Cách mưu cầu lẽ thật (26)
Mới đây, chúng ta đã thông công về chủ đề Đức Chúa Trời nhập thể, chủ đề này liên quan đến việc thực hành “buông bỏ” trong “Cách mưu cầu lẽ thật”, và chúng ta đã thông công đến “buông bỏ quan niệm và tưởng tượng của con người về Đức Chúa Trời” nằm trong chủ đề “buông bỏ những rào cản giữa bản thân và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài”. Về phương diện này, chúng ta đã thông công mấy lần rồi, chủ yếu là thông công về cách đối đãi với Đức Chúa Trời nhập thể. Nội dung này đã được chúng ta chia thành hai chủ đề, các ngươi nói xem, là những chủ đề nào? (Thưa, về Đức Chúa Trời nhập thể, Đức Chúa Trời đã cho chúng con hai nguyên tắc thực hành đúng đắn: Thứ nhất là không được so sánh Đức Chúa Trời nhập thể với Đức Chúa Trời trên trời. Thứ hai là không được đánh đồng Ngài với con người bại hoại.) Về hai chủ đề này, chúng ta đã thông công một vài nội dung chi tiết, liên quan đến một vài biểu hiện của sự thực tế và bình thường nơi Đức Chúa Trời nhập thể. Trong đó, chúng ta cũng đã thông công về những nguyên tắc cụ thể mà Đức Chúa Trời nhập thể tuân thủ và giữ nghiêm khi sinh sống, sinh tồn, làm người và làm công tác giữa nhân gian. Thông công về những nội dung này là để làm cho người ta hiểu và biết Đức Chúa Trời nhập thể – con người có thân phận đặc biệt này – có những biểu hiện nào khi sinh sống ở nhân gian. Chúng ta đã thông công chủ yếu về chủ đề là phương diện bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể, cũng đã thông công rất nhiều nội dung cụ thể. Các ngươi nghe xong rồi thì những lời đó có hiệu quả trên các ngươi như thế nào? Các ngươi đã giảm bớt quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời nhập thể, hay là còn tăng thêm những quan niệm mới? (Thưa, những quan niệm và tưởng tượng của chúng con về Đức Chúa Trời đã giảm bớt rồi.) Vậy thì thông công về chủ đề này có giúp ích cho người ta trong việc nhận biết Đức Chúa Trời nhập thể không? (Thưa, có.) Vậy thì cũng không tệ.
Thông công về chủ đề Đức Chúa Trời nhập thể thì chủ yếu xoay quanh một vài sự bộc lộ và cách làm liên quan đến phương diện bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể, nhắm đến khiến cho người ta có thể hiểu rõ một cách cụ thể hơn về Đức Chúa Trời nhập thể, con người có thân phận đặc biệt này. Vậy các ngươi có cảm thấy rằng càng hiểu rõ sự bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể thì các ngươi càng cảm thấy Ngài chỉ là một người bình thường và chẳng có gì nổi bật, cũng như càng hiểu rõ sự bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể thì các ngươi càng không cảm thấy Ngài có khí chất của Đức Chúa Trời? Các ngươi có những ý nghĩ này không? (Thưa, không có. Nghe Đức Chúa Trời đưa ra vài ví dụ nói về một số điều mà Đức Chúa Trời nhập thể sống thể hiện ra và bộc lộ, thì con cảm thấy chỉ là hình tượng bề ngoài của Đức Chúa Trời thông thường và bình thường, nhưng sự bộc lộ của nhân tính bình thường của Ngài thì cao vượt xa so với nhân loại chúng con và là điều mà chúng con không đạt đến được. Trong nhân tính bình thường của Đức Chúa Trời không có tâm tính bại hoại, không có sự ngông cuồng và giả dối, không có sự kiêu ngạo và phóng túng của con người. Mặc dù bề ngoài của Đức Chúa Trời nhập thể thì thông thường và bình thường, nhưng có thể thấy được sự vĩ đại của Đức Chúa Trời từ trong sự khiêm hạ của Ngài. Con có cảm giác như vậy.) Thông thường, khi những danh nhân, vĩ nhân và những nhân vật lớn có thành tựu ở giữa nhân loại mà giới thiệu về các mặt của bản thân, thì họ sẽ giới thiệu những điều thông thường, thực tế, bình thường và phổ thông của mình sao? (Thưa, sẽ không như vậy.) Nhân loại bại hoại mà giới thiệu bản thân cho người khác biết, thì tuyệt đối sẽ không giới thiệu mình bình thường, thông thường và phổ thông đến chừng nào. Ngược lại, họ còn muốn thông qua việc giới thiệu và mô tả bản thân mà khiến người ta cảm thấy họ khác với người thường, siêu phàm, vĩ đại và có năng lực của siêu nhân, thậm chí nếu có người cảm thấy họ là dị nhân thì họ càng vui vẻ hơn nữa. Ngươi xem, nhân loại bại hoại đều giới thiệu bản thân kiểu gì nào? Trước hết, họ sẽ giới thiệu bản thân hoàn hảo đến cỡ nào, chẳng có khiếm khuyết hay tật xấu gì, lại còn khoe khoang mình có bối cảnh gia đình hiển hách thế nào, thân phận cao quý ra sao, có bao nhiêu văn bằng, hoặc tướng mạo có điểm gì hơn người. Ngay cả khi có nốt ruồi trên mặt, họ cũng phải tìm ra cách nói khác người để mô tả, bảo rằng: “Anh xem, vị trí nốt ruồi này của tôi chẳng bình thường đâu. Nghe nói là người có nốt ruồi ở chỗ này thì không giàu cũng sang”. Khi nói đến tướng mạo, họ luôn phải rêu rao một cách khoa trương rằng mọi điểm trên ngũ quan của họ đều khác với người thường như thế nào, có những câu hay ho nào trong nhân tướng học về chúng, chẳng hạn như không giàu cũng sang, có thể lên như diều gặp gió, không phải là cá nhỏ trong ao. Ngoài ra, họ đặc biệt thích khoe bản thân có những ân tứ hoặc sở trường nào, khoe tư duy và cách nghĩ của họ siêu phàm và độc đáo đến đâu, khoe họ đã có được thành tích gì khi ở giữa tập thể nào, được cao nhân khen ngợi, đánh giá cao, ngưỡng mộ và khâm phục ra sao, hoặc họ đã có cống hiến lớn thế nào ở trong ngành nghề nào đó và được lãnh đạo trân trọng ra sao. Bất kể lời họ nói có phải là sự thật hay không, khi giới thiệu bất cứ phương diện nào của bản thân, họ cũng đều muốn làm cho người khác cảm thấy họ khác với người thường, là duy nhất, độc nhất vô nhị giữa mọi người, vượt hơn hết thảy người phàm. Họ nhìn hết thảy người phàm với ánh mắt khinh thường, thấy hết thảy mọi người đều là tiện nhân và thảo dân, chỉ có họ là vĩ đại nhất, tôn quý nhất và khác thường nhất. Ngươi hỏi họ có văn bằng gì, thì họ nói mình tốt nghiệp đại học danh tiếng, là nghiên cứu sinh, tiến sĩ, nhưng trên thực tế, họ chỉ học một trường đại học bình thường mà thôi. Con người họ có những khiếm khuyết, tật xấu, tâm tính bại hoại, hay những mặt nhân cách thấp hèn gì, từng làm chuyện sai trái nào, thì họ chẳng bao giờ nói đến. Hễ là giới thiệu bản thân để cho người ta biết về mình, thì họ sẽ nghĩ đủ mọi cách để khoe khoang bản thân, khen ngợi bản thân và tạo hình ảnh cho bản thân, phải nói sao cho bản thân rất vĩ đại, rất siêu phàm, rất khác thường. Ngay cả khi có bệnh thì họ cũng phải nói đó là bệnh của người giàu, để người ta cảm thấy họ là cành vàng lá ngọc, khác với người thường. Bất kể nói thế nào, họ tuyệt đối sẽ không để người khác cảm thấy họ chỉ là một người thông thường hay bình thường. Thay vào đó, họ sẽ nghĩ đủ mọi cách để khiến người khác ngưỡng vọng, đánh giá cao và khâm phục họ, nếu người khác có thể đi theo họ và có chỗ trong lòng cho họ, thì họ sẽ hài lòng hơn nữa. Nếu ngươi nói họ thông thường và bình thường, là một thành viên trong đại chúng thông thường, thì họ sẽ cảm thấy quá sức mất mặt và bị tổn hại lòng tự tôn, và điều đó như thể giết chết họ vậy. Một đời này, họ luôn mưu cầu trở nên siêu phàm và khác với người thường. Bởi vì có tâm tính bại hoại và dạng dục vọng này, cho nên rất nhiều người thường xuyên tô vẽ hình tượng bề ngoài của mình sao cho rất cao quý, rất có khí chất và rất tôn quý; sao cho tác phong, lời nói và cử chỉ bề ngoài của họ thể hiện được phong thái của một nhân vật lớn. Bất kể ở giữa nhóm người nào, nếu có người bảo họ: “Ở trong nhóm người này, tôi nhìn một cái là thấy anh liền. Từ ánh mắt, ngũ quan và khí chất của anh, có thể thấy được con người anh không tầm thường đâu”, thì họ sẽ vui vẻ lắm. Họ sẽ phóng đại chuyện này đến vô hạn, và cả đời trên miệng họ lúc nào cũng chực sẵn những lời này, họ đi khắp nơi mà khoe: “Ở trong một nhóm người, người ta nhìn một cái là có thể nhận ra tôi ngay, biết ngay tôi là người đứng đầu, không phải là cá nhỏ trong ao, không phải là người thường!”. Họ đặc biệt thích làm dạng người này, đặc biệt thích định vị bản thân là siêu phàm, không bình thường và khác với người thường, thậm chí là một người độc nhất vô nhị. Còn có rất nhiều người đặc biệt chú ý đến những danh nhân, vĩ nhân và người có thân phận, địa vị trong xã hội, đặc biệt chú ý đến tin tức về những người này, chú ý lời nói, cử chỉ và chuyện ăn, mặc, ở, đi lại của những người này. Mục đích họ chú ý không phải là để giải trí, mà là để bắt chước và đi theo. Những người này ăn cái gì, mặc cái gì, giữa những người này đang thịnh hành cái gì, thì họ đều sẽ bắt chước theo, những người này bàn luận về chủ đề gì thì họ cũng bàn luận theo. Họ theo rất sát, chỉ sợ mình bị đào thải khỏi trào lưu này, sợ mình bị tụt hậu và bị người khác xem thường. Họ chỉ muốn làm người nổi bật và phi phàm ở giữa mọi người, chứ tuyệt đối không sẵn lòng làm một người thông thường và bình thường. Có những người mặc dù tố chất trung bình, chẳng có sở trường hay ân tứ gì, điều kiện bẩm sinh các mặt đều rất bình thường và thông thường, nhưng họ lại không cam tâm làm một người thông thường, không cam tâm làm kẻ vô danh. Thay vào đó, họ phải tô vẽ bản thân sao cho rất cao quý, rất có khí chất, hoặc nói sao cho bản thân rất khác thường, chẳng phải là một kẻ vô danh. Thậm chí có những người còn nỗ lực chịu khó bắt chước các nhân vật lớn, bắt chước những người có năng lực và bản lĩnh, bắt chước những người có tài nghệ cao siêu. Họ thấy những người này làm gì, nói gì, bàn luận gì, thì sẽ bắt chước cái đó, nỗ lực để có thể trở thành một nhân vật lớn siêu phàm như những người đó, chứ không còn là một người bình thường và thông thường nữa. Vì vậy mà khi chúng ta thông công về sự bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể thì không khỏi khiến cho một số người nghĩ rằng: “Nhân loại đều cực lực khen ngợi, tạo hình ảnh và tâng bốc bản thân là khác với người thường như thế nào, siêu phàm và vĩ đại ra sao. Còn Ngài lại luôn giới thiệu bản thân là rất bình thường và thực tế. Như vậy chẳng phải có chút không hợp lý hay sao? Chẳng phải có hơi ngốc hay sao? Ngài là Đấng Christ nhập thể, có thân phận cao quý như vậy, trên đầu có vầng hào quang to như thế, có mão triều thiên lớn như vậy, sao Ngài có thể nói bản thân là một người thông thường, bình thường và thực tế chứ? Hơn nữa, vì sợ người ta không tin, Ngài còn nêu ra quá nhiều ví dụ để chứng thực rằng bản thân Ngài bình thường, thực tế và thông thường đến cỡ nào. Như vậy không khỏi khiến người ta có chút khó hiểu”. Mặc dù chuyện này không phù hợp với quan niệm của con người, nhưng sự thật là vậy. Những sự bộc lộ cụ thể về phương diện bình thường, thực tế và thông thường của Đức Chúa Trời nhập thể chính là như vậy, đây là sự thật, Ta đâu thể ngụy tạo được. Có một số người nói: “Vậy ít nhiều Ngài cũng nên nói vài ví dụ nào đó khiến cho người khác cảm thấy Ngài khác với người thường và siêu phàm, cảm thấy thân phận và hình tượng của Ngài đặc biệt cao quý và đường bệ chứ”. Ta phải làm các ngươi thất vọng rồi, thật sự chẳng có ví dụ nào như vậy cả. Trên thực tế, những gì Ta mô tả về cách Ta làm người, làm việc trong cuộc sống và công tác chính là những sự bộc lộ chân thực của Đức Chúa Trời nhập thể, khách quan đến vậy đấy. Đây đều là tình hình thực tế, chẳng có ví dụ nào khiến người ta thấy Ta khác với người thường, siêu phàm, vĩ đại, hoặc là có hình tượng cao quý và đường bệ cả. Có vài người nói: “Bản thân Ngài không biết tự bịa ra sao? Như vậy sẽ để lại ấn tượng tốt hơn trong lòng người ta, và không để người ta thất vọng. Ngài cứ mô tả bản thân bình thường và thực tế đến vậy, mô tả bản thân chỉ là một người phàm, hình tượng cũng chẳng có gì là cao quý cả! Vậy thì ai còn sùng bái Ngài, ai còn xem trọng Ngài chứ? Nếu người ta đều không xem trọng Ngài, không sùng bái Ngài, thì trong lòng họ còn có chỗ cho Ngài nữa sao?”. Ta nói cho ngươi biết, Ta thực sự đâu mong cầu chuyện đó. Ngươi không xem trọng Ta, không sùng bái Ta, thì được thôi, Ta rất thoải mái với chuyện đó. Lại có người nói: “Người ta không xem trọng Ngài, không sùng bái Ngài, vậy mà gọi là đi theo Đức Chúa Trời sao?”. Chuyện ngươi có xem trọng và sùng bái Ta hay không đâu có gì quan trọng, Ta thực sự chẳng để ý chuyện đó. Nếu ngươi không xem trọng, cũng không sùng bái Ta, nhưng mỗi lời Ta nói, mỗi phương diện lẽ thật Ta thông công, ngươi đều có thể để tâm suy ngẫm và xem đó là lời Đức Chúa Trời mà tiếp nhận, rồi dựa vào những lời này mà làm người và hành động, nhìn người và nhìn việc, thì vậy là được rồi, vậy thì lời Ta nói ra đã không uổng phí. Ngươi không xem trọng, cũng không sùng bái Ta, nhưng những lời Ta nói và những bài Ta giảng đưa ngươi đến trước mặt Đức Chúa Trời, khiến cho ngươi biết cách mưu cầu lẽ thật, khiến cho ngươi biết cách hành động theo nguyên tắc lẽ thật khi gặp bất kỳ chuyện gì, khiến cho ngươi học cách làm người và hành động, khiến cho ngươi học cách làm bổn phận của loài thọ tạo, khiến cho ngươi biết cách trung thành với Đức Chúa Trời, biết cách để có thể đạt đến việclàm bổn phận đạt tiêu chuẩn, khiến cho ngươi biết thuận phục Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, cuối cùng là khiến cho ngươi thoát khỏi tâm tính bại hoại và được Đức Chúa Trời thu phục. Như vậy thì những lời Ta nói sẽ không vô ích, và sẽ đạt được mục đích. Còn về phần Ta, ngươi có thể đối đãi một cách đúng đắn, công bằng, hợp lý theo nguyên tắc là được rồi. Ta đâu có yêu cầu cao đối với các ngươi, trước đây Ta có nói rằng chúng ta chung sống với nhau thì có ba nguyên tắc là đối xử chân thành, tôn trọng, và nghe lời Đấng Christ. Các ngươi có thể thực hành được ba điều này là được rồi. Ta không cần người ta sùng bái Ta, cũng không cần người ta ngưỡng mộ hoặc xem trọng Ta. Ta không cần trong lòng người có hình tượng của Ta, Ta chẳng hứng thú với những chuyện đó. Có những người đặc biệt sùng bái dạng nhân vật có hình tượng cao quý, khác với người thường, có năng lực siêu phàm và phi phàm. Họ cho rằng Đức Chúa Trời nhập thể thì không thể nào là một Con người bình thường, thực tế và thông thường được. Những người chưa từng gặp mặt Ta thì tự nhiên sẽ cho sẽ rằng hình tượng của Ta cao quý hơn người thường và đặc biệt đường bệ. Ngươi tuyệt đối đừng cho là vậy, Ta chẳng có chút gì là đường bệ cả, vóc người Ta rất nhỏ, chiều cao khiêm tốn, lời nói và cử chỉ của Ta trong cuộc sống thường nhật thì đặc biệt bình thường và thực tế. Mọi mặt trong cách ăn mặc, và chuyện ăn, mặc, ở, đi lại của Ta đều đặc biệt thông thường. Ta chẳng bao giờ mong cầu bản thân là duy nhất, cũng chẳng bao giờ mong cầu bản thân là độc nhất vô nhị. Ta chỉ mong cầu làm việc có khuôn phép, làm người đúng với bổn phận của mình, làm công tác cho tốt, làm chức vụ của mình cho tốt, nói cho thấu tỏ và rõ ràng những lời nào Ta nên nói – đấy là nguyên tắc làm người và làm việc của Ta. Ta chẳng mưu cầu trở nên khác với người thường, siêu phàm, vĩ đại như nhân loại mưu cầu, cũng chẳng bao giờ mong cầu người ta nhìn một cái là nhận ra Ta ở giữa đám đông. Ngay cả khi ngươi chẳng nhận ra Ta giữa mọi người, thì Ta cũng chẳng có gì buồn bã hay đau lòng, cũng chẳng bao giờ cảm thấy bị mất mặt, đương nhiên Ta sẽ càng không nói là ngươi đang mạo phạm Ta.
Khi Ta phán lời, công tác và tiếp xúc với các ngươi, bất kể là thông công về phương diện lẽ thật nào, thông công để giải quyết vấn đề về phương diện nào, hoặc là chỉ nói những chuyện thường ngày hay là nói chút chuyện gì đó, thì Ta đều cố gắng làm cho các ngươi nghe mà hiểu được, bất kể nói chuyện gì Ta cũng đều nói sao cho có ích cho mọi người. Đương nhiên, nếu thông công các vấn đề liên quan đến lẽ thật, thì càng cần làm cho người ta đạt được từ trong đó những nguyên tắc để thực hành lẽ thật và con đường giải quyết những vấn đề đó. Nếu chỉ là nói chuyện thường ngày thì càng bình thường hơn nữa, bởi vì chúng là nhu cầu của nhân tính bình thường. Nhu cầu của nhân tính bình thường này là nói đến điều gì? Nó nói đến chuyện người ta thỉnh thoảng cần trao đổi và chia sẻ những gì mình thấy và nghe trong cuộc sống thường nhật. Nói chuyện thường ngày, tán gẫu và chia sẻ với người khác, đây đều là nhu cầu của lương tâm và lý tính trong nhân tính bình thường. Với Ta, việc chia sẻ với người khác thường là để làm cho ngươi hiểu rõ thêm về thế giới này, xã hội này và nhân loại này, còn là nói cho ngươi biết cách nhìn nhận những chuyện xảy ra trong xã hội này và nhân loại này, cách nhận biết các trào lưu tà ác, cách nhận biết các loại sự vật và các loại người. Ngay cả khi tán gẫu và nói chuyện thường ngày thì Ta cũng thỉnh thoảng nói, hoặc nói một cách ngắn gọn, về một vài vấn đề mang tính thực chất liên quan đến những con người, sự việc và sự vật. Do đó, bất kể trong trường hợp nào, lúc tiếp xúc với Ta, thì cái mà người ta thấy được, nghe được và lĩnh hội được về Ta chẳng có chút gì là siêu phàm, mà đều bình thường, thực tế và thông thường. Sống trong vẻ ngoài nhân tính như vậy thì Ta cảm thấy đặc biệt tự do và thoải mái khi sinh sống cùng mọi người. Nếu ngươi cho rằng con người Ta có bất kỳ hoạt động nào siêu phàm và khác với người thường, hoặc ngũ quan hay là phương diện bề ngoài nào đó của ta có chỗ khác với người thường hay đặc biệt siêu phàm, nếu ngươi cho là vậy thì Ta sẽ cảm thấy rất không thoải mái, rất khó chịu. Ta rất ghét kiểu nói đó, cũng rất ghét người ta dùng cái nhìn đó mà nhìn nhận con người Ta. Nhất là có những người vừa gặp mặt Ta lần đầu đã quan sát Ta, nhìn vào mắt Ta, xem ngũ quan của Ta, còn chăm chú nghe mỗi từ ngữ Ta dùng và ngữ điệu Ta nói, muốn nhìn xem Ta có siêu phàm và khác với người thường như họ tưởng tượng hay không. Ta nói cho mà biết, không cần làm vậy, không cần quan sát hay nghiên cứu Ta. Con người Ta rất thông thường, rất bình thường, ngươi chung sống với Ta thì nên thả lỏng, tự do và thoải mái. Ngươi mà luôn quan sát và nghiên cứu, thì càng nghiên cứu càng mệt, càng nghiên cứu càng mông lung. Ta bị ngươi nghiên cứu và quan sát thì sẽ càng ghét ngươi và thấy phản cảm với ngươi. Bất kể ngươi nghiên cứu Ta thế nào, nếu ngươi nghe mà không hiểu Ta nói gì, không biết lời Ta nói rốt cuộc là nói về cái gì, và nguyên tắc lẽ thật nên hiểu trong chuyện này là gì, thì ngươi nghiên cứu có ích gì không? Ngươi nghiên cứu như vậy thì càng thêm đáng ghê tởm thôi. Từng có người – Ta chẳng biết họ đã quan sát bao lâu rồi hay là vô ý thấy thôi – nói rằng mắt Ta có điểm sáng, vừa thấy đã biết Ta là Đức Chúa Trời. Ta mới bảo: “Ngươi còn nhìn ra được gì nữa? Ngươi có thấy được Thần của Đức Chúa Trời giống như chim bồ câu ngự xuống trên người Ta không? Ngươi có thấy thanh gươm hai lưỡi xuất ra từ trong miệng Ta không? Ngươi có thấy cả người ta như một cột sáng không? Ngươi có thấy gậy sắt trong tay Ta không? Ngươi bảo ngươi thấy mắt Ta có điểm sáng, vậy thì ngươi nói sai rồi. Trong Kinh Thánh có nói: ‘Mắt Ngài như ngọn lửa’. Theo cách lý giải của ngươi, thì ngươi nên thấy hai mắt Ta như ngọn lửa, vậy mới có khí chất của Đức Chúa Trời chứ. Ngươi chỉ thấy được điểm sáng đó thôi thì ngươi đang bôi nhọ Đức Chúa Trời rồi”. Ngươi nói xem, có phải người này đang tự biến mình thành trò hề không? Đây chẳng phải là biểu hiện của vóc giạc nhỏ bé sao? (Thưa, phải.) Ta nói cho ngươi biết, ngươi không cần quan sát hay nghiên cứu những chuyện này. Chỉ cần nghe Ta bày tỏ những lời này là đủ để có thể khiến ngươi bước vào thực tế lẽ thật và bước lên con đường được cứu rỗi rồi. Nếu ngươi cứ nhất quyết đòi quan sát thì sẽ xuất hiện vấn đề gì? Ngươi chẳng những không có được kết quả gì, mà còn không nhận biết được Đức Chúa Trời chút nào, hơn nữa quan niệm của ngươi về Đức Chúa Trời sẽ ngày càng trầm trọng hơn. Đức Chúa Trời nhập thể chẳng có dính dáng gì đến bản thể của Đức Chúa Trời và chân thể của Đức Chúa Trời mà Ngài nói đến, cũng chẳng dính dáng gì đến hình tượng của Đức Chúa Trời được tiên tri trong sách Khải Huyền, hoặc hình tượng của Đức Chúa Trời mà nhân loại đã thấy được thông qua các ghi chép trước đây. Do đó, bất kể ngươi quan sát Đức Chúa Trời nhập thể thế nào, thì Ngài luôn bình thường, thực tế, luôn là một người thông thường. Ngài sẽ không để ngươi thấy được mặt siêu phàm và khác với người thường đâu. Vậy Ta nói những lời này là có ý gì? Chính là có ý nói cho ngươi biết rằng ngươi đừng có quan sát, đừng có nghiên cứu Đức Chúa Trời nhập thể. Ngươi càng nghiên cứu thì Đức Chúa Trời càng xa cách ngươi. Nếu ngươi không nghiên cứu, mà đơn thuần thuận phục và có thể tiếp nhận lẽ thật, thì Đức Thánh Linh sẽ khai sáng và soi sáng cho ngươi, hướng dẫn cho ngươi hiểu lẽ thật. Ngươi mà luôn quan sát, luôn nghiên cứu, thì Đức Thánh Linh sẽ ruồng bỏ ngươi. Một khi Đức Thánh Linh ruồng bỏ ngươi rồi, thì hai mắt ngươi sẽ tối mù, chẳng nhìn rõ được gì cả, đọc lời Đức Chúa Trời cũng không hiểu, gặp phải chuyện gì cũng không nhìn thấu và không biết làm thế nào, khi thông công với người khác thì chẳng biết bắt đầu nói từ đâu. Một chuyện đơn giản nhất trước đây ngươi từng làm nhưng bây giờ ngươi làm thì lại rất lúng túng, chẳng biết làm thế nào. Như vậy là chuyện xấu rồi. Đây có phải là dấu hiệu tốt không? (Thưa, không phải.) Do đó, có dấu hiệu như vậy thì ngươi hãy nhanh chóng quay đầu, đừng tiếp tục quan sát và nghiên cứu Đức Chúa Trời nữa. Lúc chưa có dấu hiệu như thế thì ngươi cũng đừng có làm vậy. Tại sao không được làm như vậy? Tại vì con đường đó chẳng dẫn đến đâu cả, đó không phải con đường ngươi nên đi. Con đường ngươi nên đi khi đi theo Đức Chúa Trời là tiếp nhận lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời, chứ không phải quan sát, nghiên cứu hoặc thử thách Đức Chúa Trời. Nhất là về Đức Chúa Trời nhập thể, nếu ngươi chưa từng gặp và không biết tướng mạo Ngài thế nào, thì khi lần đầu gặp mặt mà ngươi săm soi kỹ lưỡng về Ngài thì cũng là bình thường. Sau khi săm soi, ngươi có chút ấn tượng về Ngài rồi, đối chiếu tiếng của Ngài với tiếng trong bản thu âm bài giảng thấy khớp rồi, thì ngươi nghĩ: “Hóa ra đây là tướng mạo của Đức Chúa Trời nhập thể, Ngài cao chừng này, ăn mặc thế này. Ngài thực sự bình thường, thực tế và thông thường – hoàn toàn là thật, đúng y như lời Đức Chúa Trời mô tả”. Như vậy là được rồi, và hãy dừng ngang đó thôi, đừng tiếp tục bỏ công sức nghiên cứu trong lòng nữa. Sau đó, ngươi hãy nghiêm túc lắng nghe xem Đức Chúa Trời đang thông công những gì, phải ngẫm nghĩ xem những chuyện mà Đức Chúa Trời thông công có liên quan đến phương diện lẽ thật nào, và nhanh chóng ghi lại, sau đó để tâm mà suy ngẫm, khi đã hiểu rồi thì đưa vào thực hành. Đấy chính là đường lối đúng đắn để đối đãi với Đấng Christ – Đức Chúa Trời nhập thể. Bất kể Ta thông công những gì, bất kể Ta thông công nội dung gì, nếu liên quan đến Đức Chúa Trời nhập thể thì Ta luôn làm sao cho các ngươi nhận biết được sự bình thường, thực tế và thông thường của Đức Chúa Trời, chứ đâu có khiến các ngươi liên tưởng về Ngài và nhận biết Ngài theo hướng siêu phàm, vĩ đại, độc đáo và đặc biệt, hay khác với người thường. Mỗi một chuyện Ta nói, mỗi một ví dụ Ta giảng đều có quan hệ với chủ đề về sự bình thường, thực tế và thông thường của Đức Chúa Trời nhập thể. Ta tuyệt đối không bịa ra bất kỳ chuyện gì khiến các ngươi ngộ nhận rằng Ta khác với người thường, siêu phàm, vĩ đại, có phong thái của lãnh tụ, có sự độ lượng của vĩ nhân, hoặc tầm nhìn và cảnh giới của vĩ nhân. Ta nói cho ngươi biết, Ta chẳng bao giờ hiểu được “tầm nhìn” và “cảnh giới” là gì, Ta cũng chẳng ngẫm nghĩ hay để tâm đến những phương diện này. Ta ngẫm nghĩ những gì? Ngẫm nghĩ xem thông công với các ngươi về những chủ đề nào thì có thể đưa các ngươi vào trong thực tế lẽ thật, thông công về những chủ đề nào thì có thể đốc thúc các ngươi, hướng dẫn các ngươi, giúp đỡ và chỉ dẫn các ngươi, làm cho các ngươi có ý nguyện, ý chí chịu khổ và trả giá, có thể mưu cầu lẽ thật, làm tốt bổn phận và đạt được sự cứu rỗi. Ta luôn ngẫm nghĩ xem nói những chủ đề nào, giảng những bài nào thì có thể khiến cho người ta bước lên con đường được cứu rỗi, có thể đạt đến làm bổn phận đạt tiêu chuẩn và trở thành loài thọ tạo chân chính. Bất kể giảng về chủ đề gì, Ta đều cố gắng khiến các ngươi làm một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn, học cách thuận phục Đức Chúa Trời và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Ta chẳng bao giờ ngẫm nghĩ xem nói những lời nào sẽ khiến các ngươi xem trọng Ta, làm những việc nào thì sẽ khiến các ngươi bội phục Ta, khiến cho lòng các ngươi cảm thấy Ta thâm sâu không thể dò thấu như các danh nhân và vĩ nhân. Trong lòng Ta chẳng có những thứ đó. Ta chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện nên nói thế nào, dùng giọng điệu ra sao hoặc ăn mặc thế nào để khiến các ngươi cảm thấy Ta rất cao quý, khiến các ngươi dò không thấu, với không tới, làm cho các ngươi có vẻ rất nhỏ bé và vô tri. Trong lòng Ta chẳng nghĩ đến những chuyện này, Ta chẳng bao giờ nói năng và hành động để bảo vệ địa vị, hình tượng và thân phận của mình. Ta chỉ một lòng làm chức vụ của Ta mà thôi.
