Cách mưu cầu lẽ thật (10)

Gần đây, chúng ta đã thông công mấy lần về các vấn đề liên quan đến điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại; chủ yếu là chúng ta đã thông công chi tiết và cụ thể về một vài biểu hiện của ba phương diện này. Thông qua mối thông công chi tiết như vậy, các ngươi đã có chút nhận thức về chuyện những biểu hiện này cụ thể thuộc về cái gì rồi phải không? (Thưa, phải.) Khi đã có nhận thức về những biểu hiện cụ thể trong ba phương diện này rồi, vậy thì về chuyện tại sao con người phải thoát khỏi tâm tính bại hoại, hoặc những thứ gì nơi con người cần phải được thay đổi và thoát khỏi, các ngươi đã rõ hơn rồi phải không? Những phương diện nào cần thay đổi, những phương diện nào không cần thay đổi, những phương diện nào nên thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, và những phương diện nào là điều kiện bẩm sinh mà Đức Chúa Trời đã tiền định và an bài, không liên quan đến tâm tính bại hoại và không cần con người bỏ công sức hay thay đổi gì – những chuyện này có phải đã rõ ràng rồi không? (Thưa, chúng con cảm thấy đã rõ ràng hơn một chút so với trước đây.) Sau khi đã rõ ràng, các ngươi đã hiểu ý nghĩa của việc Đức Chúa Trời làm công tác để làm tinh sạch con người, biến đổi tâm tính của họ, và cứu rỗi họ khỏi quyền thế của Sa-tan rồi phải không? Về việc Đức Chúa Trời làm công tác và phán lời để cung ứng lẽ thật và vạch trần các vấn đề của con người là nhắm vào điều gì, các ngươi đã rõ ràng rồi phải không? Việc Đức Chúa Trời vạch trần mọi vấn đề của con người có phải là nhắm vào điều kiện bẩm sinh của họ không? (Thưa, không phải.) Có phải là nhắm vào những khiếm khuyết tự nhiên trong nhân tính của con người không? (Thưa, không phải.) Vậy thì nhắm vào điều gì? (Thưa, chủ yếu là nhắm vào tâm tính bại hoại của con người.) Chủ yếu là nhắm vào những nguyên tắc làm người và hành động của con người, nhắm vào những quan điểm và thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời, lẽ thật và những điều tích cực, cùng các vấn đề khác tương tự. Tâm tính bại hoại là gì? Tâm tính bại hoại bắt nguồn từ bản tính của Sa-tan và được bộc lộ ra từ bản tính của Sa-tan. Những thứ này đều trái với nguyên tắc lẽ thật, đều là sai lầm, đều là những hành động và biểu hiện của việc chống đối Đức Chúa Trời. Những thứ này là những thứ chính yếu chống đối Đức Chúa Trời và là căn nguyên của việc con người có thể làm trái lẽ thật, phản bội lẽ thật, làm trái ý của Đức Chúa Trời, và làm trái yêu cầu của Đức Chúa Trời. Còn điều kiện bẩm sinh chỉ là một vài thứ cơ bản, thuộc về bản năng mà con người sinh ra đã có; nhưng sự sống mà nhân loại hiện nay dựa vào để sinh tồn chính là tâm tính bại hoại. Do đó, điều mà công tác của Đức Chúa Trời nhắm đến để thay đổi chính là tâm tính bại hoại của con người. Chính vì tâm tính bại hoại chống đối Đức Chúa Trời và thuộc về Sa-tan, có thể nói là biểu hiện tổng thể của mọi điều tiêu cực – các loại tâm tính bại hoại khác nhau được bộc lộ nơi con người, hoặc các loại trạng thái khác nhau, những sự bộc lộ và biểu hiện chi tiết liên quan đến tâm tính bại hoại, tất cả đều liên quan đến những điều tiêu cực – cho nên, căn nguyên của việc con người chống đối Đức Chúa Trời không phải là điều kiện bẩm sinh của họ hay những khiếm khuyết về phương diện nào đó trong nhân tính của họ, mà là sự sống lấy tâm tính bại hoại làm nền tảng để sinh tồn. Sự sống này chính xác là bắt nguồn từ Sa-tan. Vì vậy, điều tối hậu cần được biến đổi chính là tâm tính bại hoại của con người, và điều cần được thoát khỏi cũng chính là tâm tính bại hoại của con người. Đương nhiên, cũng có thể nói rằng chỉ khi tâm tính bại hoại của con người được thay đổi thì họ mới có thể ngừng chống đối Đức Chúa Trời. Nói cách khác, chỉ khi con người đã thoát khỏi tâm tính bại hoại thì mới có nghĩa là họ đã được cứu rỗi, và chỉ khi con người đã được cứu rỗi thì họ mới có thể ngừng chống đối Đức Chúa Trời và hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời. Do đó, ý nghĩa thực sự của việc Đức Chúa Trời làm công tác để cứu rỗi con người chính là để giúp họ thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình. Đức Chúa Trời phán với con người rằng mưu cầu lẽ thật nghĩa là phải nhìn nhận con người và sự việc, cũng như làm người và hành động với lời Đức Chúa Trời làm căn cứ và lẽ thật làm tiêu chuẩn. Ý nghĩa thực sự và hiệu quả cần đạt được của điều này chính là để làm cho con người thoát khỏi tâm tính bại hoại, và lấy lời Đức Chúa Trời làm sự sống mà nhìn nhận con người và sự việc, làm người và hành động. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Trước đây chúng ta đã thông công về một vài sự bộc lộ và biểu hiện cụ thể liên quan đến điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Có một vài biểu hiện là điều kiện bẩm sinh, một vài biểu hiện là khiếm khuyết trong nhân tính, nhưng có một vài biểu hiện là của phẩm chất nhân tính tồi tệ, và một vài biểu hiện là biểu hiện cụ thể của tâm tính bại hoại. Những khiếm khuyết trong nhân tính và thực chất tồi tệ của nhân tính là những điều người ta dễ nhầm lẫn nhất. Hầu hết những khiếm khuyết trong nhân tính đều nằm trong điều kiện bẩm sinh. Ví dụ, có người nói lắp, có người tính tình nóng nảy hoặc chậm chạp. Những khiếm khuyết này trong nhân tính, chỉ cần không thuộc phạm trù phẩm chất nhân tính tồi tệ, thì về cơ bản đều thuộc phạm vi điều kiện bẩm sinh. Tuy nhiên, phẩm chất nhân tính tồi tệ không liên quan đến điều kiện bẩm sinh; nó là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại và nên được quy vào tâm tính bại hoại, chứ không phải điều kiện bẩm sinh. Điều này là bởi vì, trong phẩm chất nhân tính của con người, Đức Chúa Trời đã ban cho họ hai thứ cơ bản là lương tâm và lý trí. Nếu phẩm chất nhân tính của ai đó tồi tệ, thì điều này liên quan đến vấn đề về lương tâm và lý trí của họ. Điều này chắc chắn không phải là điều kiện bẩm sinh của họ, mà chắc chắn thuộc về tâm tính bại hoại; nó là một biểu hiện cụ thể của một tâm tính bại hoại nào đó. Sự thật đủ để cho thấy rằng sau khi bị Sa-tan làm bại hoại, người ta sẽ mất đi lương tâm và lý trí. Lòng họ hoàn toàn bị Sa-tan mê hoặc, và họ tiếp nhận nhiều tư tưởng và quan điểm đến từ Sa-tan, cũng như một vài cách nói và luận điệu từ các trào lưu tà ác. Khi mọi chuyện đến mức này, thì lương tâm và lý trí của họ đã bị bại hoại và ăn mòn hoàn toàn rồi – có thể nói rằng lúc này lương tâm và lý trí của họ đã hoàn toàn mất đi. Điều được biểu hiện ra là phẩm chất nhân tính của họ rất kém và rất ác. Nghĩa là, trước khi họ tiếp nhận những điều tích cực, trong lòng họ đã tiếp nhận nhiều điều sai lầm từ Sa-tan. Những thứ này đã làm bại hoại nghiêm trọng nhân tính của họ, dẫn đến nhân tính của họ rất kém cỏi. Ví dụ, sau khi họ tiếp nhận tư tưởng và quan điểm của Sa-tan từ thế gian rằng, “Người không vì mình, trời tru đất diệt”, thì lương tâm của họ sẽ tốt hơn hay giữ nguyên, hay sẽ xấu đi? (Thưa, sẽ xấu đi.) Và những biểu hiện cụ thể của sự xấu đi này là gì? (Thưa, họ làm bất kỳ việc gì cũng chỉ cân nhắc đến lợi ích của bản thân.) Vì mục đích và lợi ích của bản thân, mà họ không từ thủ đoạn nào. Họ có thể lừa người, hại người, có thể làm bất kỳ điều gì trái với đạo đức và lương tâm. Càng làm, họ càng tàn độc, lòng họ càng đen tối, tri giác của lương tâm càng mai một, và càng mất đi nhân tính. Vì lợi ích của bản thân, họ sẽ lừa bịp và lừa gạt bất kỳ ai, lừa gạt cả người quen lẫn người không quen – họ sẽ lừa gạt đồng nghiệp, người nhà, và ngay cả những người thân cận nhất xung quanh họ, hãm hại cả những người tin tưởng họ nhất. Ban đầu, khi làm những việc này, nội tâm họ có chút giằng xé và lương tâm có đôi chút cắn rứt. Sau đó, họ bắt đầu ngẫm nghĩ về cách hành động, bắt đầu trước tiên với những người lạ không quen biết, và cuối cùng ngay cả với người thân của mình, họ cũng không nương tay. Ngươi xem, nhân tính của họ đang dần bị bại hoại, nó đang dần bị ăn mòn bởi những tư tưởng và quan điểm của Sa-tan, chẳng hạn như “lợi ích trên hết” và “Người không vì mình, trời tru đất diệt”. Quá trình ăn mòn dần dần này là quá trình mà lương tâm của họ dần mất đi tri giác và không còn tác dụng gì nữa, cho đến khi cuối cùng nó đạt đến mức hoàn toàn mất đi. Cuối cùng, họ không có ranh giới đạo đức hay tri giác của lương tâm trong hành động của mình, và họ có thể lừa gạt bất kỳ ai. Lý do họ có thể lừa gạt bất kỳ ai là gì? Căn nguyên là gì? Đó là vì họ đã tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm của Sa-tan, và họ hành động dưới sự chi phối của những tư tưởng và quan điểm của Sa-tan. Cuối cùng, lương tâm và lý trí trong nhân tính của họ không còn tác dụng gì nữa; nghĩa là, những điều cơ bản mà nhân tính nên có đã hoàn không còn tác dụng gì nữa, chúng hoàn toàn bị ăn mòn và khống chế bởi những tư tưởng tà ác của Sa-tan. Quá trình ăn mòn và khống chế là quá trình họ tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm này, và, đương nhiên, đó cũng là quá trình họ bị làm bại hoại. Khi lương tâm và lý trí trong nhân tính của họ bị làm bại hoại, điều cuối cùng được biểu hiện nơi họ là nhân tính của họ trở nên rất kém cỏi, và trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, họ không còn nhân tính nữa. Đây là một vài biểu hiện về nhân tính của những con người bại hoại bình thường.

Còn có một vài trường hợp đặc biệt nữa, đó là có những người sinh ra không phải là người, nên khỏi nói đến chuyện họ có lương tâm và lý trí. Nói trừu tượng một chút, thì họ không phải do con người đầu thai. Mặc dù luân hồi, đầu thai và chuyển thế là chuyện trừu tượng mà con người không thấy được, nhưng lại là chuyện mà người ta nên hiểu cho rõ, nên có thể lý giải và lĩnh hội được. Loại người này không phải do con người đầu thai, vậy thì họ do thứ gì đầu thai? Có người là do động vật luân hồi chuyển thế, có người là do ma quỷ đầu thai, sinh ra mà không có nhân tính. Người không có nhân tính thì bẩm sinh sẽ không có lương tâm và lý trí, chuyện này không hoàn toàn do họ bị làm cho bại hoại mà ra. Họ bẩm sinh chính là Sa-tan sống và ma quỷ sống, họ là do ma quỷ đầu thai mà ra. Chẳng hạn như, kẻ địch lại Đấng Christ chính là kẻ ác, họ do kẻ ác đầu thai mà sinh ra, về sau trong đời lại tiếp nhận thêm nhiều tư tưởng và quan điểm của Sa-tan. Cái họ vốn có, cộng với cái có thêm về sau, khiến họ càng thêm xấu xa. Loại người này bẩm sinh không yêu thích những điều tích cực, họ chán ghét những điều tích cực, chống đối và thấy phản cảm cực kỳ đối với những điều tích cực. Do đó, biểu hiện của nhân tính nơi loại người này chính là chẳng có chút lương tâm hay lý trí nào, căn bản chẳng thấy được một chút ưu điểm hay thế mạnh nào của nhân tính nơi họ. Đương nhiên, ưu điểm này chắc chắn không phải là chuyện giỏi ca hát, giỏi diễn đạt quan điểm của mình, hoặc giỏi về phương diện kỹ thuật nghiệp vụ nào đó. Không phải nói đến những ưu điểm này, mà là nói đến những ưu điểm về phương diện nhân tính như trung hậu, thiện lương, thông hiểu cho người khác, cảm thông với người khác, v.v.. Những biểu hiện cụ thể trong phạm vi lương tâm và lý trí của nhân tính này đều không có nơi họ. Vậy đặc trưng chính trong nhân tính của họ là gì? Chính là tà và ác, đây là hai đặc trưng chính của họ. Họ không yêu thích những điều tích cực, khi nghe thấy điều tích cực thì họ cũng có thể thừa nhận là đúng, nhưng lại chẳng bao giờ tiếp nhận. Hết thảy mọi sự trong lòng họ và hết thảy mọi sự họ bộc lộ ra đều có liên quan đến tà và ác. Đây chính là một đặc trưng chính của loại người bẩm sinh có thực chất nhân tính ác. Loại người này là ma quỷ và Sa-tan đầu thai chuyển thế. Không phải họ trải qua sự truyền thụ, dạy dỗ, tiêm nhiễm và hun đúc về sau trong cuộc đời mới trở nên ác như vậy, mà bẩm sinh họ đã là dạng này rồi. Tư tưởng và quan điểm của họ bẩm sinh đã có rất nhiều thứ mang tính thực chất thuộc về Sa-tan. Cộng thêm vào đó, về sau trong đời, họ còn tiếp nhận thêm tư tưởng và quan điểm sai lầm đến từ các trào lưu tà ác của Sa-tan. Cho nên, có thể nói rằng, thực chất bản tính của loại người này như lửa được đổ thêm dầu, càng thêm ác, càng thêm xấu, nghĩa là nó chẳng thiếu thứ độc gì và trở nên càng nghiêm trọng hơn nữa. Đây là hai trường hợp đặc biệt của những người do động vật đầu thai và ma quỷ đầu thai. Trong trường hợp bình thường, bất kể bẩm sinh có khiếm khuyết gì về nhân tính, chỉ cần người ta có một vài biểu hiện của phẩm chất nhân tính tồi tệ, thì đều nằm trong phạm trù tâm tính bại hoại. Nếu người ta có thể tiếp nhận lẽ thật, thực hành lẽ thật và đi con đường mưu cầu lẽ thật, thì cuối cùng họ có thể thoát khỏi bất kỳ tâm tính bại hoại nào. Khi đã thoát khỏi tâm tính bại hoại rồi, thì phần phẩm chất nhân tính tồi tệ của họ sẽ thay đổi tương ứng. Loại người này có thể được cứu rỗi, họ là loài người bại hoại thông thường. Ngay cả khi ngươi có một vài biểu hiện không tốt về phẩm chất nhân tính, có nhân cách thấp hèn, hoặc có một vài biểu hiện của nhân tính không phù hợp với lẽ thật và khiến người khác thấy ghê tởm, nhưng chỉ cần lương tâm và lý trí của ngươi vẫn còn, vẫn có thể làm điều kiện cơ bản để ngươi nhìn người và nhìn việc, làm người và hành động – nghĩa là lương tâm và lý trí của ngươi có thể chi phối việc ngươi nhìn người và nhìn việc, làm người và hành động, lương tâm và lý trí của ngươi vẫn có thể có tác dụng nơi ngươi – vậy thì cuối cùng tâm tính bại hoại của ngươi sẽ có thể được thay đổi. Nếu lương tâm và lý trí của người ta không thể khống chế hoặc nắm thế chủ đạo trong bất kỳ việc gì người ta làm, thì có thể nói rằng loại người như vậy không có cách nào tiếp nhận lẽ thật, càng không có cách nào thực hành lẽ thật. Cho nên, loại người này không dễ thoát khỏi tâm tính bại hoại. Tại sao lại như vậy? Bởi vì lương tâm và lý trí của loại người này không có bất kỳ tác dụng gì cả. Loại người này đã không còn cơ hội để có thể tiếp nhận lẽ thật, cũng không còn điều kiện cơ bản để tiếp nhận lẽ thật nữa rồi. Rất khó để khiến cho loại người này thoát khỏi tâm tính bại hoại. Do đó, bất kể nhân tính của ngươi có những vấn đề gì, ngươi hãy kiểm điểm bản thân xem, khi ngươi muốn làm những việc trái với nhân tính hoặc lẽ thật, thì liệu lương tâm của ngươi có tri giác gì không, lòng ngươi có bị đau đớn hay quở trách không, liệu trong lòng ngươi có giới hạn hay tiêu chuẩn để đánh giá xem chuyện này nên làm hay không nên làm, nếu làm thì có trái với đạo đức hoặc lương tâm không, đi sâu hơn chút nữa là liệu nó có trái với nguyên tắc lẽ thật hay không. Nếu ngươi có tri giác của lương tâm, có thể đánh giá được rằng chuyện này trái với nhân tính và lẽ thật, hơn nữa, dưới tác dụng của lương tâm và lý trí, ngươi có thể ràng buộc và khống chế bản thân không làm chuyện đó, vậy thì ngươi có cơ hội hoặc xác xuất có thể tiếp nhận lẽ thật và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật. Nhưng nếu làm bất kỳ việc gì mà ngươi chẳng có chút tri giác nào của lương tâm, chẳng biết đánh giá tiêu chuẩn của việc này là gì hoặc có nên làm hay không, cũng chẳng biết làm việc này thì có phù hợp với nhân tính, đạo nghĩa hoặc nguyên tắc lẽ thật hay không – hơn nữa, khi ngươi làm việc này trái với lương tâm, nhân tính hoặc nguyên tắc lẽ thật, mà lương tâm của ngươi không thể thực hiện được tác dụng ngăn chặn ngươi làm việc sai lầm và tiêu cực đó – vậy thì người như ngươi cơ bản không có bất kỳ cơ hội nào để tiếp nhận lẽ thật. Nối tiếp theo đó, ngươi sẽ không có cơ hội thoát khỏi tâm tính bại hoại.

