Mục 1. Họ lung lạc lòng người
Phần bổ sung: Những lẽ thật bổ sung về việc truyền bá phúc âm
Chủ đề được thảo luận trong một vài buổi nhóm họp trước là về việc thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, và chúng ta đã phân loại các bổn phận mà con người nên thực hiện cũng như phân loại nhân sự. Cụ thể có những loại nào? (Loại đầu tiên là nhân sự rao truyền phúc âm, loại thứ hai bao gồm các lãnh đạo và người làm công ở nhiều cấp độ khác nhau trong hội thánh, loại thứ ba là các nhân sự thực hiện những loại bổn phận đặc biệt khác nhau, loại thứ tư là những người thực hiện bổn phận thông thường, loại thứ năm là những người thực hiện bổn phận trong thời gian rảnh rỗi và loại thứ sáu là những người không thực hiện bổn phận.) Tổng cộng có sáu loại. Lần trước, chúng ta đã thảo luận về loại đầu tiên, liên quan đến các nguyên tắc và lẽ thật về bổn phận rao truyền phúc âm, đề cập tới nội dung về mọi khía cạnh trong việc rao truyền phúc âm, bao gồm các điểm cần lưu ý, các nguyên tắc và lẽ thật có liên quan, những điều mà con người nên cảnh giác, cũng như những sai lầm và lệch lạc dễ xảy ra trong quá trình thực hiện bổn phận rao truyền phúc âm. Sau khi nghe giảng đạo về một chủ đề cụ thể, ngươi có thể tổng kết nội dung chủ yếu trong đó không? Nếu các ngươi có thể nắm bắt được nội dung chính yếu của một chủ đề, ghi nhớ những lẽ thật liên quan, rồi dần dần trong quá trình thực hiện bổn phận, biến chúng thành thực tế, sự sống và con đường thực hành của mình, thì các ngươi đã thực sự hấp thụ được nội dung mà Ta đã thông công. Nếu sau khi thông công xong về một bài giảng đạo mà các ngươi chỉ ghi nhớ chung chung hoặc nhớ một số sự kiện, câu chuyện nào đó, chứ không biết những lẽ thật và nguyên tắc được nói đến ở đây là gì, tại sao lại nói về những điều này, thì như vậy có được tính là có sự lĩnh hội không? Như vậy có được tính là hiểu lẽ thật không? (Thưa, không.) Như vậy không được tính là hiểu lẽ thật. Tức là, các ngươi nghe mà không hiểu lẽ thật trong chuyện này là gì, các ngươi không hiểu, cũng không tiếp nhận chúng. Vậy các ngươi có thể tổng kết được không? Ai đó nói xem lần trước chúng ta thông công chủ yếu về nội dung nào? (Thưa, chúng ta đã tổng kết về bảy điều: thứ nhất, cách định nghĩa nhân sự rao truyền phúc âm; thứ hai, thực chất của bổn phận rao truyền phúc âm; thứ ba, thái độ của con người đối với bổn phận này cũng như quan điểm bên trong của họ; thứ tư, một vài nguyên tắc thực hành cụ thể đối với việc rao truyền phúc âm, chẳng hạn như ai phù hợp và ai không phù hợp với các nguyên tắc rao truyền phúc âm; thứ năm, cách đối xử với những người phù hợp với các nguyên tắc rao truyền phúc âm; thứ sáu, hậu quả khi nhân sự rao truyền phúc âm rời bỏ chức vụ và trốn mất trong quá trình thực hiện bổn phận; thứ bảy, các thánh đồ đã hiến thân để rao truyền phúc âm trong suốt lịch sử, chúng ta cũng phải trân trọng cơ hội được thực hiện bổn phận hiện tại và nhanh chóng trang bị cho mình lẽ thật.) Về cơ bản, ngươi đã tổng kết được trọng điểm của những nội dung mà chúng ta đã thông công lần trước – rất tốt. Còn sót gì không? (Thưa, còn một điểm nữa. Đó là, xoay chuyển quan điểm của con người để họ biết việc rao truyền phúc âm không chỉ là bổn phận của những người rao truyền phúc âm mà còn là trách nhiệm không thể thoái thác của tất cả những ai tin và đi theo Đức Chúa Trời. Đây là một lẽ thật mà dân được Đức Chúa Trời chọn phải hiểu.) Rao truyền phúc âm là chức trách và nghĩa vụ của mỗi cá nhân – đây cũng là một khía cạnh trong đó. Các ngươi có biết mục đích của việc thông công về lẽ thật này là gì không? Đó là để giải quyết những lệch lạc trong sự lĩnh hội của con người. Các ngươi có biết có sự lệch lạc ở khía cạnh nào không? (Thưa, chúng con không biết.) Không biết thì chứng tỏ rằng các ngươi không hiểu khía cạnh này của lẽ thật. Vậy, tại sao Ta cần phải thông công về lẽ thật này? Về mặt tích cực, đó là một khía cạnh của lẽ thật mà con người nên hiểu. Về mặt tiêu cực, đó là để giải quyết những lệch lạc trong sự lĩnh hội của tất cả mọi người về việc rao truyền phúc âm.
Nhiều người có sự lệch lạc khi lĩnh hội về chuyện rao truyền phúc âm này. Có người cho rằng: “Tôi hiện đang làm một bổn phận đặc biệt, vì vậy việc rao truyền phúc âm chẳng liên quan gì đến tôi. Đó không phải là chuyện để tôi bận tâm. Thế nên, các lẽ thật, nguyên tắc và yêu cầu của Đức Chúa Trời cần phải hiểu để rao truyền phúc âm chẳng liên quan gì đến tôi cả. Tôi không cần phải hiểu những điều này”. Vì vậy, khi thông công khía cạnh này của lẽ thật về việc rao truyền phúc âm, họ cứ qua loa, không nghiêm túc, cũng không để tâm mà nghe. Ngay cả khi nghe rồi, họ cũng không biết là đang nói cái gì. Lại có những người nói rằng: “Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi đã luôn làm lãnh đạo. Tôi có tố chất và năng lực làm việc. Tôi sinh ra để làm lãnh đạo. Có vẻ như bổn phận mà Đức Chúa Trời giao cho tôi và sứ mệnh đời tôi là làm lãnh đạo”. Ý họ là, việc rao truyền phúc âm không liên quan gì đến họ. Vì vậy, họ không xem trọng khi được thông công về lẽ thật của khía cạnh rao truyền phúc âm. Khi được yêu cầu tổng kết những gì đã được thông công trong buổi nhóm họp trước, thì có người lật tìm trong sổ ghi chép của mình cả buổi mà vẫn không biết gì. Tại sao lại như vậy? Có phải do trí nhớ của họ kém không? (Thưa, không phải.) Có phải vì họ có quá nhiều việc phải lo nghĩ không? (Thưa, không phải.) Không phải vậy. Điều này cho thấy thái độ của họ đối với lẽ thật là chán ghét và không yêu lẽ thật. Vì vậy, Ta khuyên tất cả mọi người và cũng nói để cho tất cả mọi người biết rằng việc rao truyền phúc âm không phải là trách nhiệm đặc biệt của một loại người hay nhóm người nào đó, mà là chức trách của tất cả những ai đi theo Đức Chúa Trời. Tại sao phải hiểu lẽ thật về việc rao truyền phúc âm? Tại sao mọi người cần phải biết những lẽ thật này? Là một loài thọ tạo, là một trong những người đi theo Đức Chúa Trời, bất kể tuổi tác, giới tính, dù trẻ hay già, thì việc rao truyền phúc âm cũng là một sứ mạng và chức trách mà mỗi người đều phải tiếp nhận. Nếu sứ mạng này đến với ngươi và đòi hỏi ngươi phải dâng mình, trả giá, hoặc thậm chí hy sinh tính mạng, thì ngươi nên làm gì? Ngươi nên tiếp nhận không chút thoái thác. Đây là lẽ thật, là điều ngươi nên hiểu. Đây không phải là một câu đạo lý đơn giản – mà là lẽ thật. Tại sao Ta lại phán đây là lẽ thật? Bởi vì dù thời gian thay đổi ra sao, thời đại đổi dời thế nào, hay nơi chốn và không gian thay đổi thế nào, thì việc rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời mãi mãi là điều tích cực. Ý nghĩa và giá trị của nó là bất biến: nó tuyệt đối sẽ không thay đổi vì thời gian hay vị trí địa lý thay đổi. Việc rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời là tồn tại đời đời. Là một loài thọ tạo, ngươi nên tiếp nhận và thực hành việc này. Đây là lẽ thật đời đời. Có một vài người nói rằng: “Bổn phận tôi làm không phải là rao truyền phúc âm”. Tuy nhiên, lẽ thật liên quan đến việc rao truyền phúc âm này là điều con người nên hiểu, vì đó là lẽ thật liên quan đến các khải tượng, và những ai tin Đức Chúa Trời đều cần phải hiểu được nó; lẽ thật này là nền tảng cho việc tin Đức Chúa Trời và có lợi cho lối vào sự sống. Hơn nữa, bất kể có thực hiện bổn phận gì trong hội thánh, ngươi cũng sẽ có cơ hội tiếp xúc với những người ngoại đạo và do đó có trách nhiệm rao truyền phúc âm cho họ. Một khi hiểu được lẽ thật về việc rao truyền phúc âm, trong lòng ngươi sẽ biết rằng: “Tôi có trách nhiệm truyền bá công tác mới của Đức Chúa Trời, truyền bá phúc âm về công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời. Bất kể lúc nào hay ở đâu, và bất kể thân phận hay vai trò của tôi là gì, nếu là diễn viên, tôi cũng có nghĩa vụ rao truyền phúc âm; nếu hiện tại là lãnh đạo hội thánh, tôi cũng có nghĩa vụ rao truyền phúc âm. Bất kể hiện tại đang thực hiện bổn phận gì, tôi đều có nghĩa vụ truyền bá phúc âm của vương quốc. Hễ có cơ hội hoặc thời gian rảnh rỗi là tôi đều nên đi rao truyền phúc âm. Đây là trách nhiệm không thể thoái thác của tôi”. Hiện tại, đa số mọi người có cho là vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì hầu hết mọi người cho là như thế nào? “Tôi hiện có một bổn phận cố định. Tôi đang học và đào sâu nghiên cứu một nghiệp vụ, một ngành cố định, vì vậy việc rao truyền phúc âm không liên quan gì đến tôi”. Đây là thái độ gì vậy? Đó là thái độ trốn tránh trách nhiệm và sứ mạng, một thái độ tiêu cực. Những người này không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, họ phản nghịch Đức Chúa Trời. Bất kể ngươi là ai, nếu không gánh vác việc rao truyền phúc âm, thì đây chẳng phải là biểu hiện cho thấy ngươi không có lương tâm và lý trí sao? Nếu ngươi không chủ động và tích cực hợp tác, đảm đương và thuận phục, thì ngươi đang ứng phó một cách bị động và tiêu cực – thái độ này là không thể chấp nhận được. Bất kể ngươi thực hiện bổn phận gì, bất kể nó liên quan đến nghiệp vụ hay chuyên ngành gì, một trong những kết quả chính mà ngươi phải đạt được là có thể làm chứng và truyền bá phúc âm về công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời. Đây là việc tối thiểu mà một loài thọ tạo phải làm được. Nếu ngay cả việc tối thiểu này mà cũng không thể làm được thì ngươi đã thu hoạch được gì từ việc thực hiện bổn phận của mình trong suốt thời gian tin Đức Chúa Trời? Ngươi đã đạt được gì? Ngươi có hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời không? Mặc dù ngươi đã thực hiện bổn phận nhiều năm và đã thành thạo nghiệp vụ, nhưng bảo ngươi làm chứng cho Đức Chúa Trời thì ngươi không nói được lời nào, không thông công được về khía cạnh lẽ thật nào, thì vấn đề ở đây là gì? Đó là ngươi không hiểu lẽ thật. Nói rằng con người không hiểu lẽ thật thì có lẽ có một vài người cảm thấy oan uổng cho họ. Họ cảm thấy mình đã thực hiện bổn phận hiệu quả, nhưng họ không hiểu được những khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời và tâm ý cứu rỗi nhân loại của Ngài. Như vậy thì có với tới được việc hiểu được lẽ thật không? Ít nhất, ngươi tin Đức Chúa Trời mà chưa thiết lập được nền tảng trên con đường thật. Ngươi không gánh vác được gì trong việc truyền bá công tác của Đức Chúa Trời và phúc âm về sự cứu rỗi nhân loại của Ngài, ngươi cũng chẳng có chút thấu suốt, nhận thức hay lĩnh hội nào. Vậy thì ngươi có thực sự được xem là người đi theo Đức Chúa Trời không? Ngươi đã thiết lập được mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời chưa? Nếu chưa đạt được bất kỳ điều gì trong số những điều này, thì ngươi không có thực tế lẽ thật.
Bây giờ, hãy cùng trở lại chủ đề chúng ta thảo luận lúc đầu. Rao truyền phúc âm là trách nhiệm và nghĩa vụ của hết thảy dân được Đức Chúa Trời chọn. Sau khi nói hết về khía cạnh lẽ thật này, một điều mà tất cả mọi người nên hiểu là gì? Dù con người trả giá, từ bỏ gia đình và công việc để dâng mình cho Đức Chúa Trời, hay thậm chí dâng cả mạng sống của mình, thì thực ra đó đều là những thứ bề nổi. Cuối cùng, Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải đạt được điều gì? Đó là khi vóc giạc của ngươi lớn lên và sự sống của ngươi trưởng thành, theo thời gian, ngươi sẽ dần bắt đầu hiểu được những lẽ thật khác nhau về công tác của Đức Chúa Trời và tâm ý của Ngài trong việc cứu rỗi nhân loại. Gánh nặng rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời của ngươi ngày càng rõ ràng, và quyết tâm đảm đương bổn phận này của ngươi cũng ngày càng mạnh mẽ. Nếu một lãnh đạo hội thánh làm việc nhiều năm, mà càng có nhiều năm lãnh đạo hội thánh, họ càng không có cảm giác, không cảm động và không có gánh nặng rao truyền phúc âm, thì họ thực hiện bổn phận như thế nào? (Thưa, không tốt.) Không tốt như thế nào? Xảy ra vấn đề gì? Nếu họ sinh ra tình trạng như vậy, sống trong tình trạng như vậy, thì ít nhất có thể khẳng định một điều: trong những năm qua, người này không mưu cầu lẽ thật và không làm bất kỳ công việc thực tế nào. Họ giống như cán bộ quan liêu của con rồng lớn sắc đỏ, vì vậy mà dẫn đến việc họ không có gánh nặng và không có sự thấu suốt để truyền bá danh Đức Chúa Trời và làm chứng cho công tác của Ngài. Đó chẳng phải là kết quả sao? (Thưa, phải.) Đó là kết quả tất yếu. Dù người này đã làm việc được bao nhiêu năm, dù họ cho rằng vóc giạc của mình đã rất lớn rồi, rằng họ có thể quan tâm đến gánh nặng của Đức Chúa Trời, và có thể phụng sự theo tâm ý của Đức Chúa Trời, thì khi nói đến rao truyền phúc âm, họ rụt lại, không biết phải rao truyền như thế nào. Khi gặp những người khao khát sự xuất hiện của Đức Chúa Trời và đến tìm kiếm, tìm hiểu về con đường thật, họ liền cứng lưỡi, một câu cũng không nói nên lời và không biết bắt đầu từ đâu. Vấn đề ở đây là gì? Đó là họ không hiểu lẽ thật và chưa đạt được lẽ thật, nên họ không thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Chỉ những người hiểu lẽ thật mới có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Việc rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời thuộc phạm vi bổn phận của ngươi. Nếu ngươi hiểu lẽ thật, nếu ngươi đã đạt được lẽ thật, thì tại sao khi gặp những người tìm hiểu con đường thật, ngươi lại không có gì để nói? Đây chẳng phải là vấn đề sao? Các ngươi có thường xuyên rơi vào tình huống như vậy không? (Thưa, có.) Vấn đề ở đây là gì? Ngươi không có gánh nặng. Không có gánh nặng chẳng phải là vấn đề sao? Không có gánh nặng thì có thể thực hiện bổn phận được không? Dù có thực hiện bổn phận thì cũng có thể thực hiện một cách trung thành được không? Có thể thực hiện một cách đạt tiêu chuẩn được không? Mặc dù việc không có gánh nặng có thể không phải là một vấn đề chí tử, nhưng vẫn là vấn đề nghiêm trọng, bởi vì nó ảnh hưởng việc thực hiện bổn phận của ngươi. Chẳng phải cần giải quyết vấn đề này sao? (Thưa, phải.) Vậy giải quyết như thế nào? Ngươi phải xoay chuyển những quan điểm sai lầm của mình về việc rao truyền phúc âm và hiểu lẽ thật về việc rao truyền phúc âm. Tất cả những công việc mà các ngươi đang tham gia hiện nay đều liên quan trực tiếp đến công tác rao truyền phúc âm và thuộc phạm vi rao truyền phúc âm. Chúng đều nhằm mục đích làm chứng cho Đức Chúa Trời, mở rộng công tác phúc âm, làm chứng về danh Đức Chúa Trời, và truyền bá phúc âm về công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, để nhiều người biết được và đến trước Đức Chúa Trời hơn, tiếp nhận sự chinh phục của Đức Chúa Trời, tiếp nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, và cuối cùng, nếu họ đủ may mắn để tiếp nhận được sự hoàn thiện của Đức Chúa Trời thì càng tốt. Khiến cho nhiều người đến trước Đức Chúa Trời hơn nghĩa là gì, và kết quả cuối cùng phải đạt được là gì? (Thưa, đó là khiến nhiều người có được ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời hơn.) Tại sao phải đạt được mục đích này? Bởi vì đó chính là tâm ý của Đức Chúa Trời. Vì thế mà chúng ta giải thích không mệt mỏi về những lẽ thật này. Nếu không liên quan gì đến tâm ý của Đức Chúa Trời thì nói về những điều này sẽ vô ích và sáo rỗng. Chính vì đó là tâm ý của Đức Chúa Trời, nên chúng ta mới làm rõ và giúp tất cả mọi người hiểu được, để họ biết rằng đây là lẽ thật, rằng tất cả mọi người nên dốc sức cho khía cạnh lẽ thật liên quan đến việc rao truyền phúc âm này, để mỗi người đều có sự thấu suốt như thế này và hình thành gánh nặng như thế này.