Thỉnh thoảng, lúc mệt mỏi, Ta đến chỗ các anh chị em ở để đi dạo và thăm thú. Có lúc Ta đến nông trại dạo một vòng, xem rau, xem lợn, xem cừu. Khi thấy mèo con, Ta cũng vỗ về, ôm ấp và nói chuyện với nó. Thấy cún con rất dễ thương, ta cũng ôm một cái. Có một con chó mẹ sinh ra hơn chục cún con, trước mặt mọi người, nó vui vẻ lắm, như thể mình đã có công vậy. Thế là Ta khen nó rằng: “Giờ mày vui rồi phải không? Mày thấy mình sinh ra được nhiều cún con như vậy, đã lập công rồi. Giỏi lắm, biểu dương mày!”. Ta vỗ về nó và ôm quanh cổ nó. Ta cũng đi xem cũi chó, xem chỗ trồng trọt và các luống rau, chỗ nào Ta cũng xem, thấy rất thích. Ngươi nói xem, những nhân vật lớn có đến những chỗ vừa bẩn, vừa hôi, vừa lộn xộn này không? Họ không đến đâu, nhất là những nơi có mùi khó chịu như cũi chó, chuồng lợn, thì người bình thường đều không sẵn lòng đến. Ta cũng đâu thích mùi hôi hay mùi khó chịu, nhưng chút mùi từ cún con thì có thể chịu đựng được. Có lúc cún con chà người vào Ta, vừa thơm vừa liếm mặt Ta, thế là Ta ôm chúng. Động vật rất đơn thuần, nó tin chủ nhân mà không đề phòng gì, có thể chơi hết mình với chủ nhân, tương tác hết mình với chủ nhân, cuộc sống của chúng đơn giản vậy đấy. Có những người bình thường luôn nói mình thích chó, thích động vật nhỏ, chăm cho động vật nhỏ, nhưng khi ngươi bảo họ ôm cún con thì họ không sẵn lòng ôm. Họ nói: “Chó vừa bẩn vừa có mùi khó chịu, chưa biết chừng còn có vi-rút cũng nên!”. Ta mới bảo: “Ngươi lắm chuyện quá. Không phải ngươi thích động vật nhỏ sao? Ngươi như vậy thì đâu phải thực sự thích chúng”. Chẳng phải dạng người này giả tạo sao? (Thưa, phải.) Họ đâu xem mình là người bình thường, họ cảm thấy bản thân tôn quý, có thân phận và là nhân vật lớn, làm sao có thể tiếp xúc với những động vật nhỏ mà người ta chẳng xem ra gì như vậy chứ? Ngay cả khi dùng bàn tay sờ một cái thôi mà họ cũng phải nhanh chóng rửa tay, sát trùng, thậm chí còn thay luôn bộ áo quần, về nhà thì gấp rút tắm rửa. Họ sạch sẽ đến mức độ như vậy đấy. Ngươi nói xem, người như vậy có kỳ quái hay không? Nếu ngươi không thực sự thích động vật nhỏ thì đừng có giả vờ, người ta vừa nhìn thấy ngươi giả vờ là biết ngay con người ngươi quá giả tạo, chẳng chân thật gì cả, họ thấy ghê tởm và trong lòng sẽ không có ấn tượng tốt về ngươi. Ngươi không thích động vật thì tuyệt đối đừng giả vờ, đừng tô vẽ bản thân tốt đẹp. Ngươi càng tô vẽ bản thân tốt đẹp thì người ta càng cảm thấy ngươi xấu xí, cảm thấy ngươi thấp hèn. Cứ thật thà và chân thật thì tốt hơn nhiều. Ngươi mà không thật thà và chân thật được thì chứng tỏ nhân tính của ngươi có vấn đề. Bất kể nói thế nào đi nữa, sự thực tế và bình thường của Đức Chúa Trời nhập thể là sự thật, sự thông thường của Ngài cũng là sự thật. Nhiều người thông qua tiếp xúc với Ngài mà thấy được mặt này và biết được những sự thật này rồi. Những sự thật này là điều mà các ngươi nên hiểu và biết nhất. Một người bình thường và thông thường như vậy lại chính là Đức Chúa Trời nhập thể – chuyện này chẳng phù hợp với quan niệm của con người. Nếu Ngài hành động giống hệt nhân loại bại hoại, nghĩa là bất kể làm việc lớn nhỏ thế nào cũng đều có thể phô trương rằng bản thân khác với người thường, còn muốn một mình một kiểu, như vậy thì có lẽ sẽ phù hợp với quan niệm của con người. Một bên là đủ loại biểu hiện của nhân loại bại hoại này, một bên là Đức Chúa Trời nhập thể bày tỏ biết bao lẽ thật mà biểu hiện vẫn bình thường giống hệt những người thông thường – dạng biểu hiện nào là điều tích cực và đem lại ích lợi cho người ta? Dạng biểu hiện nào là điều tiêu cực khiến người ta ghê tởm và vứt bỏ? Các ngươi có thể phân định được phần nào không? (Thưa, có.) Vậy thì chúng ta không cần thông công chi tiết nữa. Hãy tiếp tục thông công về chủ đề lần trước đi.
Lần trước, chúng ta đã thông công về một chủ đề khác nằm trong chuyện buông bỏ quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời nhập thể: không được đánh đồng Đức Chúa Trời nhập thể với con người bại hoại, phải vậy không? (Thưa, phải.) Về chủ đề này, Ta đã nêu ra một vài biểu hiện cụ thể của Đức Chúa Trời nhập thể trong cách Ngài làm người và hành động từ phương diện nhân tính của Ngài, cũng như một vài biểu hiện của thực chất tâm tính Ngài – không lừa dối, không tranh, không đấu, không tính kế, không đả kích, không báo thù, không dụ dỗ, v.v.. Trong những điều này, lần trước, chúng ta đã thông công đôi chút về không lừa dối, không tranh, không đấu. Lần này, chúng ta nên thông công về phương diện biểu hiện nào? (Thưa, không tính kế.) Không tính kế thì giống với không lừa dối, không tranh, không đấu, cũng là một nguyên tắc làm người và hành động của Đức Chúa Trời nhập thể, con người thông thường này. Đương nhiên, nó cũng liên quan đến thực chất nhân tính và tâm tính của Ngài. Không tính kế cũng là một biểu hiện cụ thể của thực chất tâm tính hoặc một phương diện trong cách làm người của Đức Chúa Trời nhập thể, con người thông thường này. Cụm từ “không tính kế” này có dễ lý giải không? Các ngươi đều hiểu rồi phải không? (Thưa, phải.) Lý giải cơ bản nhất về “không tính kế” chính là không bày âm mưu, không giở thủ đoạn, không dùng quỷ kế. Nghĩa là khi tiếp xúc và qua lại với các ngươi, bất kể trong công tác hay trong cuộc sống, thì Ta đều thật thà chân thật, không giở thủ đoạn, không bày quỷ kế, không có âm mưu. Thay vào đó, Ta có gì nói nấy, trong lòng có cái gì thì nói ra cái đó, chuyện thế nào thì Ta nói với các ngươi thế ấy. Ta không tính kế với các ngươi, không lừa dối các ngươi, không nói ngon nói ngọt nhằm lừa lấy sự tín nhiệm của các ngươi để rồi khiến các ngươi sẵn lòng dâng mình, chịu khổ và trả giá. Các ngươi có từng thấy Ta làm những việc đó không? (Thưa, không.) Lúc Ta hỏi, chắc chắn các ngươi sẽ nói là không, nhưng các ngươi có thể đưa ra một vài ví dụ để mô tả chuyện này không? Nếu mỗi người các ngươi đều có thể đưa ra một ví dụ, thì sự thật đó sẽ được chứng minh là không thể nào chối cãi, và các ngươi sẽ thực sự có nhận thức về điểm không tính kế này. Chẳng hạn như, có người nói rằng khi ở trong thế gian, họ đã học qua một vài kỹ năng và hiểu được một nghiệp vụ nào đó, vừa hay nhà Đức Chúa Trời có một hạng mục công tác hoặc việc để làm liên quan đến nghiệp vụ mà họ đã học. Ta chuyện trò với họ, nói rằng: “Ngươi hiểu một chút về nghiệp vụ này, vừa hay nhà Đức Chúa Trời cũng có công tác trong lĩnh vực này. Liệu ngươi có thể dựa vào nghiệp vụ mình biết, dựa theo quy luật hoặc nguyên tắc trong nghề của ngươi mà làm tốt công tác này không? Nếu ngươi sẵn lòng làm, thì công tác này được giao cho ngươi”. Trong lời này, có câu nào là tính kế hay lợi dụng người khác không? Có câu nào chứa đựng âm mưu không? (Thưa, không có.) Chắc chắn là không có chứ? (Thưa, chắc chắn là không có.) Bởi vì ngươi tự tiến cử bản thân, giới thiệu rằng mình hiểu nghiệp vụ này, Ta biết được tình hình của ngươi rồi thì giao cho ngươi công tác này. Nếu ngươi sẵn lòng làm, nói rằng: “Con đón nhận từ Đức Chúa Trời, con tiếp nhận công tác này, bổn phận này”, nghĩa là ngươi tự nguyện làm, thì ngươi nên làm cho tốt. Nếu không sẵn lòng làm, thì ngươi có thể ở trước mặt Ta mà nói rằng ngươi không muốn làm bổn phận này. Lúc đó, Ta có cưỡng cầu ngươi không? (Thưa, không.) Chiếu theo nguyên tắc đối đãi với con người của Ta, thì Ta sẽ không cưỡng cầu ngươi. Ta tuyệt đối sẽ không làm kiểu: trâu già không uống nước thì đè đầu trâu xuống, ép ngươi phải làm việc theo ý riêng của cá nhân Ta, ngươi không muốn làm cũng phải làm, vì Ta có thân phận này nên Ta nói ra thì phải có sức nặng như vậy, Ta nói ra thì như hoàng đế vậy, phải nhất ngôn cửu đỉnh và không thể đổi lời. Ta sẽ không làm như thế. Ta đối đãi với người ta một cách khoan dung, Ta cho ngươi tự do để ngươi tự lựa chọn. Khi sắp xếp công tác, Ta luôn dựa vào nhu cầu công tác của nhà Đức Chúa Trời. Nếu có người trong nghề hoặc người lành nghề sẵn lòng làm, và có thể làm công tác đó tốt hơn, thì đương nhiên là tốt rồi. Nếu không có người lành nghề, thì chúng ta có năng lực bao nhiêu cứ làm bấy nhiêu, có thể làm đến đâu thì làm đến đó. Nguyên tắc của Ta là vậy. Nếu sắp xếp cho ngươi làm hạng mục công tác nào đó, mà ngươi nói: “Trong lòng con không muốn làm. Con không thích bị người ta lợi dụng hoặc chịu sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời. Con có lựa chọn của riêng con”, vậy thì tốt thôi, nhà Đức Chúa Trời sẽ không dùng ngươi. Làm bổn phận là chuyện cam tâm nguyện ý. Sau khi tin Đức Chúa Trời mà người ta sẵn lòng làm bổn phận thì hội thánh mới có thể sắp xếp công tác cho họ. Ngươi không sẵn lòng làm bổn phận thì nhà Đức Chúa Trời cũng không cưỡng ép ngươi, Ta càng không lấy thân phận và địa vị của Ta mà cưỡng ép người ta làm công tác của hội thánh. Chuyện dân được Đức Chúa Trời chọn làm bổn phận và công tác hoàn toàn dựa vào việc họ hiểu lẽ thật. Lúc người ta chưa hiểu lẽ thật thì nhà Đức Chúa Trời sẽ không cưỡng ép, không yêu cầu người ta làm bổn phận, Ta càng không bắt người ta hoàn toàn làm theo ý riêng của Ta. Do đó, nếu Ta muốn bảo ngươi làm việc gì đó thì Ta sẽ nói thẳng với ngươi, chứ tuyệt đối sẽ không dùng đến thủ đoạn, nói bóng nói gió, hoặc dùng lời lẽ ẩn ý để khiến ngươi hiểu được ý Ta, Ta sẽ không làm như vậy. Nếu ngươi có vóc giạc, biết mang gánh nặng, và muốn làm chút công tác cho nhà Đức Chúa Trời, thì Ta sẽ hỏi thẳng với ngươi: “Ngươi có sẵn lòng gánh vác công tác này không?”. Hoặc Ta sẽ nói thẳng hơn nữa: “Ngươi gánh vác công tác này đi”. Ta cứ nói trắng ra hết, và đều dùng lời lẽ thông dụng. Chỉ cần là con người, thì ngươi sẽ hiểu được những lời này, không cần lãng phí tế bào não mà ngẫm nghĩ và nắm bắt xem lời của Ta rốt cuộc có ý gì, hay tại sao Ta lại nói như vậy. Ta sẽ không để ngươi nhọc trí phí lòng hòng nắm bắt lời của Ta, Ta sẽ nói thẳng với ngươi, nghĩa đen trong lời Ta nói là gì thì ý của nó chính là vậy. Ngoài ra, tại sao Ta lại để ngươi làm hạng mục công tác này? Bởi vì ngươi là một thành viên làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, ngươi cũng sẵn lòng làm bổn phận ở nhà Đức Chúa Trời, cho nên trong nhà Đức Chúa Trời có hạng mục công tác nào cần ngươi phối hợp thì ngươi có nghĩa vụ gánh vác. Bất kể Ta giao phó cho ngươi làm công tác gì, hoặc xử lý chuyện gì, thì Ta xem ngươi là một người tin Đức Chúa Trời nên mới giao phó cho ngươi. Ngươi nên xem đó là trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận mà tiếp nhận, như vậy là đúng đắn. Giao phó cho ngươi công tác hay là giao cho ngươi xử lý công chuyện thì đều là để cho ngươi làm tròn bổn phận của loài thọ tạo, cũng là để cho ngươi tìm kiếm lẽ thật và đạt được lẽ thật trong việc làm bổn phận. Trong chuyện này chẳng có quan hệ giao dịch, cũng chẳng phải là lừa ngươi, gạt ngươi. Mọi lời đã nói và mọi việc đã giao này đều là điều tích cực, và đều được công khai, chẳng có bí mật gì. Trong chuyện này chẳng có mối quan hệ về tiền bạc, vật chất hay lợi ích, cũng chẳng có quan hệ lợi dụng và bị lợi dụng. Đây tuyệt đối không phải là lợi dụng sở trường, kỹ năng hoặc tri thức nghiệp vụ của ngươi để cho nhà Đức Chúa Trời được lợi, nhà Đức Chúa Trời tuyệt đối không làm như vậy. Làm bổn phận là việc hoàn toàn phát xuất từ sự cam tâm và tự nguyện của người, nhà Đức Chúa Trời chẳng bao giờ cưỡng ép người ta. Ngươi tiếp nhận hạng mục bổn phận này là ngươi đang làm bổn phận mà loài thọ tạo nên làm tròn. Việc ngươi làm hạng mục bổn phận này cũng là con đường để ngươi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và đạt được sự cứu rỗi. Nếu thông qua việc làm bổn phận, ngươi học cách thuận phục Đức Chúa Trời và đạt được lẽ thật, thì ngươi sẽ được Đức Chúa Trời chấp thuận, ghi nhớ và công nhận. Đây cũng là thu hoạch đáng có sau khi ngươi đã dâng hiến. Do đó, ngươi nên xem hạng mục công tác này là bổn phận mà tiếp nhận, không nên có bất kỳ sự lo ngại hoặc nghi ngờ nào. Ta muốn để ngươi làm gì thì Ta sẽ nói thật với ngươi. Ta thích nói thẳng. Ta đâu cần dỗ dành ngươi như đứa trẻ lên ba, vừa rào trước đón sau, vừa nói vòng vo, vừa nói lời dễ nghe với ngươi, Ta chẳng làm như vậy đâu. Nếu ngươi biết ca hát hoặc nhảy múa, có điều kiện bẩm sinh về phương diện này, vậy khi được sắp xếp cho làm hạng mục bổn phận này thì ngươi nên tiếp nhận. Nếu ngươi nói: “Dựa vào điều kiện bẩm sinh của con, thì con làm bổn phận này sẽ không đạt tiêu chuẩn cho lắm, con không làm bổn phận này có được không?”, thì cũng được thôi, đây là tự do của ngươi, Ta không cưỡng ép ngươi.
