diện cho nguyên tắc lẽ thật, và người ta phải xem lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời phán gì, phải rèn luyện tìm kiếm lẽ thật và thực hành theo lời Đức Chúa Trời trong mỗi một việc mình làm, dần dần thì tình trạng sẽ thay đổi. Nghe Đức Chúa Trời thông công xong, thì có vẻ con thấy có hy vọng rồi, cảm thấy có con đường rồi, và không còn tiêu cực nữa.) Tiêu cực là không đúng, trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được tiêu cực. Thoát khỏi tâm tính bại hoại là đại sự trong chuyện được cứu rỗi, càng là tâm tính bại hoại thì càng phải chú trọng giải quyết, phải dốc toàn lực và dốc hết tinh thần vào đó, không được tiêu cực, không được từ bỏ. Mặc dù hiện tại các ngươi đã bắt đầu chú trọng mưu cầu lẽ thật, nhưng có những lúc các ngươi vẫn không biết cách thực hành. Bây giờ Ta nói với các ngươi về con đường thực hành thì càng có lợi cho lối vào sự sống của các ngươi, đồng thời cũng có thể khiến các ngươi nảy sinh ý thức nguy cơ, có thể chú trọng vào lẽ thật, hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật sớm nhất có thể. Đừng tự mãn hay tự thấy mình đủ, đừng hài lòng với hiện trạng. Hiện tại, các ngươi chỉ là biết nghe lời, có khuôn phép, hiểu chuyện hơn trước một chút, nhưng nói đến chuyện thoát khỏi tâm tính bại hoại thì vẫn còn sớm! Sự thật ở ngay trước mắt các ngươi, tiêu cực thì có ích gì không? Tiêu cực cũng không giải quyết được vấn đề thực tế. Các ngươi nên tìm kiếm xem vấn đề phát xuất từ đâu, rồi bắt tay vào giải quyết từ đó, bây giờ bắt tay vào giải quyết vẫn còn chưa muộn. Vậy lúc nào thì đã muộn rồi? Lúc công tác của Đức Chúa Trời kết thúc thì đã muộn rồi. Các ngươi có ý chí bước vào thực tế lẽ thật và đạt được lẽ thật để làm sự sống không? (Thưa, hiện tại thì chúng con có ý chí đó.) Thực ra, việc bước vào thực tế lẽ thật cũng không khó. Các ngươi nghĩ mà xem, những lời thông công về lẽ thật đã được nói rất nhiều, cũng rất chi tiết và cụ thể. Nhìn thì thấy nội dung rất nhiều, nhưng nguyên tắc thì bất biến, con đường thực hành cũng bất biến. Lúc ngươi bộc lộ tâm tính bại hoại, thì hãy nắm lấy ý niệm hoặc ý nghĩ đó một cách có ý thức, trong lòng hãy suy ngẫm rằng: “Đây là tâm tính bại hoại, vậy làm sao để giải quyết nó? Trước đây mình chưa giải quyết nó. Mình tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà cứ chú trọng làm việc bề ngoài, chú trọng khoe khoang bản thân, chứ chẳng ngẫm nghĩ chuyện bản thân vẫn có tâm tính bại hoại. Hôm nay, đột nhiên mình phát hiện bên trong bản thân vẫn còn dạng ý niệm này. Ý niệm này từ đâu mà ra? Chính là từ tâm tính bại hoại. Vậy làm sao để giải quyết tâm tính bại hoại này?” Ngươi hãy cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, cộng thêm hỏi những người có trải nghiệm ở quanh mình, họ sẽ dẫn dắt ngươi tìm kiếm lẽ thật và giải quyết vấn đề. Mọi người mà ở cùng nhau thì phải giúp đỡ và hỗ trợ nhau, thông cảm cho nhau. Vóc giạc của mọi người đều như nhau, đừng ai xem trọng ai, cũng đừng ai xem thường ai. Cứ giúp đỡ và hỗ trợ nhau như vậy thì vóc giạc của mọi người sẽ dần dần lớn lên, đến cuối cùng thì đều được cứu rỗi, đều vào vương quốc. Như vậy chẳng tốt hay sao? (Thưa, tốt.) Được rồi, hôm nay thông công đến đây thôi. Tạm biệt!
Ngày 9 tháng 9 năm 2023