Về chuyện người ta có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại hay không, thì phải xem họ có thể tiếp nhận lẽ thật hay không – chuyện này quá rõ ràng rồi. Mà về chuyện người ta có thể tiếp nhận lẽ thật hay không, thì phải xem họ có tri giác của lương tâm hay không. Vậy làm thế nào để nhìn xem người ta có tri giác của lương tâm hay không? Hãy nhìn xem lúc làm việc gì đó, thì họ có lương tâm cơ bản nhất mà nhân tính nên có hay không, nhìn xem lúc họ làm việc gì đó hoặc nói lời gì đó, thì lương tâm của họ có tác dụng không. Chẳng hạn như, khi ngươi nói một câu trái với lương tâm và sự thật để bôi nhọ người khác, hoặc lúc ngươi muốn nói dối, thì lương tâm khiển trách ngươi: “Không được nói như vậy. Nói như vậy là nói dối và lừa gạt, như vậy thì mình không phải là người trung thực. Đức Chúa Trời đang dò xét, lương tâm của mình cũng không cho phép. Nói vậy là không thích hợp”. Ngươi có những ý nghĩ này thì lương tâm của ngươi đang có tác dụng. Khi lương tâm của ngươi có tác dụng, thì có khả năng lời ngươi nói ra vẫn có một vài sự uế tạp hoặc bị lẫn tạp một vài thứ theo ý của con người, có khả năng nó không chính xác 100%. Tuy nhiên, lời mà ngươi nói ra dưới tác dụng của lương tâm đã tương đối thích hợp rồi. Nếu ngươi còn có thể thực hành lẽ thật và nói năng dựa theo nguyên tắc, thì lời ngươi nói ra sẽ hoàn toàn thích hợp, và ngươi sẽ trở thành người trung thực. Nhưng nếu người ta không chịu tác dụng của lương tâm, thì chưa chắc họ có thể làm người trung thực và nói lời trung thực. Chẳng hạn như, khi Bề trên hỏi họ về tình hình của một người nào đó, họ sẽ nghĩ: “Người này đúng là không tệ, tố chất tốt, nhân tính cũng rất tốt. Bề trên tìm hiểu về người này, có phải là muốn đề bạt họ không? Đề bạt họ rồi thì sẽ không thể đề bạt mình nữa. Mình không thể có gì nói nấy được. Mình chỉ nói họ trung bình là được rồi”. Họ sẽ ngẫm nghĩ xem nói như thế nào mới có lợi cho mình, rồi họ sẽ nói như thế ấy. Khi họ nghĩ như vậy, thì lương tâm của họ có tác dụng không? Họ không có lương tâm, cũng không chịu tác dụng của lương tâm. Người không có lương tâm thì không có nhân tính. Họ muốn nói thế nào thì sẽ nói thế ấy, muốn nói dối thì sẽ có thể nói dối. Tại sao họ nói dối mà trong lòng không thấy khó chịu? Tại vì họ không chịu tác dụng của lương tâm, do đó trong lòng họ không có sự ràng buộc của lương tâm và lý trí, cũng chẳng có lực ràng buộc nào. Cuối cùng, họ sẽ có thể nói ra lời nói dối, sẽ dựa theo ý nguyện cá nhân của mình mà nói dối như ý họ muốn. Cuối cùng, thực chất mà những người này biểu hiện ra là gì? Chính là hành động mà không có lực ràng buộc của lương tâm, nghĩa là họ không chịu tác dụng của lương tâm. Người không chịu tác dụng của lương tâm mà làm việc sai hoặc việc ác, thì nội tâm của họ không áy náy, không thấy khó chịu. Cho nên, họ làm bất kỳ việc gì cũng đều lấy lợi ích của bản thân làm tiêu chuẩn. Loại người này không có chút lực ràng buộc nào và không chịu tác dụng của lương tâm, vậy họ có thể thực hành lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Họ không thể thực hành lẽ thật. Để đánh giá nhân tính của bản thân rốt cuộc là thế nào, chủ yếu hãy nhìn xem lời nói và việc làm của ngươi có chịu sự chi phối của lương tâm và lý trí không, xem ngươi có thể thực hành lẽ thật, thoát khỏi tâm tính bại hoại và đạt được sự cứu rỗi hay không. Nếu lương tâm và lý trí của ngươi vẫn còn có thể phát huy tác dụng bình thường, vậy thì ngươi là người có lương tâm và lý trí. Nếu khi nói năng và hành động mà ngươi không chịu sự ràng buộc của lương tâm và lý trí, còn có thể tùy ý làm càn, không chút kiêng dè mà chẳng chịu bất kỳ sự ràng buộc nào, vậy thì con người ngươi chẳng những đánh mất lương tâm và lý trí, mà còn không có nhân tính. Nếu mọi thứ mà nhân tính của một người biểu hiện ra về cơ bản đều có thể quy về phạm trù phẩm chất nhân tính tồi tệ, thì người này cơ bản không có nhân tính. Dấu hiệu để xác định người ta không có nhân tính chính là chuyện họ không có lương tâm và lý trí, khi hành động thì không chịu tác dụng của lương tâm. Chẳng hạn như, ngươi bảo họ rằng làm người thì phải có lương tâm, có nhân tính, thế là họ nghĩ bụng: “Lương tâm đáng mấy đồng? Có lương tâm thì kiếm được tiền sao? Có lương tâm thì có cái ăn sao?”. Nhưng người có lương tâm thì không như vậy. Nếu thỉnh thoảng họ nhất thời bị cái lợi khiến cho mê muội mà làm ra việc xấu và hại người, thì sau đó họ sẽ tự trách và ân hận, sẽ cảm thấy: “Mình hành động như vậy là đối xử quá tệ với người khác. Làm vậy chẳng phải là hành ác sao? Tại sao lúc đó mình bị ma xui quỷ khiến đến vậy? Tại sao mình không ràng buộc bản thân nổi? Mình phải nghĩ cách bù đắp mới được”. Ngươi xem, lúc đó họ lừa người ta rồi, mặc dù bản thân đã được lợi, nhưng khi nghĩ đến chút lợi ích này thì họ cảm thấy bất an trong nội tâm và hận mình: “Tại sao mình có thể làm ra chuyện như vậy chứ? Sau này mình tuyệt đối không được tái phạm nữa. Thà mình chịu nghèo, thà mình không có cái để ăn, cũng không thể làm chuyện như vậy. Đấy đâu phải chuyện con người làm. Làm chuyện như vậy thì sẽ hối hận cả đời!”. Họ làm chuyện như vậy một lần thì sẽ thấy ghê tởm như vừa ăn phải ruồi chết vậy, sau này họ sẽ không bao giờ làm thế nữa. Họ có thể ân hận và thấy khó chịu trong lòng. Còn người không có nhân tính thì sẽ vắt óc và chuyên tâm vào việc lừa gạt, lừa không thiếu một chút nào, lương tâm họ không áy náy và họ cũng không hề nương tay. Họ hại người ta đến mức rất thê thảm, mà còn cảm thấy rất vui vẻ: “Đáng đời! Ai bảo rơi vào tay tôi, tôi không lừa họ thì lừa ai? Gặp phải tôi thì coi như họ xui xẻo rồi!”. Loại người này có tri giác của lương tâm không? (Thưa, không có.) Họ lừa người ta thảm đến cỡ nào, hại người ta đến đâu, thì cũng không có một lời xin lỗi, cũng không thấy thẹn với lòng hay ân hận chút nào. Nội tâm họ còn thấy đắc ý và thấy mình may mắn. Mỗi khi hưởng thụ những thứ mình lừa lấy được, thì trong lòng họ cũng chẳng thấy khó chịu, lại còn cảm thấy đây là chuyện đương nhiên, cảm thấy bản thân có năng lực và bản lĩnh, thấy bản thân thông minh, thấy điều mình nghĩ và việc mình làm lúc đó là đúng, thấy mình mà lừa thêm được chút nữa thì tốt. Ngươi nói xem, loại người này có nhân tính không? (Thưa, không có.) Họ hành ác rồi, mà còn có thể nghĩ như vậy và có biểu hiện như vậy, thì ngươi nói xem, loại người này có thể cứu vãn được không? Khi gặp lại chuyện như vậy, họ còn có thể lừa gạt nữa không? (Thưa, vẫn có thể.) Chỉ có thể là càng lừa gạt thì thủ đoạn càng cao, càng lừa gạt thì càng đắc ý và cảm thấy mình thông minh, càng lừa gạt thì lòng họ càng đen tối, hành động càng tàn nhẫn, và thủ đoạn càng tàn độc – loại người này thì không thể cứu vãn được. Có thể nói, loại người này hoàn toàn bị Sa-tan bắt đi rồi, họ hoàn toàn là kẻ ác, ma quỷ và côn đồ ác ôn. Ngươi mà nói về chuyện lương tâm và nhân tính với loại người này, thì họ sẽ cười nhạo ngươi, nói rằng: “Anh là thứ đại ngốc. Anh hành động theo lương tâm và nhân tính thì ai cho anh tiền chứ? Anh lại chẳng chịu cảnh nghèo sao? Anh xem tôi sống tốt thế nào đi, rồi xem cách anh sống đi – thật đáng thương!”. Họ sẽ cười nhạo ngươi, sẽ khinh thường ngươi. Dạng nhân tính như vậy thì tuyệt đối chẳng có lương tâm gì cả, lương tâm của loại người này biến mất cả rồi, họ hoàn toàn bị ma quỷ nuốt chửng, đã biến thành quỷ sống chính cống rồi. Do đó, ngươi đừng nói về lẽ thật với dạng người này, họ không tiếp nhận được đâu. Ngay cả nhân tính bình thường mà họ còn không có, thì làm sao họ có thể tiếp nhận lẽ thật? Người có thể tiếp nhận lẽ thật thì trong lòng có ranh giới khi nhìn người và nhìn việc, làm người và hành động, nhất là vào những lúc có liên quan đến lợi ích của bản thân. Ranh giới này là gì? Chính là chịu sự ràng buộc và khống chế của lương tâm. Nếu họ có thể chịu sự ràng buộc và khống chế của lương tâm, thì có thể nói con người họ vẫn còn có nhân tính nhất định và có ranh giới khi làm người. Nghĩa là họ hành động có chừng mực, khi qua lại với người ta hoặc làm bất kỳ việc gì mà không hiểu nguyên tắc lẽ thật hoặc không biết làm thế nào mới phù hợp với lẽ thật, thì ít nhất họ có thể giữ vững ranh giới của lương tâm. Nghĩa là lương tâm của họ vẫn còn có tri giác và vẫn có thể có tác dụng. Lương tâm của họ có thể có tác dụng thì họ sẽ có cơ hội tiếp nhận lẽ thật. Lương tâm của họ sẽ phát triển theo chiều hướng tốt, cuối cùng những phần phẩm chất nhân tính không tốt của họ sẽ có sự thay đổi nào đó. Khi phẩm chất nhân tính của họ dần dần biến đổi, thì họ cũng sẽ từng bước thoát khỏi những tâm tính bại hoại khác nhau. Chuyện này đã rõ ràng chưa? (Thưa, đã rõ ràng rồi.)

Người ta nên thấy cho rõ chuyện Đức Chúa Trời cứu rỗi những người nào, Đức Chúa Trời cứu rỗi và biến đổi bộ phận người nào. Một mặt, người ta nên có nhận thức rõ ràng về bản thân, mặt khác, cũng nên có sự phân định đối với những người quanh mình. Cùng là biểu hiện của phẩm chất nhân tính tồi tệ như nhau, có một số biểu hiện thì liên quan đến sự bộc lộ tâm tính bại hoại. Chúng chủ yếu nói đến những biểu hiện trái với lẽ thật, phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời. Trong mắt con người thì chúng không vi phạm pháp luật và sẽ không bị pháp luật định tội, nhưng chúng lại bị Đức Chúa Trời định tội. Chúng thuộc về tâm tính bại hoại rồi. Lại có những biểu hiện của phẩm chất nhân tính tồi tệ chẳng những liên quan đến tâm tính bại hoại, mà còn là vấn đề về thực chất nhân tính hung ác. Dạng người này thì việc xấu gì cũng làm được, hoàn toàn nằm trong số kẻ ác rồi. Nếu người nào đó chỉ có vấn đề về một phương diện phẩm chất nhân tính, nhưng trong lời nói và hành động của họ vẫn có lương tâm và lý trí, chỉ là trong những tình huống đặc biệt họ mới có thể làm chút việc ác, vậy thì họ không nằm trong số kẻ ác. Kẻ ác thì không có chút lương tâm hay lý trí nào, người không có lương tâm và lý trí thì có thể làm việc thiện được không? Tuyệt đối không thể. Họ có thể thực hành lẽ thật không? Lại càng không thể. Nếu lương tâm của một người có tác dụng và có lực ràng buộc, vậy thì phẩm chất nhân tính, hành vi và biểu hiện của người đó vẫn có thể biến đổi tốt lên phần nào. Nếu một người không có lương tâm, và bất kể họ làm gì thì lương tâm của họ cũng chẳng có tác dụng, vậy thì phẩm chất nhân tính, hành vi và biểu hiện của người đó sẽ không biến đổi tốt lên được. Thế nên, để phân định một người nào đó, thì không thể chỉ nhìn xem phẩm chất nhân tính hoặc nhân cách của họ thế nào, mà chủ yếu phải nhìn xem họ có lương tâm và lý trí hay không, cũng như xem lương tâm và lý trí của họ có tác dụng hay không. Nếu họ có lương tâm và lý trí, khi hành động thì lương tâm và lý trí của họ có tác dụng, vậy thì họ còn có nhân tính cơ bản. Nếu khi họ hành động mà lương tâm và lý trí của họ không có tác dụng, vậy thì họ không có nhân tính cơ bản, nghĩa là không có nhân tính. Người có tác dụng cơ bản của lương tâm và có nhân tính cơ bản thì sẽ có cơ hội được cứu rỗi, còn người không có nhân tính cơ bản thì sẽ không có cơ hội được cứu rỗi. Để biết người ta có thể được cứu rỗi hay không, chủ yếu nên nhìn vào chuyện gì? (Thưa, chủ yếu nên nhìn xem trong họ có lương tâm và lý trí hay không.) Đúng rồi. Vậy các ngươi đã biết phân định xem liệu một người nào đó có lương tâm và lý trí hay không chưa? (Thưa, chúng con đã biết phân định một chút. Chủ yếu nhất là nhìn xem khi người nào đó hành động thì bên trong họ có chịu sự ràng buộc của lương tâm và lý trí không, họ có ranh giới đạo đức không.) Đây là nói về mặt đạo lý và lý thuyết, vậy các ngươi có ví dụ cụ thể nào không? (Thưa, chẳng hạn như, có người khi làm bổn phận thì làm trái nguyên tắc và làm xằng làm bậy, thế là anh chị em chỉ ra vấn đề cho họ hoặc tỉa sửa họ. Nếu là người có lương tâm và lý trí, thì họ sẽ chủ động phản tỉnh và nhận biết bản thân. Còn nếu là người không có lương tâm và lý trí, thì có khả năng họ sẽ ghi hận, thậm chí là công kích và báo thù anh chị em.) Ví dụ này rất hay. Người có lương tâm và lý trí mà làm việc sai trái rồi bị người khác chỉ trích, thì họ sẽ cảm thấy có lỗi và áy náy, trong lòng họ sẽ có thể nảy sinh sự ân hận, ân hận rồi thì họ sẽ có thể có biểu hiện hối cải và sẵn lòng cải thiện bản thân. Nhưng người không có lương tâm và lý trí, thì bất kể đã làm ra việc xấu hay việc sai lớn đến thế nào, gây ra tổn thất lớn cỡ nào cho công tác của hội thánh, gây ra phiền phức và sự quấy nhiễu lớn tới đâu cho anh chị em, đến lúc có người chỉ trích họ thì họ có cả trăm lý do để biện bạch và biện hộ cho mình, không thừa nhận chút gì về vi phạm của mình. Rõ ràng họ đã gây tổn thất cho công tác, vậy mà trong lòng họ chẳng thấy áy náy, ngươi nói xem, họ sẽ ân hận sao? (Thưa, không.) Họ sẽ không ân hận. Người không ân hận thì có thể hối cải không? (Thưa, không thể.) Người không thể hối cải thì có phải là người tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Có phải họ vẫn có thể làm ra chuyện như vậy hay không? (Thưa, phải.) Họ vẫn có thể làm như vậy đến lúc nào? (Thưa, họ không có tri giác của lương tâm, nên họ sẽ mãi làm như vậy.) Đúng rồi, họ sẽ mãi làm như vậy. Người khác có nói gì, họ cũng không nghe: “Tôi sẽ làm như vậy, mặc kệ tôi chứ! Công tác của hội thánh bị tổn thất thì liên quan gì đến tôi? Bản thân tôi không bị tổn thất là được rồi”. Quan điểm của họ là vậy. Được rồi, chủ đề này thông công đến đây thôi. Các ngươi hãy dựa vào nội dung chúng ta đã thông công mà tự mình suy ngẫm, liên hệ nó với bản thân và những con người, sự việc quanh mình, dần dần hiểu rõ nó, và dùng những lời này mà nhìn nhận con người, nhìn nhận sự việc và nhìn nhận chính bản thân mình. Từng chút một, các ngươi sẽ hiểu được những chuyện này.

Trước đây, chúng ta đã thông công về nhiều biểu hiện cụ thể liên quan đến nhân tính, điều kiện bẩm sinh và tâm tính bại hoại. Hôm nay, chúng ta tiếp tục thông công về một vài biểu hiện cụ thể liên quan đến ba phương diện này. Trước hết, hãy nói về biểu hiện thứ nhất: bỉ ổi. Từ này có nghĩa là gì? (Thưa, nghĩa là không đĩnh đạc, không đàng hoàng đứng đắn, mà cứ lén lút vụng trộm.) (Thưa, nghĩa là hành vi và cử chỉ có vẻ tương đối tà ác.) Nói tương đối tà ác thì có chút trừu tượng, người bình thường không tưởng tượng ra được cái tà ác mà ngươi nói đến rốt cuộc là biểu hiện gì. Còn gì nữa? (Thưa, hành vi và cử chỉ tương đối hạ lưu.) Các ngươi đã nói đến mấy phương diện rồi? Lén lút vụng trộm, tà ác, hạ lưu, đê tiện, không dám để người ta thấy, có phải là những biểu hiện này không? (Thưa, phải.) Vậy dùng đê tiện và hạ lưu để thay thế cho bỉ ổi thì có được không? (Thưa, được.) Những biểu hiện bỉ ổi này bị quy vào phương diện gì? (Thưa, bị quy vào phẩm chất nhân tính tồi tệ.) Đây có phải là khiếm khuyết trong nhân tính không? (Thưa, không phải.) So với khiếm khuyết trong nhân tính, thì biểu hiện này có tính chất nghiêm trọng hơn nhiều, do đó không thể quy nó vào khiếm khuyết trong nhân tính. Bỉ ổi là một biểu hiện của phẩm chất nhân tính tồi tệ. Nếu một người nào đó hành động một cách bỉ ổi, mặc dù không thể nói họ là kẻ ác, nhưng xét từ biểu hiện bỉ ổi của họ thì họ luôn khiến người ta chán ghét và ghê tởm. Vậy người có những biểu hiện bỉ ổi này chắc chắn hành động theo kiểu lén lút vụng trộm, chẳng có chút gì đĩnh đạc, tương đối thấp hèn, luôn làm ra những việc đê tiện. Nghĩa là khi hành động thì thủ đoạn của họ đê tiện, vô sỉ, chẳng dám để người khác thấy, chẳng quang minh chính đại, khiến đa số mọi người nhìn vào thì đều thấy phản cảm và ghê tởm. Đây chính là đê tiện và hèn hạ. Đặc điểm nổi bật của họ chính là đặc biệt hèn hạ, thấp hèn và đê tiện. Bất kể làm gì hay nói gì, họ cũng không thể quang minh chính đại, lúc nào cũng có một vài chiêu trò, lúc nào cũng có những thứ chẳng dám để người ta thấy. Chẳng hạn như, việc tin Đức Chúa Trời được công nhận là chuyện rất chính đáng, cũng là chuyện mà mọi người đều có thể lý giải và tán đồng. Nhưng họ mà tin Đức Chúa Trời thì giống như đang đi con đường sai trái, chẳng dám để người khác biết vậy. Đây chính là loại người đê tiện và bỉ ổi. Giữa mọi người, loại người bỉ ổi thường đóng vai trò gì? (Thưa, họ làm nhân vật phản diện hoặc tiểu nhân.) Họ đóng vai trò là nhân vật phản diện. Loại người này có đặc điểm gì? Cũng có thể nhìn bề ngoài thì ngươi không thấy được rằng họ rất xấu, hoặc không thấy được khi hành động thì loại người này có ý đồ bất hảo nào. Nhưng khi đã tiếp xúc với họ một thời gian, thì ngươi sẽ có thể cảm nhận được rằng lời nói và việc làm của họ chẳng bao giờ quang minh chính đại. Họ nói thì rất dễ nghe, nhưng việc họ làm sau lưng người ta thì lại không như vậy. Ngươi luôn cảm thấy họ có ý định bất chính, hoặc họ định làm việc gì cũng không dám nói ra, khiến ngươi cảm thấy không tài nào hiểu nổi. Cuối cùng, ngươi sẽ cảm thấy những người này rất không đáng tin cậy, chỉ toàn làm những chiêu trò mờ ám, đê tiện, và lúc nào cũng có thể phá hoại chuyện của ngươi. Đây chính là loại người bỉ ổi. Đối với loại người này, ngươi không thấy họ công khai bày tỏ quan điểm bất đồng của mình hoặc công khai đưa ra ý kiến phản đối. Trước mặt mọi người, có khả năng họ còn nói những lời rất dễ nghe, kiểu như: “Chúng ta không thể làm như vậy. Chúng ta phải hành động theo lương tâm chứ”. Nhưng ở sau lưng người ta, họ lại thao túng một vài chuyện, xúi giục một vài người ngu muội, vô tri và không biết phân định làm việc theo ý đồ của họ. Kết quả là việc họ muốn làm đã được hoàn thành, họ hưởng thụ thành quả đó rồi mà vẫn chẳng có ai phát hiện ra đó là việc họ làm. Ngươi thấy trước mặt người khác thì họ không nói gì, không làm gì, nhưng cuối cùng sự tình phát triển đều theo phương hướng mà họ điều khiển. Nhìn từ góc độ này thì loại người này còn có chút nham hiểm. Quanh các ngươi có người bỉ ổi không? Có thường dễ để phân định và nhìn thấu những người bỉ ổi không? (Thưa, không dễ.) Loại người này ẩn mình rất kỹ. Loại người này có vấn đề về phẩm chất nhân tính, và thực chất nhân tính của họ không tốt. Các ngươi đã gặp qua loại người bỉ ổi này chưa? Loại người này có những biểu hiện chủ yếu nào, các ngươi đã rõ chưa? (Thưa, chưa rõ lắm.) Vậy sau này, các ngươi phải lưu ý và nhìn quanh mình xem loại người nào thường xuyên bộc lộ đủ loại biểu hiện bỉ ổi. Có phải những biểu hiện này tương đối trừu tượng và bí ẩn không? (Thưa, phải.) Ngay cả khi quanh ngươi có dạng người này, bởi vì khó phân định họ, nên ngươi cũng không dễ phát hiện ra họ. Chờ đến ngày các ngươi phát hiện ra loại người này rồi, thì có thể quan sát họ, ghi lại những biểu hiện từ đầu đến cuối trong hành động của họ, để xem đặc trưng và thực chất của loại người này rốt cuộc là gì, cuối cùng là tổng kết lại. Về biểu hiện bỉ ổi, chúng ta tạm thời nói đến đây thôi.