Bất kể Ta nói gì, hoặc là yêu cầu các ngươi làm việc gì, thì trong đó đều không có chuyện tính kế. Lúc trò chuyện với các lãnh đạo và người làm công, Ta hỏi họ: “Trong thời gian qua, đời sống hội thánh như thế nào? Những người mới đã bước vào đời sống hội thánh, họ còn có vấn đề gì không? Các vấn đề đó đã được giải quyết chưa? Họ xem những bài lời chứng trải nghiệm hoặc các bộ phim của nhà Đức Chúa Trời rồi thì có cảm tưởng gì?”. Có vài lãnh đạo và người làm công không trả lời được, họ ngẫm nghĩ trong lòng: “Đây chẳng phải là đang cố lừa để thăm dò tình hình thực sự của mình sao? Chẳng phải là muốn kiểm tra xem mình có làm công tác thực tế hay không sao? Mình phải trả lời cho cẩn thận, không được bất cẩn! Hạng mục công tác nào được làm tốt thì mình có thể nói ra, còn hạng mục công tác nào chưa được làm hoặc làm không tốt thì tuyệt đối không được nói ra. Nói ra một cái là để lộ vấn đề liền!”. Vì vậy, khi báo cáo công tác, họ chẳng bao giờ muốn nói dư câu nào, quá sợ để lộ vấn đề. Loại người này có tâm tư phức tạp, ngươi hỏi họ gì đó, thì lời đã lên đến miệng rồi mà họ vẫn không nói thẳng ra, cứ phải ngẫm nghĩ và trau chuốt trong lòng: “Tại sao Ngài lại hỏi câu đó? Tôi trả lời thế nào thì thích hợp đây? Trả lời thế nào để một mặt, Ngài không biết được tình hình thực tế, mà đồng thời vẫn làm Ngài thỏa mãn?”. Thực ra, lời Ta nói chẳng có câu nào phải được trau chuốt trong đầu cả. Lúc Ta hỏi thì Ta đang ở trạng thái gì? Ta thấy một người, biết người này phụ trách hạng mục công tác nào, thì trong lòng Ta liền nghĩ đến chuyện họ có thể làm những công tác cụ thể nào, khi họ làm công tác thì dễ xuất hiện những vấn đề nào, hoặc có thể gặp phải những khó khăn gì. Nghĩ đến những chuyện đó thì Ta hỏi thẳng họ: “Trong thời gian qua, đời sống hội thánh ở mấy hội thánh mà ngươi phụ trách như thế nào rồi? Lãnh đạo và chấp sự của hội thánh có thích hợp không? Các anh chị em có biết cách ăn uống lời Đức Chúa Trời không? Đa số mọi người có tĩnh nguyện không? Lúc rảnh rỗi thì có học thánh ca và vũ đạo không? Công tác rao truyền phúc âm thế nào?”. Ta hỏi câu nào cũng nói trắng nói thẳng, chẳng có gì là thử thách, cũng chẳng có ý định gì. Ta chỉ suy xét cho công tác và lối vào sự sống của mọi người. Bất kể trả lời thế nào, ngươi cũng sẽ không bị thử thách, Ta cũng không nắm thóp gì của ngươi, chẳng hề có chuyện ngươi để lộ tẩy hay là bị nắm thóp vấn đề gì cả. Ta chỉ đơn giản là tìm hiểu về công tác, không phải cố ý muốn thăm dò và tìm hiểu tình hình của người nào, cũng không phải nhắm đến xử lý hoặc cách chức ai. Hội thánh không làm chuyện đấu tranh giai cấp, không làm chuyện đấu đá đảng phái, chỉ làm công tác thực tế thôi. Khi gặp các anh chị em hoặc các lãnh đạo và người làm công, có lúc Ta muốn thoải mái chuyện gẫu một chút, nói chút lời tâm tình, hoặc nói chuyện thường ngày; có lúc Ta cũng hỏi xem trong công tác của hội thánh còn tồn tại vấn đề gì. Những lời ta nói đều là ngôn ngữ trong cuộc sống thường ngày, đều là lời chân thật. Chẳng hạn như, Ta hỏi các ngươi: “Trong thời gian qua, đời sống hội thánh thế nào? Mỗi khi nhóm họp, các anh chị em có thể đạt được ích lợi gì không? Sống đời sống hội thánh có thể giúp giải quyết được các vấn đề thực tế không?”. Thì có người trả lời rằng: “Trong thời gian qua, đời sống hội thánh không tốt. Cho dù chúng con có nhóm họp thì cũng chẳng có thu hoạch lớn gì, chẳng giải quyết được những vấn đề căn bản”. Ta mới hỏi: “Vấn đề phát xuất từ đâu?”, thì hầu hết mọi người đều chẳng trả lời được. Các ngươi nói xem, Ta hỏi câu đó là có gài bẫy gì sao? Có âm mưu gì sao? Hoàn toàn không có, Ta hỏi chỉ là để tìm hiểu công tác và nắm bắt tình hình, để dễ thông công lẽ thật và giải quyết vấn đề cho các ngươi. Bất kể các ngươi trả lời thế nào thì cũng đều không bị thử thách. Có những người tương đối đơn thuần thì có thể có sao nói vậy. Họ nói: “Các anh chị em vừa mới tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, còn chưa có trải nghiệm gì, nên khi nhóm họp thì không có gì để nói. Khi đọc lời Đức Chúa Trời mà đọc nhiều quá thì họ không lĩnh hội được, còn buồn ngủ và nghe không vào. Chúng con cũng không biết giải quyết như thế nào”. Ta bảo: “Chuyện này dễ giải quyết thôi, trước hết hãy hát một bài, rồi nhảy múa một tí, sau đó tiếp tục đọc chút lời Đức Chúa Trời. Người có nhận thức thì nói ra nhận thức của mình, người có trải nghiệm thì nói ra trải nghiệm của mình. Còn người không có nhận thức hay trải nghiệm thì cũng có thể nêu ra một vài khó khăn thực tế của mình, để các anh chị em có trải nghiệm giúp giải quyết cho. Nhóm họp như vậy chẳng phải sẽ có thu hoạch sao? Người có vóc giạc bé nhỏ cũng có thể được gây dựng”. Ngươi xem, như vậy chẳng phải là giải quyết được vấn đề sao? Khi nói chuyện và tán gẫu với mọi người, có lúc Ta hỏi về một vài vấn đề, một số người có tâm tư phức tạp sẽ ngẫm nghĩ: “Ngài hỏi quá thẳng rồi. Con không biết Ngài hỏi câu này là có ý gì. Con phải cẩn thận trong cách trả lời mới được!”. Ta nói cho mà biết, ngươi nghĩ sai rồi. Bất kể tán gẫu với ai hoặc hỏi câu gì, mục đích cuối cùng của Ta luôn là để phát hiện và giải quyết vấn đề, để hỗ trợ ngươi, hướng dẫn ngươi và giúp ngươi giải quyết vấn đề. Thứ nhất, làm vậy không phải là để phơi bày ngươi hay làm ngươi xấu mặt. Thứ hai, làm vậy không phải là để thăm dò xem ngươi có nói thật hay không, có phải là người thật thà hay không. Thứ ba, làm vậy không phải là lừa ngươi để thăm dò tình hình thực sự của ngươi. Thứ tư, làm vậy càng không phải là kiểm tra xem ngươi có đảm nhiệm được công tác hay không, có thể làm công tác thực tế hay không. Thực ra, bất kể Ta tán gẫu thế nào, thì đều là để giúp đỡ và hướng dẫn ngươi làm tốt bổn phận, làm tốt công tác và giải quyết được vấn đề. Ta hỏi một câu đơn giản, mà có người nghĩ thành rất phức tạp, rất sợ trong câu Ta hỏi có ẩn ý gì đó. Có người thậm chí còn nghi Ta tính kế với họ. Rõ ràng Ta muốn giúp ngươi giải quyết vấn đề, thế mà ngươi lại lầm tưởng rằng Ta tính kế với ngươi. Vậy chẳng oan uổng cho Ta sao? (Thưa, phải.) Đây là vấn đề gì? Là lòng người giả dối! Mặc dù ngoài miệng người ta nói: “Ngài là Đức Chúa Trời, con phải nói thật với Ngài, đối đãi với Ngài bằng sự chân thành. Con đi theo Ngài, con tin Ngài!”, nhưng trong lòng họ đâu có nghĩ như vậy. Bất kể những câu Ta hỏi có bình thường và đơn giản thế nào, chúng cũng thường xuyên bị người ta diễn giải theo kiểu quá nhạy cảm. Họ thông qua suy đoán trong lòng, rồi thông qua nghiên cứu, đi vòng đi vèo rồi cuối cùng có vẻ tìm được một đáp án cuối cùng, nhưng thực ra đáp án đó lại cách xa vời vợi so với ý ban đầu của Ta. Đây rõ ràng là một câu hỏi rất đơn giản, thế mà họ lại nghĩ cho phức tạp lên đến vậy. Chẳng phải loại người này quá nhạy cảm sao? Bất kể Ta hỏi gì, họ nghe xong thì trong lòng đều dậy sóng: “Tại sao Ngài lại hỏi vậy? Con trả lời thế nào thì mới có thể làm Ngài thỏa mãn, làm Ngài không nhìn ra được kẽ hở đây? Trước hết nên nói gì, rồi sau đó nên nói gì?”. Trong vòng ba đến năm giây là lời lẽ họ tuôn ra, không chút chậm trễ. Bộ não này còn nhanh hơn cả máy vi tính. Tại sao lại nhanh như vậy? Thực ra, đối với họ, quá trình này là một việc đã quen nên dễ làm, đây là chiêu trò và phong cách họ quen dùng khi qua lại với người khác và xử lý công chuyện. Họ tính kế với bất kỳ ai. Do đó, Ta hỏi một câu đơn giản đến mấy thì họ đều nghĩ thành rất phức tạp, cho rằng Ta có ý định hay mục đích gì đó. Rồi họ ngẫm nghĩ trong lòng: “Nếu con trả lời đúng sự thật, vậy chẳng phải là để lộ tình hình thực sự của mình rồi sao? Vậy là tương đương với bán đứng bản thân rồi. Con không thể nào để Ngài nắm rõ tình hình thực sự của con được. Vậy trả lời như thế nào mới thích hợp đây? Làm sao để có thể khiến Ngài vui vẻ, hài lòng, có ấn tượng tốt về con, và có thể tiếp tục dùng con đây?”. Ngươi xem, người này quá giả dối rồi! Trong lòng của những người này quá phức tạp, nói chuyện với họ kiểu gì thì họ cũng hoài nghi và nghiên cứu. Dạng người này có thể thực hành lẽ thật được sao? Có thể đạt đến phù hợp để Đức Chúa Trời sử dụng sao? Tuyệt đối không thể. Bởi vì tâm tư của loại người này quá phức tạp, chẳng có chút gì đơn thuần, người ta tiếp xúc thời gian dài với họ thì đều có thể thấy ra được. Người ta đặc biệt giỏi tính kế, nhưng Ta nói chuyện và trao đổi với các ngươi thì có bao giờ tính kế với các ngươi không? (Thưa, không có.) Bất kể Ta tìm hiểu tình trạng cá nhân của ngươi hay tìm hiểu tình hình công tác, thì đều là để giúp đỡ ngươi, để giải quyết vấn đề trong công tác. Ngay cả khi ngươi làm sai, bị tỉa sửa hoặc bị cách chức, Ta cũng sẽ không tính kế với ngươi hay trừng trị ngươi, vấn đề được giải quyết rồi là hết chuyện. Nhà Đức Chúa Trời sẽ không tính kế với ngươi, không trừng trị ngươi. Ta càng không nắm thóp của ngươi mà dây dưa mãi không thôi, cũng không nghĩ đủ mọi cách làm ngươi xấu mặt và khiến mọi người cô lập ngươi, vứt bỏ ngươi, hoặc khiến ngươi cảm thấy bản thân không còn hy vọng nữa và tự mình từ chức. Ta tuyệt đối sẽ không làm như vậy. Nếu ngươi không thích hợp làm lãnh đạo và người làm công, thì cùng lắm Ta sẽ nói: “Tố chất của ngươi quá kém, không hiểu chuyện thuộc linh, không phù hợp làm lãnh đạo và người làm công. Ngay cả khi được chọn làm lãnh đạo và người làm công thì ngươi cũng không làm được công tác thực tế đâu”. Nhà Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ không vì chuyện này mà trừng trị hay tính kế với ngươi.
Chuyện nhà Đức Chúa Trời đề bạt, sử dụng dạng người nào và không dùng dạng người nào, bồi dưỡng những người nào và không bồi dưỡng những người nào, thì đều có nguyên tắc và đều dựa vào nhu cầu công tác của nhà Đức Chúa Trời. Bất kể đề bạt và sử dụng những người nào thì đều là để bồi dưỡng họ sao cho họ có thể làm tốt bổn phận và biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, để làm cho họ có thể gánh vác được công tác và hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Bất kể giải quyết vấn đề gì, thì đều là để làm cho người ta hiểu thêm lẽ thật, học cách rút ra bài học và phát triển sự phân định từ các loại người, sự việc và sự vật mình gặp phải. Như vậy thì người ta sẽ dễ bước vào mọi phương diện của thực tế lẽ thật hơn. Đây không phải là lợi dụng ngươi phục vụ, càng không phải vì không tìm được người thích hợp nên mới lợi dụng ngươi lấp chỗ trống, chờ đến khi có người thích hợp thì đẩy ngươi đi. Chuyện không phải như vậy. Thực ra, đây là cho ngươi cơ hội để rèn luyện. Nếu mưu cầu lẽ thật thì ngươi sẽ đứng vững, nếu không mưu cầu lẽ thật thì ngươi sẽ không đứng vững được. Đây tuyệt đối không phải vì nhà Đức Chúa Trời thấy ngươi chướng mắt mà tìm cách nắm thóp và tìm cơ hội đào thải ngươi. Nhà Đức Chúa Trời nói là bồi dưỡng và đề bạt ngươi thì sẽ thực sự bồi dưỡng ngươi. Quan trọng là ngươi vươn tới lẽ thật như thế nào. Nếu ngươi chẳng tiếp nhận lẽ thật chút nào, thì nhà Đức Chúa Trời sẽ từ bỏ ngươi, không bồi dưỡng ngươi nữa. Có những người được bồi dưỡng một thời gian thì bị cách chức vì tố chất kém và không làm được công tác thực tế. Có những người trong thời gian được bồi dưỡng lại không tiếp nhận lẽ thật chút nào, còn tùy ý làm càn, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của nhà Đức Chúa Trời và bị cách chức. Còn có những người không mưu cầu lẽ thật chút nào, lại đi theo con đường địch lại Đấng Christ, luôn làm việc vì danh lợi và địa vị, nên bị cách chức và đào thải. Những trường hợp này đều được xử lý theo nguyên tắc dùng người của nhà Đức Chúa Trời. Những người có thể tiếp nhận lẽ thật và vươn tới lẽ thật, thì cho dù họ có làm sai chút chuyện mà để lại vi phạm, nhà Đức Chúa Trời vẫn muốn bồi dưỡng họ. Còn ai không phải là người có thể tiếp nhận lẽ thật, lúc bị tỉa sửa cũng không tiếp nhận lẽ thật, thì nên bị cách chức và đào thải ngay. Có người sẽ nói: “Vậy chẳng phải là qua cầu rút ván sao? Chẳng phải là lợi dụng người ta sao?”. Các ngươi nói xem, có người nào bị cách chức và đào thải, hoặc là không được nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng nữa, vì họ không còn giá trị lợi dụng không? Có chuyện như vậy không? (Thưa, không có.) Vậy trong tình huống nào thì nhà Đức Chúa Trời cách chức và đào thải người ta? (Thưa, khi người ta không gánh vác nổi công tác, hoặc gây nhiễu loạn, gián đoạn và hành ác, thì nhà Đức Chúa Trời mới cách chức và đào thải họ.) Không một ai bị cách chức mà không có nguyên nhân. Có những người có tố chất kém và không làm được công tác cụ thể. Có những người có tố chất nhất định, nhưng không làm công tác cụ thể, không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, không làm công tác mà mình vốn làm được, không sẵn lòng lao tâm và mệt nhọc, không sẵn lòng chịu khổ và trả giá, cũng không sẵn lòng đắc tội với người khác. Dạng người như vậy thì không làm nổi công tác thực tế, phải bị đào thải thôi, họ chiếm vị trí đó thì không thích hợp. Họ chẳng những làm chậm trễ công tác của hội thánh, mà còn ảnh hưởng đến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn. Trong trường hợp đó, người ta phải tự biết rõ mình mà nhanh chóng nhận lỗi và từ chức, để người có thể làm công tác thực tế đảm đương hạng mục công tác đó. Có những người không làm công tác thực tế, mà lại hưởng thụ lợi ích của địa vị, thậm chí còn gây nhiễu loạn và gián đoạn. Trong lòng họ luôn lo Bề trên mà phát hiện ra vấn đề thì sẽ cách chức họ, nên đến lúc báo cáo công tác thì họ giả vờ nêu ra một vài câu hỏi để tìm kiếm lẽ thật, biểu hiện đặc biệt tích cực, muốn gây ấn tượng tốt cho Bề trên và chứng tỏ họ là người biết tìm kiếm lẽ thật, có thể làm công tác thực tế. Bề trên đề bạt và sử dụng người thì không dựa vào chuyện người ta có giỏi ăn nói không, có giỏi đặt câu hỏi không, đầu óc có nhanh nhạy không. Thay vào đó, Bề trên dựa vào chuyện người ta có yêu thích lẽ thật hay không, có mưu cầu lẽ thật hay không, có thể trung thành làm bổn phận hay không mà tuyển chọn và bồi dưỡng. Còn có một vài người chẳng những không làm công tác cụ thể và không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, mà còn muốn gây nhiễu loạn và gián đoạn, phản bội lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời đã quy định rõ về việc gì không được phép làm và việc gì nên làm, nhưng họ chẳng thực hiện hạng mục nào, còn muốn làm xằng làm bậy. Có không ít người như vậy, họ đều bị cách chức cả. Bất kể trong trường hợp nào, thì nhà Đức Chúa Trời đề bạt ai đó đều là để bồi dưỡng họ và dẫn dắt họ bước vào thực tế lẽ thật, hy vọng họ có thể làm tốt công tác của hội thánh và làm tốt bổn phận họ nên làm. Ngay cả khi ngươi vì ngu muội và thiếu kiến thức hoặc có tố chất kém mà không biết làm một số công tác, nhưng chỉ cần ngươi vươn tới nguyên tắc lẽ thật, có tinh thần trách nhiệm, sẵn lòng làm cho tốt hạng mục công tác này và có thể bảo vệ công tác của hội thánh, thì dù trước đây ngươi từng làm chút việc ngu muội, nhà Đức Chúa Trời vẫn sẽ bồi dưỡng ngươi. Có những người mặc dù tố chất hơi kém, nhưng vẫn có thể làm được một vài công tác đơn giản. Mặc dù họ không đạt được kết quả tốt trong việc thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề, nhưng họ có thể bảo vệ công tác của hội thánh. Khi được thông công về phương diện lẽ thật nào mỗi khi nhóm họp, họ đều có thể tiếp nhận, nghe lời và thuận phục. Khi làm không tốt hạng mục công tác nào, thì họ có thể rút ra bài học từ đó. Mặc dù tố chất của họ có kém một chút, nhưng lòng họ có thể vươn tới lẽ thật. Sau khi công tác một thời gian thì họ có sự tiến bộ, kết quả của họ ngày một tốt hơn. Theo Ta thấy, thì dạng người này có hy vọng được cứu rỗi. Đa số mọi người cho rằng người có tố chất tốt thì dễ được cứu rỗi, nhưng trong mắt Ta thì không hẳn là vậy. Điều quan trọng là người ta phải mưu cầu lẽ thật, như vậy mới có thể đạt được công tác của Đức Thánh Linh, mới có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại và đạt được sự cứu rỗi. Có những người mặc dù có tố chất bình thường, kết quả khi làm bổn phận cũng bình thường, nhưng sau vài năm được nhà Đức Chúa Trời chăm tưới và cung ứng, họ bắt đầu để tâm vươn tới lẽ thật, còn thực sự đạt đến hiểu được một vài lẽ thật, có được một vài trải nghiệm thực tế, nhìn thấu được một vài chuyện, cũng có thể giải quyết một vài vấn đề, làm cho công tác của hội thánh ngày càng khởi sắc. Như vậy thì quá tốt, dạng người này đáng được bồi dưỡng. Mặc dù ngươi không thể hoàn toàn đảm nhiệm hạng mục công tác này, nhưng ít nhất Bề trên đã phần nào công nhận ngươi trong việc thực hiện công tác này. Các ngươi nói xem, sắp xếp người ta làm bổn phận có phải là lợi dụng người ta không? (Thưa, không phải.) Bất kể ngươi có thể làm bao nhiêu công tác, cũng bất kể tố chất của ngươi thế nào, thì việc đề bạt và sử dụng ngươi đều không phải là lợi dụng ngươi. Thay vào đó là muốn thông qua cơ hội này mà cho ngươi rèn luyện làm công tác, thông qua việc ngươi mưu cầu lẽ thật, chăm chỉ làm việc và gánh vác gánh nặng mà hoàn thiện ngươi. Một mặt, đây là hoàn thiện ngươi, mặt khác, cũng là hoàn thiện công tác của nhà Đức Chúa Trời. Ngươi vừa chuẩn bị được việc lành, vừa có được thu hoạch trong lối vào sự sống cá nhân của mình, như vậy là quá tốt! Là vẹn cả đôi đường. Có những người bị tỏ lộ và đào thải từng nói rằng: “Muốn lợi dụng tôi phục vụ cho nhà Đức Chúa Trời sao? Không có cửa đâu! Tôi đâu có ngốc đến vậy!”. Lời này mà cũng nói ra được, đây mà là người thật lòng tin Đức Chúa Trời sao? Dạng người này mà hiểu lẽ thật sao? Sắp xếp người ta làm chút bổn phận thì sao lại là lợi dụng người ta được? Nếu thực sự là người hiểu lẽ thật, thì ngươi nên hiểu được tâm ý của Đấng Tạo Hóa và làm tốt bổn phận của loài thọ tạo. Như vậy là đang làm trách nhiệm và nghĩa vụ của con người. Ngay cả chút lương tâm và lý trí này mà ngươi còn không có, thì ngươi còn xứng được gọi là loài thọ tạo sao? Nếu thực sự có lương tâm và lý trí, thì ngươi nên tiếp cận bổn phận cho đúng đắn. Nếu có tố chất này thì ngươi nên vươn tới lẽ thật. Nếu ngươi sẵn lòng phối hợp một cách tích cực và chủ động, thì nhà Đức Chúa Trời sẽ sắp xếp cho ngươi làm một công tác nào đó và gánh vác một phần gánh nặng. Đây không phải là tính kế với ngươi hay lợi dụng ngươi, mà là đề bạt ngươi, bồi dưỡng ngươi, cho ngươi rèn luyện, và dẫn dắt ngươi bước vào thực tế lẽ thật, đơn giản như vậy thôi. Có người nói: “Tuổi tác tôi đã cao, sự hăng hái trong lòng không đủ, thể lực cũng không ổn. Tôi không muốn gánh phần gánh nặng này nữa. Tôi có thể từ nhiệm được không?”. Ta nói là được thôi, nhưng trước khi từ nhiệm, ngươi phải suy xét cho kỹ. Nếu không phải thực sự vì nguyên nhân về sức khỏe, mà vì tư tưởng cá nhân của ngươi đã thay đổi, ngươi có sự lưỡng lự, sợ chịu khổ, sợ bị mệt, sợ trèo cao ngã đau, luôn có tư tưởng và quan điểm “ở trên cao thì cô độc”, vậy thì ngươi phải thận trọng, đừng từ chối sự ủy thác này, bổn phận đặc biệt này, mà phải suy xét cho kỹ. Cơ hội như vậy không có nhiều đâu – hiếm có lắm, phải vậy không? Nếu ngươi cứ nhất quyết, nói rằng: “Không cần khuyên đâu. Tôi suy nghĩ đã lâu, đã nghĩ kỹ và ra quyết định từ lâu rồi. Anh khuyên cũng vô ích thôi, tôi không muốn chịu cái mệt này nữa. Người khác đều rất thư thả, tại sao chỉ có mình tôi mệt thế này? Tôi mang số khổ à? Tôi không bằng lòng chịu cái khổ thế này! Tôi không bằng lòng chấp nhận số phận! Hội thánh đừng có mà tính kế với tôi, tôi đâu phải là nô lệ của hội thánh, cũng đâu có bán mình cho hội thánh!”. Ngươi không cần nói thêm những lời khó nghe đó nữa, nói thêm thì ngươi sẽ phạm tội quá nhiều, và ngươi cần chịu trách nhiệm cho những lời mình nói, những lựa chọn mình đưa ra. Thứ nhất, ngươi tin Đức Chúa Trời là để được phúc, chứ không phải bán mình cho nhà Đức Chúa Trời. Thứ hai, nếu ngươi muốn bán mình cho nhà Đức Chúa Trời, thì nhà Đức Chúa Trời còn phải ngẫm nghĩ xem ngươi có giá trị đó không, mua ngươi thì có ích gì không. Do đó, nếu ngươi cho rằng nhà Đức Chúa Trời đang tính kế với ngươi và muốn lợi dụng ngươi phục vụ, thì ngươi lầm rồi. Bởi vì tiêu chuẩn để nhà Đức Chúa Trời kiểm tra người ta là nhìn xem người ta có thật lòng tin Đức Chúa Trời không, có yêu thích lẽ thật không, có thể nghe lời Đức Chúa Trời và thuận phục Đức Chúa Trời không. Nhà Đức Chúa Trời dựa vào mấy tiêu chuẩn này mà chọn và bồi dưỡng người ta. Nếu ngươi nghĩ xấu về nhà Đức Chúa Trời như vậy, thì ngươi chẳng có lương tâm và lý trí, chẳng đáng một xu. Nhà Đức Chúa Trời chẳng những không dùng ngươi làm bổn phận, mà còn phải nhanh chóng đào thải kẻ chẳng tin như ngươi. Ngươi không phải là người thật lòng tin Đức Chúa Trời thì nên nhanh chóng rời khỏi nhà Đức Chúa Trời, đừng có sống lê lết qua ngày trong nhà Đức Chúa Trời nữa. Ngươi đâu thuộc số người của nhà Đức Chúa Trời. Nhà Đức Chúa Trời không cần dạng người này. Ngươi mau đi đi.