Câu hỏi tiếp theo là tại sao chúng ta nên để cho nhiều người hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời hơn để họ có thể rao truyền phúc âm và làm tốt bổn phận của mình? Tại sao phải làm được việc này? Một số người nói rằng: “Đức Chúa Trời muốn mọi người đều được cứu rỗi và không muốn bất kỳ ai phải chịu sự hư mất, vì vậy chúng ta nên để cho nhiều người được tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời hơn”. Nói như vậy cũng đúng, nhưng không phải là câu trả lời thực chất cho câu hỏi này. Vậy câu trả lời thực chất cho câu hỏi này là gì? Các ngươi có biết không? (Thưa, Đức Chúa Trời muốn thu phục một nhóm người đồng tâm hợp ý với Ngài.) Đức Chúa Trời muốn thu phục một nhóm người đồng tâm hợp ý với Ngài, và phải sử dụng việc mở rộng phúc âm để đạt được việc này. Điều chúng ta đang nói đến bây giờ là rao truyền phúc âm rộng rãi. Rao truyền phúc âm rộng rãi và thu phục một nhóm người có khác nhau không? (Thưa, có.) Vậy mục đích của việc rao truyền phúc âm rộng rãi là gì? (Thưa, để cứu rỗi nhiều người nhất có thể.) Cứu rỗi nhiều người nhất là một nguyên tắc trong việc cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, nhưng không phải là câu trả lời cho câu hỏi này. Từ khi bước công tác này bắt đầu, Ta đã phán nhiều lần về việc này. Đức Chúa Trời đã đến làm công tác để mở ra một thời đại, mang đến thời đại mới và kết thúc thời đại cũ – mang đến Thời đại Vương quốc và kết thúc Thời đại Ân điển. Tất cả những ai tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt đều đã chứng kiến sự thật này. Đức Chúa Trời đang làm công tác mới, bày tỏ lẽ thật để phán xét nhân loại, làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại. Phúc âm của vương quốc đã bắt đầu lan rộng ở nhiều quốc gia. Nhân loại này đã bước ra khỏi Thời đại Luật pháp và Thời Đại Ân Điển. Họ không còn đọc Kinh Thánh, không còn sống dưới thập tự giá và không còn kêu cầu danh Đấng Cứu Thế Jêsus nữa. Thay vào đó, họ cầu nguyện theo danh Đức Chúa Trời Toàn Năng, đồng thời tiếp nhận những lời mà Đức Chúa Trời bày tỏ trong hiện tại để chúng trở thành nguyên tắc, phương thức và mục đích sinh tồn của sự sống con người. Theo tầng ý nghĩa này, chẳng phải những người này đã bước vào thời đại mới rồi sao? (Thưa, phải.) Họ đã bước vào thời đại mới. Vậy còn nhiều người hơn nữa chưa tiếp nhận phúc âm trong thời kỳ sau rốt và lời mới của Đức Chúa Trời, họ đang sống trong thời đại nào? Họ vẫn đang sống trong Thời đại Ân điển. Hiện tại, chức trách của các ngươi là gì? Là đưa họ ra khỏi Thời đại Ân điển và để họ bước vào thời đại mới. Các ngươi chỉ dựa vào việc cầu nguyện và kêu cầu danh Đức Chúa Trời thì có thể hoàn thành sự ủy thác của Ngài sao? Các ngươi chỉ rao truyền vài lời của Đức Chúa Trời là được rồi sao? Chắc chắn là không được. Về chuyện này, cần tất cả các ngươi gánh vác sự ủy thác rao truyền phúc âm, rao truyền lời Đức Chúa Trời rộng rãi, dùng đủ mọi phương thức truyền bá lời Đức Chúa Trời để truyền bá và mở rộng phúc âm của vương quốc. Mở rộng là gì? Chính là đưa lời Đức Chúa Trời đến cho những người chưa tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, để cho càng nhiều người biết đến công tác mới của Đức Chúa Trời hơn, rồi sau đó làm chứng về lời Đức Chúa Trời với họ, dùng trải nghiệm của các ngươi để làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời, đưa họ bước vào thời đại mới. Như thế thì họ sẽ bước vào thời đại mới giống như các ngươi. Tâm ý của Đức Chúa Trời rất rõ ràng, tâm ý của Đức Chúa Trời không phải chỉ là để những người nghe lời của Ngài rồi tiếp nhận và đi theo như các ngươi bước vào thời đại mới, mà là muốn dẫn dắt toàn bộ nhân loại bước vào thời đại mới. Đây là tâm ý của Đức Chúa Trời, đây là lẽ thật mà mỗi một người hiện đang đi theo Đức Chúa Trời đều nên hiểu. Đức Chúa Trời không dẫn dắt một nhóm người, một hội nhỏ, hoặc một tộc người nhỏ bước vào thời đại mới, thay vào đó Ngài muốn dẫn dắt toàn nhân loại bước vào thời đại mới. Để đạt được mục đích đó thì nên làm thế nào? (Thưa, nên rao truyền phúc âm rộng rãi.) Phải rao truyền phúc âm rộng rãi, dùng nhiều phương thức và đường lối để rao truyền phúc âm rộng rãi. Việc rao truyền phúc âm rộng rãi, nói thì đơn giản, nhưng cụ thể thì nên làm gì? (Thưa, cần có sự phối hợp của con người.) Đúng vậy, chuyện này cần có sự phối hợp của con người. Nếu trong lòng con người luôn bám vào một số điều cũ, luôn có một số yếu tố lệch lạc, tuân thủ những quy định và cách làm cũ, mà không xem trọng công tác phúc âm, và không tiếp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời, cứ như công tác phúc âm không liên quan đến họ, thì liệu dạng người này có thể được Đức Chúa Trời đề bạt và sử dụng không? Liệu họ có thể có tư cách sống trước Đức Chúa Trời không? Liệu họ có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi không? Chắc chắn là không. Vì thế, Ta phải làm công tác tư tưởng với các ngươi, xem xem các ngươi không hiểu những gì và liên tục nói một cách không mệt mỏi về phương diện lẽ thật có liên quan, cho đến khi nào các ngươi hiểu được mới thôi. Dù các ngươi có tê liệt và trì độn đến đâu, Ta cũng phải không ngừng phán với các ngươi và làm cho các ngươi hiểu được rằng đây là tâm ý của Đức Chúa Trời, đây là bổn phận các ngươi phải thực hiện, là sứ mạng và nghĩa vụ của các ngươi khi sống trong đời này. Nếu các ngươi không coi trọng và không hiểu những điều Ta phán, thì Ta phải tiếp tục phán. Dù các ngươi nghe đến mức chán ghét rồi thì Ta cũng phải tiếp tục phán, cho đến khi các ngươi hiểu được lẽ thật mới thôi. Lẽ thật là gì? Lẽ thật là những gì Đức Chúa Trời bày tỏ; là tâm ý của Đức Chúa Trời, là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại, và là thực tế lẽ thật mà con người trong thời đại mới phải có. Con người nên tiếp cận như thế nào với tâm ý của Đức Chúa Trời? Họ nên đón nhận một cách hoàn toàn và tuyệt đối, sau đó thuận phục và hợp tác, qua đó thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời. Đây là nghĩa vụ của con người. Nói vậy các ngươi có hiểu không? Có một số người nói rằng: “Ôi trời, Đức Chúa Trời yêu cầu con người tiếp nhận sự ủy thác của Ngài, nhưng điều đó thì liên quan gì đến những cá nhân nhỏ bé như chúng ta?”. Theo các ngươi, nó có liên quan đến họ không? (Thưa, có.) Nó liên quan như thế nào đến họ? Để Ta giải thích. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, và con người là loài thọ tạo của Ngài. Mối quan hệ giữa “tạo” và “thọ tạo” là gì? Đó là mối quan hệ giữa chủ động và bị động, giữa tạo dựng và được tạo dựng. Vì tâm ý của Đấng Tạo Hóa đã được tỏ lộ cho ngươi biết, vậy ngươi nên đáp lại với thái độ gì? (Thưa, tiếp nhận và hết sức hợp tác.) Chính xác, ngươi nên thuận phục và tiếp nhận, hết sức hợp tác, bất kể giá nào. Sự hợp tác này có bao gồm tìm kiếm lẽ thật không? Có bao gồm hiểu lẽ thật không? Bao gồm cả hai. Nếu ngươi đã hiểu yêu cầu và sự ủy thác của Đức Chúa Trời, thì những điều này liên quan đến sứ mạng của ngươi, đó chính là bổn phận của ngươi. Nếu ngươi đã biết thì phải nên tiếp nhận. Đây là điều mà người có lương tâm và lý trí nên làm được. Nếu ngươi biết yêu cầu và sự ủy thác của Đức Chúa Trời, nhưng lại không thể tiếp nhận, thì ngươi không có cả lương tâm lẫn lý trí, và ngươi không xứng đáng được gọi là người. Một số người vẫn có thể không hiểu, thấy rằng: “Tâm ý của Đức Chúa Trời thì liên quan gì đến chúng ta?”. Nếu tâm ý của Đức Chúa Trời không liên quan gì đến ngươi, thì ngươi không phải là người đi theo Đức Chúa Trời hay người nhà Đức Chúa Trời. Chẳng hạn như cha mẹ ngươi sinh ra ngươi và nuôi nấng ngươi bao nhiêu năm; ngươi ăn thức ăn của họ, sống trong nhà họ và tiêu tiền của họ. Nhưng khi nhà có việc, ngươi lại nói không liên quan đến ngươi, ngươi làm ngơ và cứ thế bỏ chạy, thì ngươi là thứ gì vậy? Nói ngươi là người ngoài cuộc còn êm tai; thực ra ngươi là thứ ngỗ ngược, mặt người dạ thú, súc sinh cũng không bằng. Tâm ý của Đức Chúa Trời đã được tỏ lộ cho ngươi, và Đức Chúa Trời phán: “Các ngươi đã tiếp nhận bước công tác này, và Ta đã ban trước cho các ngươi những lời này, để các ngươi có thể nghe trước, và các ngươi đã nghe, hiểu và lĩnh hội được. Bây giờ Ta cũng sẽ cho các ngươi biết tâm ý và yêu cầu của Ta đối với các ngươi. Các ngươi nên truyền bá công tác của Ta, lời Ta và những việc Ta sẽ thành toàn để cho toàn thể nhân loại nghe tiếng Ta; các ngươi nên mở rộng phúc âm vương quốc của Ta để cho toàn thể nhân loại nhanh chóng tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời và bước vào Thời đại Vương quốc. Đây là tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời”. Nghe xong, ngươi nên suy ngẫm như thế nào? Ngươi nên có thái độ như thế nào? Ngươi nên lựa chọn như thế nào? Ngươi nên làm tốt bổn phận mà một con người thọ tạo nên làm tốt như thế nào? Một số người có thể cảm thấy gánh nặng này nặng nề, nhưng cảm giác thôi chưa đủ; ngươi cần phải hành động và có nhận thức thật sự. Ngươi nên cầu nguyện với Đức Chúa Trời như thế này: “Lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã giao phó cho con trách nhiệm rao truyền phúc âm – đây là sự nâng đỡ của Ngài. Mặc dù con hiểu được quá ít lẽ thật, nhưng con sẵn lòng làm hết sức mình để hoàn thành sự ủy thác này. Con đã nghe rất nhiều bài giảng và hiểu được chút lẽ thật – hết thảy đều là sự chúc phúc của Ngài, và giờ đây con có trách nhiệm phải làm chứng cho lời và công tác của Đức Chúa Trời, để hoàn thành sự ủy thác này của Ngài”. Như vậy mới đúng; khi con người có lòng thuận phục Đức Chúa Trời, Ngài sẽ dẫn dắt họ. Đức Chúa Trời đã phán rõ ràng với con người rồi, phán rằng việc truyền bá phúc âm là một nghĩa vụ và trách nhiệm không ai có thể trốn tránh. Đó là bổn phận cả đời của con người, bổn phận của mỗi con người thọ tạo. Những lời này có chứa đựng mệnh lệnh từ Đức Chúa Trời không? Có chứa đựng sự nhắc nhở của Ngài không? (Thưa, có.) Có chứa đựng tâm ý của Đức Chúa Trời không? (Thưa, có.) Có chứa đựng những lẽ thật mà con người nên hiểu không? (Thưa, có.) Có chứa đựng các nguyên tắc và con đường thực hành mà con người có thể tuân theo không? (Thưa, có.) Ta đã đề cập tổng cộng bao nhiêu điểm? (Thưa, bốn điểm: đầu tiên là mệnh lệnh và sự nhắc nhở của Đức Chúa Trời. Thứ hai là tâm ý của Đức Chúa Trời. Thứ ba là các lẽ thật mà chúng con nên hiểu. Thứ tư là các nguyên tắc và con đường thực hành mà con người nên tuân theo.) Đúng vậy, Ta đã đề cập tổng cộng bốn điểm này. Tiếp theo, hãy cùng thông công về nội dung cụ thể của từng điểm.
Mục đầu tiên là mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, đó là truyền bá phúc âm của vương quốc.) Đó là rao truyền rộng rãi phúc âm của vương quốc. Mục thứ hai là tâm ý của Đức Chúa Trời. Tâm ý của Đức Chúa Trời là gì? Đó là để cho nhiều người hơn biết rằng Đức Chúa Trời đã đến rồi, Ngài đang làm công tác mới, Đức Chúa Trời dự định thay đổi thời đại, kết thúc thời đại cũ và dẫn dắt nhân loại vào thời đại mới. Đây chính là tâm ý của Đức Chúa Trời, chẳng phải sao? Có thể nói rằng tâm ý của Đức Chúa Trời là mở rộng phúc âm không? Không đơn giản như vậy. Mở rộng phúc âm có mục đích và kết quả cuối cùng – đó nên là gì? (Thưa, để cho nhiều người hơn biết rằng Đức Chúa Trời đã đến, Ngài đang làm công tác mới, và Ngài dự định kết thúc thời đại cũ và dẫn dắt toàn thể nhân loại vào thời đại mới.) Đúng vậy, đó là để dẫn dắt toàn thể nhân loại vào thời đại mới. Việc này ảnh hưởng như thế nào đến nhân loại? Nhân loại bước vào thời đại mới; thời đại này được chuyển đổi. Vậy tâm ý của Đức Chúa Trời là gì? Hãy nhắc lại. (Thưa, Đức Chúa Trời dự định thay đổi thời đại, kết thúc thời đại cũ và dẫn dắt nhân loại vào thời đại mới.) Các ngươi không được bỏ sót bất kỳ điều gì – các ngươi đã ghi lại hết chưa? (Thưa, rồi.) Mục thứ ba là lẽ thật mà con người nên hiểu. Lẽ thật này nên là gì? (Thưa, rao truyền phúc âm là bổn phận và trách nhiệm của mỗi con người thọ tạo.) Đó là lẽ thật. Trong lẽ thật này, điều con người nên làm là tiếp nhận bổn phận rao truyền phúc âm, sau đó tìm ra các nguyên tắc và con đường thực hành trong câu này. Câu này là lẽ thật đối với con người. Câu này là gì? (Thưa, rao truyền phúc âm là bổn phận và trách nhiệm của mỗi con người thọ tạo.) Nó nên là bổn phận và sứ mạng. Các ngươi hiểu bổn phận và sứ mạng như thế nào? Bổn phận là trách nhiệm mà con người nên làm tròn, và trách nhiệm mà con người nên làm tròn cũng là bổn phận của họ. Nhưng sứ mạng thì khác; sứ mạng lớn lao hơn, chuẩn xác hơn, có ý nghĩa sâu sắc hơn và có trọng lượng hơn trách nhiệm. Các ngươi đã ghi lại chưa? (Thưa, rồi.) Bây giờ Ta phát hiện một chuyện; tất cả những nội dung này mà chúng ta đang thảo luận cần được ghi lại bằng văn bản thì các ngươi mới hình dung được. Nếu các ngươi không ghi lại, mà chỉ nghe như vậy, thì thậm chí còn không có ấn tượng. Nó cho thấy điều gì? Nó cho thấy rằng con người không hiểu lẽ thật; họ chỉ hiểu được chút đạo lý và biết được định nghĩa, khái niệm và đại ý của một số lẽ thật. Còn chi tiết cụ thể, cách thực hành và áp dụng những lẽ thật này, thì họ mù tịt, chẳng phải sao? Đối với hầu hết các ngươi, nói đạo lý trong hai, ba giờ không khó, nhưng áp dụng lẽ thật để giải quyết khi gặp chuyện, sử dụng các nguyên tắc và con đường thực hành mà các ngươi đã trải nghiệm và hiểu được – thì khó. Vấn đề ở đây là gì? Không hiểu lẽ thật, đúng không? Bây giờ hãy cùng chuyển sang mục thứ tư. Mục thứ tư là gì? (Thưa, các nguyên tắc và con đường thực hành mà con người nên tuân theo.) Các nguyên tắc và con đường này được xác định như thế nào? Chúng được xác định dựa trên hai điều: thứ nhất là tâm ý của Đức Chúa Trời, và thứ hai là lẽ thật. Hai điều này là những gì con người phải hiểu. Chẳng hạn như ngươi không muốn rao truyền phúc âm khi được yêu cầu, nhưng Đức Chúa Trời phán rằng rao truyền phúc âm là tâm ý của Ngài, thì ngươi nên làm gì? Các nguyên tắc thực hành của ngươi nên là gì? Thái độ của ngươi nên là gì? Ngươi nên thuận phục và tiếp nhận hoàn toàn, không từ chối, không phân tích hay nghiên cứu, cũng không hỏi lý do. Đây mới là thuận phục thực sự. Đây là một nguyên tắc quan trọng phải tuân theo khi thực hành lẽ thật. Nếu dùng cách thức định nghĩa để nói về tâm ý của Đức Chúa Trời, thì nó thường nói đến điều gì? Tâm ý của Đức Chúa Trời thực chất là mong muốn của Đức Chúa Trời, mục đích, căn nguyên và xuất phát điểm cho hành động của Ngài. Thuật ngữ thuộc linh gọi là “tâm ý” của Ngài hoặc “khải tượng”. Khi Đức Chúa Trời cho ngươi biết về tâm ý của Ngài, Ngài cho ngươi một phương hướng chung, để ngươi biết Ngài dự định làm gì. Nhưng nếu Đức Chúa Trời không cung cấp chi tiết cụ thể hoặc nguyên tắc, thì ngươi có biết con đường và phương hướng thực hành cụ thể không? Ngươi sẽ không biết được. Đó chính là lý do tại sao khi Ta bảo con người làm việc gì, những người có não, có tâm và có hồn, sau khi tiếp nhận sẽ lập tức tìm kiếm chi tiết và cách làm cụ thể. Những người vô não, vô tâm và vô hồn, có thể cho là dễ, không đợi có thêm chi tiết đã vội hành động. Không có não và làm nhiệm vụ mù quáng chính là như vậy. Khi ngươi tiếp nhận sự ủy thác từ Đức Chúa Trời và nhắm đến việc làm tốt bổn phận và hoàn thành sứ mạng của mình, thì đầu tiên ngươi phải hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Ngươi cần biết rằng sự ủy thác này đến từ Đức Chúa Trời, rằng đó là tâm ý của Ngài, và ngươi nên tiếp nhận, quan tâm, và quan trọng hơn là thuận phục nó. Thứ hai, ngươi nên tìm kiếm xem để thực hiện bổn phận này, những lẽ thật nào mình cần hiểu, những nguyên tắc nào mình nên tuân theo, và cách thực hành nào có lợi cho dân được Đức Chúa Trời chọn và công tác của nhà Đức Chúa Trời. Đây là nguyên tắc thực hành. Sau khi lĩnh hội được tâm ý của Đức Chúa Trời, ngươi nên nhanh chóng tìm kiếm và hiểu các lẽ thật liên quan đến việc thực hiện bổn phận này, và sau khi hiểu được lẽ thật thì xác định các nguyên tắc và con đường thực hành những lẽ thật này. “Nguyên tắc” nói đến điều gì? Cụ thể, nguyên tắc nói đến điều mà khi thực hành lẽ thật phải dựa trên đó để đạt được mục tiêu hoặc có kết quả. Chẳng hạn như nếu ngươi được giao nhiệm vụ mua một vật phẩm, thì nguyên tắc thực hành cụ thể cho chuyện này là gì? Đầu tiên, ngươi cần hiểu thông số kỹ thuật và mẫu mã của vật phẩm cần mua, các tiêu chuẩn chất lượng phải đáp ứng, và giá cả có phù hợp hay không. Trong quá trình tìm kiếm, ngươi sẽ hiểu rõ các nguyên tắc cụ thể. Các nguyên tắc này cho ngươi một thang đo và phạm vi – chỉ cần ở trong phạm vi này là được. Một khi ngươi hiểu được các nguyên tắc cơ bản về thông số kỹ thuật, chất lượng và giá cả của vật phẩm, thì nó cho thấy ngươi đã nắm bắt được các tiêu chuẩn yêu cầu cho nhiệm vụ này. Chuyện này tương đương với việc ngươi đã biết cách thực hành về cơ bản. Để thực hành lẽ thật, phải nắm bắt được các nguyên tắc: nguyên tắc mới là yếu tố chủ chốt và cơ bản nhất. Một khi ngươi nắm bắt được các nguyên tắc cơ bản để thực hiện bổn phận, thì nó cho thấy ngươi đã hiểu được các tiêu chuẩn yêu cầu để thực hiện bổn phận đó. Nắm vững các nguyên tắc này tương đương với biết cách thực hành lẽ thật. Vậy khả năng thực hành này được thiết lập dựa trên cơ sở nào? Nó dựa trên cơ sở hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời và lẽ thật. Nếu ngươi chỉ biết một câu trong những điều Đức Chúa Trời yêu cầu, thì có được coi là hiểu lẽ thật không? Không. Để được coi là hiểu lẽ thật, phải đáp ứng các tiêu chuẩn nào? Ngươi phải hiểu ý nghĩa và giá trị việc thực hiện bổn phận của mình; một khi đã rõ về hai khía cạnh này thì ngươi đã hiểu được lẽ thật về việc thực hiện bổn phận của mình. Ngoài ra, sau khi hiểu lẽ thật, ngươi cũng phải nắm bắt được các nguyên tắc thực hiện bổn phận và con đường thực hành. Một khi ngươi có thể nắm bắt và áp dụng các nguyên tắc thực hiện bổn phận, thỉnh thoảng vận dụng chút khôn ngoan, thì ngươi có thể đảm bảo được hiệu quả thực hiện bổn phận của mình. Bằng cách nắm bắt các nguyên tắc này và hành động theo đó, ngươi có thể đủ khả năng thực hành lẽ thật. Nếu ngươi thực hiện bổn phận mà không bị uế tạp bởi ý muốn của con người, nếu ngươi thực hiện bằng cách hoàn toàn thuận phục các yêu cầu của Đức Chúa Trời và tuân theo sự sắp xếp công việc của nhà Đức Chúa Trời, hoàn toàn phù hợp với lời Đức Chúa Trời, thì ngươi đã thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, dù kết quả có thể có chút chênh lệch so với yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì vẫn được tính là đạt yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thực hiện bổn phận hoàn toàn theo nguyên tắc, nếu ngươi hết lòng trung thành, tất cả đều hết khả năng của mình, thì việc thực hiện bổn phận của ngươi hoàn toàn hợp tâm ý của Đức Chúa Trời. Ngươi đã làm tốt bổn phận của mình với tư cách con người thọ tạo một cách hết lòng, hết trí khôn và hết sức mình, đây chính là kết quả đạt được khi thực hành lẽ thật. Bây giờ, để nắm bắt các nguyên tắc và con đường thực hành, để đạt được kết quả này, đầu tiên ngươi nên hiểu điều gì? (Thưa, đầu tiên chúng con nên hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, sau đó tiếp nhận và thuận phục một cách hoàn toàn, không từ chối.) Đây chính là việc thực hành và thái độ mà con người nên có. Tiếp theo nên hiểu điều gì? Ngươi nên hiểu lẽ thật, và các chi tiết trong lẽ thật chính là nguyên tắc và con đường. Để nắm bắt được các nguyên tắc và con đường thực hành mà ngươi nên tuân theo, điều đầu tiên ngươi phải hiểu là tâm ý của Đức Chúa Trời, tiếp theo là lẽ thật. Đây là hai điểm chính, còn lại đều là những nội dung chi tiết được bao hàm ở đây.
Loại đầu tiên về những người thực hiện bổn phận rao truyền phúc âm tạm thời kết thúc ở đây. Hôm nay Ta đã bổ sung thêm một chút. Việc bổ sung những điều này là để nhắc nhở cho chủ đề chính được thảo luận lần trước. Đồng thời, nó cũng là lời khuyên bảo để tất cả mọi người nhận ra được tầm quan trọng của lẽ thật này, để mỗi nhiệm vụ mà ngươi hiện đang tham gia và mỗi bổn phận mà ngươi thực hiện đều hướng tới phương hướng và mục đích này, cũng như được thực hiện dựa trên cơ sở này – hết thảy đều liên quan đến việc rao truyền phúc âm. Dù ngươi không ở tiền tuyến tiếp xúc với các đối tượng phúc âm, nhưng có thể nói tất cả những bổn phận ngươi hiện đang thực hiện đều liên quan đến công tác phúc âm. Trên cơ sở này, chẳng phải tất cả mọi người nên có nhận thức rõ ràng hơn và sáng tỏ hơn về lẽ thật liên quan đến việc rao truyền phúc âm sao? (Thưa, phải.) Thông qua phần bổ sung của ngày hôm nay, các ngươi đã có được cái nhìn rõ ràng về trọng lượng và tầm quan trọng của bổn phận rao truyền phúc âm chưa? (Thưa, rồi.) Vậy thì về sau, thái độ phù hợp và thỏa đáng nhất nên có đối với lẽ thật này là gì? Mở rộng phúc âm là tâm ý của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời dự định kết thúc thời đại cũ này và dẫn dắt nhiều người hơn đến trước Ngài, ra khỏi thời đại cũ và bước vào thời đại mới. Đây chính là tâm ý của Đức Chúa Trời, và là điều mà tất cả mọi người nên hiểu. Một số người nói rằng: “Tôi hiểu, nhưng không sao xốc lại tinh thần để rao truyền phúc âm, và tôi không có lòng hợp tác”. Vấn đề ở đây là gì? (Thưa, không có nhân tính.) Chính xác. Ngươi thừa nhận mình là một con người thọ tạo và người đi theo Đức Chúa Trời, nhưng khi nói đến tâm ý của Đức Chúa Trời mà Ngài thường xuyên răn dạy tất cả mọi người, tâm ý khẩn thiết của Ngài đã được giải thích rõ ràng với tất cả mọi người, nếu ngươi không chú ý và lưu tâm, thì ngươi là loại người gì? Đó là một biểu hiện của sự không có nhân tính. Ngươi muốn tôn Đức Chúa Trời là vĩ đại và nói rằng Ngài là Đức Chúa Trời của ngươi, là Chúa của ngươi, nhưng khi nói đến tâm ý của Đức Chúa Trời, thì ngươi không hề tỏ ra tôn trọng, không hề quan tâm chút nào. Đây gọi là không có nhân tính, và dạng người này không có tâm can. Chủ đề này kết thúc ở đây.