Biểu hiện tiếp theo là hạ lưu. Trước tiên, hãy xem hạ lưu thuộc về phương diện vấn đề nào? (Thưa, là phẩm chất nhân tính tồi tệ.) Nó thuộc về phẩm chất nhân tính tồi tệ. Vậy hạ lưu thường nói đến vấn đề thuộc phương diện nào? (Thưa, nói đến vấn đề về tác phong.) Nói như vậy rất chính xác. Hạ lưu thường liên quan đến vấn đề về tác phong trong chuyện nam nữ. Vậy hạ lưu dùng để áp dụng cho nam giới hay nữ giới? (Thưa, cả hai.) Không thể chỉ áp dụng nó cho một giới tính, nam giới cũng có loại người này, nữ giới cũng có loại người này. Do đó, đối tượng bị áp dụng chữ hạ lưu này không chỉ là nam giới. Nếu nữ giới có vấn đề về phương diện tác phong, thì cũng là hạ lưu. Vậy biểu hiện cụ thể của hạ lưu là gì? Là luôn thích chơi đùa và phô trương giữa cả đống người khác giới. Đây là vấn đề gì? Như vậy có phải là có chút hạ lưu không? (Thưa, phải.) Thấy người khác giới là kích động, càng đông người khác giới thì càng kích động, càng muốn thể hiện. Nhất là có một vài người thể hiện đến mức độ nào? Đến mức hở lưng lộ ngực, làm vài động tác khiêu gợi, nói vài lời lẽ khiêu gợi, đây chẳng phải là biểu hiện hạ lưu sao? (Thưa, phải.) Chỉ cần bên cạnh có người khác giới, bất kể người khác giới đó bao nhiêu tuổi hoặc có phải là người họ thích hay không, thì họ đều ăn mặc rất lộng lẫy, rất gợi cảm, rất quyến rũ để hấp dẫn người khác giới, đây có phải là biểu hiện hạ lưu không? (Thưa, phải.) Đây là biểu hiện thường thấy nhất. Ở giữa những người ngoại đạo thì các hiện tượng này đã là chuyện quen quá hóa thường, chẳng có gì lạ cả. Người ta không cảm thấy như vậy là hạ lưu, còn cảm thấy rất bình thường, rất chính đáng là đằng khác. Họ cho rằng bất kể là nam hay nữ thì đều phải ăn mặc thật đẹp để khiến cho người khác giới nhìn thấy mình thì sẽ thích và ái mộ, để có thể hấp dẫn người khác giới theo đuổi mình. Dạng tư tưởng và quan điểm này có phải là tư tưởng và quan điểm hạ lưu không? (Thưa, phải.) Họ luôn muốn mình là tâm điểm chú ý của những người khác giới, luôn muốn hấp dẫn người khác giới, khiến cho người khác giới cảm thấy hứng thú với mình, bất kể tình trạng hôn nhân của mình thế nào, bất kể tuổi tác của mình bao nhiêu, lúc nào họ cũng có những ý nghĩ và hành động đó, cuộc sống của họ tràn ngập những suy nghĩ đó – như vậy có phải là hạ lưu không? (Thưa, phải.) Đây là một vài biểu hiện mà đa số mọi người thấy tương đối chấp nhận được và không xem là hạ lưu, mà chỉ xem là thích thể hiện và phô trương trước mặt người khác giới thôi. Chẳng hạn như mặc áo quần đẹp, xịt chút nước hoa, ăn diện có chút quyến rũ, nói những lời có chút khiêu gợi, hoặc phô trương vẻ đẹp của bản thân – những biểu hiện hạ lưu này là điều mà đa số mọi người thấy chấp nhận được. Còn một biểu hiện hạ lưu nghiêm trọng hơn nữa chính là bất kể trong hoàn cảnh nào, hễ thấy người khác giới là họ đều dám động tay động chân và chạm vào người ta. Bất kể người ta có đồng ý hay không, họ cũng tùy ý xáp lại gần và tiếp xúc, như thể quen biết nhau lắm. Họ đặc biệt giỏi đoán ý tứ qua lời nói và sắc mặt, thấy người ta không ác cảm với mình và tương đối hiền lành thì họ dám tùy ý xoa đầu, xoa lưng người ta, thậm chí còn ngồi sát rạt người ta, nếu thấy đối phương không phản kháng thì còn có thể cầm tay người ta. Có những phụ nữ có thể ngồi thẳng lên đùi của đàn ông, không quan tâm người khác nhìn vào sẽ cảm thấy thế nào. Như vậy là đã phát triển về mặt thực chất hơn một bậc so với sự phô trương thông thường. Đây có phải là hạ lưu không? (Thưa, phải.) Người bình thường có thể chấp nhận nổi dạng hạ lưu này không? (Thưa, không chấp nhận nổi.) Có một số người lại thấy chuyện này chẳng to tát gì, còn nói: “Đấy đâu phải là hạ lưu, nam nữ yêu nhau là chuyện rất bình thường, không thì người ta sống còn có ý nghĩa gì chứ? Đàn ông thì phải lấy phụ nữ làm niềm vui, phụ nữ thì phải lấy đàn ông làm niềm vui, sống như vậy mới thú vị”. Nếu không có người khác giới làm hành động hạ lưu như vậy với họ, thì họ sẽ cảm thấy: “Mình không có mị lực sao? Tại sao mình không hấp dẫn được người khác giới vậy?”. Thế là họ cảm thấy thất vọng. Loại người này mà thấy người hạ lưu có hành động tiến tới với mình thì sẽ cảm thấy rất hài lòng, nội tâm rất vui vẻ. Ít nhất, thể xác và tinh thần của họ được thỏa mãn, cảm thấy có thể có người hứng thú với mình thì đời này sống xứng đáng rồi. Do đó, một số người có thể chấp nhận dạng hạ lưu này. Chẳng hạn như, ngươi thích một người khác giới nào đó, trong lòng ngươi có hảo cảm với họ, nếu họ chẳng bao giờ ngó ngàng đến ngươi, chẳng bao giờ thấy hứng thú với ngươi, thì trong lòng ngươi sẽ cảm thấy rất thất vọng. Nhưng nếu thỉnh thoảng họ chạm vào ngươi, trêu chọc ngươi, vuốt tay ngươi, hoặc lúc ngồi thì ngồi sát đến mức khiến ngươi có thể cảm nhận hơi ấm cơ thể họ – hoặc tiến thêm một bước nữa, nếu đàn ông có thể làm tới với phụ nữ , thì người phụ nữ đó sẽ cảm thấy: “Ái chà, tốt quá, anh ấy thích mình. Mặc dù kiếp này không thể nên nghĩa vợ chồng, nhưng mình được anh ấy làm việc hạ lưu như vậy thì đời này cũng xem như đáng giá rồi!”. Ngươi xem, có những người trong sâu thẳm nội tâm lại chấp nhận chứ không khinh bỉ dạng hạ lưu này. Thái độ của họ tùy thuộc vào chuyện người khác giới làm việc đó có phải là người mà họ thích hay không. Nếu đó là người họ thích, không thấy phản cảm, thậm chí trong lòng còn mong mỏi, thì họ sẽ không khinh bỉ dạng người hạ lưu và hành động hạ lưu này. Thay vào đó, trong lòng họ có thể chấp nhận, hoan nghênh, và chừa một chỗ cho người đó trong lòng mình. Vì vậy, có một số người trong lòng chấp nhận loại người hạ lưu này. Bởi vì người hạ lưu không tốt, vậy chẳng phải người có thể chấp nhận dạng hành vi hạ lưu này cũng là hạ lưu hay sao? (Thưa, phải.) Cũng là hạ lưu. Còn có một vài biểu hiện tương đối nghiêm trọng hơn dạng hạ lưu này – không chỉ là phô trương một chút, cũng không phải chỉ là liếc mắt đưa tình hoặc đụng chạm tay chân, mà còn tiến xa hơn một bước. Trong đầu của loại người này chỉ toàn là những chuyện hạ lưu đó. Nếu đang trong giai đoạn yêu đương, thì đây là biểu hiện bình thường. Nhưng nếu tuổi tác và điều kiện thực tế không cho phép, mà khi thấy người khác giới thì trong đầu họ vẫn toàn nghĩ về những chuyện này, thì thực chất của biểu hiện này là gì? Chính là trong lòng luôn có một dạng dục vọng, khao khát hoặc mục đích gì đó đối với người khác giới – không phải chỉ muốn thỏa mãn một nhu cầu tâm lý là xong, mà là muốn có hành động mang tính thực chất và sự phát triển mang tính thực chất. Trong lòng họ lúc nào cũng theo đuổi những thứ này, ngoài việc nghĩ trong đầu những chuyện hạ lưu, thì về mặt hành vi họ cũng bắt đầu tìm cách tiếp xúc với người khác giới thích hợp để phóng túng và giải tỏa ham muốn tình dục của mình. Loại người này có phải là hạ lưu không? (Thưa, phải.) So sánh với hai loại người hạ lưu trước, thì loại người hạ lưu này có phải rất nguy hiểm và đáng sợ hay không? (Thưa, phải.) Loại người hạ lưu này bất kỳ lúc nào cũng có thể làm ra chuyện gì đó, như vậy là đủ để cho thấy họ rất tà ác, rất hạ lưu rồi. Về những cấp độ cao hơn, thì chúng ta sẽ không nói nữa.

Vậy trong ba loại người hạ lưu này, các ngươi có thể chấp nhận loại nào? Nghĩa là đối với loại người hạ lưu nào thì trong lòng các ngươi cảm thấy họ làm như vậy cũng bình thường, không tính là vấn đề gì, trong lòng ngươi không thấy quá phản cảm, cũng không quá khinh bỉ họ, và có sự chấp nhận nhất định đối với họ? Các ngươi có thể chấp nhận được mức độ hạ lưu nào? (Thưa, mức độ nào cũng không chấp nhận được.) Tại sao đều không chấp nhận được? (Thưa, tính chất của dạng hạ lưu cuối cùng rất tồi tệ. Còn dạng hạ lưu thứ nhất, mặc dù chỉ là việc phô trương trước mặt người khác giới, nhưng như vậy cũng đã gây nên sự quấy nhiễu cho những người xung quanh rồi.) Loại người hạ lưu thứ nhất không có sự phân biệt giới tính rõ ràng trong lòng. Người bình thường mà tiếp xúc với người khác giới thì đều chú ý đến ranh giới nam nữ. Nhất là khi phụ nữ tiếp xúc với đàn ông, ở trước mặt đàn ông thì phải giữ mình, phải có chút giới hạn. Nhưng có những phụ nữ lại thích tiếp xúc với người khác giới, thấy người khác giới nào hợp ý mình là liền kích động, và hễ có cơ hội là tìm lý do để tiếp xúc. Hễ ai cố ý tìm cách tiếp xúc người khác giới thì trong lòng họ đều có chút bất thường. Loại hạ lưu thứ nhất, mặc dù không có những cách làm hạ lưu mang tính thực chất, chưa hình thành sự việc thực tế nào, cũng không liên quan đến việc xâm hại tình dục, nhưng xét từ biểu hiện của loại người này, nếu luận về tác phong, thì họ là loại người không rõ ràng về ranh giới nam nữ. Nghĩa là trong lòng họ không có ranh giới rõ ràng, họ không biết rằng người bình thường thì phải có ý thức liêm sỉ, không thể để người ta xem thường. Nếu họ có những biểu hiện hạ lưu, mà vẫn không có cảm giác gì về chuyện đó, thì họ không phải là người bình thường rồi, ít nhất họ không có lương tâm và lý trí của người bình thường. Bất kể là nam hay nữ, thì đều phải có ranh giới về giới tính, trong lòng phải rõ rằng không được vượt quá ranh giới này. Đức Chúa Trời tạo nên người nam và người nữ vốn có sự khác biệt, không thể đánh đồng nam nữ được. Nếu như lúc nào cũng không rõ ràng về ranh giới nam nữ, lúc nào cũng phô trương trước mặt người khác giới, thì đây không chỉ là phóng đãng và không chịu sự ràng buộc thông thường, mà có liên quan đến vấn đề về tác phong rồi. Bất kể những việc họ làm này có vấn đề mang tính thực chất hay không, tóm lại, chỉ cần những biểu hiện này liên quan đến vấn đề về tác phong thì sẽ không phù hợp với liêm sỉ của nhân tính. Nhất là về chuyện nam nữ, nếu người ta không biết liêm sỉ, không có ý thức liêm sỉ, thì họ gặp nguy hiểm lắm rồi. Ngươi có thể ở trước mặt người khác giới mà cố ý phô trương sắc đẹp và hấp dẫn đối phương, thì ngươi rất dễ phát triển đến mức độ hạ lưu tiếp theo. Ban đầu là phô trương, nhưng nó rất dễ phát triển thành động tay động chân, từ động tay động chân rất dễ phát triển thành sự tiến triển mang tính thực chất, cuối cùng thì chuyện vượt khỏi tầm tay. Ngươi xem, bất kể là mức độ hạ lưu nào, chỉ cần nó nằm trong phạm vi hạ lưu này thì đều liên quan đến vấn đề tác phong, mà đã liên quan đến vấn đề tác phong thì không phân nặng nhẹ. Bởi vì vấn đề này có thể phát triển, ban đầu là phô trương và không có cảm giác xấu hổ, từ đó rất dễ phát triển đến mức động chạm và tiếp xúc cơ thể, nảy sinh hảo cảm, sau đó thì dính nhau không rời. Chuyện mà phát triển thêm một bước nữa thì đã vượt khỏi tầm tay, có hối hận cũng không kịp nữa. Một khi đã thành chuyện thật rồi thì không dễ có cái kết tốt đẹp. Cho nên, bất kể ngươi có biểu hiện hạ lưu về phương diện nào, chỉ cần liên quan đến vấn đề tác phong, mà ngươi không kiềm chế, lại còn không có ý thức liêm sỉ – nghĩa là bất kể người khác nói gì ngươi cũng không thèm đếm xỉa đến, ngươi mặc kệ người ta đánh giá thế nào, cũng mặc kệ Đức Chúa Trời nhìn nhận thế nào – vậy thì ngươi gặp nguy hiểm lớn rồi. Gặp nguy hiểm lớn nghĩa là sao? Nghĩa là bắt đầu từ những hành động và biểu hiện hạ lưu thường thấy, ngươi rất dễ sa đọa đến mức làm ra những chuyện lố bịch khiến ngươi phải hối hận cả đời. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Do đó, nếu ngươi không nhìn thấu thực chất của vấn đề hạ lưu này và không kịp thời giải quyết nó, thì ngươi gặp rắc rối lớn rồi. Nếu ngươi có dạng biểu hiện này, hoặc ngươi thích mưu cầu những thứ này, thì chứng tỏ trong nhân tính của ngươi có vấn đề nghiêm trọng. Là vấn đề gì? Là không có ý thức liêm sỉ. Vấn đề tác phong này liên quan đến ý thức liêm sỉ của người ta. Nếu không có ý thức liêm sỉ thì khi làm loại chuyện này ngươi sẽ không có ranh giới, muốn làm đến mức nào thì sẽ làm đến mức đó. Tư tưởng và dục vọng của ngươi sẽ không chịu sự khống chế hay hạn chế. Chỉ cần có hoàn cảnh thích hợp thì tư tưởng và dục vọng của ngươi sẽ nhân thời cơ mà phát huy, sẽ dần dần tăng thêm rồi đến mức ngập tràn. Như vậy thì sẽ đem lại hậu quả đáng sợ.