Bất kể là nói chuyện và tán gẫu với người khác, hay là chính thức thông công và giảng đạo, thì mục đích của mỗi một câu Ta nói, mỗi một chuyện Ta giảng và mỗi một phương diện lẽ thật Ta thông công đều là để làm cho các ngươi nhận biết tâm tính bại hoại của mình, nhận biết khiếm khuyết, khuyết điểm, thiếu sót và khó khăn của mình, quan trọng nhất là nhận biết tâm tính bại hoại của mình, nhận biết sự bộc lộ bại hoại của mình trong các bối cảnh và hoàn cảnh khác nhau. Nhận biết được tâm tính bại hoại của mình rồi, thì các ngươi sẽ hiểu sâu sắc hơn về bản thân, biết tầm vóc của mình thế nào, có thể trở nên có chút lý trí, biết liên hệ bản thân với lời Đức Chúa Trời, tìm trong lời Đức Chúa Trời những nguyên tắc thực hành và con đường thực hành có liên quan để giải quyết khó khăn của mình, dù là giải quyết những sự bộc lộ tâm tính bại hoại trong cuộc sống thường nhật hay là giải quyết sự thiếu sót về nhân tính. Dần dần, ngươi sẽ thoát khỏi những tâm tính bại hoại này, thoát khỏi các loại tư tưởng và quan điểm thuộc về Sa-tan mà Đức Chúa Trời ghê tởm, tiếp nhận lẽ thật mà đạt đến việc thay đổi quan điểm nhìn nhận sự việc và tâm tính sự sống của mình. Như vậy mới hợp tâm ý của Đức Chúa Trời. Trong mọi lời Ta phán, bất kể là tán gẫu với các ngươi trong cuộc sống thường nhật, hay là chính thức thông công và giảng đạo, thì Ta nói câu nào cũng đều dựa trên tình hình thực tế của các ngươi. Ta thấy nhu cầu của các ngươi nên mới nói như vậy. Mặc dù những sự thật Ta nêu ra cũng đã được gia công sơ qua một chút, nhưng những ví dụ thực tế này đều là ví dụ mang tính đại diện được chọn ra dựa trên sự thật về sự bộc lộ bại hoại của các ngươi và những hành động của các ngươi. Ta mượn những sự thật và ví dụ này mà vạch trần tâm tính bại hoại và thực chất bản tính của nhân loại, để cho mọi người có thể phản tỉnh bản thân, làm như vậy sẽ có thể đạt được kết quả tốt. Do đó, bất kể Ta thông công về chủ đề nào, thì thứ nhất trong đó không có bẫy, thứ hai không có âm mưu, thứ ba không có thử thách. Tất cả đều là để khiến các ngươi hiểu thêm về tâm ý của Đức Chúa Trời và yêu cầu của Đức Chúa Trời, đạt đến chiếu theo nguyên tắc lẽ thật mà nhìn nhận con người và sự việc, làm người và hành động, cuối cùng có thể đến trước mặt Đức Chúa Trời, thuận phục và kính sợ Đức Chúa Trời. Đây đều là sự thật. Do đó, khi Ta giao tiếp và tán gẫu với các ngươi về một vài chuyện xảy ra trong cuộc sống thường nhật, hoặc Ta chính thức trao đổi và hỏi ý kiến về chuyện liên quan đến công tác, thì bất kể đã trôi qua bao nhiêu năm, khi nhìn lại, ngươi có thấy trong lời Ta nói có âm mưu hay cái bẫy nào không? (Thưa, không có.) Có ý nào lợi dụng các ngươi không? Có ý nào dọa dẫm các ngươi không? (Thưa, không có.) Các ngươi có dám chắc không? (Thưa, chắc chắn.) Chẳng hạn như, có người phụ trách chăn nuôi ở nông trại, Ta hỏi xem gà mái mấy ngày thì đẻ một quả trứng. Thế là người đó ngẫm nghĩ: “Ngài hỏi vậy là có ý gì? Chẳng phải là muốn xem con nuôi gà có tốt hay không à? Vậy con nói như thế nào mới thích hợp nhỉ? Con mà nói mỗi ngày gà đẻ một quả thì thực tế không tới mức đó, như vậy là nói dối. Con mà nói hai hay ba ngày đẻ một quả, thì liệu Ngài có nghĩ là con không nuôi gà cho tốt, không cho chúng ăn thức ăn đủ dinh dưỡng hay không? Vậy con nên nói thế nào mới thích hợp đây?”. Người đó cứ ngẫm nghĩ mãi trong lòng, chẳng bao giờ nói ra câu trả lời. Thực ra, Ta hỏi câu đó chẳng có ý gì cả, chỉ muốn tìm hiểu tình hình nuôi gà thôi. Nhưng Ta hỏi một câu như vậy mà người đó lại nghĩ quá nhiều, cứ mãi suy đoán xem Ta hỏi câu đó là có ý gì. Các ngươi nói xem, có phải dạng người này khó nhằn không? Tiếp xúc với dạng người này thì có thể giao tiếp bình thường được không? Chẳng có cách nào giao tiếp được. Ta có thói quen này, là luôn thích đi khắp nơi thăm thú. Thỉnh thoảng Ta phát hiện ra một vài vấn đề. Nếu là vấn đề về vệ sinh môi trường thì nên lo liệu dọn dẹp, nếu là vấn đề về nhân sự thì nên điều chỉnh, nếu là vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ thì chúng ta nên tham vấn và học tập. Phát hiện được vấn đề thì nên chỉnh đốn. Có những lúc tán gẫu trong cuộc sống thường nhật lại vô tình phát hiện và giải quyết được rất nhiều vấn đề, cũng dễ dàng giải quyết được một vài vấn đề thực tế. Vì vậy mới nói, người ta tiếp xúc và qua lại với Ta thì không cần thiết phải căng thẳng quá. Rất nhiều vấn đề được phát hiện và giải quyết dễ dàng khi tiếp xúc với người ta. Tiếp xúc và tán gẫu với người ta là chuyện rất cần thiết, không phải chỉ để hiểu rõ tình hình và phát hiện vấn đề, mà đồng thời còn có thể giải quyết được vấn đề. Đấy chẳng phải là thu hoạch sao? (Thưa, phải.) Lúc Ta tán gẫu với người ta, có người thì có gì nói nấy, có người thì suy nghĩ quá phức tạp, họ đơn giản là chẳng dám có sao nói vậy, lúc nào cũng ngẫm nghĩ xem trong lời của Ta có ẩn ý gì không, có phải đang tính kế với họ không. Vì vậy mà Ta hỏi một câu là họ liền căng thẳng, trán đổ mồ hôi. Ta hỏi: “Hôm nay trời không nóng, sao ngươi lại đổ mồ hôi?”, thì họ nói: “Ngài không nóng, nhưng con nóng! Một câu Ngài vừa nói đã dọa con muốn rụng tim. Bây giờ lòng bàn tay, bàn chân của con đều đổ mồ hôi, tim thì đập thình thịch, chẳng biết làm thế nào”. Ta bảo: “Ngươi không cần căng thẳng. Ta chỉ tùy ý nói chuyện, tán gẫu thôi. Nếu thực sự có vấn đề thì chúng ta sẽ giải quyết. Ngươi đừng nghĩ ta đáng sợ quá như vậy, như thể Ta mà phát hiện ra vấn đề gì thì sẽ tru di cửu tộc nhà ngươi. Ta không ‘giải quyết’ ai cả, Ta giải quyết vấn đề thôi. Giải quyết vấn đề là chuyện then chốt”. Ngươi phải có đức tin như thế nào? Một mặt, Ta mà hành động thì chắc chắn là chiếu theo nguyên tắc và tuyệt đối công bằng. Ta sẽ không hành động theo tình cảm, khăng khăng theo ý mình hay tùy ý làm càn đâu. Không có chuyện Ta thấy ngươi chướng mắt thì nhắm vào ngươi mà bới móc khuyết điểm, bắt lỗi, hoặc bới lông tìm vết, rồi đuổi ngươi đi và tìm một người vừa mắt Ta đến làm công tác, không có chuyện như vậy đâu. Ngoài ra, Ta xử lý bất kỳ người nào thì đều dựa vào tình hình thực tế và vấn đề thực tế, chuyện này có nguyên tắc cả. Người ta được phép phạm sai lầm, được phép có sự ngu muội, yếu đuối và tiêu cực. Nhưng có một chuyện không được phép, đó là nếu ngươi càn quấy và cố ý gây gián đoạn, nhiễu loạn công tác của hội thánh, thì ngươi phải phản tỉnh bản thân. Nếu ngươi không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, luôn bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì hội thánh không cần ngươi làm bổn phận nữa, nhà Đức Chúa Trời sẽ phải tìm người thích hợp để thay thế ngươi, như vậy là hành động theo nguyên tắc. Trong cách giải quyết và xử lý vấn đề, hoặc là xử lý người ta, Ta đều làm theo nguyên tắc. Ngươi không cần lo Ta phát hiện ra vấn đề gì nơi ngươi thì sẽ xử lý ngươi. Ta mà thấy ra vấn đề thì phải xem đó là vấn đề gì và dựa vào tính chất của vấn đề mà xử lý. Nếu vấn đề của ngươi có tính chất không quá nghiêm trọng, nếu ngươi không cố ý mà chỉ là nhất thời lơ là hoặc ngu muội nên mới gây ra vấn đề đó, thì nó sẽ được giải quyết bằng cách thông công lẽ thật. Ngươi hãy rút ra bài học và đừng tái phạm nữa. Có lúc, người ta gây ra vấn đề vì không có kiến thức, kinh nghiệm và không hiểu mặt nghiệp vụ này, vậy thì nên nhanh chóng học hỏi nghiệp vụ, đừng lười biếng. Nhưng nếu vấn đề là do chủ tâm và cố ý mà ra, do ngươi không sẵn lòng làm bổn phận này, còn cố ý làm thiệt hại tài sản của nhà Đức Chúa Trời, thì chuyện này nên bị xử lý một cách nghiêm túc, nên cách chức thì cách chức, nên đuổi đi thì đuổi đi, ngươi có sợ cũng chẳng ích gì. Nếu các ngươi có đức tin này, thì khi Ta nói chuyện và xử lý công việc với các ngươi, các ngươi sẽ cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Lúc Ta nói chuyện hoặc bàn về công tác, bàn về nghiệp vụ với các ngươi, thì các ngươi nên biết thả lỏng, biết Đức Chúa Trời sẽ không tính kế với bất kỳ ai, cũng sẽ không tính kế với ngươi, ngươi cứ yên tâm thoải mái. Nếu ngay cả đức tin như vậy mà ngươi cũng không có, nếu ngươi không tin rằng Đức Chúa Trời thiện lương và công chính, thì lúc ngươi nói mình tin Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời nhập thể, đi theo Đấng Christ, đức tin của ngươi ở đâu rồi? Làm sao ngươi làm được chuyện đối đãi chân thành với Ngài chứ? Nếu lúc nào cũng đề phòng, suy đoán, nghi kỵ và nghiên cứu Ngài, thì ngươi đâu có thực sự tin Ngài. Nếu ngươi không thực sự tín nhiệm và không có đức tin thực sự nơi con người này, vậy thì lời Ta phán ngươi có thể tin được mấy phần chứ? Có câu nào mà ngươi có thể thực sự tin và thực sự tiếp nhận không? Gần như không có, phải vậy không? (Thưa, phải.)
Có lần, Ta đến một hội thánh nọ để xem thế nào. Khi bước vào phòng, trước tiên Ta cất tiếng chào hỏi. Có vài người ra chào đón, vội vàng đưa ghế mời Ta ngồi, rồi nói là họ đang thảo luận chuyện gì đó. Khi họ đang nói, Ta chợt nhận ra vừa mới đây trong phòng có bốn, năm người, mà sao bây giờ chỉ còn lại hai người? Ta còn cho là họ đã về phòng để chải tóc, chỉnh trang, một chốc nữa là ra lại ngay thôi. Ai ngờ Ta ngồi ở đó một hồi lâu mà họ chẳng ló mặt. Ta hiểu ra rằng: họ chẳng hoan nghênh Ta, Ta đến vào lúc không hợp, là khách không mời. Ta đến thì họ không được tự do, không thoải mái. Họ nghĩ: “Ngài đến đây chẳng phải là có mục đích gì đó sao?”. Họ sợ bị mắc bẫy, sợ bị đùa bỡn, sợ có âm mưu gì đó, cho nên họ từ chối gặp mặt Ta, từ chối trao đổi và tương tác với Ta. Ta không phóng đại, cũng không thêm thắt gì chuyện này. Ta không kể chuyện hư cấu, mà đang kể chuyện thật. Có lẽ khi Ta mở cửa ra về, họ mới thở phào nhẹ nhõm, nói rằng: “Cuối cùng Ngài ấy cũng đi rồi! Ôi trời, dọa mình sợ chết khiếp!”. Ta tự nhủ, chẳng lẽ Ta có “mị lực” lớn đến vậy sao, có thể khiến người ta sợ đến mức độ đó sao? Các ngươi nói xem, người có biểu hiện như vậy thì có vấn đề gì? Ta thực sự chưa hề gặp người tin Đức Chúa Trời kiểu này. Loại người này thích sống trong những góc tối tăm, chẳng thích sống trong ánh sáng, chẳng thích sống quang minh chính đại. Các ngươi nói xem, lúc Ta tiếp xúc với các ngươi, thì các ngươi cảm thấy khó xử và bồn chồn, không muốn trao đổi với Ta, hay là các ngươi sẵn lòng tiếp xúc với Ta, muốn đạt được thêm chút lẽ thật, cho dù có bồn chồn một chút cũng không sao? Tâm tình của các ngươi thế nào? (Thưa, mặc dù chúng con có chút bồn chồn, nhưng chỉ cần chúng con có thể hiểu được lẽ thật và đạt được chút lợi ích là được.) Đa số mọi người, khi đã tiếp xúc và trao đổi với Ta vài ba lần, và thấy nhiều lời của Ta rất quan trọng, là cái mà họ chưa từng nghe qua, thì họ cảm thấy hôm ấy nghe được những lời này thật quá đáng giá, nên họ cực kỳ sẵn lòng nghe Ta thông công. Nếu thỉnh thoảng, Ta tán gẫu chút chuyện phiếm thì họ sẽ cảm thấy thất vọng đôi chút, phải đạt được gì đó từ trong lời Ta nói thì họ mới mãn nguyện. Đối với dạng người này, Ta sẵn lòng kết hợp chuyện thực tế mà thông công về một vài lẽ thật, để cho ai cũng đạt được lợi ích. Có những người thấy Ta thì luôn sợ Ta hỏi họ về một vài tình hình nào đó, sợ họ mà không biết trả lời thế nào thì sẽ rất ngượng. Trong lòng dạng người như vậy quá phức tạp rồi, chẳng đơn thuần gì cả. Có những người sẵn lòng tìm kiếm lẽ thật, có khó khăn gì họ đều có thể nói ra mà không sợ người khác chê cười, như vậy mới đúng đắn. Nguyên tắc của chúng ta khi trao đổi và đối thoại là mở lòng, có gì nói nấy, ăn ngay nói thật. Ta ở trong nhân tính bình thường mà qua lại và tương tác với các ngươi. Vì thân phận và địa vị của Ta, nên Ta biết nhiều hơn các ngươi, đương nhiên Ta phải nói nhiều hơn một chút. Nếu các ngươi sẵn lòng lắng nghe thì sẽ có thể có thu hoạch, còn không sẵn lòng nghe thì Ta cũng không ép. Nếu có hiểu biết sâu sắc, có ý tưởng, sự thể nghiệm, sự lý giải và nhận thức về chủ đề mà chúng ta thông công, thì các ngươi có thể chia sẻ. Như vậy gọi là tương tác, là nhân tính bình thường. Nếu cảm thấy lời Ta nói rất quan trọng, thì ngươi nên nghiêm túc lắng nghe. Nếu ngươi nghe không lọt lời Ta, thì Ta sẽ không nói nữa, sẽ để cho ngươi nói. Nếu ngươi không có lời nào để nói, thì Ta sẽ đặt câu hỏi cho ngươi và hướng dẫn ngươi. Chẳng hạn như Ta sẽ hỏi ngươi: “Đời sống hội thánh gần đây thế nào? Có khó khăn gì trong việc làm bổn phận không?”. Nếu ngươi có khó khăn thì nên có gì nói nấy, Ta sẽ giúp ngươi giải quyết. Đấy gọi là tương tác, là điều nên có trong nhân tính bình thường. Đây chẳng phải là điều mà ai cũng thích sao? (Thưa, phải.) Nếu ngươi là người có lương tâm và lý trí, thì nhân tính của ngươi bình thường, và cuộc chuyện trò, tán gẫu của chúng ta có thể được tạo lập trên nền tảng là sự chân thành, tin tưởng và tôn trọng, để chúng ta có thể mở lòng và nói lời thật lòng. Nếu ngươi không có lương tâm và lý trí, cũng không muốn tìm kiếm lẽ thật, thì ngươi chỉ có một con đường để thực hành thôi: Đó là từ bây giờ hãy học cách không nghiên cứu, không đoán ý qua lời nói và nét mặt, không để mình bị kìm kẹp, và không nói những lời thử lòng. Có người nói: “Chuyện này con làm không được”, vậy thì ngươi hãy bịt miệng lại, đừng nói gì hết. Nếu không cho ngươi nói, mà ngươi còn cho rằng đó là đang tính kế với ngươi và kìm kẹp ngươi, thì chuyện này dễ xử lý thôi, ngươi có thể rời đi. Bất kể gặp ai, Ta cũng không có yêu cầu gì ở họ, và Ta chưa hề kìm kẹp ai cả. Nếu người ta luôn tìm khuyết điểm của Ta – Ta nói chuyện với họ cũng không được, mà không nói chuyện với họ cũng không xong – vậy thì Ta chỉ có thể tránh xa và không tiếp xúc với loại người này thôi. Nếu có người luôn sợ tiếp xúc với Ta, luôn cho rằng Ta sẽ tính kế với họ, nhưng lại muốn tiếp xúc với Ta để đạt được chút lẽ thật, thì Ta nói cho ngươi biết, có dạng tâm thái đó thì ngươi không đạt được lẽ thật đâu, ngươi chẳng phải là người yêu thích lẽ thật. Ngươi luôn nghĩ xấu cho người khác, cho rằng ai cũng không tốt bằng ngươi. Bất kể Ta nói chuyện gì với ngươi, thì ngươi cũng luôn ngẫm nghĩ rằng Ta đang tính kế với ngươi. Ngươi chẳng tin tưởng Ta, chẳng có bất kỳ sự tín nhiệm nào đối với Ta, vậy thì giữa chúng ta không thể nào chung sống hòa hợp được, ít nhất là chúng ta không đồng điệu về mặt nhân tính. Chúng ta chẳng có sở thích hoặc hứng thú chung, chẳng có mục tiêu mưu cầu và khao khát chung. Về mặt nhân tính thì con đường ngươi đi, hỉ nộ ai lạc của ngươi, sở thích và hứng thú của ngươi chẳng giống với Ta. Những thứ ngươi thích toàn là điều tiêu cực, còn chủ đề Ta muốn nói đều liên quan đến những điều tích cực. Ngươi luôn muốn nghiên cứu Ta, bất kể Ta thông công về lẽ thật gì, ngươi cũng luôn ngẫm nghĩ xem trong đó có âm mưu không, có đang tính kế với ngươi không, ngươi có thể bị thiệt thòi, bị lừa gạt hay không. Ngươi luôn ngẫm nghĩ những chuyện này, vậy chúng ta nói chuyện và qua lại với nhau thì sẽ xuất hiện cảnh tượng gì? (Thưa, ngượng nghịu.) Trong trường hợp đó, Ta gượng gạo với ngươi, ngươi gượng gạo với Ta, chúng ta đều gượng gạo với nhau, như thế mà sống với nhau thì chẳng phải là hành hạ nhau sao? Như vậy thì có hạnh phúc không? Như vậy thì chẳng có hạnh phúc. Nếu những lời Ta phán là điều ngươi thích và sẵn lòng nghe, nếu những chủ đề mà Ta thảo luận là điều mà ngươi khao khát, yêu quý trong lòng và mưu cầu, có thể thuận với nhu cầu trong nhân tính của ngươi, vậy thì ngay cả khi ngồi yên im lặng, giữa chúng ta cũng không có sự phản cảm hay chống đối nào. Chúng ta có thể tương tác, và khi sống với nhau thì có thể hòa hợp. Nhưng giả sử lời Ta phán đều rất thực tế và có ích lợi cho người ta, mà ngươi lại không thích nghe, trong lòng còn thấy phản cảm và chống đối. Đối với những điều tích cực Ta phán, những lời Ta thông công về lẽ thật để giải quyết vấn đề, nhất là những chủ đề về chuyện giải quyết tâm tính bại hoại, thì ngươi nghe mà chẳng vào tai, còn cảm thấy Ta đang tẩy não ngươi, lừa dối ngươi, muốn lợi dụng ngươi rao truyền phúc âm và đưa về thêm nhiều người để mở rộng thế lực của hội thánh. Như vậy thì ngươi không đúng rồi. Ngươi luôn suy nghĩ theo hướng méo mó, luôn muốn bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen, thậm chí nói những chuyện tích cực và phù hợp với lẽ thật thành chuyện tà ác, tiêu cực và không phù hợp với trào lưu của xã hội. Ta phán gì ngươi cũng không tin đó là lẽ thật và là điều tích cực. Vậy thì chúng ta không có cách nào giao tiếp rồi, bởi vì chúng ta không có tiếng nói chung, cũng không thể chung sống hòa hợp, không có cách nào ngồi ăn cùng bàn, không thể đạt đến đồng tâm hợp ý. Vậy thì ngươi là loại người nào? Nói cho chính xác thì ngươi không phải là người của nhà Đức Chúa Trời, mà là người ngoại đạo. Bất kể Ta thảo luận về chủ đề tích cực đến đâu, con đường thực hành và nguyên tắc thực hành chính đáng cỡ nào, thì ngươi cũng luôn có thể nghe ra được một ý khác. Ngươi luôn dùng nhãn quan, lập trường và quan điểm tà ác mà nhìn nhận, lý giải và giải thích. Ngươi chẳng tiếp nhận con đường thực hành và nguyên tắc thực hành đúng đắn mà Ta phán. Cho nên ngươi nghe Ta phán thì sẽ thấy gượng gạo. Tại sao lại thấy gượng gạo? Bởi vì những điều đó đâu phải là nhu cầu của nhân tính ngươi. Vậy ngươi cần cái gì? Ngươi mưu cầu tự do, kiếm tiền và phát tài, ăn uống và chơi bời. Châm ngôn sống của ngươi là “Người sống trên đời, chỉ cần ăn mặc” và “Hôm nay có rượu, hôm nay say”. Ngươi thích cái gì? Ngươi thích trào lưu tà ác, thích áo quần quái dị, thích minh tinh và người nổi tiếng, thích sự siêu phàm và vĩ đại của con người. Vậy thì ngươi không phải là người thật lòng tin Đức Chúa Trời, không nằm trong số người của nhà Đức Chúa Trời. Trong nhân tính của ngươi chẳng có nhu cầu đối với những điều tích cực. Khi chúng ta qua lại với nhau, bất kể Ta nói gì, làm gì hoặc làm thế nào, thì đối với những người không có lương tâm, lý trí hoặc nhu cầu của nhân tính bình thường, đấy chỉ là một dạng lý luận, một dạng câu nói, một dạng phương thức mà thôi. Thậm chí, có người còn cho rằng: “Ngài giảng những lời đó chi tiết đến vậy, còn nêu ví dụ, như vậy chẳng phải là muốn gieo sâu tư tưởng và quan điểm của Ngài vào lòng người sao? Chẳng phải Ngài cố khiến người ta tiếp nhận tư tưởng và quan điểm của Ngài, bị tẩy não, và qua thời gian bị tê dại bởi các loại tư tưởng và quan điểm của Ngài sao?”. Nếu ngươi thực sự cảm thấy chuyện là vậy, cho rằng những lời này không phải là lẽ thật, không phải là con đường thật mà người ta nên tiếp nhận và thực hành, cũng không phải là nguyên tắc mà người ta nên tuân thủ, vậy thì ngươi có thể từ chối tiếp nhận, đây là tự do của ngươi, và ngươi cũng có thể rời khỏi hội thánh. Ngươi có quyền lựa chọn, cũng có quyền từ chối tiếp nhận lẽ thật, nhưng ngươi đừng bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen. Lẽ thật thì luôn là lẽ thật, không thể vì có mấy tên ma quỷ, Sa-tan phủ nhận và lên án mà không còn là lẽ thật nữa, càng không thể nào vì có nhiều người không thích và không tiếp nhận mà không còn là lẽ thật nữa. Lẽ thật tồn tại đời đời, đời đời bất biến. Bất kể có bao nhiêu người có thể tiếp nhận, lẽ thật mãi mãi là lẽ thật. Chuyện Ta tán gẫu, trao đổi và tương tác với các ngươi hoàn toàn được tạo lập trên nền tảng là các ngươi tin tưởng Ta, đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất. Để tin tưởng được như vậy, điều quan trọng nhất là trong lòng các ngươi phải xác nhận rằng trong mỗi một lời Ta nói, mỗi một câu Ta hỏi, hoặc mỗi một chuyện Ta thảo luận, đều không có chuyện tính kế, âm mưu, cũng không có bẫy, chuyện thử thách các ngươi thì càng khỏi nói đến. Do đó, các ngươi cứ yên tâm – Ta qua lại với các ngươi là để làm cho các ngươi có thể thêm phần tự do và thoải mái. Nếu các ngươi cảm thấy qua lại với Ta thì không tự do hoặc thoải mái, không bị kìm kẹp thì cũng gượng gạo, hoặc là luôn đề phòng trong lòng, thế thì Ta nói cho mà biết, đó thực sự không phải là vấn đề của Ta, mà là vấn đề của các ngươi. Vấn đề của các ngươi nằm ở phương diện nào? Các ngươi có vấn đề gì, trong lòng nghĩ cái gì, thì tự các ngươi hẳn biết rõ, cho nên cứ giải quyết vấn đề cụ thể theo cách cụ thể. Các ngươi có thể phát hiện ra vấn đề gì thì cứ giải quyết vấn đề đó. Nếu phát hiện ra nhiều vấn đề thì cứ ghi lại, sau đó giải quyết từng cái một. Nếu không thể giải quyết mọi vấn đề một lần, thì cứ giải quyết dần dần từng cái. Vào lúc những chuyện đó xảy ra, ngươi hãy kiểm điểm và ngẫm lại, xem bản thân lúc đó rốt cuộc đã nghĩ cái gì, trong vấn đề nào thì ngươi nghĩ như vậy, trong vấn đề nào thì nảy sinh dạng quan điểm gì, rồi sau đó từng bước giải quyết chúng. Đến một ngày, khi ngươi đã buông bỏ những ý nghĩ và quan điểm này trong lòng, thì những vấn đề này đều được giải quyết hết, và ngươi sẽ thực sự hiểu lẽ thật, thấy được giá trị của lẽ thật và có sự tin tưởng nơi Ta. Ngươi sẽ tin rằng đối với bất kỳ con người nào hay vấn đề nào, Ta đều có thể đối đãi theo nguyên tắc lẽ thật, tuyệt đối sẽ không tính kế với ngươi. Vậy thì sự tương tác giữa chúng ta sẽ trở nên nhẹ nhàng và vui thú, chúng ta có thể chung sống hòa hợp, và chúng ta chung sống hòa hợp thì sẽ có thể nảy sinh hạnh phúc. Có hạnh phúc, vui vẻ, bình an, vui sướng – vậy chẳng tốt sao? (Thưa, tốt.)