Định nghĩa về lãnh đạo và người làm công; cùng lý do có lãnh đạo và người làm công
Tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về phân loại thứ hai: những người thực hiện bổn phận lãnh đạo và người làm công. Mặc dù số lượng ít, nhưng những người này đóng vai trò quan trọng về mặt tính chất công việc. Bổn phận của lãnh đạo và người làm công cũng liên quan đến nhiều lẽ thật, thậm chí nhiều lẽ thật hơn cả việc rao truyền phúc âm. Tại sao Ta lại nói vậy? Những bổn phận này rất rộng về phạm vi. Một mặt là công tác mở rộng phúc âm bên ngoài, mặt khác là chăm tưới và chu cấp nội bộ cho dân được Đức Chúa Trời chọn, quản lý tốt đời sống hội thánh, cũng như xử lý việc của hội thánh và giải quyết đủ loại vấn đề. Nghĩa là các lãnh đạo và người làm công phải hiểu nhiều lẽ thật hơn, các yêu cầu đưa ra cho họ liên quan đến một số nguyên tắc thực hành thì nghiêm ngặt hơn, và mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời phải mật thiết hơn. Làm lãnh đạo hoặc người làm công đòi hỏi việc thực hành và bước vào nhiều khía cạnh lẽ thật khác nhau, con đường mà mọi người đi, cũng như nhiều khía cạnh khác. So với việc thực hiện bổn phận rao truyền phúc âm, thì làm lãnh đạo hoặc người làm công liên quan nhiều hơn đến lối vào sự sống và cũng cần đạt được sự biến đổi tâm tính. Vì thế, lẽ thật liên quan đến cách làm tốt công tác lãnh đạo thì sẽ rộng hơn về phạm vi và nhiều hơn về số lượng. Nhưng dù có nhiều đến đâu thì chúng vẫn thuộc một số phương diện lớn, vì vậy hãy cùng đi qua từng mục một, từng điểm một, và các ngươi sẽ dần hiểu được. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc nói về định nghĩa. Tại sao lại cần phải định nghĩa? Định nghĩa tương đương với định vị – có nghĩa là cho mọi người biết tính chất và phạm vi trách nhiệm của việc thực hiện những bổn phận này, cũng như chức danh – nói cách khác là gọi như thế nào. Bằng cách định nghĩa chính xác những bổn phận này, trong lòng con người có thể hiểu rõ sức nặng của phân loại người này trong lòng Đức Chúa Trời, Ngài yêu cầu điều gì ở họ, Ngài có yêu cầu gì đối với việc thực hiện những bổn phận này của họ, họ nên đi con đường nào, và nên thực hành những nguyên tắc nào. Bất kể họ trẻ hay già, thân phận cao quý hay thấp kém và có bối cảnh như thế nào, Đức Chúa Trời cũng đều có các tiêu chuẩn yêu cầu đối với loại người này. Nói cách khác, có những lẽ thật mà người thực hiện những bổn phận như thế phải hiểu; có các nguyên tắc lẽ thật họ nên nắm bắt và thực hành, và có con đường nhất định họ nên đi theo. Vậy những người được chọn trong số những người đi theo Đức Chúa Trời để lãnh đạo và làm việc thường được định nghĩa như thế nào? Định nghĩa chính xác rốt cuộc là gì? Con người cho rằng định nghĩa nên là gì? Và địa vị chính xác của loại người này trong lòng người khác là gì? Chẳng phải nó liên quan đến việc định nghĩa về thân phận và địa vị của loại người này sao? Rốt cuộc những người khác định vị nhóm người này trong lòng họ như thế nào? Có phải là sứ đồ không? Không. Có phải là môn đồ không? Cũng không phải là môn đồ. Có ai gọi họ là người chăn chiên không? (Thưa, có.) “Người chăn chiên” có phải là một chức danh phù hợp không? (Thưa, không.) Tại sao không? (Thưa, sai vị trí.) Con người có thể đảm đương nổi vai trò của người chăn chiên không? (Thưa, không.) Nếu không phải là sứ đồ, môn đồ cũng không được, “người chăn chiên” cũng không phù hợp, vậy rốt cuộc thì tên gọi nào mới phù hợp nhất với những người thực hiện những bổn phận này? Thuật ngữ nào vừa vặn hơn? (Thưa, người canh giữ.) “Người canh giữ” có phù hợp không? Ta không thấy sự khác biệt nào giữa chức danh này và “người chăn chiên” cả. Đó là một cái tên nghe to tát, nhưng công việc mà những người này làm khá nhỏ. Không có chức danh nào trong số này là phù hợp cả. Vậy dựa trên tính chất bổn phận mà những người này thực hiện, thì tên gọi và định nghĩa nào thỏa đáng hơn? Nguyên tắc định nghĩa loại người này là gì? Định nghĩa phải phù hợp với tính chất công việc, cũng như với thân phận và địa vị của họ, và phải vừa vặn, không thể quá khoa trương. Nếu chúng ta định nghĩa những người này là “sứ đồ”, thì có phải là quá khoa trương không? (Thưa, phải.) Hoặc “người canh giữ” thì sao? (Thưa, còn khoa trương hơn.) Ngươi có khả năng canh giữ mọi người không? Nếu không thì các ngươi không phải là người canh giữ. Thế còn “người chăn chiên” thì sao? “Người chăn chiên” nghĩa là sao? (Thưa, là người chăn nuôi đàn chiên.) Đó chính là người chăn nuôi và canh giữ đàn chiên. Nếu chỉ dựa trên tính chất công việc, thì cái tên này thực ra phù hợp với nhóm này. Nhưng căn cứ vào những gì mà con người có thể gánh vác hiện nay, những gì họ có thể đạt được và những tâm tính bại hoại của họ, thì chức danh “người chăn chiên” có phù hợp không? (Thưa, không.) Nó hơi khoa trương. Con người không thể làm được việc này, nó cũng không phù hợp với tính chất hoặc phạm vi công việc mà con người làm hiện nay. Rõ ràng, chức danh này không phù hợp với họ. Vậy thì cách nói phù hợp nhất để định nghĩa loại người này là gì? (Thưa, là lãnh đạo và người làm công.) Cách nói này tương đối phù hợp.
Đâu là nguyên nhân xuất hiện lãnh đạo và người làm công? Họ xuất hiện như thế nào? Về mặt vĩ mô, họ cần thiết cho công tác của Đức Chúa Trời; về mặt vi mô, họ cần thiết cho công tác của hội thánh, cần thiết cho dân được Đức Chúa Trời chọn. Dù loại người này có thân phận hoặc địa vị như thế nào, dù họ đóng vai trò nào, thì họ cũng đều bình đẳng với các thành viên bình thường trong số dân được Đức Chúa Trời chọn; thân phận và địa vị của họ trước Đức Chúa Trời là như nhau. Mặc dù trong hội thánh có thuật ngữ “lãnh đạo và người làm công”, và mặc dù những người này là “lãnh đạo” và “người làm công” thực hiện bổn phận khác với các anh chị em, nhưng cách gọi “loài thọ tạo” trước Đức Chúa Trời vẫn vậy; thân phận này sẽ không thay đổi. Sự khác biệt giữa các lãnh đạo và người làm công so với những thành viên bình thường trong số dân được Đức Chúa Trời chọn chỉ là bổn phận mà họ làm có chút tính đặc thù mà thôi. Tính đặc thù này thể hiện chủ yếu trong vai trò lãnh đạo của họ. Ví dụ, trong một hội thánh dù có bao nhiêu người đi nữa thì lãnh đạo luôn là người đứng đầu. Vậy lãnh đạo này có vai trò gì trong đội ngũ các thành viên? Họ dẫn dắt tất cả những người được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh đó. Vậy họ có ảnh hưởng gì đối với toàn hội thánh đó? Nếu người lãnh đạo này đi sai đường, mọi người trong hội thánh sẽ theo họ mà đi sai đường, và điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ dân được Đức Chúa Trời chọn ở hội thánh đó. Lấy Phao-lô làm ví dụ. Ông đã lãnh đạo nhiều hội thánh do ông thành lập và dân được Đức Chúa Trời chọn. Khi Phao-lô đi chệch đường, thì các hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn mà ông lãnh đạo cũng đi chệch đường. Do vậy, khi người làm lãnh đạo rẽ theo con đường riêng, thì việc này không những ảnh hưởng đến bản thân họ, mà cũng sẽ ảnh hưởng đến các hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn mà họ lãnh đạo. Nếu một lãnh đạo là một người đúng đắn, đi con đường đúng và mưu cầu cũng như thực hành lẽ thật, thì một mặt, những người họ dẫn dắt sẽ ăn uống lời Đức Chúa Trời và mưu cầu một cách bình thường, mặt khác, trải nghiệm và sự tiến bộ sự sống của cá nhân họ sẽ được tỏ rõ cho những người khác thấy, cũng sẽ có ảnh hưởng lên những người khác. Vậy, con đường đúng đắn mà một lãnh đạo nên đi là gì? Chính là con đường có thể dẫn dắt người khác hiểu lẽ thật và bước vào lẽ thật, và đưa người khác đến trước Đức Chúa Trời. Con đường sai trật là gì? Chính là con đường mưu cầu địa vị, danh lợi, thường thể hiện bản thân và làm chứng cho chính mình, không bao giờ làm chứng cho Đức Chúa Trời. Điều này có ảnh hưởng gì đến những người được Đức Chúa Trời chọn? (Thưa, đưa họ đến trước chính mình.) Họ sẽ lạc xa Đức Chúa Trời và bị lãnh đạo này khống chế. Nếu ngươi dẫn mọi người đến trước ngươi, thì ngươi đang dẫn họ đến trước con người bại hoại và Sa-tan, chứ không phải đến trước Đức Chúa Trời. Chỉ có dẫn dắt con người đến trước lẽ thật mới là dẫn họ đến trước Đức Chúa Trời. Các lãnh đạo và người làm công, bất kể họ đi con đường đúng hay sai, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến dân được Đức Chúa Trời chọn. Khi chưa hiểu lẽ thật, thì phần lớn dân được Đức Chúa Trời chọn sẽ đi theo một cách mù quáng. Người tốt làm lãnh đạo thì họ sẽ đi với người tốt, người xấu làm lãnh đạo thì họ sẽ đi với người xấu, họ không phân định được gì, ai dẫn dắt thế nào thì họ cũng đi theo, và ai dẫn dắt cũng được hết. Và vì vậy việc các hội thánh phải chọn những người tốt làm lãnh đạo là rất quan trọng. Con đường mà mỗi người tin Đức Chúa Trời đi có liên quan trực tiếp đến con đường mà những người lãnh đạo và người làm công đi, và có thể bị ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau bởi các lãnh đạo và người làm công đó. Chúng ta hãy bắt đầu thông công về những lẽ thật khác nhau liên quan đến việc thực hiện bổn phận lãnh đạo và người làm công từ hai khía cạnh này trước – một mặt là con đường đúng và mặt khác là con đường sai. Theo các ngươi, chúng ta nên thông công về con đường nào trước? (Thưa, con đường sai.) Tại sao các ngươi chọn con đường này? Nói về con đường đúng trước hay nói về con đường sai trước thì tốt hơn? (Thưa, nói về con đường sai trước.) Thật ra thì đều đúng, nhưng nói về con đường nào trước con đường nào sau, hai cách thức này mang đến hiệu quả khác nhau. Nếu chúng ta nói về con đường sai trước, mọi người có thể tìm thấy con đường đúng đắn nhiều hơn từ trong con đường sai và cũng có thể tìm ra nhiều điều hoặc nhận thức tiêu cực mà họ có thể sử dụng để răn mình. Từ đây, họ có thể rút ra điều gì đó tích cực. Và nếu sau đó chúng ta tiếp tục nói về con đường đúng, thì mọi người sẽ có thể tlĩnh hội những gì tích cực ở mức độ sâu hơn và nhanh hơn. Về cơ bản, phương pháp này khả thi và mang lại lợi ích cho mọi người. Vậy thì chúng ta hãy bắt đầu bằng cách nói về con đường sai.
Thủ đoạn để khống chế mọi người của kẻ địch lại Đấng Christ
Một khi được chọn làm lãnh đạo hoặc người làm công và bắt đầu thực hiện bổn phận của mình, con người có nên có một cung cách nhất định không? Có những người hỏi: “Cung cách gì chứ? Họ nên cưỡi mây đạp gió hay hô mưa gọi gió hay sao?”. Đều không phải. Mặc dù họ không nên cưỡi mây đạp gió hay hô mưa gọi gió, càng không nên tuyên bố lớn tiếng, nhưng bởi vì họ là nhân loại bại hoại với tâm tính và thực chất bại hoại của Sa-tan, nên trong những thời điểm như thế, trong thâm tâm mỗi người đều là sông cuộn biển gầm. Họ đều có hùng tâm tráng chí, có một loại sĩ khí phải làm nên sự nghiệp và trổ tài, gióng trống khua chiêng và dốc sức một phen. Tạm thời chúng ta chưa bàn đến chuyện kiểu sĩ khí này là đúng hay sai. Khi ai đó được chọn làm lãnh đạo hoặc người làm công, họ ấp ủ những cảm xúc rất phức tạp trong thâm tâm. Ý Ta nói phức tạp nghĩa là gì? Có những người cho rằng được chọn làm lãnh đạo không hề dễ dàng, và mặc dù họ không chắc mình có thể làm tốt công việc hay không, cũng không biết con đường tương lai của mình sẽ ra sao, nhưng do bản tính tự nhiên, họ rất sẵn lòng khi có được cơ hội này, cũng rất sẵn lòng tiếp nhận trách nhiệm và trọng trách vinh quang này. Trong thâm tâm, họ cũng cảm thấy một chút tự thỏa mãn và may mắn. Họ cảm thấy may mắn về điều gì? Họ cho rằng: “Mình đã được lựa chọn trong hàng chục người – hẳn là mình khá ưu tú và có năng lực. Hẳn là mình giỏi hơn người bình thường, có khả năng lĩnh hội tốt hơn và có nhiều hiểu biết thuộc linh hơn những người bình thường. Mình đã tin đức chúa trời nhiều năm, đã dâng mình và trả giá rất nhiều. Sự thật chứng tỏ rằng mình đủ tư cách dẫn dắt hội thánh, dẫn dắt mọi người bước vào lời đức chúa trời và hiểu lẽ thật. Có rất nhiều người thông minh hơn, có trình độ hơn và hoạt ngôn hơn mình, vậy tại sao cứ nhất quyết phải chọn mình chứ? Nó cho thấy mình có năng lực và nhân tính tốt. Đây là ân đãi của đức chúa trời”. Đây là cuộc độc thoại trong thâm tâm họ. “Ân đãi của Đức Chúa Trời” được thêm vào cuối, nhưng thực ra phần đầu mới là suy nghĩ thực sự và nhận thức thực sự của họ. Họ cảm thấy: “Tuy rằng mình không tranh cũng không đoạt, nhưng mình vẫn được chọn. Bây giờ nên làm gì nhỉ? Mình không thể phụ lòng mọi người được, phải dốc sức một phen!”. Và họ dốc sức một phen như thế nào? Ngày đầu tiên trong công việc mới, họ triệu tập buổi nhóm họp với các trưởng nhóm, với một cung cách và khí thế nhất định. Kiểu khí thế gì? Họ hành động mau lẹ và quyết đoán, nói một là một, hăm hở tạo nên một khởi đầu ấn tượng. Đầu tiên, họ cố gắng cho tất cả mọi người thấy mình có năng lực như thế nào, sau đó họ cố gắng khiến cho mọi người phân định và từ bỏ người lãnh đạo tiền nhiệm. Họ nói: “Hôm nay, đầu tiên chúng ta sẽ dành chút thời gian mổ xẻ người lãnh đạo tiền nhiệm, chẳng hạn như những cách anh ta kìm kẹp mọi người, những khía cạnh công việc anh ta còn thiếu sót hoặc lơ là, v.v. – chúng ta có thể thông công về tất cả những điều này. Khi chúng ta thông công xong, và các anh chị em đã phân định rõ được người lãnh đạo trước, có thể từ bỏ anh ta, không còn bị anh ta kìm kẹp, và không còn lưu luyến anh ta nữa, thì có thể xem như các anh chị em đã có nhận thức, có thể coi như đã có lòng trung thành và thuận phục đức chúa trời. Trong buổi nhóm họp ngày hôm nay, chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc phê bình người lãnh đạo giả tiền nhiệm và kẻ địch lại Đấng Christ trước. Hãy cùng vạch trần anh ta”. Mọi người đáp lại rằng họ đã thông công về việc này rồi, đã phân định rằng người tiền nhiệm là lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ rồi, nên không còn gì để vạch trần cả. Nhưng lãnh đạo mới này không đồng ý, thế là họ chỉ đích danh bắt người ta phải thông công. Một số người thông công không vừa ý họ, nên họ đã mời một trong những anh chị em thân thiết nhất với lãnh đạo cũ lên vạch trần và mổ xẻ anh ta. Nhưng sau khi nghe xong mối thông công này, người lãnh đạo mới nghĩ: “Người này không phân định được người tiền nhiệm của mình, cũng chưa từ bỏ anh ta. Có vẻ như trong lòng người này vẫn có chỗ cho anh ta. Không được, hôm nay mình phải nghĩ cách để hoàn toàn vạch trần người tiền nhiệm”. Sau đó, họ gọi người có mối quan hệ xấu nhất với lãnh đạo trước đứng lên vạch trần anh ta. Sau khi người đó vạch trần lãnh đạo trước, họ liền hài lòng và cho rằng người này đáng bồi dưỡng. Họ muốn bồi dưỡng cái gì? Họ muốn bồi dưỡng đồng bọn, bồi dưỡng thế lực của riêng mình. Buổi nhóm họp mở màn diễn ra như thế. Sau cuộc nhóm họp này, họ có thể đạt được mục đích của mình chưa? Chưa triệt để lắm, hoặc không nhanh như vậy. Trong lòng họ đang tính toán gì? “Lòng người khó dò nhất, lòng người hiểm ác nhất. Mình phải xác định xem mỗi người nghĩ gì về người tiền nhiệm, và mình phải rõ họ nghĩ gì về mình, họ có biết quá khứ của mình không, và họ có biết những chuyện riêng của mình không, cuối cùng cho họ thấy con người của mình không dễ chọc. Nhưng mình phải chọn lựa phương thức và phương pháp cẩn thận, không được để lộ ý định, phải che giấu đi”. Những suy nghĩ, cách làm việc và xuất phát điểm này bắt nguồn từ đâu? Bản tính Sa-tan của họ. Các ngươi có những biểu hiện như vậy không? Ngày được chọn làm lãnh đạo hoặc người làm công, các ngươi có thể bắt đầu bằng việc cảnh cáo bản thân không được đi sai đường, không được đi con đường của lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi có thể tự nhủ mình phải buông bỏ địa vị, và không được làm việc vì danh lợi hay địa vị của riêng mình, hoặc bị dục vọng lôi kéo trong khi làm việc, thay vào đó phải thực hiện bổn phận một cách đàng hoàng, và phải trung thành với Đức Chúa Trời. Nhưng thời gian trôi qua, có những người không thể cưỡng lại bản thân, và hễ họ nói chuyện hay hành động, mục đích của họ liền rất rõ ràng – họ lập tức cố gắng củng cố địa vị của bản thân và lung lạc lòng người. Hễ ai đó tỏ ra dù chỉ một chút bất mãn hoặc chống đối, họ liền khó chịu. Và dù họ có thể không công khai loại trừ hoặc tấn công người đó, nhưng trong thâm tâm họ cảm thấy rất có ác cảm với người đó. Họ biểu hiện ra cảm giác có ác cảm này như thế nào? (Thưa, họ làm ngơ người đó.) Làm ngơ là một biểu hiện thầm lặng, cụ thể thì họ sẽ có những hành động gì? Chẳng hạn như trong các buổi nhóm họp, họ sắp xếp những người họ thích ngồi đối diện với họ, và họ tìm lý do để sắp xếp những người họ không thích ngồi sang một bên. Đây có phải là tấn công không? (Thưa, phải.) Đây là khởi đầu của tấn công. Đây có phải là hành động không? (Thưa, phải.) Hành động nghiêm trọng và ghê gớm hơn lời nói hoặc suy nghĩ. Tại sao lại ghê gớm hơn? Suy nghĩ nhưng không hành động – đây là xuất phát từ tâm tư ý niệm. Nhưng ngay khi có hành động, nó liền trở thành sự thật. Khi nó trở thành hành vi, thì đó không chỉ là tâm tính bại hoại của Sa-tan, mà là việc ác. Sau khi được chọn làm lãnh đạo, con người đem những nguyện vọng, chí hướng và lý tưởng của bản thân vào công việc họ làm và bổn phận họ thực hiện. Nhưng biểu hiện chung mà toàn thể nhân loại có tâm tính bại hoại của Sa-tan đều có là gì? Điểm chung của hết thảy họ là gì? Họ đều cố gắng nắm quyền và củng cố địa vị của chính mình. Họ cố gắng nắm quyền bằng những phương thức nào? Đầu tiên, họ quan sát trong các nhóm người xem ai đang cố gắng xu nịnh họ và gần gũi họ. Sau đó, họ chủ động gần gũi hơn với những người đó, và dù là thông qua việc a dua nịnh hót hay ban phát những ân huệ nhỏ, họ tạo kết nối ngầm và lôi kéo làm quen, để những người này – cùng chung sở thích, hứng thú, dã tâm hoặc bản tính với họ – trở thành những người sống chết đi theo họ và gia nhập thế lực của họ. Khi khiến những người này gia nhập thế lực của họ, mục đích của họ là gì? Để củng cố địa vị và mở rộng phạm vi thế lực của mình. Một khi họ có được quyền lực, đó không chỉ là vấn đề có quyền quyết định, mà hơn nữa, họ còn muốn khiến cho nhiều người hơn đi theo, ủng hộ và nói thay cho họ, để dù họ có nói gì sai, làm chuyện xấu, hay tấn công và hạn chế người ta, thì vẫn có những người làm như họ nói và tán thành họ. Đây chính là mục đích của họ. Rồi nếu một ngày Bề trên phát hiện ra vấn đề của họ và cách chức họ, thì vẫn có những người ra sức nói thay cho họ, bảo vệ họ và cố gắng bảo vệ danh dự của họ. Họ làm vậy để đạt được kết quả như thế này, họ đang sử dụng phương thức gì? Lung lạc lòng người. Họ sử dụng phương thức lung lạc lòng người để củng cố địa vị và mở rộng phạm vi thế lực của mình. Đây là một trong những phương thức nắm quyền của kẻ địch lại Đấng Christ.