Nếu quanh các ngươi có loại người hạ lưu này, mà vấn đề hạ lưu của họ không phải chỉ là thỉnh thoảng nói một câu có tính khiêu gợi, không phải chỉ là nhắm vào một vài người cá biệt nào đó – mà thay vào đó, họ thường xuyên làm như vậy, lại còn chẳng có chút ý thức liêm sỉ nào, người khác có khinh bỉ, nhắc nhở và cảnh cáo họ thì cũng không thể giải quyết được vấn đề, họ vẫn có thể tiếp tục như vậy, thậm chí ngày càng nghiêm trọng hơn – nếu các ngươi gặp loại người này thì phải tránh né họ đi. Tại sao phải tránh né họ? Bởi vì người hạ lưu thì không có liêm sỉ. Người không có liêm sỉ thì có sự ràng buộc trong hành động không? Họ có thể ràng buộc bản thân không? (Thưa, không thể.) Họ không ràng buộc bản thân nổi, do đó, đối với dạng người này, ngươi phải tránh né một chút, cố hết sức để tránh qua lại với họ. Nếu công tác buộc ngươi phải tiếp xúc và không thể tránh họ được, thì cứ công tư phân minh, nhưng tốt nhất, khi tiếp xúc với họ, ngươi nên có vài người ở bên mình, đừng một mình tiếp xúc với họ, đừng cho họ cơ hội để lợi dụng. Hãy cố hết sức để tránh một mình tiếp xúc với họ, mục đích khi làm vậy là để khỏi bị rơi vào cám dỗ và không cho Sa-tan cơ hội để lợi dụng. Bất kể là dạng biểu hiện hạ lưu nào, tóm lại, ngay khi phát hiện ra loại người này không có liêm sỉ trong tác phong, có thể tán tỉnh bất kỳ người khác giới nào, thậm chí hạ lưu đến mức độ có thể nói đùa tục tĩu ở nơi có đông người khác giới, nói như thể là chuyện đương nhiên, khiến người nghe đều phải đỏ mặt, ngại ngùng và nghe không lọt tai nổi, thế mà họ vẫn vô cảm, chẳng cảm thấy gì, cũng chẳng thèm để tâm, thì các ngươi phải tránh né loại người này, các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Nhất là khi họ tiếp xúc riêng với ngươi, đặc biệt quan tâm và chăm sóc ngươi, lại càng có thể chịu được những tật xấu và khiếm khuyết của ngươi, rồi sau đó thường xuyên động tay động chân với ngươi, hoặc là biểu hiện bề ngoài của họ rất quân tử, rất nho nhã, nhưng trong lời nói luôn có một vài điều tục tĩu – loại người này rất nguy hiểm, các ngươi phải đề phòng mới được. Còn có một vài người, với những chuyện rõ ràng có thể thông công, hỏi ý kiến hoặc xử lý công tác với người cùng giới, họ lại không tìm người cùng giới, mà cứ phải tìm người khác giới. Người khác giới nào lọt vào mắt họ rồi, thì họ cứ hỏi người ta suốt, cứ quấy rầy người ta hoài, không có gì để nói cũng tìm cho ra mà nói, không có chuyện gì cũng tìm cho ra chuyện, họ cứ hỏi mãi những vấn đề mà hỏi cũng được, không hỏi cũng chẳng sao, nghĩ đủ mọi cách để tạo cơ hội tiếp xúc riêng với người khác giới. Họ tìm cơ hội tiếp xúc là để thỏa mãn dục vọng của bản thân. Bất kể là nam hay nữ, khi gặp phải loại người này, thì nên làm thế nào? (Thưa, tránh xa họ.) Nên nghĩ cách mà cự tuyệt họ, nói thật rõ ràng với họ, chứ đừng có im lặng tránh xa rồi coi như xong chuyện. Họ thỉnh thoảng quấy rầy ngươi một lần, thì có lẽ ngươi không thể xác định có phải họ đang giở trò lưu manh hay không. Nhưng nếu họ ba lần bảy lượt quấy rầy ngươi, thì ngươi phải nói cho rõ ràng với họ. Ngươi nên nói thế nào? Ngươi hãy bảo họ rằng: “Anh quấy rầy tôi không phải mới một hai lần, anh có ý gì đây? Anh nói rõ ra đi! Chúng ta thực sự có mức độ quan hệ công việc đó sao? Tại sao có biết bao nhiêu người mà anh không hỏi, lại cứ phải hỏi tôi, phải tìm tôi. Chúng ta quen thân đến mức đó sao? Anh đừng có như vậy, tôi chẳng thấy hứng thú, tôi chẳng thích qua lại với người khác theo cách đó. Mong anh lần sau đừng có làm phiền tôi. Tôi chẳng có ý gì với anh cả. Nếu sau này anh cứ tiếp tục quấy rối tôi, thì tôi sẽ không khách khí với anh đâu!”. Đối với loại người này thì phải dùng biện pháp gì? (Thưa, tránh xa họ và cự tuyệt họ.) Nếu loại người này được dạy mãi mà không chịu sửa đổi, thì nên đối đãi với họ thế nào? Nên dựa vào quy định hành chính của hội thánh mà xử lý loại người này, cách ly họ hoặc thanh trừ họ. Có một số người là người dễ dãi, không dám đắc tội với người khác, trong lòng còn sợ loại người hạ lưu này, như vậy thì phiền phức rồi, chỉ có thể bị người ta đùa bỡn mà thôi. Đối với loại người hạ lưu này thì phải đối đãi một cách nghiêm túc, sắc mặt ngươi phải lạnh lùng một chút, cũng không cần phải nổi nóng, cứ ôn tồn nhã nhặn mà bảo họ: “Chúng ta đâu cần chơi trò con nít này. Tôi có thể thấy rõ ý anh là gì. Anh chơi trò này với tôi cũng vô ích thôi. Tôi chẳng thích anh, mong anh sau này đừng làm phiền tôi nữa! Nếu anh còn tiếp tục quấy rối tôi, thì tôi có nhiều biện pháp để đối phó với anh!”. Đây có phải là cự tuyệt rồi không? (Thưa, phải.) Vậy các ngươi có biết cự tuyệt như vậy không? (Thưa, nghe xong Đức Chúa Trời phán thì chúng con cũng biết rồi. Trước khi Đức Chúa Trời phán thì chúng con không dám cự tuyệt như vậy.) Đương nhiên, đây chỉ là một ví dụ. Loại chuyện này không phải chỉ là chuyện phụ nữ bị đàn ông quấy rối, mà còn bao gồm cả chuyện đàn ông bị phụ nữ quấy rối. Tóm lại, bất kể người bị quấy rối là nam hay nữ, khi gặp phải loại người hạ lưu này, nếu ngươi thấy rõ được rằng họ không tiếp xúc, tâm sự hoặc hỏi ý kiến ngươi một cách bình thường, thì ngươi có thể cự tuyệt. Tiếp xúc với loại người này thì rất dễ cảm nhận được ý định của họ, rồi ngươi nên phòng bị, nên bảo họ rằng: “Chúng ta không quen thân, tốt nhất anh đừng quấy rối tôi!”. Nếu họ ba lần bảy lượt quấy rối ngươi, mà ngươi vẫn ngại không dám cự tuyệt, sợ làm đau lòng họ, cảm thấy là anh chị em thì phải bao dung cho nhau, thì ngươi nên hiểu cho rõ cái kiểu bao dung này có thể đem lại hậu quả gì. Nếu ngươi thích họ và sẵn lòng qua lại với họ, thì đó là tự do của ngươi. Đương nhiên, nếu ngươi vẫn có thể đồng tình và thích người hạ lưu, thì chẳng phải ngươi quá ngốc rồi sao? Họ có thể có hành động hạ lưu với ngươi, thì cũng có thể làm vậy với người khác, ngươi qua lại với người như vậy thì chính là tự đào mộ cho mình – tự tìm cái chết. Do đó, đối với dạng người này, hãy cự tuyệt thẳng, nói rõ với họ, khiến cho họ phải tránh xa ngươi một chút. Có phải chuyện này rất đơn giản không? (Thưa, phải.) Loại người hạ lưu thực sự là nói đến loại người không có liêm sỉ trong nhân tính. Đương nhiên, bất kể là nam hay nữ, khi gặp người khác giới thì ai cũng thỉnh thoảng có một vài biểu hiện bất thường này. Chỉ cần nó không nhất quán, không nảy sinh hành vi và hậu quả, người ta qua một thời gian cảm thấy làm vậy không thích hợp và có thể sửa đổi, vậy thì không thể bị quy kết là hạ lưu. Đối với những biểu hiện bất thường này thì không thể vơ đũa cả nắm. Hạ lưu là biểu hiện không có liêm sỉ trong nhân tính. Biểu hiện chính của loại người này là họ chẳng có chút liêm sỉ nào về mặt tác phong, chẳng biết kiềm chế, chẳng biết ràng buộc, lại còn đặc biệt phóng đãng. Như vậy thì bị quy vào biểu hiện hạ lưu trong nhân tính. Đối với loại người này, nên đối đãi và xử lý thế nào, có phải các ngươi cũng đã biết rồi không? (Thưa, phải.) Chủ đề hạ lưu này nói đến đây là xong.

Chúng ta tiếp tục nói về một biểu hiện khác: bẩn thỉu. Nó thuộc dạng vấn đề nào? (Thưa, là phẩm chất nhân tính tồi tệ.) Bẩn thỉu thì thuộc phẩm chất nhân tính tồi tệ, được quy vào trong nhân tính. Có phải bẩn thỉu và bỉ ổi có chút tương tự nhau không? (Thưa, phải.) Đây cũng là một biểu hiện của phẩm chất nhân tính tồi tệ. Bẩn thỉu nghĩa là hành động không tuân theo khuôn phép, không đĩnh đạc, chẳng những hành động không có nguyên tắc hay ranh giới của đạo đức và lương tâm, mà còn đặc biệt đê tiện và thấp hèn. Bẩn thỉu có những biểu hiện nào? Chẳng hạn như, họ thấy ai mua xe đẹp mà mình không mua nổi, thì lúc đi ngang qua, bề ngoài họ chào hỏi người ta, nói: “Xe đẹp quá, hẳn anh giàu lắm!”. Lời họ nói ra rất dễ nghe, nhưng chờ khi người ta vừa đi khỏi, thì họ liền “hừ” một tiếng và nhổ nước bọt vào xe người ta. Đây chẳng phải là bẩn thỉu sao? (Thưa, phải.) Nhổ nước bọt là dạng hành vi gì? (Thưa, là bẩn thỉu.) Như vậy gọi là bẩn thỉu. Bẩn thỉu nghĩa là đặc biệt đê tiện, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa chẳng dám để người ta thấy, khiến người ta chê cười, khinh bỉ, khiến người ta cảm thấy nhân cách của ngươi thấp hèn, chẳng ra gì. Có người thấy hàng xóm nuôi được con chó đẹp thì trong lòng liền đố kỵ: “Nhà họ nuôi được con chó đẹp như vậy, tại sao mình không mua được con chó đó chứ?”. Thế là họ nghĩ cách hại chết con chó, sau đó trong lòng họ liền vui như trẩy hội, về nhà thì ăn mừng, mở sâm-panh, ăn tiệc lớn, vui vẻ hơn bao giờ hết. Ngươi nói xem, người này có xấu hay không? (Thưa, xấu.) Đây chính là bẩn thỉu. Chỉ cần người khác có chuyện tốt và vui vẻ, thì họ sẽ không vui, sẽ nghĩ cách phá chuyện của người khác. Thấy người khác gặp nạn thì họ sẽ cười hả hê trên nỗi đau của người khác. Loại người này quá bẩn thỉu.

Những thứ trong tư tưởng của người bẩn thỉu rất tiêu cực. Tiêu cực như thế nào? Chẳng hạn như, ngươi cho người ta thứ gì đó, trong tình huống bình thường thì họ nên cảm kích mà nói: “Thứ này không tệ, trước đây anh thích nó lắm, bây giờ anh không dùng nữa, không cho người khác mà lại cho tôi ngay. Chúng ta đúng là bạn bè!”. Người có lương tâm và lý trí thì đều sẽ nghĩ như vậy và lĩnh hội một cách tích cực như vậy. Nhưng người bẩn thỉu thì sẽ có ý nghĩ lệch lạc trong lòng, nghĩ bụng: “Thứ này anh không dùng nữa nên mới cho tôi. Nếu còn dùng thì anh có cho tôi không? Anh dùng đồ tốt, còn đồ không tốt thì cho tôi, ai thèm chứ! Anh bố thí cho tôi à? Anh cho là tôi chẳng biết thứ gì tốt sao? Anh không dùng nên mới cho tôi, còn muốn tôi ghi nhớ ân tình. Anh xem tôi là kẻ ngốc hả?”. Ngươi xem, chuyện đơn giản như thế mà họ suy nghĩ một cách đê tiện, dơ bẩn và hèn hạ đến vậy. Ngươi cho họ đồ mà ngược lại còn chuốc thêm phiền phức cho mình. Tại sao lại chuốc phiền phức? Bởi vì người được ngươi cho đồ là một người bẩn thỉu, một người có suy nghĩ đê tiện, dơ bẩn và thấp hèn. Họ chẳng nghĩ tốt về bất kỳ ai. Khi nhìn người thì họ không dựa vào nguyên tắc, không dựa vào phẩm chất nhân tính hay nguyên tắc làm người của người đã chung sống với họ nhiều năm. Thay vào đó, họ dựa vào tư tưởng, quan điểm quá khích và cố chấp của mình mà nhìn nhận người khác. Loại người này quá bẩn thỉu. Ngươi không qua lại với họ, không cho họ đồ gì, thì còn bình an vô sự. Nhưng nếu ngươi thực sự qua lại với họ, còn giúp đỡ họ, thì kết cục là thường xuyên bị họ xét đoán và chỉ trích. Họ thấy ngươi dùng thứ đồ tốt gì thì luôn muốn có thứ đó, ngươi mà không cho họ thì họ sẽ cảm thấy ngươi hẹp hòi, bủn xỉn. Loại người này rất phiền phức, rất khó để ngươi chung sống với họ. Ngoài miệng thì họ không nói gì, nhưng sâu trong lòng lại luôn âm thầm so đo với ngươi, trong lòng họ luôn có một vài ý nghĩ không tốt hướng về ngươi. Nói một cách thông tục thì tâm linh và tâm tư của loại người này dơ dáy. Ta cảm thấy từ “dơ dáy” này mô tả rất khớp tâm tư và tâm linh dơ bẩn của người ta, nghĩa là không sạch sẽ, không tích cực, không thiện lương. Bao nhiêu điều tích cực được nói qua miệng họ đều biến thành tiêu cực cả. Ngươi làm bao nhiêu việc tốt cho họ, thì họ chẳng những không ghi nhớ ân tình, mà còn hạ thấp ngươi, vu khống ngươi, nói ngươi không có ý tốt gì. Ngươi cho họ vài lợi ích, họ sẽ ngẫm nghĩ xem có phải ngươi muốn lợi dụng họ không. Ngươi hờ hững với họ, thì họ sẽ cảm thấy ngươi có tiền có thế nên xem thường người nghèo, cảm thấy ngươi không có tình người, không biết cách chung sống với người khác, không biết quan tâm đến tâm tình của người khác. Ngươi mà xa cách họ thì cũng không được, họ vẫn có cách nói nào đó. Loại người này rất phiền phức, ngươi chung sống với họ kiểu gì cũng không bao giờ có thể làm họ hài lòng. Ngươi chẳng biết họ sẽ nghĩ gì, chẳng biết ngươi hành động vì lòng tốt mà lại nảy sinh những phiền phức nào. Do đó, đối với người này thì chỉ có một biện pháp – tránh xa họ, đừng chung sống với họ. Khi kết giao bằng hữu cũng đừng tìm loại người này, bởi vì họ quá bẩn thỉu, ngươi mà chung sống với họ thì sẽ gây ra phiền phức và sự quấy nhiễu rất lớn cho bản thân, mà những thứ quấy nhiễu và phiền phức này là chuyện hoàn toàn không cần thiết. Người bẩn thỉu thì có lý tính không? (Thưa, không có.) Không có lý tính là nói đến điều gì? (Thưa, là không có lương tâm và lý trí, không có ranh giới đạo đức.) Chi tiết trong chuyện này là gì? (Thưa, là họ không có tư duy của người bình thường.) Không có tư duy của người bình thường là một phương diện. Các ngươi nói xem, loại người này có liêm sỉ không? (Thưa, không có.) Họ không có liêm sỉ, không có tư duy của nhân tính bình thường, toàn nói lý luận lệch lạc và sai lầm. Hết thảy những gì họ nói đều là để bảo vệ lợi ích của bản thân, đều là lý luận lệch lạc. Ngươi cho họ đồ, thì họ nói ngươi xem thường họ, đồ không dùng mới đem đi cho họ. Còn ngươi không cho họ đồ, thì họ nói ngươi quá bủn xỉn. Những lời này chẳng phải là lý luận lệch lạc hay sao? (Thưa, phải.) Họ sẽ không thể lĩnh hội một cách đúng đắn, suy nghĩ của họ quá tiêu cực, đây chính là lý luận lệch lạc. Người ngoại đạo thường nói rằng làm người thì phải có đạo lý, nếu người ta không có đạo lý, mà toàn là lý luận lệch lạc, thì họ chẳng phải là thứ tốt đẹp gì. Người ta cho ngươi đồ nghĩa là họ coi trọng ngươi, còn người ta không cho ngươi đồ thì cũng là chuyện chính đáng – đồ của người ta, người ta muốn cho ai thì cho. Người ta đã cho ngươi mà ngươi còn bới móc, không cho thì ngươi nói người ta bủn xỉn, như vậy chẳng phải là bất chấp lý lẽ sao? Người có thể nói lý luận lệch lạc như vậy thì có phải là bẩn thỉu không? (Thưa, phải.) Quá bẩn thỉu rồi! Người bẩn thỉu thì bất chấp lý lẽ, do đó nói đạo lý gì thì họ cũng không hiểu nổi. Họ căn bản không hiểu nổi chuyện hành động theo lương tâm và lý trí hay hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Bẩn thỉu và bỉ ổi có chút tương tự nhau, phải không? (Thưa, phải.) Chẳng hạn như, có người chi tiền mua một thứ gì đó thì luôn cảm thấy thứ này không đáng chừng đó tiền và có vẻ là mình bị thiệt rồi. Thế là họ ngẫm nghĩ: “Anh chiếm lợi của tôi, tôi phải nghĩ cách khiến anh bị thiệt, như vậy lòng tôi mới cân bằng lại được”. Loại người đê tiện và bẩn thỉu này luôn ngẫm nghĩ cách chiếm lợi của người khác, họ mà bị thiệt thì không bỏ qua cho người khác được, lúc nào cũng bảo đảm mình không bị thiệt thì mới thỏa mãn, nếu chiếm được lợi thì họ sẽ ăn mừng, vui đến nỗi mơ thấy gì đó mà bật dậy cười lớn. Ngươi chi bao nhiêu tiền để mua đồ là việc ngươi tự nguyện làm, người ta đâu có cưỡng ép để lấy tiền ngươi, ngươi tự nguyện mua thì tại sao lại còn không cam tâm, còn muốn chiếm lợi của người khác và tránh bị thiệt? Có phải loại người này rất bẩn thỉu không? (Thưa, phải.) Họ đến siêu thị mua rau thì cảm thấy rau quá đắt, vì để khỏi chịu thiệt mà họ lấy thêm vài cái túi nilon. Nếu là vào ngày lễ tết và siêu thị đang tặng lịch, thì họ phải lấy thêm vài cái mới thỏa mãn. Họ chiếm được lợi rồi thì trong lòng vui sướng, còn đi khắp nơi khoe rằng mình có năng lực, có bản lĩnh. Ngươi nói xem, loại người này có tư tưởng kiểu gì? Bất kể là chuyện gì, họ cũng đánh giá bằng tiêu chuẩn là muốn chiếm lợi và không chịu thiệt. Dạng tư tưởng và quan điểm này của họ quá bẩn thỉu, quá đê tiện. Đương nhiên, trong đó cũng có một mặt hoành hành ngang ngược và có một mặt ác. Loại người này rất khó nhằn và già mồm. Rất nhiều khiếm khuyết trong nhân tính đều biểu hiện ra nơi loại người bẩn thỉu này. Nghĩa là xét từ góc độ nhân tính, thì cách nghĩ của họ rất trái với lẽ thường, rất không hợp khuôn phép, thấp dưới ranh giới tối thiểu của đạo đức trong nhân tính bình thường, đương nhiên cũng không phù hợp với lương tâm và lý trí. Họ rất lệch lạc, rất thấp hèn, cũng rất ngang ngược. Có thường thấy loại người này giữa các nhóm người không? (Thưa, có.) Loại người bẩn thỉu này có phẩm chất nhân tính tồi tệ và rất khó nhằn. Chỉ cần liên quan đến lợi ích của họ, dù là liên quan đến lợi ích về vật chất hay liên quan đến thể diện và địa vị, thì tư cách đạo đức của họ trong phương diện này sẽ bộc lộ ra, biểu hiện đặc biệt rõ ràng. Họ sẽ bắt đầu nói lý luận lệch lạc, nói lý luận sai lầm, và bất chấp lý lẽ. Được rồi, về loại người bẩn thỉu này, chúng ta nói đến đây thôi.