Lúc tiếp xúc với người ta, thỉnh thoảng Ta hỏi xem họ tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi. Có người nói mới tin được ba năm, và cảm thấy ngại lắm. Trong lòng họ cho rằng mình tin Đức Chúa Trời chưa được lâu, vóc giạc còn nhỏ, so với những người đã tin được mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, thì họ kém một quãng, thua người một bậc. Họ sẽ ngẫm nghĩ: “Ngài hỏi câu đó, có phải là đang nhắc nhở con rằng con tin Đức Chúa Trời chưa lâu, vóc giạc còn nhỏ và nhà Đức Chúa Trời đề bạt con là đã đặc cách rồi, Ngài muốn con mang ơn huệ đối với nhà Đức Chúa Trời chứ gì?”. Nguyên nhân gì khiến một câu hỏi lại khiến họ ngượng nghịu đến vậy? Chính là vì họ phức tạp hóa câu hỏi của Ta, cho rằng trong lời của Ta có âm mưu và Ta muốn tính kế với họ. Một lời đơn giản như vậy, mà họ rút ra được mấy tầng ý. Sau khi nói rằng họ tin được ba năm rồi, họ lại cảm thấy khó xử. Chẳng phải trong lòng họ cảm thấy bất mãn với câu Ta hỏi sao? Thực ra, Ta vô ý hỏi một câu vậy thôi, chẳng ngờ lại khiến ngươi cảm thấy khó xử. Vậy tại sao ngươi lại thấy khó xử? Vì tâm tư ngươi quá phức tạp. Câu Ta hỏi có vấn đề gì sao? (Thưa, không có.) Ta thuận miệng hỏi một câu thôi mà. Nếu Ta hỏi ngươi từng yêu đương với bao nhiêu người rồi, thì có khả năng là không thích hợp, vì đó là dò la chuyện riêng tư của ngươi. Nhưng Ta hỏi thăm chuyện liên quan đến việc ngươi tin Đức Chúa Trời, hỏi ngươi tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi, vậy mà không chính đáng sao? (Thưa, chính đáng.) Thế thì tại sao ngươi lại không dám trả lời? Đây thực sự không phải là vấn đề của Ta, mà là vấn đề của ngươi, tâm tư ngươi quá phức tạp. Tâm tư phức tạp là sao? Chẳng phải nghĩa là tâm tính ngươi tà ác và giả dối sao? (Thưa, phải.) Ta hỏi ngươi đã tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi là có ý gì? Là Ta muốn dựa vào thâm niên tin Đức Chúa Trời của ngươi mà tìm hiểu xem ngươi có vóc giạc thế nào, hiểu được những lẽ thật nào, đã thiết lập được nền tảng chưa, có khó khăn gì, có thể làm bổn phận không, và đã trải nghiệm sự thử luyện nào chưa. Ta dựa vào những điều này mà xác định xem nên thông công với ngươi những gì, nhắc nhở ngươi những gì, chỉ vậy thôi. Một ý nghĩ đơn giản như vậy của Ta lại bị ngươi hiểu lầm thành Ta có dụng tâm, và nó khiến ngươi chán ghét Ta. Ngươi nói xem, chẳng phải Ta làm ơn mắc oán hay sao? (Thưa, phải.) Khi hỏi ngươi tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi, xuất phát điểm của Ta có ý gì là muốn hạ thấp ngươi không? (Thưa, không có.) Có ác ý gì không? Có ý muốn làm ngươi khó xử và xấu mặt không? (Thưa, không có.) Bất kể ngươi tin Đức Chúa Trời mấy tháng, hay là một năm, hai năm, thì xuất phát điểm của Ta chỉ là muốn giúp ngươi. Ta thấy ngươi thiết tha mưu cầu và rất nhiệt thành, thấy ngươi chịu khổ và trả giá nhiều đến vậy, từ bỏ nhiều đến vậy, thì muốn tán gẫu cùng ngươi để ngươi đạt được những điều mà bình thường không thể đạt được. Ta hỏi ngươi tin mấy năm rồi, thì một mặt là quan tâm ngươi, mặt khác là yêu quý ngươi. Trong đó có ác ý gì không? (Thưa, không có.) Một câu hỏi chính đáng như vậy, mà người đó hiểu lệch thành cái gì rồi? “Ngài muốn khiến mọi người đều biết con tin Đức Chúa Trời chưa được lâu, vóc giạc nhỏ, lẽ thật nào cũng không hiểu, kém hơn người khác, thua người một bậc. Ngài muốn làm con xấu mặt”. Ngươi nghĩ như vậy thì chúng ta còn có thể tương tác với nhau nữa không? (Thưa, không thể.) Do đó, để chúng ta tương tác được với nhau và có thể chung sống hòa hợp, thì điều trước hết là các ngươi phải tin Ta, không được nghi ngờ hay suy đoán về Ta. Nếu như giữa chúng ta không có sự tương tác, thì vấn đề do đâu mà ra? Do con người mà ra, nghĩa là người ta có đủ mọi loại khó khăn. Vậy đủ mọi loại khó khăn này nảy sinh từ đâu? Chúng nảy sinh từ đủ mọi loại tư tưởng và quan điểm sai lầm của con người. Vậy người mà chúng ta vừa nói đến đã nảy sinh tư tưởng và quan điểm sai lầm nào? Người này cho rằng tin Đức Chúa Trời mới ba năm thì thuộc số người mới tin trong hội thánh, tin Đức Chúa Trời chưa được lâu thì chẳng vẻ vang, thua người một bậc, hiểu lẽ thật quá ít, vẫn chưa biết thông công về lời chứng trải nghiệm, cho nên chỉ là “công dân hạng hai”, bị người ta xem thường, nói ra thì ngượng và mất mặt. Mặt khác, người ta tin Đức Chúa Trời mười năm, hai mươi năm rồi, còn người đó mới tin được ba năm, nên họ sợ người khác bảo rằng: “Bao nhiêu năm đó, anh làm cái gì? Tại sao không tiếp nhận từ sớm đi? Có phải anh còn có một vài chuyện quá khứ không hay ho cho lắm phải không?”. Người đời đặc biệt coi trọng trình độ, lý lịch và bối cảnh của người ta, dựa vào những điều này mà phân đẳng cấp. Vậy quan điểm của người này là gì? Người này cũng rất coi trọng bối cảnh và lý lịch của người ta, cho nên trong lòng phân chia đẳng cấp tùy vào thời gian người ta tin Đức Chúa Trời được ba năm, năm năm, mười năm, hai mươi năm, hay ba mươi năm. Phân đẳng cấp như vậy khiến người này cảm thấy tin Đức Chúa Trời ba năm thì mình ở trong hội thánh chẳng vẻ vang cho lắm, giống như “công dân hạng hai”. Với người này, đây là dấu hiệu ô nhục, là sự sỉ nhục. Người này rất coi trọng thâm niên tin Đức Chúa Trời, vừa hay anh ta mới tin Đức Chúa Trời được ba năm. Nếu thêm được số 0 vào sau con số 3, thành tin Đức Chúa Trời được ba mươi năm, thì anh ta sẽ cảm thấy vẻ vang, sẽ nói: “Tôi nằm trong số những người đầu tiên tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời. Lúc Đức Chúa Trời mới xuất hiện và công tác thì tôi đã đi theo Ngài rồi. Mấy năm đó, tôi đi khắp nơi rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Tôi cùng Đức Chúa Trời giành lấy thiên hạ đấy! Ở trong nhà Đức Chúa Trời, tôi thuộc cấp nguyên lão, là khai quốc công thần đấy!”. Họ sẽ cảm thấy đặc biệt vẻ vang. Có những người vừa tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, thấy Ngài phát biểu nhiều lẽ thật đến vậy, thấy lời chứng trải nghiệm của nhà Đức Chúa Trời nhiều đến vậy, thì cảm thấy mình tin Đức Chúa Trời quá muộn. Nếu nói bản thân tin Đức Chúa Trời mới một hai năm, hai ba năm, thì họ thấy khó nói quá, thế là họ ngẫm nghĩ trong lòng: “Tại sao suốt bao năm đó mình không tin Đức Chúa Trời chứ? Đức Chúa Trời đã bày tỏ nhiều lẽ thật đến vậy, tại sao mình chẳng tìm hiểu? Ai đã cản trở mình tin Đức Chúa Trời? Ai hại mình khổ sở đến vậy? Chính là các mục sư tôn giáo, họ đúng là ma quỷ và Sa-tan nuốt chửng linh hồn người ta. Mình mà vào thiên quốc rồi, thì phải tìm họ tính sổ mới được!”. Rồi họ ngẫm nghĩ: “Ôi chao, mình đúng là mang số khổ, chẳng có phúc đó”. Nhưng rồi họ lại nghĩ: “Không đúng, Đức Chúa Trời toàn năng mà, tại sao Ngài không đưa chiên lạc là mình về với nhà Đức Chúa Trời sớm hơn chứ?”. Thế là họ quy trách nhiệm cho Đức Chúa Trời. Thật ra, bất kể họ nghĩ thế nào, thì trước hết, tư tưởng và quan điểm của họ khi so sánh việc tin Đức Chúa Trời ba năm với việc tin Đức Chúa Trời ba mươi năm là không đúng. Họ dựa vào thâm niên tin Đức Chúa Trời mà phân chia đẳng cấp, cho rằng tin ít năm thì thua người một bậc. Họ nảy sinh dạng tư tưởng và quan điểm này rồi, đến khi Ta hỏi họ tin Đức Chúa Trời được mấy năm, thì họ xấu hổ không dám mở miệng. Nói “ba năm” thì họ cảm thấy quá ngượng, quá mất mặt, chẳng còn thể diện, cảm thấy giá trị và đẳng cấp của bản thân bị bại lộ ngay lập tức. Họ quá coi trọng chuyện này, nghĩa là tư tưởng và quan điểm này ảnh hưởng đến thái độ của họ đối với câu hỏi của Ta, phải vậy không? (Thưa, phải.) Nếu tư tưởng và quan điểm của họ là: “Mình tin Đức Chúa Trời được ba năm, đó là sự thật. Tin mới ba năm thì vóc giạc nhỏ, đối với rất nhiều lẽ thật mình còn không giải thích rõ về mặt đạo lý được. Đức Chúa Trời hỏi mình tin mấy năm rồi, thì mình sẽ có gì nói nấy, chẳng có gì đáng xấu hổ cả. Trước mặt Đức Chúa Trời, hết thảy mọi sự đều công khai, đều phơi bày ra hết. Đức Chúa Trời hỏi gì thì mình sẽ nói nấy”. Họ nghĩ như vậy thì đơn giản rồi, chẳng dính dáng đến thân phận, địa vị, giá trị bản thân hay đẳng cấp gì cả. Họ sẽ không bị bất kỳ tư tưởng và quan điểm sai lầm nào hạn chế, ảnh hưởng, khống chế hay sắp đặt. Cuối cùng, họ sẽ có thể thoải mái và trung thực nói rằng: “Con tin Đức Chúa Trời được ba năm rồi”. Thế thì Ta sẽ hỏi tiếp: “Ngươi tin Đức Chúa Trời được ba năm rồi, vậy đã thấu tỏ lẽ thật về khải tượng chưa?”. Người có tâm tư phức tạp thì sẽ nghĩ: “Mình mà nói là chưa thấu tỏ thì chẳng chứng minh mình không chuyên tâm vào việc chính đáng khi tin Đức Chúa Trời sao? Tin ba năm mà vẫn chưa thấu tỏ lẽ thật về khải tượng, vậy chẳng phải mình không nghiêm túc ăn uống lời Đức Chúa Trời sao? Nhưng nếu mình nói là đã thấu tỏ rồi, thì Ngài sẽ không thông công với mình về chủ đề này nữa, và mình bị mất cơ hội này. Nếu mình nói là chưa thấu tỏ, thì chẳng phải Ngài vẫn có thể thông công và bổ sung cho mình thêm một chút sao? Nếu mình nói là thấu tỏ rồi, thì Ngài sẽ không bổ sung cho mình, nhưng chẳng phải Ngài vẫn có thể đánh giá cao về mình sao?”. Ngươi xem, chẳng phải họ lại nghĩ méo mó rồi sao? Chẳng phải tâm tư người này quá phức tạp sao? (Thưa, phải.) Dạng người này thực sự phiền phức. Bất kể chuyện trò với ai, trong lòng họ luôn tính toán xem đối đáp thế nào thì không bị mất mặt hay bị tổn thất lợi ích. Ngoài ra, họ còn luôn quan sát xem người khác có thái độ thế nào với họ, luôn tính toán làm cách nào để được người khác đánh giá cao, để có thể nâng cao địa vị của bản thân. Họ luôn tính toán mấy chuyện đó, cho nên họ mà muốn đạt đến mở lòng khi thông công và nói lời từ đáy lòng thì cũng không dễ đâu. Ta hỏi họ: “Ngươi tin Đức Chúa Trời, vậy đã thấu tỏ lẽ thật về khải tượng chưa?”, trong câu này có tầng ý thứ hai sao? (Thưa, không có.) Tại sao Ta hỏi thẳng câu đó? Thường thì người tin một hai năm, hai ba năm vẫn cần được thông công lẽ thật về khải tượng, đây là chuyện thường. Nếu họ thấu tỏ lẽ thật về khải tượng rồi thì không cần thông công nữa, chúng ta sẽ nói về chủ đề khác. Nếu họ nói: “Đối với lẽ thật về khải tượng, con vẫn không thấu tỏ cho lắm. Nhất là lẽ thật về phương diện Đức Chúa Trời làm công tác phán xét để cứu rỗi con người quá thâm sâu, con vẫn chưa hiểu. Ngài có thể thông công về chuyện này được không?”, vậy thì chúng ta tìm được chủ đề chung rồi, và Ta sẽ thông công. Mọi người nghe thêm một lần thì sẽ thu hoạch thêm một chút, phải vậy không? (Thưa, phải.) Có những người không hiểu mà cứ giả vờ hiểu. Ngươi giả vờ để làm gì? Ngươi cứ một mực giả vờ, ý là ngươi hiểu hết rồi, Ta nói thêm thì dư thừa, vậy thì Ta không nói nữa, và ngươi sẽ không đạt được gì. Do đó, bất kể trong trường hợp nào, nếu ngươi có thể ăn ngay nói thật, không nghi kỵ, không diễn giải quá đáng lời Ta nói, thì cuộc chuyện trò và trao đổi của chúng ta có thể lên đến mức tương tác sôi nổi, chúng ta có thể ở trong nhân tính bình thường mà trao đổi, qua lại, tương tác và bàn luận về chủ đề mà chúng ta đều yêu thích. Như vậy chẳng tốt sao? (Thưa, tốt.) Như vậy thì các ngươi sẽ có thu hoạch. Có những người rất tính toán, Ta hỏi họ có thấu tỏ lẽ thật về khải tượng chưa, thì họ ngẫm nghĩ trong lòng: “Ngài hỏi câu đó là có ý gì? Ngài muốn xem con đã xác định chắc chắn về con đường thật chưa, đã thiết lập nền tảng chưa, xem tố chất của con thế nào, thăm dò tố chất của con chứ gì? Vậy thì con phải nói là con thấu tỏ rồi”. Thế là họ nói: “Ba năm qua, con luôn ăn uống lời Đức Chúa Trời, đã xem không ít phim của nhà Đức Chúa Trời, thường xuyên nghe các bài giảng và thông công, lúc nhóm họp cũng thường nói về nhận thức trải nghiệm của mình. Những lẽ thật về khải tượng này con thấu tỏ cả rồi”. Họ nói vậy là có mục đích gì? Là muốn khiến Ta có ấn tượng tốt về họ, khiến Ta cảm thấy họ có tố chất rất tốt và có thể đánh giá cao họ. Ngươi nói xem, Ta có thể vì mấy câu họ nói mà đánh giá cao họ không? (Thưa, không.) Ta dễ dàng đánh giá cao một người như vậy sao? Tuyệt đối không đâu, họ nhầm về chuyện này rồi. Nếu ngươi nói mình thấu tỏ hết lẽ thật về khải tượng rồi, vậy thì Ta sẽ kiểm tra. Ta sẽ kiểm tra những lẽ thật về khải tượng mà ngươi thường đọc. Tại sao Đức Chúa Trời làm công tác hành phạt và phán xét? Hiệu quả chính yếu muốn đạt được từ công tác hành phạt và phán xét là gì? Trong thời gian ba năm tin Đức Chúa Trời, ngươi có chút thể nghiệm nào về công tác hành phạt và phán xét không? Ngươi có trải nghiệm lần hành phạt và phán xét nào chưa? Trong lúc trải nghiệm hình phạt và sự phán xét, ngươi có nắm bắt được nguyên tắc lẽ thật không? Có biết tâm ý của Đức Chúa Trời là gì không? Ngươi có thể nói ra trải nghiệm cụ thể không? Người bình thường sẽ có thể nói được một vài đạo lý, chứ không nói ra được nhận thức trải nghiệm thực tế. Con người thiếu sót quá nhiều, do đó có quá nhiều chủ đề cần thảo luận khi tán gẫu. Nhưng bất kể là nói về chủ đề nào, ngươi biết bao nhiêu thì thông công bấy nhiêu, không biết thì nói không biết, đừng có suy nghĩ méo mó. Đặt cho ngươi câu hỏi gì thì ngươi cứ trả lời câu hỏi đó. Trong lòng ngươi lúc đó đang nghĩ cái gì thì cứ nói cái đó. Tình hình thực tế của ngươi thế nào thì cứ có gì nói nấy. Ngươi đừng vòng vo, đừng thêm thắt, đừng vì đóng gói và tô vẽ bản thân cho đẹp mà nói ra một vài hình tượng giả, đừng nói dối và lừa dối, đấy đều là những việc không nên làm. Do đó, bất kể Ta hỏi ngươi câu gì, hoặc thông công với ngươi về chủ đề nào, thì ngươi biết bao nhiêu cứ nói bấy nhiêu. Nếu Ta phát hiện ngươi không hiểu, hoặc chỉ lĩnh hội về mặt đạo lý, lĩnh hội lệch lạc và có tư tưởng quan điểm sai lầm về phương diện lẽ thật nào đó, thì Ta sẽ kịp thời chỉnh đốn, hướng dẫn và giúp đỡ, để ngươi hiểu được phương diện lẽ thật này, có được sự lĩnh hội đúng đắn và con đường thực hành chính xác. Như vậy thì chúng ta thông công sẽ có hiệu quả. Do đó, khi thông công về một chủ đề nào đó, thì nguyên tắc là thiết lập mối thông công trên nền tảng ăn ngay nói thật, là cùng nhau thông công và thảo luận, hoặc là trao đổi về lẽ thật và những điều tích cực, để cho mọi người có thể thêm thấu tỏ, nhận biết thêm chuẩn xác và có con đường thực hành rõ ràng hơn về chủ đề tích cực được thông công. Không nên thiết lập mối thông công trên nền tảng là nghi kỵ, tính kế và lừa dối.
Các ngươi thấy thông công về chủ đề sự bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể thì có tốt không? (Thưa, tốt.) Tốt ở chỗ nào? (Thưa, con cảm thấy mối thông công này có thể giải quyết quan niệm và tưởng tượng của con về Đức Chúa Trời nhập thể.) Có người nói: “Ngài phơi bày hết con người thật của Ngài cho chúng con, giờ chúng con biết Ngài là dạng người gì rồi. Ngài có gì nói nấy như vậy thì quá ngây thơ! Đúng là Ngài có những biểu hiện thực tế và bình thường này, nhưng sao Ngài có thể có gì nói nấy chứ? Ngài phải khiến mọi người cảm thấy Ngài thần bí khó lường, cao quý và không thể dò thấu. Kể cả khi Ngài không tính kế với người ta thì cũng phải nói là Ngài biết tính kế với người ta. Ngài phải nói là Ngài có thuật đùa bỡn và lợi dụng người ta, biết 36 kế, biết lợi dụng mọi loại người để phục vụ cho Ngài. Ngài nói như vậy thì người ta mới có thể sùng bái Ngài. Ngài không được có gì nói nấy. Thông qua những lời có gì nói nấy của Ngài, sao con cảm thấy Ngài chẳng có gì là thần bí khó lường vậy? Sao con thấy Ngài chẳng giống Đức Chúa Trời vậy? Ngài xem các nhân vật lớn trên thế giới – những người trong ngành quân sự, chính trị, còn có các vua chúa ở nhiều thời đại – trong số những nhân vật lớn này, có ai là người ăn ngay nói thật không? Có ai nói bản thân mình bình thường, thực tế, thông thường, chỉ là một người thường hay không? Họ chỉ mong sao người khác đều xem họ khác với người thường, do trời phái xuống, dù bây giờ đã thành người phàm thì vẫn thần bí khó lường, dân thường không thể dò thấu nổi. Như vậy họ mới dễ thống trị người khác!”. Những vua chúa này đều biết thuật làm vua, các đại thần và dân thường đều không dò thấu được họ là dạng người gì. Có câu gì nhỉ? “Ý vua khó dò, lệnh vua không thể trái”. Các viên chức ngoại đạo đều có dạng tâm lý này, dù là một trưởng phòng nhỏ, trưởng ban hay quản lý cũng đều có dạng tâm thái này. Họ không muốn để người khác nhìn thấu họ có tầm vóc năng lực đến đâu, có những khiếm khuyết nào trong nhân tính, đã phạm những sai lầm gì, làm việc thì có những sai sót nào. Một khi bị người khác phát hiện kẽ hở thì họ cực lực giả vờ và che đậy. Ngay khi việc xấu họ làm bị bại lộ, bị người ta đưa ra ánh sáng, thì họ sẽ tìm kẻ gánh tội thay. Họ làm như vậy với mục đích là che đậy chân tướng sự thật, để người ta tiếp tục xem trọng và sùng bái họ. Loại người này thì dù làm việc gì cũng đều mưu tính trước và lập kế hoạch để đạt được mục đích của mình, khiến người khác cảm thấy họ không phải là người thông thường, mà là người có thể thao túng cục diện, người giật dây. Họ tuyệt đối không thể nào để người khác biết họ là một người thường, bình thường, thực tế và thông thường. Thực ra, họ chỉ là một trong số nhân loại bại hoại thông thường, nhưng có nhiều chiêu bẩn hơn người bình thường, và giỏi giở trò âm mưu, quỷ kế. Làm sao họ có thể để cho người khác biết nhân tính họ thâm hiểm và ác độc đến cỡ nào? Như vậy chẳng ảnh hưởng đến hình tượng của họ sao? Nhân loại bại hoại đều có dạng tâm thái này, đều giả hình như người Pha-ri-si, trong lòng đều thâm hiểm và ác độc. Mặc dù trong lòng họ thừa nhận Đức Chúa Trời có thể trở nên xác thịt, nhưng làm sao họ có thể tin Đức Chúa Trời nhập thể sẽ là một người thông thường và bình thường chứ? Trong lòng họ cho rằng nếu thực sự là Đức Chúa Trời nhập thể thì ít nhất phải khiến người ta nhìn thấy được khí chất thần thiêng và các dấu hiệu khác nhau về thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời nơi xác thịt của Ngài. Họ còn xác định rằng: “Khi nhìn nhận hết thảy mọi người, Đức Chúa Trời nhập thể phải có nhãn quang và phong thái bề trên nhìn xuống chúng sinh. Nhưng nơi Ngài, con chẳng thấy những điều này. Ngài còn luôn nói mình muốn làm người có khuôn phép, làm việc theo đúng chức phận. Vậy chẳng phải là phơi bày hoàn toàn rằng Ngài thực sự là một người thông thường hay sao? Chẳng phải hình tượng Đức Chúa Trời cao quý, thần bí khó lường trong lòng người đã bị phá hủy hết rồi sao?”. Các ngươi nói xem, phá hủy như thế này thì có tốt hay không? (Thưa, tốt, như vậy thì hủy đi quan niệm và tưởng tượng của chúng con.) Ta nói những lời này chính là muốn phá tan mộng tưởng của các ngươi, phá tan quan niệm và tưởng tượng của các ngươi, để cho các ngươi không còn sống trong mộng nữa, mà phải sống trong hiện thực. Như vậy là hoàn toàn ăn khớp với những nguyên tắc lẽ thật mà Ta yêu cầu các ngươi tuân giữ – làm người có khuôn phép, làm việc theo đúng chức phận, đứng ở vị trí loài thọ tạo mà làm một người thông thường – bởi vì bản thân Ta làm như vậy. Khi qua lại với các ngươi, và trong cuộc sống riêng, Ta chưa hề nói khoác hay là nói sáo rỗng, cũng chưa hề khoe khoang hay phô trương bản thân. Đây là chuyện mà các ngươi đều có thể nhìn thấy và cảm nhận được. Còn nữa, Ta chẳng bao giờ tính kế với ai, khi làm việc thì không gian xảo, trốn việc, và Ta làm người có khuôn phép – đây là ranh giới tối thiểu phải giữ vững của lương tâm. Có những người dùng quỷ kế khi nói năng và hành động, họ nói lời dễ nghe với người ta, sau đó nghĩ đủ mọi cách khiến người ta rơi vào bẫy của họ, phụng sự cho họ và phục vụ họ. Ta không làm chuyện như vậy. Nếu Ta muốn ai đó giúp ta xử lý việc gì, thì Ta sẽ nói thẳng với người đó. Có vài người nói: “Ngài có thân phận và địa vị này, Ngài bảo người ta làm việc gì thì chẳng phải chỉ cần nói một câu là xong sao?”. Nói một câu thì Ta cũng phải nói cho có khuôn phép, đâu thể cưỡng ép người khác, càng không thể làm khó người khác. Nếu ngươi sẵn lòng làm thì cứ làm, nếu ngươi không sẵn lòng thì có thể từ chối. Nhưng Ta bảo ngươi làm việc gì đó thì Ta phải có gì nói nấy, tuyệt đối sẽ không rào trước đón sau hoặc nói vòng vo để lừa ngươi, dẫn dụ ngươi mắc câu, rồi khiến ngươi tự nguyện phụng sự cho Ta và phục vụ Ta; đã tính kế với ngươi rồi mà còn khiến ngươi nói là mình tự nguyện và Ta khỏi phải nợ ngươi gì cả – Ta tuyệt đối không làm như vậy. Cho dù nhân loại nói rằng những cách làm đó là thuật dùng người, quy tắc cuộc chơi, thủ đoạn đùa bỡn người ta, hoặc thuật chế ngự người gì đó của vua chúa, thì chúng đều không tồn tại nơi Ta. Ta cũng không đùa bỡn người ta – ai đùa bỡn người khác chứ Ta thì không đùa bỡn, cũng không bắt chước và học tập kiểu đó. Những thứ Binh pháp hay Ba mươi sáu kế gì đó, Ta đều chưa xem qua. Ta nói chuyện thì tuyệt đối sẽ không giương đông kích tây, đổi trắng thay đen. Ta nói năng và hành động thì một là một, hai là hai. Trừ phi vì trường hợp đặc thù mà Ta phải dùng những câu nói khôn ngoan, nhưng đó cũng chỉ là vì thông cảm cho sự yếu đuối và khó khăn của người ta, thông cảm cho vóc giạc nhỏ bé của người ta. Đấy là Ta đang bảo vệ và nâng niu người ta, chứ chẳng hề có ác ý, cho nên đấy không phải là tính kế. Có thể nhiều người sẽ vô cùng thất vọng, nghĩ rằng: “Hóa ra trong lòng và tư tưởng của Ngài chẳng có các loại mưu kế của những danh nhân và vĩ nhân trên thế gian. Hóa ra Ngài đơn giản như vậy!”. Đơn giản như vậy thì không tốt hay sao? Không tính kế đâu đồng nghĩa với việc không thể nhìn thấu người ta, không tính kế đâu đồng nghĩa với việc không thể nhìn thấu bản chất và thực chất của sự vật, không tính kế đâu đồng nghĩa với việc không biết xử lý các loại người, sự việc và sự vật. Không tính kế thì Ta vẫn có thể dựa vào hoàn cảnh và bối cảnh mà vận dụng nguyên tắc để xử lý các loại người, sự việc và sự vật một cách xác đáng và chính xác, khiến cho các loại người, sự việc và sự vật thuận theo tự nhiên mà phát huy tác dụng của mình và sống theo quy luật, quy tắc dành cho mình dưới sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, chứ không dùng thủ đoạn, không lừa dối và đùa bỡn để lừa gạt người ta. Nguyên tắc làm việc, nguyên tắc xử lý vấn đề và nguyên tắc đối đãi với các loại người, sự việc và sự vật của Ta đều đã được nói đến trong những mối thông công và bài giảng của Ta qua năm tháng. Khi giảng những điều này, Ta không hô khẩu hiệu, mà chúng phát xuất từ tư tưởng và thực chất nhân tính của Ta. Ta cũng vận dụng tư tưởng và quan điểm của Ta mà xử lý các loại người, sự việc và sự vật. Vậy khi Ta vận dụng tư tưởng và quan điểm của Ta mà xử lý các loại người, sự việc và sự vật, hoặc xử lý các loại người, sự việc và sự vật theo những nguyên tắc này, thì các ngươi nói xem, kết quả cuối cùng là tuân theo đường lối của Đức Chúa Trời hay là phản nghịch đường lối của Đức Chúa Trời? (Thưa, là tuân theo đường lối của Đức Chúa Trời.) Do đó, bất kể trong mắt người ta, Đức Chúa Trời nhập thể là Ta đây có bình thường, thực tế và thông thường đến cỡ nào – chẳng có chút gì là thần bí – thì điều đó cũng tuyệt đối sẽ không ảnh hưởng đến chuyện các ngươi hiểu lẽ thật, tuyệt đối sẽ không khiến các ngươi đi chệch đường. Ngược lại, chính vì Ta làm người và hành động có nguyên tắc, nên nếu các ngươi có thể mưu cầu lẽ thật, có thể làm người và hành động theo lời Ta phán một cách thật thà và có khuôn phép, thực hành theo phương hướng và mục tiêu mà Ta chỉ ra, thì sớm muộn gì cũng có ngày các ngươi sẽ được cứu rỗi, đạt đến việc thuận phục Đức Chúa Trời, trở thành một người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Có thể chắc chắn về điểm này. Chuyện có thể đạt được sự cứu rỗi chẳng phải là mục tiêu mưu cầu của người thật lòng tin Đức Chúa Trời sao? Vậy các ngươi còn mong cầu điều gì nữa? Về chuyện Ta có thần bí khó lường hay không, có cao quý hay không, có khác với người thường hay không, có những năng lực đặc biệt mà các ngươi không tưởng tượng nổi hoặc không có hay không, thì chuyện này chẳng quan trọng. Hơn nữa, nếu các ngươi cho rằng Ta bình thường và thực tế, không đáng để các ngươi sùng bái hoặc ngưỡng mộ, thì chuyện này cũng chẳng quan trọng. Chuyện gì mới quan trọng? Chính là những lời mà con người nhỏ bé, con người thông thường và bình thường là Ta đây phán ra có thể bảo đảm đưa các ngươi đến trước mặt Đức Chúa Trời, và bảo đảm cho các ngươi đạt được sự cứu rỗi. Còn có một chuyện chắc chắn nữa, nếu các ngươi thực hành và trải nghiệm theo những lời Ta phán này, thì bảo đảm sẽ có ngày tư tưởng, quan điểm và tâm tính sự sống của các ngươi đạt đến sự thay đổi, và các ngươi sẽ trở thành một loài người mới. Ngươi có thể trở thành một thành viên trong nhân loại mới, Ta có thể chắc chắn như vậy, còn các ngươi có chắc chắn không? (Thưa, chắc chắn.)