Về những thủ đoạn mà kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để củng cố địa vị, thì thủ đoạn đầu tiên là lung lạc lòng người, thủ đoạn thứ hai là tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình. Lung lạc lòng người có nghĩa là họ sử dụng phương thức lung lạc để đối xử với những người xu nịnh họ, gần gũi họ, tin tưởng họ và đi theo họ, bất kể họ đúng hay sai. Tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình có nghĩa là họ xem tất cả những người hiểu lẽ thật và có thể phân định họ, không đi theo họ và tránh xa họ, là kẻ thù. Họ xem những người này là cái đinh trong mắt, cái gai trong thịt, và thủ đoạn họ sử dụng đối với những người này là tấn công và loại trừ. Ví dụ, giả sử một kẻ địch lại Đấng Christ để ý thấy mỗi lần họ thông công, mọi người rất nhiệt tình, một số người còn ghi chép hoặc dùng máy thu âm lại. Duy chỉ có một người chị em trẻ tuổi là không bao giờ ghi chép hay lên tiếng. Vì thế họ thầm nghĩ: “Cô ta có vấn đề với mình à? Hay là cô ta nghĩ mình thông công không hay? Rồi mỗi lần mình đến, mọi người đều chào hỏi, gật đầu chào thân thiện, rót nước, mời ngồi, nhưng cô ta không bao giờ đối đãi mình như thế. Có vẻ như cô ta không phục mình – phải nghĩ cách và tìm cơ hội giáo huấn cô ta mới được! Nên tìm cơ hội như thế nào nhỉ? Mình sẽ sắp xếp cho cô ta đi xử lý việc gì đó mà cô ta chắc chắn sẽ làm kém – thế là mình sẽ có lý do giáo huấn cô ta. Đó là cơ hội tốt nhất để khiến cô ta phục mình”. Cuối cùng, họ sắp xếp cho người chị em này đi làm việc ở một nơi nguy hiểm. Họ thầm nghĩ: “Mình sẽ bắt cô ta đi rao truyền phúc âm cho một lão mục sư tôn giáo già, hơi háo sắc và cũng không phải là người tiếp nhận lẽ thật. Để xem cô ta có thể cải đạo ông ấy không. Nếu không thể thì cô ta có lời nào để nói không? Nếu cô ta không phục thì mình sẽ đuổi cô ta đi!”. Thế là họ tiến hành nói với người chị em ấy rằng: “Hiện nay, hầu hết các anh chị em đều đánh giá cô rất cao. Cô đã tin đức chúa trời nhiều năm và hiểu nhiều lẽ thật. Có một mục sư tôn giáo am hiểu Kinh Thánh, và cô là người phù hợp nhất để đi rao truyền phúc âm cho ông ấy”. Khi người chị em gặp mục sư này, ông ta thấy cô ấy trẻ đẹp liền thích – thậm chí còn trêu ghẹo cô. Sau khi trở về, người chị em nói không muốn đi nữa, và kẻ địch lại Đấng Christ đáp: “Hội thánh đã phân công cô đi rao truyền phúc âm cho ông ấy. Đây là bổn phận của cô, cô phải đi!”. Nghe xong, người chị em đành phải thuận phục, và kết quả là lần nào đi xong về, cô ấy cũng khóc. Người lãnh đạo này có khả năng làm những chuyện như thế để tấn công và trả đũa người khác. Đây là loại người gì? Họ là kẻ ác. Nếu họ là phụ nữ, họ có đi trong tình huống như vậy không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không. Họ sẽ tránh hơn ai hết. Họ xem ai không vừa mắt, dễ bắt nạt, không phục họ và không xu nịnh họ, thì sẽ tìm cơ hội âm mưu, trả thù. Nói Ta nghe, người có những ý định xấu, ác, chẳng phải chuyện gì xấu cũng làm được sao? Những ý định xấu, ác này do đâu mà có? Nguyên nhân chủ yếu là một mặt do thực chất bản tính của họ quá xấu xa và ác độc, mặt khác là họ không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Khi con người không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, thì không có chuyện gì mà họ không dám làm; họ không những hại người, mà thậm chí còn làm những chuyện như xét đoán và bán đứng Đức Chúa Trời – hại người là chuyện dễ như trở bàn tay đối với họ. Dù có hại người tới cỡ nào, họ cũng sẽ không cho là chuyện lớn; họ không có lòng thương người và tâm địa quá ác độc. Khi kẻ địch lại Đấng Christ này đẩy người chị em trẻ vào hố lửa, mục đích của họ là gì? Họ không làm vậy để rao truyền phúc âm và thu phục người; mà chính là để trừng trị cô ấy. Họ trừng trị dạng người nào? Nếu đó là người nghe theo và thuận phục họ, thì họ có trừng trị không? Không. Vậy tại sao người chị em lại phải chịu sự đối xử như thế? (Thưa, bởi vì cô ấy không phục họ.) Bởi vì cô ấy không phục họ, không xu nịnh họ, không nghe lời họ hoặc không xem họ là quan trọng, mà thay vào đó khinh thường họ, nên kết quả là cô ấy bị đối xử như vậy và bị hãm hại. Khi kẻ địch lại Đấng Christ hại người kiểu này, những người có vóc giạc nhỏ bé và không hiểu lẽ thật thường phản ứng như thế nào? Họ sẽ ngẫm nghĩ: “Phép vua thua lệ làng. Bây giờ chúng ta đang trong tay người này, nên chúng ta nên nghe theo họ, họ bảo đi đâu thì đi đấy. Người khác đối với họ thế nào, chúng ta cũng đối với họ như thế. Chúng ta phải hòa nhập với tập thể. Người khác xu nịnh họ, chúng ta cũng nên làm như vậy, và còn phải làm tốt hơn, ân cần hơn người khác nữa. Như vậy mới có thể được yên thân với lãnh đạo này được. Lãnh đạo này không dễ hầu hạ đâu – chúng ta không nên chọc họ!”. Chẳng phải đây chính là kết quả mà kẻ địch lại Đấng Christ muốn thấy sao? (Thưa, phải.) Như thế họ đã đạt được mục đích của mình. Chẳng phải nó giống như thủ đoạn mà Sa-tan sử dụng để giết hại con người sao? (Thưa, phải.) Nó cho thấy điều gì? Hành động của họ đại diện cho Sa-tan. Họ đã trở thành một đầu mối và đại diện của Sa-tan; họ thay nó hành động. Làm bổn phận kiểu đó có phải là thực sự thực hiện bổn phận không? Có phải phụng sự Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Dạng lãnh đạo này không xứng đáng được gọi là lãnh đạo – đây là kẻ ác, là Sa-tan.
Ngay khi những người thuộc thể loại như kẻ địch lại Đấng Christ trở thành lãnh đạo, việc đầu tiên họ làm là lung lạc lòng người, khiến mọi người tin tưởng họ, tín nhiệm họ và ủng hộ họ. Khi địa vị của họ vững chắc, họ bắt đầu biến thái. Để bảo vệ địa vị và quyền lực của mình, họ bắt đầu tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình. Đối với những người bất đồng quan điểm với mình – nhất là những người mưu cầu lẽ thật – họ sẽ không từ thủ đoạn, sử dụng những thủ đoạn ổn định, chuẩn xác và không thương xót để chèn ép và tấn công người ta, để trừng trị người ta. Chỉ khi họ đã hạ bệ và bôi nhọ được người đe dọa địa vị của mình, họ mới cảm thấy an tâm. Mọi kẻ địch lại Đấng Christ đều như vậy. Khi sử dụng các loại chiến thuật này để lung lạc và chèn ép mọi người, mục đích của họ là gì? Mục đích của họ là có được quyền lực, củng cố địa vị của mình, mê hoặc và khống chế mọi người. Những ý định và xuất phát điểm của họ thể hiện điều gì? Họ muốn thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình, họ muốn không đội trời chung với Đức Chúa Trời. Dạng thực chất này còn nghiêm trọng hơn tâm tính bại hoại: những dã tâm và quỷ kế của Sa-tan đã hoàn toàn phơi bày. Đây không đơn thuần chỉ là vấn đề bộc lộ tâm tính bại hoại. Chẳng hạn như khi người ta hơi kiêu ngạo hoặc tự nên công chính, hoặc đôi khi hơi giả dối và dối trá, thì đó chỉ là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại. Trong khi đó, mọi việc mà loại người như kẻ địch lại Đấng Christ làm đều là để lung lạc lòng người, tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình, củng cố địa vị, nắm quyền và khống chế mọi người. Tính chất của những hành động này là gì? Họ có đang thực hành lẽ thật không? Họ có đang dẫn dắt dân được Đức Chúa Trời chọn bước vào lời Đức Chúa Trời và đến trước Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Vậy họ đang làm gì? Họ đang tranh đoạt dân được chọn với Đức Chúa Trời, tranh đoạt lòng người, và cố gắng thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình. Ai nên có chỗ trong lòng người? Đức Chúa Trời nên có chỗ. Nhưng mọi việc mà kẻ địch lại Đấng Christ làm lại hoàn toàn ngược lại. Họ không cho phép Đức Chúa Trời hay lẽ thật có chỗ trong lòng người; mà thay vào đó, họ muốn con người, người lãnh đạo là họ, và Sa-tan có chỗ trong lòng người. Ngay khi phát hiện rằng họ không có chỗ trong lòng ai đó, rằng người này không đối xử với họ như lãnh đạo, họ liền bất mãn cực độ, và có thể sẽ cố gắng chèn ép, trừng trị người đó. Mọi thứ mà kẻ địch lại Đấng Christ nói và làm đều xoay quanh địa vị và danh dự của họ, đều là để khiến cho mọi người xem trọng họ, để khiến cho mọi người ghen tị và tôn sùng họ – thậm chí còn để khiến cho mọi người sợ họ. Họ muốn khiến cho dân được Đức Chúa Trời chọn đối xử với họ như Đức Chúa Trời, nghĩ rằng: “Dù mình ở trong hội thánh nào, mọi người cũng phải nghe theo mình, phải nhìn nét mặt mình mà làm việc. Bất kể ai phản ánh vấn đề gì với bề trên cũng phải thông qua mình, chỉ được phép phản ánh tới chỗ mình, chứ không được phản ánh trực tiếp với bề trên. Ai mà nói ‘không’ với mình thì mình sẽ trừng trị, để ai thấy mình cũng sinh lòng e sợ, kinh hồn bạt vía và có cảm giác sợ hãi. Hơn nữa, nếu mình ra lệnh hoặc xác định điều gì đó, thì không ai được dám phản đối; dù mình nói gì, mọi người cũng phải thuận theo. Họ phải tuyệt đối nghe theo mình, họ phải vâng phục mình trong mọi sự. Ở đây mình là người có tiếng nói quyết định”. Đây chính xác là khẩu khí của kẻ địch lại Đấng Christ, đây chính là giọng của kẻ địch lại Đấng Christ, đây chính là cách kẻ địch lại Đấng Christ cố gắng xưng vương xưng bá trong hội thánh. Nếu dân được Đức Chúa Trời chọn làm như họ nói và thuận theo họ, thì chẳng phải dạng hội thánh này sẽ trở thành vương quốc của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Họ nói: “Những sắp xếp công việc do bề trên ban hành thì tôi phải kiểm tra đã, tôi phải chịu trách nhiệm cho các anh chị em, tôi phải là người phân tích đúng sai, kết quả phải do tôi quyết định. Các anh chị em không có đủ vóc giạc, không đủ tư cách. Tôi là lãnh đạo của hội thánh, mọi sự đều do tôi quyết định”. Chẳng phải người nói những điều này cực kỳ phách lối sao? Họ thật quá kiêu ngạo đến mức mất hết lý trí! Chẳng phải họ đang cố gắng thành lập vương quốc độc lập của riêng mình sao? Dạng người nào có thể thiết lập vương quốc của riêng mình? Chẳng phải đó là kẻ địch lại Đấng Christ chính hiệu sao? Chẳng phải mọi việc kẻ địch lại Đấng Christ nói và làm đều là để bảo vệ địa vị của chính họ sao? Chẳng phải họ đang cố gắng mê hoặc và khống chế mọi người sao? Tại sao lại gọi họ là kẻ địch lại Đấng Christ? Ý nghĩa của từ “địch lại” là gì? Nó có nghĩa là thù hằn và thù hận. Nó có nghĩa là thù hằn Đấng Christ, thù hằn lẽ thật và thù hằn Đức Chúa Trời. “Thù hằn” nghĩa là gì? Nó có nghĩa là đứng về phía đối lập, xem ngươi như kẻ thù, giống như tràn đầy thâm thù đại hận; nó có nghĩa là không đội trời chung với ngươi. Đó chính là tâm thái của kẻ địch lại Đấng Christ đối với Đức Chúa Trời. Những người thù hận Đức Chúa Trời như thế thì có thái độ gì đối với lẽ thật? Họ có thể yêu lẽ thật được không? Họ có thể tiếp nhận lẽ thật được không? Chắc chắn là không. Vì thế, những người đứng đối lập với Đức Chúa Trời là người thù hận lẽ thật. Biểu hiện thứ nhất ở họ chính là chán ghét lẽ thật và thù hận lẽ thật. Ngay khi họ nghe lẽ thật hoặc lời Đức Chúa Trời, trong lòng họ liền có sự thù hận, và cứ ai đọc lời Đức Chúa Trời cho họ, mặt họ liền tỏ vẻ tức giận và phẫn nộ, như thể người ta đọc lời Đức Chúa Trời cho ma quỷ nghe khi rao truyền phúc âm vậy. Trong lòng những người chán ghét lẽ thật và thù hận lẽ thật cảm thấy chán ghét tột cùng đối với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, thái độ của họ là chống đối, thậm chí họ có thể thù hận bất cứ ai đọc lời Đức Chúa Trời cho họ hoặc thông công về lẽ thật với họ, xem người đó như kẻ thù. Họ vô cùng chán ghét các loại lẽ thật và những điều tích cực. Tất cả những lẽ thật như thuận phục Đức Chúa Trời, trung thành làm bổn phận, làm người trung thực, mưu cầu lẽ thật trong mọi sự, v.v. – họ có một chút khao khát hoặc yêu thích về mặt ý muốn chủ quan nào không? Không, không hề có một chút nào. Vì thế, với thực chất tâm tính như vậy của mình thì họ đang đứng ở phía đối lập với Đức Chúa Trời và lẽ thật rồi. Không nghi ngờ gì nữa, dạng người này trong thâm tâm không yêu thích lẽ thật hay bất kỳ điều tích cực nào; trong thâm tâm họ thậm chí còn cảm thấy chán ghét lẽ thật và thù hận lẽ thật. Chẳng hạn như người ở vị trí lãnh đạo phải có khả năng tiếp nhận những ý kiến khác nhau của các anh chị em, phải có thể mở lòng và phơi bày chính mình với các anh chị em, có thể tiếp nhận sự chỉ trích của họ, và không được khẳng định địa vị của mình. Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ nói như thế nào về hết thảy những cách thực hành đúng đắn này? Họ sẽ nói: “Nếu tôi nghe theo các ý kiến của các anh chị em, thì tôi có còn là lãnh đạo nữa không? Tôi còn có địa vị và uy tín nữa không? Nếu không có uy tín thì tôi làm được công việc gì chứ?”. Đây chính là kiểu tâm tính của một kẻ địch lại Đấng Christ; họ không tiếp nhận lẽ thật dù chỉ một chút nào, và cách thực hành càng đúng đắn, họ càng chống đối. Họ không thừa nhận rằng làm theo nguyên tắc là thực hành lẽ thật. Họ nghĩ thực hành lẽ thật là gì? Họ nghĩ rằng họ phải sử dụng âm mưu, thủ đoạn và bạo lực đối với hết thảy mọi người, chứ không phải dựa trên lời Đức Chúa Trời, lẽ thật và tình yêu thương. Mọi phương thức và con đường của họ đều tà ác. Tất cả những điều này đều hoàn toàn đại diện cho thực chất bản tính của loại người như kẻ địch lại Đấng Christ. Những ý định và động cơ, tư tưởng và quan điểm mà họ thường xuyên bộc lộ đều là tâm tính chán ghét và thù hận lẽ thật, đây chính là thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Vậy đứng đối lập với lẽ thật và Đức Chúa Trời nghĩa là gì? Nó có nghĩa là thù hận lẽ thật và những điều tích cực. Chẳng hạn như khi có người nói: “Là loài thọ tạo thì nên làm tốt bổn phận của loài thọ tạo. Dù Đức Chúa Trời có phán gì, con người cũng nên thuận phục, vì chúng ta là loài thọ tạo”, thì kẻ địch lại Đấng Christ nghĩ thế nào? “Thuận phục ư? Việc tôi là con người thọ tạo không sai, nhưng thuận phục thì còn tùy tình huống. Trước hết, trong đó phải có chút lợi ích cho tôi, tôi không thể chịu thiệt thòi, và lợi ích của tôi phải được đặt lên hàng đầu. Nếu có phần thưởng hoặc phước lành lớn lao để đạt được thì tôi có thể thuận phục, nhưng nếu không có phần thưởng và không có đích đến, thì tại sao tôi phải thuận phục? Như vậy thì tôi không thể thuận phục được”. Đây chính là thái độ không tiếp nhận lẽ thật. Sự thuận phục Đức Chúa Trời của họ có điều kiện, và nếu điều kiện của họ không được đáp ứng, thì không những không thuận phục, mà họ còn có thể phản kháng và chống đối Đức Chúa Trời. Chẳng hạn như Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải làm người trung thực, nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ này lại tin rằng chỉ có kẻ ngu mới làm người trung thực, người khôn thì không làm người trung thực. Thực chất của thái độ như vậy là gì? Đó chính là thù hận lẽ thật. Đó chính là thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ, và thực chất của họ quyết định con đường họ đi, con đường họ đi quyết định mọi việc họ làm. Khi kẻ địch lại Đấng Christ có thực chất bản tính thù hận lẽ thật và Đức Chúa Trời, họ có thể làm những chuyện như thế nào? Họ có thể cố gắng lung lạc lòng người, tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với họ, và trừng trị người. Khi làm những chuyện này, mục đích họ đang muốn đạt được là để cầm quyền, khống chế dân được Đức Chúa Trời chọn, và thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình. Đây là điều chắc chắn. Bất kỳ người nào, một khi có địa vị liền không thể tuyệt đối thuận phục Đức Chúa Trời, và không thể đi theo Đức Chúa Trời hoặc mưu cầu lẽ thật, đều là kẻ địch lại Đấng Christ.