Còn có một dạng biểu hiện nữa là ích kỷ. Ích kỷ thì có tốt hay không? (Thưa, không tốt.) Vậy trước tiên hãy nói xem ích kỷ có phải là thứ bẩm sinh không? (Thưa, không phải.) Ích kỷ không phải là thứ bẩm sinh, vậy nó thuộc dạng vấn đề nào? (Thưa, là khiếm khuyết trong nhân tính.) (Thưa, hẳn nó là vấn đề về phẩm chất nhân tính.) Cái ích kỷ này nên phân theo trường hợp. Có trường hợp ích kỷ thuộc về biểu hiện bản năng của con người, nghĩa là một dạng bản năng của con người, một dạng quyền lợi mà con người nên có, là quyền bảo vệ lợi ích của bản thân. Nếu nói đây là một biểu hiện của bản năng nhân tính, vậy thì nó là điều mà con người nên có, là một biểu hiện của việc bảo vệ nhân quyền và quyền lợi hợp pháp của bản thân. Dạng ích kỷ này là chính đáng, không phải là khiếm khuyết trong nhân tính. Nhưng còn có một dạng biểu hiện nghiêm trọng hơn dạng ích kỷ này – nó liên quan đến việc gây tổn hại lợi ích của người khác, đây là một khiếm khuyết trong nhân tính, nó đã lên đến mức vấn đề về phẩm chất nhân tính rồi. Phải phân định được những vấn đề này: dạng ích kỷ nào là biểu hiện chính đáng, dạng ích kỷ nào là khiếm khuyết trong nhân tính, biểu hiện ích kỷ nào liên quan đến vấn đề về phẩm chất nhân tính. Nếu nhìn thấu được những vấn đề này thì người ta sẽ biết nên thực hành như thế nào là phù hợp nguyên tắc. Chẳng hạn như, người ta muốn chăm sóc tốt cho cuộc sống của mình, muốn làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, tự quản lý tốt bản thân mình, không quan tâm đến người khác, chỉ quan tâm bản thân mình cho tốt, đồng thời không xâm phạm lợi ích của người khác – nếu nhìn từ góc độ nhân tính thì như vậy cũng là một dạng ích kỷ, phải không? Nhưng nhìn từ một góc độ khác, thì đây cũng là một phản ứng bản năng của con người. Đương nhiên, đây cũng là một dạng quyền lợi vốn có mà Đức Chúa Trời ban cho con người – nghĩa là ngươi có quyền bảo vệ tốt bản thân trước hết, không cần quan tâm đến người khác, bảo vệ tốt cuộc sống con người của mình nghĩa là bảo vệ được sự sinh tồn của mình, đây là điều chính đáng. Đương nhiên, nếu nhìn từ góc độ của nhân tính, thì chỉ lo cho bản thân chứ không quan tâm người khác cũng là một biểu hiện ích kỷ, nhưng dạng ích kỷ này là một biểu hiện bình thường của nhân tính và là điều chính đáng. Mặc dù trong cách nhìn nhận của con người, đây là một khiếm khuyết trong nhân tính, nhưng thực ra nó không phải là khiếm khuyết trong nhân tính. Chỉ lo cho bản thân, bản thân ăn no mặc ấm, làm tốt công việc của bản thân, làm tròn nghĩa vụ, vậy là xong chuyện – chứ không biết chăm sóc người khác, cũng không muốn chăm sóc người khác – hành động như vậy là một dạng quyền lợi của ngươi, cũng là một dạng bản năng mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi. Đứng ở góc độ điều kiện bẩm sinh mà nói, nếu người ta còn không biết chăm sóc tốt bản thân, không có dạng bản năng bẩm sinh này, vậy thì không với tới tiêu chuẩn của một người trưởng thành. Dạng ích kỷ này là một dạng phản ứng bản năng của con người. Mặc dù chỉ lo cho bản thân, chỉ bảo vệ quyền lợi và lợi ích của bản thân, chỉ bảo vệ chuyện ăn, mặc, ở và đi lại của bản thân, bảo vệ những chuyện trong phạm vi cuộc sống và công việc của bản thân, nhưng nếu không xâm phạm đến lợi ích của người khác, thì dạng ích kỷ này không bị định tội. Dạng ích kỷ thực sự có thể lên đến mức phẩm chất nhân tính tồi tệ, thì ngoài việc chỉ lo cho bản thân, còn liên quan đến việc xâm chiếm hoặc xâm hại đến lợi ích và quyền lợi của người khác, xâm phạm đến nhân quyền của người khác. Như vậy thì chính là ích kỷ thực sự, là vấn đề về phẩm chất nhân tính tồi tệ rồi. Nếu để bảo vệ lợi ích, danh tiếng, địa vị và thể diện của bản thân, mà ngươi không từ thủ đoạn nào để chiếm đoạt hoặc cưỡng đoạt lợi ích của người khác, biến lợi ích của người khác thành của riêng mình, chỉ suy xét cho bản thân chứ không suy xét cho người khác, thậm chí không cho người khác con đường sống – thì dạng ích kỷ này chính là phẩm chất nhân tính tồi tệ. Chẳng hạn như, buổi tối, mọi người đều ngủ rồi, ngươi thì quá hưng phấn đến nỗi không ngủ được, nên muốn hát một bài. Khi hát thì ngươi kích động đến nỗi bắt đầu gào to, thậm chí còn mở nhạc và nhảy nhót theo. Tâm trạng ngươi tốt lên và được vui vẻ, nhưng ngươi lại khiến mọi người khác thức giấc, không có cách nào ngủ được, như vậy thì gọi là gì? (Thưa, là ích kỷ.) Dạng hành vi này bị gọi là ích kỷ. Đây có phải là phẩm chất nhân tính tồi tệ không? (Thưa, phải.) Tại sao dạng hành vi này là phẩm chất nhân tính tồi tệ? (Thưa, vì không suy xét cho người khác, ảnh hưởng đến chuyện nghỉ ngơi của người khác.) Vì để bản thân vui vẻ mà ngươi không tiếc hy sinh thời gian ngủ nghỉ của người khác, bắt mọi người đều phải theo ngươi mà cùng ca hát, cùng vui vẻ. Vì để đạt được mục đích của bản thân và bảo vệ lợi ích của mình, mà ngươi xâm phạm đến lợi ích và quyền của người khác. Nghĩa là điều kiện để ngươi bảo vệ lợi ích của bản thân chính là hy sinh quyền và lợi ích của người khác. Dạng biểu hiện này gọi là ích kỷ. Lý do gọi dạng ích kỷ này là nhân cách đê tiện và phẩm chất nhân tính tồi tệ chính là vì dạng hành vi này làm tổn hại đến lợi ích của người khác. Ngươi dùng phương tiện không chính đáng để bảo vệ lợi ích của bản thân, đồng thời gây tổn hại và làm hại đến lợi ích của người khác, đây gọi là ích kỷ. Chẳng hạn như, mọi người đang cùng nhau ăn cơm, có người chỉ lo sao cho mình được ăn thịt, rồi ăn luôn cả phần của người khác. Có phải người ăn nhiều thịt như vậy là ích kỷ không? (Thưa, phải.) Họ làm người không có khuôn phép, chỉ suy xét cho bản thân, chẳng quan tâm đến người khác, đây gọi là ích kỷ. Tại sao dạng trường hợp này bị gọi là ích kỷ? Tại sao lại nói đây là phẩm chất nhân tính tồi tệ? Bởi vì để bảo vệ lợi ích của bản thân mà họ xâm chiếm lợi ích của người khác, chiếm đồ của người khác làm của riêng. Đây gọi là ích kỷ, dạng ích kỷ này chính là nhân tính đê tiện và phẩm chất nhân tính tồi tệ. Do đó, nếu vì để bảo vệ quyền và lợi ích của mình mà ngươi xâm chiếm và gây tổn hại đến lợi ích của người khác, thì ngươi chính là người ích kỷ, là loại người có phẩm chất nhân tính tồi tệ, cũng có thể nói là người có nhân tính không tốt. Tuy nhiên, nếu ngươi không gây tổn hại đến lợi ích của người khác, không phá hủy hay phá hoại các mối quan hệ của người khác, mà chỉ là lo cho bản thân chứ chẳng quan tâm người khác, thì dạng ích kỷ này vẫn miễn cưỡng cho qua được. Cùng lắm thì có thể nói người như ngươi không quá tốt bụng, có lòng dạ hẹp hòi, tự tư tự lợi, nhưng con người ngươi không xấu, không đến mức phẩm chất nhân tính tồi tệ. Hai dạng ích kỷ này khác biệt về tính chất phải không? (Thưa, phải.) Xét từ mức độ ích kỷ và thực chất trong hành động mà phân biệt, thì có thể thấy phẩm chất trong người ta không giống nhau, có sự khác biệt.

Có những người chẳng bao giờ quan tâm đến những chuyện không đâu của người khác, chỉ quan tâm chuyện của bản thân mình. Dạng người này nhìn vào thì thấy có vẻ không quá nhiệt tâm, không quá thân thiện, cũng không quá sốt sắng với người khác. Nhưng họ chẳng bao giờ gây nhiễu loạn, bịa lời nói láo hay tung tin đồn về người khác, cũng chẳng bao giờ xâm phạm hay chiếm đoạt đồ của người khác. Đương nhiên, họ cũng không đem đồ của mình cho người khác, nhìn vào thì họ rất bủn xỉn, rất keo kiệt, nhưng họ lại chẳng bao giờ làm tổn hại đến lợi ích của người khác và rất có nguyên tắc trong việc làm người. Loại người này có ranh giới, chính là: “Tôi không chiếm lợi của anh, anh cũng đừng tính chuyện chiếm lợi của tôi. Tôi chẳng bao giờ lợi dụng anh, anh cũng đừng tính chuyện lợi dụng tôi”. Họ rất có nguyên tắc. Mặc dù loại người này rất lạnh nhạt, chẳng nhiệt tâm giúp đỡ người khác, không tương tác với người khác, cũng không thân thiện hay nhiệt tình lắm với người khác, nhưng họ chẳng bao giờ làm hại người khác. Họ có nhiều đồ thì cũng chẳng đem cho người khác. Người khác có đồ gì tốt, họ nhìn thấy thì có lúc cũng ngưỡng mộ, đố kỵ, nhưng không có ý chiếm đoạt vì lòng tham. Họ không lén lút chiếm lợi của người khác, cũng không xâm phạm lợi ích của người khác để phục vụ cho bản thân. Xét từ mấy điểm này thì con người họ không ác. Vậy có phải là nhân tính tốt không? Muốn biết nhân tính có tốt hay không thì phải nhìn xem lương tâm và lý trí của họ thế nào, nhìn xem thái độ của họ trong việc tiếp nhận lẽ thật và tiếp cận những điều tích cực như thế nào – đây là một chuyện khác rồi. Nhưng ít nhất, xét từ thái độ và phương thức của họ khi chung sống với người khác, thì họ không ác độc khi đối đãi với người ta. Nhìn bề ngoài thì họ rất ích kỷ, chỉ lo cho bản thân, sống trong thế giới nhỏ bé của riêng mình, chẳng quan tâm đến những chuyện không đâu của người khác. Nhưng xét từ chuyện họ chẳng bao giờ làm tổn hại lợi ích của người khác, thì phẩm chất nhân tính của họ vẫn ổn. Nghĩa là ngươi mà giao tiếp với họ, hoặc có qua lại về mặt vật chất, tình cảm với họ, thì ít nhất họ sẽ không làm tổn hại đến lợi ích của ngươi. Nếu ngươi yêu cầu họ đưa ra chủ ý hoặc cho ngươi ý tưởng gì, thì họ sẽ giúp, nhưng ngươi không yêu cầu thì họ sẽ không chủ động giúp ngươi. Xét từ biểu hiện này, thì người này có vẻ rất lạnh nhạt, nhưng xét từ chuyện họ chẳng bao giờ chiếm lợi của người khác hoặc xâm hại lợi ích của người khác, thì họ vẫn còn có nhân tính, vẫn tương đối không tệ. Nhìn nhận như vậy thì có chính xác và khách quan không? (Thưa, có.) Do đó, không phải hết thảy mọi người ích kỷ đều là kẻ ác hoặc người có phẩm chất nhân tính kém. Ngươi còn phải xem mức độ ích kỷ của họ có đến mức gây tổn hại lợi ích của người khác hoặc chiếm đoạt tài sản của người khác hay không, còn phải xem nguyên tắc làm người và xử thế của họ là gì, thực chất trong phẩm chất nhân tính của họ là gì, nhìn xem họ làm người thì có ranh giới và nguyên tắc hay không. Có những người bề ngoài khi chung sống với người khác thì có vẻ rất rộng rãi, rất nhiệt tâm, còn có thể cho đi và giúp người, xử lý việc cho người khác. Ngươi có chuyện gì thì không chờ ngươi mở miệng, chỉ cần họ thấy là liền có thể đưa tay ra giúp ngươi. Xét từ những biểu hiện này của họ thì có vẻ họ rất tốt bụng. Nhưng nếu ngươi đắc tội với họ hoặc vô ý làm việc gì gây tổn hại đến lợi ích của họ, thì họ sẽ không bỏ qua, sẽ ghi thù với ngươi, sẽ lôi chuyện cũ ra mà nói, chưa trị chết ngươi thì họ chưa ngừng tay. Đây chính là kẻ ác, so với loại người ích kỷ bề ngoài, thì nhân tính của loại người này còn kém hơn nhiều. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Giữa mọi người, trong hai loại người này thì loại người nào có nhiều hơn? Các ngươi thích loại người nào hơn? Đa số mọi người không thích người đã lạnh nhạt với người khác lại còn ích kỷ. Có người thấy ngươi có khó khăn liền có thể chủ động giúp đỡ, ngươi không yêu cầu mà họ cũng hỏi ngươi xem có cần giúp không, nếu ngươi cần giúp thì họ liền có thể giúp ngươi. Dạng người này có lòng yêu thương với người khác, có khuynh hướng cho đi và giúp đỡ người ta. Có những người thấy ngươi khó khăn thì không chủ động giúp ngươi, nhưng chỉ cần ngươi mở miệng nhờ thì họ cũng giúp, mặc dù loại người này có chút bị động, nhưng cũng không tệ, cũng được tính là người tốt. Còn có một loại người nữa – ngươi có khó khăn lớn đến đâu họ cũng không giúp, ngay cả khi ngươi nhờ họ thì họ cũng tìm lý do và viện cớ để thoái thác, loại người này chính là người ích kỷ nhất. Có những người bề ngoài thường hay nói: “Có chuyện gì cần giúp thì cứ nói một tiếng nhé”. Lúc bình thường không có chuyện gì, thì họ đặc biệt nhiệt tâm, đặc biệt chủ động và tích cực, nhưng chờ đến lúc ngươi thực sự có chuyện nhờ họ giúp, thì giúp xong, họ sẽ nói bóng nói gió để đòi nợ, kiểu như: “Vì xử lý cho anh chuyện này, mà tôi tốn chừng này tiền để quà cáp cho lãnh đạo…”. Ngươi thấy bề ngoài họ có vẻ rất nhiệt tâm, phục vụ và xử lý việc cho ngươi mà chẳng tính công, nhưng khi xử lý việc xong rồi, thì món nợ ân tình này ngươi trả mãi cũng không hết. Người này quá nham hiểm! Có thể qua lại với dạng người này không? (Thưa, không thể.) Ta thì không qua lại với loại người này đâu. Loại người khéo ăn khéo nói, đặc biệt nhiệt tâm và chu đáo, trước mặt thì nói rất hay, nhưng sau lưng thì làm việc xấu. Họ hành động thì chẳng có chút nguyên tắc nào, họ là thứ nham hiểm, miệng nam mô bụng một bồ dao găm. Lúc không có chuyện gì thì họ tí toe tí toét với ngươi, có vẻ thân thiết lắm, đến lúc ngươi thật sự có chuyện và cần họ giúp thì chẳng thấy bóng dáng họ đâu. Ngay cả những việc rất dễ với họ mà họ cũng tìm lý do và viện cớ để thoái thác. Ngay cả việc dễ như trở bàn tay mà họ cũng đòi ngươi ghi chút ân tình. Họ mà xử lý việc gì đó cho ngươi thì phải nghĩ đủ mọi cách khiến ngươi đưa cho họ thứ gì đó để đổi lại, cái ân tình này ngươi trả mãi cũng không xong. Mặt khác, loại người bề ngoài lạnh nhạt và có vẻ rất ích kỷ thì thường có ranh giới trong việc làm người và rất cẩn trọng trong hành động, mặc dù họ hờ hững với ngươi, nhưng lại chẳng bao giờ tính kế với ngươi. Ngươi thực sự mở miệng nhờ họ giúp xử lý việc gì đó, thì chắc chắn họ sẽ vô cùng nghiêm túc mà xử lý cho ngươi. Họ xử lý xong rồi, ngươi báo đáp họ một chút ân huệ cũng được, tặng họ chút vật chất cũng được, họ đều có thể tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn. Còn nếu ngươi không đền đáp họ gì cả, thì họ cũng không đòi, cũng sẽ không nhắc mãi chút chuyện nhỏ đó mà đòi ân huệ hay đòi nợ ngươi. Loại người này chân thật, bề ngoài thế nào thì trong lòng thế ấy. Nhưng thường thì mọi người đều không thích loại người này, nói loại người này ích kỷ, không dễ chung sống, lạnh nhạt và không có tình người. Mọi người không sẵn lòng qua lại với dạng người này, nhưng thực ra nhân tính của loại người này vẫn không tệ. Các ngươi hãy nhìn xem quanh mình có ai là loại người này không. Mặc dù họ không giỏi ăn nói, tính cách cũng tương đối lạnh nhạt, bề ngoài có vẻ chẳng có tình người, chẳng biết qua lại và bắt chuyện với người khác, nhưng họ làm người vẫn rất có nguyên tắc. Cho dù không hẳn là họ cực kỳ tốt bụng, nhưng tâm địa của họ không độc ác, ít nhất họ không có ác ý gì với đa số mọi người. Bề ngoài của họ thế nào thì trong lòng họ cũng như vậy. Họ không dùng thủ đoạn hay triết lý xử thế để lung lạc người khác. Dạng người này đơn thuần. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Vậy có phải các ngươi đã có căn cứ về cách đối đãi đúng đắn với loại người này rồi không? Dựa vào điều gì mà đối đãi họ? Không thể dựa vào cảm giác hay sở thích của ngươi, cũng không thể dựa vào chuyện ngươi có thích loại người này không, họ có hợp với ngươi không, có giúp đỡ ngươi không, có lợi cho ngươi không, thái độ của họ đối với ngươi thế nào – không thể dựa vào những chuyện này. Mà ngươi phải dựa vào phẩm chất nhân tính và thực chất nhân tính của họ, dựa vào thái độ của họ đối với người khác, đối với lẽ thật và những điều tích cực – ngươi phải dựa vào những điều này mà đối đãi với loại người ích kỷ. Nếu họ thực sự là kẻ ác, thì hãy xử lý họ như kẻ ác. Nếu bề ngoài họ ích kỷ, nhưng nhân tính của họ không ác, thì không được đối đãi với họ như kẻ ác hoặc người có nhân tính không tốt. Ngay cả khi ngươi không thích loại người này, hoặc họ không giỏi chuyện qua lại với người khác và bảo vệ quan hệ giữa người với người, thì ngươi cũng không thể vì bề ngoài ích kỷ của họ mà xem họ là kẻ ác hay người không có nhân tính – như vậy là có thiên kiến đối với loại người này. Bây giờ, các ngươi đã có nguyên tắc về cách đối đãi với loại người ích kỷ này rồi phải không? Không thể vơ đũa cả nắm, mà phải dựa vào thực chất nhân tính của họ, cũng như thái độ của họ đối với lẽ thật, bổn phận và chuyện làm người – đây là nguyên tắc để ngươi đối đãi với loại người này. Mối thông công về vấn đề ích kỷ đến đây là xong.