Bây giờ các ngươi đã có được một vài nhận thức mới về những biểu hiện của sự bình thường và thực tế nơi Đức Chúa Trời nhập thể rồi phải không? (Thưa, phải.) Nếu các ngươi đã thấy rằng cách làm người và hành động của Ta, cùng tư tưởng và quan điểm của Ta đều ở trong phạm vi bình thường và thực tế, hơn nữa, nếu nguyên tắc hành động của Ta, cùng tư tưởng, quan điểm của Ta có thể ảnh hưởng đến các ngươi bất kỳ lúc nào, và các ngươi cũng sẵn lòng tiếp nhận, vậy thì Ta khẳng định một câu: Các ngươi yêu thích lẽ thật như vậy, có thể tìm kiếm lẽ thật từ những biểu hiện bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể, còn có thể tiếp nhận nguyên tắc làm người và tư tưởng, quan điểm trong các phương diện khác nhau của Ngài, thì việc mưu cầu và phương hướng làm người của các ngươi sẽ tự nhiên phát triển theo chiều hướng tốt. Như vậy cũng có nghĩa là các ngươi càng tin thì càng có nhân tính bình thường, càng tin thì càng có thể sống thể hiện ra hình tượng giống con người và càng tiệm cận những yêu cầu của Đức Chúa Trời, cuối cùng đạt được sự cứu rỗi. Chuyện ngươi có được dạng thu hoạch này liên quan trực tiếp đến sự chăm tưới và cung ứng của Đức Chúa Trời nhập thể, con người thông thường và bình thường này. Nếu ngươi có thể tiếp nhận, còn có thể yêu thích những thực chất và biểu hiện bình thường, thực tế của Đức Chúa Trời nhập thể, cùng phương hướng làm người và tín điều của Ngài, thì biểu hiện và nhân tính của các ngươi sẽ ngày càng tốt hơn. Ngày càng tốt hơn nghĩa là gì? Nếu nói ngươi ngày càng giống người tốt, thì có lẽ có chút sáo rỗng. Cái “ngày càng tốt hơn” này nghĩa là lương tâm và lý tính của ngươi sẽ phát triển theo chiều hướng tốt. Nhưng nếu ngươi xem thường hoặc thấy phản cảm, thậm chí là kỳ thị, không tiếp nhận, còn chống đối và chế giễu sự bình thường, thực tế và thông thường của Đức Chúa Trời nhập thể, thì ngươi sẽ rất khó tiếp nhận hết thảy lẽ thật mà Đức Chúa Trời nhập thể bày tỏ, rất khó lý giải được ý nghĩa và ảnh hưởng thực tế của nhân tính bình thường mà Đức Chúa Trời nhập thể có. Ngược lại, ngươi còn chán ghét và thù hận hết thảy lẽ thật được Đức Chúa Trời bày tỏ khi ở trong nhân tính bình thường. Như vậy thì ngươi sẽ rất khó sống thể hiện ra được hình tượng giống con người bình thường và trở thành người làm Đức Chúa Trời hài lòng, bởi vì những thứ ngươi sùng bái chẳng phải là điều tích cực, mà là điều tiêu cực. Những người nổi tiếng và ngôi sao trong xã hội, cùng trào lưu của xã hội, đều là đối tượng khao khát và sùng bái của ngươi. Vậy thì con đường mà ngươi đi là con đường sai lầm. Về phương hướng mưu cầu và phát triển của ngươi, thì có một điều chắc chắn, đó là ngươi sẽ không phát triển theo chiều hướng tốt, thay vào đó sẽ phát triển theo chiều hướng xấu. Chẳng hạn như, Ta nói rằng Ta không tính kế với người khác, thế mà có người bảo: “Ngài không tính kế với người ta, vậy làm sao Ngài làm được công tác lớn như vậy chứ? Qua lại và giao thiệp giữa người với người thì phải tính kế. Ngài mà không biết tính kế thì chẳng đùa bỡn được người ta, như vậy thì không làm được công tác đâu”. Ta nói cho mà biết, ngươi có thể nói ra lời đó thì ngươi tiêu tùng rồi. Tư tưởng và quan điểm của ngươi không chỉ lệch lạc, mà còn tà ác. Con người ngươi không thể nào đi trên con đường thật, bởi vì trong nhân tính của ngươi thiếu mất yếu tố yêu thích lẽ thật và yêu thích những điều tích cực. Ngươi không thể nào đi lên con đường được cứu rỗi đâu.
Khi Ta trao đổi trong nhân tính bình thường, thì sẽ thường xuyên xuất hiện vấn đề là trao đổi không được trôi chảy. Không trôi chảy là nói đến điều gì? Là có những lúc Ta qua lại và tán gẫu rất bình thường với người ta, thế mà người ta cứ nghĩ cho phức tạp và phiền phức lên, rồi sau đó chẳng có cách nào trao đổi tiếp được nữa. Không có cách nào trao đổi tiếp nữa thì nên làm sao? Thì Ta không qua lại với người đó nữa. Thấy ai có thể qua lại, thấy ai biết trao đổi, biết tán gẫu, ai có tư duy của nhân tính bình thường, thì Ta tìm người đó mà tán gẫu và qua lại. Khi tiếp xúc với các ngươi, trường hợp mà Ta hay gặp nhất chính là người ta có cảm giác: “Thân phận và địa vị của Ngài ảnh hưởng quá lớn đến việc nói chuyện và trao đổi với người khác. Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể, còn chúng con là loài người thọ tạo. Chúng con mà nói sai gì thì dễ thành đứng ở địa vị ngang hàng và xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể, Ngài làm công tác cứu rỗi nhân loại, Ngài đại diện cho chính Đức Chúa Trời, cho nên trách nhiệm hoặc công tác mà Ngài làm chỉ có thể là bày tỏ lẽ thật để giải quyết vấn đề về việc cứu rỗi nhân loại bại hoại. Ngài chỉ nên bàn luận về công tác, về những chủ đề phát xuất từ thần tính, chứ Ngài không thể bàn luận về cuộc sống của con người bình thường – những vấn đề như chuyện ăn, mặc, ở, đi lại – hoặc bàn về người này người kia như thế nào. Nếu Ngài bàn luận về những chuyện đó, thì chính là Ngài đang xét đoán người ta hoặc là có dụng tâm”. Bởi vì có những quan niệm này, nên người ta xem Đức Chúa Trời nhập thể không phải là người. Do đó, khi tiếp xúc và qua lại với những người không có tư duy bình thường và nhân tính bình thường đó, mà Ta bàn luận chút chuyện thường ngày, chút chuyện ăn, mặc, ở, đi lại, thì có một số người sẽ vạch ra một lằn ranh, nói rằng: “Bàn mấy chuyện đó thì có ích gì chứ? Mấy chuyện đó cũng đâu có tính thuộc linh! Hơn nữa, Ngài bàn mấy chuyện đó thì chẳng phải là có dụng tâm sao?”. Nếu Ta bàn luận về tình hình của người nào đó, thì có người sẽ ngẫm nghĩ: “Đây chẳng phải là ở sau lưng mà xét đoán và tính kế với người ta sao? Chẳng phải là có ý gì đó với người này sao? Là muốn đề bạt hay muốn đào thải người này đây? Là muốn tiếp tục sử dụng hay là muốn đuổi người này đây?”. Nếu Ta bàn luận về vấn đề của người nào đó, thì có người sẽ cảm thấy: “Có phải Ngài không thích người này, thấy ác cảm với người này không? Có phải người này đã làm việc gì đó làm tổn thương Ngài không? Có phải người này đã nói gì đó, làm gì đó đắc tội với Ngài không?”. Nhất là khi bàn về chủ đề nhạy cảm liên quan đến lãnh đạo và người làm công, có một số người càng không dám bàn luận, họ nói rằng: “Ngài bàn luận về những chủ đề này là vì công tác, nhưng chúng con không bàn luận với Ngài đâu. Đây là chủ đề nhạy cảm, một khi chúng con nói không chính xác thì Ngài sẽ vạch trần và tỉa sửa chúng con, nhìn ra được sự bộc lộ bại hoại của chúng con và lưu lại ấn tượng không tốt về chúng con. Như vậy thì không thích hợp”. Còn có những lúc Ta bàn về một vài chủ đề, chẳng hạn như Ta hỏi: “Trong nhà các ngươi có ai tin Đức Chúa Trời không?”. Đây là chủ đề nhạy cảm ở Trung Quốc đại lục. Nhưng ở Trung Quốc đại lục mà đã giao thiệp trong thời gian tương đối lâu và quen biết nhau rồi, thì câu này cũng không phải là chủ đề nhạy cảm, ra nước ngoài rồi thì càng không phải là chủ đề nhạy cảm gì. Nhưng khi Ta hỏi về chủ đề này, có người còn không dám trả lời, họ sẽ ngẫm nghĩ: “Hỏi xem trong nhà mình có ai tin Đức Chúa Trời không, thì chẳng phải là đang điều tra gốc gác của mình sao?”. Ta hỏi họ: “Hội thánh địa phương của các ngươi có bao nhiêu người? Lãnh đạo hội thánh là ai?” thì họ nghĩ: “Trời ạ, đây chẳng phải là muốn nắm tình hình hội thánh sao? Con không được nói cho Ngài biết. Con nói ra rồi mà bị lãnh đạo hội thánh biết thì sẽ phiền phức lắm!”. Ngươi xem, bàn về chuyện của hội thánh mà họ cũng đề phòng, không dám bàn. Rất nhiều người không dám bàn về chủ đề liên quan đến lãnh đạo hội thánh hay công tác của hội thánh, không dám có gì nói nấy một cách tự do, thoải mái. Một nguyên nhân chủ yếu nhất chính là họ sợ làm lộ tình hình của hội thánh, đắc tội với lãnh đạo và người làm công, đồng thời cũng sợ mình vô ý để lộ tư tưởng và quan điểm của bản thân, rồi bị tỉa sửa hoặc vạch trần, họ đâu muốn bị như vậy. Do đó, khi Ta tiếp xúc và qua lại với người ta, kể cả là trao đổi thông thường thì rất nhiều lần cũng chẳng thể trôi chảy được. Nếu là qua lại và xử lý công chuyện với người ngoại đạo có tâm tư và bối cảnh phức tạp, thì xử lý công chuyện xong là Ta vội vã rời đi, không thể tạo mối thâm giao, không thể tiếp xúc gần gũi với họ. Nhưng khi qua lại với các anh chị em, Ta thấy đại đa số mọi người cũng như vậy, không thể tiếp xúc gần gũi, không thể tạo mối thâm giao. Đâu phải Ta ăn trên ngồi trốc, không sẵn lòng qua lại với đa số mọi người, mà là ngược lại, khi Ta tiếp cận hoặc tiếp xúc với họ thì họ lại vô thức tránh né hoặc trốn tránh Ta. Tại sao lại muốn trốn tránh Ta? Nếu ngươi nói sai, Ta cũng đâu định tội ngươi, cũng đâu làm quá chuyện đó lên. Nếu ngươi là lãnh đạo hoặc người làm công, thì chúng ta sẽ thông công về lẽ thật, ngươi không hiểu điều gì thì chúng ta sẽ chuyện trò về điều đó. Nếu ngươi là anh chị em thông thường, và ngươi thực sự nói sai gì đó, có tư tưởng và quan điểm sai lầm nào đó, thì còn phải xem Ta có sẵn lòng nói chuyện với ngươi không. Nếu Ta thấy ngươi có tố chất kém, không có năng lực lĩnh hội, chuyện gì cũng không nhìn thấu, thì Ta sẽ không muốn tán gẫu với ngươi, cho dù có tán gẫu thì cũng chẳng có được kết quả gì. Nhưng nếu ngươi có tố chất tốt, có năng lực lĩnh hội, có thể nhìn thấu vài chuyện, thì Ta tán gẫu với ngươi còn có thể đem lại vài thành quả, và không nói chuyện phí công. Bất kể tán gẫu chuyện gì với người ta, bất kể phát hiện vấn đề gì, thì trong lòng Ta, thứ nhất là không định tội, thứ hai là không rủa sả, thứ ba là không quy định kết cục của người ta. Hành động kiểu đó là vô căn cứ, mà Ta không làm việc ngu xuẩn đâu. Xét về nhân tính bình thường, có những lúc gặp người quen, thì Ta muốn chuyện trò, tán gẫu một chút. Nếu ngươi sẵn lòng nói chuyện thì Ta sẽ nói với ngươi, nếu ngươi không sẵn lòng nói chuyện thì Ta không ép ngươi. Có những người sợ tán gẫu với Ta, bất kể Ta nói gì, họ cũng đề phòng Ta và không dám bày tỏ quan điểm, rất sợ lỡ nói sai thì Ta sẽ nắm được thóp của họ. Nếu thấy ngươi không sẵn lòng nói lời thật lòng, thì Ta sẽ dừng lại đúng lúc. Nếu ngươi luôn đề phòng Ta, luôn sợ Ta tính kế với ngươi, vậy thì Ta chẳng có tâm tư để nói chuyện với ngươi. Các ngươi nói xem, lý tính của Ta như vậy thì có bình thường không? (Thưa, bình thường.) Ta nói chuyện và trao đổi với ai cũng đều có bối cảnh cả. Chẳng hạn như, nếu ngươi phụ trách chăn nuôi ở nông trại thì chúng ta sẽ nói về chuyện chăn nuôi. Nếu ngươi là lãnh đạo hội thánh thì chúng ta sẽ nói về chuyện của hội thánh, chuyện về anh chị em, về tình hình hiện tại của anh chị em như thế nào, đời sống hội thánh ra sao. Nếu ngươi là người làm chứng và rao truyền phúc âm, thì chúng ta sẽ nói về công tác phúc âm. Như vậy là qua lại với người khác trong phạm vi nhân tính bình thường, cũng là công tác của Ta. Có một vài chuyện không liên quan đến công tác của hội thánh, nhưng cũng là sự vụ của nhà Đức Chúa Trời, khi gặp nhau mà tán gẫu về những chuyện này là rất bình thường. Ngươi xử lý công chuyện và làm bổn phận ở trong nhà Đức Chúa Trời mà gặp mặt Ta thì Ta sẽ chào hỏi và tán gẫu với ngươi, xem ngươi có khó khăn gì không. Có những lúc đang tán gẫu thì Ta hỏi: “Hai hôm nay trời trở lạnh, phòng ngươi có lạnh không?”. Có một số người không sẵn lòng nghe, trong lòng ngẫm nghĩ: “Chúng con đều là người trưởng thành, còn cần Ngài quản à?”. Vậy là làm ơn mắc oán, phải không nào? Có lúc, Ta đến phòng bếp thì hỏi: “Rau hôm nay thế nào? Có đủ ăn không? Các ngươi thích ăn rau nào, món nào?”. Đây đều là chuyện bình thường phải không? (Thưa, phải.) Nhưng lòng người quá phức tạp, có những lúc qua lại và giao tiếp bình thường mà cũng không thể trôi chảy, nguyên nhân là gì? Chính là người ta luôn sợ để lộ vấn đề, luôn sợ để lộ tình hình thực sự của mình. Còn có người lại sợ cái gì? “Nếu con để lộ tình hình thực sự của mình, thì lúc nhóm họp và giảng đạo, Ngài sẽ vạch trần con, biến con thành cái bia”. Biến ngươi thành cái bia thì không được sao? Nhắm vào vấn đề của ngươi mà thông công về lẽ thật thì vừa hay giải quyết được vấn đề của ngươi, vậy chẳng phải ngươi được lộc trời cho hay sao? Chẳng phải ngươi may mắn sao? Đây là chuyện tốt, chứng tỏ Ta chú trọng ngươi, xem trọng ngươi. Có đúng vậy không? Nếu Ta không để ý ngươi, trong lòng không có ngươi, phát hiện ra vấn đề của ngươi mà cũng chẳng màng đến, chẳng hướng dẫn hay thông công cho ngươi, vậy thì ngươi có thể hiểu lẽ thật và giải quyết được vấn đề hay sao? Trong lòng ngươi muốn như vậy à? Nếu như vậy mà ngươi hài lòng, còn nghĩ rằng: “Mọi vấn đề Đức Chúa Trời vạch rõ đều không liên quan đến mình, chứng tỏ mình không có vấn đề”, ngươi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời kiểu như vậy thì không phải là người tin Đức Chúa Trời rồi. Có những người tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà chẳng bao giờ tiếp nhận bất kỳ sự tỉa sửa nào, cũng chẳng bao giờ làm vật làm nền, thế mà họ còn cảm thấy rất vinh hạnh, cho rằng bản thân rất tốt, chẳng có vấn đề và chắc chắn có thể được cứu rỗi. Như vậy chẳng phải rất phiền phức sao? Dạng người như vậy chắc chắn không thể được cứu rỗi.
Người có tư duy của nhân tính bình thường mà giao tiếp và qua lại với người khác trong nhân tính bình thường thì sẽ biết tuân theo cảm giác của lương tâm và lý trí trong nhân tính bình thường. Có được cảm giác này rồi, thì khi đối đãi với người khác, họ sẽ có ranh giới tối thiểu và nguyên tắc. Khi trò chuyện và qua lại với người khác trong tư duy của nhân tính bình thường, thì một mặt, ngươi sẽ khiến người khác cảm thấy ngươi là người có tri giác của lương tâm trong nhân tính; mặt khác, hành động của ngươi cũng sẽ có chừng mực, không khiến người khác phải ghét. Một điểm quan trọng khác là khi trao đổi và tương tác với người khác, ngươi sẽ khiến họ đạt được lợi ích từ những lời ngươi nói ra và thu hoạch được những điều mà nhân tính cần đến. Như vậy gọi là qua lại và trao đổi. Trao đổi là gì? Nói một cách thông tục, thì chính là tán gẫu và nói chuyện phiếm. Đa số mọi người không biết cách tán gẫu và nói chuyện phiếm. Chỉ cần mở miệng nói một câu thôi là dễ sinh tranh cãi, đấu khẩu với nhau, hoặc khoe khoang bản thân và dạy dỗ người khác để khiến người khác phải nghe theo mình. Người có chút tài ăn nói thì thích làm thầy mà dạy dỗ người khác. Những biểu hiện như thế đều là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại. Người có tâm tính bại hoại thì sẽ không thể tán gẫu và nói chuyện phiếm một cách bình thường với người khác được. Dù có lúc nhất thời nói chuyện bình thường đi nữa thì họ cũng chẳng thể duy trì lâu dài; chẳng biết khi nào lại tranh cãi, tranh thể diện đến mức đỏ mặt tía tai và hăng máu tột độ. Như vậy thì đâu phải là tán gẫu và nói chuyện phiếm một cách bình thường nữa. Tán gẫu và nói chuyện phiếm bình thường tuyệt đối không phải là tranh cãi đúng sai hay tranh chấp cãi cọ, càng không phải là xét đoán hay định tội người khác. Chúng ta hãy định nghĩa về tán gẫu. Tán gẫu nghĩa là trao đổi và chia sẻ thông tin, như vậy gọi là tán gẫu. Định nghĩa như vậy có chính xác không? (Thưa, chính xác.) Chính xác ở chỗ nào? Trao đổi và chia sẻ thông tin được thiết lập trên nền tảng của lương tâm và lý tính trong nhân tính bình thường. Ngươi xem, người có lương tâm và lý trí thì tán gẫu và trao đổi như thế nào? Họ không tranh cãi, lại còn có thể tôn trọng lẫn nhau và đem lại ích lợi cho nhau. Nghe lời chia sẻ của đối phương rồi, thì họ có thể thu được một vài thông tin mới từ trong đó, rồi đến lượt họ nói lại một vài thông tin mà mình biết cho đối phương, để đối phương cũng được ích lợi và phát triển sự từng trải, kiến thức, cùng hiểu biết trong nhân tính. Dựa trên nguyên tắc tôn trọng đối phương, chung sống hòa hợp và bình đẳng với đối phương, mà chia sẻ những thông tin mình biết cho đối phương, sau đó cũng thu được những thông tin mà đối phương chia sẻ cho mình – như vậy chẳng phải là giúp đỡ lẫn nhau sao? Điều này được xây dựng trên nền tảng là bình đẳng, hỗ trợ, hòa hợp và công bằng, vậy mới gọi là trao đổi và tán gẫu. Các ngươi nói xem, định nghĩa của Ta có chính xác không? (Thưa, chính xác.) Dựa trên nguyên tắc này mà thực hành tán gẫu và trao đổi thì sẽ đúng đắn. Nếu trao đổi và tán gẫu mà lại đầy những chuyện tính kế, tranh cãi, tranh đấu, âm mưu, quỷ kế, cạm bẫy, thử thách, và nếu những gì bộc lộ ra đều là tâm tính hoại hoại, đều là áp chế lẫn nhau, ai cũng khoe khoang bản thân mình, đều so bì với nhau, tranh xem ai nói cao hơn, ai nói nhiều hơn – như vậy thì không phải là trao đổi bình thường, không phải là trao đổi trong phạm vi lương tâm và lý tính của nhân tính bình thường. Trao đổi như vậy thì không phải trao đổi và chia sẻ thông tin, mà là tranh giành cấu xé và đấu khẩu với nhau rồi. Phải vậy không? (Thưa, phải.)
Muốn đạt đến việc trao đổi với người khác mà không tính kế, thì ngươi phải học cách trao đổi trong phạm vi lương tâm và lý tính của nhân tính bình thường. Mục đích trao đổi là để giúp đỡ người khác, đồng thời cũng để bản thân có được sự giúp đỡ và lợi ích từ đối phương. Như vậy chính là sự trao đổi bình thường. Trao đổi như vậy thì sẽ có thể đạt đến việc không tính kế. Ngươi xem, người ngoại đạo mà trao đổi và tán gẫu thì có thể đạt đến hiệu quả trao đổi bình thường không? (Thưa, không thể.) Nhân loại bại hoại mà trao đổi và tán gẫu, thì nội dung, xuất phát điểm và ngữ khí trong sự trao đổi của họ có bình thường không? (Thưa, không.) Họ mà trao đổi thì đơn giản là như đấu gà, đấu chó vậy. Sự trao đổi giữa họ có thể đạt đến trôi chảy không? (Thưa, không thể.) Họ không muốn tính kế hoặc tranh cãi với người khác cũng không được. Trao đổi thì buộc phải có lòng yêu thương, có lòng giúp đỡ lẫn nhau và bổ sung cho nhau, thì mới có thể trôi chảy được. Ta trao đổi và tán gẫu với các ngươi mà chỉ có Ta không tính kế thì không ổn, các ngươi cũng phải thực hành theo nguyên tắc này, không tính kế, không nghi kỵ. Bản thân Ta không tính kế, nhưng các ngươi cứ luôn tính kế, không những bản thân các ngươi tính kế mà trong lòng còn suy đoán rằng Ta đang tính kế – vậy thì khi chúng ta trao đổi với nhau sẽ không thể nào trôi chảy, cũng không đạt được sự tương tác thực sự và có ích, không đạt được sự chung sống hòa hợp. Có những người thấy Ta đến thì nhanh chóng tìm chỗ trốn. Nếu thực sự trốn không được, thì phải miễn cưỡng chào hỏi Ta, nhưng trong lòng lại chẳng muốn gặp mặt Ta. Họ nghĩ bụng: “Phiền phức thật đấy. Ngài lại đến để tìm hiểu tình hình thực tế của chúng con. Tìm hiểu rồi, Ngài lại muốn thông công về nguyên tắc lẽ thật và làm chúng con khó xử. Biết làm sao bây giờ?”. Nếu ngươi không sẵn lòng gặp mặt và qua lại với Ta, cho rằng qua lại với Ta thì nhọc lòng quá, còn luôn cảm thấy Ta muốn tính kế với các ngươi, vậy thì khi thấy bóng dáng Ta, ngươi cứ việc tránh né. Nếu ngươi cảm thấy khi qua lại với Ta thì Ta không tính kế với ngươi, và ngươi có được sự nhẹ nhõm, vui vẻ, tự do, thoải mái, thế thì chúng ta hãy gặp nhau, tán gẫu và chuyện phiếm về tình hình gần đây. Ngươi hỏi Ta: “Gần đây Ngài có khỏe không?” thì Ta sẽ trả lời đúng sự thật. Ta hỏi ngươi: “Tình hình gần đây của ngươi thế nào? Lối vào sự sống có tiến bộ không? Có thu hoạch gì trong việc làm bổn phận không?”, thì ngươi cũng có thể trả lời đúng sự thật. Như vậy thì quá tốt, mỗi lần gặp nhau đều có thể gặp trong một bầu không khí chan hòa như thế. Người ta thấy mặt Ta mà cứ trốn tránh thì không đúng đắn, vậy còn nói chuyện mà luôn tâng bốc và cố ý nịnh bợ Ta thì có đúng đắn không? (Thưa, không đúng đắn.) Tại sao không đúng đắn? (Thưa, thích nịnh bợ chính là giở trò bịp bợm. Nói năng chân thực hơn một chút và đối đãi với Đức Chúa Trời bằng tâm thái bình thường là được rồi. Một mặt, chúng con nên đối đãi chân thành với Ngài. Mặt khác, chúng con không được nịnh bợ, không được cố ý lấy lòng Đức Chúa Trời, không được cố ý bợ đỡ Ngài.) Với Ta thì chỉ có một yêu cầu thôi, lúc Ta thấy ngươi thì ngươi đừng tránh Ta, lúc Ta không tìm ngươi thì ngươi đừng bu bám Ta, nên làm gì thì cứ làm như vậy, làm sao cho mọi chuyện đều bình thường. Ta sẽ không làm ảnh hưởng đến việc các ngươi làm bổn phận, các ngươi cũng đừng làm ảnh hưởng đến Ta. Né tránh Ta hoặc bu bám Ta đều không phải là nguyên tắc cho việc tiếp xúc và qua lại với Ta. Vậy nguyên tắc là gì? Chính là phải trao đổi trong phạm vi lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, có thể đạt đến chuyện trò chân thành, có gì nói nấy, Ta hỏi ngươi cái gì thì ngươi nên nói đúng sự thật. Tại sao người ta không làm được chuyện có gì nói nấy? Chẳng hạn như, Ta hỏi ngươi: “Tháng này đi rao truyền phúc âm đã đưa về được mấy người?”, thì ngươi không muốn trả lời. Ta thấy ngươi khó xử đến vậy thì sẽ không hỏi nữa, Ta không muốn làm khó người ta, Ta chẳng bao giờ cưỡng ép người khác nói chuyện. Có những người, bất kể người khác hỏi gì, họ cũng luôn ngẫm nghĩ: “Hỏi câu này là có ý gì đây?”. Họ không muốn trả lời thẳng, luôn sợ trả lời sai thì sẽ có vấn đề. Nếu ngươi luôn suy đoán và tính kế như vậy, thì chúng ta chẳng có cách nào để trao đổi rồi. Ngươi không cần lúc nào cũng nghiên cứu xem câu mà Ta hỏi ngươi có ý gì, cũng đừng tính kế với Ta. Nếu ngươi có thể đơn thuần mở lòng nói lời thật lòng, vậy thì chúng ta có thể trao đổi với nhau rồi. Như vậy có dễ không? (Thưa, dễ.) Nói thì thấy dễ lắm, nhưng lúc thực sự làm thì có thể vẫn có chút khó khăn, không dễ như lúc nói đâu. Chẳng hạn như, có lần Ta hỏi ngươi một câu, lúc đó ngươi không nói thật, mà lại nói dối, vậy thì lần tiếp xúc và trao đổi đó thất bại rồi. Thất bại rồi thì nên làm thế nào? Đến lúc gặp lại, hãy cố gắng dám thừa nhận: “Lần trước, con đã nói dối. Từ nay về sau, con mà nói chuyện thì sẽ có gì nói nấy”. Vậy thì Ta sẽ động viên ngươi – sẽ vỗ tay cho ngươi và đưa ngón tay cái khen ngươi: Ngươi thành công trong việc thực hành lẽ thật và làm người trung thực rồi. Như vậy chẳng phải quá tuyệt sao? (Thưa, phải.)