Trong khi thực hiện bổn phận lãnh đạo, kẻ địch lại Đấng Christ làm những chuyện gì? Chúng ta vừa nói về chuyện họ lung lạc lòng người, cũng như tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình. Nhưng loại người này còn có một biểu hiện chung nữa – thái độ của họ đối với những người mưu cầu lẽ thật là gì? (Thưa, thù hận.) Và điều đó khiến họ làm gì? Có phải họ chỉ thù hận những người đó là xong không? Không, họ còn tìm cách loại trừ và chèn ép người ta. Họ tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình. Những người bất đồng quan điểm này có thể là người hơi hồ đồ, không biết cách xun xoe bợ đỡ người khác hoặc vận dụng các triết lý đối nhân xử thế. Họ cũng có thể là người tương đối có lòng nhiệt thành và tương đối mưu cầu lẽ thật. Vậy thủ đoạn thứ ba của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? Họ loại trừ và tấn công những ai mưu cầu lẽ thật. Còn có một thủ đoạn nữa: họ cố gắng giữ vững vị trí cho mình trong lòng mọi người. Đây gọi là gì? (Thưa, chiếm hữu lòng người.) Đây chính là điều họ đang cố gắng đạt được. Để làm điều đó, họ sử dụng thủ đoạn nào? (Thưa, họ đề cao và làm chứng cho bản thân.) Khi đề cao và làm chứng cho bản thân, mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? Đó là để chiếm hữu lòng người và khống chế họ. Khi đề cao và làm chứng cho bản thân, người ta thường nói về những nội dung nào? Một là nói về tư cách của họ. Chẳng hạn như có những người nói về cách họ đã tiếp đãi lãnh đạo hội thánh cấp cao nào đó. Thậm chí một số người còn nói: “Tôi đã tiếp đãi chính Đức Chúa Trời, và thái độ của Ngài đối với tôi khá tốt – tôi chắc chắn sẽ được hoàn thiện”. Lời này có ý gì? (Thưa, họ đang cố gắng khiến mọi người xem trọng họ.) Họ có mục đích khi nói những điều này. Lại có những người nói: “Tôi đã tiếp xúc với Bề trên, họ khá xem trọng tôi, còn dặn dò tôi phải mưu cầu cho tốt”. Thực ra không ai biết Bề trên nghĩ gì về họ cả. Có những người vô cùng khoa trương khi nói chuyện, thậm chí đôi khi còn bịa chuyện. Nếu có mấy người cùng nhau đến để xác minh và kiểm tra câu chuyện của họ, họ sẽ không biết làm sao. Bề trên cũng có thể nói với ai đó rằng: “Anh có tố chất tốt và có năng lực lĩnh hội. Anh nên thực hành viết chứng ngôn trải nghiệm của mình. Một khi có trải nghiệm sự sống, anh có thể trở thành lãnh đạo”. Ngụ ý ở đây là gì? Dù người này là nhân tài thì vẫn cần rèn luyện và trải nghiệm trong một khoảng thời gian. Khi chưa rèn luyện hoặc có trải nghiệm mà người đó phô trương và khoe khoang, thì tính chất của việc này là gì? Họ kiêu ngạo, tự phụ và mất lý trí, có phải không? Dù người anh em Bề trên nói rằng người này có tố chất và là nhân tài, thì cũng chỉ là cho họ sự khích lệ hoặc đánh giá. Khi đi khoe khoang như vậy, mục đích của người đó rốt cuộc là gì? Đó là để khiến mọi người xem trọng họ, để khiến người khác tôn sùng họ. Ý của họ là: “Xem này – người anh em Bề trên xem trọng tôi, vậy tại sao anh lại không chứ? Sau khi tôi nói cho anh biết thông tin này xong, anh cũng nên xem trọng tôi”. Đây chính là mục đích họ muốn đạt được. Lại có những người nói: “Tôi đã từng làm lãnh đạo. Tôi từng làm lãnh đạo của một vùng, một quận huyện, một hội thánh. Tôi cứ tụt xuống từng bậc, rồi lại leo lên từng bậc – thăng chức rồi giáng chức vài lần. Cuối cùng, Trời cũng cảm động trước lòng thành của tôi, và hôm nay, tôi lại một lần nữa được làm lãnh đạo cấp cao. Và tôi chưa một lần nào tiêu cực”. Khi ngươi hỏi họ tại sao họ lại không bao giờ cảm thấy tiêu cực, thì họ đáp: “Tôi có đức tin rằng vàng thật sớm muộn cũng phát sáng”. Đây là kết luận họ rút ra. Đây có phải là thực tế lẽ thật không? (Thưa, không.) Nếu không phải là thực tế lẽ thật thì là gì? Đó là một lý luận kỳ quặc; cũng có thể nói rằng đó là luận điệu sai lầm. Họ nói như vậy thì có thể gây ra hậu quả gì? Một số người có thể nói: “Người này thực sự mưu cầu lẽ thật. Trải nghiệm bao sự thăng chức và giáng chức như thế mà vẫn không trở nên tiêu cực. Bây giờ họ lại được làm lãnh đạo – vàng thật thực sự phát sáng. Sớm muộn gì họ cũng được hoàn thiện”. Chẳng phải đây chính là mục đích mà người này đang nhắm đến sao? Thật ra đây chính là mục đích họ đang nhắm đến. Dù kẻ địch lại Đấng Christ nói chuyện theo cách nào thì cũng luôn là để khiến người ta xem trọng và tôn sùng họ, để chiếm hữu một vị trí nhất định trong lòng người, thậm chí thay thế cả vị trí của Đức Chúa Trời trong đó – đây chính là những mục đích mà kẻ địch lại Đấng Christ muốn đạt được khi làm chứng cho bản thân. Chỉ cần động cơ đằng sau những gì người ta nói chuyện, thuyết giảng và thông công là để khiến người khác xem trọng và tôn sùng họ, thì cách làm này là đề cao và làm chứng cho bản thân, đều là để chiếm hữu vị trí trong lòng người khác. Mặc dù cách nói chuyện của những người này không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều có thể dẫn đến hậu quả là làm chứng cho bản thân và khiến người khác tôn sùng mình ở các mức độ khác nhau. Cách làm này hiện hữu ở gần như mọi lãnh đạo và người làm công với những mức độ khác nhau. Nếu họ đã đến mức độ không thể ngừng lại được và thấy khó kiềm chế bản thân, đồng thời nuôi một ý định và mục đích đặc biệt mạnh mẽ, rõ ràng, muốn khiến cho mọi người đối đãi họ như thể họ là Đức Chúa Trời hoặc thần tượng, qua đó đạt được mục đích kìm kẹp và khống chế người khác, khiến người khác vâng phục và tôn sùng họ, thì tính chất của hết thảy những chuyện này là đề cao và làm chứng cho bản thân, và trong đó có tính chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Để đề cao và làm chứng cho bản thân, con người thường sử dụng những thủ đoạn nào? (Thưa, họ nói về vốn liếng.) Trong chuyện nói về vốn liếng bao gồm những nội dung nào? Nói về việc họ đã tin Đức Chúa Trời bao lâu, đã chịu khổ bao nhiêu, đã trả giá bao nhiêu, đã làm bao nhiêu công việc, đã đi bao xa, cũng như đã thu phục được bao nhiêu người và đã chịu đựng bao nhiêu sự sỉ nhục trong quá trình rao truyền phúc âm. Một số người cũng thường nói về việc họ đã bị bắt giữ và bỏ tù bao nhiêu lần mà không bao giờ bán đứng hội thánh hoặc các anh chị em, đứng vững trong chứng ngôn của mình, v.v.; hết thảy những điều này đều là nói về vốn liếng. Lấy danh nghĩa làm công tác của hội thánh, họ tiến hành công việc làm ăn riêng, củng cố địa vị của mình, tạo dựng hình tượng bản thân tốt đẹp trong lòng mọi người. Đồng thời, họ sử dụng đủ kiểu phương thức và thủ đoạn để lung lạc lòng người, thậm chí là tấn công và loại trừ bất kỳ ai khác quan điểm với họ, nhất là cố gắng hết sức để loại trừ và chèn ép những người mưu cầu lẽ thật và tuân thủ nguyên tắc. Còn đối với những người ngu muội vô tri và hồ đồ trong đức tin, cũng như những người chỉ mới tin Đức Chúa Trời được một thời gian ngắn và có vóc giạc nhỏ bé, thì với những người này, họ sử dụng những thủ đoạn nào? Họ mê hoặc, lôi kéo, thậm chí đe dọa, sử dụng những thủ đoạn này để đạt được mục đích củng cố địa vị của mình. Đây đều là cách làm của kẻ địch lại Đấng Christ.
Trong các hội thánh thường xảy ra chuyện như thế này: một số anh chị em nghe những bài giảng và mối thông công mà trong đó Bề trên nói rằng nếu một lãnh đạo hoặc người làm công làm gì đó vi phạm sự sắp xếp công việc của nhà Đức Chúa Trời, thì dân được Đức Chúa Trời chọn có quyền phản ánh. Sau khi nghe vậy và phân định rằng một lãnh đạo trong hội thánh của họ đang làm việc không phù hợp với sự sắp xếp công việc, một số anh chị em muốn phản ánh về người lãnh đạo. Kết quả là người lãnh đạo phát hiện ra chuyện này và thầm nghĩ: “Hóa ra có những người vẫn có gan phản ánh về mình. Họ dám sao! Những người này là ai?”. Sau đó, họ điều tra từng người một trong số mấy chục thành viên của hội thánh. Họ đi xa đến đâu trong cuộc điều tra này? Họ điều tra qua một lượt xem mỗi người bao nhiêu tuổi, đã tin Đức Chúa Trời được bao lâu, trước đây thực hiện những bổn phận nào, những bổn phận hiện tại là gì, liên hệ với những ai, liệu có thể liên hệ với Bề trên hay không, v.v.. Họ đã bỏ nhiều công sức cho việc này như vậy đấy. Sau khi điều tra kỹ lưỡng xong, họ phát hiện ra hai, ba người có vẻ khả nghi. Thế là trong buổi nhóm họp tiếp theo, người lãnh đạo đã thuyết giảng một bài nhắm thẳng vào chuyện này. Họ nói: “Con người ấy mà, không thể không có lương tâm. Trong quá trình tin đức chúa trời, ai đã dẫn dắt anh chị em đến ngày hôm nay? Giờ đây anh chị em đã hiểu được rất nhiều lẽ thật; nếu tôi không tổ chức các buổi nhóm họp và thông công với anh chị em, liệu anh chị em có thể hiểu được những lẽ thật này không? Thông qua việc rao truyền phúc âm, hội thánh của chúng ta đã đưa được rất nhiều người vào, và công tác phúc âm của chúng ta đã đạt được những tiến bộ to lớn như vậy. Nếu tôi không ở đây chỉ đạo, liệu các anh chị em có đưa được ai vào không? Các anh chị em phải cảm tạ ai về chuyện này?”. Một số người suy ngẫm rằng: “Mình nên cảm tạ Đức Chúa Trời, con người thì có công lao gì chứ?”. Nhưng rồi người lãnh đạo tiếp tục nói: “Nếu tôi không mang về cho các anh chị em những cuốn sách lời đức chúa trời này, liệu các anh chị em có thể có được chúng không? Nếu không có tôi tổ chức các buổi nhóm họp, liệu các anh chị em có thể tụ họp được không? Con người không thể không có lương tâm! Nếu có lương tâm thì nên làm gì? Khi lãnh đạo của mình thỉnh thoảng mắc sai lầm nho nhỏ thì không nên truy cứu quá kỹ càng. Anh chị em chụp lấy những khuyết điểm của họ, không chịu buông tha, là đang cố tạo phản à? Nếu có chuyện nho nhỏ xảy ra thì chúng ta nên xử lý nội bộ. Phản ánh mà làm gì? Những người phản ánh là vô năng và vóc giạc nhỏ bé. Phản ánh mọi thứ với bề trên có phù hợp không? Làm sao bề trên có sức giải quyết những vấn đề như thế được? Nếu phải giải quyết thì lãnh đạo hội thánh sẽ giải quyết. Không đóng cửa bảo nhau được sao? Có nhất thiết phải phản ánh mọi thứ với bề trên không? Như thế chẳng phải chỉ quấy rầy bề trên sao? Nghe này, nếu anh chị em phản ánh với tôi, tôi sẽ tìm giải pháp một cách bình tĩnh và thân tình, không tỉa sửa anh chị em. Nhưng nếu phản ánh với bề trên, anh chị em có biết thái độ của bề trên sẽ như thế nào không? Bề trên ghê gớm lắm đấy – họ giống như sư tử, đại bàng vậy. Liệu những người vóc giạc nhỏ bé như chúng ta có thể với tới bề trên được không? Phản ánh vấn đề với bề trên chẳng có gì hay ho cho anh chị em cả; chắc chắn anh chị em sẽ bị tỉa sửa một trận. Điều đó đã xảy ra với tôi nhiều lần rồi; làm sao người có vóc giạc nhỏ bé như anh chị em có thể chịu được? Nói không chừng anh chị em còn có thể ngừng tin nữa kia, ai sẽ là người gánh chịu hậu quả này? Nếu anh chị em muốn phản ánh thì tự mình gánh chịu hậu quả. Đến lúc anh chị em bị tỉa sửa và trở nên tiêu cực, yếu đuối, thì cũng đừng oán trách tôi. Muốn phản ánh thì tôi cũng không cản. Cứ việc làm; tôi sẽ xem ai phản ánh!”. Liệu có ai dám phản ánh khi lãnh đạo này quá đáng sợ như vậy không? (Thưa, không.) Có những người muốn, nhưng cũng không dám phản ánh nữa. Những người này chẳng phải là kẻ khiếp nhược sao? Sợ gì chứ? Sao lại có thể bị lãnh đạo hù cho sợ mất mật như thế được? Cho dù lãnh đạo đó có muốn trừng trị họ đến chết, thì sự sống của họ cũng không nằm trong tay lãnh đạo đó; không được sự cho phép của Đức Chúa Trời, làm sao lãnh đạo đó dám trừng trị họ? Người lãnh đạo đó hù dọa vài câu, thế là có những người thật sự không dám phản ánh nữa; họ sẽ cảm thấy: “Đức Chúa Trời ở đâu không thấy. Nếu mình phản ánh, liệu Bề trên có xử lý lãnh đạo không? Nếu họ không xử lý thì sao – liệu lãnh đạo có trả thù mình không? Liệu mình còn có thể thực hiện bổn phận bình thường được nữa không? Thôi, mình không được phản ánh nữa. Hơn nữa, chuyện này cũng chẳng phải việc của mình. Người ta còn chưa phản ánh, sao mình phải phản ánh?”. Họ liền rụt lại, không dám phản ánh. Liệu kẻ địch lại Đấng Christ có thể giơ cao đánh khẽ với dạng người này không? (Thưa, không.) Họ sẽ làm gì? Một khi họ xác định được ai đang định phản ánh về họ, ai không đồng lòng với họ, họ liền ngẫm nghĩ rằng: “Lòng anh lúc nào cũng chộn rộn; anh luôn muốn hót như khướu, luôn muốn chọc gậy bánh xe, luôn muốn phản ánh về vấn đề của tôi – thật quá thể! Anh luôn tìm cơ hội tiếp xúc với bề trên để có thể phản ánh về tình hình của tôi với họ. Bây giờ anh đang rụt lại, không dám làm; nhưng ai mà biết được, nếu tìm được cơ hội thích hợp, anh vẫn có thể phản ánh về tôi. Hãy xem tôi trừng trị anh như thế nào!”. Thế là kẻ địch lại Đấng Christ sẽ tìm những cái cớ và cơ hội để làm giảm uy tín những người đó, để khiến các anh chị em cảm thấy có ác cảm với họ. Rồi họ sẽ nghĩ đủ mọi cách để bắt lỗi, tạo rắc rối và làm ô danh những người đó. Và sau đó, những người đó sẽ nghĩ như thế nào? “Hỏng bét rồi! Mình đã không vâng phục lãnh đạo, mình đã phản ánh về họ bừa bãi, để giờ phải chịu sự trừng trị của lãnh đạo. Mình phải ghi nhớ bài học này: tuyệt đối không được đắc tội với lãnh đạo! Bây giờ lãnh đạo này là người cầm trịch. Họ nói ‘đông’, mình không thể nói ‘tây’; họ nói ‘một’, mình không thể nói ‘hai’. Lãnh đạo bảo làm sao thì phải làm vậy. Mình tuyệt đối không được liên hệ với Bề trên để phản ánh về vấn đề. Chuyện này thực sự nghiêm trọng! Mình đã bị lãnh đạo trừng trị, và Bề trên không biết – ai sẽ đứng ra bảo vệ mình đây? Đúng là ‘Phép vua thua lệ làng!’ mà”. Những người này trở nên tiêu cực. Họ không tin rằng lẽ thật ngự trị trong nhà Đức Chúa Trời, càng không tin rằng Đức Chúa Trời tể trị vạn vật. Họ có còn có Đức Chúa Trời trong lòng nữa không? Không, họ không có Đức Chúa Trời trong lòng. Con người không có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời, họ muốn phản ánh về vấn đề nhưng lại sợ kẻ ác, họ không hề phân định được thế lực tà ác, bị kẻ ác đó trừng trị ở nơi kẻ đó cầm quyền, và họ đã trở thành kẻ khiếp nhược. Vốn dĩ họ có chút tinh thần chính nghĩa, có chỗ đáng khen, nhưng bởi vì họ không hiểu lẽ thật và không biết cách hành động theo nguyên tắc, nên đã bị kẻ ác, lãnh đạo giả, kẻ địch lại Đấng Christ đó đánh gục, đến mức mất hết đức tin; họ không biết cách nương cậy vào Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật hoặc hành động dựa trên sự khôn ngoan. Bây giờ, mỗi khi nhìn thấy kẻ địch lại Đấng Christ, họ liền sợ hãi, khiếp đảm. Họ sợ hãi đến mức nào? Họ nghĩ: “Trên đời này, kẻ ác cầm quyền. Dù mình ở trong nhóm nào thì cũng phải biết điều. Mình không có cái kiểu chơi liều và to gan đó, nên đi đâu cũng phải cam tâm bị ức hiếp và cam tâm vâng phục người khác – mình phải đối đãi với họ như tổ tiên. Họ nói ‘đông’, mình không thể nói ‘tây’. Mình không thể nói lên ý kiến khác, mình không thể phản ánh về vấn đề của người khác, và mình không thể xía mũi vào chuyện của người khác. Mình chỉ có thể tập trung tin Đức Chúa Trời. Mình không được đắc tội với các lãnh đạo và người làm công, không được giữ vững các nguyên tắc lẽ thật, không được khao khát sự sáng hay yêu chính nghĩa – trên đời này không có sự sáng hoặc chính nghĩa. Mình sẽ chỉ tập trung nhẫn nại đến cùng, và sau này cho dù là ở đâu mình cũng phải nhớ rằng phải luôn dĩ hòa vi quý!”. Đây là kết luận họ rút ra. Chẳng phải họ đã bị kẻ địch lại Đấng Christ đó đánh bại sao? (Thưa, phải.) Làm sao để xác định rằng họ đã bị đánh bại? Sau khi bị kẻ địch lại Đấng Christ đó chèn ép, họ sợ mất mật, sợ đến mức không dám nói hay làm gì. Họ đã đánh mất đức tin thực sự của mình và không còn trung thành thực hiện bổn phận nữa; trong lòng họ, ngọn lửa nhỏ nhoi của tình yêu chính nghĩa đã bị dập tắt; họ đã bị kẻ địch lại Đấng Christ đó đánh gục và đánh bại một cách triệt để. Chẳng phải họ là kẻ khiếp nhược sao? Chẳng phải họ là con rùa rụt cổ sao? (Thưa, phải.) Làm sao để biết được? Nếu ngươi hỏi họ: “Tình hình người này người kia như thế nào trong hội thánh rồi?”, họ sẽ đáp: “Không tệ”. Nếu ngươi nói: “Thế còn người lãnh đạo hội thánh mới được bầu lên thì sao; anh có biết họ không?”, họ sẽ đáp: “Tôi không quen họ lắm”. Nếu ngươi hỏi: “Đời sống hội thánh ở đó bây giờ thế nào? Có ai gây nhiễu loạn không?”, họ sẽ nói: “Tốt mà, ổn cả”. Dù ngươi hỏi gì, họ cũng chỉ đáp lại bằng vài lời này. Đó chẳng phải là do họ bị dọa cho sợ rồi sao? Tại sao họ lại bị dọa cho sợ đến vậy? Bởi vì họ không biết sự công chính của Đức Chúa Trời; họ không thể nhìn thấu được sự tà ác, tàn khốc, tàn nhẫn và hắc ám của Sa-tan; họ không biết lẽ thật ngự trị nghĩa là gì, cũng không biết điều này có ý nghĩa gì – vì thế nên họ đã bị dọa sợ. Kết quả là dù ngươi hỏi gì, câu trả lời của họ cũng mập mờ, khó hiểu; ngươi sẽ không nhận được câu trả lời về tình hình thực tế trong hội thánh từ họ, cũng không biết được trong lòng họ đang nghĩ gì. Họ tạo vỏ bọc rất kỹ, thậm chí ngươi sẽ không biết họ đang nói về điều gì nữa. Họ sẽ không nói nửa lời về những vấn đề tồn tại trong hội thánh, hay các lãnh đạo và người làm công như thế nào, và ngươi sẽ không biết được gì về những khó khăn mà dân được Đức Chúa Trời chọn đang đối mặt. Những tin tức này ngươi sẽ không biết được – họ sẽ chỉ trò chuyện tán dóc với ngươi kiểu như vậy. Và khi nghe họ nói, ngươi sẽ cảm thấy điều gì? Ngươi sẽ cảm thấy giữa lòng ngươi và lòng họ có gì đó ngăn cách. Tâm thái của họ là: “Đừng cố tìm hiểu bất cứ thông tin nào của tôi, tôi không muốn tiết lộ bất kỳ thông tin gì hay tình hình thực sự với anh. Tránh xa tôi ra; nếu anh cố gắng tìm hiểu tình hình trong hội thánh từ tôi, thì anh đang gây rắc rối cho tôi, cũng như phá vỡ môi trường sống, nếp sinh hoạt và trạng thái sinh hoạt của tôi. Đừng tham dự vào bất kỳ chuyện gì trong cuộc sống của tôi; để tôi tự xử lý những chuyện này”. Họ sợ kẻ địch lại Đấng Christ đó sẽ trừng trị hoặc trả thù, và họ sợ không dám phản ánh bất kỳ vấn đề nào về hội thánh của mình. Chẳng phải đây là đầu hàng kẻ địch lại Đấng Christ đó sao? Chẳng phải họ đã bị kẻ địch lại Đấng Christ đó mê hoặc và khống chế sao? (Thưa, phải.) Và thấy thế, kẻ địch lại Đấng Christ đó vui mừng. Họ đã trừng trị người ta đến mức độ không dám phản ánh về vấn đề của họ nữa, để họ có sự khống chế vững vàng đối với hội thánh. Có nhiều người trong hội thánh bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế theo cách này không? Bản thân các ngươi có bao giờ ngăn chặn ai đó phản ánh về vấn đề không? Các ngươi có thể đã làm rồi, nhưng không ý thức được, hoặc có thể về sau sẽ làm. Vậy có thể coi việc mọi người bị kẻ địch lại Đấng Christ lung lạc và khống chế là một vấn đề không? (Thưa, có.) Có những người nói: “Trong hội thánh có một số người e ngại kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng họ không tin hoặc đi theo kẻ địch lại Đấng Christ đó, càng không phụng sự kẻ địch lại Đấng Christ đó. Chỉ là họ bị kẻ địch lại Đấng Christ đó kìm kẹp một chút và bị chậm trễ trong việc bước vào con đường tin Đức Chúa Trời đúng đắn thôi. Tại sao Ngài lại nói đây là vấn đề?”. Một mặt, bằng cách nhìn vào những thủ đoạn kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để lung lạc và khống chế con người, ngươi sẽ có thể thấy được rằng thực chất bản tính của họ là thực chất của Sa-tan; đối địch với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Kẻ địch lại Đấng Christ muốn tranh đoạt người với Đức Chúa Trời, tranh đoạt dân được chọn của Ngài. Mặt khác, những thủ đoạn và phương thức mà kẻ địch lại Đấng Christ dùng để hành động có thể thực sự có tác động đến những người ngu muội, vô tri, ngơ ngơ ngác ngác và không hiểu lẽ thật. Họ thực sự có thể mê hoặc những người đó, giữ cho họ cư xử một cách ngoan ngoãn dưới sự khống chế của kẻ địch lại Đấng Christ, và khiến cho họ phải hỏi ý kiến, thuận theo kẻ địch lại Đấng Christ trong mọi sự. Kẻ địch lại Đấng Christ không những bịt miệng những người này, mà còn khống chế hành động của họ, ảnh hưởng đến tâm tư và ý niệm của họ, cũng như ảnh hưởng đến phương hướng họ đi. Đây là những tác động và hậu quả mà hành động của kẻ địch lại Đấng Christ gây ra cho những người ngu muội, vô tri.