Biểu hiện tiếp theo là ba hoa khoác lác và không làm việc thật. Trước tiên hãy nói xem đây là dạng vấn đề nào. Dạng người này thích nói đạo lý cao vời, thích ba hoa khoác lác. Những lúc nhóm họp, họ thường xuyên bàn luận về lý tưởng và ý chí của mình, về nhận thức của mình và kế hoạch của mình đối với công tác. Nhưng đến khi làm việc thật thì họ chẳng có chút sức nào. Loại người này có vấn đề gì? Đây là vấn đề về điều kiện bẩm sinh, nhân tính hay là tâm tính bại hoại? (Thưa, con cảm thấy cái này thuộc về tâm tính bại hoại.) Là tâm tính bại hoại sao? Trong chuyện này chẳng phải có hai vấn đề sao? Một là khiếm khuyết trong nhân tính – không sẵn lòng làm việc thật, vì ngại rằng làm việc thật thì phải lao tâm, phải chịu khổ, trả giá và hao tốn sinh lực. Như vậy chẳng phải có chút lười biếng sao? Lười biếng có phải là khiếm khuyết trong nhân tính không? (Thưa, phải.) Người lười biếng như vậy thì chẳng làm được việc thật nào, lại còn muốn ba hoa khoác lác, còn thích đứng trên cao mà giảng đạo lý cao vời cho người khác. Như vậy chẳng phải là tâm tính không tốt sao? Chẳng phải là có yếu tố của tâm tính bại hoại sao? (Thưa, phải.) Vậy nó là dạng tâm tính bại hoại nào? (Thưa, là kiêu ngạo.) Nó là tâm tính bại hoại kiêu ngạo. Cộng thêm vào đó, họ lười biếng, siêng ăn nhác làm, làm việc thì không thiết thực, không sẵn sàng làm việc chăm chỉ, mà còn muốn ăn trên ngồi trốc, chiếm giữ địa vị cao và giảng đạo cho người khác – họ chỉ sẵn lòng mở miệng chứ chẳng sẵn lòng động tay. Thói xấu trong nhân tính của họ rất lớn, tâm tính bại hoại cũng rất rõ ràng. Đây chẳng phải là hai vấn đề rất rõ ràng sao? (Thưa, phải.) Có phải dạng người này rất đông không? (Thưa, phải.) Khi bàn chuyện công tác thì họ ba hoa khoác lác, nói mãi không thôi, đến khi làm việc thật thì lại chẳng tiến nổi một bước. Khỏi bàn đến chuyện tố chất của loại người này thế nào – chỉ xét từ chuyện họ toàn nói mà chẳng làm việc thật thì có thể xác định tính chất họ là một phế nhân. Họ không làm việc thật mà còn muốn ăn trên ngồi trốc và hưởng thụ lợi ích của địa vị, như vậy chẳng phải là kiêu ngạo đến mức không có lý trí sao? Chỉ biết nói mà không làm chút việc thật nào, lại còn lười biếng và kiêu ngạo, thì đây là phế nhân rồi chứ gì nữa? Bảo họ hành động và làm việc thật nào đó, bố trí và lên kế hoạch công tác, thực hiện công tác, thì họ không sẵn lòng làm, trong lòng còn chống đối – loại người này quá lười biếng rồi! Đây chính là kẻ lông bông không chuyên tâm vào việc chính đáng. Họ thích bàn luận bừa bãi lúc rảnh rỗi, chẳng muốn làm bất kỳ việc gì, chỉ muốn sống lê lết cho qua ngày, muốn ăn ngon mặc đẹp, thế mà còn muốn được người ta xem trọng và hưởng thụ đãi ngộ tốt, đãi ngộ của địa vị. Nhân tính của họ thế nào? (Thưa, không tốt.) Các ngươi nhìn dạng người này thì có thấy ghê tởm không? (Thưa, ghê tởm.) Có vài người, khi thấy những người có tài ăn nói mà không làm việc thật, thì còn rất ngưỡng mộ, cảm thấy: “Người ta nói chuyện thao thao bất tuyệt, nói chuyện gì cũng có lớp có lang – như vậy cho thấy họ có thực tế lẽ thật”. Rõ ràng những người sáng suốt đều có thể phát hiện ra rằng những lời họ thường nói đều là học từ các bài giảng đạo và thông công của nhà Đức Chúa Trời, chứ chẳng phải phát xuất từ trải nghiệm riêng của họ. Do đó, họ giảng đạo thì giỏi lắm, nhưng lại chẳng giải quyết được vấn đề gì. Qua thời gian, mọi người đều có thể thấy rõ người này vốn là một tên lừa đảo. Ngươi hỏi cái gì, họ cũng không giải đáp được, không nói ra được nguyên tắc và con đường thực hành, thế mà còn muốn ngươi xem trọng họ. Họ làm cách nào để khiến ngươi xem trọng họ? Chính là bằng cách biểu diễn và diễn thuyết để đạt được địa vị trong lòng ngươi, khiến ngươi ngưỡng mộ, khâm phục và xem trọng họ. Chẳng phải loại người này không có liêm sỉ sao? Công tác thực tế nào họ cũng không làm, có làm cũng không được, vậy mà còn muốn khiến người ta xem trọng, còn muốn phí phạm thời gian và sinh lực của người khác để nghe họ ba hoa khoác lác, đến cuối cùng thì họ chẳng giải quyết được vấn đề gì. Những người mới tin một hai năm vẫn có thể bị họ mê hoặc, nhưng những người đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm và hiểu được chút thực tế lẽ thật rồi thì sẽ không muốn nghe họ ba hoa khoác lác. Nhưng ngươi mà không nghe họ, thì họ còn nghĩ xấu về ngươi, nói ngươi không yêu thích lẽ thật. Có phải loại người này rất phiền phức không? (Thưa, phải.) Đối với phương diện lẽ thật nào họ cũng hiểu nửa vời, họ có hiểu được chút đạo lý thì cũng không nói cho rõ được, vậy mà còn muốn giảng cho người khác, bảo người khác tiếp nhận. Ngươi mà không nghe, thì họ sẽ nói ngươi không yêu thích lẽ thật và không tôn trọng họ. Nhưng ngươi mà nghe họ giảng thì trong lòng sẽ khó chịu và ngồi không yên. Tại sao ngươi ngồi không yên? Vì ngươi còn có rất nhiều vấn đề cần giải quyết, rất nhiều công tác cần làm, đâu có thời gian nghe họ ba hoa khoác lác. Nếu có ai thực sự ngưỡng mộ những người ba hoa khoác lác này, thì đó là loại người nào? Đều là kẻ rảnh rỗi, kẻ ngốc, ăn no rửng mỡ. Dạng người này khi làm bổn phận thì cũng không có lòng trung thành, không biết mang chút gánh nặng nào, chỉ muốn sống qua ngày, ăn chực rồi chờ chết. Ngày ngày, họ nghe chút đạo lý cao sâu để giết thời gian, còn cảm thấy bản thân đã có thu hoạch và sự phát triển khi tin Đức Chúa Trời, cho rằng: “Lẽ thật mà người này giảng mỗi ngày một cao hơn, sẽ sớm lên đến tầng trời thứ ba! Đây đều là lẽ mầu nhiệm từ trời!”. Họ nghe rất nhiều đạo lý mà người ba hoa khoác lác giảng, nhưng vẫn chẳng biết cách để trung thành khi làm bổn phận, chẳng biết nên tuân thủ nguyên tắc nào khi làm bổn phận. Vậy thì họ nghe những thứ này có ích gì không? (Thưa, không.) Khi gặp phải loại người ba hoa khoác lác và giảng đạo lý cao vời này, thì các ngươi nên làm thế nào? Sát sao đi theo hay là cự tuyệt? (Thưa, cự tuyệt.) Cự tuyệt như thế nào? Các ngươi phải biết cách cự tuyệt, và biết tại sao lại cự tuyệt. Nếu không biết, thì lúc cự tuyệt, trong lòng ngươi vẫn sẽ ngẫm nghĩ rằng: “Cự tuyệt họ thì có phải là không yêu thích lẽ thật không?”. Nếu có ý nghĩ đó thì phiền phức cho ngươi rồi – như vậy chứng tỏ ngươi không có sự phân định, không hiểu thực tế lẽ thật là gì. Ngươi nghe họ giảng đạo mà còn cho rằng họ đang thông công lẽ thật, trong lòng còn tán thành, thì ngươi quá ngu xuẩn rồi. Nếu ngươi có sự phân định đối với mọi đạo lý mà loại người ba hoa khoác lác này giảng, thì ngươi nên cự tuyệt. Lý do là vì những thứ họ giảng đều là đạo lý và lời nói suông, chẳng có tác dụng gì. Đây gọi là ăn bánh vẽ cho đỡ đói, là trông rừng mơ cho đỡ khát, căn bản không giải quyết được vấn đề thực tế. Họ giảng rất nhiều đạo lý, nhưng những đạo lý họ nói đều không khớp với các vấn đề thực tế mà người ta gặp trong lúc làm bổn phận, và căn bản không giải quyết được chúng. Có nghe những thứ đó hay không thì cũng như nhau thôi. Họ chẳng biết cách giải quyết những vấn đề phát sinh trong công tác phúc âm và đời sống hội thánh, chẳng biết cách thực hiện sự sắp xếp công tác, chẳng biết công tác nào có thiếu sót và lỗ hổng cần được khắc phục và theo sát, cũng chẳng biết cách giải quyết và phản bác những quan niệm lệch lạc mà người khác nêu ra – mọi điều này họ đều không biết, vậy ngươi nghe họ ba hoa khoác lác, chẳng phải là lãng phí thời gian sao? Đây chính là lý do để cự tuyệt. Do đó, ngươi nên cự tuyệt những thứ ba hoa khoác lác này, bởi vì những thứ họ giảng không phải là lẽ thật, mà là đạo lý. Đạo lý là gì? Chính là những lời phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người. Khi thông công nguyên tắc lẽ thật, những người này không nhắm đến thực chất của vấn đề. Lời họ nói dù dễ nghe và rõ ràng mạch lạc, nhưng lại chẳng giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Vậy thì những lời này là đạo lý, nghe có vẻ đúng đến đâu cũng không phải là nguyên tắc lẽ thật. Có những người mặc dù lời lẽ rất nông cạn, nhưng lại có thể nói đúng mấu chốt của vấn đề, nói đến tận thực chất của vấn đề. Cho dù có vài lời rất khó nghe, như đang mắng người ta, nhưng đó lại là những lời mà người ta có thể tiếp nhận, lại có thể giải quyết vấn đề. Không nghi ngờ gì nữa, những lời này phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Có những lời mặc dù dễ nghe, khéo léo, nho nhã, cao sâu, nhưng căn bản không giải quyết được vấn đề thực tế, chẳng có chút gì liên quan đến nguyên tắc lẽ thật, cũng chẳng chỉ ra con đường và phương hướng cho người ta. Chúng đều là những đạo lý tưởng đúng mà sai. Những lời này nên bị cự tuyệt. Lý do để cự tuyệt là vì việc ba hoa khoác lác của họ đang làm lãng phí thời gian mà ngươi nên dành cho việc làm bổn phận và tìm kiếm lẽ thật, làm lãng phí sinh lực của cá nhân ngươi, do đó, ngươi nên cự tuyệt. Làm thế nào để cự tuyệt? Đơn giản nói một câu “Hẹn gặp lại”, đây chẳng phải là cự tuyệt rồi sao? Hoặc ngươi có thể nói: “Anh đừng nói nữa, những chuyện này tôi hiểu cả rồi. Còn câu tôi hỏi anh, lúc nào anh mới trả lời đây? Nếu anh không trả lời được, thì anh mau đi đi, đừng làm phí thời gian của tôi”. Cự tuyệt như vậy có tốt không? (Thưa, tốt.) Ta thấy là rất tốt, nếu không, còn cách nào để các ngươi cự tuyệt họ nữa? Ngươi từ chối nghe họ ba hoa khoác lác, giảng đạo lý và hô khẩu hiệu thì cũng giống như cự tuyệt người Pha-ri-si vậy. Loại người này chẳng làm được việc thật gì, nhân tính của họ không đạt tiêu chuẩn, tố chất cũng kém, căn bản không làm được công tác thực tế, vậy mà họ còn dùng đạo lý cao vời để mê hoặc ngươi. Nếu không cự tuyệt họ thì ngươi quá ngu xuẩn rồi. Gặp phải loại người này mà dùng biện pháp cự tuyệt là đúng. Cứ nói “Bái bai” rồi đi. Đây là chuyện rất dễ giải quyết, phải không nào? Đối với loại người ba hoa khoác lác và không làm việc thật, thì cứ đối đãi như vậy. Loại người này không phải là người làm việc nghiêm túc và thích đáng, không phải là người làm việc một cách thiết thực. Lời họ nói chẳng có độ đáng tin gì cả, chẳng đáng để ngươi lưu luyến, chẳng đáng để ngươi xem là lời khuyên hiệu quả hoặc con đường hiệu quả mà nghe. Do đó, đối với những lời lẽ ba hoa khoác lác của họ, các ngươi cứ cự tuyệt thẳng thừng là tốt rồi, không cần ghi lại, cũng không cần trân quý. Về vấn đề ba hoa khoác lác, chúng ta nói đến đây là xong.

Tiếp theo, hãy nói về một biểu hiện khác: mê bàn luận chính trị. Có những người thích bàn luận tình hình trong nước hoặc quốc tế, bàn luận những chính sách và phát ngôn của các nhân vật chính trị thượng tầng, cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, phương thức và phương tiện thực thi đủ loại chính sách, cùng đủ mọi thứ khác của các nhân vật chính trị thượng tầng. Tóm lại, họ thường xuyên bàn luận một vài chủ đề liên quan đến chính trị, dù là chuyện thời xưa hay thời nay, dù là chuyện trong nước hay quốc tế, họ đều thích đem ra nói lúc này lúc kia. Mê bàn luận chính trị là thuộc về điều kiện bẩm sinh, nhân tính, hay là tâm tính bại hoại? Các ngươi không biết, phải không nào? Bởi vì chủ đề này có chút đặc biệt. Cái họ thích bàn luận là chính trị, mà trong mắt các ngươi thì chính trị không phải là chuyện tích cực. Các ngươi nghĩ: “Nếu nói rằng mê bàn luận chính trị là một hứng thú và sở thích trong điều kiện bẩm sinh, thì Đức Chúa Trời không nên cho con người dạng hứng thú và sở thích này. Nếu nói rằng nó là nhân tính không tốt, vậy chỉ bàn luận một chút mà không làm ra việc xấu gì thì cũng không nên xem là nhân tính không tốt, càng chẳng lên đến mức nhân tính bại hoại. Vậy nên phân loại nó vào đâu?”. Vì vậy cuối cùng, các ngươi cũng không đưa ra được kết luận. Chuyện có phải như vậy không? (Thưa, phải.) Vậy các ngươi nghĩ như vậy có đúng hay không? Tại sao cuối cùng lại không có kết luận? Các ngươi bị kẹt ở đâu? Chính là bị kẹt ở hai chữ “chính trị”, phải không? (Thưa, phải.) Nếu Ta nói về chuyện mê bàn luận nghệ thuật, âm nhạc, vũ đạo, thiết kế hoặc kinh tế, thì nên quy chúng vào phương diện nào? (Thưa, quy vào hứng thú và sở thích trong điều kiện bẩm sinh.) Nếu Ta nói đến chuyện mê bàn luận lịch sử hoặc ẩm thực, thì nên quy chúng vào phương diện nào? (Thưa, điều kiện bẩm sinh.) Nói đến chuyện mê bàn luận gì đó, mê nghiên cứu gì đó, hoặc có sở trường gì đó, thì nghĩa là họ yêu thích phương diện này, có hứng thú với phương diện này. Cho nên chúng được quy vào hứng thú và sở thích trong điều kiện bẩm sinh. Nhưng bởi vì đối tượng mà họ mê bàn luận là chính trị, nên các ngươi không dám phân loại như vậy. Tại sao lại không dám phân loại như vậy? Bởi vì chủ đề chính trị rất nhạy cảm, và chính trị không phải là điều tích cực cho lắm, phải không? (Thưa, phải.) Mặc dù chính trị không phải là điều tích cực cho lắm, nhưng như chúng ta vừa nói, hoạt động trong việc mê bàn luận chính trị là hoạt động bàn luận. Do đó, nên quy nó vào hứng thú và sở thích trong điều kiện bẩm sinh. Hứng thú và sở thích bẩm sinh của những người này là tương đối thích quan tâm chuyện chính trị và thảo luận về chính trị. Nhưng họ có tham gia chính trị không? Hiện tại vẫn chưa nói đến chuyện đó, bây giờ vẫn chỉ hạn chế trong hành động “bàn luận”, vậy chỉ có thể quy nó vào hứng thú và sở thích trong điều kiện bẩm sinh. Giờ các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Nói như vậy là khách quan, là đúng sự thật, phải không? (Thưa, phải.) Chẳng hạn như, có một người thích bàn luận về các vua chúa cổ đại, thường nói về chuyện đại đế này đối đãi với đại thần và bách tính thế nào, đại vương kia trong thời gian chấp chính đã chuyên chăm lo việc triều chính và yêu dân ra sao, lương thực dự phòng trong nước đầy đủ, đời sống của bách tính đạt đến mức nào, hay đại đế nọ là bạo chúa, trong thời gian họ chấp chính thì dân chúng lầm than, còn họ thì ở trong cung điện mà rượu thịt ê hề, sống đời sống cực kỳ xa hoa. Sau đó, họ lại bàn luận về vấn đề của một vài nhân vật chính trị đương thời, ai làm tốt, ai làm không tốt, v.v.. Chỉ là họ thích bàn luận mấy chuyện đó thôi. Nói cách khác, người này bẩm sinh đã tương đối hứng thú với loại chủ đề hoặc loại chuyện này. Cách thư giãn và giải trí của họ trong cuộc sống thường nhật chính là bàn luận những chuyện chính trị này, họ dùng chúng để tiêu khiển, giết thời gian, đây là một phần trong cuộc sống của họ. Nếu chỉ là mê bàn luận chính trị, thì nó chỉ là hứng thú và sở thích thôi, vậy thì nó có liên quan đến nhân tính không? Chỉ nhìn từ tầm mức mê bàn luận chính trị của họ thì không nhìn ra được phẩm chất nhân tính của họ ra sao, bởi vì đâu có thấy được thái độ và quan điểm của họ đối với chính trị là thế nào. Họ chỉ thích bàn luận loại chủ đề này, thấy hứng thú với những chuyện này, chứ nó chẳng liên quan gì đến nguyên tắc làm người của họ cả. Nếu chỉ là mê bàn luận chính trị, lấy nó làm chủ đề tiêu khiển, đề tài nói chuyện trong cuộc sống thường nhật, hoặc lấy nó làm tiêu điểm bàn luận thường xuyên khi đối nhân xử thế, thì nó là hứng thú và sở thích, chẳng liên quan đến nhân tính. Người có dạng hứng thú và sở thích này thì cũng giống như người có những sở thích khác, đều bình đẳng như nhau. Không thể vì họ thích bàn luận chính trị mà xác định tính chất họ là có dã tâm, nhân tính không tốt, hoặc phẩm chất nhân tính tồi tệ. Mặc dù người tin Đức Chúa Trời không tham gia chính trị, nhưng về bản thân chính trị, thì mỗi một người đều có quyền tham gia chính trị. Chính trị không phải là điều tích cực, nhưng cũng không thể nói nó là điều tiêu cực – nó chỉ là một chuyện tồn tại tất nhiên trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Cho nên, nếu người nào đó chỉ là mê bàn luận chính trị thì chuyện đó không thể cho thấy phẩm chất nhân tính của họ như thế nào. Cũng như một người nào đó thích nhảy múa, thì ngươi không thể nói họ là tà môn hoặc không chuyên tâm vào việc chính đáng. Hay một người nào đó thích sản phẩm điện tử, thì ngươi cũng không thể nói họ có thể làm được việc lớn hoặc là nhân vật tích cực. Nhận xét kiểu đó thì có đúng hay không? (Thưa, không đúng.) Vậy nên đánh giá thế nào? Nên đánh giá dựa vào việc ngươi dùng hứng thú và sở thích của mình để làm gì. Nếu ngươi làm sự nghiệp chính nghĩa, thì hứng thú và sở thích của ngươi có thể tạo ra giá trị có lợi. Còn nếu ngươi dùng hứng thú và sở thích của mình để làm một vài chuyện tiêu cực, làm hại người khác và gây tổn hại lợi ích của người khác, thì vẫn không thể nói hứng thú và sở thích của ngươi là tiêu cực – thay vào đó, nó nghĩa là ngươi có nhân tính xấu và con đường mà ngươi đi là sai. Ngươi dùng hứng thú và sở thích để làm việc xấu, nhưng những hứng thú, sở thích, sở trường, cùng nghiệp vụ, kỹ thuật và tri thức có liên quan của ngươi, bản thân chúng không phải là những thứ tiêu cực. Bất kể hứng thú và sở thích của ngươi là gì, thì chúng đều là thứ cho ngươi sử dụng. Ngươi đi con đường đúng đắn, thì việc mà ngươi làm ra dựa trên hứng thú và sở thích của mình sẽ là chính nghĩa, còn ngươi không đi theo con đường đúng đắn, thì chuyện mà ngươi dùng hứng thú và sở thích để làm ra sẽ không chính nghĩa, mà sẽ tà ác. Chẳng hạn như, máy tính chỉ là một cái máy, là thứ công cụ kỹ thuật. Ngươi có thể dùng máy tính để nhóm họp, giảng đạo, hoặc rao truyền phúc âm. Nhưng đồng thời, có rất nhiều người xấu và tà ác cũng có thể dùng máy tính để làm ra những chuyện tà ác. Vậy nên, lúc máy tính được dùng cho sự nghiệp chính nghĩa, ngươi không thể nói rằng tự thân máy tính là chính nghĩa, còn lúc máy tính bị dùng để làm việc tà ác thì ngươi cũng không thể nói tự thân máy tính là tà ác. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Cũng như vậy, với loại người mê bàn luận chính trị, thì biểu hiện thích bàn luận chính trị của họ thuộc về hứng thú và sở thích, chứ không liên quan đến vấn đề về thực chất nhân tính. Ngoài ra, người mê bàn luận chính trị thì trong lòng thích chủ đề về phương diện chính trị. Họ luôn mê bàn luận chuyện thị phi, luôn mê tranh cãi với người khác về một vài chủ đề liên quan đến quan điểm chính trị. Có những người đặc biệt thấy hứng thú với các chủ đề liên quan đến danh nhân và vĩ nhân. Cũng có những người đặc biệt thấy hứng thú với các chủ đề vạch trần mặt đen tối của xã hội. Nhưng bất kể thế nào đi nữa, thì người mê bàn luận chính trị đều không có lẽ thật và Đức Chúa Trời không có địa vị trong lòng họ. Đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Được rồi, về cơ bản chúng ta đã nói gần xong về vấn đề mê bàn luận chính trị rồi.