Khi thông công về chủ đề không tính kế, thì bất kể thông công bao nhiêu ví dụ cũng là để nói với các ngươi một nguyên tắc. Các ngươi có biết là nguyên tắc gì không? (Thưa, là khi đối đãi với Đức Chúa Trời thì đừng dùng nhãn quang của nhân loại bại hoại mà đánh giá hoặc nghi kỵ Đức Chúa Trời.) Như vậy là đúng, đừng dùng nhãn quang của nhân loại mà đối đãi với Đức Chúa Trời. Vậy thì nên tuân thủ nguyên tắc nào? (Thưa, nên đối đãi với Đức Chúa Trời như Đức Chúa Trời.) Đối đãi với Đức Chúa Trời như con người thì không được sao? Đối đãi với Ngài như một người bình thường và thông thường thì không được sao? Bất kể ngươi đối đãi với Ngài như Đức Chúa Trời hay như con người, thì nguyên tắc quan trọng nhất trong sự qua lại giữa người với người chính là đối đãi chân thành với nhau. Khi nói chuyện và xử lý công chuyện với ngươi, Ta không tính kế với ngươi, ngươi cũng nên đối đãi chân thành với Ta. Vậy nếu có người tính kế với ngươi, thì ngươi cũng nên tính kế với họ sao? (Thưa, không.) Nếu có người tính kế với ngươi, thì ngươi vẫn nên đối đãi với họ theo nguyên tắc, như vậy là đúng đắn. Không phải chỉ là vì Ta không tính kế với ngươi, nên ngươi mới đối đãi chân thành với Ta, không tính kế với Ta hay nghi kỵ Ta. Mà thay vào đó, ngay cả khi có người tính kế với ngươi, ngươi vẫn có thể chiếu theo nguyên tắc lẽ thật mà hành động và xử sự, như vậy là tuân thủ nguyên tắc. Có một số người nói: “Họ tính kế với con, con không trả đũa họ mà được sao? Không cho họ biết tay một chút, cứ để họ ức hiếp con như vậy thì con chẳng chịu thiệt thòi sao? Con dễ bị ức hiếp vậy à?”. Các ngươi nói xem, lập luận này của họ có hợp lý không? Mắt đền mắt, răng đền răng, giữa người đời thì lập luận này hợp lý. Nhưng nếu đánh giá theo lẽ thật, thì lời này sai rồi. Họ tính kế với ngươi là họ hành ác, ngươi mà trả đũa lại, dùng cách như họ mà tính kế với họ, thì trong mắt Đức Chúa Trời, thực chất cả hai như nhau, đều là việc ác. Đức Chúa Trời sẽ không vì họ tính kế với ngươi mà nói ngươi trả đòn là lẽ đương nhiên, phù hợp nguyên tắc và không phải là việc ác. Đức Chúa Trời không nhìn vào lý do tại sao ngươi tính kế với họ, mà Đức Chúa Trời nhìn xem bản thân việc ngươi làm có phải là tính kế không, có phải là việc ác không, Ngài nhìn xem khi tiếp cận chuyện này, ngươi đánh giá bằng lẽ thật hay bằng quan điểm đạo đức của con người. Nếu ngươi đánh giá bằng quan điểm đạo đức của con người, thì ngươi nên “mắt đền mắt, răng đền răng”, họ tính kế với ngươi trước, cho nên ngươi dùng thủ đoạn giống họ mà trả đũa họ và tính kế với họ là hợp tình hợp lý, họ nên lãnh nhận hậu quả như vậy. Trong mắt con người, việc dùng quan điểm đạo đức của con người để đánh giá là không sai, nếu đánh giá theo luật pháp thì cũng có thể không phạm pháp, nhưng trong mắt Đức Chúa Trời thì đó là làm trái lẽ thật. Chuyện gì làm trái lẽ thật thì chính là việc ác và bị định tội trong mắt Đức Chúa Trời. Ngay cả khi ngươi trả đòn là chính đáng, Đức Chúa Trời cũng sẽ không vì ngươi trả đòn một cách hợp lý và hợp đạo đức mà không định tội ngươi. Đức Chúa Trời sẽ nhìn xem sau khi bị họ tính kế, ngươi dùng phương thức nào mà đối đãi với họ. Nếu ngươi dùng phương thức giống như họ để đối đãi với họ, thì Đức Chúa Trời sẽ định tội ngươi. Nhưng nếu ngươi đối đãi với họ theo nguyên tắc lẽ thật, đối đãi với họ công bằng và ngay thẳng theo phương thức mà Đức Chúa Trời dạy bảo, thì dù có khả năng người ta sẽ có quan niệm và lên án ngươi về mặt đạo đức, cũng có khả năng ngươi sẽ bị pháp luật kết tội, nhưng trong mắt Đức Chúa Trời, thì Ngài phán rằng việc ngươi làm là phù hợp nguyên tắc và không phải là việc ác – Ngài sẽ không định tội ngươi. Ngươi có thể làm được việc đối đãi với người ta theo nguyên tắc, thì chính là ngươi đang thực hành lẽ thật. Khi đối đãi với Đấng Christ thì đừng đối đãi theo quan niệm và tưởng tượng, đừng đối đãi theo tâm tính bại hoại, đừng đối đãi bằng âm mưu và quỷ kế. Khi đối đãi với người khác cũng nên như vậy. Khi đối đãi với Đấng Christ, con người thông thường và bình thường này, mà ngươi có thể đối đãi một cách đúng đắn, thì ngươi cũng có thể đối đãi đúng đắn với người ta. Bất kể là với người nào, ngươi cũng nên dùng thái độ đúng đắn này mà đối đãi. Như vậy thì phương thức và nguyên tắc đối đãi với người khác của ngươi sẽ đúng đắn. Nếu ngươi có sai lầm trong thái độ đối với người khác, hoặc có sai lầm trong tư tưởng và quan điểm của ngươi về chuyện đối đãi với người khác, thì ngươi cũng sẽ kịp thời dựa vào lời Đức Chúa Trời mà phản tỉnh bản thân và chỉnh đốn tư tưởng, quan điểm của mình, đồng thời liên tục đưa hành vi của mình vào khuôn phép, dần dần thì tư tưởng và quan điểm của ngươi về cách đối đãi với người khác, cùng nguyên tắc làm người và hành động của ngươi, sẽ ngày càng phù hợp với lẽ thật. Khi nguyên tắc lẽ thật trở thành sự sống của ngươi, thì ngươi sẽ thoát khỏi tâm tính bại hoại, sẽ đạt được sự biến đổi, và ngươi sẽ có thể đối đãi với người khác một cách công bằng, ngay thẳng và phù hợp tâm ý của Đức Chúa Trời. Nếu đối phương không tính kế với ngươi, thì ngươi cảm thấy mình không nên tính kế với họ. Nhưng nếu đối phương tính kế với ngươi, mà ngươi vẫn có thể không tính kế với họ, thay vào đó có thể tìm kiếm lẽ thật và đối đãi với họ theo nguyên tắc lẽ thật, vậy đó chẳng phải là có sự tiến bộ sao? Đấy chẳng phải là sự biến đổi sao? (Thưa, phải.) Nếu đối phương tính kế với ngươi, mà ngươi cũng muốn tính kế với họ, vậy chẳng phải con đường ngươi đi so với con đường người ta đi cũng giống hệt nhau sao? Thế thì ngươi có gì khác biệt với người đời chứ? Quan điểm nhìn nhận con người và sự việc, làm người và hành động của ngươi chẳng thay đổi, chẳng dựa trên lời Đức Chúa Trời, cũng chẳng dựa trên nguyên tắc lẽ thật, mà lại dựa trên nguyên tắc của người đời: Ai tính kế với ngươi thì ngươi tính kế với họ, mắt đền mắt, răng đền răng. Như vậy thì ngươi chẳng khác biệt gì với người đời và người ngoại đạo. Nếu bất kể đối phương có tính kế với ngươi hay không, ngươi đều không tính kế với họ, thay vào đó có thể dựa trên lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật mà đối đãi với họ, vậy thì lập trường và góc độ này đúng đắn rồi, vậy chính là thực hành lẽ thật. Trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Jêsus nói với người ta điều gì? Người ta vả má phải ngươi, thì ngươi làm thế nào? (Thưa, Đức Chúa Jêsus phán: “Nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ luôn…” (Ma-thi-ơ 5:39).) Có một số người nói: “Họ vả con, thì con phải vả lại! Họ vả má trái của con thì con cũng vả má trái của họ, họ vả má phải của con thì con cũng vả má phải của họ. Về mặt đạo đức và pháp luật thì làm vậy không bị kết tội”. Đức Chúa Trời phán: “Sai rồi, họ vả má trái của ngươi, thì hãy đưa cả má phải cho họ, đừng trả đòn”. Ngươi có thể làm được vậy không? Bất kể trong mắt con người, những yêu cầu của Đức Chúa Trời có thể tiếp nhận được hay không – có khả năng có một số người thấy đó là câu nói ngu muội và cách làm ngu xuẩn – nhưng đó là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với ngươi. Ngươi có làm được hay không? Ngươi nói: “Con không làm được. Họ vả má trái của con thì buộc phải vả lại, không thì nhân cách và tôn nghiêm của con sẽ không còn, sẽ mất hết mặt mũi”. Bất kể câu ngươi nói đó có thể đứng vững được giữa nhân loại bại hoại này hay không, nếu trong mắt Đức Chúa Trời, Ngài thấy câu này của ngươi sai lầm, quan điểm của ngươi sai lầm, và hành vi của ngươi sai lầm, vậy thì trong mắt Đức Chúa Trời, hành vi này của ngươi bị định tội. Vì nguyên nhân gì mà bị định tội? Vì ngươi không nghe lời Đức Chúa Trời, không tuân theo con đường của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bảo ngươi rằng có người vả má trái thì ngươi hãy đưa cả má phải ra, ngươi đã làm được chưa? Đức Chúa Trời chỉ hỏi ngươi rằng: Ngươi có nghe lời Đức Chúa Trời không? Có thực hành theo những gì Đức Chúa Trời dặn dò không? Nếu ngươi không thực hành như vậy, thì ngươi không tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, và ngươi là người phản nghịch Đức Chúa Trời, ngươi chẳng phải là người thực hành lẽ thật, chẳng phải là người nhìn nhận sự việc và làm người theo lời Đức Chúa Trời. Vậy thì Đức Chúa Trời sẽ không thích ngươi, và ngươi không phải là người được Đức Chúa Trời chấp thuận. Trong mắt Đức Chúa Trời, cái vả trả đòn đó của ngươi là việc ác. Cũng có khả năng ngươi mãi mãi cho rằng làm vậy là lẽ đương nhiên, là một phương tiện tất yếu để bảo vệ tôn nghiêm và quyền lợi của mình. Nhưng trong mắt Đức Chúa Trời, thì cái vả đó có nghĩa là ngươi đã không tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, cũng không muốn tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, có nghĩa là ngươi không nghe lời Đức Chúa Trời và trong mắt ngươi thì lời Đức Chúa Trời là một đạo lý, một lời sáo rỗng. Ngươi chỉ rao giảng lời Đức Chúa Trời chứ chẳng bao giờ thực hành. Đức Chúa Trời sẽ xác định tính chất ngươi là người không tuân theo con đường của Ngài, vậy thì ngươi còn có thể được Ngài chấp thuận sao? Ngươi không tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, thì lời Đức Chúa Trời mãi mãi sẽ không thể trở thành sự sống của ngươi. Ngay cả khi ngươi nói lý lẽ của mình nhiều đến đâu, thì đối với Đức Chúa Trời, Ngài cũng không nghe. Ngài sẽ không phán: “Người khác vô duyên vô cớ vả má trái của ngươi, ngươi thật đáng thương. Để bảo vệ tôn nghiêm của mình, ngươi có thể vả lại. Khi vả lại rồi thì ngươi có thể cầu nguyện và thú tội. Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho ngươi, sẽ không định tội ngươi”. Đức Chúa Trời đâu có phán như vậy. Đức Chúa Trời phán rằng có người vả má trái ngươi thì hãy đưa cả má phải ra cho họ. Ngươi làm được như vậy thì ngươi chính là người tuân theo con đường của Đức Chúa Trời. Còn ngươi không làm được như vậy, thì trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi là người phản nghịch Ngài, là người không thực hành lời Ngài, không tuân theo con đường của Ngài, và ngươi chính là kẻ ác. Đức Chúa Trời có thái độ thế nào với kẻ ác? Đức Chúa Trời phán: “Hãy lui ra khỏi Ta! Ta chẳng biết các ngươi”. Đức Chúa Trời không muốn dạng người này. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Đối với chuyện tính kế cũng vậy. Ngươi nói: “Họ tính kế với con, vậy con tính kế với họ thì có gì sai?”. Ngươi tính kế với người khác thì là sai rồi, sai ở chỗ nào? Sai ở chỗ bản thân việc tính kế đã là việc ác, chứ chẳng phải việc lành. Do đó, họ tính kế với người khác thì Đức Chúa Trời định tội họ, ngươi mà làm việc giống vậy thì Đức Chúa Trời cũng định tội ngươi y như vậy. Làm thế nào mà không phải là tính kế, làm thế nào mà được Đức Chúa Trời chấp thuận, thì ngươi nên làm thế ấy. Bổn phận của ngươi là thực hành theo con đường và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời đã phán cho ngươi, chứ không phải là nói lý lẽ của mình, không phải là bảo vệ tôn nghiêm và thể diện cá nhân. Thể diện, địa vị và tôn nghiêm cá nhân của ngươi đều không quan trọng. Chuyện gì mới quan trọng? Quan trọng là liệu lời Đức Chúa Trời đã được thực hiện nơi ngươi chưa, lời Đức Chúa Trời đã trở thành sự sống của ngươi chưa, ngươi đã sống thể hiện ra lời Đức Chúa Trời và lời Đức Chúa Trời đã được hoàn thành nơi ngươi chưa. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Có người nói: “Họ chửi con, thì con cũng chửi họ”. Nói vậy có đúng không? (Thưa, không đúng.) Còn có người nói: “Họ luôn so đo với con, vậy tại sao con không được so đo với họ? Con không so đo thì chẳng cho thấy là con ngốc sao?”. Chuyện người khác nhìn nhận thế nào quan trọng đến vậy sao? (Thưa, không quan trọng.) Người ta luôn so đo về thể diện, luôn sợ người khác xem mình là ngốc, xem mình là ngu. Thực ra người khác nhìn nhận ngươi thế nào đều không quan trọng. Cái gì mới quan trọng? Khi họ thấy ngươi ngốc, thấy ngươi ngu và chế nhạo ngươi, thì ngươi phản ứng thế nào? Ngươi phản ứng bằng huyết khí, bằng biện pháp và thủ đoạn của con người, hay là phản ứng theo nguyên tắc mà Đức Chúa Trời phán với ngươi? Ngươi có thực hành theo lời Đức Chúa Trời không? Ngươi có giữ vững bổn phận của mình không? Chỉ vì người ta chế nhạo ngươi ngốc, mà ngươi nổi nóng lên, bỏ ngang việc đang làm, “Anh thấy tôi ngốc, thì tôi không làm nữa!”. Ngươi đâu có làm cho họ. Ngươi mà bỏ ngang, không làm bổn phận nữa, thì Đức Chúa Trời sẽ nói gì? “Vì người khác nói ngươi ngốc mà ngươi từ bỏ bổn phận Ta giao cho ngươi. Như vậy thì ngươi không có lòng trung thành!”. Đức Chúa Trời sẽ nhìn nhận như thế. Nếu trong lòng ngươi thực sự có Đức Chúa Trời và ngươi thực sự có lòng trung thành với Ngài, mà có ai cười nhạo ngươi ngốc, thì trước tiên ngươi sẽ ngẫm nghĩ: “Anh nói tôi ngốc, nói tôi ngu và cười nhạo tôi sau lưng. Tôi sẽ không tranh cãi hay so đo với anh đâu. Tôi ngu muội, có tố chất kém, nhưng Đức Chúa Trời nâng cao tôi, không chê ghét tôi. Bổn phận này của tôi đâu phải do anh cho, mà là do Đức Chúa Trời ban cho tôi, là sự ủy thác của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Anh có xem trọng tôi hay không cũng chẳng sao cả. Tôi làm bổn phận cũng đâu phải để cho anh xem. Làm bổn phận này là thiên chức của tôi. Tôi phải làm bổn phận cho tốt, phải trung thành với Đức Chúa Trời. Tôi phải trân quý bổn phận này, không phụ lòng nâng cao và tín nhiệm của Đức Chúa Trời, phải trung thành với bổn phận. Tôi không thể vì anh nói tôi ngốc mà từ bỏ bổn phận, như vậy là tôi phụ lòng Đức Chúa Trời, đó mới là ngốc thực sự”. Suy nghĩ như vậy thì có phù hợp với nguyên tắc không? Như vậy chẳng phải là buông bỏ huyết khí sao? Như vậy chính là không đối đãi theo huyết khí. Chừng nào có thể làm như vậy thì các ngươi sẽ thực sự có sự biến đổi và vóc giạc. Ngươi sẽ không chịu sự kìm kẹp của con người, sự việc và sự vật. Bất kể trong tình huống nào, ngươi cũng sẽ ghi khắc lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật trong lòng, không đối đãi với bất kỳ chuyện gì theo huyết khí, cảm xúc, tâm trạng, hay là sở thích, dục vọng và dã tâm cá nhân. Lời Đức Chúa Trời là điều cao nhất và lớn nhất trong lòng ngươi, khi gặp chuyện gì, ngươi cũng sẽ tìm kiếm lời Đức Chúa Trời trước hết: “Lời Đức Chúa Trời phán thế này, vậy thì mình sẽ giữ chặt những lời này. Người khác thấy mình ngốc hay không cũng chẳng quan trọng, quan trọng là Đức Chúa Trời nhìn nhận mình thế nào. Mặc dù mình ngu muội và có tố chất kém, nhưng Đức Chúa Trời vẫn giao một bổn phận cho mình làm. Vậy mình đã được hưởng sự nâng cao rất lớn từ Đức Chúa Trời. Đây chính là phúc lành!”. Nếu có thể dựa vào lời Đức Chúa Trời để đối đãi với những chuyện quanh mình, thì ngươi sẽ biết biết cách thực hành phù hợp với nguyên tắc lẽ thật.