Ta vừa thông công về những lẽ thật khác nhau liên quan đến việc thực hiện bổn phận của lãnh đạo hoặc người làm công. Ta cũng đã vạch trần một số vấn đề của các lãnh đạo và người làm công, trọng điểm là đã nhắc đến biểu hiện của loại người nghiêm trọng nhất – đó là loại người nào? (Thưa, kẻ địch lại Đấng Christ.) Biểu hiện chung của tất cả những kẻ địch lại Đấng Christ là gì? Họ cố gắng nắm quyền lực và khống chế hội thánh. Dục vọng về quyền lực của họ cao hơn hết thảy mọi thứ khác; quyền lực là mạng sống của họ, gốc rễ của họ; quyền lực là chủ đề, phương hướng và mục tiêu mà mọi việc họ làm trong đời đều xoay quanh. Vì thế, những hành động của loại người như kẻ địch lại Đấng Christ và những tâm tính họ bộc lộ đều giống hệt những thủ đoạn mà Sa-tan sử dụng để mê hoặc, lung lạc và khống chế con người. Có thể nói rằng mọi việc mà kiểu người này làm đều khiến họ không gì khác hơn là một đầu ra, hiện thân và sự bày tỏ của Sa-tan; mục đích chính của mọi hành động và mọi biểu hiện của họ là để có được quyền lực. Đối tượng mà họ muốn khống chế là ai? Đó là những người mà họ lãnh đạo, những người đi theo Đức Chúa Trời, đó là những người nằm dưới phạm vi quyền lực của họ, những người mà họ có thể khống chế. Vừa nãy, chúng ta cũng nói về các thủ đoạn mà kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để khống chế mọi người. Đầu tiên là lung lạc lòng người; thứ hai là tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình; thứ ba là loại trừ và tấn công những ai mưu cầu lẽ thật; thứ tư là luôn đề cao và làm chứng cho bản thân; và thứ năm là mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người. Tất cả năm biểu hiện chính này đều là những thủ đoạn và phương thức cơ bản mà kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để có được quyền lực, chiếm hữu và khống chế mọi người. Đây là những khía cạnh lớn. Tiếp theo, chúng ta sẽ mổ xẻ và thông công chi tiết hơn về những khía cạnh lớn này.
Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ lung lạc lòng người
A. Lôi kéo mọi người bằng những ân huệ nhỏ
Thủ đoạn đầu tiên mà kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để khống chế con người là lung lạc lòng người. Có bao nhiêu cách để lung lạc lòng người? Một cách là lôi kéo bằng ân huệ nhỏ. Đôi khi, kẻ địch lại Đấng Christ cho người ta một số điều tốt đẹp, đôi khi khen ngợi, đôi khi có những hứa hẹn nho nhỏ với người ta. Đôi khi, kẻ địch lại Đấng Christ thấy một số bổn phận có thể khiến người ta nổi bật, hoặc con người cho rằng ai làm những bổn phận này có thể được lợi lộc và được mọi người xem trọng, thế là họ liền giao những bổn phận này cho những người mà họ muốn lung lạc. “Ân huệ nhỏ” bao gồm nhiều thứ: đôi khi là những thứ vật chất, đôi khi là những thứ phi vật chất, đôi khi là những lời dễ chịu mà con người muốn nghe. Chẳng hạn như khi có chuyện xảy đến, con người trở nên yếu đuối và mất động lực trong bổn phận. Và khi đối chiếu sự yếu đuối này của mình với lời Đức Chúa Trời, họ nhận ra đó là bất trung với Đức Chúa Trời, không sẵn lòng thực hiện bổn phận, không có sự thuận phục thực sự, và họ cảm thấy rất đáng trách. Thấy thế, người lãnh đạo bèn nói: “Chỉ là vóc giạc của anh còn nhỏ bé thôi. Đức chúa trời sẽ không nhìn nhận như vậy đâu. Anh chỉ mới tin một thời gian ngắn, không thể yêu cầu quá cao đối với bản thân. Việc như thế này cần thời gian – anh không thể vội được. Đức chúa trời không có yêu cầu cao đối với con người, và đối với anh, một người mới chỉ tin ngài một thời gian ngắn, thì đôi khi hơi yếu đuối là chuyện bình thường, anh không cần phải sợ”. Ý họ là có yếu đuối cũng không cần phải sợ, và nếu cứ tiếp tục yếu đuối như vậy thì càng không cần phải sợ, tất cả chỉ là sự tiêu cực bình thường, Đức Chúa Trời không nhớ đến đâu. Có những người quá đa cảm, luôn bị cảm xúc kìm kẹp khi làm bổn phận. Thế là người lãnh đạo liền nói: “Đây là do vóc giạc nhỏ bé của anh, không sao cả”. Có những người lười biếng và bất trung trong bổn phận, nhưng người lãnh đạo không khiển trách, mà lại nói những điều êm tai mà những người đó luôn muốn nghe để làm vui lòng họ và được họ gọi là tốt đẹp, để cho họ thấy mình thấu hiểu con người thế nào, có lòng yêu thương nhiều ra sao. Trong lòng họ nghĩ rằng: “Lãnh đạo của chúng ta như từ mẫu. Họ thực sự có tình yêu thương chúng ta – họ thực sự đại diện cho Đức Chúa Trời. Họ thực sự đến từ Đức Chúa Trời!”. Ngụ ý chính là lãnh đạo của họ có thể đóng vai trò như người phát ngôn của Đức Chúa Trời, có thể đại diện cho Đức Chúa Trời. Đây có phải là mục đích của người lãnh đạo này không? Có thể nó không rõ ràng như vậy, nhưng có một mục đích rõ ràng: họ sẽ khiến người ta nói rằng họ là một lãnh đạo tuyệt vời, quan tâm đến người khác, cảm thông với sự yếu đuối của mọi người và rất thấu hiểu lòng người. Có những lãnh đạo hội thánh thấy các anh chị em thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, nên quở trách thì lại không quở trách. Khi thấy rõ rằng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại, họ không quản, cũng không chất vấn gì, tuyệt đối không đắc tội với người khác. Thật ra họ chẳng hề quan tâm đến sự yếu đuối của người khác; mà ý định và mục đích của họ là lung lạc lòng người. Trong lòng họ biết rõ: “Tôi chỉ cần làm như thế này và không đắc tội với ai, mọi người sẽ cho rằng tôi là một lãnh đạo tốt. Họ sẽ có ý kiến tốt và đánh giá cao về tôi. Họ sẽ tán thành và thích tôi”. Họ không quan tâm lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại thế nào, lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn bị tổn hại ra sao, hoặc đời sống hội thánh bị quấy nhiễu đến mức nào, những lãnh đạo như vậy bám vào triết lý Sa-tan và không đắc tội với ai. Trong lòng họ không bao giờ có sự tự trách. Nhìn thấy ai đó gây gián đoạn và nhiễu loạn thì cùng lắm, họ có thể nói vài lời với người đó một cách sơ sài, rồi coi như xong chuyện. Họ sẽ không thông công về lẽ thật, cũng không chỉ ra thực chất vấn đề cho người đó, càng không mổ xẻ tình trạng của người đó, cũng không bao giờ thông công về tâm ý của Đức Chúa Trời là gì. Người ta làm chuyện sai trái gì, bộc lộ tâm tính bại hoại gì, thì lãnh đạo giả cũng không bao giờ vạch trần hay mổ xẻ. Họ không giải quyết bất kỳ vấn đề thực tế nào, mà thay vào đó họ luôn dung túng cho những cách làm sai trái và sự bộc lộ bại hoại của con người, cho dù người ta tiêu cực hay yếu đuối như thế nào, họ cũng không coi đó là vấn đề. Họ chỉ đơn thuần nói vài câu chữ và đạo lý, đưa ra vài lời khích lệ để ứng phó cho qua chuyện, cố giữ hòa khí. Kết quả là những người được Đức Chúa Trời chọn không biết cách phản tỉnh và biết mình, bộc lộ tâm tính bại hoại cũng không có cách nào giải quyết, chỉ toàn sống trong câu chữ và đạo lý, quan niệm và tưởng tượng, mà không có bất kỳ lối vào sự sống nào. Trong lòng họ còn cho rằng: “Lãnh đạo của chúng ta thậm chí còn thông cảm cho sự yếu đuối của chúng ta hơn cả Đức Chúa Trời. Vóc giạc của chúng ta quá nhỏ để đáp ứng yêu cầu của Đức Chúa Trời. Chúng ta chỉ cần đáp ứng yêu cầu của lãnh đạo là được rồi; khi thuận phục lãnh đạo tức là chúng ta đang thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu một ngày nào đó Bề trên cách chức lãnh đạo của chúng ta, thì chúng ta phải nói lên tiếng lòng của mình; để giữ lại lãnh đạo của mình, không để họ bị Bề trên cách chức, chúng ta sẽ thương lượng với Bề trên và buộc họ phải đáp ứng các yêu cầu của chúng ta. Như thế chúng ta mới không có lỗi với lãnh đạo của mình”. Khi con người có những ý nghĩ này trong lòng, khi họ thiết lập mối quan hệ như thế với lãnh đạo, và trong lòng họ nảy sinh sự ỷ lại, ngưỡng mộ và sùng bái đối với lãnh đạo của mình, thì họ sẽ ngày càng tin tưởng người lãnh đạo này, và luôn muốn nghe lời của người lãnh đạo này thay vì tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời. Một lãnh đạo như vậy gần như đã thế chỗ Đức Chúa Trời trong lòng người. Nếu lãnh đạo sẵn lòng duy trì mối quan hệ như thế với dân được Đức Chúa Trời chọn, trong lòng còn cảm thấy vui thích, cho rằng dân được Đức Chúa Trời chọn phải đối đãi với họ như thế này, thế thì giữa lãnh đạo này và Phao-lô chẳng có gì khác biệt, và họ đã đặt chân lên con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Dân được Đức Chúa Trời chọn đã bị kẻ địch lại Đấng Christ này mê hoặc, và hoàn toàn không có sự phân định. Thực ra, lãnh đạo đó không có thực tế lẽ thật và không hề gánh trọng trách về lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn. Họ chỉ có thể thuyết giảng câu chữ và đạo lý, và duy trì mối quan hệ với người khác. Họ giỏi thể hiện bản thân bằng những phương thức đạo đức giả, lời nói và hành động của họ phù hợp với quan niệm của con người, và qua đó, họ mê hoặc con người. Họ không biết cách thông công về lẽ thật hay biết mình, nên không thể dẫn dắt người khác bước vào thực tế lẽ thật được. Họ chỉ làm việc vì danh vọng và địa vị, và họ chỉ nói những lời êm tai để gài bẫy con người. Họ đã đạt được kết quả khiến con người tôn sùng và ngưỡng vọng mình rồi, và họ đã làm ảnh hưởng, trì hoãn nghiêm trọng công tác của hội thánh cũng như lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn. Người như thế này có phải là kẻ địch lại Đấng Christ không? Có những người hành động giống như kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng khi thấy một kẻ địch lại Đấng Christ bị vạch trần, họ có thể soi mình vào kẻ địch lại Đấng Christ đó. Họ cảm thấy rằng con đường họ đang đi cũng chính là con đường địch lại Đấng Christ, rằng họ nên lập tức dừng cương ngựa trước bờ vực tai họa và ăn năn với Đức Chúa Trời, không chú trọng vào địa vị và hình tượng cá nhân nữa. Họ nghĩ rằng họ nên đề cao và làm chứng cho Đức Chúa Trời trong mọi sự, và khiến Đức Chúa Trời có chỗ trong lòng con người, để con người tôn Đức Chúa Trời là vĩ đại. Như vậy thì lòng họ mới có bình an thật sự. Chỉ những người làm vậy mới là người yêu lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật. Nếu người ta có bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ, trong lòng họ cũng sẽ cảm thấy khó chịu khi nghe những lời vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng họ sẽ không thể tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, không thể mở lòng giãi bày những tâm tính bại hoại của mình. Điều này chứng tỏ họ không thể tiếp nhận lẽ thật và không thể thực sự ăn năn. Họ sẽ vẫn cứ khăng khăng khẳng định địa vị, tận hưởng phúc lợi của địa vị, và tận hưởng sự tôn sùng, ngưỡng vọng của dân được Đức Chúa Trời chọn. Nó dẫn đến việc những người bị họ mê hoặc lạc khỏi con đường thật và lời Đức Chúa Trời, xa lánh Đức Chúa Trời và thay vào đó đi theo họ. Nhưng người đó lại không hề phản tỉnh bản thân. Họ không ý thức được rằng mình đã rơi vào hiểm họa rồi, mà vẫn còn tưởng mình khá tốt đẹp, tiếp tục mê hoặc và lung lạc người khác. Chỉ cần con người nghe họ nói và vâng phục họ, thì dù những người đó có qua loa chiếu lệ hay vô trách nhiệm như thế nào khi thực hiện bổn phận, họ cũng nhắm mắt làm ngơ. Hơn nữa, họ sẽ thích thú tận hưởng sự tôn sùng và ngưỡng vọng của những người vô tri, ngu muội đó, thậm chí còn bảo vệ những người này, không cho phép ai vạch trần hay phân định họ. Khi làm vậy, chẳng phải kẻ địch lại Đấng Christ đang thiết lập vương quốc độc lập cho chính mình sao? Kẻ địch lại Đấng Christ thì không làm công tác thực tế, họ không thông công lẽ thật để giải quyết các vấn đề, họ không dẫn dắt con người ăn uống lời Đức Chúa Trời và bước vào thực tế lẽ thật. Họ chỉ làm việc vì địa vị và danh lợi, họ chỉ quan tâm đến việc vun vén cho bản thân, bảo vệ địa vị của họ trong lòng mọi người, và khiến con người luôn mãi sùng bái, ngưỡng vọng và đi theo họ; đây là những mục tiêu mà họ muốn đạt được. Đây là cách kẻ địch lại Đấng Christ cố lung lạc lòng người và khống chế những người được Đức Chúa Trời chọn. Cách làm như vậy chẳng phải là tà ác sao? Thật là quá ghê tởm! Họ làm việc như vậy trong một thời gian, khiến mọi người có thiện cảm với họ, tin cậy họ, dựa vào họ – nhưng hậu quả là gì? Những người đó không những không thể hiểu lẽ thật, không những không hề tiến bộ trong lối vào sự sống – mà thay vào đó còn xem kẻ địch lại Đấng Christ như phụ mẫu thuộc linh của mình, như người thay thế Đức Chúa Trời, cho phép kẻ địch lại Đấng Christ thay thế vị trí của Đức Chúa Trời trong lòng họ. Khi có vấn đề, con người không còn đến trước Đức Chúa Trời nữa, và dù chuyện gì xảy đến, họ cũng không cầu nguyện với Đức Chúa Trời hay nương cậy vào Ngài, cũng không tìm kiếm lẽ thật trong lời Ngài. Thay vào đó, họ đi hỏi lãnh đạo này. Họ nhờ lãnh đạo chỉ đường cho họ, và ngày càng ngưỡng vọng, ỷ lại vào lãnh đạo. Họ không biết cách tìm kiếm Đức Chúa Trời, không biết cách ngưỡng vọng và nương cậy vào Ngài, càng không biết cách hành động phù hợp với lẽ thật và nguyên tắc. Dù chuyện gì xảy đến, họ cũng hồi hộp chờ đợi lãnh đạo ra mệnh lệnh. Lãnh đạo bảo họ nên làm gì thì họ làm vậy, lãnh đạo chỉ thị thế nào, họ tuân thủ thế ấy. Khi dẫn dắt con người đến bước đường này, chẳng phải kẻ địch lại Đấng Christ đã mê hoặc và khống chế họ rồi sao? Tại sao khi có chuyện xảy đến, dân được Đức Chúa Trời chọn lại không tìm kiếm lẽ thật từ Đức Chúa Trời? Tại sao dân được Đức Chúa Trời chọn lại mù quáng vâng phục những gì lãnh đạo của họ nói, mà không xem xét hay phân định lời lãnh đạo? Tại sao sau khi nghe lời lãnh đạo, dân được Đức Chúa Trời chọn có thể lập tức thuận phục, nhưng với lời Đức Chúa Trời thì lại không thể? Họ đang tìm kiếm ý của lãnh đạo thay vì tìm kiếm ý của Đức Chúa Trời; họ đang nghe lời lãnh đạo thay vì nghe lời Đức Chúa Trời, thay vì tìm kiếm và thuận phục lẽ thật. Họ dựa vào lãnh đạo để hành động, cũng như để bênh vực họ, nói cho họ và ra quyết định cho họ, thay vì nương cậy vào Đức Chúa Trời, ngưỡng vọng Ngài và thuận phục Ngài. Chẳng phải những người được gọi là lãnh đạo này đã chiếm một vị trí nhất định trong lòng người sao? Đây chính là hậu quả của việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và gài bẫy con người.
Có những người, khi có chuyện xảy đến với họ và ngươi bảo họ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, thì họ nói mình có vóc giạc nhỏ bé và không biết cách tìm kiếm. Nếu ngươi bảo họ ăn uống lời Đức Chúa Trời, họ nói mình không có tố chất và không thể đạt được sự sáng lớn. Nếu ngươi bảo họ nghe giảng, họ nói nội dung bài giảng quá cao và quá sâu đối với họ, vượt quá tầm của họ. Họ cho rằng nếu con người có tố chất kém, cộng thêm có những yếu đuối và còn thiếu kém về mọi mặt, thì cần tìm lãnh đạo. Giả sử ngươi hỏi họ: “Tại sao anh lại cần tìm lãnh đạo? Tại sao anh không tìm Đức Chúa Trời và đến trước Ngài?”. Thì họ nói: “Rất khó để con người đến trước Đức Chúa Trời. Con người có những quan niệm, tố chất lại kém, vừa chậm hiểu vừa tê liệt. Lời Đức Chúa Trời không phải lúc nào cũng thẳng thắn, và trong lời Ngài không có ví dụ để làm rõ. Lãnh đạo của chúng tôi cứ nói thẳng phải làm gì, vô cùng thẳng thắn, như một cộng một bằng hai vậy. Còn đối với việc đọc lời Đức Chúa Trời, nếu tôi có thể đọc to là đã tốt lắm rồi, nhưng căn bản là tôi chẳng hiểu gì cả, và tôi không biết Đức Chúa Trời yêu cầu gì ở con người hoặc không biết phải thực hành ra sao để phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời. Tôi không bao giờ tìm được câu trả lời. Vì thấy mình là người có tố chất kém, vóc giạc nhỏ bé, tê liệt và trì độn, không thể nhìn thấu điều gì, nên có chuyện gì tôi cũng phải hỏi lãnh đạo của chúng tôi và để lãnh đạo quyết định. Lãnh đạo của chúng tôi có thể tìm câu trả lời cho tôi; lãnh đạo bảo sao thì tôi làm vậy. Tôi chính là kiểu người như thế – đơn giản và vâng phục”. “Đơn giản và vâng phục thì không có gì sai, nhưng lãnh đạo của các anh có thực sự có thực tế lẽ thật không? Họ có thực sự là người thuận phục Đức Chúa Trời không? Nếu họ chỉ biết thuyết giảng câu chữ và đạo lý, và không phải là người thuận phục Đức Chúa Trời, thì liệu việc anh thuận phục họ có đồng nghĩa với việc anh thuận phục Đức Chúa Trời không?”. Họ nói: “Lãnh đạo của chúng tôi có tố chất cao, nói gì cũng đúng. Nó chứng tỏ họ hiểu lẽ thật và hợp tâm ý của Đức Chúa Trời”. Trong những gì họ nói cũng có chút suy luận lô-gic, chẳng phải sao? Tất cả đều dựa trên cảm nhận cá nhân của họ. Tố chất của họ kém và họ không biết phân định, nên nếu thực sự lãnh đạo có vấn đề gì đó, họ cũng không thể thấy được. Hầu hết mọi người đều ngu muội, vô tri và có tố chất kém, nhưng tạm thời chưa bàn đến nguyên nhân đó. Xét trên bản thân người lãnh đạo, nếu con người có những biểu hiện này, có sự ỷ lại như vậy vào lãnh đạo, và có kiểu quan điểm, thái độ này đối với lãnh đạo, thì chẳng phải điều đó liên quan đến các cách thức và thủ đoạn lung lạc lòng người của người lãnh đạo sao? (Thưa, phải.) Liên quan nhiều đến đâu? Có phải là liên quan trực tiếp đến cách làm việc của người lãnh đạo không? Có thể nói chắc rằng có sự liên quan tuyệt đối và trực tiếp, một trăm phần trăm liên quan. Tại sao Ta lại nói vậy? Có nhiều lãnh đạo, về ý chí chủ quan thì muốn đưa mọi người đến trước Đức Chúa Trời, nhưng bởi vì họ không hiểu lẽ thật và cũng không biết cách giải quyết các vấn đề thực tế khác nhau, chỉ có thể làm một số nhiệm vụ hành chính và việc chung, và thể hiện để được mọi người xem trọng, nên họ đã đặt chân lên con đường địch lại Đấng Christ từ lúc nào không hay. Họ sử dụng các phương thức và phương pháp riêng để không ngừng cố gắng lung lạc lòng người, khống chế lòng người, khống chế hành vi và tư tưởng của mọi người, để mọi người luôn làm theo lời họ khi hành động, thực hành lẽ thật, cũng như trong mọi khía cạnh thực hiện bổn phận. Nếu con người thuận phục một kẻ địch lại Đấng Christ mà lại không thực sự thuận phục Đức Chúa Trời – nếu họ thuận phục kẻ địch lại Đấng Christ nhiều hơn hẳn so với Đức Chúa Trời – và việc thực hiện bổn phận của họ không đạt được chút kết quả gì cả, họ không làm tốt bổn phận của con người, thì dạng người này có phải là người sẽ được cứu rỗi không? Con người có con đường thực hành “chuẩn xác” để vâng phục và trung thành với lãnh đạo và người làm công, nhưng khi nói đến thuận phục và trung thành với Đức Chúa Trời, họ thậm chí còn không thực hành chuẩn xác – không ai thông công về khía cạnh này, và không ai thực hiện công việc thực tế thuộc khía cạnh này. Con người ai cũng thích nói và làm vì địa vị và danh vọng của bản thân, vắt óc, quên ăn, quên ngủ để có thể khiến dân được Đức Chúa Trời chọn vâng phục và tôn sùng họ. Rõ ràng, họ làm hết thảy những chuyện này để đạt được mục đích nắm quyền ở hội thánh như một lãnh đạo hoặc người làm công. Nguyên nhân của việc này là gì? Đó là hết thảy nhân loại bại hoại đều có cùng tâm tính và cùng sở thích. Khi ai đó chỉ ra một con đường cho ngươi, và ngươi rất sẵn lòng thực hành theo, thì không có nghĩa rằng ngươi đang thực hành lẽ thật – mà có nghĩa rằng ngươi đang làm theo lời người đó và vâng phục họ. Vậy tại sao con người lại không sẵn lòng đến trước Đức Chúa Trời hoặc tìm kiếm Ngài? Bởi vì trong nhân tính của con người không có gì hợp lẽ thật. Những gì con người thích, những gì họ hướng tới và những gì họ nắm giữ trong lòng đều đi ngược lại lẽ thật, trái với lẽ thật. Cho nên, nếu ngươi yêu cầu con người tìm kiếm lẽ thật khi có chuyện xảy đến, họ sẽ thấy còn khó hơn lên trời – nhưng nếu ngươi bảo họ nghe theo một người nào đó, họ sẽ thấy dễ dàng hơn nhiều. Rõ ràng là kẻ địch lại Đấng Christ đạt được kết quả rất nhanh khi sử dụng thủ đoạn lung lạc lòng người để khống chế con người. Chỉ cần tùy tiện nói một lời nhận xét thôi, họ có thể khiến người ta có thiện cảm với mình; chỉ với một lời nhận xét tùy tiện chứa đựng chút ý định hoặc quan điểm nào đó, họ đã có thể khiến người ta nhìn họ với con mắt khác, với góc nhìn khác. Điều này đã phơi bày những thứ bên trong con người rốt cuộc là gì. Nó có nghĩa là nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, mà thay vào đó đi con đường mưu cầu địa vị và quyền thế, thì ảnh hưởng và hậu quả của mọi việc ngươi làm với bất kỳ thành viên nào trong nhân loại bại hoại sẽ là khiến họ quay lưng lại với con đường thật, xa lánh lẽ thật, xa lánh Đức Chúa Trời và từ bỏ Đức Chúa Trời. Chỉ có hậu quả này, chỉ có kết cục này. Đây là điều quá rõ ràng và dễ thấy.