Mê bàn luận chính trị là hứng thú và sở thích của một số người. Tiếp theo, hãy nâng thêm một bậc, nói về chuyện thích tham gia chính trị. Thích tham gia chính trị thì khác với mê bàn luận chính trị – vì nó có hành động rồi. Thích tham gia chính trị không chỉ là một dạng đề tài nói chuyện hay việc giải trí lúc trà dư tửu hậu, cũng không chỉ dừng lại ở mức độ hứng thú và sở thích, hay mức độ quan tâm mà thôi. Thay vào đó, nó liên quan đến con đường mà người ta đi. Vậy người thích tham gia chính trị thì đi con đường nào? Con đường đó có liên quan đến nhân tính của họ hay không? (Thưa, có.) Vậy nên quy việc thích tham gia chính trị vào phương diện nào? Đối với các ngươi mà nói thì đây đều là câu hỏi khó, các ngươi đều nhìn không thấu. Vậy chúng ta hãy thông công về nó. Ở mọi ngành nghề đều có những người mê bàn luận chính trị. Ngươi xem, mặc dù người nông dân sống ở tầng thấp nhất trong xã hội, nhưng có những nông dân lại biết rất nhiều chuyện chính trị thượng tầng, họ có thể nói ra được một vài quan điểm liên quan đến chính trị. Người làm thương nghiệp và kinh tế cũng bàn luận chính trị, thậm chí người làm trong ngành văn nghệ và giáo dục cũng bàn luận chính trị. Nghĩa là trong mọi ngành nghề đều có những người yêu thích bàn luận chính trị, đều có những người thấy hứng thú với chủ đề chính trị. Bất kể ở trong ngành nghề nào, người ta mê bàn luận chính trị hoàn toàn là vì có một dạng hứng thú với chính trị. Hứng thú này có mối quan hệ nhất định với tố chất bẩm sinh và cao độ nhìn nhận sự việc của người ta. Họ có thể nắm bắt được những chuyện trong phạm vi quyền lực chính trị, do đó thỉnh thoảng họ sẽ bày tỏ một vài quan điểm của bản thân. Biểu hiện của loại người này chỉ dừng lại ở mức hứng thú và sở thích trong điều kiện bẩm sinh. Nhưng tham gia chính trị thì không phải là thỏa mãn với dạng hứng thú và sở thích này ở tầm mức tư tưởng, mà nghĩa là từ bỏ ngành nghề ban đầu của mình mà chọn công việc chính trị, bước lên vũ đài chính trị và qua lại với các nhân vật chính trị. Vậy vấn đề với loại người này là gì? Cũng có khả năng loại người thích tham gia chính trị này bình thường không bàn luận gì nhiều về chính trị, nhưng bất kể chọn nghề nghiệp gì, chỉ cần không làm công việc có liên quan đến chính trị, thì họ sẽ không hứng thú, và cảm thấy tiền đồ của mình ảm đạm, u ám. Còn khi nói đến chuyện tham gia chính trị, thì hai mắt họ sáng lên đầy ham muốn, và hứng thú trỗi dậy. Họ nghe ai đó đang tranh cử chức thị trưởng, thống đốc, nghị viên hay tổng thống, thì trong lòng sẽ cảm thấy mất mát, sẽ nghĩ đủ mọi cách để tham gia. Họ là loại người gì? Chẳng phải là loại người có dục vọng cực lớn về quyền lực sao? (Thưa, phải.) Vậy trong nhân tính của loại người này có thêm thứ gì? Họ xem tiền như mạng sống, hay là xem quyền như mạng sống? (Thưa, họ xem quyền như mạng sống.) Họ xem quyền lực cao hơn tất cả, xem quyền lực như mạng sống của mình, và biến nó thành mục tiêu mưu cầu cả đời của mình. Vậy rốt cuộc họ là loại người gì? Trong nhân tính của họ có thêm thứ gì mà dân chúng bình thường không có? (Thưa, là dã tâm và dục vọng.) Họ có dã tâm và dục vọng làm chuyện gì? (Thưa, là nắm quyền.) Lợi ích trực tiếp nhất mà việc nắm quyền đem lại cho họ là gì? (Thưa, là đạt được địa vị và được người khác xem trọng.) Chúng đều là thứ yếu, không phải là điều mấu chốt. (Thưa, họ muốn khống chế người khác.) Nói vậy là gần đúng rồi. Nếu có người nào thích làm quan, nhưng chức quan đó chỉ là danh hão, chẳng có thuộc hạ nào dưới quyền, vậy thì có được tính là có quyền lực hay không? (Thưa, không tính.) Vậy thì không tính là có quyền lực. Họ chẳng có đặc quyền gì, cũng chẳng hưởng thụ được lợi ích gì của việc làm quan. Trong mắt họ thì chức quan này có giá trị thực tế nào không? (Thưa, không có.) Do đó, thứ mà loại người này có nhưng người khác không có chính là dã tâm và dục vọng cực kỳ mãnh liệt đối với quyền lực. Có dạng dã tâm và dục vọng này rồi, thì mục đích mà họ muốn đạt được không chỉ đơn giản là khiến người khác xem trọng, sùng bái và ngưỡng mộ, mà là họ muốn làm quan và có quyền định đoạt, muốn lãnh đạo người khác. Có dạng dã tâm và dục vọng này, mà lại không có địa vị, thì họ có thể đạt được mục đích sao? Có thể có người nghe lời họ sao? Tuyệt đối không thể, do đó, họ phải đạt cho bằng được địa vị. Có địa vị rồi, họ nói thì sẽ có người nghe, họ yêu cầu người ta làm việc gì thì sẽ có người có thể thuận phục và làm theo – dã tâm và dục vọng, cùng chuyện họ muốn làm sẽ có thể trở thành hiện thực. Người thích tham gia chính trị, nói cho dễ nghe thì họ rất cao thượng và có chí lớn, còn nói trắng ra thì họ mê làm quan – họ thích làm quan mà thôi. Lúc họ chưa làm quan và không thể có quyền định đoạt, không có vài thuộc hạ để lãnh đạo, thì họ sẽ nguội chí nản lòng, cảm thấy cuộc đời tăm tối. Nhưng ngay khi làm quan rồi, có người nghe lời mình và có người đi theo mình rồi, thì họ cảm thấy sống thật thú vị. Có phải nhân tính của loại người này có vấn đề không? (Thưa, phải.) Có thể nói đây là khiếm khuyết trong nhân tính không? (Thưa, không thể.) Chắc chắn chuyện không đơn giản như vậy. Vậy đây là vấn đề gì? (Thưa, là tâm tính bại hoại.) Nếu nói từ góc độ nhân tính, thì loại người này có đáng tin cậy không? (Thưa, không đáng tin cậy.) Vậy phẩm chất nhân tính của loại người này có tốt không? (Thưa, không tốt.) Tại sao lại không tốt? (Thưa, bởi vì họ luôn muốn khống chế người khác, luôn muốn có quyền định đoạt.) Loại người này có lòng tham địa vị đặc biệt mạnh, luôn nghĩ cách tìm đủ loại cơ hội để có quyền định đoạt, luôn muốn làm lãnh đạo mà khống chế người khác. Loại người này không đáng tin cậy, phẩm chất nhân tính của họ cũng không tốt. Trong nhà Đức Chúa Trời thì loại người này có không ít. Nếu nhà Đức Chúa Trời giao cho họ phụ trách một hạng mục công tác, thì họ cho rằng đấy là làm quan, làm lãnh đạo rồi. Họ có tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật không? Họ có thực hiện sự sắp xếp công tác không? (Thưa, không.) Nếu họ xem việc làm người phụ trách và lãnh đạo là làm quan, thì chắc chắn họ sẽ không thực hiện sự sắp xếp công tác và không làm công tác thực tế. Việc họ muốn làm là gì? Họ muốn làm việc kinh doanh của riêng mình, tạo lập uy tín cho bản thân, củng cố địa vị của bản thân, truyền đạt ý riêng của mình xuống để khiến người khác nghe lời họ – còn sự sắp xếp công tác, ý của Đức Chúa Trời và lẽ thật thì họ biến thành con số không. Thực chất của loại người này là vậy. Khi chưa có địa vị thì họ cực lực mưu cầu địa vị, một khi đạt được địa vị rồi thì họ thấy chuyện đó tương đương với việc họ đã tìm ra cơ hội. Tìm ra cơ hội để làm gì? Để thỏa mãn dã tâm của mình và củng cố địa vị của mình đến mức độ tối đa, lợi dụng cơ hội như vậy mà thỏa mãn dã tâm và đam mê quyền chức của mình.

Thích tham gia chính trị vừa là phẩm chất nhân tính không tốt vừa là tâm tính bại hoại. Trong chuyện này có bao nhiêu phương diện của tâm tính bại hoại? (Thưa, có kiêu ngạo và hung ác.) Kiêu ngạo, hung ác, chán ghét lẽ thật và cương ngạnh – mọi tâm tính bại hoại này đều có đủ, chẳng thiếu cái nào. Vậy tâm tính bại hoại nghiêm trọng nhất là gì? Chính là hung ác, đặc trưng điển hình nổi bật nhất là hung ác. Đối với loại người thích tham gia chính trị, nếu ở thế gian mà họ bị nản lòng và bất đắc chí, muốn tham gia chính trị mà không có cơ hội, cũng không tìm được đường để len vào giới chính trị, thì khi họ đến nhà Đức Chúa Trời, dã tâm của họ chưa chết – họ vẫn muốn tham gia chính trị. Do đó, họ xem việc bầu chọn lãnh đạo các cấp như là bầu cử quan chức, mỗi lần đến đợt bầu chọn lãnh đạo các cấp là họ đều xắn tay áo lên, đi khắp nơi vận động mọi người bầu cho họ. Một khi làm lãnh đạo rồi, họ sẽ cho rằng đó là làm quan, sẽ đem quyền lực tập trung hết về mình, nắm chặt quyền lực, tùy ý làm càn, nghĩ thế nào thì làm thế ấy. Họ chẳng thèm ngó ngàng đến công tác mà nhà Đức Chúa Trời giao cho và bổn phận mà mình nên làm, thay vào đó, họ chỉ quan tâm chuyện tham hưởng lợi ích của địa vị. Họ xem bổn phận lãnh đạo là làm quan, bản thân thích và sẵn lòng làm việc gì thì sẽ làm việc đó, làm thế nào mà có thể tạo lập uy tín và củng cố địa vị cho mình, làm thế nào mà có thể khiến người khác nghe theo mình, có thể thỏa mãn trọn vẹn đam mê quyền chức của mình, thì họ sẽ làm thế ấy. Họ cũng chẳng suy xét đến công tác của nhà Đức Chúa Trời hay những yêu cầu trong sự sắp xếp công tác. Loại người này rất nguy hiểm. Cho dù hiện tại họ vẫn chưa bị tỏ lộ là kẻ địch lại Đấng Christ, thì họ cũng là kẻ địch lại Đấng Christ đang thành hình. Trong số những người thích tham gia chính trị, có người tốt nào không? Không có. Loại người có dục vọng cực mạnh về quyền lực thì không thể yêu thích lẽ thật, bởi vì họ có dục vọng cực kỳ mãnh liệt về quyền lực, cho nên lương tâm và lý trí của họ không áp chế hay ràng buộc nổi dục vọng và sự mưu cầu của họ đối với quyền lực. Nếu một người nào đó thích tham gia chính trị, hoặc say mê điên cuồng và có dục vọng mãnh liệt đối với việc tham gia chính trị, thì nó có nghĩa là họ có dã tâm mãnh liệt đối với quyền lực và địa vị. Ý định, mục đích và căn cứ của họ khi làm người và hành động đều dựa trên chuyện họ có thể đạt được quyền lực hay không và dã tâm của họ có thể được thỏa mãn hay không, chứ chẳng phải được quyết định bởi lương tâm và lý trí. Do đó, nhân tính của loại người này rất đáng sợ. Để thỏa mãn dục vọng về quyền lực của mình và đạt được quyền lực, chuyện gì họ cũng có thể làm, điều gì cũng có thể hy sinh, thậm chí có thể hy sinh cả người mình thân thiết nhất hoặc yêu thương nhất. Xét từ điểm này, thì loại người này có nhân tính không? (Thưa, không có.) Chẳng hạn như, có một người đàn ông thích tham gia chính trị, có dục vọng cực kỳ mãnh liệt với quyền lực. Khi có cơ hội để có thể tham gia chính trị và đạt được quyền lực, địa vị mà họ khao khát, nếu cần phải hy sinh người phụ nữ mình yêu để đổi lấy địa vị mà họ luôn mưu cầu, thì họ cũng sẽ không tiếc, tuyệt đối sẽ không chùn tay. Thậm chí có một vài người, vì để đạt được địa vị mà không tiếc hy sinh cả cha mẹ mình, ai họ cũng hy sinh được, chỉ có địa vị là họ không buông bỏ được. Nói cách khác, đối với họ, bất kỳ người nào, chuyện gì, hoặc thứ gì cũng đều có thể là quân cờ hoặc cái giá để họ đổi lấy địa vị. Xét từ phẩm chất nhân tính của loại người này, thì rốt cuộc họ có lương tâm và lý trí không? (Thưa, không có.) Do đó mới nói, loại người quá đáng sợ. Có thể là lương tâm và lý trí của họ tan biến rồi, hoặc họ căn bản không có lương tâm và lý trí, cả hai đều có khả năng. Tại sao lại nói cả hai đều có khả năng? Khi loại người này chưa có địa vị, chưa liên quan đến chuyện chính trị, thì có khả năng họ cũng chung sống rất tốt với người khác, cũng biết giúp đỡ người khác, chẳng bao giờ chiếm lợi của người khác, lại còn có thể cho từ thiện và rất khoan dung, bề ngoài trông họ có vẻ có nhân tính, lương tâm và lý trí của họ có vẻ đều bình thường. Nhưng ngươi đâu biết được thứ mà họ yêu thích trong xương tủy là gì. Khi ngươi phát hiện ra thứ họ yêu thích trong xương tủy là địa vị và quyền lực, rồi tiếp tục quan sát nhân tính của họ, thì quan điểm của ngươi sẽ thay đổi, nhận thức và đánh giá của ngươi về nhân tính của họ cũng sẽ thay đổi. Lúc chưa liên quan đến địa vị và quyền lực, thì biểu hiện của họ khi chung sống với người khác vẫn rất bình thường, người khác nhìn vào cũng thấy họ không tệ. Nhưng một khi họ có địa vị và quyền lực rồi, thì biểu hiện của họ sẽ khác với trước đây – ngươi sẽ không thấy lương tâm và lý trí của họ đâu cả, lúc đó ngươi mới biết là họ quá đáng sợ. Hóa ra nhân tính họ biểu hiện ra ban đầu chỉ là tạm thời, chỉ bộc lộ ra do một dạng hoàn cảnh và lợi ích nào đó đưa đẩy, với điều kiện là không liên quan đến quyền lực và địa vị mà họ yêu thích. Một khi liên quan đến địa vị và quyền lực, thì nhân tính thực sự của họ mới lộ ra. Khi nhìn thấy nhân tính thực sự của họ, ngươi sẽ định nghĩa họ là không có nhân tính. Nghĩa là lúc chưa thấy được thứ mang tính thực chất nơi sâu thẳm nội tâm họ, thì ngươi cảm thấy họ chung sống với người khác cũng ổn, không bị xem là không có nhân tính. Nhưng khi ngươi thực sự hiểu rõ thế giới nội tâm và thực chất nhân tính của họ, thấy được rằng thứ mà họ yêu thích là địa vị và quyền lực, thì ngươi sẽ biết họ không có nhân tính, và là kẻ hai mặt. Người ngoại đạo gọi dạng biểu hiện này là gì? Có phải là nhân cách phân liệt không? (Thưa, phải.) Một thứ phi nhân mặc lấy xác thịt của con người – khi họ tiếp xúc với người khác, ngươi đâu nhìn thấy được thứ ở trong sâu thẳm linh hồn họ, nên ngươi cảm thấy họ là một con người bình thường, thậm chí có thể cảm thấy họ là người tốt. Nhưng khi nhìn thấy bộ mặt khác của họ rồi, thì ngươi chẳng những cảm thấy họ không phải là người tốt, mà còn cảm thấy họ rất đáng sợ. Thứ phi nhân nghĩa là vậy đấy. Thứ phi nhân rốt cuộc là thứ gì? Cho dù biểu hiện của thứ phi nhân có chút hình tượng giống con người, nhưng đều không phải là thật. Bởi vì họ không có thực tế lẽ thật, nên biểu hiện thỉnh thoảng tốt của họ không đại diện cho thực chất con người họ. Nhân tính mà họ biểu hiện ra lúc họ thực sự lựa chọn con đường mình đi mới là thực chất của họ. Do đó, ngươi không được để mình bị bề ngoài của loại người này mê hoặc – điều mấu chốt là phải nhìn vào con đường họ đi và thực chất của họ. Chuyện này Ta đã nói rõ ràng chưa? (Thưa, rõ ràng rồi.) Các ngươi đã hiểu được điều gì rồi? Một người thích bàn luận chính trị mà chỉ dừng ở mức độ tư tưởng và chỉ là một dạng hứng thú và sở thích, thì không tính là vấn đề. Nhưng nếu họ thích tham gia chính trị, thì sẽ không phải là vấn đề về tư tưởng nữa, mà đã liên quan đến vấn đề làm người và con đường mà người ta đi. Một khi liên quan đến chuyện làm người và con đường mà người ta đi, thì sẽ liên quan đến phẩm chất nhân tính. Mà liên quan đến phẩm chất nhân tính thì hầu như lúc nào cũng liên quan đến tâm tính bại hoại. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Được rồi, về biểu hiện thích tham gia chính trị, chúng ta nói đến đây thôi.