Chúng ta hãy tiếp tục nói về chuyện không tính kế. Trong cuộc sống thường nhật, người ta thường bị người khác tính kế trong đủ thứ chuyện mình gặp phải. Có người tranh danh đoạt lợi với ngươi, có người tranh luận đúng sai với ngươi, có người thậm chí vì một câu nói mà tranh cãi với ngươi, có người ở sau lưng xét đoán ngươi và ngầm phá hoại ngươi; còn có những người gài bẫy hại ngươi và giở trò vô lại với ngươi. Đối diện với đủ loại chuyện tính kế của người khác, ngươi đối đãi như thế nào? Ngươi phải giữ vững một nguyên tắc là: “Bất kể người khác tính kế với mình thế nào, mình cũng không tính kế với họ; mình sẽ tránh xa họ! Mình phải hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời là gì và Ngài muốn mình rút ra được bài học nào. Mình phải giữ vững lập trường của bản thân, thực hành lời Đức Chúa Trời, và giữ vững bổn phận của mình. Cứ chiếu theo nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời mà làm thì không bao giờ sai, cũng không bao giờ chịu thiệt. Người khác có đánh giá cao mình thế nào đi nữa thì đó cũng không phải là mão triều thiên, không phải là phần thưởng, mà là hoạ!”. Ngươi giữ vững được nguyên tắc này thì sẽ có thể giữ mình khỏi hành ác, khỏi bị Đức Chúa Trời định tội. Nếu suốt đời, ngươi có thể giữ vững vị trí của loài thọ tạo, làm tròn bổn phận của loài thọ tạo, hết lòng hết ý làm tốt công tác mà Đức Chúa Trời giao phó, dốc hết tâm tư mà làm bổn phận – bất kể quên ăn quên ngủ, bất kể lao tâm khổ trí – ngươi mà làm tốt công tác do Đức Chúa Trời giao phó, đạt đến làm bổn phận đạt tiêu chuẩn, thì ngươi sẽ sống một cuộc đời có giá trị. Trong đời này, chúng ta đừng mong cầu làm đại sự, tạo dựng sự nghiệp hay tạo nên kỳ tích gì. Chúng ta chỉ là nhân vật nhỏ, nên đọc thêm lời Đức Chúa Trời, khi gặp chuyện thì tìm kiếm để hiểu lẽ thật, làm tròn trách nhiệm và làm tốt những việc mình nên làm. Chúng ta nên đạt đến phù hợp với nguyên tắc lẽ thật trong mọi chuyện; bảo đảm bổn phận mà mình làm phù hợp với nguyên tắc được yêu cầu trong sự sắp xếp công tác, và bảo đảm rằng khi xem xét kỹ xuất phát điểm, mục đích và nguyên tắc trong mỗi việc mình làm, thì chúng đều phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời, có thể chịu được sự soi xét và chịu được sự khảo nghiệm của Ngài. Hằng ngày, ngươi làm bổn phận một cách bình thường, có sự bình an vui vẻ, luôn sống trước mặt Đức Chúa Trời. Khi trong lòng có điều muốn nói với Ngài thì ngươi cầu nguyện; lúc không có lời để cầu nguyện thì trong lòng vẫn có thể gần gũi với Đức Chúa Trời, khi cầu nguyện thì ngươi sẽ được Đức Chúa Trời khai sáng, dẫn dắt, và cũng được Ngài làm cho cảm động. Ngươi cũng có thể trung thành với Đức Chúa Trời trong khi làm bổn phận, và làm người một cách đường đường chính chính. Như vậy thì quá tốt rồi! Trong cách đối đãi, giao tiếp và trao đổi với người khác, vết nhơ và vi phạm của ngươi sẽ ngày càng ít đi. Dù người khác có tính kế với ngươi thế nào, ngươi cũng không phản ứng bằng huyết khí. Mỗi lần thấy khó thắng được huyết khí của mình thì ngươi cầu nguyện với Đức Chúa Trời; khi yếu đuối, ngươi cũng cầu nguyện với Ngài. Khi Đức Thánh Linh cảm động ngươi một chút, ngươi sẽ có sức mạnh để thắng được những chuyện đó, và vượt qua rào cản đó. Mỗi lần đối diện với chuyện người khác tính kế, công kích, trả đũa v.v., thì cũng giống như ngươi đang vượt qua một rào cản, một cửa ải khó khăn vậy. Cuối cùng, nếu ngươi có thể thắng được mọi sự tính kế này, thắng được sự công kích, báo thù và tranh đấu của người khác đối với mình, không đối đãi theo huyết khí hay tâm tính bại hoại, mà trái lại có thể giữ vững nguyên tắc, vậy thì ngươi thực sự là người đắc thắng rồi. Như thế thì quá tốt! Nhưng giả sử suốt ngày ngươi sống trong huyết khí, trong tâm tính bại hoại. Ai tính kế với ngươi hoặc nói một câu khó nghe, thì ngươi đều ghi vào trong lòng, vô cùng để ý, tâm trạng kích động, hai mắt rực lửa, nổi giận đùng đùng. Hoặc khi nghe lời nào khó nghe thì ngươi bất an trong lòng, miệng mồm lở loét, chẳng thiết ăn uống, đêm không ngủ được. Thế thì ngươi xa rời Đức Chúa Trời rồi. Ngươi không sống trong huyết khí thì cũng sống trong cảm xúc, ngày ngày chìm trong đau khổ, không thể ăn uống lời Đức Chúa Trời một cách bình thường, cũng không thể làm bổn phận một cách bình thường. Lòng ngươi bị những chuyện đúng sai này tràn ngập và ràng rịt; một khi đã bị ràng rịt rồi thì rất khó để ngươi thoát ra, có khi mấy tháng cũng không thoát ra được. Nếu là chuyện lớn, chẳng hạn như chuyện hôn nhân hay kiện tụng, thì chuyện tính kế còn ghê gớm hơn nữa; ngươi bị cuốn vào những chuyện này rồi, thì mấy tháng, thậm chí mấy năm cũng chưa thoát ra được, đánh mất quãng thời gian tốt đẹp nhất trong đời. Cả đời ngươi cứ thế mà uổng phí – ngươi sẽ không làm tốt bổn phận, cũng không đạt được lẽ thật – vậy chẳng phải là ngươi phế rồi sao? Nếu suốt ngày cứ sống trong chuyện đúng sai, sống trong chuyện tính kế, tranh đấu và so đo với người khác, thì ngươi còn có thể làm tốt bổn phận được sao? Chẳng những không làm tốt được bổn phận, mà trong việc tính kế và tranh đấu, ngươi còn phạm việc ác chồng chất. Sống trong chuyện tính kế và tranh đấu giữa người với người, thì ngươi sẽ làm biết bao việc xấu, nói biết bao lời ngông cuồng, phản nghịch, trái với lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời – đó đều là lời thuộc về ma quỷ. Cho dù có những lời ngươi chưa nói ra, nhưng chúng đều đã được gia công trong đầu ngươi rồi. Trong lòng ngươi hận người khác, chửi người khác, rủa sả người khác – những điều này, Đức Chúa Trời đều thấy rõ rành rành. Đức Chúa Trời thấy ngươi khi gặp chuyện thì tính toán thế nào, lên kế hoạch ra sao, và thực hành thế nào. Sống trong những chuyện tính kế và tranh đấu này, ngươi chẳng bao giờ biết phản tỉnh bản thân và hối cải, nhận tội với Đức Chúa Trời, cũng chẳng biết tìm kiếm lẽ thật trong những chuyện này, thay vào đó cứ một mực “tận hưởng” chúng. Mặc dù thân xác và tâm hồn đều kiệt nhọc, nhưng ngươi chẳng bao giờ phản tỉnh bản thân hoặc hướng về Đức Chúa Trời mà cầu nguyện và tiếp nhận sự sửa dạy, dẫn dắt của Ngài, tiếp nhận lời Ngài vào lòng mình và để Ngài nắm quyền. Ngươi cũng chẳng bao giờ hạ quyết tâm thực hành lời Đức Chúa Trời. Như vậy chứng tỏ ngươi không phải là người thật lòng tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật. Những người thật lòng tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật thì trong lòng họ chú trọng cách thực hành lẽ thật và sống thể hiện ra hình tượng giống con người, họ xem chuyện được Đức Chúa Trời khen ngợi cao hơn bất kỳ điều gì. Như vậy thì họ sẽ có thể tránh xa chuyện tranh đấu và tính kế, lòng họ sẽ có thể thường xuyên gần gũi với Đức Chúa Trời và có thể sống trước mặt Đức Chúa Trời. Nhờ đó, kết quả làm bổn phận của họ ngày càng tốt hơn, trong lòng họ cảm thấy sống như vậy là có giá trị và có được chút cống hiến cho nhân loại, cho nên trong lòng họ có sự bình an và vui vẻ thực sự. Nhờ có thể làm bổn phận của loài thọ tạo, mà mỗi ngày họ sống đều có giá trị và ý nghĩa thực sự. Nhưng nếu ngươi sống trong đủ loại tranh đấu và tính kế, thì mỗi ngày sống của ngươi đều là đang tích lũy tội lỗi. Ngươi chẳng những không sống thể hiện ra được giá trị và ý nghĩa mà loài người thọ tạo nên có, ngược lại còn tích lũy tội lỗi cho mình về sau. Trong lòng Đức Chúa Trời, Ngài ngày càng ghét bỏ ngươi, ngày càng thất vọng về ngươi. Trong mắt Đức Chúa Trời, sự chăm lo và kỳ vọng mà Ngài dành cho ngươi đã thành công cốc. Vậy Đức Chúa Trời sẽ có tâm tình nào đối với ngươi? Nếu những việc ngươi làm khiến cho Đức Chúa Trời ngày càng thất vọng, ngày càng buồn lòng, rồi đến một ngày ngươi thực sự không chịu quay đầu và Đức Chúa Trời muốn từ bỏ ngươi, thì ngươi nói xem, việc ngươi sống và tin Đức Chúa Trời còn có giá trị hay ý nghĩa gì không? Ngươi sống còn có hy vọng gì không? Chỉ vì người khác tính kế với ngươi và xét đoán ngươi, nên để đấu tranh vì lòng kiêu hãnh và giành lại thể diện, tôn nghiêm của mình, mà ngươi chìm đắm trong chuyện tranh chấp với người ta mãi không thoát ra được và làm chậm trễ việc chính đáng. Thậm chí có lúc còn vì người khác nói một câu không dễ nghe, hoặc có ánh mắt nào đó đắc tội với ngươi và làm tổn thương thể diện cùng sự tự tôn của ngươi, mà ngươi bất mãn trong lòng, cứ dây dưa với người ta mãi không thôi. Cuối cùng thì thế nào? Ngươi phí hết thời gian quý giá vào chuyện đó, hủy hoại luôn cơ hội được cứu rỗi của mình, và chẳng đạt được chút lẽ thật nào. Kết quả là Đức Chúa Trời ghét bỏ ngươi, không còn để ý đến ngươi nữa, và ngươi hoàn toàn phế rồi. Do đó, Ta thông công những chuyện này là muốn nói với các ngươi điều gì? Chọn cách làm người và chọn phương thức làm người là điều rất quan trọng. Khi sống giữa mọi người, mỗi một người đều thường xuyên gặp phải chuyện tính kế và tranh đấu, chuyện được mất lợi ích cá nhân, gặp phải đủ loại tiếng nói khen chê, xét đoán và kết tội, mỗi một người đều gặp những chuyện này. Ta cũng đã sống trong nhân gian được mấy chục năm, đâu phải là sống trong chân không, Ta cũng đã gặp những chuyện này, nhưng lòng Ta sẽ không tính kế. Ngươi xem, Ta sống như thế nào? Những chuyện này chẳng hề ảnh hưởng chút gì đến cuộc sống hay công tác của Ta. Mỗi ngày Ta chỉ chú trọng làm công tác của Ta. Sống đến ngày hôm nay, Ta chẳng chịu sự ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài. Thân phận và địa vị của Ta, cùng giá trị bản thân của Ta trong mắt mọi người đều không bị ảnh hưởng. Không chỉ có vậy, Ta còn sợ các ngươi lầm tưởng rằng Ta rất cao quý, rất siêu phàm, rất khác với người thường. Cho nên, Ta phải nói thật cụ thể một vài ví dụ thực tế về sự bình thường, thực tế và thông thường của Ta, để các ngươi khỏi sùng bái Ta, khỏi có một vài tưởng tượng và quan niệm không thực tế về Ta. Chỉ sau khi Ta nói những chuyện này, vài người mới thấy được Ta chỉ là một người thông thường và bình thường, rồi họ lãnh đạm với Ta. Ta chẳng để tâm chuyện này, chỉ cần ngươi có thể tiếp nhận những lời Ta phán là được rồi, Ta không có yêu cầu gì khác. Các ngươi suốt ngày luôn nhìn chằm chằm vào Ta, nghiên cứu Ta, xem sắc mặt của Ta, thì Ta sẽ không thoải mái. Ta chẳng thích người ta sùng bái hay bợ đỡ Ta, càng không thích người ta luôn tiền hô hậu ủng quanh Ta, Ta thích yên tĩnh. Ngươi xem, mấy năm qua, chẳng phải Ta sống rất tốt hay sao? Vậy tại sao các ngươi không thử sống như vậy? Xem thử nếu không tranh danh lợi, không tranh địa vị, không bảo vệ tôn nghiêm của mình, không tranh quyền lên tiếng, thì ngươi có sống được không. Nếu ngươi chiếu theo lời Đức Chúa Trời và yêu cầu của Đức Chúa Trời mà hành động, mà sống, mà làm người, làm việc và làm bổn phận – thì nhìn xem ngươi sẽ sống như thế nào, xem ngươi có được vui vẻ và được bình an trong lòng không. Ngươi hãy thử đổi cách sống, thực hành theo nguyên tắc lẽ thật và có mục tiêu rõ ràng, rồi ngươi sẽ thấy con đường phía trước thật sáng sủa. Nếu ngươi luôn so đo về chuyện ai tính kế với ngươi, ai ảnh hưởng đến địa vị của ngươi, ai có danh vọng cao hơn ngươi, ai lén lút nói xấu sau lưng ngươi, v.v., nếu ngươi cứ sống trong những chuyện này thì trước mặt ngươi sẽ chẳng có con đường, mà chỉ có bóng tối. Ngươi sẽ luôn hoang mang, cảm thấy: “Mình sống thật mệt mỏi, chẳng có hạnh phúc, mình chẳng có phúc rồi!”. Đức Chúa Trời ban phúc cho ngươi mà ngươi không hưởng, lúc nào cũng đâm đầu vào địa ngục. Ngươi nói xem, vậy thì ngươi có thể có phúc sao? Có thể được vui vẻ và bình an sao?
Thông công về chủ đề này, các ngươi thấy thế nào? (Thưa, tốt.) Tốt ở chỗ nào? (Thưa, chúng con cảm thấy thông công như vậy thì có thể giải quyết được những khó khăn mà chúng con gặp phải trong cuộc sống thực và giải quyết những tâm tính bại hoại mà chúng con bộc lộ. Đức Chúa Trời cũng chỉ cho chúng con một vài con đường cụ thể: cách để có thể không tranh đấu và tính kế với người khác, cách để có thể không chịu sự kìm kẹp của những con người, sự việc, sự vật, và sống trong sự sáng.) Mục đích chính khi thông công về những nguyên tắc này là gì? Không phải chỉ là để khiến ngươi thoát khỏi cuộc sống tranh đấu với người khác, mà mấu chốt là khiến ngươi sống trong nhân tính bình thường và sống cuộc sống của nhân tính bình thường. Nếu hành động theo lời Đức Chúa Trời thì ngươi có thể đạt đến việc thuận phục Đức Chúa Trời, biến lời Đức Chúa Trời và lẽ thật thành sự sống của ngươi, đạt được sự cứu rỗi, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác – ngươi có thể trở thành người như vậy. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Không phải chỉ để thoát khỏi cuộc sống tính kế và tranh đấu với người khác đâu, nếu chỉ như vậy, thì ngươi sẽ không đạt được lẽ thật. Ngươi nói xem, không đạt được lẽ thật, thì mục tiêu thực hành của người ta là gì chứ? Chẳng phải vẫn trống rỗng hay sao? Sống trong xã hội này và sống giữa mọi người, khi gặp chuyện thì người ta luôn phải có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, không thể nào không có tư tưởng hay quan điểm gì, như thể đang sống trong chân không – trường hợp như vậy không tồn tại. Lúc không có người nào tính kế và tranh đấu với ngươi, thì ngươi có thể đạt đến việc không tính kế và không tranh đấu với người khác. Nhưng khi có người tính kế với ngươi, tranh đấu với ngươi, thì ngươi làm thế nào? Ngươi chỉ biết hô khẩu hiệu “Tôi không đấu với họ, tôi không tính kế với họ” thì có giải quyết được vấn đề không? (Thưa, không.) Vậy làm thế nào thì giải quyết được vấn đề? Có những người hô khẩu hiệu, nói rằng: “Bao nhiêu tuổi rồi mà còn tính kế? Công tác của Đức Chúa Trời đến lúc nào rồi mà còn tính kế? Tính kế thì có ích gì không?”. Lời này có thể giải quyết vấn đề sao? (Thưa, không thể.) Đa số mọi người khi gặp chuyện thì trong lòng vẫn không buông bỏ được, vẫn tính kế và tranh đấu với người khác. Vậy làm thế nào để giải quyết được vấn đề này? Ngươi nên dựa vào lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật mà giải quyết vấn đề về tư tưởng và quan điểm của con người, cùng vấn đề về tâm tính bại hoại của con người. Ngươi tiếp nhận một tư tưởng và quan điểm đúng đắn rồi, thì cách nhìn, thái độ và lập trường của ngươi về loại chuyện này cũng sẽ thay đổi. Cảm giác trong lòng ngươi về loại chuyện này sẽ khác đi, ngươi sẽ cảm thấy tranh đấu với người khác thật vô nghĩa – lãng phí sinh lực, làm chậm trễ công tác, trong lòng còn khó chịu, chẳng được vui vẻ hay bình an. Thế thì khi ngươi đọc những lời của Đức Chúa Trời định tội loại chuyện này, quan điểm trong lòng ngươi về loại chuyện này sẽ thay đổi triệt để, tâm tình của ngươi sẽ khác đi, sự thôi thúc tranh đấu với người khác của ngươi sẽ giảm đi, lửa giận sẽ lắng xuống, và huyết khí sẽ không còn. Người khác tranh đấu với ngươi, một mực gây hấn với ngươi, thì ngươi cũng không bị ảnh hưởng, cảm thấy chuyện đó chẳng là gì, và không cần tranh đấu với người ta. Người ngoài cuộc nhìn vào thì không chấp nhận nổi, nói rằng: “Họ đối đãi với anh như vậy, sao anh chẳng có cảm giác gì? Anh bị ngốc à?”, thì ngươi nói: “Trước đây, tôi xem đó là chuyện nghiêm trọng lắm, như thể trời sập vậy. Nếu tôi không nói cho rõ ràng với họ, nếu họ không cho tôi một lời giải thích, thì tôi tuyệt đối không cho qua. Nhưng bây giờ tôi không như vậy nữa, tôi không tính kế hay tranh đấu với người khác nữa. Không phải vì tuổi tôi đã cao, mà vì từ trong lời Đức Chúa Trời, tôi đã nhìn thấu được thực chất bại hoại của nhân loại rồi. Dạng biểu hiện này của họ chính là sự bộc lộ và biểu hiện điển hình của kẻ ác, kẻ địch lại Đấng Christ và Sa-tan bị vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời. Trước đây tôi cũng có những biểu hiện đó. Nhưng bây giờ, từ trong lời Đức Chúa Trời, tôi thấy được dạng diện mạo này và dạng tâm tính này quá xấu xí, quá kinh tởm, Đức Chúa Trời ghê tởm nó! Bây giờ bản thân tôi cũng cảm thấy ghê tởm nó, trong lòng không sẵn lòng sống trong tâm tính bại hoại nữa. Cho nên, họ mà tiếp tục đòi đấu với tôi, thì tôi chỉ cảm thấy chán ghét và ghê tởm họ, chẳng hứng thú hay mong muốn đấu với họ. Từ trong lời Đức Chúa Trời, tôi cũng đã tìm thấy nguyên tắc thực hành, đã biết cách đối đãi với loại người này rồi”. Trong lời Đức Chúa Trời phán những gì? Một mặt, lời Đức Chúa Trời vạch trần và xác định tính chất loại người này. Mặt khác, Đức Chúa Trời nói cho người ta biết rằng nguyên tắc trong chuyện đối đãi với người khác chính là đối đãi công bằng. Nếu họ là anh chị em đích thực, khi họ bộc lộ tâm tính bại hoại thì chúng ta nên đối đãi bằng lòng yêu thương, thông công lẽ thật mà giải quyết vi phạm và tâm tính bại hoại của họ, làm cho họ không còn chống đối Đức Chúa Trời hoặc vi phạm nữa. Có khả năng nhờ được giúp đỡ mà vấn đề của họ được giải quyết. Nếu họ không tiếp nhận sự giúp đỡ, không thể tiếp nhận lẽ thật, nhưng có thể làm bổn phận và không quấy nhiễu công tác của hội thánh, vậy thì nên để họ tiếp tục ở lại trong hội thánh mà làm bổn phận. Nếu họ không làm tốt bổn phận, lại còn tranh đấu và tính kế với người khác, từ đó gây ra sự nhiễu loạn, vậy thì cứ chiếu theo sắc lệnh quản trị của nhà Đức Chúa Trời và nguyên tắc đối đãi với con người của nhà Đức Chúa Trời mà thanh lọc họ đi, như vậy lòng chúng ta chẳng được yên bình hay sao? Nhà Đức Chúa Trời có nguyên tắc và con đường cho việc xử lý con sâu làm rầu nồi canh. Trong lời Đức Chúa Trời có nguyên tắc và con đường cho cách phân định và xử lý những người này, cách đối đãi với những người này. Người ta mà thực hành theo lời Đức Chúa Trời thì việc xử lý này sẽ nhẹ nhàng và vui vẻ, không cảm thấy đây là chuyện khó, trong lòng căn bản không bị quấy nhiễu, và chuyện này sẽ được giải quyết một cách rất tự nhiên. Nếu mấy năm trước mà gặp loại chuyện này, thì họ sẽ không vượt qua được và không biết cách giải quyết. Nhưng hiện tại, họ đã có mấy năm trải nghiệm sự sống rồi, khi gặp chuyện này thì chẳng thấy khó khăn nữa, sẽ có thể giải quyết được. Đột nhiên, họ nhận ra vóc giạc của mình đã lớn lên và họ có sự biến đổi thực sự rồi. Ngươi nói xem, lúc đó tâm tình của đa số mọi người thế nào? “Trước đây, tôi luôn cảm thấy bản thân có tố chất kém, còn thường xuyên phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, có vẻ như tôi vô phương cứu vãn rồi. Nhưng bây giờ, thông qua việc xử lý chuyện này, tôi cảm thấy mình không còn khó khăn nữa, cảm thấy mình có thể giải quyết vấn đề và có hy vọng rồi”. Có hy vọng gì nào? (Thưa, hy vọng được cứu rỗi.) Khi ngươi thấy hy vọng được cứu rỗi rồi, thì ngươi thấy trước mặt mình là ánh sáng hay bóng tối? (Thưa, ánh sáng.) Vậy là ứng với câu – ánh sáng chiếu đến tôi. Phải vậy không? (Thưa, phải.) Khi vóc giạc của ngươi có thể đạt đến mức độ này rồi, thì ngươi sẽ thực sự cảm thấy rằng thực ra thực hành lẽ thật thì đâu cần hô khẩu hiệu; nhẹ nhàng và vui vẻ như vậy đấy. Chỉ cần ngươi tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, chỉ cần ngươi tiếp nhận nguyên tắc lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời, thì việc thực hành lẽ thật sẽ dễ dàng như vậy, và vóc giạc ngươi sẽ lớn lên từ lúc nào không hay. Khi ngươi cảm thấy vóc giạc mình đã lớn lên, thấy mình có sự biến đổi rồi, thấy bao năm nay tin Đức Chúa Trời, mình đã có thu hoạch chứ không phải tin một cách vô ích, mà có người nói lời ngông cuồng rằng: “Tôi tin Đức Chúa Trời mà đã đạt được gì chứ? Suốt hai mươi năm tin Đức Chúa Trời, tôi toàn chịu khổ và ra sức. Tôi đã bỏ ra và dâng hiến biết bao nhiêu, mà chẳng được hưởng phúc gì, chỉ toàn kiệt nhọc!”, thì trong lòng ngươi sẽ khinh thường họ: “Người này chẳng có lương tâm, toàn nói lời của quỷ! Nhìn họ thảm hại đến vậy, thì họ đúng là chẳng đạt được gì, lại còn man rợ và phá hoại, chỉ toàn nói những lời ngông cuồng!”. Họ luôn nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời mà đã đạt được gì chứ?”. Vậy khi tin Đức Chúa Trời, rốt cuộc ngươi muốn đạt được gì? Ngươi muốn đạt được ân điển và phúc lành về vật chất, hay là muốn đạt được lẽ thật và sự cứu rỗi? Đây là con đường mà người tin Đức Chúa Trời nên chọn, rốt cuộc ngươi đi con đường nào? Nếu là người mưu cầu lẽ thật, thực hành tất cả những lẽ thật đã hiểu và biến những lẽ thật đó thành thực tế của mình, thì ngươi sẽ đạt được sự sống đời đời, và trải nghiệm công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời rồi thì ngươi sẽ không tin một cách vô ích. Nếu ngươi chỉ chú trọng hưởng thụ ân điển, chứ chẳng đạt được lẽ thật và sự sống, lại còn oán trách Đức Chúa Trời rằng “Con đã đạt được gì chứ?”, thì chứng tỏ ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật. Bất kể ngươi hưởng thụ bao nhiêu ân điển, nếu ngươi không đạt được chút lẽ thật nào, thì đức tin của ngươi quá đáng thương, nó cho thấy ngươi là người đui mù. Hiện tại, Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và cung ứng sự sống cho con người, ngày ngày đều phán những lời mới, đến mức người ta ăn uống mãi không hết, hưởng thụ mãi không hết. Lẽ thật mà người ta nên thực hành và bước vào thì quá nhiều, rất nhiều lẽ thật người ta trải nghiệm cả đời cũng không xong. Những người tin Đức Chúa Trời lâu năm và mưu cầu lẽ thật thì đều đã đạt được rất nhiều và rất dư tràn. Nhưng nếu người ta không mưu cầu lẽ thật, không yêu thích lẽ thật, không thực hành lẽ thật, thì sẽ luôn cảm thấy mình chẳng đạt được gì cả. Người hưởng thụ lẽ thật thì sẽ cảm thấy những lời này thực sự khiến mình được no tràn chan chứa. Hiện tại, bất luận là lẽ thật hay là phúc lành vật chất, Đức Chúa Trời đều ban dư tràn cho con người, có thể nói nhà Đức Chúa Trời là mảnh đất đượm sữa và mật ong. Những lời Đức Chúa Trời để ăn uống lúc nhóm họp thật quá phong phú; các lời chứng trải nghiệm, phim ảnh, thánh ca, vũ đạo thì thể loại nào cũng có, rất phong phú. Những thứ vật chất, cái ăn cái mặc và đồ dùng cũng đều dư tràn. Còn có sự phục vụ của con rồng lớn sắc đỏ mà Đức Chúa Trời sắp đặt, các phần trình diễn của những kẻ địch lại Đấng Christ và lãnh đạo giả, cùng đủ loại thứ tiêu cực được trưng ra trước mặt người ta mỗi ngày, cho người ta rút ra bài học và phát triển sự phân định. Học một lần không được, thì Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục sắp xếp thêm hoàn cảnh, con người, sự việc và sự vật cho ngươi, khi nào ngươi rút ra đủ bài học rồi Ngài mới cất đi. Do đó, nếu ngươi có thể tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, thì ngươi là người yêu thích lẽ thật và ngươi đang dự yến tiệc thịnh soạn. Chỉ cần tin mấy năm là ngươi sẽ có tiến bộ rất lớn và có sự biến đổi thực sự. Đức Chúa Trời đã đích thân chăn dắt, chăm tưới và dẫn dắt dân được Ngài chọn mấy năm nay. Hễ là người có thể tiếp nhận lẽ thật thì đều cảm thấy mình đã đạt được quá nhiều, đều có được một vài sự biến đổi thực sự, nhất là những người làm bổn phận toàn thời gian thì càng có sự biến đổi lớn hơn nữa. Ngươi có thể cảm thấy rằng đi theo Đức Chúa Trời thì con đường càng đi càng sáng sủa, ngươi sẽ có đức tin thực sự vào việc đạt được sự cứu rỗi và bước vào thiên quốc. Nhưng nếu ngươi chẳng bao giờ tiếp nhận lẽ thật, trong lòng cũng không sẵn lòng thực hành lẽ thật, thì ngươi sẽ không cảm nhận được bản thân có hy vọng được cứu rỗi. Ngươi sẽ luôn hỏi những người xung quanh: “Anh thấy tôi có hiểu biết thuộc linh không?”. Nếu có người nói: “Trông anh có vẻ không có hiểu biết thuộc linh”, thì ngươi sẽ cảm thấy: “Tiêu tùng rồi, mình không còn hy vọng rồi!”. Thực ra, đâu phải ngươi không có hy vọng, mà là ngươi không mưu cầu lẽ thật. Nếu ngươi hiểu lẽ thật, còn có thể thực hành lẽ thật, thì ngươi sẽ dần dần có hiểu biết thuộc linh. Có hiểu biết thuộc linh rồi, thì ngươi sẽ ngày càng hiểu thêm nhiều lẽ thật, sẽ có thể nói ra một vài lời chứng trải nghiệm về mọi phương diện. Ngươi sẽ cảm thấy bên trong mình rất phong phú, rất đủ đầy, cảm thấy ngươi đi theo Đức Chúa Trời thì đạt được quá nhiều. Phải vậy không? (Thưa, phải.) Nếu là người không thực hành lẽ thật, hoặc không tiếp nhận lẽ thật làm sự sống của mình, thì trong lòng họ sẽ luôn băn khoăn, hoang mang, chẳng có đức tin chân thật. Họ sẽ luôn hỏi người xung quanh xem mình có hy vọng được cứu rỗi hay không. Còn có những người luôn hỏi người khác xem mình có hiểu biết thuộc linh hay không, họ dùng chuyện có hiểu biết thuộc linh hay không để chứng minh bản thân có hy vọng hay không. Ngươi nói xem, dạng người như vậy có ngốc không? (Thưa, ngốc.) Bất kể có hiểu biết thuộc linh hay không, ngươi đều nên vươn tới lẽ thật, chẳng những vươn tới chuyện hiểu lẽ thật, mà còn phải vươn tới chuyện thực hành lẽ thật. Một khi hiểu lẽ thật và có thể thực hành lẽ thật, thì chẳng phải ngươi sẽ có hy vọng được cứu rỗi sao? Có phải chuyện là vậy không? (Thưa, phải.) Các ngươi nên suy nghĩ kỹ về vấn đề này.
Hôm nay thông công đến đây thôi. Hẹn gặp lại!
Ngày 7 tháng 9 năm 2024