Biểu hiện đầu tiên của việc kẻ địch lại Đấng Christ cố gắng lung lạc lòng người là lôi kéo mọi người bằng những ân huệ nhỏ. Ân huệ nhỏ không nhất thiết phải là những thứ vật chất, mà nó bao gồm nhiều thứ. Đôi khi là những lời quan tâm, đôi khi là thỏa mãn dục vọng hoặc hứng thú của người khác, và đôi khi là cảm nhận tâm tư của người khác và nói bất kỳ điều gì êm tai mà người đó muốn nghe, để khiến người đó cảm thấy rằng lãnh đạo của họ thật tốt, thật thấu hiểu. Nói cách khác, kẻ địch lại Đấng Christ tràn đầy sự bao dung, yêu thương, ấm áp, và cái gọi là sự thông cảm để che đậy dã tâm đằng sau là khống chế mọi người. Chẳng hạn như nếu các anh chị em quyên góp một số đồ tốt, họ có thể chia sẻ vài món đồ đó với ai mà họ có mối quan hệ tốt. Họ sử dụng những ân huệ nhỏ này để lung lạc lòng người và mua chuộc lòng người. Nếu trong hội thánh có một công việc dễ dàng, không đòi hỏi phải chịu nắng chịu gió mà còn có thể được nổi bật, thì họ sẽ để cho người mà họ có mối quan hệ tốt làm công việc đó. Tại sao họ có thể làm chuyện này? Một mặt là bởi vì họ vốn không yêu lẽ thật và hành động vô nguyên tắc. Mặt khác là bởi vì họ giữ lại bổn phận tốt này cho những người mà họ có mối quan hệ tốt, rồi nói một số điều êm tai với người ta, để những người đó cảm thấy cảm kích họ, như vậy thì họ sẽ đạt được mục đích của mình là lung lạc lòng người. Thủ đoạn này không chỉ là cho người khác những thứ nhỏ nhặt và nói những lời dễ nghe, mà trong đó có chủ tâm và có mục đích. Mục đích của họ là gì? Đó là nhằm để lại đánh giá tốt về họ trong lòng mọi người. Nếu có một nhóm mười người, họ sẽ bắt đầu bằng cách đánh giá như thế này: “Trong mười người này, có hai người giỏi nịnh nọt. Mình không cần phải bận tâm về họ, họ sẽ vẫn bợ đỡ mình như vậy thôi. Có hai người hồ đồ; nếu cho họ chút lợi lộc, họ sẽ làm theo lời mình. Hai người kia là người có chút tố chất; chỉ cần mình thuyết giảng vài bài cao siêu và nói một số lời ấn tượng với họ, thì họ sẽ phục mình. Còn ba người kia thì có vẻ mưu cầu lẽ thật, nên sẽ hơi khó xử lý. Mình sẽ cần nắm bắt được tình hình thực tế của họ, xem họ cần gì, sau đó đáp ứng. Ai mà không chịu và không vâng phục thì cuối cùng mình sẽ giải quyết và thanh trừ. Cho dù người cuối cùng có chống lại mình thì cũng chẳng thể làm gì nghiêm trọng được, cũng dễ đối phó”. Chỉ liếc mắt là họ có thể xác định được những ai họ có thể xử lý, những ai họ không thể xử lý trong một nhóm người. Làm sao họ có thể biết nhanh như vậy? Họ có khả năng này bởi vì lòng họ chứa đầy những thứ chính trị và triết lý của Sa-tan. Các nguyên tắc hành động và cách đối nhân xử thế của họ không phải là để chung sống hòa thuận với người khác hay có mối quan hệ bình thường giữa người với người, không phải là để giúp đỡ hay chu cấp cho người khác, gây dựng cho người khác, chung sống bình đẳng với người khác, hoặc sử dụng các nguyên tắc lẽ thật để xử lý việc và giao thiệp. Căn bản là họ không hề có chút nguyên tắc nào như vậy. Nguyên tắc của họ là gì? “Trong lòng mỗi người nhìn nhận như thế nào về mình? Mình không cần bận tâm về những người xem trọng mình, những người có mình trong lòng, những người e sợ, tôn trọng và kính trọng mình. Với những người không kính trọng mình, tiếp theo mình nên làm như thế nào. Với những người kính trọng mình, nhưng chưa thực sự phục mình, mình nên làm như thế nào. Còn với những người thường không để ý nhiều đến người khác, thì mình nên làm như thế nào”. Họ có trình tự từng bước để khống chế con người. Tại sao họ lại sinh ra các bước và tư tưởng này? Bởi vì dục vọng đối với quyền lực trong lòng họ là không thể khống chế. Nếu họ chung sống hòa thuận với mọi người trong nhóm thì đối với họ, như vậy là không có chút cảm giác thành tựu nào, không có chút tôn nghiêm nào. Vậy mục đích của họ là gì? Để khiến cho trong lòng hết thảy mọi người đều có chỗ cho họ – nếu không phải là vị trí thứ nhất thì cũng là vị trí thứ hai, nếu không phải vị trí thứ hai thì cũng là vị trí thứ ba. Họ không thể tương tác một cách bình đẳng với người khác. Là lãnh đạo, những người này có thể lắng nghe ý kiến khác nhau của những người khác không? Không thể. Mọi việc họ làm đều xoay quanh điều gì? (Thưa, quyền lực.) Mọi việc họ làm đều xoay quanh quyền lực. Họ làm những chuyện gì xoay quanh quyền lực? Đầu tiên, họ thăm dò và nắm bắt lòng ngươi; nghĩa là đầu tiên họ mua chuộc ngươi, và khiến ngươi mở lòng với họ, họ moi được lời thật lòng từ ngươi và hiểu được đánh giá thực của ngươi về họ. Sau khi nắm bắt được những điều này, họ liền “bốc thuốc đúng bệnh”, “liệu cơm gắp mắm” tùy từng trường hợp. Họ muốn khống chế lòng ngươi, và chỉ cần phát hiện ai đó không đồng tâm với mình, ai đó bất kính với mình, ai đó bất trung với mình, thì đó là khi họ ra tay trừng trị người đó. Cho nên, xuất phát điểm của kẻ địch lại Đấng Christ trong việc lung lạc lòng người là quyền lực. Các phương thức và thủ đoạn họ sử dụng để có được quyền lực là gì? Họ hoàn toàn thấu hiểu, nắm bắt và khống chế lòng người. Tư tưởng của con người bị khống chế dựa trên điều gì? Dựa trên lòng họ và bản tính của họ. Khi lòng ai đó bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế, thì tâm tư và ý niệm của người đó không cần phải lo nữa. Một khi kẻ địch lại Đấng Christ khống chế được lòng ai đó, họ khống chế được toàn bộ con người đó.
B. Phô trương các thế mạnh của bản thân để được mọi người sùng bái
Ngoài việc dùng những ân huệ nhỏ mà chúng ta vừa nói đến, kẻ địch lại Đấng Christ còn thường dùng hoặc quen dùng những thủ đoạn nào khác để lung lạc lòng người? Chẳng hạn như giả sử mọi người đều có ấn tượng xấu về một lãnh đạo. Mọi người cho rằng lãnh đạo này bất tài, chỉ biết nói câu chữ và đạo lý, không có nhận thức thực sự về lẽ thật. Nếu người lãnh đạo đó phát hiện rằng trong lòng mọi người có ấn tượng như vậy về mình, họ có cật lực che giấu những khiếm khuyết và nhược điểm này không? (Thưa, có.) Họ sẽ làm gì? Họ sẽ nói những lời như thế nào? Một mặt là giả vờ cởi mở. Còn gì nữa? (Thưa, giải thích.) Giải thích cũng là một thủ đoạn che giấu. Ngoài ra, người lãnh đạo có thể sử dụng các thế mạnh của mình và những thứ mà người khác xem là tuyệt vời để che giấu điểm yếu của mình. Đây có phải là một thủ đoạn thường gặp không? (Thưa, phải.) Chẳng hạn như có người nói: “Tôi mới chỉ tin đức chúa trời một thời gian ngắn, vậy tại sao tôi lại được chọn làm lãnh đạo? Đó là bởi vì tôi điều hành một công ty trong thế tục, và nhân sự của tôi đã phát triển từ 10 lên 200 người, cho thấy tôi có tài năng lãnh đạo. Mặc dù nhà đức chúa trời không coi trọng những chuyện như vậy, nhưng có lúc cũng có thể dùng đến, phải không?”. Nghe vậy, những người khác không tán đồng lắm, nên người này tiếp tục diễn, nói rằng: “Chẳng hạn như nếu anh chị em nói chuyện với nhân viên, nhưng họ không nghe, thì anh chị em nên làm gì? Anh chị em đạt được thành tích thì họ sẽ nghe. Tôi có sự thật bày sẵn ra đó: công ty của tôi đã niêm yết trên sàn chứng khoán!”. Ban đầu, một số người có thể nói rằng đây là ân tứ và cách làm của người ngoại đạo, nhưng trong những hành động của người này thực sự có những phương thức, phương pháp và kết quả. Thế là có những người đi từ nghi ngờ sang tin tưởng họ, tự lúc nào không hay bắt đầu từng chút sùng bái họ trong quá trình họ làm việc. Thêm vào đó, người này còn mê hoặc người khác và che giấu khuyết điểm của chính mình; tự lúc nào không hay, lòng người bị mua chuộc, mọi người bị họ mê hoặc và cúi đầu trước họ. Đây chẳng phải là một thủ đoạn sao? (Thưa, phải.) Đó là gì? Đó là cật lực phô trương sở trường và ân tứ của mình, khoe khoang kỹ năng và bản lĩnh của mình. Mục đích của những hành động này là gì? Đó cũng là để lung lạc lòng người. Để lung lạc lòng người, ngoài việc cho người khác một số thứ tốt đẹp, họ còn phải khiến người khác xem trọng họ. Nếu họ chỉ là một người bình thường hoặc một người thô lỗ không có học thức, thì ai xem trọng họ? Vì thế, người này chủ tâm khoe khoang bằng cấp, để cho mọi người biết rằng họ có bằng cấp cao và trình độ học vấn cao, kết quả là họ mê hoặc được một số người. Họ cật lực phô trương ân tứ, sở trường và kỹ năng của mình để khiến người khác có đánh giá cao và ấn tượng tốt đẹp về họ, để khiến mọi người thậm chí còn thường xuyên nghĩ đến hoặc có động lực xin lời khuyên của họ trong quá trình làm việc. Chẳng phải mọi việc họ làm để đạt được mục đích này cũng là một thủ đoạn lung lạc lòng người sao? Đây là hai biểu hiện của việc kẻ địch lại Đấng Christ lung lạc lòng người. Thứ nhất là sử dụng những ân huệ nhỏ, thứ hai là phô trương kỹ năng và ân tứ của chính mình, nói cách khác là ưu thế của bản thân, và sử dụng phương thức này để đánh bại những người còn lại, để mình nổi bật giữa đám đông và để tất cả mọi người xem trọng họ, ngưỡng mộ họ, cam tâm tình nguyện đến trước họ để nghe theo sự chỉ huy và tiếp nhận sự dẫn dắt của họ, thậm chí cam tâm tình nguyện tiếp nhận và vâng phục mọi sự sắp xếp của họ. Đây chẳng phải là một chiến thuật tấn công tâm lý sao? (Thưa, phải.) Lung lạc lòng người là một kiểu chiến thuật tấn công tâm lý. “Chiến thuật tấn công tâm lý” nghĩa là gì? Đó là một thủ đoạn mà Sa-tan sử dụng để chiếm hữu và khống chế lòng người. Đức Chúa Trời dò xét sâu thẳm lòng người. Ngài chinh phục và thu phục lòng người. Vậy tại sao khi nói đến Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ lại không sử dụng cách nói “thu phục lòng người”? Đó là bởi vì Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng những thủ đoạn không bình thường và tà ác để cướp đoạt, mê hoặc, lôi kéo và khống chế lòng người, hầu cho mọi người không chủ tâm mà hình thành đánh giá cao và lòng ngưỡng mộ đối với họ.
Chúng ta vừa thông công về hai điều trong thủ đoạn lung lạc lòng người. Còn những thủ đoạn có tính tiêu biểu nào khác nữa? Nếu các ngươi chưa từng trải nghiệm những thủ đoạn và cách làm mà kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để mê hoặc và kìm kẹp con người, thì có thể đối chiếu với bản thân, xem trong ngươi có những biểu hiện này không. Hết thảy con người sống giữa những tâm tính bại hoại đều có những thứ này. Ban phát những ân huệ nhỏ, mê hoặc người, lôi kéo người khác – chẳng phải những chuyện này các ngươi cũng thường làm sao? Rồi cật lực phô trương ân tứ và thế mạnh của mình – chẳng phải đây cũng là chuyện các ngươi thường làm sao? (Thưa, phải.) Nhất là khi các ngươi làm chuyện gì đó đi ngược lại lẽ thật, khi những điểm yếu và khiếm khuyết của các ngươi bị phơi bày, và thậm chí khi các ngươi bị tỉa sửa và vô cùng mất mặt, một chút uy tín cũng chẳng còn, chẳng phải các ngươi cũng làm những chuyện như sử dụng những thủ phương thức và thủ đoạn này để cứu vãn tình thế, và khôi phục vị trí, uy tín của mình trong lòng mọi người sao? (Thưa, chúng con cũng làm những chuyện như vậy.) Khi làm những chuyện này, các ngươi có chút nhận biết nào không, có cảm thấy rằng đây là con đường sai trái và mình không được làm vậy không? Các ngươi có cảm thấy tự trách mình không? Các ngươi thường xuyên không có cảm giác, nói cách khác là cũng không có sự tự trách mình, nhưng bất đắc dĩ vẫn phải làm những chuyện này, bởi vì danh dự và thể diện quá quan trọng đối với các ngươi? Là trường hợp nào? (Thưa, chúng con bất đắc dĩ phải làm như vậy.) Các ngươi bất đắc dĩ phải làm – vậy thì các ngươi có cảm thấy tự trách mình không? Hay căn bản là các ngươi không hề cảm thấy tự trách mình, mà sau khi làm những chuyện đó còn xem nhẹ, vẫn cứ ăn ngủ như thường? (Thưa, chúng con cảm thấy tự trách mình.) Nếu các ngươi cảm thấy một chút tự trách mình thì còn đỡ. Nó chứng tỏ sự tê liệt của các ngươi mới chỉ sâu tới mức đó – các ngươi vẫn còn chút nhận biết. Ngươi có nhận biết thì còn có hy vọng được cứu rỗi; người không có chút nhận biết gì nữa thì không có nhân tính, vì thế lâm nguy.
C. Dùng hình tượng giả để mê hoặc mọi người và tạo thiện cảm với họ
Kẻ địch lại Đấng Christ còn quen dùng những thủ đoạn nào khác để lung lạc lòng người? Có một tình huống khác, đó là dù làm gì, kẻ địch lại Đấng Christ cũng không làm trước mặt Đức Chúa Trời, mà làm trước mặt mọi người. Mục đích của họ là gì? (Thưa, để lôi kéo mọi người.) Đó là để lôi kéo lòng người. Bề ngoài, họ sẵn lòng chịu khổ và trả giá hơn người khác; họ có vẻ thuộc linh hơn, trung thành với Đức Chúa Trời hơn và nghiêm túc với bổn phận hơn người khác. Nhưng khi không có ai ở đó theo dõi họ thì họ không làm như vậy. Họ làm những chuyện này không phải xuất phát từ chủ ý của mình, mà họ có mục đích khác. Trước mặt người khác, họ hành xử như thế để những người đó sẽ thấy họ đang làm việc tốt như thế nào, họ đang làm bổn phận với lòng trung thành như thế, nhưng thật ra bên trong họ căn bản không có xuất phát điểm là lòng trung thành. Mục đích của họ là để khiến cho mọi người thấy họ trung thành và có trách nhiệm. Bằng cách trả giá như vậy, họ khiến người khác tâm phục khẩu phục. Hậu quả là người khác cam tâm tình nguyện tiếp nhận sự dẫn dắt của họ, dù họ phạm sai lầm nào cũng có thể tha thứ. Đây là kiểu hành vi gì? Đây là dùng hình tượng giả để mê hoặc mọi người. “Hình tượng giả” nghĩa là gì? Nó có nghĩa là những hành vi tốt, và những hành động bề ngoài có vẻ hợp lẽ thật. Sử dụng hình tượng giả có vẻ hợp lẽ thật để mê hoặc mọi người và tạo thiện cảm với họ – có phải đặc trưng của hành vi này có thể được khái quát như vậy không? Mục đích của họ là để cuối cùng tạo thiện cảm với mọi người. Một khi có thiện cảm với kẻ địch lại Đấng Christ, mọi người sẽ cảm thấy có phần kính trọng họ – bằng phương thức này, kẻ địch lại Đấng Christ sẽ chiếm một vị trí nhất định trong lòng người. Chẳng hạn như có một kiểu người, khi thực hiện bổn phận sẵn lòng trả giá, chủ yếu làm dựa trên kinh nghiệm, và về cơ bản không vi phạm nguyên tắc lớn nào. Nhưng khi ngươi thông công với họ về việc tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, họ sẽ nói gì? “Không cần thông công đâu. Tất cả những điều này tôi có hết trong đầu rồi”. Khi thực sự gặp chuyện, họ không những không tìm kiếm, mà còn không chịu nghe lời khuyên của bất kỳ ai, càng không chịu nghe ý kiến của bất kỳ ai; bản thân họ nghĩ thế nào là tốt thì họ sẽ làm theo như vậy. Khi họ trả giá, khi những hành động của họ khiến bề ngoài họ có vẻ nhanh nhẹn và quyết đoán, cũng như có uy quyền nhất định, thì trong lòng người khác nhìn nhận họ thế nào? Có hay không có thiện cảm? Trong mắt người khác, họ không vi phạm lẽ thật theo bất kỳ cách thức rõ ràng nào, và cách làm việc của họ rất thành thạo. Mức độ trung thành và kinh nghiệm làm bổn phận của họ đủ để khiến người khác phục. Mọi người sẽ cảm thấy rằng: “Nhìn kìa, người ta đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm và có kinh nghiệm làm bổn phận này. Thật thuần thục làm sao! Chúng ta không thể làm được như vậy”. Khi mọi người có cái nhìn tích cực như thế về họ, thì trong lòng mọi người, trọng lượng của họ nhiều hay ít? (Thưa, nhiều.) Nhiều, họ có trọng lượng trong lòng mọi người. Có những người không bao giờ tìm kiếm lẽ thật, một phần bởi vì họ không có hiểu biết thuộc linh, và một phần bởi vì họ không có hứng thú với lẽ thật, căn bản không hề yêu lẽ thật, và căn bản là hoàn toàn không hiểu các nguyên tắc lẽ thật là gì. Họ chỉ đơn thuần dựa vào nhiệt huyết nhất thời, lòng hảo tâm của bản thân và nhiều năm kinh nghiệm làm bổn phận của mình. Nhưng họ không muốn để cho người khác biết những điều này, nên cật lực dốc nhiều sức lực và trả giá. Hễ ai phát hiện ra họ không có hiểu biết thuộc linh, hoặc họ không hiểu lẽ thật và làm việc vô nguyên tắc, họ liền nhanh chóng tạo ra một số thành tích để cho mọi người thấy. Họ nói rằng: “Hãy nhìn xem rốt cuộc tôi có hiểu biết thuộc linh hay không. Nhìn xem rốt cuộc tôi làm việc có nguyên tắc hay không, rốt cuộc tôi có hiểu lẽ thật hay không”. Khi họ cứ tiếp tục làm như vậy, không ít người sẽ bị họ mê hoặc, nói rằng: “Những người đó có kinh nghiệm làm bổn phận và hiểu nguyên tắc; chúng ta mới là những người không hiểu”. “Chúng ta mới là những người không hiểu” – câu này phơi bày điều gì? Nó phơi bày rằng trong thâm tâm, họ tán thành hành vi tốt bề ngoài của những người đó. Sự tán thành này tương đương với điều gì? Nó chẳng khác nào cho rằng họ là người thực hành lẽ thật, yêu kính Đức Chúa Trời và tiếp nhận được sự hoàn thiện của Đức Chúa Trời. Những người khác đánh giá họ như vậy chẳng khác nào họ đang chiếm một vị trí nhất định trong lòng người, không phải sao? Cụ thể hơn, có thể nói rằng họ có một loại uy tín. Vậy uy tín này mang lại cho họ điều gì? Nó khiến người khác ngưỡng vọng họ, xem trọng họ và thậm chí ỷ lại vào họ. Người khác ỷ lại vào họ như thế nào? Hễ có vấn đề, người khác sẽ lập tức tìm đến họ. Giả sử có người nói: “Đây là một chuyện lớn, và chúng ta không hiểu; có phải chúng ta nên hỏi Bề trên không?”. Thì có những người sẽ nói: “Không cần đâu, hỏi lãnh đạo là được rồi. Lãnh đạo hiểu hết”. Ai cũng tưởng rằng các lãnh đạo và người làm công đa phần đều bận rộn với công việc và không hành ác, vì thế cho rằng họ chắc chắn là người hiểu lẽ thật và làm việc có nguyên tắc. Cách nói này như thế nào? Nếu bên ngoài người ta không hành ác, liệu điều đó có nghĩa rằng họ hiểu lẽ thật không? Chưa chắc. Khả năng hiểu lẽ thật của ai cũng có hạn. Nếu ngươi tin rằng các lãnh đạo chuyện gì cũng hiểu, nên dù có vấn đề gì cũng không cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm từ Ngài, hay tìm kiếm trong lời Ngài, mà tới thẳng chỗ lãnh đạo để hỏi, thì chẳng phải sẽ gây chậm trễ công việc sao? Nếu ngươi luôn làm theo lời lãnh đạo, luôn ngưỡng vọng họ, thì có thể sẽ xảy ra sai sót trong một số chuyện, và ngươi cũng có thể gây thiệt hại cho công tác của hội thánh. Đây chính là lý do tại sao việc sùng bái và ngưỡng vọng con người là cách dễ nhất để lạc lối và phạm sai lầm, gây thiệt hại cho sự sống của chính mình, gây thiệt hại cho nhà Đức Chúa Trời và công tác của hội thánh.
Có ba biểu hiện chính của việc kẻ địch lại Đấng Christ lung lạc lòng người: thứ nhất là lôi kéo mọi người bằng những ân huệ nhỏ; thứ hai là phô trương các thế mạnh, ân tứ và bản lĩnh của mình; thứ ba là dùng hình tượng giả để mê hoặc mọi người và tạo thiện cảm với họ. Những biểu hiện này ai cũng có. Có những người thường xuyên tiết lộ vài tin vịt mà người khác không biết, nói về đủ loại chủ đề, hoặc chia sẻ một số cao kiến của cao nhân. Đây gọi là gì? Có một câu yết hậu ngữ, đó là: “Bà già tô son để cho bạn có cái mà nhìn”. Những người này luôn muốn thể hiện kỹ năng của mình và giành được sự xem trọng của mọi người. Nhưng đôi khi, họ cũng không làm tốt, và mọi người nhìn thấy khiếm khuyết ở họ, thế là họ cật lực cứu vãn tình thế và biện hộ cho mình. Dù những việc họ làm đi ngược lại lương tâm của họ và lẽ thật, hoặc không liên quan đến việc thực hiện bổn phận của họ, họ cũng không bao giờ nhận lỗi, phản tỉnh hay hối cải, cũng không bao giờ nhận ra mức độ nghiêm trọng của vấn đề này. Ngược lại, họ còn dùng hết tâm tư và vắt óc suy nghĩ cách biện hộ cho mình và xoa dịu mọi chuyện. Họ nóng lòng như lửa đốt muốn đạt được mục đích của mình, thậm chí đến mức độ ăn không ngon, ngủ không yên, sợ hình tượng tốt đẹp của họ trong mắt người khác có thể đột nhiên tuột dốc không phanh. Chẳng hạn như có những người cho rằng phong cách viết của họ không tệ, họ là những người viết lách giỏi; có những người cho rằng họ là lãnh đạo tốt, là trụ cột chống đỡ cho hội thánh, lại có những người cho rằng họ là người tốt. Hễ những người này, vì lý do nào đó đánh mất hình tượng tốt đẹp của mình, liền hao tâm tổn tâm tư và trả giá vì nó, vắt óc cố gắng cứu vãn tình thế. Nhưng họ lại không bao giờ cảm thấy xấu hổ, tự trách mình hay cảm thấy mắc nợ với Đức Chúa Trời vì con đường sai trái họ đã đi, hay vì đủ mọi hành vi đi ngược lại lẽ thật mà họ đã làm. Họ không bao giờ có cảm giác như vậy. Họ dùng đủ loại thủ đoạn để mê hoặc mọi người và lung lạc lòng người. Đây là thực hiện bổn phận của loài thọ tạo sao? Tuyệt đối không phải. Đây là công việc mà lãnh đạo hội thánh nên làm sao? Tuyệt đối không phải. Họ đang sống theo những tâm tính Sa-tan, hành ác và gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, gây nhiễu loạn và gián đoạn cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Xét trên hành động và hành vi của họ, con đường họ đi, và đủ loại biểu hiện mê hoặc và khống chế mọi người của họ, thì họ không phải là đang làm bổn phận của lãnh đạo, mà là hủy hoại và làm gián đoạn công tác cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, cản trở con người đến trước Đức Chúa Trời, và có mưu đồ khống chế con người trong tay mình. Đây chẳng phải là những hành động và hành vi của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Không nghi ngờ gì nữa. Điều này đủ để chứng tỏ rằng những kẻ địch lại Đấng Christ hoàn toàn đóng vai trò của Sa-tan. Xét tính chất của những việc họ làm này, thì họ không những không làm tốt bổn phận phải làm – mà ngược lại còn đóng vai trò của Sa-tan. Hết thảy những gì họ làm hoàn toàn là tranh đoạt dân được Đức Chúa Trời chọn với Ngài. Chiên của Đức Chúa Trời nên đi theo Đức Chúa Trời và được Ngài thu phục, nhưng những người này lại cản trở người khác đi theo Đức Chúa Trời; họ khống chế chiên của Đức Chúa Trời trong tay chính mình, khiến cho mọi người sùng bái và đi theo họ. Đây là tính chất hành động của họ. Dạng người này có thể gọi là lãnh đạo được không? (Thưa, không.) Vậy chúng ta nên gọi họ là gì? (Thưa, kẻ hầu độc ác.) “Kẻ hầu độc ác” – từ này rất chuẩn xác. “Kẻ địch lại Đấng Christ”, “kẻ hầu độc ác” – cả hai danh hiệu này đều đúng, chẳng phải sao? Những người này lấy danh nghĩa làm bổn phận của lãnh đạo, nhưng lại không làm những việc lãnh đạo phải làm. Những gì họ làm căn bản không phải là thực hiện bổn phận của lãnh đạo, mà là đóng vai trò của kẻ địch lại Đấng Christ, thay Sa-tan làm nhiễu loạn và phá hoại công tác của nhà Đức Chúa Trời, mê hoặc dân được Đức Chúa Trời chọn, khiến họ rời xa con đường thật và rời xa Đức Chúa Trời. Hết thảy những hành động và hành vi của họ đều phơi bày tâm tính và bản tính của Sa-tan, gây ra hậu quả khiến con người rời xa Đức Chúa Trời, vứt bỏ lẽ thật và Đức Chúa Trời, và sùng bái, đi theo họ. Đến một ngày, khi họ đã hoàn toàn mê hoặc và khống chế mọi người, thì mọi người sẽ bắt đầu sùng bái, đi theo và vâng phục họ. Khi đó, họ đã đạt được mục đích gài bẫy lòng người. Họ làm lãnh đạo hội thánh, nhưng lại không làm công tác được Đức Chúa Trời giao phó; họ không làm công việc thuộc chức phận của lãnh đạo và người làm công. Thay vào đó, họ ra tay với dân được Đức Chúa Trời chọn, mê hoặc, gài bẫy và khống chế mọi người, khống chế bầy chiên rõ ràng thuộc về Đức Chúa Trời trong tay chính họ. Chẳng phải họ là cường đạo, thổ phỉ sao? Khi tranh đoạt dân được Đức Chúa Trời chọn với Ngài như vậy, chẳng phải họ là tay sai của Sa-tan sao? Dạng kẻ địch lại Đấng Christ này chẳng phải là kẻ thù của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải họ là kẻ thù của dân được chọn của Ngài sao? (Thưa, phải.) Một trăm phần trăm là vậy. Họ là kẻ thù của Đức Chúa Trời và dân được Đức Chúa Trời chọn. Đây là chuyện tuyệt đối không cần phải nghi ngờ gì nữa.
Trước đây khi Ta phán và làm việc trong các hội thánh ở Trung Quốc đại lục, có một người cùng Ta phụ trách việc thu âm và chỉnh lý bản ghi chép của bài giảng. Người này có chút ân tứ, đầu óc lanh lợi và phản ứng nhanh. Nhưng ở anh ta có một điều: rất giỏi nói những lời êm tai mà người ta muốn nghe. Nếu ngươi nói thứ gì đó ngon, anh ta sẽ nói: “Đúng đấy. Tôi thử rồi. Ngon lắm”. Nếu ngươi nói bên ngoài trời nóng, anh ta sẽ nói: “Nóng thật, tôi đang đổ hết mồ hôi đây này”. Nếu ngươi nói bên ngoài trời lạnh, anh ta sẽ nói: “Trời lạnh mà. Tôi mang giày lót lông cừu đây này”. Khó mà ép được anh ta nói gì đó thật hoặc trung thực. Bề ngoài anh ta có vẻ là người thực sự mưu cầu, nhưng khi có chuyện cần phải trả giá thì anh ta sẽ trốn mất. Anh ta vừa gian xảo vừa giả dối. Kiểu người của anh ta là vậy. Một số người có thể hỏi: “Vậy tại sao Ngài lại chọn một người như thế?”. Ta không chọn anh ta – đó là do hoàn cảnh lúc đó quyết định. Lúc đó thậm chí còn khó tìm được ai như anh ta, và ít nhất anh ta cũng phản ứng nhanh, bất cứ khi nào ngươi nói thì anh ta đều sẽ ghi âm được. Anh ta đi theo Ta khắp nơi, thu âm và chỉnh lý bài giảng; anh ta cũng có làm một số công việc thực tế. Nhưng cách anh ta biểu hiện trước mặt Ta và những chuyện anh ta làm trong hội thánh lại giống như hành động của hai người hoàn toàn khác nhau. Trước mặt Ta, anh ta tỏ ra vâng phục, ngoan ngoãn và chịu khó, có lương tâm và trách nhiệm – nhưng khi làm bổn phận trong hội thánh, anh ta có như vậy không? Đó là cách anh ta hành xử khi tiếp xúc với Bề trên, vậy liệu anh ta có như thế khi ở giữa dân được Đức Chúa Trời chọn không? Ngươi có dám đưa ra câu trả lời chắc chắn không? Không. Vậy làm sao để có thể biết được tình trạng thực sự của anh ta? Để biết được, ngươi phải tiếp xúc với anh ta. Sau khi ngươi tương tác với anh ta một thời gian, mọi thứ trong thực chất bản tính của anh ta khi đó sẽ được bộc lộ ra. Anh ta đặc biệt yêu thích địa vị và rất ham hư vinh. Ở bên ai, anh ta cũng rất thích nói về vốn liếng của mình, phô trương những việc anh ta có thể làm, những việc anh ta đã làm, anh ta đã chịu khổ bao nhiêu, và anh ta tuyệt vời như thế nào. Anh ta làm những việc này và nói chuyện như thế này rất thường xuyên, là một con người hoàn toàn khác so với khi có mặt Ta. Ngoài ra, ai ở xung quanh anh ta cũng cảm thấy bị kìm kẹp và ức hiếp, còn không dám lên tiếng. Vấn đề lớn nhất ở đây là gì? Anh ta đem chút công việc mình đang làm này, chút bổn phận mình đang làm này, xem như vốn liếng để đi đâu cũng phô trương. Anh đã phô trương đến mức độ nào? Hết thảy mọi người đều ngưỡng vọng, sùng bái và ghen tị với anh ta. Cuối cùng, người ta còn nói rằng: “Người này đã chịu khổ quá nhiều vì Đức Chúa Trời. Xem đức tin và tình yêu người ta dành cho Đức Chúa Trời kìa! Chúng ta thậm chí còn không bằng một cọng tóc trên đầu anh ấy. Chúng ta quá kém cỏi so với anh ấy!”. Mọi người mở miệng là nhắc đến tên của anh ta, và những người không thể gặp Ta thì sẽ thấy rằng gặp anh ta cũng như gặp Ta vậy. Sự ảnh hưởng của anh ta đối với nhận thức, tư tưởng và tâm trí của mọi người cuối cùng đã đến mức độ này. Để đạt đến mức độ này, anh ta hẳn phải nói không ít lời và làm không ít việc, đúng không? Chắc chắn anh ta không chỉ sử dụng vài lời để đề cập đến những bổn phận mình đã làm, chắc chắn anh ta đã nói thao thao bất tuyệt về những điều này; thêm vào đó, anh ta còn có động cơ và mục đích riêng của mình, anh ta đã nói một số điều mà có thể dụ dỗ và mê hoặc mọi người, khiến mọi người sùng bái anh ta, và cuối cùng anh ta đã đạt được mục đích của mình. Các ngươi nghĩ sao về kiểu người này? Việc anh ta được làm bổn phận bên cạnh Ta là một chuyện tốt cho anh ta, dù về mặt học cách làm người hay có được lẽ thật. Đó là cơ hội để anh ta được hoàn thiện sớm. Đáng buồn là anh ta không trân quý cơ hội này. Anh ta không thấy được sự quý giá và trọng yếu của cơ hội này, cũng không thấy được rằng đó là con đường, nền tảng và cội nguồn để có được lẽ thật và đạt được nhận thức về Đức Chúa Trời. Thay vào đó, anh ta lại lợi dụng cơ hội này để đạt được mục đích riêng của mình là nổi bật giữa đám đông và lung lạc lòng người. Như thế là phiền phức rồi, anh ta đã đi sai đường. Các ngươi nói xem, khi anh ta truyền bá lung tung về việc mình đã chịu khổ bao nhiêu, Đức Chúa Trời dẫn dắt anh ta như thế nào, Đức Chúa Trời đối xử với anh ta ra sao, và Đức Chúa Trời tin tưởng anh ta như thế nào, liệu anh ta có thể ý thức được mình có ý định cá nhân trong đó không? (Thưa, có.) Anh ta hẳn là có thể, không có chuyện nào là không ý thức được. Anh ta có thể ý thức được, vậy tại sao lại không thể kìm lại những việc ác của mình? Bởi vì anh ta không yêu lẽ thật; anh ta chỉ thích quyền thế, địa vị. Khi người thực sự yêu lẽ thật bộc lộ sự bại hoại, khi họ đang làm chứng về việc họ chịu khổ như thế nào, thì họ cảm thấy tự trách và tự buộc tội mình. Họ cảm thấy làm vậy rất đê tiện, là chống đối Đức Chúa Trời, và họ không được làm vậy nữa. Sau này, khi họ muốn làm vậy lần nữa, họ sẽ có thể kiềm chế và ngăn mình làm những chuyện như vậy. Điều đó rất bình thường. Nhưng trong những lúc như thế, ngay cả khi bị lương tâm cắn rứt, kẻ địch lại Đấng Christ cũng không thể khống chế được dã tâm, dục vọng của mình, và dù có bị tỉa sửa, họ cũng sẽ không tiếp nhận lẽ thật. Tại sao bản tính của họ lại phình to, bành trướng vô phương cứu chữa như vậy? (Thưa, bởi vì họ không yêu lẽ thật.) Bản tính họ không yêu lẽ thật. Vậy họ yêu gì? (Thưa, họ yêu địa vị.) Địa vị sẽ mang lại gì cho họ? Nó sẽ khiến mọi người sùng bái, xem trọng và ghen tị với họ. Cuối cùng, mục đích của họ là muốn tận hưởng địa vị và sự đối đãi giống như của Đức Chúa Trời, cũng như vinh quang, niềm hạnh phúc và niềm vui mà địa vị này mang lại cho họ. Nghe Ta nói đến đây, có phải các ngươi sẽ cảm thấy ghê tởm không? (Thưa, phải.) Có một điều khác nữa còn ghê tởm hơn mà người đó làm. Về sau, anh ta bị bệnh, về quê, và điều đó khiến anh ta càng cảm thấy mình càng có tư cách để được tận hưởng phúc lợi của địa vị. Theo các ngươi, dưới sự chi phối của tư tưởng này, anh ta sẽ có những biểu hiện nào? Chẳng phải anh ta sẽ đòi hỏi mọi người phải đãi ngộ anh ta nhiều hơn, tốt hơn sao? (Thưa, phải.) Tại sao anh ta lại đòi hỏi như vậy? Anh ta không cảm thấy nó quá đáng hoặc vô lý sao? Anh ta cảm thấy mình đã có tư cách để được như vậy, nghĩ rằng: “Mình đã chịu khổ rất nhiều vì đức chúa trời và vì các anh chị em. Mình có quyền được như vậy; mình bị bệnh do chịu khổ quá nhiều, nên các anh chị em phải hầu hạ mình”. Trong khi bị bệnh, anh ta không động một ngón tay, chỉ nằm trên giường cả ngày, bắt người khác hầu hạ, cho ăn. Sau khi nằm đó một thời gian dài, anh ta bắt đầu buồn chán, nên bắt mọi người mang đồ ăn thức uống ra ngoài cùng anh ta để giải tỏa nỗi buồn chán. Thật ghê tởm, đúng không? Nếu anh ta thực sự bệnh đến mức đó thì không nói làm gì; nếu anh ta không bệnh đến mức đó, thì chắc chắn hành vi của anh ta quá thiếu lý trí, phải không?
Có những người bề ngoài khá nhiệt tình trong đức tin nơi Đức Chúa Trời. Họ thích chăm lo và quan tâm đến công chuyện của hội thánh, và họ luôn chạy ở phía trước. Nhưng không ngờ là một khi trở thành lãnh đạo, họ lại khiến hết thảy mọi người thất vọng. Họ không tập trung giải quyết các vấn đề thực tế của dân được Đức Chúa Trời chọn, mà thay vào đó cật lực làm việc vì danh dự và địa vị của chính mình. Họ rất thích thể hiện để được người khác xem trọng, và luôn nói về việc họ đã dâng mình, chịu khổ vì Đức Chúa Trời như thế nào, nhưng lại không dốc sức vào việc mưu cầu lẽ thật và bước vào sự sống. Đây là điều mà không ai mong đợi ở họ. Mặc dù họ bận rộn với công việc, trong trường hợp nào cũng luôn thể hiện bản thân, thuyết giảng một số câu chữ và đạo lý, có được sự xem trọng và sùng bái của một số người, mê hoặc lòng người và củng cố địa vị của mình, nhưng kết quả cuối cùng là gì? Dù những người này sử dụng ân huệ nhỏ để hối lộ người khác, phô trương ân tứ và bản lĩnh của mình, hay sử dụng các loại phương thức để mê hoặc mọi người, qua đó có được thiện cảm của mọi người, dù họ sử dụng phương thức nào để lung lạc lòng người và chiếm vị trí trong lòng người, thì họ cũng đã đánh mất điều gì? Họ đã đánh mất cơ hội có được lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận lãnh đạo. Đồng thời, do những biểu hiện khác nhau của mình, họ cũng đã tích lũy những việc ác mà sẽ dẫn đến kết cục cuối cùng của họ. Bây giờ nhìn lại, bất luận là dùng những ân huệ nhỏ để hối lộ, gài bẫy con người, hay là phô trương bản thân, hoặc là dùng hình tượng giả để mê hoặc con người, bề ngoài bất luận họ có được bao nhiêu lợi ích thực tế, có được bao nhiêu sự thỏa mãn từ đó, thì con đường này có phải là một con đường đúng đắn hay không? Đó có phải là con đường mưu cầu lẽ thật hay không? Có phải là con đường đạt đến sự cứu rỗi hay không? Rõ ràng là không phải. Những phương thức, thủ đoạn này bất luận cao siêu đến đâu cũng không lừa gạt được Đức Chúa Trời, cuối cùng đều bị Đức Chúa Trời định tội và ghê tởm, bởi vì thứ ẩn giấu đằng sau những hành vi này chính là dã tâm của con người, là một loại thái độ và thực chất đối địch với Đức Chúa Trời của con người. Trong lòng Đức Chúa Trời, Ngài tuyệt đối sẽ không thừa nhận những người như vậy là đang thực hiện bổn phận, thay vào đó Ngài xác định tính chất của họ là hành ác. Khi đối đãi với những người hành ác thì Ngài quy định thế nào? “Hỡi kẻ làm gian ác… hãy lui ra khỏi Ta!”. Khi Đức Chúa Trời phán: “Hãy lui ra khỏi Ta!” là Ngài muốn họ đi về đâu? Ngài muốn giao họ cho Sa-tan và đưa đến nơi đám Sa-tan cư ngụ. Kết quả cuối cùng là gì? Họ sẽ bị tà linh hành hạ đến chết, tức là bị Sa-tan ăn tươi nuốt sống. Đức Chúa Trời không cần người như vậy, nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ, họ không phải là chiên của Đức Chúa Trời, lại càng không phải là người đi theo Ngài, vậy họ không phải là đối tượng để Ngài cứu rỗi. Đây chính là cách Đức Chúa Trời định nghĩa loại người này. Vậy rốt cuộc thì tính chất của việc cố gắng lung lạc lòng người là gì? Đó là đi con đường địch lại Đấng Christ; đó là hành vi và thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Thậm chí nghiêm trọng hơn nữa là thực chất tranh đoạt dân được Đức Chúa Trời chọn với Ngài; dạng người này là kẻ thù của Đức Chúa Trời. Đây chính là cách kẻ địch lại Đấng Christ được định nghĩa và phân loại, và nó không sai lệch chút nào.
Ngày 22 tháng 1 năm 2019