Chúng ta tiếp tục nói về một biểu hiện khác, thích văn học. Nó là dạng biểu hiện nào? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Nghĩa là người như vậy bẩm sinh đã thích văn học. Vì yêu thích văn học, nên hễ có chủ đề, sách vở hay chuyện gì liên quan đến văn học, thì họ thể hiện hảo cảm và lòng hiếu kỳ đặc biệt, hoặc là thể hiện một dạng thái độ đặc biệt – đây là điều kiện bẩm sinh. Vậy thích công nghệ thì sao? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Nghĩa là, trong trường hợp không có sự vật bên ngoài quấy nhiều hoặc can thiệp, thì trong lòng họ thấy rất hứng thú với một dạng sự vật nào đó, thích đọc sách vở về chuyện này, cũng thích quan tâm và bàn luận về loại chủ đề này. Đồng thời, lý tưởng của họ cũng là muốn làm một công việc hoặc ngành nghề nào có liên quan đến những thứ này. Đây chính là thứ bẩm sinh, không cần người khác can thiệp, cũng không cần người khác dạy, đương nhiên cũng không cần người khác cố ý ảnh hưởng hoặc truyền thụ trong đời. Họ sinh ra đã thích một vài thứ nhất định rồi. Thích công nghệ là điều kiện bẩm sinh, vậy thích sinh vật thì sao? (Thưa, cũng là điều kiện bẩm sinh.) Thích sinh vật, quan tâm đến cây cỏ, côn trùng, chim chóc, nhất là thích giao tiếp và tiếp xúc ở cự ly gần với động vật nhỏ, đặc biệt yêu thương và bao dung với động vật nhỏ – đây là điều kiện bẩm sinh. Ngươi xem, trong điều kiện bẩm sinh có những thứ này thì có phải là rất bình thường không? (Thưa, phải.) Chúng không liên quan đến những thứ phản diện và tiêu cực trong tâm tính bại hoại như kiêu ngạo và tà ác. Cũng giống như vậy, thích hàng không, thích lịch sử, thích thiên văn và địa lý, thích dinh dưỡng học, y học, thích pháp luật, thích nông nghiệp, những thứ này đều thuộc về dạng biểu hiện nào? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Có người thích nông nghiệp, thích nghiên cứu về việc chiết cành, việc cải thiện và sản lượng của các loại cây cối, thích nghiên cứu ảnh hưởng của khí hậu và nhiệt độ đối với cây cối, thích trồng rau, trồng hoa màu, trồng cây, trồng hoa. Ngày ngày, tay họ đều lấm bùn đất, trên tay toàn là vết chai sần. Người ta không thích làm bác sĩ, làm luật sư, hay làm quan, mà chỉ thích trồng trọt và giao tiếp với cây cối, sống rất tự tại. Chuyện người ta thích cái gì, có hứng thú và sở thích nào, thì có quan hệ gì với nhân tính không? (Thưa, không.) Có ảnh hưởng gì đến nhân tính không? (Thưa, không ảnh hưởng.) Về cơ bản thì không ảnh hưởng gì. Nông dân cũng chưa đến mức được gọi là rất cao thượng, họ cũng có tâm tính bại hoại như thường. Còn những phần tử tri thức cao cấp, những người làm việc trong các ngành công nghệ, văn học, y học hoặc pháp luật, thì cũng đâu có nhân tính hơn nông dân. Họ học nhiều tri thức đến vậy, đọc nhiều sách đến vậy, tiếp thu giáo dục trong thời gian dài đến vậy, cuối cùng lại chẳng có chút nhận thức nào về Đức Chúa Trời – họ chỉ học được nhiều hơn một chút từ sách vở, có thêm chút tri thức và kiến thức mà thôi. Nhưng đối với chuyện làm người như thế nào, nên đi con đường cuộc đời ra sao, nên tin và thờ phượng Đức Chúa Trời thế nào, cũng như nên hành động ra sao để phù hợp với nguyên tắc làm người trong đủ loại chuyện trong cuộc sống – thì họ chẳng biết chút gì. Đặc điểm chung của những người có hứng thú và sở thích đối với các ngành nghề chính là bản thân thích thứ gì thì sẵn lòng làm thứ đó, sẵn lòng làm công việc trong ngành nghề đó, sau đó thì dấn thân vào ngành nghề đó. Bất kể dấn thân vào ngành nghề nào, chỉ cần đang ở trong xã hội này, thì người ta đều trải qua sự hun đúc và làm bại hoại của Sa-tan. Không một người nào chỉ vì hứng thú và sở thích của họ hay ngành nghề họ tham gia cao thượng hơn hoặc là có thể diện hơn người khác, mà có nhân tính trở nên cao thượng. Cũng không có một người nào do công việc mình làm hạ đẳng, thấp kém, hoặc bị người khác xem thường, mà trở nên thấp kém hơn và bại hoại hơn người khác. Ngược lại, bất kể người ta có hứng thú và sở thích gì, bất kể người ta lợi dụng sở trường và ân tứ gì để làm dạng ngành nghề nào, thì cuối cùng mọi tư tưởng và quan điểm mà họ có đều không phù hợp với lẽ thật. Thái độ của mọi người đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời đều như nhau, mọi thứ họ bộc lộ ra đều là tâm tính bại hoại. Điểm chung của con người chính là họ sống với tâm tính bại hoại như sự sống của mình. Do đó, bất kể ngươi có dạng hứng thú và sở thích nào, bất kể ngươi làm công việc như thế nào, thì cũng không tương đương với chuyện nhân tính của ngươi sẽ bị ảnh hưởng, cũng không tương đương với chuyện nhân tính của ngươi sẽ được nâng cao hay là bị xói mòn. Xét từ sự thật này, thì có thể thấy rằng những điều kiện bẩm sinh mà Đức Chúa Trời ban cho con người sẽ không ảnh hưởng đến tiêu chuẩn làm người và hành động của người ta, cũng sẽ không thay đổi con đường và phương hướng hành động của người ta. Cùng lắm thì những hứng thú và sở thích này chỉ là một công cụ hay một vốn liếng bẩm sinh để người ta dựa vào mà sinh tồn, để người ta thông qua ngành nghề mình tham gia mà có thu nhập, từ đó duy trì sinh kế cho bản thân. Tuy nhiên, trong quá trình duy trì sinh kế, người ở trong các ngành nghề khác nhau đều tiếp nhận đủ loại tư tưởng và quan điểm như nhau. Do đó, cuối cùng, bất kể người ta ở trong ngành nghề nào, trong ngóc ngách nào của xã hội, trong tập thể nào hay chủng tộc nào, thì sự bại hoại mà người ta tiếp nhận đều như nhau. Ngươi đâu có vì làm công việc hay nghề nghiệp cao cấp một chút mà trở nên cao thượng hơn và ít bại hoại hơn người khác, ngươi cũng không vì làm trong ngành nghề thấp kém mà bại hoại sâu sắc hơn người khác. Tóm lại, bất kể hứng thú và sở thích bẩm sinh của ngươi là gì, thì cuối cùng ngươi đều không tránh được, cũng không có cách nào chế ngự được chuyện bị Sa-tan làm bại hoại trong xã hội này và giữa mọi người.

Tiếp theo, hãy nói về một biểu hiện khác. Có những người thích làm việc tài chính kế toán, thích giao tiếp với những con số và cả đời làm việc tài chính kế toán. Ngày nào họ cũng ghi sổ và kết toán, xử lý khoản thu khoản chi, ngày ngày trong đầu họ toàn là số liệu, nhưng đều chẳng thấy phiền chán gì. Thích công việc tài chính kế toán thì thuộc phương diện gì? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Đây là một sở trường mà Đức Chúa Trời ban cho con người. Ngươi mà giỏi cái này, thì một cách tự nhiên, ngươi sẽ làm công việc này, cả đời ngươi có cần câu cơm rồi, vậy là ngươi sẽ có sinh kế. Điều này cũng tương đương với chuyện Đức Chúa Trời ban ma-na hoặc chim cút từ trời xuống cho ngươi để ngươi có cái ăn. Hứng thú và sở thích này chính là bánh trên trời rơi xuống trúng ngay người ngươi, làm cho ngươi có dạng hứng thú và sở thích này. Sau đó, ngươi sẽ tự nhiên mà làm công việc có liên quan đến hứng thú và sở thích này, nhờ đó mà duy trì sinh kế đến hiện tại. Bất kể ngươi làm tốt hay không tốt, bất kể ngươi làm việc này bao nhiêu năm rồi, chỉ cần nó là thứ mà ngươi sinh ra đã có, thì nó là thứ mà Đức Chúa Trời đã tiền định cho ngươi – nó chính là điều kiện bẩm sinh. Tóm lại, những điều này đều đến từ Đức Chúa Trời, con người chẳng có gì để khoe khoang cả. Phải vậy không? (Thưa, phải.)

Thích buôn bán và giỏi buôn bán thì thuộc về phương diện nào? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Giỏi buôn bán nghĩa là quản lý việc làm ăn tốt hơn người bình thường. Người khác kinh doanh hai hay ba tháng là có khả năng phá sản, mất luôn cả vốn ban đầu, còn họ thì kinh doanh hai năm, ba năm, càng kinh doanh càng tốt. Dần dần cuộc sống của họ trở nên sung túc, cái ăn cái mặc trong nhà cũng tốt lên, từ nhà nhỏ chuyển sang nhà to, từ xe nhỏ đổi sang xe to, cuộc sống ngày một tốt lên, thành thương gia giàu có rồi. Giỏi buôn bán có phải là điều kiện bẩm sinh không? (Thưa, phải.) Điều kiện bẩm sinh giỏi buôn bán này chính là sở trường của họ. Họ chưa học qua chuyên ngành buôn bán gì, cũng chẳng được ảnh hưởng từ cha mẹ, thế mà lại dễ dàng thành công khi mở một việc làm ăn nhỏ, và kiếm được tiền. Ngươi hỏi họ: “Anh làm ăn có khó không?” thì họ trả lời: “Khó gì đâu. Cứ dùng não mà nghĩ xem làm thế nào thì thích hợp và có thể kiếm được tiền, rồi cứ vậy mà làm, kết quả là kiếm được tiền thôi”. Ngươi hỏi tiếp: “Thấy anh làm ăn thuận tiện và dễ dàng như vậy, còn tôi sao lại không làm được?”. Tại sao vậy? Tại vì Đức Chúa Trời không ban cho ngươi sở trường này, nên ngươi không có bản lĩnh này. Do đó, người có sở trường thì đừng kiêu ngạo, người không có sở trường cũng đừng đố kỵ. Cái Đức Chúa Trời ban cho thì không một ai có thể cướp đi được – kể cả ngươi không muốn nhận cũng không được. Đơn giản là Đức Chúa Trời khiến ngươi có sở trường đó, Ngài mượn sở trường này của ngươi mà làm cho ngươi đời này có cần câu cơm hoặc có việc kinh doanh để có thể duy trì cuộc sống, đây là sự ân đãi của Đức Chúa Trời. Người khác thì học tập, được người khác dạy và thực hành, nhưng họ có làm thế nào cũng không đạt được kết quả tốt. Còn ngươi không học mà biết. Họ có suy nghĩ kiểu gì cũng không nhanh nhạy bằng ngươi, cũng không kinh doanh tốt như ngươi, vậy ngươi nói xem, sở trường này của ngươi từ đâu mà có? Chẳng phải là bẩm sinh sao? Chẳng phải cái gì bẩm sinh thì đều là do Đức Chúa Trời ban cho sao? Ngươi luôn nói mình thích cái gì, giỏi cái gì, nhưng nó là thứ do ngươi xin mà có sao? Có người nói đó là do cha mẹ truyền lại, vậy tại sao không truyền lại những điểm khác cho ngươi? Ngươi cố nghĩ cách để truyền sở trường của mình cho thế hệ sau, thì ngươi có làm được không? Ngươi có thể định đoạt chuyện này sao? (Thưa, không thể.) Chắc chắn là không thể. Những sở trường mà ngươi có là do Đức Chúa Trời ban cho, người khác có đố kỵ thế nào cũng không thể loại bỏ được nó hay lấy nó đi được. Ngay cả khi ngươi không muốn sở trường đó thì Đức Chúa Trời vẫn cứ cho ngươi. Đức Chúa Trời đã ân đãi ngươi thì ngươi nên đón nhận từ Đức Chúa Trời, đừng tự phụ, cũng đừng khoác lác. Tự phụ và khoác lác đều là biểu hiện cho sự vô tri của con người.

Vậy, nên đối đãi đúng đắn như thế nào với sở trường mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi? Nếu nhà Đức Chúa Trời cần ngươi làm bổn phận thuộc phương diện này, thì ngươi hãy đem sở trường của mình mà dùng vào bổn phận, dùng vào công tác của hội thánh. Đừng giữ lại, mà hãy để sở trường của mình được phát huy, và phát huy đến mức tối đa. Như vậy thì sở trường mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi sẽ không phải là ban cho một cách vô ích, ngươi hưởng thụ sự ân đãi và biệt đãi của Đức Chúa Trời thì hãy báo đáp Ngài. Làm như vậy thì ngươi sẽ là người có lương tâm, không phải chỉ mưu cầu phúc lợi cho bản thân, mà còn biết báo đáp Đức Chúa Trời – hành động như vậy là đúng đắn. Ngay cả khi ngươi cho rằng: “Mình có sở trường này, có hứng thú và sở thích này, thì làm chút việc này dễ như trở bàn tay”, nhưng chỉ cần ngươi xem nó là bổn phận, thì ngươi không thể chỉ dựa vào sở trường, hứng thú và sở thích của mình, mà phải làm theo nguyên tắc Đức Chúa Trời đã phán với ngươi và yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời, sau đó cộng thêm sở trường của ngươi nữa. Kết hợp như vậy thì ngươi sẽ làm tốt bổn phận và dâng lên lòng trung thành. Cũng như Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham một đứa con trai, khi Ngài ban cho thì ông rất vui mừng, khi Ngài muốn cất đi, thì ông cũng phải cam tâm dâng hết lên cho Ngài. Ông không thể giữ lại gì, không thể nói điều kiện, càng không thể oán trách hay chửi rủa Đức Chúa Trời, mà phải toàn toàn tâm ý và thật lòng dâng con trai mình lên. Lúc Đức Chúa Trời ban ân điển cho ngươi, thì ngươi vui mừng lắm, hài lòng lắm, cảm thấy mình được lợi và Đức Chúa Trời ân đãi mình. Sau khi ngươi hưởng thụ nhiều ân điển của Đức Chúa Trời như vậy, đến lúc Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi dâng lên thì thái độ của ngươi là gì? Ngươi có thể rời xa nó không? Có thể dâng lên và trả lại Đức Chúa Trời mà không giữ lại gì không? Nếu ngươi có thể trả lại những gì Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi một cách trọn vẹn và dựa theo yêu cầu của Ngài, không oán trách, không giữ lại gì, không giữ lấy làm của riêng, mà dâng nó lên Đức Chúa Trời, vậy thì ngươi là một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn rồi, việc làm bổn phận của ngươi cũng đạt tiêu chuẩn, và Đức Chúa Trời sẽ hài lòng. Yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với ngươi đâu có cao, bởi vì những gì Đức Chúa Trời ban cho ngươi thì gấp mấy lần những gì ngươi có thể dâng hiến. Đức Chúa Trời chẳng những ban cho ngươi sự sống, mà còn ban cho ngươi vốn liếng và điều kiện để ngươi sinh tồn. Vì có những sở trường, hứng thú và sở thích này mà ngươi đạt được bao nhiêu lợi ích rồi? Hưởng thụ bao nhiêu ân điển của Đức Chúa Trời rồi? Đến bây giờ, ngươi đã báo đáp Đức Chúa Trời được bao nhiêu? Nếu đến bây giờ ngươi mới có thể bắt đầu báo đáp Đức Chúa Trời, vậy thì ngươi có phần quá chậm chạp rồi. Nếu trước đây ngươi làm không tốt, thì từ nay về sau, ngươi nên dâng lên Đức Chúa Trời mà không giữ lại chút gì, đem sở trường của mình, đem nghiệp vụ, kỹ thuật và đủ loại nguyên tắc nghiệp vụ mình nắm vững mà dùng vào bổn phận, không giữ lại gì. Bởi vì cái ngươi dâng hiến lên đó, ban đầu vốn là của Đức Chúa Trời, là thứ Đức Chúa Trời ban cho ngươi. Ngươi dâng hiến những thứ này để dùng vào bổn phận, thì một mặt sẽ được Đức Chúa Trời chấp thuận, mặt khác ngươi sẽ đạt được lẽ thật, đạt được sự sống, và đạt được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Ngươi chiếm được lợi lớn rồi, chẳng bị thiệt thòi chút nào. Đồng thời, Đức Chúa Trời cũng không tước đoạt quyền lợi hưởng thụ hứng thú, sở thích và sở trường của ngươi. Vì Đức Chúa Trời đã ban hứng thú và sở thích này cho ngươi, thì Ngài sẽ không bao giờ tước chúng đi. Bất kể ngươi dâng hiến bao nhiêu thì ngươi vẫn còn có chúng – Đức Chúa Trời sẽ khiến cho chúng tuôn trào mãi không dứt trong ngươi, chúng là một phần trong tổng thể con người ngươi. Nếu ngươi không dâng hiến lên Đức Chúa Trời, thì chỉ có thể nói con người ngươi không có lương tâm, ngươi không phải là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn, và ngươi không có lòng thành đối với Đức Chúa Trời. Nếu có lòng thành thì ngươi nên đem hết thảy những gì ngươi có được từ Đức Chúa Trời mà báo đáp Ngài. Ngươi phải có thái độ như vậy. Dù Đức Chúa Trời ban cho ngươi bao nhiêu, dù ngươi hiểu được bao nhiêu, dù ngươi có thể làm được bao nhiêu, thì ngươi cũng phải dâng hiến lên Ngài mà không giữ lại gì. Ngươi nói xem, Đức Chúa Trời có thể để ngươi dâng hiến vô ích sao? Ngươi nhìn Áp-ra-ham đi, khi Đức Chúa Trời đòi I-sác, thì ông dâng I-sác trên bàn thờ. Đức Chúa Trời thấy lòng thành của Áp-ra-ham rồi, thì Ngài còn thực sự đòi I-sác nữa không? Đức Chúa Trời không đòi nữa, Ngài đem I-sác trả lại cho Áp-ra-ham, còn chuẩn bị sẵn bên cạnh một con chiên. Áp-ra-ham chẳng những không cần trả lại I-sác Đức Chúa Trời, mà còn được nhận con chiên đã chuẩn bị sẵn. Cuối cùng, phúc lành mà Đức Chúa Trời ban cho ông vượt gấp mấy lần những gì ông có thể tưởng tượng được. Đương nhiên, đây cũng không phải là chuyện mà Áp-ra-ham có thể tưởng tượng nổi, cũng chẳng phải là điều mà ông xin. Nhưng Đức Chúa Trời không đối đãi bất công với con người, ngài chúc phúc cho con người như vậy đấy, đây là việc mà Đức Chúa Trời sẵn lòng. Khi ngươi còn chưa báo đáp gì cho Đức Chúa Trời, thì Ngài đã ban cho ngươi nhiều như vậy. Nếu ngươi thực sự báo đáp Đức Chúa Trời rồi, thì ngươi nói xem, những gì Ngài ban cho ngươi có thể ít hơn hay sao? Tuyệt đối sẽ không ít hơn – phúc lành Đức Chúa Trời ban cho ngươi sẽ vượt quá mọi điều mà ngươi có thể tưởng tượng. Vậy các ngươi nói xem, dâng hiến mọi sở trường mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi để dùng vào bổn phận thì có dễ làm hay không? Nếu ngươi cảm thấy: “Mình bẩm sinh đã có sở trường này rồi, hứng thú và sở thích này là thứ mình đã có từ lúc mới sinh ra, là do cha mẹ truyền lại cho mình, là do mình có gen tốt, có xuất thân tốt. Mình không biết chúng có phải là do Đức Chúa Trời ban cho hay không. Nhưng đằng nào thì số phận của mình cũng tốt quá rồi, là vận khí của mình tốt. Còn chuyện có báo đáp Đức Chúa Trời hay không, thì để sau hẵng nói. Bây giờ mình vẫn chưa tính chuyện đó”. Ngươi nói xem, như vậy thì ngươi có lương tâm không? (Thưa, không có.) Ngay cả khi Đức Chúa Trời không tước đi đủ mọi thứ như hứng thú, sở thích, sở trường, v.v. mà Ngài đã ban cho ngươi, thì ngươi cũng không đạt được phúc lành của Ngài. Trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi không phải là một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn, ít nhất thì Đức Chúa Trời không thích loại người như ngươi. Đức Chúa Trời ban cho người ta một vài hứng thú, sở thích, sở trường, và Ngài cũng có một vài yêu cầu cụ thể đối với người ta. Về cách đối đãi với những hứng thú, sở thích và sở trường này, người ta cũng nên có nguyên tắc phù hợp với lẽ thật. Một mặt, đừng xem chúng là vốn liếng, mặt khác, nếu công tác của nhà Đức Chúa Trời cần ngươi làm bổn phận có liên quan đến hứng thú, sở thích và sở trường của ngươi, thì ngươi nên không chút thoái thác mà xem bổn phận đó là nghĩa vụ của bản thân, đem những gì Đức Chúa Trời ban cho ngươi mà dâng hiến một cách trọn vẹn và không giữ lại gì, làm cho Đức Chúa Trời có thể hưởng thụ được lòng thành và sự thuận phục của một loài thọ tạo dành cho Ngài. Đây có phải là chuyện rất hãnh diện, rất vinh quang không? (Thưa, phải.) Nếu ngươi không thể dâng hiến ân tứ và sở trường của mình cho Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ mắc nợ Ngài, đây là chuyện đáng hổ thẹn. Lúc Đức Chúa Trời ban ân tứ và sở trường cho ngươi thì ngươi vui mừng, còn khi Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi dâng hiến chúng lên cho Ngài thì ngươi nổi cáu, không muốn để cho Đức Chúa Trời dùng chúng, chỉ muốn giữ riêng cho bản thân dùng – làm như vậy mà có lý trí hay sao? Nó đâu phải là tài sản tư hữu của ngươi, nó là do Đức Chúa Trời ban cho. Bởi vì nó là điều Đức Chúa Trời ban cho ngươi, nên khi Đức Chúa Trời cần, ngươi nên dâng hiến lên Ngài. Ngươi có thể dâng lên thì cho thấy ngươi có sự thuận phục và lòng thành đối với Đức Chúa Trời, còn ngươi không muốn dâng, hoặc dâng lên mà rất miễn cưỡng, rất không cam tâm, thì chứng tỏ con người ngươi chẳng có sự thuận phục hay lòng thành nào đối với Đức Chúa Trời. Chỉ có thể nói rằng nhân tính và nhân phẩm của ngươi có vấn đề.

Được rồi, hôm nay chúng ta thông công đến đây thôi. Hẹn gặp lại!

Ngày 23 tháng 12 năm 2023

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (9)

Tiếp theo: Cách mưu cầu lẽ thật (12)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 8) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 9) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger