Trân quý lời Đức Chúa Trời là nền tảng của đức tin nơi Đức Chúa Trời

Đầu tiên, chúng ta lắng nghe một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời: “Theo lời Đức Chúa Trời và bạn sẽ không bị lạc lối”.

1 Đức Chúa Trời hy vọng các ngươi có thể – có thể độc lập trong việc ăn uống, luôn sống trong ánh sáng hiện diện của Ngài, và trong lối sống, không bao giờ rời bỏ lời Ngài; chỉ như thế ngươi mới thấm nhuần lời Ngài được. Trong từng lời nói, hành động của ngươi, lời Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ dẫn dắt ngươi về phía trước. Nếu ngươi thực sự đến gần Ngài được đến mức này, thì ngươi sẽ luôn có thể trao đổi với Ngài, và ngươi sẽ không thấy mơ hồ hay là không biết phải làm gì và làm như thế nào. Chắc chắn ngươi sẽ có Ngài bên cạnh, luôn có thể hành động theo lời Ngài.

2 Dù ngươi gặp bất cứ điều gì, lời Đức Chúa Trời cũng sẽ hiện ra trong ngươi, chỉ dẫn ngươi hành động theo ý của Ngài. Hãy làm mọi việc theo lời Ngài phán, và Ngài sẽ dẫn ngươi tiến lên trong mỗi hành động; ngươi sẽ không thể lạc lối, và ngươi sẽ có thể sống trong sự sáng mới, với sự khai sáng mới, tràn đầy hơn nữa. Ngươi không thể dùng quan niệm của con người để suy ngẫm về việc cần làm, ngươi nên quy phục sự dẫn dắt của lời Ngài, giữ cho trái tim mình thật trong sáng, tĩnh lặng trước Đức Chúa Trời, và suy ngẫm nhiều hơn. Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành.

3 Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi. Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt, đói khát tìm kiếm, trong khi từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan. Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim. Hãy hợp tác tích cực với Đức Chúa Trời, và giải thoát chính mình khỏi những trở ngại bên trong.

– Thông Công Của Đức Chúa Trời  

Vừa rồi là bài thánh ca “Theo lời Đức Chúa Trời và bạn sẽ không bị lạc lối.” Sau khi nghe bài thánh ca này, các ngươi có thu được bất kỳ sự sáng hay con đường thực hành nào không? Các ngươi đã nhận được cảm hứng và sự sáng từ những lời nào? “Theo lời Đức Chúa Trời và bạn sẽ không bị lạc lối” – những lời này có đúng không? Chúng có phải là lẽ thật không? (Thưa phải). Ngươi thấy những câu nào trong bài thánh ca này đặc biệt hữu ích cho trải nghiệm của ngươi trong đời thực? Bắt đầu đọc từ câu: “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu”. (“Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành. Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi. Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt, đói khát tìm kiếm, trong khi từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan. Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim. Hãy hợp tác tích cực với Đức Chúa Trời, và giải thoát chính mình khỏi những trở ngại bên trong”). Những câu nào trong trích đoạn này cung cấp một con đường thực hành? Những câu nào trong đó là các nguyên tắc thực hành để xử lý những tình huống trong đời thực mà Đức Chúa Trời đã truyền đạt cho con người? Các ngươi có thể tìm thấy chúng không? Những tờ báo, tạp chí và nhiều sách khác nhau mà người ta đọc đều có những phần mà họ cho là đáng lưu ý. Đó là những phần nào? Những phần mà người ta quan tâm, những phần mà người ta cho là quan trọng nhất, và những phần cung cấp thông tin quan trọng mà người ta cần biết trong cuộc sống hàng ngày. Vậy phần nào trong đoạn lời Đức Chúa Trời này là đáng được lưu ý? Những phần nào nêu ra các yêu cầu mà Đức Chúa Trời đặt ra cho con người? Những phần nào chứa đựng các nguyên tắc mà Đức Chúa Trời đã chỉ định để người ta thực hành và tuân thủ khi đối mặt với những tình huống trong cuộc sống hàng ngày của họ? Các ngươi có thể thấy đây là những phần nào không? (Thưa không rõ lắm). Hãy đọc lại đi. (“Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành. Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi. Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt, đói khát tìm kiếm, trong khi từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan. Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim. Hãy hợp tác tích cực với Đức Chúa Trời, và giải thoát chính mình khỏi những trở ngại bên trong”). Các ngươi hiểu ý nghĩa của từng câu trong đoạn này không? (Thưa hiểu). Đoạn này được viết bằng những lời đơn giản dễ hiểu. Nó không trừu tượng. Thật dễ hiểu nghĩa đen của những lời này, vậy nguyên tắc mà chúng hàm chứa là gì? Các ngươi có thể tìm thấy nó khi đọc những lời này không? Nguyên tắc là gì? Nói rộng hơn, lời và lẽ thật của Đức Chúa Trời là các nguyên tắc. Tuy nhiên, nói theo cách này nghe có vẻ khá sáo rỗng và thậm chí hơi trừu tượng. Cụ thể hơn, nguyên tắc là con đường và tiêu chí thực hành mà một người cần phải có trong hành động. Đây là điều mà chúng ta gọi là nguyên tắc. Vậy thì, nguyên tắc trong đoạn này là gì? Nói một cách chính xác, đoạn này hàm chứa một con đường thực hành. Đức Chúa Trời đã phán với con người cách thực hành và cách hành động khi có chuyện xảy đến với họ. Hãy đọc đoạn này một lần nữa và lắng nghe những lời ấy thật kỹ. (“Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành. Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi. Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt, đói khát tìm kiếm, trong khi từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan. Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim. Hãy hợp tác tích cực với Đức Chúa Trời, và giải thoát chính mình khỏi những trở ngại bên trong.”) Tất cả các ngươi đều đã đọc đoạn này ba lần. Nó có gây ấn tượng gì với các ngươi không? Sau khi đọc ba lần, các ngươi có cảm thấy điều gì khác biệt so với khi nghe bài hát này mà không để tâm chú ý như thường lệ không? (Thưa có). Trong đoạn này, các ngươi có thể tìm thấy và lĩnh hội những nguyên tắc thực hành nào? Đức Chúa Trời đưa ra khía cạnh nào của lẽ thật ở đây? Khía cạnh này của lẽ thật có liên quan đến một nguyên tắc thực hành, nhưng chính xác thì nguyên tắc ở đây là gì? Nó đề cập đến loại vấn đề thực tế gì? Câu đầu tiên đề cập đến một vấn đề thực – nói về những điều mà ngươi không hiểu. Những điều mà ngươi không hiểu này bao gồm các vấn đề liên quan đến lẽ thật, sự thực hành của ngươi, sự thay đổi tâm tính, các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công việc của ngươi và các tình trạng cá nhân mà ngươi trải qua khi thực hiện bổn phận, cũng như vấn đề về cách phân định thực chất của con người, v.v. Những điều như vậy thực sự xảy ra xung quanh ngươi, và ngươi đã nhìn thấy, đã nghe thấy chúng. Tuy nhiên, ngươi không hiểu thực chất của những vấn đề này hoặc những lẽ thật mà chúng có liên quan, và ngươi càng không biết con đường thực hành cũng như các nguyên tắc liên quan. Đương nhiên, ngươi cũng không biết ý muốn của Đức Chúa Trời ở vấn đề này, và những điều tương tự khác. Khi một người không hiểu, không biết, hoặc không nhìn thấu những điều này, thì chúng trở thành những nỗi khó khăn lớn nhất của họ, và chúng nên được giải quyết dựa trên lời Đức Chúa Trời – “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn”. Có nhiều điều ngươi không hiểu, cả những điều ở thế giới bên ngoài lẫn những điều trong nhà Đức Chúa Trời. Vì ngươi không hiểu những điều này, vậy ngươi nên làm gì? Trước tiên, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật, xem trong lời Đức Chúa Trời phán điều gì và có thể tìm thấy những nguyên tắc nào của lẽ thật nào ở đó. Ngươi phải suy ngẫm kỹ, đọc lời Đức Chúa Trời vài lần. Đầu tiên, hãy tìm thực tế của lẽ thật, sau đó hiểu những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở ngươi, tiếp theo, hãy xác định các nguyên tắc để thực hành lẽ thật – như thế, ngươi sẽ dễ dàng hiểu được lẽ thật. Đây là quá trình đọc lời Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật. Các ngươi có hiểu được điều Ta vừa phán không? (Thưa, có). Đức Chúa Trời đã an bài hoàn cảnh của ngươi, những con người, sự việc và sự vật xung quanh ngươi. Vậy thái độ của Đức Chúa Trời đối với điều này là gì? Ngươi có thể thấy được trong lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bảo ngươi đừng băn khoăn về giải pháp, đừng vội định nghĩa các sự việc, đưa ra nhận định hay bất kỳ phán đoán nào. Tại sao lại như vậy? Bởi vì ngươi chưa hiểu sự việc này mà Đức Chúa Trời đã an bài cho ngươi. Khi Đức Chúa Trời bảo ngươi đừng vội vàng, điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa rằng sự việc này đã xảy ra, rằng Đức Chúa Trời đã đặt nó trước ngươi và đặt ngươi trong hoàn cảnh này, và thái độ của Đức Chúa Trời rất rõ ràng. Đức Chúa Trời bảo ngươi: “Ta không vội bắt ngươi phải hiểu hết sự tình chuyện này. Ta không vội bắt ngươi phải ngay lập tức đưa ra nhận định, kết luận, hoặc bất kỳ loại giải pháp nào cho việc này”. Vấn đề này còn xa lạ với ngươi và ngươi không hiểu, đây là điều ngươi chưa từng gặp phải trước đây, và là một bài học ngươi chưa học qua, hơn nữa, ngươi không có kinh nghiệm hoặc hướng dẫn nào về nó, và ngươi chưa từng trải nghiệm nó trước đây, vì vậy Đức Chúa Trời không vội bắt ngươi phải đưa ra câu trả lời cho việc này. Một số người hỏi: “Đức Chúa Trời đã an bài hoàn cảnh này thì tại sao Ngài lại không nôn nóng muốn nhìn thấy kết quả chứ?”. Ở đây cũng có ý muốn của Đức Chúa Trời. Mục tiêu của Đức Chúa Trời trong việc sắp đặt các hoàn cảnh không phải là để bắt ngươi nhanh chóng đưa ra phán đoán hoặc kết luận trên lý thuyết về nó. Đức Chúa Trời muốn ngươi trải nghiệm một hoàn cảnh và sự kiện như vậy, và Ngài muốn ngươi hiểu được những con người, sự việc và sự vật hàm chứa trong đó, để ngươi có thể học được bài học quy phục Đức Chúa Trời. Một khi ngươi đã đạt được sự hiểu biết và trải nghiệm cá nhân như vậy, thì sự kiện này sẽ đầy ý nghĩa, cũng như có tầm quan trọng và giá trị to lớn đối với ngươi. Cuối cùng, sau khi trải nghiệm điều này, những gì ngươi sẽ thu được không phải là lý thuyết, cũng không phải là quan niệm, sự tưởng tượng, hay phán đoán, thậm chí không phải là kinh nghiệm hay bài học do con người đúc kết, mà là một trải nghiệm cá nhân, trực tiếp, và nhận thức thực sự về nó. Nhận thức này sẽ gần với lẽ thật hoặc phù hợp với lẽ thật. Thông qua trải nghiệm những điều như vậy, ngươi sẽ có thể thấy rằng thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người rất rõ ràng và được thể hiện theo cách dễ hiểu. Theo quan điểm của Đức Chúa Trời, Ngài không vội bắt ngươi phải nhanh chóng đưa ra câu trả lời hoặc phản ứng. Đức Chúa Trời muốn ngươi trải nghiệm hoàn cảnh này. Đây là thái độ của Ngài. Và vì đây là thái độ của Đức Chúa Trời, nên Ngài có yêu cầu và tiêu chuẩn đối với con người. Tiêu chuẩn này là một nguyên tắc con người nên thực hành. Nguyên tắc thực hành là gì? Đó là cách tiếp cận, phương pháp, và phương tiện ngươi sử dụng khi gặp một sự việc cụ thể. Khi ngươi hiểu được ý muốn và thái độ của Đức Chúa Trời đối với một sự việc, thì ngươi nên đưa những yêu cầu của Đức Chúa Trời vào thực hành. Và Đức Chúa Trời yêu cầu gì ở ngươi? Đức Chúa Trời phán: “Đừng băn khoăn về giải pháp”. Câu “Đừng băn khoăn về giải pháp” này có cơ sở của nó. Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại đặt ra yêu cầu và tiêu chuẩn như vậy đối với con người? Các ngươi có rõ về điểm này không? Đó là bởi vì ngươi là một người bình thường. Ngươi không phải là siêu nhân, suy nghĩ của ngươi là suy nghĩ của người bình thường. Ngươi là một người tầm thường. Cho dù ngươi sống đến bốn mươi, năm mươi hay thậm chí tám mươi tuổi, thì ngươi cũng sẽ không ngừng trưởng thành. Ngươi không phải mãi giống như khi mới sinh ra. Những trải nghiệm hiện tại của ngươi, kinh nghiệm, sự hiểu biết, những điều ngươi thấy và nghe, những trải nghiệm sống của ngươi, v.v. – tất cả những điều này – cùng với tất cả những điều ngươi biết và hiểu trong lòng và trí mình, hết thảy đều là kết quả tích lũy của nhiều năm mài giũa. Đây gọi là nhân tính bình thường. Đây là quá trình trưởng thành của nhân tính bình thường do Đức Chúa Trời đặt ra cho con người và là biểu hiện của nhân tính bình thường. Vì vậy, khi ngươi gặp phải điều gì đó mà ngươi không hiểu, điều gì đó không quen thuộc với ngươi, thì Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi phải nhanh chóng đưa ra câu trả lời và phản ứng thật nhanh như thể ngươi là rô-bốt. Vì rô-bốt nhập mọi thông tin vào bộ nhớ của nó cùng lúc, nên khi ngươi yêu cầu rô-bốt trả lời, nó sẽ phản hồi chỉ sau một lần tìm kiếm – với điều kiện là có thể tìm thấy câu trả lời trong bộ nhớ của nó. Đối với con người bình thường thì không như vậy. Ngay cả khi họ đã trải nghiệm điều gì đó trước đây thì cũng không nhất thiết nó được lưu giữ trong ký ức của họ. Đối với con người mà nói, chỉ những thứ liên quan đến nhân tính bình thường như kinh nghiệm, trải nghiệm, kinh nghiệm sống, và thể nghiệm chân thực mới khiến họ khác với siêu nhân, rô-bốt và những người có khả năng đặc biệt.

Đức Chúa Trời đã đặt ra những yêu cầu và tiêu chuẩn cho con người dựa trên những gì mà những người có nhân tính bình thường cần có và phải có, và Ngài đã chỉ ra một con đường thực hành. Con đường thực hành này là gì? Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu. Điều này cho ngươi biết rằng ngươi có vội vàng tìm giải pháp cũng vô ích. Tại sao lại như vậy? Ngươi chỉ là một người bình thường. Mặc dù ngươi có thể có chút kinh nghiệm và hiểu biết từ những trải nghiệm trước đây của mình, nhưng nếu điều y như cũ lại xảy ra trong tương lai thì ngươi không hẳn có thể nắm bắt hoàn toàn ý muốn của Đức Chúa Trời, thực hành hoàn toàn phù hợp với lẽ thật, hoặc thực hiện một cách vẹn toàn. Điều này thậm chí còn ít có khả năng hơn khi nói đến những điều mà ngươi không hiểu, vì vậy trong những trường hợp đó, ngươi càng không nên vội tìm giải pháp. Lời dạy đừng băn khoăn tìm giải pháp nói với người ta điều gì? Mục đích của nó là làm cho người ta hiểu được nhân tính bình thường. Nhân tính bình thường không phải là siêu phàm, phi thường, hay đặc biệt. Sự hiểu biết, kinh nghiệm, nhận thức, và sự lĩnh hội của người ta về nhiều thứ, cũng như quan điểm của họ về thực chất của nhiều loại người khác nhau, tất cả đều đạt được thông qua trải nghiệm của họ về những hoàn cảnh, con người, sự việc và sự vật khác nhau. Đây là nhân tính bình thường. Điều này không có gì siêu việt cả, và nó là một rào cản mà không ai có thể nhảy qua. Nếu ngươi muốn vượt ra ngoài những quy luật mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho con người thì sẽ là không bình thường. Ở một khía cạnh, điều đó sẽ chỉ cho thấy rằng ngươi không biết nhân tính bình thường là gì. Ở một khía cạnh khác, nó sẽ phơi bày sự kiêu ngạo và thiếu thực tế quá mức của ngươi. Đức Chúa Trời đã bảo người ta đừng băn khoăn về giải pháp cho điều họ không hiểu. Vì ngươi là một người bình thường, ngươi cần Đức Chúa Trời an bài nhiều hoàn cảnh hơn cho ngươi, để ngươi có thể trải nghiệm, lĩnh hội và nhận thức sự bại hoại của con người thể hiện trong đó, đồng thời cũng hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời thông qua những con người, sự kiện và sự vật này. Đây là điều mà những người có nhân tính bình thường nên làm. Vậy thì bây giờ, có thể tìm thấy con đường thực hành nào trong “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu”? (Thưa, là đừng băn khoăn về giải pháp.) Khi một người gặp phải một tình huống và không thể nhìn thấu hoặc hiểu được, khi họ chưa từng gặp phải hay nhận thức về tình huống đó, và khi họ thậm chí không thể tưởng tượng được cách giải quyết vấn đề này bằng cách dựa vào quan niệm của con người, thì họ nên làm gì? Nguyên tắc mà Đức Chúa Trời đòi hỏi là gì? (Thưa, là đừng băn khoăn về giải pháp.) Đức Chúa Trời đã yêu cầu ngươi điều này, vậy ngươi nên thực hành như thế nào? Ngươi nên tiếp cận những điều như vậy với thái độ gì? Khi những người có nhân tính bình thường gặp phải những điều mà họ không thể nhìn thấu, không thể hiểu, và không có kinh nghiệm, hay thậm chí những tình huống mà họ hoàn toàn bất lực, thì trước tiên họ nên có một thái độ đúng đắn và nói: “Tôi không hiểu, không thể nhìn thấu, và không có kinh nghiệm về loại sự việc này, tôi cũng không biết phải làm gì. Tôi chỉ là một người bình thường, vì vậy những gì tôi có thể đạt được là có giới hạn. Không có gì xấu hổ khi không thể nhìn thấu hoặc hiểu một số việc, và chắc chắn là không có gì xấu hổ khi thiếu kinh nghiệm về chúng”. Khi ngươi nhận ra rằng điều này không có gì phải xấu hổ thì có phải là xong chuyện không? Liệu vấn đề khi đó đã được giải quyết chứ? Không lo lắng về việc khiến mình xấu hổ chỉ là một sự hiểu biết và một thái độ mà người ta có thể có đối với những việc như vậy. Điều này không giống y như việc thực hành phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời. Vậy người ta có thể thực hành phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời như thế nào? Giả sử ngươi thầm nghĩ: “Mình chưa bao giờ trải nghiệm điều này trước đây, và mình không thể nhìn thấu được. Mình không biết sự an bài của Đức Chúa Trời cho một hoàn cảnh như vậy có nghĩa là gì, hoặc nó nhằm đạt được kết quả gì. Mình cũng không biết thái độ của Đức Chúa Trời. Vì vậy, mình thấy không cần phải bận tâm. Mình sẽ phó mặc tự nhiên và làm ngơ” – ngươi nghĩ sao về thái độ như vậy? Đây có phải là thái độ tìm kiếm lẽ thật không? Đây có phải là thái độ thực hành phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời không? Đây có phải là thái độ làm theo lời Đức Chúa Trời không? (Thưa không). Những người khác khi gặp phải tình huống như vậy thì thầm nghĩ: “Mình không thể nhìn thấu hoặc hiểu được vấn đề này, và mình chưa từng trải nghiệm vấn đề này trước đây. Điều này chưa bao giờ được đề cập trong các lớp học ở đại học của mình. Mình có bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ, và mình thậm chí đã từng làm giáo sư – nếu mình không thể hiểu điều này thì ai có thể hiểu được chứ? Chẳng phải sẽ quá xấu hổ khi để mọi người biết rằng mình không thể nhìn thấu điều này và không có kinh nghiệm về điều này sao? Chẳng phải tất cả họ sẽ coi thường mình sao? Không, mình không thể nói rằng đây là điều mà mình không thể nhìn thấu. Mình phải nói rằng: ‘Về những vấn đề thuộc loại này, hãy tìm lời Đức Chúa Trời, hãy tìm kiếm, rồi anh sẽ tìm thấy câu trả lời’. Mình thà chết chứ không thừa nhận không thể nhìn thấu hay hiểu được vấn đề này”. Ngươi nghĩ gì về thái độ này? (Thưa, thái độ này không tốt). Người này nghĩ mình là ai? Họ nghĩ rằng họ là một vị thánh, một người hoàn hảo. Họ nghĩ: “Liệu thật sự có thể có những điều mà tôi, đường đường là một sinh viên đại học, một học giả nổi tiếng, một người có bằng thạc sĩ và tiến sĩ, một bậc danh nhân, vĩ nhân, lại không thể hiểu hay nhìn thấu? Không thể nào! Và ngay cả khi có những điều như vậy, thì đó sẽ là thứ mà không ai trong số các người có thể hiểu được, vì vậy đó không phải là vấn đề. Ngay cả khi tôi không thể nhìn thấu được thì tôi chắc chắn cũng sẽ không để các người biết. ‘Tôi không thể nhìn thấu được’, ‘Tôi không hiểu’, ‘Tôi không thể’, những lời như vậy không bao giờ được thốt ra khỏi miệng tôi!” Đây là loại người gì? (Thưa, là một người kiêu ngạo). Đây là một người kiêu ngạo và tự phụ, không có lý trí. Nếu hạng người này đọc những lời “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu” thì họ có đạt được con đường thực hành không? Liệu họ có nhận được chút cảm hứng nào không? Nếu không có, thì việc họ đọc những lời này hoàn toàn vô ích. Những lời này được viết rõ ràng và dễ hiểu, vậy tại sao họ không thể hiểu được? Tất cả ngần ấy năm ngươi dành cho việc nghiên cứu và tìm hiểu lời chẳng có ích gì. Nếu ngươi thậm chí không thể hiểu được những lời đơn giản và dễ hiểu này, thì ngươi thực sự chẳng ra gì!

Bây giờ, chúng ta hãy xem lại con đường thực hành nào được hàm chứa trong câu “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu”. Trước hết, ngươi nên có thái độ không băn khoăn về giải pháp và, thay vào đó, đầu tiên hãy nhận ra những khả năng nội tại của mình có thể đạt được gì, nhận ra nhân tính bình thường là gì, và hiểu ý của Đức Chúa Trời là gì khi Ngài nói về nhân tính bình thường. Ngươi nên hiểu Đức Chúa Trời thực sự có ý gì khi Ngài nói rằng Ngài không muốn con người trở thành siêu nhân hay những cá nhân siêu việt, phi thường, và Ngài chỉ muốn họ là những người bình thường. Trước tiên ngươi phải hiểu những điều này. Việc giả vờ biết những điều mà ngươi không hiểu chẳng có ích gì. Cho dù ngươi giả vờ khác đi như thế nào thì ngươi cũng vẫn sẽ không biết chúng. Ngay cả khi ngươi có thể lừa dối mọi người khác thì ngươi cũng sẽ không thể lừa dối Đức Chúa Trời. Khi những điều như vậy xảy đến với ngươi, nếu ngươi không hiểu chúng, thì cứ nói rằng ngươi không hiểu chúng. Ngươi phải có một thái độ chân thành và tấm lòng ngoan đạo, và để cho những người xung quanh ngươi thấy rằng có những điều mà ngươi không biết và ngươi không thể nhìn thấu, những điều mà ngươi chưa từng trải nghiệm qua, và rằng ngươi chỉ là một người bình thường, không khác với bất kỳ ai khác. Không có gì đáng xấu hổ cả. Đó là biểu hiện của nhân tính bình thường, và ngươi phải chấp nhận sự thật này. Sau khi ngươi chấp nhận sự thật này thì sao? Hãy nói điều đó với mọi người, rằng: “Tôi chưa từng trải nghiệm điều này, tôi không thể nhìn thấu và tôi không biết phải làm gì. Tôi cũng giống như mọi người, mặc dù có thể tôi hơn mọi người ở một lĩnh vực, đó là tôi đã nhìn thấy sự sáng và tìm thấy con đường thực hành trong lời Đức Chúa Trời, tôi có hy vọng, và tôi biết cách thực hành”. Hy vọng này nằm ở đâu? Nằm trong lời Đức Chúa Trời: “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành”. Điều này có nghĩa là ghi khắc vấn đề vào lòng, và thỉnh thoảng đưa nó đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm. Ngươi phải ghi tâm vấn đề, biến nó thành một loại nhiệm vụ mà ngươi phải làm là hiểu lẽ thật và ý muốn của Đức Chúa Trời trong đó, đồng thời biến nó thành trách nhiệm của ngươi cũng như phương hướng và mục tiêu ngươi tìm kiếm. Nếu thực hành theo cách này, ngươi sẽ đến trước Đức Chúa Trời, ngươi sẽ có thể giải quyết được vấn đề của mình, và ngươi sẽ bước được vào thực tế của những lời này. Cụ thể, ngươi nên thực hành điều này như thế nào? Ngươi phải đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và tìm kiếm, và ngươi cũng nên tìm cơ hội chia sẻ vấn đề này trong khi thông công tại các buổi nhóm họp, cũng như tương giao và suy ngẫm về nó cùng mọi người. “Hãy đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành”. Lòng ngươi phải chân thành và chân thật. Ngươi không được chỉ làm cho có hay hành động chiếu lệ, không được nói một đằng nghĩ một nẻo. Ngươi phải mang gánh trọng trách về vấn đề này, và mang trong mình một tấm lòng khao khát sự công chính, muốn hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời trong vấn đề này và muốn nhìn thấu thực chất của vấn đề này, đồng thời, mong muốn giải quyết những vấn đề và sự bối rối mà con người gặp phải khi đối mặt với vấn đề này, cũng như các vấn đề như tâm tính bại hoại của chính ngươi hay nhiều tình trạng bất thường khác nhau. “Hãy đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành”. Đây là con đường thực hành trọn vẹn mà Đức Chúa Trời đã phán dạy con người. Ngươi thấy gì trong câu này? Thấy rằng mục đích của Đức Chúa Trời trong việc an bài hoàn cảnh cho con người một mặt là để cho phép con người trải nghiệm nhiều điều khác nhau theo nhiều cách, học được những bài học từ đó, bước vào những thực tế khác nhau của lẽ thật hàm chứa trong lời Đức Chúa Trời, làm phong phú thêm trải nghiệm của con người, và giúp họ có được sự hiểu biết toàn diện, đa chiều hơn về Đức Chúa Trời, bản thân họ, hoàn cảnh của họ, và nhân loại. Mặt khác, Đức Chúa Trời muốn người ta duy trì mối quan hệ bình thường với Ngài bằng cách sắp đặt một số hoàn cảnh đặc biệt và an bài một số bài học đặc biệt cho họ. Bằng cách này, người ta đến trước Ngài thường xuyên hơn, thay vì sống trong tình trạng vô thần, nói rằng họ tin Đức Chúa Trời, nhưng lại hành động theo cách không liên quan gì đến Đức Chúa Trời hay lẽ thật – là điều sẽ dẫn đến rắc rối. Do đó, trong những hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt, thực tế là con người được chính Đức Chúa Trời đưa đến trước mặt Đức Chúa Trời một cách miễn cưỡng và thụ động. Điều này cho thấy ý định tốt của Đức Chúa Trời. Ngươi càng thiếu hiểu biết về một vấn đề nhất định, thì ngươi càng phải có lòng kính sợ Đức Chúa Trời và ngoan đạo, và thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời cũng như lẽ thật. Khi ngươi không hiểu chuyện, ngươi cần sự khai sáng và hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Khi ngươi gặp phải những điều mà ngươi không hiểu, thì ngươi cần cầu xin Đức Chúa Trời hoạt động nhiều hơn nơi ngươi. Đây là những ý định tốt của Đức Chúa Trời. Ngươi càng đến trước Đức Chúa Trời thì lòng ngươi sẽ càng gần Đức Chúa Trời. Và chẳng phải lòng ngươi càng gần Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời càng ngự trong đó sao? Đức Chúa Trời càng ngự trong lòng người thì sự mưu cầu của họ, con đường họ bước đi, và trạng thái trong lòng họ sẽ càng trở nên tốt hơn. Mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời càng gần gũi thì ngươi càng dễ thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời để dâng tấm lòng chân thành của mình, và đức tin của ngươi nơi Đức Chúa Trời sẽ càng trở nên chân thật hơn. Đồng thời, cuộc sống, hành động và cách cư xử của ngươi sẽ được kiềm chế. Sự kiềm chế như vậy nảy sinh như thế nào? Nó nảy sinh khi người ta thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, và tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời. Đây là điều quan trọng nhất. Vậy, một người có thể chấp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời trong bối cảnh gì và với điều kiện gì? (Khi họ có mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời). Đúng vậy, khi họ có mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời. Nếu ngươi có mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, chẳng phải điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời ở trong lòng ngươi và ngươi rất gần gũi với Ngài sao? Điều này sẽ có nghĩa là Đức Chúa Trời luôn có một vị trí trong lòng ngươi, và Đức Chúa Trời chiếm một vị trí rất nổi bật trong lòng ngươi. Kết quả là, ngươi sẽ luôn nghĩ về Đức Chúa Trời, nghĩ về lời Đức Chúa Trời, nghĩ về thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời, nghĩ về quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, và nghĩ về mọi thứ thuộc về Đức Chúa Trời. Nói theo cách mộc mạc, lòng ngươi sẽ ngập tràn Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời sẽ có một vị trí rất cao trong lòng ngươi. Nếu lòng ngươi tràn ngập Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ có mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, ngươi sẽ có thể tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, và đồng thời, ngươi cũng sẽ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Chỉ khi đó ngươi mới có thể hành động một cách kiềm chế. “Đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn” là một câu đơn giản, nhưng nó hàm chứa nhiều tầng ý nghĩa. Nó hàm chứa những ý định của Đức Chúa Trời đối với nhân loại và thái độ mà Đức Chúa Trời dùng để yêu cầu con người hành động, đồng thời truyền đạt những yêu cầu mà Đức Chúa Trời đặt ra cho nhân loại. Và như vậy, những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại là gì? Là ngươi không bỏ cuộc, chạy trốn, hoặc có thái độ thờ ơ với những điều xảy đến với mình. Ngươi nên làm gì nếu phải đối mặt với điều gì đó mà ngươi không hiểu và không thể nhìn thấu, hoặc ngươi không thể vượt qua, hoặc thậm chí làm ngươi yếu đuối? Đừng băn khoăn về giải pháp. Đức Chúa Trời không thúc ép người ta vượt quá khả năng của họ. Đức Chúa Trời không bao giờ đòi hỏi người ta làm những việc vượt quá phạm vi khả năng của con người. Những gì Đức Chúa Trời muốn ngươi làm và những điều Ngài yêu cầu ở ngươi đều là những điều mà những người có nhân tính bình thường có thể gặt hái, đạt được và hoàn thành. Vì vậy, những yêu cầu và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đối với con người không hề trống rỗng hay mơ hồ. Yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người không gì khác hơn là một tiêu chuẩn bao hàm phạm vi mà những người có nhân tính bình thường có thể đạt được. Nếu ngươi luôn theo những sự tưởng tượng của mình, và muốn trở nên tốt hơn, vượt trội hơn, và có năng lực hơn người khác, nếu ngươi luôn muốn vượt hơn người khác, thì ngươi đã hiểu sai ý của Đức Chúa Trời. Những người kiêu ngạo và tự nên công chính thường như vậy. Đức Chúa Trời phán rằng đừng băn khoăn về giải pháp, Ngài phán hãy tìm kiếm lẽ thật và hành động theo nguyên tắc, nhưng những người kiêu ngạo và tự nên công chính lại không xem xét kỹ những yêu cầu này của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ khăng khăng cố gắng hoàn thành mọi việc với một nỗ lực hết mình, làm việc một cách gọn gàng và đẹp đẽ, vượt qua mọi người khác trong nháy mắt. Họ muốn trở thành siêu nhân và họ không chịu làm người bình thường. Chẳng phải điều này đi ngược lại quy luật tự nhiên mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho con người sao? (Thưa phải). Rõ ràng, họ không phải là người bình thường. Họ thiếu nhân tính bình thường, và họ quá kiêu ngạo. Họ coi thường những yêu cầu thuộc phạm vi của nhân tính bình thường mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho nhân loại. Họ coi thường những tiêu chuẩn mà những người có nhân tính bình thường có thể đạt được mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho nhân loại. Do đó, họ khinh thị những yêu cầu của Đức Chúa Trời và nghĩ: “Yêu cầu của Đức Chúa Trời quá thấp. Làm sao những người tin Đức Chúa Trời có thể là người bình thường được? Họ phải là những người phi thường, những cá nhân siêu việt và vượt hơn những người bình thường. Họ phải là những danh nhân và vĩ nhân”. Họ coi thường lời Đức Chúa Trời, nghĩ rằng mặc dù lời Đức Chúa Trời là đúng và là lẽ thật, nhưng chúng quá bình thường và tầm thường, vì vậy họ phớt lờ lời Ngài và coi thường chúng. Nhưng chính trong những lời bình thường và tầm thường bị những kẻ gọi là siêu nhân và vĩ nhân rất khinh thị này, mà Đức Chúa Trời đã chỉ ra những nguyên tắc và con đường mà người ta nên tuân theo và thực hành. Lời Đức Chúa Trời rất chân thành, khách quan, và thực tế. Chúng không hề đặt ra yêu cầu cao đối với con người. Chúng là tất cả những điều mà người ta có thể và nên đạt được. Miễn là người ta có chút lý trí bình thường thì họ không nên cố sống trên mây, mà thay vào đó, họ nên tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và lẽ thật một cách đơn sơ và thực tế, làm tròn bổn phận của mình, sống trước Đức Chúa Trời, và coi lẽ thật là nguyên tắc hành xử và hành động của mình. Họ không nên tham vọng quá mức. Ở câu “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn”, người ta nên hiểu nhiều hơn rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, và rằng lẽ thật là nguyên tắc mà người ta nên thực hành. “Người ta” ở đây ám chỉ ai? Ám chỉ những người bình thường có lý tính bình thường và khả năng phán đoán bình thường, những người yêu những điều tích cực, và những người hiểu điều gì là khách quan, điều gì là thực tế, điều gì là bình thường, và điều gì là tầm thường. Hãy dành thời gian nghiền ngẫm những lời “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn”. Mặc dù đây là những lời đơn giản, bình thường, nhưng chúng mô tả những điều mà những người có lý trí của nhân tính bình thường phải có thể làm và chúng cũng là nguyên tắc của lẽ thật mà một người có nhân tính bình thường nên thực hành nhất khi gặp khó khăn trong đời thực. Chúng là lẽ thật cần thiết nhất cho những người sở hữu lý trí của nhân tính bình thường. Chúng không hề là những từ sáo rỗng. Các ngươi đã hát và nghe những lời bình thường này nhiều lần, nhưng không ai trong số các ngươi coi những lời này là lẽ thật để suy ngẫm thật kỹ và chăm chú thông công cả. Theo cách như vậy, các ngươi đã để cho những lời quý giá này lọt từ tai này sang tai kia. Trên thực tế, những lời này chứa đựng ý muốn của Đức Chúa Trời, những lời nhắc nhở và khuyên nhủ của Đức Chúa Trời đối với con người, và những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người. Chúng hàm chứa rất nhiều. Con người vô tâm và vô lý, và họ coi những lời này là những lời bình thường; họ không trân quý chúng, suy ngẫm về chúng, hay thực hành chúng, và cuối cùng ai sẽ là người đau khổ và mất mát vì điều này? Chính là con người. Chẳng phải đây là một bài học sao?

Với người bình thường thì việc thực hành những yêu cầu mà Đức Chúa Trời đặt ra trong đoạn này là rất dễ dàng, không có gì khó khăn hay mệt mỏi, và lại hiệu quả. Sau cùng, việc thực hành này có thể khiến ngươi có khả năng phát triển và tiến bộ dần dần. Dĩ nhiên, sau khi đưa nguyên tắc “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành” vào thực hành, ngươi sẽ tiến bộ về mặt lẽ thật, về sự thay đổi tâm tính, về sự hiểu biết mà ngươi có được từ việc trải nghiệm nhiều hoàn cảnh khác nhau, và v.v. Những lời này thật tuyệt vời làm sao! Nếu người ta có lý trí và đưa những lời này vào thực hành thì dưới sự chỉ đạo và chỉ dẫn của lời Đức Chúa Trời, họ sẽ biết được ý muốn của Đức Chúa Trời là gì khi Ngài sắp xếp những hoàn cảnh khác nhau. Sau một khoảng thời gian, họ rốt cuộc sẽ có thể gặt hái thành quả, có được kinh nghiệm và hiểu ra lẽ thật trong những hoàn cảnh ấy. Khi gặt hái được những thành quả như vậy, ngươi sẽ biết tại sao Đức Chúa Trời lại sắp xếp những hoàn cảnh này, biết ý muốn của Đức Chúa Trời là gì, và biết Đức Chúa Trời muốn con người đạt được gì từ chúng. Hơn nữa, những khúc ngoặt mà người ta đi qua, những thất bại mà họ trải qua, những hiểu biết sai lệch mà họ nuôi giữ, những ý tưởng phi thực tế mà họ có, những quan niệm và sự chống đối Đức Chúa Trời nảy sinh trong họ, v.v., tất cả sẽ dần dần bị vạch trần và phơi bày trong khi họ trải nghiệm những hoàn cảnh này. Bất kể những điều này là tích cực hay tiêu cực, người ta cũng cần trải nghiệm một thời gian thì mới thấy rõ và biết rõ những gì bị vạch trần, bị phơi bày qua những hoàn cảnh này. Theo cách như vậy, ý nghĩa thực sự của lời Đức Chúa Trời phán rằng “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu” được ứng nghiệm. Tức là, khi Đức Chúa Trời an bài điều gì đó mà ngươi không thể nhìn thấu hoặc hiểu được, và chưa từng trải qua trước đây, thì những điều mà Đức Chúa Trời muốn ngươi hiểu được, đạt được, và đích thân trải nghiệm từ tình huống đó không phải chỉ một vài ngày là có thể đạt được. Phải sau một thời gian và với sự chỉ bảo, khai sáng và hướng dẫn của Đức Chúa Trời ở từng bước, ngươi mới dần dần hiểu ra và đạt được kết quả. Không giống như người ta tưởng tượng, ngươi không thể trong một khoảnh khắc khai sáng bất chợt mà đột nhiên hiểu ra mọi thứ, hay trong một thoáng linh cảm mà biết được ý của Đức Chúa Trời là gì. Đức Chúa Trời không làm những việc như vậy bằng cách thức siêu nhiên, Ngài không hành động theo cách này. Đây chính là cách thức công tác của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cho ngươi trải nghiệm nguyên nhân và hậu quả của một tình huống, và ngươi dần dần nhận ra: “Thì ra thực chất của loại người này là như vậy, thì ra chân tướng và thực chất của loại sự việc đó là như vậy, và như thế là ứng nghiệm câu này câu kia trong lời Đức Chúa Trời. Cuối cùng thì mình đã hiểu ý của Đức Chúa Trời khi Ngài nói thế. Cuối cùng thì mình đã hiểu tại sao Đức Chúa Trời lại phán những điều như vậy về những vấn đề như thế này và những người như thế kia”. Đức Chúa Trời cho phép ngươi nghiệm ra được rõ như vậy thông qua các trải nghiệm của ngươi. Chẳng phải người ta cần chút thời gian thì mới nghiệm ra những điều này sao? (Thưa, phải). Nhận thức mà ngươi đạt được và những lẽ thật mà ngươi hiểu ra được thông qua một khoảng thời gian trải nghiệm không phải là những giáo lý hay những thứ lý thuyết, mà là những trải nghiệm cá nhân và nhận thức đích thực của ngươi. Đây là thực tế lẽ thật mà ngươi bước vào. Nguyên nhân và nguồn gốc của lời Đức Chúa Trời phán rằng “Đừng băn khoăn về giải pháp” nằm ở đây. Khi Đức Chúa Trời cho phép ngươi gặt hái thành quả từ những sự việc mà ngươi trải nghiệm, Ngài không muốn ngươi chỉ đơn thuần trải qua một quá trình hay học một lý thuyết, mà Ngài muốn ngươi đạt được một chút lĩnh hội, một chút nhận thức, một quan điểm tích cực, và một phương pháp thực hành đúng đắn. Mặc dù đoạn này chỉ có vài câu và không hàm chứa nhiều nội dung, nhưng những yêu cầu mà Đức Chúa Trời đưa ra trong đoạn này và các nguyên tắc thực hành mà Ngài ban cho con người thông qua đoạn này là rất quan trọng. Người ta không nên dùng thái độ của mình đối với tri thức và đạo lý của con người mà áp dụng cho lời Đức Chúa Trời. Để thực hành lời Đức Chúa Trời, ngươi phải có nguyên tắc. Điều này có nghĩa là ngươi phải có một nguyên tắc, một phương pháp, để đưa vào thực hành khi gặp một loại tình huống nhất định. Thực hành lẽ thật nghĩa là như vậy. Đây là điều mà chúng ta gọi là nguyên tắc. Do đó, những lời này không phải chỉ là một vài lời đơn giản. Mặc dù những lời này được diễn đạt, trình bày theo cách đơn giản, dễ hiểu và có vẻ rất thẳng thắn, không được trau chuốt bằng ngôn từ hoa mỹ, bằng các thuật ngữ phong nhã hay bằng cách nói tinh tế, càng không được nói bằng giọng điệu hạ cố mà đúng hơn, chúng chỉ là những lời khuyên bảo và những yêu cầu chân thành được nói ra trực tiếp và chân tình, nhưng chúng quả thực cho con người biết những nguyên tắc và con đường thực hành quan trọng nhất.

Có nhiều người không bao giờ coi trọng những lời bình thường nhất mà Đức Chúa Trời phán ra. Với họ, chỉ những lời phán uyên thâm và mầu nhiệm của Đức Chúa Trời mới là lời Ngài. Chẳng phải đây là biểu hiện của việc hiểu lệch lạc sao? Mỗi câu trong lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật. Bất kể là lời bình thường hay uyên thâm, mọi lời của Đức Chúa Trời đều chứa đựng lẽ thật cũng như những lẽ mầu nhiệm, và người ta cần phải có nhiều năm kinh nghiệm cũng như có một vóc giạc nhất định thì mới hiểu và biết được. Giống như những lời hay đẹp và quan trọng của Đức Chúa Trời có trong bài thánh ca mà các ngươi vừa hát – chẳng ai buồn nghiêm túc với những lời đó cả. Mặc dù những lời đó đã được phổ nhạc và được mọi người hát suốt nhiều năm nhưng chưa có ai tìm ra nguyên tắc thực hành quan trọng nhất mà chúng hàm chứa cả. Ngay cả khi một số người cảm nhận trong ý thức rằng lời Đức Chúa Trời dường như đang bảo họ: “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành”, và cảm nhận rằng đây là những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, thì có ai từng thực sự thực hành, thực hiện, và bước vào tính thực tế của những lời này của Đức Chúa Trời trong cuộc sống thực tế chưa? Có ai từng làm điều này chưa? (Thưa, chưa có). Chưa ai làm được như vậy cả. Những lời này của Đức Chúa Trời rất đơn giản nhưng không ai có thể làm theo. Chẳng phải có một vấn đề mang tính thực chất ở đây sao? (Thưa, phải, điều này cho thấy rằng người ta đã chán ghét lẽ thật). Còn gì nữa không? (Những lời phán này của Đức Chúa Trời với chúng con rất thực tế. Chúng đều là những lời mang tính nguyên tắc. Thế nhưng, chúng con đã không nghiêm túc với lời Đức Chúa Trời, chúng con chưa chú ý đến chúng, và chúng con chưa đưa chúng vào thực hành). Vậy các ngươi thường đọc lời Đức Chúa Trời như thế nào? (Khi đọc lời Đức Chúa Trời, chúng con thường chỉ đọc kiểu cưỡi ngựa xem hoa. Sau khi hiểu những lời đó theo nghĩa đen thì chúng con đọc tiếp. Chúng con không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời trong những lời đó là gì hay chúng con nên thực hành những nguyên tắc lẽ thật nào. Chúng con chưa suy ngẫm kỹ về chúng như thế). Các ngươi dùng một số ý kiến lý thuyết để trả lời và điều các ngươi nói nghe có vẻ đúng, nhưng các ngươi chưa nhìn thấu nguyên nhân gốc rễ của việc này: đó là người ta không trân quý lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi trân quý lời Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ có thể khám phá ra châu báu, vàng bạc, kim cương có trong đó và đủ cho ngươi dùng cả đời. Nếu ngươi không trân quý lời Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ không thể có được những châu báu này. Không trân quý lời Đức Chúa Trời nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi không trân trọng lời Đức Chúa Trời. Ngươi cảm thấy rằng có quá nhiều lời Đức Chúa Trời và tất cả đều là lẽ thật, và ngươi không biết phải trân quý những lời nào. Ngươi cảm thấy rằng tất cả chúng đều bình thường – và rắc rối chính là ở đây. Trân quý lời Đức Chúa Trời có nghĩa là gì? Có nghĩa là ngươi biết rằng mọi lời của Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, và những lẽ thật này là châu báu hữu ích cũng như vô giá nhất cho cuộc sống và cuộc đời của con người. Có nghĩa là ngươi coi lời Đức Chúa Trời như những châu báu mà ngươi quá yêu thích đến mức không thể xa chúng. Thái độ này đối với lời Đức Chúa Trời được gọi là trân quý. Trân quý lời Đức Chúa Trời có nghĩa là ngươi đã khám phá được rằng mọi lời của Đức Chúa Trời đều là những châu báu có giá trị lớn nhất, rằng chúng quý giá gấp trăm, gấp nghìn lần so với những châm ngôn sống của bất kỳ danh nhân hay vĩ nhân nào. Có nghĩa là ngươi đã có được lẽ thật của lời Đức Chúa Trời và đã khám phá ra những châu báu tuyệt vời nhất, giá trị nhất của đời ngươi. Có được những châu báu này, ngươi có thể làm tăng giá trị của mình và được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Vì lý do này, ngươi đặc biệt trân quý những lẽ thật này. Ta sẽ đưa ra một ví dụ trong cuộc sống thực tế về việc này. Giả sử như một người phụ nữ mua một chiếc đầm đẹp, và khi về nhà, cô ấy thử mặc chiếc đầm trước gương. Nhìn trái nhìn phải, cô ấy nghĩ: “Chiếc đầm này thật đẹp, chất liệu vải thật tuyệt, tay nghề thợ thật khéo, mặc vào thật thoải mái và mềm mại. Mình thật diễm phúc khi có thể mua được trang phục đẹp như vậy. Đây là trang phục yêu thích của mình, nhưng không phải mình mặc lúc nào cũng được đâu. Mình sẽ mặc khi tham dự những sự kiện cao cấp nhất và gặp gỡ những người tôn quý nhất”. Khi có thời gian rảnh, cô ấy thường lấy chiếc đầm ra để ngắm nghía và mặc thử. Sáu tháng sau, cô ấy vẫn hào hứng như vậy với chiếc đầm và không thể xa nó. Trân quý thứ gì đó nghĩa là như vậy. Thái độ của các ngươi đối với lời Đức Chúa Trời đã đạt đến mức này chưa? (Thưa, chưa). Thật đáng tiếc khi các ngươi chưa trân quý lời Đức Chúa Trời nhiều như người phụ nữ trân quý chiếc đầm mà cô ấy yêu thích! Thảo nào các ngươi đã đọc nhiều lời Đức Chúa Trời nhưng lại không thể khám phá được nhiều lẽ thật cho lắm, và chưa bao giờ có thể bước vào thực tế. Các ngươi luôn nói rằng mọi lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, nhưng đây chỉ là những lời xác nhận lý thuyết ngoài miệng. Nếu ai đó đưa ra một trong những đoạn lời Đức Chúa Trời đơn giản nhất và được bày tỏ sớm nhất, và hỏi các ngươi rằng những lẽ thật trong những lời đó là gì, ý muốn của Đức Chúa Trời là gì, hay Đức Chúa Trời đưa ra cho con người những yêu cầu và tiêu chuẩn gì, thì các ngươi sẽ cứng miệng và không thốt ra được một lời nào đáp lại. Các ngươi đã đọc và nghe lời Đức Chúa Trời rất nhiều, vậy tại sao lại không có sự lĩnh hội thực sự về chúng? Đâu là gốc rễ của vấn đề? Thực ra, đó là do người ta trân quý lời Đức Chúa Trời không đủ. Với mức độ trân quý lời Đức Chúa Trời trong hiện tại của các ngươi, các ngươi còn lâu mới khám phá ra lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời và còn lâu mới khám phá ra những yêu cầu, nguyên tắc, và con đường thực hành mà Đức Chúa Trời ban cho con người thông qua chúng. Đây là lý do tại sao các ngươi luôn bối rối khi có chuyện xảy đến và không bao giờ có thể tìm ra nguyên tắc. Đây là lý do tại sao các ngươi trải nghiệm nhiều điều nhưng lại không bao giờ biết được ý muốn của Đức Chúa Trời, không trưởng thành hay thay đổi nhiều cho lắm, không gặt hái được gì ngoài chút ít thành quả. Chẳng phải những người như thế này rất đáng thương sao?

Hãy đọc lại đoạn này. (“Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu; đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành. Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi. Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt, đói khát tìm kiếm, trong khi từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan. Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim. Hãy hợp tác tích cực với Đức Chúa Trời, và giải thoát chính mình khỏi những trở ngại bên trong”). Để Ta hướng các ngươi chú ý vào những điểm quan trọng và giải thích cho các ngươi những nguyên tắc đọc lời Đức Chúa Trời, cũng như cách tìm ra con đường thực hành trong những lời đó. Hãy đọc lại đoạn này, từng câu một. (“Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu”.) Câu này hàm chứa một nguyên tắc mà người ta phải hiểu. Nguyên tắc đó là: đừng vội, đừng hoảng, đừng hấp tấp muốn thấy kết quả. Đây là một dạng thái độ. Câu đầu tiên này hàm chứa thái độ đúng đắn mà người ta nên có đối với mọi sự. Thái độ đúng đắn này nằm trong phạm vi lý trí của nhân tính bình thường; nó nằm trong phạm vi lý trí và khả năng của những người có nhân tính bình thường. Bây giờ, hãy đọc câu thứ hai. (“Đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành”). Câu này có nghĩa là gì? (Thưa, đây là con đường thực hành mà Đức Chúa Trời ban cho con người). Đúng, đơn giản thế thôi. Đây là con đường thực hành. Ở đây, “nhiều hơn” có nghĩa là không phải cứ khi nào ngươi cảm thấy thích thì mới làm, càng không phải là họa hoằn lắm thì mới làm; có nghĩa là ngay khi những vấn đề này xuất hiện trong trí ngươi thì ngươi nên đưa chúng đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và tìm kiếm. Nếu ngươi ưu tư về những vấn đề này, nếu ngươi có lòng khao khát sự công chính, nếu ngươi thiết tha mong hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời và các yêu cầu của Đức Chúa Trời trong những vấn đề này, cũng như thực chất của những vấn đề mà ngươi muốn nhìn thấu, thì ngươi nên đến trước Đức Chúa Trời thường xuyên, nghĩa là rất nhiều lần. Tùy vào hoàn cảnh của ngươi, khi ngươi bận rộn, hãy tìm một khoảnh khắc rảnh rỗi để suy xét những vấn đề này, như thể ngươi đang suy nghĩ về chúng, hoặc cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm chúng. Chẳng phải phương thức thực hành này rất rõ ràng sao? (Thưa, phải). Ví dụ như vào lúc ngươi nghỉ giải lao sau khi dùng bữa xong, hãy suy ngẫm và cầu nguyện, nói rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã trải nghiệm hoàn cảnh thế này thế kia. Con không hiểu ý muốn của Ngài, và con không thể nhìn thấu tại sao chuyện này lại xảy ra với con. Chính xác thì ý định của người này là gì? Con nên giải quyết dạng vấn đề này như thế nào? Ngài muốn con hiểu gì từ chuyện này?” Trong vài lời đơn giản này, ngươi cầu nguyện và tìm kiếm từ Đức Chúa Trời về những chuyện mà ngươi muốn tìm kiếm, và về những vấn đề mà ngươi muốn hiểu được thực chất của chúng. Mục đích của việc cầu nguyện như vậy là gì? Ngươi không phải đơn thuần đưa vấn đề ra trước mặt Đức Chúa Trời, mà ngươi đang tìm kiếm lẽ thật từ Đức Chúa Trời, ngươi đang cố gắng nhờ Đức Chúa Trời mở một lối ra cho ngươi cũng như cho ngươi biết phải làm gì với chuyện này, và ngươi đang xin Đức Chúa Trời khai sáng, dẫn đường cho ngươi. Để ngươi có thể làm được như vậy thì những điều kiện cần thiết là gì? (Thưa, con không được nôn nóng tìm giải pháp). Không nôn nóng tìm giải pháp chỉ là một thái độ – không phải là ngươi không nôn nóng tìm giải pháp, mà là, ẩn bên dưới tiền đề quan trọng rằng ngươi không nôn nóng tìm giải pháp, ngươi có một tấm lòng khao khát sự công chính và ngươi ưu tư về chuyện này. Nói cách khác, chuyện này giống như một loại áp lực đối với ngươi, và áp lực đó khiến ngươi có gánh trọng trách, khiến ngươi có một vấn đề mà ngươi muốn hiểu và muốn giải quyết. Đây là con đường thực hành của ngươi. Khi rảnh rỗi, trong giờ tĩnh nguyện chính quy, hoặc khi trò chuyện với các anh chị em, ngươi có thể nêu ra những khó khăn và những vấn đề thực tế của mình, thông công và tìm kiếm với các anh chị em. Nếu ngươi vẫn không thể giải quyết vấn đề, thì hãy đưa chúng đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và tìm kiếm lẽ thật. Khi ngươi làm vậy, hãy nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con vẫn không biết nên trải nghiệm hoàn cảnh mà Ngài đã sắp xếp cho con như thế nào. Con vẫn không hiểu gì về hoàn cảnh này, và con không biết bắt đầu từ đâu hay thực hành như thế nào. Vóc giạc con nhỏ bé và con không hiểu được nhiều lẽ thật. Xin hãy khai sáng cho con và dẫn đường cho con. Con không biết Ngài muốn con thu nhặt được hay hiểu được gì từ hoàn cảnh này, hay Ngài muốn phơi bày điều gì về con thông qua hoàn cảnh này. Xin hãy khai sáng cho con và cho phép con hiểu được ý muốn của Ngài”. Đây là con đường thực hành được tìm thấy trong câu: “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn”. Hãy thực hành như vậy, có lúc suy nghĩ trong lòng, có lúc cầu nguyện thầm với Đức Chúa Trời, có lúc cầu nguyện thành tiếng, và có lúc thông công với các anh chị em. Nếu ngươi có những biểu hiện này thì chứng tỏ rằng ngươi đã sống trước Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thường trao đổi với Đức Chúa Trời như thế này trong lòng, thì ngươi có mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời. Sau vài năm trải nghiệm như vậy, ngươi sẽ tự nhiên bước vào thực tế lẽ thật. Việc thực hành này có bất kỳ khó khăn nào không? (Thưa, không). Thế thì tốt. Ví dụ như đôi lúc, khi đọc lời Đức Chúa Trời, ngươi càng đọc thì lòng ngươi sẽ càng cảm thấy sáng tỏ hơn – điều này có nghĩa là ngươi đã đọc những lời mà ngươi có trải nghiệm, và những quan niệm cũng như sự tưởng tượng trước đây của ngươi sẽ đồng loạt được tháo gỡ. Lúc này, ngươi nên cầu nguyện với Đức Chúa Trời và nói: “Lạy Đức Chúa Trời, nhờ đọc đoạn này mà lòng con được sáng tỏ. Những vấn đề con gặp phải trước đây đột nhiên trở nên rõ ràng đối với con. Con biết rằng đây là sự khai sáng của Ngài, và con tạ ơn Ngài đã cho phép con hiểu được đoạn lời này của Ngài”. Đây chẳng phải là cầu nguyện và đến trước Đức Chúa Trời lần nữa sao? (Thưa, phải). Việc này có khó thực hiện không? Ngươi có thể dành thời gian cho việc này không? (Thưa, có). Từ lúc ngươi bắt đầu tìm kiếm cho đến khi ngươi có lời cầu nguyện này, chẳng phải ngươi đã không ngừng thực hành nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời: “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn” sao? Khi ngươi không ngừng sống trong việc thực hành những lời này, luôn bám sát nguyên tắc thực hành mà chúng hàm chứa, và luôn sống trong dạng thực tế này, thì đây được gọi là tuân theo nguyên tắc thực hành. Việc này có khó không? (Thưa, không khó). Việc này chỉ yêu cầu ngươi dùng tấm lòng mình, mấp máy miệng, dành chút thời gian và chút suy nghĩ, thỉnh thoảng tìm chút thời gian để trò chuyện với Đức Chúa Trời và tâm sự, chia sẻ những lời thật lòng mình. Đây chính là đến trước Đức Chúa Trời thường xuyên hơn. Việc này đơn giản, nhẹ nhàng và dễ dàng thế thôi. Chẳng có gì khó khăn cả. Ngươi mang trong lòng một điều gì đó mà ngươi coi là rất trọng đại, và ngươi xem nó như một trọng trách, và không bao giờ lãng quên hay buông bỏ nó – trong lòng ngươi có một điều như vậy, và thỉnh thoảng ngươi đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện với Ngài, nói chuyện và trò chuyện với Ngài về điều này. Khi nói chuyện với Đức Chúa Trời, ngươi nên có dạng tấm lòng nào? (Thưa, một tấm lòng chân thành). Đúng vậy, ngươi nên có một tấm lòng chân thành. Nếu ngươi mang gánh trọng trách, thì lòng ngươi sẽ chân thật. Khi những người khác tham gia tán gẫu, thì ngươi cầu nguyện và thông công với Đức Chúa Trời trong lòng. Đôi lúc, khi ngươi làm việc mệt và đang nghỉ giải lao, ngươi sẽ nhớ lại chuyện đó và nói: “Không được rồi, mình vẫn chưa hiểu chuyện này. Mình vẫn phải trò chuyện với Đức Chúa Trời về chuyện này”. Tại sao mỗi khi có thời gian, ngươi lại nhớ tới chuyện này? Tại vì trong lòng ngươi, ngươi rất nghiêm túc với chuyện này, ngươi coi nó là trọng trách và một loại trách nhiệm của riêng mình, và ngươi muốn hiểu, muốn giải quyết nó. Khi ngươi đến trước Đức Chúa Trời và nói chuyện, trò chuyện thân mật với Ngài, lòng ngươi sẽ tự nhiên trở nên chân thành. Khi thông công với Đức Chúa Trời trong bối cảnh này và với tâm thái này, ngươi sẽ cảm thấy rằng mối quan hệ của mình với Đức Chúa Trời không còn lãnh đạm và xa cách như trước nữa, mà thay vào đó, ngươi sẽ cảm thấy rằng mình đang đến gần Ngài hơn. Đây là mức độ hiệu quả mà người ta có được từ những con đường thực hành Đức Chúa Trời ban cho con người. Ngươi nghĩ xem, gắn kết với Đức Chúa Trời như thế này có khó không? Ngươi để tâm vào một chuyện, thỉnh thoảng trò chuyện với Đức Chúa Trời về chuyện đó, thỉnh thoảng đến trước Đức Chúa Trời và chào hỏi Ngài, nói chuyện với Đức Chúa Trời về những điều thật lòng mình và về những khó khăn của mình, nói về những điều ngươi muốn hiểu, những điều ngươi suy nghĩ, những nghi hoặc, khó khăn và trách nhiệm của ngươi – nếu ngươi nói chuyện với Đức Chúa Trời về tất cả những điều này, chẳng phải ngươi đang sống trước mặt Đức Chúa Trời bằng cách thực hành theo cách này sao? Đây là thực hành phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thực hành như vậy trong một khoảng thời gian thì chẳng phải ngươi sẽ có thể thấy kết quả và gặt hái thành quả rất nhanh sao? (Thưa, phải). Nhưng không đơn giản thế, mà đó là cả một quá trình. Nếu ngươi thực hành theo cách này một thời gian, mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ trở nên ngày càng gần gũi hơn, tâm thái của ngươi sẽ cải thiện, tình trạng của ngươi sẽ trở nên ngày càng bình thường, ngươi sẽ ngày càng quan tâm hơn đến lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Có một mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời là như vậy. Nếu ngươi có thể hiểu một số lẽ thật và đưa chúng vào thực hành, thì ngươi đã bắt đầu bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, ngươi không thể đạt được điều này trong một thời gian ngắn. Có thể mất sáu tháng, một năm, hay thậm chí hai hoặc ba năm thì ngươi mới thấy được kết quả rõ ràng. Liệu người ta có thoát khỏi sự bại hoại và phản nghịch trong khoảng thời gian này không? Không. Ngay cả khi ngươi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời vô số lần và thực hành theo cách này, thì có phải như thế nghĩa là ngươi nhất định sẽ đạt được thành quả không? Đức Chúa Trời có phải cho ngươi thấy kết quả không? Ngài có phải cho ngươi câu trả lời không? Không nhất thiết. Có người nói: “Nếu không chắc liệu tôi có đạt được kết quả hay không và nếu không đảm bảo sẽ có kết quả thì tại sao Đức Chúa Trời vẫn hành động như vậy? Tại sao Ngài khiến người ta thực hành theo cách này?” Đừng lo, chắc chắn rằng thực hành theo cách này không phải là không có kết quả. Ngay cả khi ngươi thực hành theo cách này một hoặc hai năm và không nghĩ rằng mình đã đạt được bất kỳ kết quả nào trước mắt hay trong thời gian ngắn, thì có thể, năm hoặc mười năm sau, khi Đức Chúa Trời lại sắp xếp một hoàn cảnh tương tự cho ngươi, thì ngươi sẽ nhanh chóng nhận ra một khía cạnh của lẽ thật mà trước đây mình đã không thể nhận ra. Tuy nhiên, lẽ thật mà ngươi nhận ra và hiểu ra sau năm hoặc mười năm cần có một nền móng được xây dựng bởi trải nghiệm, nhận thức và sự lĩnh hội hiện tại của ngươi. Sự nhận thức về sau này phải dựa trên nền móng này. Ngươi có nghĩ rằng người ta dễ dàng hiểu được một khía cạnh của lẽ thật không? (Thưa, không dễ). Đây là ý nghĩa và giá trị của việc trả giá để thực hành lẽ thật. Đây là nguyên tắc thực hành hàm chứa trong câu thứ hai. “Đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành” – câu này được viết bằng ngôn từ đơn giản, gần gũi và rất dễ hiểu. Câu này có nghĩa là ngươi phải cầu nguyện nhiều hơn và có một tấm lòng chân thành, vì một tấm lòng chân thành sẽ mang lại thành quả. Bình thường và đơn giản thế thôi. Tuy nhiên, những lời này thực sự là thực tế lẽ thật mà mỗi người phải bước vào, và là con đường duy nhất để họ có thể đến trước Đức Chúa Trời và cuối cùng là đạt được sự cứu rỗi. Mặc dù câu này được nói bằng những lời đơn sơ và đơn giản, nhưng mọi người đều phải trải nghiệm và bước vào theo cách này. Cũng giống như khi xây một tòa nhà, dù tòa nhà ấy có 30 tầng, 50 tầng hay thậm chí khoảng một trăm tầng thì nó cũng phải có móng. Nếu móng nhà không vững chắc thì tòa nhà dù có cao đến đâu cũng sẽ không đứng vững được lâu, sẽ bị sập trong vòng vài năm. Điều này có nghĩa là trong khi sống trên đời này, người ta phải lấy lẽ thật làm nền móng. Đây là cách duy nhất để họ kiên vững và được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nếu người ta muốn hiểu ra những lẽ thật sâu xa hơn và cao siêu hơn thì họ phải có được những điều cơ bản nhất – tức là những điều tạo nên nền móng. Điều nguy hiểm nhất là có một nền móng dễ lung lay. Đừng coi thường những lẽ thật cơ bản nhất này, những nguyên tắc và con đường thực hành cơ bản nhất này. Chỉ cần chúng là lẽ thật, thì chúng là những điều mà người ta nên sở hữu và thực hành. Chúng có lớn lao hay bé mọn, cao siêu hay tầm thường, thì cũng không quan trọng. Ngươi phải bắt đầu từ những điều cơ bản. Đây là cách duy nhất để đặt một nền móng vững chắc.

Bây giờ, hãy đọc câu thứ ba. (“Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi”). “Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi” ám chỉ điều gì? Ám chỉ đức tin và khải tượng. Khi ngươi được khải tượng này hỗ trợ và dẫn dắt, ngươi sẽ có một con đường phía trước. Thực hành theo cách này có hiệu quả không? Có người nói: “Tôi đã thực hành đến phát chán rồi mà Đức Chúa Trời vẫn chưa khai sáng cho tôi hay phán với tôi bất cứ điều gì cả. Tôi không thể cảm nhận được sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Có thật là có Đức Chúa Trời không?” Ngươi không được nghĩ theo cách này. Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng cho dù Ngài có phán với ngươi hay không. Khi Đức Chúa Trời muốn phán với ngươi, và Ngài có phán với ngươi, thì Ngài là Đấng toàn năng. Khi Đức Chúa Trời không muốn phán với ngươi, và không phán với ngươi, thì Ngài vẫn là Đấng toàn năng. Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng cho dù Ngài có cho ngươi hiểu chuyện hay không. Thực chất và thân phận của Đức Chúa Trời là bất biến. Đây là khải tượng mà mọi người phải hiểu. Đây là câu thứ ba, rất đơn giản. Tuy câu này đơn giản nhưng con người phải thực sự trải nghiệm. Khi con người trải nghiệm thì điều này sẽ xác nhận với họ rằng những lời này quả thực là lẽ thật và họ sẽ không còn dám nghi ngờ chúng chút nào nữa.

Đọc tiếp câu thứ tư. (“Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt.”) “Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt” là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người. Mọi người cần hiểu “mãnh liệt” nghĩa là gì. Có phải “mãnh liệt” nghĩa là nhe nanh giương vuốt, lòng đầy tham vọng, kiêu ngạo và tự nên công chính, bạo ngược chuyên quyền, không chịu quy phục bất kỳ ai không? Nên hiểu câu “một lòng khao khát Ngài mãnh liệt” như thế nào? Làm sao để có một “lòng khao khát Ngài”? Như câu trước đã nói rõ, ngươi phải “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành” – ngươi phải mong muốn và khao khát mưu cầu hiểu lẽ thật, mưu cầu sự cứu rỗi, và ngươi cũng phải mong muốn tiếp nhận quyền tối thượng của Đức Chúa Trời cũng như những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời và quy phục quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Đây được gọi là lòng khao khát Ngài mãnh liệt. Mặc dù Đức Chúa Trời sử dụng ngôn từ của con người để mô tả điều này thật sinh động nhưng con người nên hiểu nghĩa theo cách thuần túy, không diễn giải theo lối cực đoan. Từ “mãnh liệt” ở đây không ám chỉ việc thô bạo làm bừa, cũng không liên quan đến bạo lực, càng không liên quan đến sự ngu muội, lỗ mãng. “Mãnh liệt” chủ yếu đề cập đến lòng khao khát của một người. Điều này giống như khi một người trân quý thứ gì đó đến mức họ đơn giản là phải có được nó, họ quyết tâm sở hữu thứ đó và khi nào sở hữu được mới thôi. “Lòng khao khát Ngài mãnh liệt” này là một điều hoàn toàn tích cực và chỉ có thể đạt được kết quả tích cực. Vậy, chính xác thì “lòng khao khát Ngài mãnh liệt” có nghĩa là gì? (Nghĩa là đến trước Đức Chúa Trời thường xuyên hơn và mong muốn, khao khát hiểu được lẽ thật cũng như hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời trong những việc mình gặp phải). Đúng vậy, đơn giản thế thôi. Điều này chỉ có nghĩa là từ bỏ những lợi ích và hưởng thụ xác thịt, đồng thời từ bỏ thời gian rảnh rỗi riêng tư của ngươi và dùng thời gian này cho những điều tích cực, chẳng hạn như tìm kiếm từ Đức Chúa Trời, cầu nguyện với Đức Chúa Trời, đến trước Đức Chúa Trời, và tìm cách biết được quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Điều này liên quan đến việc cầu nguyện gì đó một cách có lý tính và tìm kiếm, dành thời gian cũng như sinh lực của ngươi, đồng thời trả một cái giá nhất định để hiểu được một khía cạnh của lẽ thật. Đây được gọi là một lòng khao khát Ngài mãnh liệt. Đây có phải là một cách mô tả chính xác không? Điều này có phù hợp với lý trí của nhân tính bình thường không? Những lời này có dễ hiểu không? (Thưa, dễ hiểu). Vậy thì, những biểu hiện này có liên quan đến việc nhe nanh giương vuốt và dùng bạo lực chiếm đoạt thứ mình muốn không? Có biểu hiện qua sự thô lỗ, lỗ mãng và thiếu khôn ngoan không? (Thưa, không). Vậy thì “mãnh liệt” có nghĩa là gì? Hãy lặp lại điều ta vừa phán với các ngươi. (Nghĩa là có thể đến trước Đức Chúa Trời thường xuyên hơn, có lòng khao khát muốn hiểu được lẽ thật, có thể từ bỏ một số sự hưởng thụ của xác thịt, dành thêm thời gian và sinh lực cho việc tìm kiếm lẽ thật, cũng như có thể dốc sinh lực và trả giá cho điều này). Vậy thì đưa những điều này vào thực hành cụ thể như thế nào? Ta sẽ nêu một ví dụ. Đôi khi ngươi sẽ chợt nhận ra rằng đã lâu không thấy diễn viên yêu thích của mình và thắc mắc anh ta đang đóng phim gì. Ngươi sẽ muốn ngồi vào máy tính để tìm kiếm tin tức về anh ta, nhưng sau đó ngươi sẽ suy ngẫm và nghĩ: “Như thế là không được, anh ta đóng phim gì thì có liên quan gì đến mình? Nếu lúc nào cũng lo xem phim thì mình sẽ bỏ bê công việc đáng làm. Mình phải đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện”. Sau đó, ngươi sẽ bình tĩnh lại và nhớ tới vấn đề mà trước đây ngươi đang tìm kiếm câu trả lời trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Ngươi vẫn không có bất kỳ khái niệm nào về vấn đề đó và ngươi không hiểu gì cả, vì vậy ngươi chỉ lắng lòng trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Ngài. “Lạy Đức Chúa Trời, con sẵn lòng bày tỏ thật tâm trước Ngài. Hoàn cảnh mà con trải qua gần đây đã ảnh hưởng đến con rất nhiều. Dù vậy, con vẫn không thể vâng phục, và con vẫn không thể thấy rõ được rằng đây là quyền tối thượng của Ngài. Xin Ngài khai sáng con, hướng dẫn con, và phơi bày sự bại hoại, phản nghịch của con trong những hoàn cảnh mà Ngài sắp đặt cho con, để con có thể hiểu ý muốn của Ngài và vâng phục”. Sau khi cầu nguyện, ngươi sẽ suy ngẫm và nghĩ: “Không, vấn đề của mình vẫn chưa được giải quyết. Mình cần đọc thêm lời Đức Chúa Trời để tìm ra giải pháp”. Sau đó, ngươi sẽ ngay lập tức đọc tiếp lời Đức Chúa Trời thêm một lúc. Nhìn đồng hồ, ngươi sẽ nói: “Ồ, đã nửa tiếng rồi! Lời Đức Chúa Trời thật sự rất hay, nhưng đoạn mình đọc không liên quan gì đến vấn đề của mình, vậy là vấn đề của mình vẫn chưa được giải quyết. Mình không biết Đức Chúa Trời muốn mình hiểu gì khi sắp xếp hoàn cảnh này cho mình, mình cũng không biết ý muốn của Ngài. Mình phải nhanh chóng nỗ lực thực hiện bổn phận và không được trì hoãn những chuyện quan trọng. Có thể một ngày nào đó mình sẽ đọc được những lời Đức Chúa Trời có liên quan đến chuyện của mình và giải quyết được vấn đề”. Đây có phải là dành thời gian và sinh lực không? (Thưa, phải). Đơn giản thế thôi. Trong khi ngươi từ bỏ những sở thích của riêng mình cũng như từ bỏ thời gian giải trí và thư giãn, ngươi sẽ có được chút chân thành và thực hành chút ít về lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt. Ngươi sẽ cảm thấy vô cùng yên ổn và bình an trong lòng. Lần đầu tiên trong đời, ngươi sẽ đích thân trải nghiệm sự bình an và cung dưỡng tuyệt vời đến từ việc phản bội xác thịt và từ bỏ sự hưởng thụ xác thịt của mình. Ngươi cũng sẽ đích thân nếm trải được rằng, khi tĩnh lặng trước Đức Chúa Trời, đọc lời Ngài, mở lòng với Ngài, và nói những lời thật lòng với Ngài thì ngươi có được sự bình an và mãn nguyện biết bao – điều mà ngươi không thể có được khi quan tâm đến những trào lưu và các vấn đề xã hội – và ngươi cũng có thể thu hoạch được gì đó, hiểu ra lẽ thật và nhìn thấu được nhiều điều. Kết quả là, ngươi sẽ cảm thấy rằng lời Đức Chúa Trời thực sự tốt đẹp, rằng Đức Chúa Trời thực sự tốt lành, và rằng đạt được lẽ thật quả thực là có được châu báu. Ngươi không những có thể nhìn thấu nhiều điều mà không mơ hồ lẫn hộ, ngươi còn có thể sống trước Đức Chúa Trời và sống theo lời Đức Chúa Trời. Đây là những hiệu quả mà lòng khao khát Ngài mãnh liệt có thể đạt được. Thực hành theo cách này, cống hiến thời gian và sinh lực, từ bỏ sự hưởng thụ xác thịt – đây là một trong những biểu hiện của lòng khao khát Ngài mãnh liệt. Vậy, các ngươi nói xem, biểu hiện này có rỗng tuếch không? (Thưa, không rỗng tuếch). Có dễ đạt được không? (Thưa, dễ). Rất dễ đạt được. Đây là điều mà những người có nhân tính bình thường có thể đạt được.

Khi người ta có suy nghĩ, họ có lựa chọn. Nếu điều gì đó xảy ra với họ và họ lựa chọn sai, họ nên xoay chuyển bản thân và lựa chọn cho đúng; họ tuyệt đối không được bám lấy sai lầm của mình. Những người như thế này thật thông minh. Nhưng nếu họ biết mình đã lựa chọn sai và không xoay chuyển bản thân, thì họ là người không yêu lẽ thật, và người như vậy không thực sự muốn Đức Chúa Trời. Ví dụ, ngươi muốn bất cẩn và cẩu thả khi thực hiện bổn phận của mình. Ngươi cố trì trệ và cố tránh sự khảo xét của Đức Chúa Trời. Vào những lúc như vậy, hãy nhanh chóng đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện, và phản tỉnh xem đây có phải là cách hành động đúng hay không. Sau đó, hãy nghĩ về việc: “Tại sao mình tin Đức Chúa Trời? Sự cẩu thả như vậy có thể qua mặt mọi người, nhưng liệu nó có qua mặt được Đức Chúa Trời không? Hơn nữa, đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời không phải là để chểnh mảng – đó là để được cứu rỗi. Vì vậy, hành động của mình không phải là biểu hiện của nhân tính bình thường, cũng không được Đức Chúa Trời yêu quý. Không, mình có thể chểnh mảng và làm theo ý mình ở thế giới bên ngoài, nhưng giờ mình ở trong nhà Đức Chúa Trời, mình ở dưới quyền tể trị của Đức Chúa Trời, dưới mắt khảo xét của Đức Chúa Trời. Mình là người, mình phải hành động theo lương tâm, không thể làm theo ý mình được. Mình phải hành động phù hợp với lời Đức Chúa Trời, mình không được bất cẩn và chiếu lệ, mình không được chểnh mảng. Vậy mình phải hành động như thế nào để không chểnh mảng, không bất cẩn và chiếu lệ? Mình phải nỗ lực một chút. Vừa rồi mình cảm thấy làm vậy thật quá phiền phức, mình đã muốn tránh né khó khăn, nhưng giờ mình hiểu rằng: có thể làm như thế rất phiền phức, nhưng nó có hiệu quả, và do vậy đó là cách nên được thực hiện”. Khi ngươi làm việc mà vẫn cảm thấy sợ khó khăn, thì những lúc như vậy ngươi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con thật lười biếng và giả dối, con xin Ngài hãy sửa dạy con, quở trách con, để lương tâm con cảm nhận gì đó, và con có cảm giác xấu hổ. Con không muốn bất cẩn và chiếu lệ. Con xin Ngài hướng dẫn và khai sáng con, cho con thấy sự phản nghịch và xấu xa của con”. Khi ngươi cầu nguyện như vậy, phản tỉnh và cố gắng biết bản thân mình, điều này sẽ làm nảy sinh một cảm giác hối tiếc, và ngươi sẽ có thể ghét sự xấu xa của mình, và tình trạng sai trái của ngươi sẽ bắt đầu thay đổi, và ngươi sẽ có khả năng suy ngẫm điều này và tự nhủ: “Tại sao mình lại bất cẩn và chiếu lệ? Tại sao mình luôn cố chểnh mảng? Hành động như thế này là không có chút lương tâm hay lý trí nào – mình có còn là người tin Đức Chúa Trời không? Tại sao mình không xem xét các sự việc một cách nghiêm túc? Chẳng phải mình cần bỏ thêm chút thời gian và công sức nữa sao? Đó không phải là gánh nặng lớn. Đây là những gì mình phải làm; nếu mình thậm chí không thể làm được điều này, liệu mình có phù hợp để được gọi là một con người không?”. Kết quả là, ngươi sẽ hạ quyết tâm và phát nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời! Con đã làm Ngài buồn, con thực sự đã bị bại hoại quá sâu sắc, con không có lương tâm hay lý trí, con không có nhân tính, con muốn ăn năn. Con xin Ngài hãy tha thứ cho con, con chắc chắn sẽ thay đổi. Nếu con không ăn năn, con xin Ngài hãy trừng phạt con”. Sau đó, tâm lý của ngươi sẽ xoay chuyển, và ngươi sẽ bắt đầu thay đổi. Ngươi sẽ hành động và thực hiện bổn phận của mình một cách tận tâm, ít bất cẩn và chiếu lệ hơn, ngươi sẽ có thể chịu khổ và trả giá. Ngươi sẽ cảm thấy rằng thật tuyệt khi thực hiện bổn phận theo cách này, và ngươi sẽ có được sự bình yên cũng như niềm vui trong lòng. Khi người ta có thể tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, khi họ có thể cầu nguyện với Ngài và nương tựa vào Ngài, tình trạng của họ sẽ sớm được thay đổi. Khi tình trạng tiêu cực trong lòng ngươi đã được xoay chuyển và ngươi đã phản bội những ý định riêng của mình, phản bội những ham muốn ích kỷ của xác thịt, khi ngươi có thể buông bỏ sự an nhàn và hưởng thụ của xác thịt, hành động phù hợp với những yêu cầu của Đức Chúa Trời, cũng như không còn độc đoán hay tùy tiện nữa, thì ngươi sẽ có được sự bình an trong lòng và không bị lương tâm cắn rứt. Phản bội xác thịt và hành động phù hợp với những yêu cầu của Đức Chúa Trời theo cách này có dễ không? Miễn là người ta có lòng khao khát Ngài mãnh liệt thì họ có thể phản bội xác thịt và thực hành lẽ thật. Chỉ cần có thể thực hành theo cách này thì ngươi sẽ bước vào thực tế lẽ thật tự lúc nào không hay. Sẽ không khó khăn gì cả. Tất nhiên, khi thực hành lẽ thật, ngươi phải trải qua quá trình đấu tranh cũng như quá trình thay đổi suy nghĩ, và ngươi phải giải quyết những điều này bằng cách tìm kiếm lẽ thật. Nếu ngươi là một người không yêu lẽ thật thì ngươi sẽ khó mà giải quyết được tình trạng tiêu cực của mình, sẽ không thể hiểu và thực hành lẽ thật. Việc người ta gặp phải bao nhiêu khó khăn trong quá trình thay đổi suy nghĩ của họ phụ thuộc vào việc họ có thể tiếp nhận lẽ thật hay không. Nếu họ không thể tiếp nhận lẽ thật thì họ sẽ rất khó thay đổi suy nghĩ của mình. Trái lại, những người có thể tiếp nhận lẽ thật thì sẽ cảm thấy không hề khó. Họ sẽ tự nhiên có thể thực hành và quy phục lẽ thật. Những người thực sự yêu lẽ thật thì có thể nương cậy Đức Chúa Trời để vượt qua những khó khăn bất kể chúng có lớn đến thế nào. Theo cách này, họ sẽ có lời chứng trải nghiệm, và đây chính là lòng khao khát Ngài mãnh liệt. Lòng ngươi khao khát Ngài mãnh liệt, có phải như vậy nghĩa là ngươi không thể nào bại hoại và phản nghịch sao? Không phải. Điều này nghĩa là, vì ngươi có lòng khao khát Ngài mãnh liệt nên ít nhất, ngươi có thể hành động phù hợp với lương tâm và lý trí của mình, có thể tìm kiếm lẽ thật. Theo cách này, ngươi có thể đưa ra lựa chọn đúng đắn trong bất kỳ tình huống nào, cũng như thực hành và bước vào đúng hướng. Đây được gọi là có lòng khao khát Ngài mãnh liệt. Những biểu hiện này có rỗng tuếch không? (Thưa, chúng không rỗng tuếch). Chúng không rỗng tuếch hay mơ hồ, chúng rất thực tế, cụ thể và không hề trừu tượng. Có người nói: “Ôi, tôi đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm rồi, nhưng cứ đến lúc thực hành lẽ thật thì tôi luôn gặp khó khăn. Tôi lo lắng đến mức toát mồ hôi hột nhưng vẫn chẳng có lấy một con đường. Tôi luôn muốn thực hành lẽ thật mà không phải đối mặt với bất kỳ gian khổ thể xác nào hay chịu bất kỳ tổn thất lợi ích nào, và kết quả là, tôi không thể tìm được con đường nào. Chỉ đến bây giờ tôi mới hiểu được rằng có lòng khao khát Ngài mãnh liệt là điều quá đơn giản. Giá như trước đây tôi biết được như vậy và đưa những lời này vào thực hành sớm hơn!” Ngươi có thể trách ai vì đã không thực hành lời Đức Chúa Trời chứ? Ai ép ngươi không trân quý lời Đức Chúa Trời suốt bao năm qua và thay vào đó chỉ mù quáng loay hoay? Bây giờ, chúng ta có thể tóm tắt một câu: Khi tin Đức Chúa Trời, ngươi phải thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời để hiểu được lẽ thật; chỉ khi ngươi đạt đến mức xử lý vấn đề phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật thì ngươi mới có thể có được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Ngươi tuyệt đối không được hành động theo ý muốn của riêng mình hay mưu cầu danh lợi, và ngươi không được kết bè phái hoặc tìm người ủng hộ trong hội thánh. Những người làm như vậy sẽ chẳng có kết thúc tốt đẹp. Những người không tập trung làm tròn bổn phận, những người không mưu cầu lẽ thật, những người luôn ngưỡng vọng và cậy dựa con người, những người thích đi theo các lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ mà gây rối loạn vô nghĩa, tất cả đều tự hủy hoại mình bởi mãi loay hoay, đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Điều này sẽ khiến họ chết điếng. Nếu ngươi muốn tự ngăn mình đi theo con đường riêng, thì ngươi phải đến trước Đức Chúa Trời nhiều hơn, cầu nguyện với Ngài và tìm kiếm lẽ thật trong mọi sự. Đây là cách để ngươi có thể đạt được kết quả của việc hiểu lẽ thật, đi vào con đường thực hành lẽ thật, và bước vào thực tế của lẽ thật. Điểm mấu chốt ở đây là ngươi không bao giờ được đi theo hoặc hùa theo người khác, hôm nay thì theo người này vì cho rằng họ tuyệt vời, và rồi hôm sau thì lại theo người khác vì cho rằng họ đúng, dành rất nhiều thời gian loay hoay mà không đạt được lẽ thật. Bất kể gặp phải vấn đề gì, ngươi cũng nên căn cứ theo lời Đức Chúa Trời mà tìm kiếm lẽ thật và giải quyết vấn đề. Nếu ngươi mù quáng nghe theo người khác, nghe theo bất kỳ ai nói hay và dùng lời lẽ cao siêu, thì ngươi rất có thể sẽ bị lừa. Những người tin Đức Chúa Trời chỉ nên tin rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, chỉ nên nghe theo lời Đức Chúa Trời, và thực hành phù hợp với lời Đức Chúa Trời. Làm như vậy, ngươi sẽ không đi theo người khác và không cùng họ đi vào con đường sai trái.

Tiếp tục đọc câu kế. (“Đói khát tìm kiếm, trong khi từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan”). Câu này cũng nói về thực hành. “Đói khát tìm kiếm” là nói đến việc muốn thực hành lẽ thật nhưng không có con đường, và muốn đáp ứng Đức Chúa Trời nhưng không biết cách thực hành – khi ngươi đói khát như vậy, ngươi sẽ tìm kiếm và cầu nguyện. Thường xuyên cảm thấy mình thiếu kém quá nhiều, cụ thể là, khi có chuyện xảy đến thì thấy mình không có con đường, không biết phải làm gì để đáp ứng Đức Chúa Trời, luôn phản nghịch và làm theo ý mình muốn, lòng dạ bất an, muốn thực hành lẽ thật nhưng không biết thực hành như thế nào – đây là cảm giác đói khát. Nếu đang đói khát thì ngươi phải tìm kiếm. Nếu không tìm kiếm thì ngươi sẽ không có con đường. Nếu không tìm kiếm thì ngươi sẽ rơi vào bóng tối. Nếu không bao giờ tìm kiếm thì ngươi kể như xong. Ngươi sẽ là một kẻ chẳng tin. “Từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan” nghĩa là gì? Nghĩa là khi con người gặp chuyện thì họ luôn có ý muốn riêng, luôn nghĩ đến lợi ích xác thịt của riêng mình, và luôn tìm lối thoát cho xác thịt mình. Vào những lúc thế này, lương tâm của ngươi sẽ cắn rứt, thôi thúc ngươi thực hành lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời. Trong những tình huống như vậy, lòng ngươi sẽ có sự tranh đấu, và ngươi phải từ chối lời bào chữa của Sa-tan, từ chối những lý do khác nhau của xác thịt. “Từ chối” nghĩa là có thể thấu suốt và nhìn thấu những lời bào chữa cùng những lý do khác nhau của con người về việc không thực hành lẽ thật – là những ý định và mánh khóe của Sa-tan, và rồi từ bỏ chúng. Quá trình từ chối là như vậy. Đôi khi, một số ý nghĩ, ý định và mục đích bại hoại nhất định, cũng như một số tri thức, triết lý, lý luận và cách thức, phương tiện, âm mưu và mánh khóe khi xử thế, v.v., nảy sinh trong con người. Khi điều này xảy ra, con người nên ý thức ngay rằng đây là những thứ bại hoại họ bộc lộ và họ nên kìm giữ chúng, tìm kiếm lẽ thật, mổ xẻ chúng thật kỹ, thấy rõ chân tướng của chúng, từ chối và phản bội chúng triệt để, ngăn chặn chúng ngay từ khi mới manh nha xuất hiện. Bất kể xảy ra khi nào, miễn là những ý nghĩ, tư tưởng, ý định hay quan niệm bại hoại đã nảy sinh trong người ta thì họ nên lập tức kìm giữ chúng, thấu suốt và nhìn thấu chúng, phản bội chúng, và rồi xoay chuyển bản thân. Quá trình là như thế. Đây là cách thực hành từ bỏ Sa-tan và phản bội xác thịt. Chẳng phải rất đơn giản sao? Kỳ thực, quá trình này đã được nói đến trong hai ví dụ vừa đưa ra. Đây là một nguyên tắc thực hành cho cách tiếp cận đối với những tình trạng không đúng nảy sinh trong con người khi gặp chuyện.

Hãy đọc tiếp. (“Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim”). Câu này có nghĩa là tìm kiếm và chờ đợi bằng cả lòng và trí. Bốn cụm từ đơn giản này “Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim” có hai nghĩa. Hai nghĩa này là gì? (Nghĩa thứ nhất là đừng tuyệt vọng và đừng yếu đuối. Tức là, đừng nản lòng hay trở nên thoái chí khi ngươi gặp khó khăn hoặc khi nhất thời không thể hiểu được nhiều điều trong quá trình tìm kiếm. Nghĩa thứ hai là ngươi nên tìm kiếm và chờ đợi hết lòng. Tức là, ngươi phải kiên trì trong quá trình tìm kiếm, ngươi phải tiếp tục tìm kiếm và cầu nguyện khi ngươi không hiểu, và chờ đợi ý muốn của Đức Chúa Trời được mặc khải. Đây là nghĩa thứ hai). “Đừng tuyệt vọng, đừng yếu đuối” có nghĩa là con người phải duy trì đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời, tin rằng Đức Chúa Trời là toàn năng, rằng Đức Chúa Trời có thể khai sáng cho họ và giúp họ hiểu được lẽ thật. Vậy thì tại sao bây giờ ngươi lại không thể hiểu được lẽ thật? Tại sao bây giờ Đức Chúa Trời không khai sáng cho ngươi? Hẳn là phải có lý do gì đó. Một lý do cơ bản là gì? Đó chỉ là vì thời điểm của Đức Chúa Trời chưa đến. Đức Chúa Trời đang thử luyện đức tin của ngươi, và đồng thời, Ngài muốn dùng phương pháp này để làm cho đức tin của ngươi vững vàng hơn. Đây là điều cơ bản mà con người nên hiểu và biết. Giả sử ngươi đã hành động phù hợp với các nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu, ngươi đã cầu nguyện, ngươi đã tìm kiếm, ngươi có lòng khao khát Ngài mãnh liệt, ngươi đã bắt đầu trân quý lời Đức Chúa Trời, quan tâm đến lời Đức Chúa Trời, thường nhắc nhở bản thân thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, đến trước Đức Chúa Trời, không lìa xa Ngài, và tìm kiếm khi hành động. Tuy nhiên, ngươi thầm nghĩ: “Mình nghĩ mình chưa cảm thấy rõ là Đức Chúa Trời đã ban cho mình bất kỳ sự khai sáng, soi sáng hay hướng dẫn đặc biệt nào, và mình thậm chí không có cảm nhận rõ là Đức Chúa Trời đã ban cho mình bất kỳ ân tứ, tài năng hay khả năng đặc biệt nào cho bổn phận mà mình thực hiện. Thay vào đó, mình cảm thấy rằng những người không bằng mình lại hiểu nhiều hơn mình, thực hiện bổn phận tốt hơn, và rao truyền Phúc Âm hùng hồn hơn mình. Sao mình không giỏi được như những người khác? Sao mình vẫn dậm chân tại chỗ và ít tiến bộ?” Có hai lý do: một là bản thân con người có nhiều vấn đề, chẳng hạn như những phương pháp, ý định và mục đích cá nhân của họ trong việc tìm kiếm, cũng như những ý định, động cơ của họ trong việc cầu nguyện với Đức Chúa Trời và cầu xin Đức Chúa Trời, v.v. Về tất cả những điều này, ngươi cần phải phản tỉnh, nhận thức, khám phá những vấn đề của bản thân và nhanh chóng xoay chuyển mình. Không cần phải nói chi tiết về lý do này. Lý do thứ hai là, khi nói đến việc Đức Chúa Trời ban bao nhiêu cho những người khác nhau, và Ngài ban cho họ như thế nào, Đức Chúa Trời có phương pháp riêng của Ngài. Đức Chúa Trời đã phán những lời này: “Ta sẽ làm ơn cho ai ta muốn làm ơn, và thương xót ai ta muốn thương xót” (Xuất Hành 33:19). Có thể ngươi là đối tượng được Đức Chúa Trời ân đãi, có thể ngươi là đối tượng được Ngài thương xót, hoặc có lẽ ngươi không phải là một trong hai loại người mà Đức Chúa Trời đã nói đến. Có thể Đức Chúa Trời nghĩ ngươi mạnh mẽ hơn những người khác, hoặc ngươi cần được thử luyện và tôi luyện lâu hơn những người khác. Có nhiều lý do, nhưng dù lý do có là gì đi nữa thì bất cứ điều gì Đức Chúa Trời làm đều đúng. Con người không nên đưa ra bất kỳ đòi hỏi ngông cuồng nào đối với Đức Chúa Trời. Điều duy nhất ngươi phải làm là tìm kiếm bằng cả tấm lòng và chờ đợi bằng cả trái tim. Trước khi Đức Chúa Trời cho phép ngươi hiểu và cho ngươi câu trả lời, điều duy nhất ngươi nên làm là tìm kiếm, đồng thời chờ đợi thời điểm Đức Chúa Trời ban cho ngươi điều gì đó, thời điểm Đức Chúa Trời sẽ ân đãi ngươi, thời điểm Đức Chúa Trời sẽ khai sáng và hướng dẫn ngươi. Trái với quan niệm của con người, Đức Chúa Trời không phân phát đồng đều mọi thứ cho con người, vì vậy ngươi không thể dùng từ “đồng đều” để đưa ra đòi hỏi với Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời ban cho ngươi thứ gì đó, thì đó là thời điểm mà ngươi nên nhận được thứ ấy. Khi Đức Chúa Trời không ban cho ngươi thứ gì đó, thì rõ ràng là thời điểm ấy không phù hợp hoặc không đúng trong mắt Đức Chúa Trời, và vì vậy ngươi không nên nhận vào thời điểm ấy. Khi Đức Chúa Trời phán rằng ngươi không nên nhận thứ gì đó và Đức Chúa Trời không muốn ban nó cho ngươi, thì ngươi nên làm gì? Một người có lý trí sẽ nói: “Nếu Đức Chúa Trời không ban thứ đó cho tôi thì tôi sẽ quy phục và chờ đợi. Tôi hiện không xứng đáng được nhận, có thể vì vóc giạc của tôi không thể chịu nổi, nhưng lòng tôi thì có thể vâng phục Đức Chúa Trời mà không than oán hay ngờ vực gì, và chắc chắn là chẳng chút nghi hoặc”. Vào lúc này, con người không nên mất đi lý trí. Bất kể Đức Chúa Trời đối xử với ngươi như thế nào thì ngươi cũng phải dùng lý trí mà chọn vâng phục Đức Chúa Trời. Loài thọ tạo chỉ nên có một thái độ đối với Đức Chúa Trời, là lắng nghe và vâng phục, không có sự lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời có thể có những thái độ khác nhau đối với ngươi. Điều này là có cơ sở. Đức Chúa Trời có ý muốn riêng của Ngài. Đối với việc thực hiện những điều này cũng như đối với thái độ Ngài có đối với mỗi người, Ngài đưa ra lựa chọn của riêng Ngài và có phương pháp của riêng Ngài. Tất nhiên, đằng sau những lựa chọn và phương pháp này đều có dụng ý của Đức Chúa Trời. Trước khi con người hiểu được dụng ý của Đức Chúa Trời, điều duy nhất họ nên và có thể làm là tìm kiếm và chờ đợi, đồng thời tránh làm bất cứ điều gì phản nghịch Đức Chúa Trời. Điều mà người ta tuyệt đối không nên làm vào những lúc này – tức là khi họ không cảm nhận được sự khai sáng, hướng dẫn, ân đãi và thương xót của Đức Chúa Trời – là lìa xa Đức Chúa Trời và nói rằng Ngài không công chính, hoặc quát lên với Đức Chúa Trời, hoặc thậm chí chối bỏ Đức Chúa Trời khi họ không cảm nhận được sự khai sáng và hướng dẫn của Ngài. Đây là điều mà Đức Chúa Trời không muốn nhìn thấy nhất. Tất nhiên, nếu ngươi thực sự đến mức phủ nhận Đức Chúa Trời, phủ nhận sự công chính của Ngài, phủ nhận thân phận cũng như thực chất của Ngài, và quát lên với Đức Chúa Trời, thì điều này sẽ xác nhận rằng Đức Chúa Trời đã đúng khi có thái độ không thèm đếm xỉa đến ngươi ngay từ đầu. Nếu ngươi thậm chí không thể chịu được sự thử luyện và kiểm tra nhỏ này thì ngươi không có chút đức tin nào nơi Đức Chúa Trời, và đức tin của ngươi quá rỗng tuếch. Khi người ta không cảm nhận được sự khai sáng và hướng dẫn của Đức Chúa Trời thì điều quan trọng nhất họ phải làm là hết lòng tìm kiếm và chờ đợi. Tìm kiếm và chờ đợi là trách nhiệm của con người, và chúng cũng là lý trí, thái độ và nguyên tắc thực hành mà con người nên có đối với Đức Chúa Trời. Khi tìm kiếm và chờ đợi, đừng nuôi tâm lý cầu may. Đừng lúc nào cũng nghĩ: “Có lẽ nếu mình chờ đợi, Đức Chúa Trời sẽ ban cho mình những lời rõ ràng. Mình chỉ cần chân thành hơn một chút để xem Đức Chúa Trời có khai sáng mình hay không. Có thể Ngài sẽ khai sáng cho mình. Nếu Ngài không khai sáng mình thì mình sẽ nghĩ cách khác”. Đừng nuôi tâm lý cầu may như thế này. Đức Chúa Trời ghê tởm loại thái độ này của con người. Đây là loại thái độ gì? Đây là thái độ cầu may, và nó kèm theo sự cám dỗ. Đây là điều Đức Chúa Trời căm ghét nhất. Nếu ngươi định chờ đợi thì hãy chờ đợi một cách chân thành. Ngươi hãy mang tâm thái đói khát sự công chính trong khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, trong khi giải quyết các vấn đề thực tế của mình, trong khi cầu xin Đức Chúa Trời khai sáng và hướng dẫn. Bất kể Đức Chúa Trời đối xử với ngươi như thế nào hay liệu cuối cùng Ngài có cho phép ngươi hiểu được trọn vẹn hay không, thì ngươi cũng nên tuân theo nguyên tắc vâng phục không chút sai chạy. Bằng cách này, ngươi sẽ giữ vững địa vị và bổn phận mà một loài thọ tạo phải có. Bất kể Đức Chúa Trời cuối cùng có giấu mặt với ngươi, chỉ cho ngươi thấy lưng của Ngài, hay xuất hiện cho ngươi thấy, chỉ cần ngươi giữ vững bổn phận và vị trí loài thọ tạo vốn có của mình thì tức là ngươi đã làm chứng và ngươi sẽ là một người đắc thắng. “Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim”. Bốn tuyên bố ngắn gọn này rất quan trọng. Chúng bao hàm lý trí mà con người nên sở hữu, vị trí vốn có mà con người nên ở, và con đường thực hành mà con người nên đi theo. Có người nói: “Tất cả chúng ta đều hết lòng hết trí tìm kiếm và chờ đợi, vậy tại sao Đức Chúa Trời không khai sáng cho chúng ta? Tại sao Ngài không ban cho tôi chút soi dẫn nào?” Đức Chúa Trời có ý muốn của riêng Ngài. Đừng đòi hỏi Đức Chúa Trời. Đây là lý trí của nhân tính bình thường; đây là lý trí bậc nhất mà loài thọ tạo nên có. Theo trí óc, suy nghĩ và quan niệm của con người, con người có quá nhiều điều không hiểu, và Đức Chúa Trời phải nói cho con người biết về những điều này. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời phán: “Ta không có trách nhiệm hay nghĩa vụ phải nói cho ngươi biết những điều đó. Nếu Ta muốn ngươi biết điều gì đó thì ngươi sẽ biết một chút, và đây chính là Ta ban ơn cho ngươi. Khi Ta không muốn ngươi biết điều gì đó thì Ta sẽ không nói một lời nào về điều ấy, và đừng tưởng tượng rằng ngươi sẽ có thể hiểu được!” Lại có người nói: “Tại sao Ngài chống lại chúng con trong việc này?” Đức Chúa Trời không chống lại các ngươi. Đấng Tạo Hóa sẽ luôn là Đấng Tạo Hóa, và Ngài có phương thức cũng như phương pháp làm việc của riêng Ngài. Mặc dù phương thức và phương pháp của Ngài không phù hợp với thị hiếu, tư tưởng và quan niệm của con người, càng không phù hợp với văn hóa truyền thống của con người, bất kể chúng không phù hợp với những khía cạnh nào của con người, nói đơn giản, bất kể thực tế là chúng không phù hợp với những yêu cầu và tiêu chuẩn của con người – bất kể Đấng Tạo Hóa làm gì, và bất kể con người có thể hiểu được hay không, thì thân phận và thực chất của Đấng Tạo Hóa cũng sẽ không bao giờ thay đổi. Con người không bao giờ được sử dụng ngôn từ của con người, quan niệm của con người, hoặc bất kỳ phương thức nào của con người để đánh giá Đấng Tạo Hóa. Đây là lý trí mà con người nên có. Nếu chút lý trí này mà ngươi cũng không có, thì Ta bảo thật với ngươi – ngươi không có khả năng hành động như một loài thọ tạo. Một ngày nào đó, không sớm thì muộn, điều tồi tệ sẽ xảy ra với ngươi. Nếu ngươi không có dù chỉ một chút lý trí này, thì một ngày nào đó, không sớm thì muộn, tâm tính Sa-tan của ngươi cũng sẽ bộc phát. Khi đó, ngươi sẽ nghi ngờ Đức Chúa Trời, lăng mạ Đức Chúa Trời, phủ nhận Đức Chúa Trời, và phản bội Đức Chúa Trời. Khi đó, ngươi kể như xong, và ngươi phải bị đào thải. Do đó, lý trí mà loài thọ tạo phải có là điều rất quan trọng. “Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim”. Bốn tuyên bố này là lý trí và nguyên tắc mà loài thọ tạo phải có khi gặp những hoàn cảnh khác nhau mà con người thường đối mặt trong đời thực, và phải có để cải thiện mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời.

Phần đầu của đoạn này nói: “Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu” và câu áp chót nói: “Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim”. Có người nói: “Phải chăng câu ‘Đừng băn khoăn về giải pháp’ mang hàm ý là con người không thể tránh khỏi kết cục sau cùng? Nếu chúng tôi hết lòng tìm kiếm và chờ đợi, có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt và khao khát lời Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời có nhất thiết cho chúng tôi câu trả lời và cho chúng tôi hiểu được chân tướng sự việc không?” Câu trả lời của Ta với ngươi là: không chắc và không nhất thiết phải như vậy. Mỗi từ trong đoạn này đều là yêu cầu mà Đức Chúa Trời đặt ra cho con người, là nguyên tắc thực hành mà loài thọ tạo phải tuân thủ. Đức Chúa Trời ban cho con người một con đường thực hành, những nguyên tắc mà con người nên đưa vào thực hành và tuân thủ trong những tình huống mà họ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đâu có phán với con người rằng: “Bất kể các ngươi hiểu những lời này đến mức nào, chỉ cần các ngươi tuân thủ các nguyên tắc này, thì Ta phải nói cho các ngươi biết sự thật, Ta phải cho các ngươi câu trả lời, và đến cuối cùng Ta phải cho các ngươi một lời giải thích”. Đức Chúa Trời không có trách nhiệm này. Ngài không có cái gọi là “phải” như vậy. Con người không nên đưa ra những yêu cầu vô lý như vậy với Đức Chúa Trời. Mỗi một người trong số các ngươi phải hiểu điều này. Cụm từ “không nhất thiết phải như vậy” cho con người biết một sự thật: Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ tuân thủ luật chơi do con người đặt ra theo quan niệm của con người, triết lý của con người, kinh nghiệm và bài học của con người, Ngài thậm chí cũng sẽ không tuân thủ phép tắc của con người. Đúng hơn, nhân loại phải tuân thủ các nguyên tắc trong những yêu cầu của Đức Chúa Trời và bước vào thực tế của từng lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã đưa ra. Các ngươi đã hiểu điều này chưa? (Thưa, đã hiểu). Các nguyên tắc mà con người phải tuân thủ được giải thích rõ trong đoạn này. Bắt đầu với dòng đầu tiên (“Đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu”). Đây là một nguyên tắc dễ đưa vào thực hành và dễ hiểu. Ngươi không phải chịu gánh nặng hay áp lực nào trong việc đưa nguyên tắc này vào thực hành. Việc này đặc biệt dễ dàng. Và câu thứ hai? (“Đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành”). Ngươi là một người bình thường sống trên thế gian, chỉ cần như thế là ngươi có thể đạt được chuyện “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành”. Miễn sao ngươi không phải là người không có trái tim thì ngươi sẽ có thể làm được. Ngươi có hai mươi bốn giờ một ngày. Ngoài công việc bình thường, thời gian nghỉ ngơi, ăn uống và tĩnh nguyện tâm linh cá nhân, thì “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành” có phải là điều dễ làm không? (Thưa, điều này dễ làm). Ngươi có thể làm trong khi đi dạo, trò chuyện hoặc nghỉ ngơi, điều này sẽ không cản trở công việc bình thường của ngươi, không cản trở ngươi thực hiện bổn phận hay làm công việc trước mắt. Đây thực sự là một điều đơn giản! Bất kể tố chất của người ta như thế nào, chỉ cần họ dâng tấm lòng chân thành và nỗ lực theo đuổi lẽ thật thì họ sẽ dần dần hiểu được lẽ thật và bước vào thực tế này thật dễ dàng.

Câu tiếp theo là gì? (“Hãy tin Ngài là Đấng toàn năng của ngươi”). Bây giờ, Ta sẽ lật lại và hỏi tất cả các ngươi, các ngươi có tin rằng “Ngài là Đấng toàn năng của ngươi” không? Ngươi bắt đầu tin điều này từ khi nào? Những chuyện gì khiến ngươi trở nên tin điều này? Ngươi đã làm chứng về điều này chưa? Ngươi đã có trải nghiệm này chưa? Sẽ thế nào nếu ai đó hỏi ngươi: “Anh có tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng của anh không?” Có lẽ, về lý thuyết, ngươi sẽ nói không chút do dự: “Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng của tôi! Làm sao Đức Chúa Trời có thể không phải là Đấng toàn năng của tôi được chứ?” Sẽ thế nào nếu họ lại hỏi ngươi: “Đức Chúa Trời có phải là Đấng toàn năng của anh không? Anh đã nương cậy Đức Chúa Trời và chứng kiến những việc làm của Đức Chúa Trời trong những chuyện gì? Sự toàn năng của Đức Chúa Trời được tỏ lộ nơi cá nhân anh đến mức nào? Anh đã phát hiện ra Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng của anh khi nào? Anh cảm thấy Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng của anh trong những chuyện gì? Nếu anh thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng và không gì là không thể đối với Ngài, thì tại sao có lúc anh lại yếu đuối đến thế? Tại sao anh vẫn tiêu cực? Tại sao anh không thể phản bội xác thịt và thực hành lẽ thật khi có chuyện xảy ra? Tại sao anh luôn sống theo triết lý Sa-tan trong cách đối nhân xử thế? Tại sao anh vẫn thường nói dối mà không cảm nhận được sự quở trách của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời có thực sự là Đấng toàn năng của anh không? Chính xác thì anh nghĩ sự toàn năng của Đức Chúa Trời nói đến điều gì? Điều đó có phù hợp với thực chất của Đức Chúa Trời không?” Nếu được hỏi những câu này, liệu ngươi có còn dám trả lời chắc chắn như vậy không? Khi Ta hỏi như vậy, người ta cứng miệng. Ngươi không có trải nghiệm ấy, ngươi chưa thiết lập mối quan hệ với Đức Chúa Trời ở cấp độ này. Trong suốt những năm ngươi tin Đức Chúa Trời, ngươi chưa bao giờ trải nghiệm quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, chưa bao giờ nhìn thấy bàn tay của Đức Chúa Trời, chưa bao giờ nhìn thấy quyền tối thượng trên con người, sự kiện và sự vật do bàn tay toàn năng của Đức Chúa Trời nắm giữ. Ngươi chưa từng thấy, chưa từng nghe, càng chưa từng trải nghiệm hay thể nghiệm điều này. Vì vậy, đối với câu hỏi “Đức Chúa Trời có phải là Đấng toàn năng của tôi không?”, ngươi không biết và không dám nói. Điều này chứng tỏ ngươi thiếu đức tin như thế. Đối với ngươi, câu này phải trở thành khải tượng của ngươi. Đây phải là bằng chứng mạnh mẽ nhất cho thấy ngươi tin Đức Chúa Trời và đi theo Ngài. Đây cũng là khía cạnh của khải tượng hỗ trợ ngươi khi ngươi tiến tới. Ấy thế mà ngươi không dám trả lời chắc chắn. Tại sao? Tại vì đức tin của ngươi nơi Đức Chúa Trời chỉ là một niềm tin rằng Đức Chúa Trời có tồn tại. Đến nay, ngươi vẫn chưa thực sự đi theo Đức Chúa Trời, chưa thực sự thiết lập mối quan hệ với Đức Chúa Trời, chưa bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, chưa bước vào trải nghiệm quy phục quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, và ngươi chưa trực tiếp nhận thức rõ sự thật về quyền tối thượng của Đức Chúa Trời đối với muôn vật. Ngươi chưa nhìn thấy hay trải nghiệm những điều này, càng không có hiểu biết về chúng. Nếu ai đó đơn thuần hỏi ngươi: “Đức Chúa Trời có phải là Đấng toàn năng của ngươi không?” thì ngươi chắc chắn sẽ trả lời “có”. Nếu sau đó ngươi được hỏi đã trải nghiệm điều này ra sao và làm thế nào để có được sự hiểu biết này, ngươi chắc chắn sẽ cúi đầu cứng miệng, không dám trả lời. Nguyên nhân của việc này là gì? (Thưa, vì chúng con không có trải nghiệm về mặt này). Ngươi đang nói từ góc độ lý thuyết. Trên thực tế, ngươi tuyên bố dõng dạc rằng mình là người đi theo Đức Chúa Trời và là một loài thọ tạo. Tuy nhiên, kể từ ngày bắt đầu đi theo Đức Chúa Trời, ngươi chưa bao giờ thực hiện chức trách của một loài thọ tạo. Tiếp nhận lời Đức Chúa Trời làm nền tảng cho sự tồn tại của ngươi, lấy lời Đức Chúa Trời làm nguyên tắc và con đường thực hành để thực hiện bổn phận, và bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời: đây là chức trách của ngươi. Nếu ngươi chưa bước vào những thực tế lẽ thật này thì điều này nói lên những gì? Đó là, mặc dù ngươi đi theo Đức Chúa Trời, mặc dù ngươi đã bỏ gia đình, công việc, sự nghiệp và có thể đi theo Đức Chúa Trời cho đến ngày hôm nay, nhưng lòng ngươi vẫn chưa tiếp nhận lẽ thật và sự sống mà Đức Chúa Trời ban cho nhân loại, thay vào đó, ngươi lại theo đuổi những thứ mà bản thân ngươi yêu thích và chưa bao giờ buông bỏ chúng. Đây có được tính là đi theo Đức Chúa Trời và quy phục công tác của Đức Chúa Trời không? Nếu trong lòng, ngươi không tiếp nhận những mục tiêu, phương hướng của cuộc đời, quy tắc sống và quy tắc cuộc đời mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho con người mà chỉ nói như vẹt những lời ngươi nghe và đọc rành rọt một số giáo lý, thì đây có được coi là tiếp nhận lẽ thật không? Mặc dù ngươi đi theo Đức Chúa Trời và nhìn bên ngoài, ngươi có thể thực hiện bổn phận, nhưng lòng ngươi vẫn chưa tiếp nhận lẽ thật. Mặc dù ngươi đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm nhưng các nguyên tắc mà ngươi sống theo, những phương pháp của ngươi, và con đường mà cuộc đời ngươi đi theo vẫn là của Sa-tan. Con người của ngươi vẫn như trước, ngươi vẫn sống theo tâm tính Sa-tan và đường lối của con người bại hoại, ngươi chưa tiếp nhận những yêu cầu và nguyên tắc đến từ Đức Chúa Trời. Từ góc độ mang tính thực chất này, điều ngươi đang làm không phải là thực sự đi theo Đức Chúa Trời. Ngươi chỉ đang thừa nhận rằng mình là một loài thọ tạo và rằng Đấng Tạo Hóa là Đức Chúa Trời của ngươi. Trên nền tảng lý thuyết này, ngươi làm chút việc cho Đức Chúa Trời và dâng hiến cho Ngài chút ít. Vì những điều kể trên, ngươi miễn cường thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của ngươi và ngươi là người đi theo Ngài, nhưng lòng ngươi thì chưa bao giờ thực sự tiếp nhận Đức Chúa Trời là sự sống của ngươi, là Chúa của ngươi, và là Đức Chúa Trời của ngươi. Điều này đưa chúng ta trở lại câu Ta vừa hỏi: “Đức Chúa Trời có phải là Đấng toàn năng của ngươi không?” Vì những lý do trên, ngươi không dám trả lời chắc chắn. Đối với vạn vật và đối với toàn thể vũ trụ, Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, nhưng đối với ngươi, ngươi có thể thừa nhận về lý thuyết rằng Đức Chúa Trời toàn năng, nhưng trên thực tế, ngươi chưa trải nghiệm hay nhìn thấy điều này. Về sự toàn năng của Đức Chúa Trời, ngươi có một dấu chấm hỏi trong lòng. Khi nào thì con người mới có thể thực sự xác nhận những lời “Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng của ngươi” và dùng khải tượng này làm nền tảng cho đức tin của họ nơi Ngài? Chỉ khi con người chấp nhận thân phận của Đức Chúa Trời, thực chất của Đức Chúa Trời và địa vị của Đức Chúa Trời trong lòng họ, bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời và dùng lời Đức Chúa Trời làm nền tảng cho sự tồn tại của họ, thì họ mới có thể thực sự thừa nhận rằng “Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng của ngươi”. Quả thật, đây là những lời khó đạt được nhất, nhưng Đức Chúa Trời đã nêu những lời này ra, cho thấy tầm quan trọng của chúng đối với con người. Ai muốn trải nghiệm và lĩnh hội những lời này thì phải dành cả đời để thực hiện. Để đưa ra câu trả lời chân thực và chắc chắn tận đáy lòng cho câu hỏi mà những lời này đặt ra, họ cần dành cả đời nỗ lực thiết lập mối quan hệ bình thường giữa bản thân và Đức Chúa Trời, tức là mối quan hệ của một loài thọ tạo với Đấng Tạo Hóa. Con người có thể đạt được tất cả những điều này trên cơ sở đưa nguyên tắc “đưa những điều đó đến trước Ngài nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành” vào thực hành. Thực ra, đưa điều này vào thực hành thì khá đơn giản, nhưng để thực sự đạt được mục tiêu mà Đức Chúa Trời yêu cầu thì lại không dễ. Con người phải dành thời gian, công sức và phải trả giá.

Câu tiếp theo là gì? (“Ngươi phải có một lòng khao khát Ngài mãnh liệt, đói khát tìm kiếm”). Đây đều là những yêu cầu Đức Chúa Trời đặt ra cho con người. Nếu con người muốn hiểu lẽ thật và được cứu rỗi thì lòng họ phải khao khát điều này, họ phải có ý chí mưu cầu, và họ phải có một niềm khao khát thực sự. Sau đó, họ phải thực hành và bước vào phù hợp với con đường thực hành Đức Chúa Trời vạch ra. Dần dần, Đức Chúa Trời sẽ đưa những người này vào thực tế lẽ thật và vào tình trạng đúng đắn, bình thường. Những người này sẽ ngày càng hiểu nhiều lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời theo cách ngày càng thực tế hơn. Cuối cùng, nhiều tình trạng bất thường của những người này, sự bại hoại bộc lộ nơi họ, và sự phản nghịch của họ sẽ dần được giải quyết bằng nhiều phương pháp khác nhau của công tác của Đức Chúa Trời trong nhiều hoàn cảnh đa dạng mà Ngài sắp đặt. Vậy, các ngươi nên hiểu gì? Hiểu là: những điều con người nên làm, những điều họ nên đưa vào thực hành, phải được thực hiện phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời. Khi con người thực hành và hành động phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời, họ sẽ bước đi trên con đường đúng mà Đức Chúa Trời đã chỉ ra cho họ. Khi con người bước đi con đường đúng này, thì khi đến thời điểm, Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ một phần thích đáng theo cách của Ngài và theo những yêu cầu, nguyên tắc của Ngài. Con người nên hiểu gì trong chuyện này? Sự phối hợp của con người, cái giá họ phải trả và sự hiến dâng của họ là không thể thiếu. Con người phải hành động và thực hành phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời. Họ không được hành động theo mong muốn của con người hoặc dựa trên sự tưởng tượng và quan niệm của con người. Kết quả cuối cùng đạt được là gì, người ta có thể thay đổi bao nhiêu, người ta có thể thu hoạch được bao nhiêu: những điều này có phải do mong muốn của cá nhân đó quyết định không? Không, đó là việc của Đức Chúa Trời và không liên quan gì đến ngươi. Cuối cùng, Đức Chúa Trời ban cho ngươi cái gì và bao nhiêu, Ngài ban cho ngươi khi nào, độ tuổi mà ngươi nhận được những gì được ban cho ngươi: đó là việc của Đức Chúa Trời, và không liên quan gì đến ngươi. Ý của Ta là gì khi nói như vậy? Đó là ngươi chỉ cần tập trung thực hành lẽ thật, bước vào phù hợp với con đường mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi, hành động đúng đắn với tư cách là một loài thọ tạo, và dâng sự phối hợp mà ngươi nên dâng. Về việc ngươi sẽ nhận được gì và bao nhiêu, ngươi nhận được khi nào, và Đức Chúa Trời sẽ giải quyết những vấn đề này như thế nào, đó là việc của Đức Chúa Trời và sẽ xảy ra vào lúc Đức Chúa Trời muốn. Có người nói: “Nếu tôi đưa điều này vào thực hành, liệu cuối cùng tôi có được cứu rỗi không?” Nói Ta nghe, các ngươi có nghĩ họ có thể được cứu rỗi không? Những lời và lẽ thật này mà Đức Chúa Trời đã ban và chu cấp cho con người chính là con đường dẫn đến sự cứu rỗi của con người. Nếu ngươi thực hành phù hợp với những lời và lẽ thật này của Đức Chúa Trời và bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, thì ngươi có còn cần lo lắng rằng mình có thể không được cứu rỗi không? Ngươi có còn lo lắng và sầu khổ mỗi ngày vì sợ Đức Chúa Trời sẽ bỏ rơi ngươi không? Chẳng phải điều này là do có quá ít đức tin và không hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời sao? Nếu ngươi đã thực sự bước vào thực tế lẽ thật, nếu lòng ngươi bình an và vui vẻ, nếu ngươi có thể đưa ra lời chứng trải nghiệm thật sự và có mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời trong lòng mình, thì ngươi có còn lo lắng rằng mình sẽ không được cứu rỗi không? Đừng lo lắng, đó không phải là việc của ngươi. Ngươi chỉ nên thực hành và bước vào lời Đức Chúa Trời. Trong lời Đức Chúa Trời, không câu nào là không quan trọng cả. Toàn bộ lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, và lẽ thật là sự sống mà con người nên có. Toàn bộ lời Đức Chúa Trời là những gì con người cần có và phải có để đạt được sự cứu rỗi. Nếu ngươi làm theo những lời này của Đức Chúa Trời trong thực hành nhưng vẫn lo rằng mình sẽ không được cứu rỗi, thì có phải ngươi ngu muội và vô tri không? Có phải thần kinh của ngươi quá nhạy cảm không? Ngươi sẽ được vui hưởng nhiều hơn nếu, ngươi thể hiện mình quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời thay vì nuôi những suy nghĩ vu vơ như vậy. Nếu ngươi đang bước đi con đường đúng, thì đích đến cuối cùng mà ngươi đến chắc chắn sẽ là đích đến đúng – đích đến mà Đức Chúa Trời đã chỉ định cho ngươi. Ngươi sẽ không đi sai. Do đó, nếu ngươi thực hành và bước vào những yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì ngươi không cần phải lo mình có thể được cứu rỗi hay không. Ngươi chỉ việc thực hành và mưu cầu con đường dẫn đến sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã chỉ ra, làm như thế là đúng rồi. Một số người nói: “Chúng tôi sẽ cảm thấy thế nào khi đạt được sự cứu rỗi? Liệu chúng tôi có cảm thấy như đang lơ lửng trên không không? Liệu chúng tôi có cảm thấy khác với cảm giác hiện tại không?” Câu hỏi này hơi sớm. Đây không phải là điều ngươi cần biết ngay bây giờ. Ngươi sẽ ngộ ra khi thực sự được cứu rỗi. Một số người nói: “Khi tôi được cứu rỗi, liệu Đức Chúa Trời có hiện ra với tôi như Ngài đã hiện ra với Gióp không?” Yêu cầu này có hợp lý không? Đừng đòi hỏi như vậy. Ngươi vẫn không biết liệu mình có thể được cứu rỗi hay không, vậy thì đưa ra yêu cầu này có ích gì? Chẳng có ích gì cả. Ví dụ như giả sử ngươi hiện đang học tiểu học. Ngươi nên tập trung học tốt tất cả các môn học và đáp ứng yêu cầu của giáo viên. Đừng lúc nào cũng ngẫm nghĩ về việc “Mình sẽ học trường đại học nào trong tương lai? Sau này mình sẽ làm loại công việc gì?” Chẳng ích gì khi suy nghĩ về những chuyện đó. Những chuyện đó quá xa vời và không thực tế. Miễn sao ngươi thực hành và bước vào những phương pháp, con đường đúng đắn, thì chắc chắn ngươi sẽ có thể đạt được mục tiêu cuối cùng. Ngoài ra, với sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời thì các ngươi còn sợ gì nữa? Ngươi có tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng của ngươi không? (Thưa, con tin). Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, vậy có khó để Đức Chúa Trời cứu rỗi một kẻ bé mọn như ngươi không? Đối với Đức Chúa Trời, ban cho ngươi cả thế gian còn không khó, thì việc cứu rỗi một con người bé mọn bại hoại sao có thể khó được? Vậy ngươi có còn cần phải lo lắng nữa không? Đừng lo lắng liệu Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi ngươi hay không, đừng lo lắng liệu lời Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi ngươi hay không. Đúng hơn, ngươi nên lo lắng liệu mình có thể hiểu được lời Đức Chúa Trời hay không và liệu mình có thể tìm ra con đường thực hành trong lời Đức Chúa Trời hay không. Ngươi nên lo lắng xem liệu hiện tại ngươi đã bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời hay chưa và liệu trong hành động của mình, ngươi có đang bước đi con đường mà Đức Chúa Trời đã chỉ ra hay không. Làm như thế tốt hơn nhiều. Suy nghĩ về những điều này là thực tế và thực tiễn. Lo lắng về bất cứ điều gì khác thì chỉ là vô ích.

Câu tiếp theo là gì? (“Từ chối ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan”). Vì chúng ta vừa mới bàn luận về câu này nên vấn đề này sẽ dễ giải quyết thôi. Con người chỉ cần hiểu rằng, trong hầu hết các trường hợp, “ý định, lời bào chữa, mánh khóe của Sa-tan” xuất phát từ nhiều lý do, lời bào chữa, ý định và mánh khóe khác nhau nảy sinh từ tâm tính bại hoại của con người cũng như những phương pháp được sử dụng bởi nhiều kẻ tà ác và kẻ chẳng tin khác nhau mà ngươi tiếp xúc. Về việc ngươi làm thế nào để có thể phân biệt và loại bỏ những thứ đó, ngươi nên đưa ra những lựa chọn nào, thì đó là sự mưu cầu cá nhân của ngươi. Hãy đọc câu tiếp theo. (“Đừng tuyệt vọng, yếu đuối. Hãy tìm kiếm bằng cả tấm lòng, chờ đợi bằng cả trái tim”). Chúng ta cũng vừa bàn luận chi tiết về câu này. Đối với con người, mỗi câu đều là lời cảnh báo và nhắc nhở, đồng thời là một dạng hỗ trợ, giúp đỡ và chu cấp. Tất nhiên, những lời này hàm chứa ý muốn của Đức Chúa Trời đối với nhân loại và mang niềm hy vọng tràn trề của Ngài đối với nhân loại. Khi con người gặp lúc yếu đuối và khó khăn, Đức Chúa Trời không muốn thấy họ nản lòng, thất vọng, mất đức tin, mất khát vọng mưu cầu lẽ thật và sự cứu rỗi, mất cơ hội đạt được lẽ thật và được Đức Chúa Trời hoàn thiện. Đức Chúa Trời không muốn con người hèn nhát. Thay vào đó, Đức Chúa Trời hy vọng rằng cho dù con người gặp bao nhiêu khó khăn, cho dù họ yếu đuối đến đâu, và cho dù sự bại hoại của họ có bị phơi bày bao nhiêu, thì họ sẽ không bao giờ bỏ cuộc, sẽ kiên trì vượt qua tất cả, tiếp tục mưu cầu lẽ thật, đi theo những con đường thực hành mà Đức Chúa Trời đã chỉ ra cho họ trong việc họ mưu cầu, và vẫn có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt. Đức tin của con người nơi Đức Chúa Trời phải ngày càng lớn mạnh theo trải nghiệm, theo hiểu biết của họ về lời Đức Chúa Trời, và họ không nên chùn bước khi gặp lúc yếu đuối, không trở nên tiêu cực khi gặp khó khăn, không khóc nức nở khi bộc lộ chút bại hoại, không lùi lại thay vì tiến về phía trước. Đức Chúa Trời không muốn nhìn thấy những sự biểu lộ như thế này. Đức Chúa Trời hy vọng rằng con người sẽ hết lòng hướng về Ngài, không bao giờ thay đổi vì những lý do như thời gian, hoàn cảnh, vị trí địa lý hay bất kỳ tình huống nào có thể xảy ra. Nếu mong muốn tìm kiếm Đức Chúa Trời của ngươi không thay đổi và quyết tâm tìm kiếm Đức Chúa Trời của ngươi không chùng lại, Đức Chúa Trời sẽ nhìn thấy và biết được tấm lòng chân thành của ngươi. Cuối cùng, những gì Đức Chúa Trời ban cho ngươi chắc chắn sẽ vượt quá tất cả những gì ngươi mong cầu. Suốt mấy chục năm Gióp trải nghiệm quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, ông chưa bao giờ dám tưởng tượng rằng Đức Chúa Trời sẽ phán với ông hoặc hiện ra trực tiếp với ông. Ông chưa bao giờ dám tưởng tượng điều đó, nhưng Đức Chúa Trời đã hiện ra với ông sau sự thử luyện cuối cùng, nói chuyện riêng với ông từ một cơn gió lốc. Chẳng phải điều này vượt quá tất cả những gì con người có thể mong cầu sao? (Thưa, phải). Điều này vượt quá bất cứ điều gì con người có thể mong cầu, và thậm chí không ai dám có ý tưởng này. Cho dù Đức Chúa Trời có làm gì đi nữa thì con người cũng phải đứng đúng vị trí của mình, làm những việc mình nên làm, bước đi con đường mình nên bước đi, thực hiện những bổn phận được giao mà không vượt quá những gì được yêu cầu, và tránh làm những việc Đức Chúa Trời ghét. Bất cứ khi nào ngươi cảm thấy mình đang đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều, cảm thấy những yêu cầu của ngươi là do những ham muốn ngông cuồng và sự thiếu lý trí mà ra, thì ngươi phải ngay lập tức đến trước Đức Chúa Trời, phủ phục trước Ngài mà thú tội. Ngươi phải thực sự ăn năn và xoay chuyển bản thân từ tận đáy lòng. Đây là điều Đức Chúa Trời yêu cầu ở nhân loại, là điều Ngài hy vọng ở tất cả những ai đi theo Ngài và yêu lẽ thật.

Chúng ta kết thúc thông công về đoạn này ở đây. Sau khi thông công nhiều như vậy, Ta đã chỉ dẫn những gì nên được chỉ dẫn và làm cho ngươi hiểu những gì con người nên hiểu. Dạng thông công này là nhằm chỉ cho các ngươi biết cách đọc lời Đức Chúa Trời, dạy các ngươi cách đọc lời Đức Chúa Trời, và khiến tất cả mọi người biết rằng trong lời phán của Đức Chúa Trời, không có đoạn nào là nói suông cả. Mọi lời Đức Chúa Trời đều chứa đầy ý muốn của Đức Chúa Trời và mang hy vọng của Đức Chúa Trời. Nhìn theo cách này thì mọi lời của Đức Chúa Trời, dù thâm sâu hay dễ hiểu, đều là những điều mà con người nên sở hữu và tuân giữ. Chỉ một vài lời đơn giản thôi cũng đã chứa đựng những nguyên tắc thực hành mà con người nên tuân thủ triệt để nhất, ấy thế mà chẳng ai làm được như vậy. Chẳng ai xem vài lời này của Đức Chúa Trời là quan trọng và chẳng ai quan tâm gì đến chúng. Nói Ta nghe, con người tê dại đến mức nào? Thực ra, nói tê dại là nói cho dễ nghe rồi. Trên thực tế, chính do sự kiêu ngạo vô hạn của con người mà hết thảy họ đều khinh thường những lời này, không muốn nhìn thấy hay muốn đọc chúng. Họ muốn đọc gì? Họ muốn đọc những lời cao siêu, sâu xa mang tính triết lý và có hệ thống. Đừng nói đến những lời cao siêu và sâu xa đó, con người chỉ cần có thể hiểu được vài lời đơn giản này là đủ. Những lời này có vẻ đơn giản và ai đọc cũng có thể hiểu được, nhưng ai thực sự đưa chúng vào thực hành? Ai có thể thực sự đưa những chuyện xảy ra với mình đến trước mặt Đức Chúa Trời và cầu nguyện? Ai chờ đến thời điểm của Đức Chúa Trời mà không băn khoăn tìm giải pháp? Bao nhiêu người có thể thực hành như vậy? Đến tận lúc này, Ta cũng chưa tìm thấy bất kỳ ai tuân thủ và thực hành những lời này của Đức Chúa Trời, Ta cũng chưa tìm thấy bất kỳ ai cảm thấy những lời này thu hút, bất kỳ ai trân quý lời Đức Chúa Trời sau khi thấy lời Ngài chân thành và quý giá như thế nào. Vừa rồi, nghe các ngươi bật bài thánh ca này, Ta đã hỏi các ngươi ăn uống đoạn lời này của Đức Chúa Trời như thế nào. Đã có bất kỳ ai khám phá ra ý muốn của Đức Chúa Trời từ vài lời đơn giản, dễ hiểu và thẳng thắn này bằng cách cầu nguyện – đọc những lời này chưa? Đã có ai cầu nguyện – đọc những lời này để tìm ra con đường thực hành mà con người nên hiểu và bước vào chưa? Đã có ai hiểu được bất kỳ lẽ thật nào từ những lời này chưa? Ta đang hỏi là, những lẽ thật chứa đựng trong những lời ấy đã đạt được kết quả nơi từng cá nhân chưa? Chúng đã có tác dụng chưa? Mối thông công của chúng ta đã cho thấy rằng thực ra chúng chưa có tác dụng. Vóc giạc của các ngươi quá nhỏ bé. Có vẻ như hầu hết những lời Đức Chúa Trời đã phán suốt bao năm qua vẫn chưa thực sự bén rễ trong lòng các ngươi. Các ngươi chưa đạt đến mức độ trân quý chúng như lẽ thật. Đây không phải là điềm tốt, không phải là dấu hiệu tốt. Một số người nói: “Chúng tôi quá bận rộn thực hiện bổn phận mỗi ngày, không có thời gian suy ngẫm lời Đức Chúa Trời”. Trên thực tế, không phải họ không có thời gian, mà là họ không nỗ lực, không để tâm. Bất kể người ta thực hiện bổn phận gì đi nữa thì bổn phận đó có thể ảnh hưởng đến cách họ suy ngẫm lời Đức Chúa Trời trong lòng không? Họ không suy ngẫm lời Đức Chúa Trời trong khi ăn uống và nghỉ ngơi được sao? Tất cả là tùy vào việc họ có mong muốn đó hay không. Người ta nghĩ rằng bận rộn nghĩa là họ đã làm chu toàn rồi. Thực ra, khi ngươi có thời gian rảnh để suy nghĩ, ngươi sẽ nhận ra rằng mình chưa bao giờ thực sự suy ngẫm bất kỳ lời nào của Đức Chúa Trời trong lòng. Ngươi chưa giữ lại bất cứ điều gì và chúng chưa trở thành kim chỉ nam cho đời sống của ngươi, chưa trở thành quy tắc để ngươi thực hành. Khi suy xét điều này, ngươi sẽ xấu hổ. Sự bận rộn của ngươi chỉ là hình tượng giả đánh lừa ngươi. Nó khiến ngươi cảm thấy rằng nhờ đức tin nơi Đức Chúa Trời mà cuộc sống của ngươi dư đầy chứ không trống rỗng, rằng ngươi khác với người của thế gian, rằng ngươi không chạy theo các trào lưu của thế gian. Đúng hơn, ngươi nằm trong số những người công chính nhất, ngươi đang phối hợp trong công tác của Đức Chúa Trời, làm những việc công chính. Ngươi cảm thấy rằng mình đã được cứu rỗi hoặc đã đi vào con đường dẫn đến sự cứu rỗi. Thậm chí có người còn nghĩ rằng họ đã là người đắc thắng rồi. Bởi như vậy, các ngươi thậm chí còn dùng kiểu thái độ này đối với một bài thánh ca đơn giản là thế và một vài lời đơn giản của Đức Chúa Trời, những lời mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ từ sớm nhất. Chẳng ai đạt được bất cứ điều gì hay tìm thấy sự khai sáng nào trong những lời này, cũng không đưa những lời này vào thực hành theo bất kỳ cách nào. Ta không thể thấy bất kỳ ai đã đạt được bất kỳ thu hoạch hay thành quả nào cho bản thân họ. Điều này là tốt hay xấu? (Thưa, là xấu). Trong những năm qua, các ngươi bận rộn thực hiện bổn phận, và đặc biệt là bận rộn với công tác Phúc Âm. Các ngươi đã đạt được chút thành quả và tất cả các ngươi cảm thấy tuyệt vời trong lòng. Bằng cách này hay cách khác, lời Đức Chúa Trời và công tác Phúc Âm đã lan rộng. Lời Đức Chúa Trời đã được đưa đến với mọi người ở mọi quốc gia và khu vực, và ngày càng có nhiều người ăn uống lời Đức Chúa Trời. Nhìn bề ngoài, ngươi có vẻ đã đạt được thành quả, nhưng ngươi có biết chút gì về chuyện đại sự trong sự sống là sự cứu rỗi của ngươi không? Xét từ thái độ của mọi người đối với đoạn lời này của Đức Chúa Trời thì họ không biết gì cả. Nói theo cách bình dân là nét bút đầu tiên còn chưa được viết ra. Nói Ta nghe, Ta cảm thấy thế nào khi thấy tất cả các ngươi như thế này? Chỉ là vài từ đơn giản thôi mà Ta vẫn cần nói tỉ mỉ và thảo luận chi tiết với các ngươi. Lời Ta quá thấu đáo và quá chi tiết. Các ngươi có sẵn lòng lắng nghe không? Liệu các ngươi có nói Ta lải nhải quá nhiều không? Ta cũng không muốn lải nhải như vậy. Tất cả các ngươi đều trông có vẻ ngay thẳng. Tất cả các ngươi đều có một chút trí óc, tri thức, và hầu hết các ngươi đều có kỹ năng. Dù vậy, các ngươi vẫn không thèm để ý đến những lời tầm thường của bài thánh ca này và chưa để tâm đến chúng. Đến tận bây giờ, chưa một người nào bước vào thực tế của những lời này. Thật là đau đầu và khó chịu! Vậy thì, mọi việc các ngươi làm trong hội thánh là vì điều gì? Có phải là vì mục tiêu mà Phao-lô đã đề cập khi ông nói: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta”? Nếu đây thực sự là mục tiêu thì tất cả các ngươi đều là Phao-lô và những gì xảy ra tiếp theo không thể tốt lành được! Có phải vậy không? (Thưa, phải). Nếu ngươi không dốc sức ăn uống lời Đức Chúa Trời thì sớm muộn gì ngươi cũng sẽ bị đào thải, và như thế ngươi sẽ chẳng đạt được gì. Vào ngày ngươi bị đào thải, ngươi sẽ nói: “Mình đã đạt được gì?” Ngươi chẳng đạt được gì cả, do đó ngươi vô cùng xấu hổ, thậm chí còn muốn chết quách đi. Thật quá thảm hại. Lời Đức Chúa Trời rất phong phú, dồi dào và phán về mọi việc. Thật đáng tiếc khi ngươi chưa bao giờ để tâm mưu cầu lời Đức Chúa Trời, chưa bao giờ nghiêm túc đọc lời Đức Chúa Trời. Trong số rất nhiều lời của Đức Chúa Trời, không một câu nào có được vị trí trong lòng ngươi. Nếu không đào thải ngươi thì có thể đào thải ai? Có phải mọi chuyện là như vậy không? (Thưa, phải). Ăn uống lời Đức Chúa Trời, lấy lời Đức Chúa Trời làm thực tế của ngươi: đó là chuyện đại sự. Chuyện này quan trọng hơn bất cứ điều gì khác, quan trọng hơn việc sinh ra thế hệ tiếp theo, quan trọng hơn việc thực hiện bổn phận, quan trọng hơn việc học một kỹ năng chuyên môn, quan trọng hơn việc làm công tác rao truyền Phúc Âm, quan trọng hơn tất cả những thứ khác. Nếu ngươi chưa bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời thì cho dù ngươi thực hiện bổn phận gì, cho dù ngươi có chạy bao xa, tất cả cũng sẽ chẳng có giá trị. Cuối cùng, ngươi sẽ không đạt được thành quả gì và mọi chuyện ngươi làm sẽ chẳng đi đến đâu. Cho dù hiện tại ngươi đang chạy cật lực thế nào, bất kể chức vụ hiện tại của ngươi là gì, công việc ngươi đang làm là gì, hay ngươi đã đạt được những thành quả to lớn nào, thì đó cũng chỉ là một làn khói mà cuối cùng sẽ tan biến đi chẳng ai nhìn thấy. Chỉ khi người ta bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, có được lẽ thật chứa đựng trong đó, tìm ra những nguyên tắc, con đường và phương hướng thực hành trong lời Đức Chúa Trời, thì mới không ai có thể lấy đi những thứ này từ họ. Chỉ khi họ đã bước vào những thực tế lẽ thật này thì việc họ thực hiện bổn phận và trả giá cho mọi thứ mới có ý nghĩa và giá trị. Chỉ khi đó Đức Chúa Trời mới hài lòng. Sau khi ngươi đã bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời và thực hành các nguyên tắc, tiêu chuẩn mà lời Đức Chúa Trời yêu cầu trong mọi việc ngươi làm, thì khi đó, ngươi không thực hiện bổn phận một cách vô ích và Đức Chúa Trời sẽ hài lòng với một phần việc của ngươi. Ngươi có hiểu không? (Thưa, hiểu). Nếu ngươi chỉ dựa vào khả năng tự kiềm chế của chính mình, sự kiên trì của con người, trí óc và ân tứ của con người, cũng như những cách thức và phương pháp của con người để chịu khổ và trả giá, thì tất cả những điều ngươi làm chẳng liên quan gì đến lời Đức Chúa Trời cả. Ngươi hẳn phải thấy rõ kết quả cuối cùng sẽ như thế nào. Nhiều người có thể kiểm đếm tài khoản kinh tế và tài khoản chi phí-lợi ích nhưng lại chẳng có ai kiểm đếm tài khoản này cả. Các ngươi có vẻ khá thông minh khi giải quyết các sự vụ bên ngoài, có cách thức và phương pháp của mình, và các ngươi khá thông minh, nhưng lại thờ ơ với đức tin nơi Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi, thờ ơ với cách nhìn nhận lời Đức Chúa Trời, không bao giờ chú trọng đến những điều này. Ngươi nghĩ rằng nếu không chú trọng thì ngươi có thể thoát khỏi phép tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu sao? Ngươi nghĩ rằng chỉ cần nỗ lực chút ít là ngươi sẽ gặp may và thoát khỏi sự phán xét công chính của Đức Chúa Trời sao? Đừng tự lừa dối mình! Những luật do con người đặt ra đều là sản phẩm của tri thức và kiến thức của con người. Tất cả chúng đều là sự ma lanh của con người. Chúng không phải là phép tắc do tâm tính công chính của Đức Chúa Trời tạo ra. Đừng dùng tâm lý may rủi khi nói đến sự cứu rỗi của ngươi. Ngươi chỉ có thể lừa dối chính mình chứ không thể lừa dối Đức Chúa Trời.

Đại sự đầu tiên ngươi nên làm khi mưu cầu sự cứu rỗi là gì? Là ăn uống lời Đức Chúa Trời để hiểu lẽ thật và bước vào thực tế. Đây là đại sự đầu tiên. Cho dù ngươi có bận rộn thực hiện bổn phận như thế nào, cho dù ngươi có bao nhiêu công việc chồng chất, thì ngươi vẫn phải dành thời gian ăn uống lời Đức Chúa Trời, tìm trong lời Ngài những nguyên tắc và con đường thực hành lẽ thật trong mọi sự, và bước vào thực tế lẽ thật. Đây là mục tiêu duy nhất của đức tin nơi Đức Chúa Trời. Một khi ngươi đã bước vào thực tế lẽ thật và có được các nguyên tắc thực hành thì mọi chuyện ngươi làm sẽ là thực hiện bổn phận một cách thỏa đáng, sẽ trở nên có giá trị và có ý nghĩa. Nếu không, tất cả những gì ngươi làm chỉ là dâng sự phục vụ chứ không phải đang thực hiện bổn phận. Sự phục vụ này cũng không giúp ngươi được cứu rỗi. Nếu ngươi không ăn uống lời Đức Chúa Trời, không thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, không coi việc bước vào thực tế lẽ thật là việc nghiêm túc, cảm thấy mãn nguyện khi đơn thuần bỏ công sức và làm việc mà không chú trọng đưa lẽ thật vào thực hành, thì chẳng phải ngươi là một kẻ ngốc sao? Ai cũng cho rằng mình thông minh và đáng tin cậy trong công việc. “Bây giờ có mình ở đây thì công việc này chắc chắn sẽ được thực hiện tốt. Chỉ cần có mình ở đây trông chừng thì sẽ không điều gì làm nhiễu loạn công tác của hội thánh được. Chỉ cần mình không ăn không ngồi rồi và mình tiếp tục thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời thì mình sẽ được cứu rỗi”. Đừng tự lừa mình. Đức Chúa Trời chưa bao giờ nói rằng chỉ cần người ta không ngừng thực hiện bổn phận thì họ sẽ được cứu rỗi. Điều này xuất phát từ trí tưởng tượng và suy nghĩ mơ tưởng hão huyền của riêng con người. Những người nói như vậy đều không hề biết mình, họ không hiểu thực chất và chân tướng về việc Sa-tan làm bại hoại con người sâu đến mức nào. Đây là lý do tại sao họ có thể nói những lời ngớ ngẩn như vậy. Qua mọi thời đại, chẳng phải những người đi theo Đức Chúa Trời đều thực hiện bổn phận sao? Họ có được cứu rỗi không? Không. Họ có đủ tư cách vào thiên quốc không? Không. Công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt đã phơi bày rõ chân tướng về sự bại hoại của con người. Sự phơi bày này cho phép mọi người nhận biết, thay đổi hướng đi, đạt được lẽ thật và bước vào sự thực tế, trải qua những thay đổi thực sự. Đây là điều Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người. Nếu chỉ tập trung thực hiện bổn phận không ngừng, liệu ngươi có thể đạt được sự thay đổi thực sự không? Liệu ngươi có thể đạt được lẽ thật không? Liệu ngươi có thể đạt được sự vâng phục Đức Chúa Trời không? Tuyệt đối không thể. Điều tối quan trọng là người ta phải mưu cầu lẽ thật, quy phục sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, đạt được lẽ thật để tương hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi nói những lời này, Đức Chúa Trời trả giá bằng chính máu của tim Ngài và hiến mạng của Ngài cho con người. Nếu ngươi không trân quý chúng mà trong lòng lại luôn phớt lờ và khinh miệt chúng, không bao giờ coi trọng lời Đức Chúa Trời, thì ngươi có thể được cứu rỗi không? Kết quả cuối cùng có tốt lành được không? Ngươi thậm chí không cần phải nghĩ đến. Đại sự đầu tiên khi ngươi tin Đức Chúa Trời là gì? Đó là ăn uống lời Đức Chúa Trời để hiểu lẽ thật, và nhờ đó bước vào thực tế lẽ thật mà không trì hoãn. Hãy bắt đầu với những điều xảy ra xung quanh ngươi, những gì ngươi có thể nhìn thấy và cảm nhận. Hãy dùng lời Đức Chúa Trời để phản tỉnh về bản thân, tìm kiếm lẽ thật và giải quyết mọi vấn đề, cũng như đạt được những thay đổi thực sự. Nếu ngươi không ăn uống lời Đức Chúa Trời và không bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, thì cơ hội được cứu rỗi của ngươi chỉ bằng không. Ngươi đã hoàn toàn mất đi mọi cơ hội được cứu rỗi. Khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, ngươi sẽ nói: “Trước đây, tôi đã góp phần trong công tác rao truyền Phúc Âm của Đức Chúa Trời. Trong công tác rao truyền Phúc Âm, tôi đã phải trả giá và cống hiến thời gian, sinh lực cho bước quan trọng này hay bước quan trọng nọ”. Ấy thế mà cho đến ngày đó, ngươi vẫn chưa đạt được lẽ thật, ngươi không thể ăn uống lời Đức Chúa Trời một cách bình thường, và ngươi không thể thực hiện bổn phận một cách bình thường. Về cơ bản, ngươi không phải là người vâng phục Đức Chúa Trời. Chỉ đến khi đó ngươi mới biết rằng mình đã đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Có phải đã quá muộn rồi không? Ngươi không có cơ hội, ngươi đã rơi vào thảm họa, và do đó cái chết của ngươi sắp đến. Vì vậy, cơ hội được cứu rỗi này là rất hiếm có, và ngươi phải trân trọng từng ngày, từng phút. Hãy bắt đầu với những điều nhỏ xung quanh ngươi trước, sau đó dần dần chuyển sang nhiều điều hơn và những thứ lớn lao hơn. Hãy tìm kiếm lời Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, bước vào lời Đức Chúa Trời và thực tế lẽ thật. Ngươi nên thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong lòng và đến gần Ngài. Đừng bao giờ để lòng ngươi bị những ham muốn xác thịt, những trào lưu của thế gian và những thứ Sa-tan tương tự chiếm giữ. Thay vào đó, hãy để lời Đức Chúa Trời và lẽ thật trị vì trong lòng ngươi, và lòng ngươi sẽ bắt đầu trân quý lời Đức Chúa Trời. Miễn sao lời Đức Chúa Trời và lẽ thật có một vị trí trong lòng ngươi, dẫn dắt cuộc sống của ngươi, thì cuộc sống của ngươi sẽ có mục tiêu và ánh sáng soi dẫn, lòng ngươi sẽ biết đến sự vui hưởng. Nếu ngươi hiểu được đôi ba lời của Đức Chúa Trời, rồi mười lời, sau đó là một trăm lời, thì những lời này sẽ tích lũy, và dần dần, lời Đức Chúa Trời sẽ ngày càng chiếm trọn lòng ngươi, dẫn dắt suy nghĩ của ngươi, dẫn dắt hành động của ngươi và dẫn dắt cuộc sống của ngươi. Ngươi sẽ bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời ngày càng nhiều hơn, và ngươi sẽ ngày càng nắm bắt được nhiều nguyên tắc lẽ thật hơn. Những hành động của ngươi sẽ không còn dựa trên ý muốn và mong muốn cá nhân nữa. Việc thực hiện bổn phận của ngươi sẽ ngày càng ít bị pha tạp với những thứ bất khiết, và ngươi sẽ ngày càng đối đãi với Đức Chúa Trời bằng tấm lòng chân thành. Dần dần, những giáo lý mà ngươi hiểu sẽ biến thành thực tế lẽ thật. Bằng cách này, trong tâm tính sự sống của ngươi sẽ có một sự thay đổi thực sự. Niềm hy vọng được cứu rỗi của ngươi sẽ không còn mong manh hay vô hình nữa, mà sẽ ngày càng trở nên dễ nhận thấy và to lớn hơn. Khi ngươi có thể nhìn thấy sự sáng này thì thực ra, đây là khi ngươi bắt đầu nảy sinh hứng thú với lời Đức Chúa Trời và đặt rất nhiều hy vọng vào sự cứu rỗi. Vào lúc ấy, Đức Chúa Trời sẽ ngày càng cho ngươi hiểu lời Ngài, cho ngươi bước vào lời Ngài, bảo vệ ngươi khỏi sa vào cám dỗ, bảo vệ ngươi khỏi rơi vào cạm bẫy và quyền lực đen tối của Sa-tan, bảo vệ ngươi khỏi những vướng mắc, xung đột, đố kỵ và tranh chấp, cùng những điều khác. Theo cách này, Đức Chúa Trời sẽ để ngươi sống trong sự sáng và sống dưới sự dẫn dắt của lời Ngài. Đây là hạnh phúc, niềm vui và sự bình an. Để đạt được tất cả những điều này, người ta phải bắt đầu bằng việc trân quý lời Đức Chúa Trời, thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời để hiểu lẽ thật. Trên thực tế, điều này không khó. Nếu ngươi thường xuyên nghe các bài giảng và có thể thực hành, trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ dần dần hiểu được lẽ thật. Bằng cách này, bằng cách dần dần chuyển tiếp từng chút một và tiến về phía trước từng chút một, ngươi sẽ không cảm thấy khó khăn. Điều cốt yếu là con người ta có yêu lẽ thật hay không. Nếu ngươi yêu lẽ thật, thì với đức tin nơi Đức Chúa Trời, ngươi sẽ có thể chuyên tâm vào những việc đúng đắn, phấn đấu vì lẽ thật, tập trung đọc và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời. Hãy học cách suy ngẫm lời Đức Chúa Trời và học cách cầu nguyện – đọc lời Đức Chúa Trời. Khi đó, ngươi sẽ có thể hiểu được ý nghĩa của lời Đức Chúa Trời, sẽ có thể tìm thấy những con đường thực hành trong lời Đức Chúa Trời, sẽ có thể hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, và sẽ bắt đầu hiểu được lẽ thật. Sau đó, hãy phản tỉnh và nhận ra tâm tính bại hoại của bản thân dựa trên sự hiểu biết của ngươi về lẽ thật, mổ xẻ thực chất tâm tính bại hoại của ngươi, và rồi dùng lẽ thật để giải quyết. Nếu thực hành và bước vào theo cách này thì ngươi sẽ có thể thực sự biết mình, và sẽ dễ dàng thoát khỏi tâm tính bại hoại. Thông qua việc nhận thức từng chút một, góp nhặt kinh nghiệm lĩnh hội từng chút một, hiểu ra ý muốn của Đức Chúa Trời từng chút một, và thoát khỏi sự bại hoại từng chút một, con người sẽ bắt đầu thay đổi tự lúc nào không hay. Đây là quá trình trải nghiệm sống. Điều tối quan trọng là phải hiểu được lẽ thật. Một khi người ta hiểu lẽ thật, họ sẽ biết những tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người tuân theo. Họ cũng sẽ biết tại sao Đức Chúa Trời muốn nói điều này và hiệu quả mà Ngài mong đạt được. Họ cũng sẽ biết rằng những tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người thực ra đều là những tiêu chuẩn con người có thể đạt được. Tất cả đều là những điều mà lương tâm và lý trí con người có thể đạt được. Những quá trình này đều là vấn đề bước vào sự sống. Để bước vào sự sống, ngươi cần siêng năng thực hiện bổn phận, siêng năng tìm kiếm lẽ thật và thực hành lẽ thật, cầu nguyện với Đức Chúa Trời và trông cậy Đức Chúa Trời để làm tròn bổn phận. Thông qua trải nghiệm và thực hành như vậy, ngươi sẽ có được những kết quả ngày càng tốt hơn. Những người không yêu lẽ thật sẽ không quan tâm đến những điều như vậy. Họ không cảm nhận trọng trách khi bước vào sự sống và không có hứng thú làm vậy. Do đó, mặc dù họ đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm nhưng lại không thể nói về chứng ngôn trải nghiệm của mình. Những người yêu lẽ thật thì không như vậy. Họ có thể viết ra những lời chứng về mọi điều đã trải nghiệm và từng giai đoạn trải nghiệm của họ. Họ thực sự có được thu hoạch từ toàn bộ trải nghiệm của mình – những lợi ích được tích lũy qua bao ngày tháng. Sau mười hay hai mươi năm, họ sẽ trải qua những thay đổi rất lớn. Khi đó, họ có thể dễ dàng viết ra chứng ngôn trải nghiệm của mình, và đối với họ, thông công về lẽ thật không phải là chuyện khó. Khi thực hiện bổn phận, họ làm mọi việc một cách đúng đắn.

Các ngươi có phải là những người yêu lẽ thật không? Các ngươi có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt không? Các ngươi có lòng chân thành không? Thật khó trả lời, phải không? Trên thực tế, tất cả các ngươi đều biết rõ điểm này trong lòng. Khi muốn thực hiện bổn phận một cách chiếu lệ và bất cẩn, khi muốn láu cá hoặc chểnh mảng, khi muốn tùy ý và tùy tiện, ngươi có thể nhận ra không? Ngươi có thể phản bội xác thịt không? Ngươi chọn gì? Ngươi chọn thực hành lẽ thật hay chọn những ham muốn của xác thịt? Ngươi chọn tích cực hay tiêu cực? Ngươi chọn chịu khổ và trả giá để có được lẽ thật, hay ngươi chọn tham hưởng sự an nhàn của xác thịt? Đây là những câu hỏi sẽ được dùng để đánh giá xem liệu ngươi có lòng yêu kính và vâng phục Đức Chúa Trời thực sự hay không, và liệu ngươi có chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời hay không. Nếu ngươi không có lòng thành đối với Đức Chúa Trời, ngươi thích làm mọi việc theo cách tùy ý và tùy tiện, ngươi vui khi được thỏa mãn và tức giận cũng như nổi cơn tam bành khi không thỏa mãn, ngươi bỏ đi khi mọi thứ không theo ý muốn, thì đây có phải là tâm thái đúng đắn không? Đây có phải là có lòng vâng phục Đức Chúa Trời không? Đây có phải là trung thành thực hiện bổn phận không? Tại sao ngươi không thực hành lẽ thật? Có phải ngươi không hiểu lời Đức Chúa Trời không? Hay là ngươi không yêu lẽ thật? Có người nghĩ: “Lời Đức Chúa Trời rất đơn giản nhưng thật khó để đưa vào thực hành. Nhà Đức Chúa Trời luôn yêu cầu mọi người thực hành lẽ thật, nhưng điều này thật khó đối với con người và khiến họ gặp rất nhiều vấn đề. Nếu mình không thoải mái trong lòng thì mình sẽ không thực hành lẽ thật. Chỉ cần hội thánh không thanh trừ hay đào thải mình thì mình sẽ chọn tự do, thoải mái và muốn làm gì thì làm”. Đây mà là người thực sự tin Đức Chúa Trời sao? Đây không phải là kẻ chẳng tin sao? Đây là thái độ của những kẻ chẳng tin khi thực hiện bổn phận. Bởi vì họ không tiếp nhận lẽ thật nên họ yêu tự do, phóng đãng và thích bừa bãi, bất cẩn. Dù họ có được tỉa sửa và xử lý thế nào đi nữa thì cũng vô ích. Tai họ sẽ không nghe được những lời thông công về lẽ thật. Không thể làm gì khác ngoài loại bỏ và đào thải họ. Bởi vì họ không tiếp nhận lẽ thật mà thay vào đó, họ là những người ngoại đạo chán ghét lẽ thật, nên Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ. Đối với những người yêu lẽ thật thì ngay cả khi tâm tính bại hoại của họ bị phơi bày, họ cũng có thể chấp nhận bị tỉa sửa và xử lý, họ cũng có thể tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh về bản thân, trở nên biết mình, và họ có thể biết ăn năn. Đây là những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Khi người ta không yêu lẽ thật thì họ khó tiếp nhận lẽ thật. Khi người ta không thể tiếp nhận lẽ thật như vậy thì điều nguy hiểm nhất là gì? Đó là họ phản bội Đức Chúa Trời. Những người không tiếp nhận lẽ thật có nhiều khả năng phản bội Đức Chúa Trời nhất, và họ có thể phản bội Đức Chúa Trời mọi lúc mọi nơi. Họ có thể phản bội Đức Chúa Trời khi một chuyện nhỏ không theo ý họ. Họ có thể phản bội Đức Chúa Trời vì không thể chấp nhận bị tỉa sửa và xử lý một lần. Khi đối mặt với thảm họa, họ càng có khả năng oán trách và phản bội Đức Chúa Trời. Dù thế nào đi nữa, những người không yêu hay tiếp nhận lẽ thật là những người gặp nguy hiểm nhiều nhất. Việc người ta có thể được cứu rỗi hay không tùy vào việc họ yêu lẽ thật và những điều tích cực đến mức nào, cũng như liệu họ có thể tiếp nhận lẽ thật và thực hành lẽ thật hay không. Hãy dùng những yêu cầu của lẽ thật để đánh giá vóc giạc thực sự của ngươi, để phân định bản thân, biết chân tướng về sự bại hoại của mình và nhận ra bản tính thực sự của mình là gì. Một mặt, sự phân định như vậy giúp ngươi biết mình và có thể ăn năn thực sự. Mặt khác, sự phân định như vậy cho phép ngươi biết Đức Chúa Trời và hiểu ý muốn của Ngài. Việc không thể tiếp nhận lẽ thật là biểu hiện của sự bất tuân và chống đối Đức Chúa Trời. Hiểu rõ về vấn đề này, ngươi sẽ bước đi trên con đường dẫn đến sự cứu rỗi. Khi người ta thực sự yêu lẽ thật, họ có thể có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt, một tấm lòng chân thành, động lực thực hành lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời. Khi có được sức mạnh thực sự, họ có thể trả giá, cống hiến sinh lực và thời gian, từ bỏ lợi ích cá nhân và buông bỏ mọi vướng mắc của xác thịt, dọn đường để thực hành lời Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật, và bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời. Nếu, để bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, ngươi có thể buông bỏ những quan niệm của riêng mình, buông bỏ những lợi ích của xác thịt, thể diện, địa vị, thanh danh và những sự hưởng thụ xác thịt của riêng mình – nếu ngươi có thể buông bỏ tất cả những thứ như vậy, thì khi đó ngươi sẽ ngày càng bước vào thực tế lẽ thật. Cho dù ngươi có gặp phải những khó khăn và rắc rối nào thì chúng cũng sẽ không còn là vấn đề nữa – chúng sẽ được giải quyết dễ dàng – và ngươi sẽ dễ dàng bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời. Để bước vào thực tế lẽ thật thì hai điều kiện không thể thiếu là: một tấm lòng chân thành và lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt. Nếu ngươi chỉ có tấm lòng chân thành nhưng lại luôn hèn nhát, không có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt, và rụt lại khi gặp khó khăn, thì như vậy là không đủ. Nếu ngươi chỉ có niềm khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt trong lòng, ngươi hơi bốc đồng, và ngươi đơn thuần có khát vọng này nhưng lại không có tấm lòng chân thành khi có chuyện xảy đến với ngươi, và ngươi rụt lại, chọn lợi ích của riêng mình, thì như vậy cũng không đủ. Ngươi cần cả lòng chân thành lẫn lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt. Mức độ chân thành và mức độ khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt trong lòng ngươi sẽ quyết định động lực thực hành lẽ thật của ngươi mạnh đến mức nào. Nếu ngươi không có tấm lòng chân thành và lòng ngươi không có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt, thì ngươi sẽ không thể hiểu được lời Đức Chúa Trời và sẽ không có động lực thực hành lẽ thật. Như vậy, ngươi không thể bước vào thực tế lẽ thật và ngươi sẽ khó mà được cứu rỗi.

Nhiều người không biết rõ ý nghĩa của việc được cứu rỗi. Một số người tin rằng nếu họ đã tin Đức Chúa Trời một thời gian dài thì họ có nhiều khả năng được cứu rỗi. Một số người nghĩ rằng nếu họ hiểu nhiều học thuyết thuộc linh thì họ có nhiều khả năng được cứu rỗi, hoặc một số người nghĩ rằng các lãnh đạo và người làm công chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Những điều này đều là quan niệm và sự tưởng tượng của con người. Điểm cốt yếu là người ta phải hiểu được sự cứu rỗi có nghĩa là gì. Được cứu rỗi trước hết có nghĩa là được giải thoát khỏi tội lỗi, được giải thoát khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, và thực sự hướng về Đức Chúa Trời và vâng phục Đức Chúa Trời. Ngươi phải sở hữu những gì để thoát khỏi tội lỗi và sự ảnh hưởng của Sa-tan? Lẽ thật. Nếu con người hy vọng đạt được lẽ thật, họ phải được trang bị nhiều lời Đức Chúa Trời, họ phải có thể trải nghiệm và thực hành chúng, để họ có thể hiểu được lẽ thật và bước vào thực tế. Chỉ khi đó họ mới có thể được cứu rỗi. Việc một người có thể được cứu rỗi hay không không liên quan đến việc họ đã tin Đức Chúa Trời bao lâu, họ có bao nhiêu kiến thức, liệu họ có sở hữu những ân tứ hay thế mạnh không, hay họ chịu khổ bao nhiêu. Điều duy nhất có quan hệ trực tiếp đến sự cứu rỗi là liệu một người có thể đạt được lẽ thật hay không. Vậy hôm nay, ngươi đã thực sự hiểu được bao nhiêu lẽ thật? Và bao nhiêu lời Đức Chúa Trời đã trở thành sự sống của ngươi? Trong tất cả các yêu cầu của Đức Chúa Trời, ngươi đã đạt được sự bước vào những yêu cầu nào? Trong những năm tin Đức Chúa Trời, ngươi đã bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời được bao nhiêu? Nếu ngươi không biết, hoặc nếu ngươi chưa đạt được sự bước vào thực tế của bất kỳ lời nào của Đức Chúa Trời, thì nói thẳng ra, ngươi không có hy vọng được cứu rỗi. Ngươi không thể được cứu rỗi. Dù ngươi có sở hữu trình độ hiểu biết cao, hoặc đã tin Đức Chúa Trời từ lâu, có ngoại hình đẹp, giỏi ăn nói, và đã từng là lãnh đạo hay người làm công được vài năm thì cũng không quan trọng. Nếu ngươi không theo đuổi lẽ thật, không thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời một cách đúng đắn, và ngươi thiếu chứng ngôn trải nghiệm thực sự, thì ngươi không có hy vọng được cứu rỗi. Ta không quan tâm ngươi trông như thế nào, ngươi có bao nhiêu kiến thức khoa học, ngươi đã phải chịu khổ bao nhiêu, hay ngươi đã phải trả giá đắt như thế nào. Ta bảo ngươi điều này: nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật và không bao giờ bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời thì ngươi không thể được cứu rỗi – chắc chắn là như vậy. Nếu ngươi cho Ta biết ngươi đã bước vào được bao nhiêu thực tế của lời Đức Chúa Trời, thì Ta sẽ cho ngươi biết ngươi có bao nhiêu hy vọng được cứu rỗi. Giờ đây, khi Ta đã cho các ngươi biết tiêu chí đánh giá, các ngươi có thể tự mình đánh giá. Những lời này cho ngươi biết sự thật gì? Đức Chúa Trời đã dùng lời để tạo ra thế giới, Ngài đã dùng lời để thành tựu mọi chuyện, thành tựu mọi chuyện mà Đức Chúa Trời mong muốn thành tựu, và Đức Chúa Trời đã dùng lời để thực hiện hai giai đoạn công tác của Ngài. Ngày nay, Đức Chúa Trời đang thực hiện giai đoạn thứ ba trong công tác của Ngài, và trong giai đoạn công tác này, Đức Chúa Trời đã phán nhiều lời hơn so với bất kỳ giai đoạn nào khác. Đây là thời điểm Đức Chúa Trời phán nhiều nhất trong công tác của Ngài xuyên suốt lịch sử nhân loại. Đức Chúa Trời có thể dùng lời để tạo ra thế giới, để thành tựu mọi chuyện, khiến mọi sự từ hư không thành hiện hữu, và từ hiện hữu thành hư không – đây là thẩm quyền của lời Đức Chúa Trời, và cuối cùng, Đức Chúa Trời cũng sẽ sử dụng lời để thành tựu việc cứu rỗi nhân loại. Ngày nay, tất cả các ngươi đều có thể thấy sự thật này, trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời không làm công tác nào không liên quan đến lời Ngài, Ngài đã phán xuyên suốt, dùng lời xuyên suốt để hướng dẫn con người đi vào thời nay. Tất nhiên, trong khi phán, Đức Chúa Trời cũng đã dùng lời để duy trì mối quan hệ của Ngài với những người đi theo Ngài, đã dùng lời để hướng dẫn họ, và những lời này vô cùng quan trọng đối với những ai mong muốn được cứu rỗi, hoặc những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Đức Chúa Trời sẽ dùng những lời này để thành tựu việc cứu rỗi nhân loại. Rõ ràng, những lời này dù xét về nội dung hay số lượng, bất kể thể loại là gì, và bất kể chúng thuộc phần nào trong lời Đức Chúa Trời, thì chúng cũng vô cùng quan trọng đối với mỗi một người có ước muốn được cứu rỗi. Đức Chúa Trời đang sử dụng những lời này để đạt được hiệu quả sau hết trong kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Ngài. Đối với nhân loại – dù là nhân loại ngày nay hay nhân loại tương lai – thì chúng cũng vô cùng quan trọng. Đó là thái độ của Đức Chúa Trời, đó là mục đích và ý nghĩa của lời Ngài. Vậy nhân loại nên làm gì? Nhân loại nên phối hợp với lời và công tác của Đức Chúa Trời, không được làm ngơ chúng. Nhưng với một số người thì đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời lại không phải như vậy: dù Đức Chúa Trời có phán gì đi nữa thì với họ, lời Ngài như thể không liên quan gì. Họ vẫn theo đuổi những thứ họ muốn, làm điều họ muốn, và không tìm kiếm lẽ thật dựa trên lời Đức Chúa Trời. Đây không phải là đang trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Một số người khác thì bất kể Đức Chúa Trời phán gì, họ cũng không chú ý, và trong lòng họ chỉ tin chắc một điều: “Mình sẽ làm bất cứ điều gì Đức Chúa Trời yêu cầu, nếu Đức Chúa Trời bảo mình đi về phía Tây thì mình sẽ đi về phía Tây, nếu Ngài bảo mình đi về phía Đông thì mình sẽ đi về phía Đông, nếu Ngài bảo mình chết thì mình sẽ cho Ngài thấy mình chết”. Duy chỉ có một điều: họ không tiếp thu lời Đức Chúa Trời. Họ thầm nghĩ: “Lời Đức Chúa Trời nhiều quá. Lời Ngài nên thẳng thắn hơn một chút, và nên bảo mình chính xác phải làm gì. Mình có thể vâng phục Đức Chúa Trời trong lòng”. Cho dù Đức Chúa Trời có phán bao nhiêu lời đi chăng nữa thì những người như vậy cuối cùng vẫn không có khả năng hiểu lẽ thật, cũng không thể nói về những trải nghiệm và nhận thức của họ. Họ giống như một người thường không hiểu gì về những vấn đề thuộc linh. Các ngươi có nghĩ những người như vậy được Đức Chúa Trời yêu quý không? Đức Chúa Trời có muốn thương xót những người như vậy không? (Thưa, không). Chắc chắn là không. Đức Chúa Trời không thích những người như vậy. Đức Chúa Trời phán: “Ta đã phán bao nhiêu nghìn lời. Làm thế nào mà ngươi lại không nhìn thấy cũng không nghe thấy, như kẻ mù kẻ điếc? Chính xác thì trong lòng ngươi đang nghĩ gì? Ta thấy ngươi chẳng khác gì một người bị ám ảnh bởi việc chạy theo phước lành và đích đến tốt đẹp – ngươi đang theo đuổi những mục tiêu giống y như mục tiêu của Phao-lô. Nếu ngươi không muốn nghe lời Ta, nếu ngươi không muốn đi theo con đường của Ta, thì tại sao ngươi lại tin Đức Chúa Trời? Ngươi không chạy theo sự cứu rỗi, mà ngươi chạy theo đích đến tốt đẹp và ham muốn được ban phước lành. Và vì ngươi đang mưu tính những thứ này nên ngươi thích hợp nhất với vai trò kẻ phục vụ”. Kỳ thực, trở thành một kẻ phục vụ trung thành cũng là một biểu hiện vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng đây là tiêu chuẩn tối thiểu. Thà tiếp tục làm kẻ phục vụ trung thành còn hơn bị sa vào sự hư mất và diệt vong như một người ngoại đạo. Đặc biệt, nhà Đức Chúa Trời cần những kẻ phục vụ, và được phục vụ Đức Chúa Trời cũng đã là một phước lành. Như thế này tốt hơn nhiều – tốt hơn đến khôn sánh – so với việc trở thành tay sai của quỷ vương. Tuy nhiên, dù con người phụng sự Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời cũng không hài lòng hoàn toàn, bởi vì công tác phán xét của Đức Chúa Trời là nhằm cứu rỗi, làm tinh sạch và hoàn thiện con người. Nếu chỉ đơn thuần phụng sự Đức Chúa Trời mà con người ta đã mãn nguyện, thì đây không phải là mục đích mà Đức Chúa Trời mong muốn đạt được khi hoạt động nơi con người, cũng không phải là kết quả mà Đức Chúa Trời mong muốn nhìn thấy. Thế nhưng con người lại điên cuồng ham muốn, họ ngu muội và mù quáng: họ bị mê hoặc, bị làm hao mòn bởi chút lợi lộc nhỏ nhoi, và bỏ qua những lời quý giá của sự sống do Đức Chúa Trời phán ra. Họ còn không thể nghiêm túc với chúng thì nói gì đến yên mến chúng. Không đọc lời Đức Chúa Trời hay trân quý lẽ thật: đây là thông minh hay ngu muội? Con người có thể đạt được sự cứu rỗi theo cách này không? Con người nên hiểu tất cả những điều này. Họ chỉ có hy vọng được cứu rỗi nếu họ buông bỏ những quan niệm, tưởng tượng của mình và tập trung mưu cầu lẽ thật.

Một số người hỏi: “Lời Đức Chúa Trời yêu cầu con người ở vị trí của một loài thọ tạo và thực hiện bổn phận với tư cách là một loài thọ tạo. Chúng con tuy không cần phải là siêu nhân hay vĩ nhân nhưng trong con luôn có những tham vọng và ham muốn như vậy. Làm một người bình thường, con thấy không cam lòng. Vậy con nên làm gì?” Vấn đề này rất đơn giản. Tại sao ngươi không sẵn lòng làm một người bình thường? Nếu trước hết, ngươi đào sâu tận gốc rễ của câu hỏi này thì vấn đề của ngươi sẽ được giải quyết dễ dàng. Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải là người trung thực. Điều này là ý nghĩa nhất. Nếu ngươi hiểu lẽ thật về việc làm một người trung thực là như thế nào, thì ngươi sẽ biết rằng làm người trung thực là làm người có nhân tính bình thường, một con người chân chính. Một người trung thực có những biểu hiện gì? Làm một người trung thực là làm một người bình thường. Người bình thường có bản năng, suy nghĩ và lý trí tự nhiên gì? Lời nói và việc làm của người bình thường có vẻ thế nào? Một người bình thường có thể nói thật lòng họ. Họ sẽ nói bất cứ điều gì trong lòng họ mà không hề giả dối hay lừa dối. Nếu họ có thể hiểu chuyện mà họ gặp phải, họ sẽ hành động phù hợp với lương tâm và lý trí. Nếu họ không thể nhìn thấu chuyện ấy một cách rõ ràng, họ sẽ phạm sai lầm và thất bại, họ sẽ nuôi những nhận thức sai lầm, những quan niệm và tưởng tượng cá nhân, và họ sẽ bị những ảo tưởng trước mắt làm cho mù quáng. Nhân tính bình thường có những biểu hiện như vậy. Những biểu hiện này của nhân tính bình thường có đáp ứng được yêu cầu của Đức Chúa Trời không? Không. Con người không thể đáp ứng những yêu cầu của Đức Chúa Trời nếu họ không có lẽ thật. Một người bình thường, bại hoại có những biểu hiện này của nhân tính bình thường. Đây là những thứ bẩm sinh của con người, những thứ vốn có của họ. Ngươi phải để cho mình có những biểu hiện và bộc lộ này. Khi để cho mình có những biểu hiện và bộc lọ này, ngươi hẳn hiểu rằng đây là bản năng tự nhiên, tố chất và bản tính bẩm sinh của con người. Hiểu được như vậy rồi, ngươi nên làm gì? Ngươi nên có một cách tiếp cận đúng đắn với nó. Nhưng ngươi đưa cách hiểu đúng đắn này vào thực hành như thế nào? Ngươi thực hiện bằng cách đọc nhiều lời Đức Chúa Trời hơn, trang bị thêm lẽ thật cho bản thân, thường xuyên nêu ra với Đức Chúa Trời những điều ngươi không hiểu, những điều mà ngươi có quan niệm, và những điều mà ngươi có thể có những phán đoán sai lầm để phản tỉnh về chúng và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết mọi vấn đề của ngươi. Nếu ngươi trải nghiệm như thế này một thời gian, thì dù ngươi có thất bại và vấp ngã vài lần cũng không sao cả. Điều quan trọng nhất là ngươi có thể nhìn rõ những vấn đề này trong lời Đức Chúa Trời và biết cách thực hành phù hợp với nguyên tắc và ý muốn của Đức Chúa Trời. Như thế nghĩa là ngươi đã rút ra được bài học rồi. Sau khi trải qua vài năm thất bại và vấp ngã, nếu ngươi hiểu rõ thực chất của nhân loại bại hoại, nhìn ra tận gốc rễ của sự tối tăm và tà ác trên thế gian, phân định được nhiều loại người, sự kiện và sự vật khác nhau, thì ngươi sẽ có thể hành động phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật. Vì ngươi không phải là siêu nhân, cũng không phải vĩ nhân, nên ngươi không thể nhìn thấu và hiểu được mọi thứ. Ngươi không thể nhìn thoáng qua là thấu tỏ thế gian, nhìn thoáng qua là thấu tỏ nhân loại, và nhìn thoáng qua là thấu tỏ mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Ngươi là một người bình thường. Ngươi phải trải qua nhiều thất bại, nhiều giai đoạn hoang mang, nhiều sai lầm khi xét đoán, và nhiều lần chệch hướng. Điều này có thể vạch trần hoàn toàn tâm tính bại hoại, những điểm yếu và khiếm khuyết của ngươi, sự ngu dốt và xuẩn ngốc của ngươi, cho phép ngươi xem xét lại và biết mình, đồng thời có kiến thức về sự toàn năng, sự khôn ngoan đầy đủ của Đức Chúa Trời, và tâm tính của Ngài. Ngươi sẽ nhận được những điều tích cực từ Ngài, và đi đến việc hiểu lẽ thật và bước vào sự thực tế. Sẽ có nhiều điều trong trải nghiệm của ngươi không diễn ra như ngươi mong muốn, khiến ngươi sẽ cảm thấy bất lực. Với những điều này, ngươi phải tìm kiếm và chờ đợi; ngươi phải nhận được từ Đức Chúa Trời câu trả lời cho mỗi vấn đề, và hiểu từ lời Ngài thực chất cơ bản của mỗi vấn đề và thực chất của mỗi loại người. Đây là cách cư xử của một người bình thường, tầm thường. Ngươi phải học cách nói: “Tôi không thể”, “Điều đó vượt quá khả năng của tôi”, “Tôi không thấu tỏ được”, “Tôi chưa trải nghiệm chuyện đó”, “Tôi không biết gì cả”, “Tại sao tôi lại yếu đuối như vậy? Tại sao tôi lại chẳng ra gì?” “Tôi có tố chất kém cỏi”, “Tôi quá tê dại và ngu ngốc”, “Tôi ngu dốt đến mức phải mất vài ngày thì mới có thể hiểu ra chuyện này và xử lý được”, và “Tôi cần phải bàn chuyện này với ai đó”. Ngươi phải học cách thực hành như vậy. Đây là biểu hiện cho thấy ngươi thừa nhận mình là một người bình thường và cho thấy ngươi mong muốn trở thành một người bình thường. Những người tự coi mình là vĩ đại hùng cường, không phải người tầm thường mà là người phi phàm và là siêu nhân thì không bao giờ nói “Tôi không thể”, “Điều này vượt quá khả năng của tôi”, “Tôi không thấu tỏ được”, “Tôi không biết, tôi phải tìm hiểu, tôi phải tra cứu, tôi phải tìm người để thông công, tôi phải tìm hỏi Bề trên”. Họ không bao giờ nói những lời như vậy. Nhất là khi đã có được địa vị, người như thế này không muốn mọi người nghĩ rằng họ là người bình thường và cũng có những điều họ không có khả năng làm, những điều họ không thể nhìn thấu hay hiểu được giống như bao người khác. Thay vào đó, họ luôn muốn mọi người lầm tưởng họ là siêu nhân. Vì vậy, khi có chuyện xảy ra với họ, họ không cần đưa những chuyện này đến trước Đức Chúa Trời nhiều hơn, và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành. Họ không cần phải tìm kiếm. Họ hiểu, biết và nhìn thấu mọi thứ xảy ra với họ sau chỉ vài phút. Họ không có gì là bại hoại hay yếu đuối. Họ không có gì là không thể nhìn thấu, không có gì là chưa trải nghiệm. Ngay cả đối với điều gì đó họ chưa trải nghiệm thì họ chỉ cần nhìn thoáng qua là đã thấu tỏ. Họ đơn thuần là một siêu nhân hoàn hảo. Đây có phải là biểu hiện của nhân tính bình thường không? (Thưa, không). Vậy thì, họ có phải là người bình thường không? Chắc chắn là không. Loại người này không thừa nhận rằng họ là một người bình thường, rằng họ có những điểm yếu, khuyết điểm và tâm tính bại hoại. Vậy thì, liệu họ có thể đến trước Đức Chúa Trời thường xuyên hơn với tấm lòng chân thành để tìm kiếm và cầu nguyện không? Chắc chắn là không. Điều này cho thấy rằng họ vẫn không có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, họ cũng không sống thể hiện ra nhân tính bình thường.

Nói Ta nghe, làm thế nào để ngươi có thể là người thông thường và bình thường? Làm sao ngươi, như Đức Chúa Trời phán, đứng đúng vị trí của một loài thọ tạo – làm sao để ngươi không cố trở thành siêu nhân hay một vĩ nhân nào đó? Ngươi nên thực hành như thế nào để trở thành một người thông thường và bình thường? Điều này có thể được thực hiện như thế nào? Ai sẽ trả lời? (Trước hết, chúng con phải thừa nhận rằng chúng con là những người bình thường, những người rất tầm thường. Chúng con có nhiều điều không hiểu, không lĩnh hội được, và không thể nhìn thấu. Chúng con phải thừa nhận rằng chúng con bại hoại và thiếu sót. Sau đó, chúng con phải có lòng chân thành và thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm). Trước hết, đừng cho mình chức danh và bị nó ràng buộc, nói rằng: “Tôi là lãnh đạo, tôi là trưởng nhóm, tôi là giám sát, không ai hiểu rõ công việc này hơn tôi, không ai hiểu các kỹ năng hơn tôi”. Đừng để bị cuốn vào chức danh tự bổ nhiệm của ngươi. Ngay sau khi ngươi làm vậy, điều này sẽ trói buộc ngươi, những gì ngươi nói và làm sẽ bị ảnh hưởng. Suy nghĩ và sự phán đoán bình thường của ngươi cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ngươi phải tự giải thoát mình khỏi xiềng xích của tình trạng này. Trước tiên, hãy hạ mình khỏi chức danh và vị trí chính thức này và đứng ở vị trí của một người bình thường. Nếu ngươi làm vậy, tâm lý của ngươi sẽ trở nên có phần bình thường. Ngươi cũng phải thừa nhận và nói: “Tôi không biết cách làm điều này, và tôi cũng không hiểu điều kia – tôi sẽ phải thực hiện một số nghiên cứu và học hỏi” hoặc “tôi chưa bao giờ trải nghiệm điều này nên tôi không biết phải làm thế nào”. Khi ngươi có khả năng nói những gì ngươi đang thực sự nghĩ và nói một cách trung thực, ngươi sẽ có được ý thức bình thường. Những người khác sẽ biết con người thật của ngươi, và do đó sẽ có cái nhìn bình thường về ngươi, và ngươi sẽ không phải giả vờ, cũng như sẽ không có bất kỳ áp lực lớn nào đối với ngươi, và vì vậy ngươi sẽ có thể trao đổi với mọi người một cách bình thường. Sống như thế này thật tự do và dễ dàng; bất cứ ai thấy cuộc sống mệt mỏi đều là do họ tự gây ra. Đừng giả vờ hoặc tỏ vẻ. Trước tiên, hãy cởi mở về những gì ngươi đang nghĩ trong lòng, về những suy nghĩ thực sự của ngươi, để mọi người biết về chúng và hiểu chúng. Kết quả là, những sự quan ngại của ngươi, những rào cản và sự nghi ngờ giữa ngươi và những người khác đều sẽ được loại bỏ. Ngươi cũng bị vướng bởi một thứ khác. Ngươi luôn coi bản thân mình là trưởng nhóm, là lãnh đạo, người làm công, hoặc người có chức vụ, địa vị và chỗ đứng: nếu ngươi nói rằng ngươi không hiểu điều gì đó hoặc không thể làm được điều gì đó, chẳng phải ngươi đang tự bôi nhọ mình sao? Khi ngươi gạt những gông cùm này trong lòng ngươi sang một bên, khi ngươi ngừng suy nghĩ rằng mình là một lãnh đạo hay một người làm công, và khi ngươi ngừng suy nghĩ rằng ngươi giỏi hơn những người khác và cảm thấy rằng ngươi là một người bình thường cũng giống y như mọi người khác, và rằng có một số lĩnh vực mà ngươi thua kém người khác – khi ngươi thông công lẽ thật và những vấn đề liên quan đến công việc với thái độ này, thì tác động sẽ khác, và bầu không khí cũng vậy. Nếu trong lòng ngươi luôn có những mối nghi ngại, nếu ngươi luôn cảm thấy căng thẳng và vướng mắc, và nếu ngươi muốn giải thoát mình khỏi những điều này nhưng không thể, thì ngươi nên nghiêm túc cầu nguyện với Đức Chúa Trời, phản tỉnh về bản thân, nhìn ra những khuyết điểm của mình, và phấn đấu hướng tới lẽ thật. Nếu có thể đưa lẽ thật vào thực hành thì ngươi sẽ đạt được kết quả. Dù ngươi làm gì thì cũng đừng nói và hành động từ một địa vị nhất định hay sử dụng một chức danh nhất định. Đầu tiên, hãy gạt tất cả những thứ này sang một bên và đặt mình vào vị trí của một người bình thường. Khi có người nói: “Chẳng phải anh là lãnh đạo sao? Chẳng phải anh phụ trách nhóm sao? Anh phải hiểu chuyện này chứ”. Đáp lại, ngươi nói: “Chỗ nào trong lời Đức Chúa Trời nói rằng, nếu là lãnh đạo hoặc trưởng nhóm thì người ta có thể hiểu mọi thứ? Tôi không hiểu chuyện này. Đừng đánh giá tôi theo cách nhìn của anh. Anh yêu cầu quá cao. Đúng, tôi là lãnh đạo, nhưng hiểu biết của tôi về lẽ thật vẫn còn quá nông cạn, tôi không biết phải đưa ra quyết định gì vì tôi chưa từng trải nghiệm chuyện này và tôi vẫn chưa thể nhìn thấu. Tôi cần cầu nguyện và tìm kiếm. Đức Chúa Trời đã phán rằng đừng băn khoăn về giải pháp cho điều ngươi không hiểu. Anh luôn muốn tôi hiểu ngay lập tức và đưa ra quyết định ngay lập tức. Nếu tôi đưa ra quyết định sai thì sao? Ai sẽ chịu trách nhiệm đây? Anh chịu trách nhiệm được không? Anh muốn tôi phạm sai lầm sao? Khi làm chuyện này, anh có chịu trách nhiệm cho tôi không? Chúng ta nên cùng nhau làm việc, cùng nhau cầu nguyện, tìm kiếm, và giải quyết chuyện này thật tốt”. Ngươi làm được như thế này không? Điều này có dễ làm không? Nếu ngươi có thể nói chuyện chân thành với người khác thì ngươi có thể nói: “Thật ra, vóc giạc của tôi cũng rất nhỏ. Nếu không tìm kiếm và cầu nguyện, tôi có thể phạm sai lầm bất cứ lúc nào. Đôi lúc, tôi không muốn mà vẫn cứ mắc sai lầm. Anh nghĩ vóc giạc của tôi lớn lắm sao? Anh đánh giá tôi quá cao rồi”. Khi người kia nghe những gì ngươi nói, trong lòng họ sẽ cảm nhận được rằng ngươi là một người rất trung thực và có thể nói thật lòng. Khi đó, họ sẽ không yêu cầu quá cao ở ngươi, mà thay vào đó, họ sẽ làm việc cùng ngươi. Nếu ngươi đưa điều này vào thực hành, ngươi sẽ trở nên hợp lý hơn trong những việc ngươi làm, ngươi sẽ không bị danh lợi, địa vị kìm kẹp và trói buộc, lòng ngươi sẽ được giải phóng. Ngươi sẽ có thể nói và làm với lòng cởi mở, ngươi sẽ có thể phối hợp hòa thuận với người khác và đối xử đúng đắn với các anh chị em. Lúc này, tình trạng của ngươi sẽ ngày càng bình thường và hành động của ngươi trở nên ngày càng hợp lý. Mọi người sẽ có thể nhìn thấy như vậy và nói: “Lãnh đạo này đã thực sự thay đổi. Anh ấy thực sự có lương tâm, lý trí và anh ấy sống thể hiện ra nhân tính bình thường. Có một người như vậy làm lãnh đạo, chúng ta cũng được lợi rất nhiều!” Vào lúc này, khi ngươi tham gia làm việc trở lại, cho dù đó là tìm kiếm và cầu nguyện hay đến gặp người khác để thông công, thì những gì ngươi làm đều danh chính ngôn thuận, và ngươi sẽ không còn nghi ngại gì. Trong mọi chuyện ngươi làm, ngươi làm theo cách vững vàng và ổn định. Ngươi không băn khoăn tìm giải pháp mà cứ để mọi việc diễn ra. Dù gặp phải điều gì, ngươi cũng có thể nêu ra với Đức Chúa Trời và dâng tấm lòng chân thành. Đây là một nguyên tắc mà ngươi có thể thực hành trong mọi việc. Dù là lãnh đạo, người làm công hay anh chị em, tất cả mọi người đều là người bình thường. Tất cả họ đều nên thực hành nguyên tắc này. Mọi người đều góp phần và có trách nhiệm đối với việc thực hành lời Đức Chúa Trời. Ngươi có thể là lãnh đạo, người làm công, trưởng nhóm, người phụ trách, hay người được đánh giá cao trong nhóm. Bất kể ngươi là ai, ngươi cũng nên học cách thực hành như thế này. Hãy tháo bỏ hào quang và danh hiệu mà ngươi đội trên đầu, cởi bỏ mão triều thiên mà người khác đã đặt lên ngươi. Khi đó, ngươi sẽ thấy trở thành một người bình thường thật dễ dàng, và ngươi sẽ hành động dựa trên lương tâm và lý trí thật dễ dàng. Tất nhiên, sau đó, nếu chỉ đơn thuần thừa nhận rằng ngươi không hiểu và không biết thôi thì chưa đủ. Đây không phải là biện pháp cuối cùng giúp giải quyết vấn đề. Biện pháp cuối cùng là gì? Hãy nêu ra sự tình và nỗi khó khăn với Đức Chúa Trời để cầu nguyện và tìm kiếm. Nếu người ta chỉ cầu nguyện thôi thì chưa đủ. Thay vào đó, ngươi phải cùng mọi người dâng lời cầu nguyện liên quan đến vấn đề này và gánh vác trách nhiệm, nghĩa vụ này. Đây là một cách làm việc tuyệt vời! Ngươi sẽ tránh đi theo con đường cố làm vĩ nhân và siêu nhân. Nếu ngươi có thể làm được như vậy thì tự lúc nào không hay, ngươi sẽ ở đúng vị trí của một loài thọ tạo và giải phóng bản thân khỏi xiềng xích của tham vọng cũng như ham muốn làm siêu nhân và vĩ nhân.

Đứng đúng vị trí của một loài thọ tạo và làm một người bình thường: có dễ làm được như thế này không? (Thưa, không dễ). Khó ở chỗ nào? Ở chỗ là: con người luôn cảm thấy trên đầu họ có nhiều hào quang và chức danh. Họ cũng tự phong cho mình thân phận, địa vị vĩ nhân và siêu nhân, làm hành động và biểu hiện giả tạo, giả vờ. Nếu ngươi không buông bỏ những thứ này, nếu những thứ này luôn kìm kẹp và kiểm soát lời nói và việc làm của ngươi, thì ngươi sẽ thấy khó bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời. Ngươi khó mà thôi băn khoăn tìm giải pháp cho điều ngươi không hiểu, khó mà đưa những điều đó đến trước Đức Chúa Trời nhiều hơn và dâng lên Ngài tấm lòng chân thành. Ngươi sẽ không thể làm được như vậy. Chính bởi vì địa vị của ngươi, chức danh của ngươi, thân phận của ngươi cùng tất cả những thứ như thế đều là giả và không thật, bởi vì chúng trái ngược và mâu thuẫn với lời Đức Chúa Trời, nên những thứ này ràng buộc ngươi hầu cho ngươi không thể đến trước Đức Chúa Trời. Những thứ này mang đến gì cho ngươi? Chúng khiến ngươi giỏi ngụy trang, giả vờ hiểu, giả vờ thông minh, giả vờ là vĩ nhân, giả vờ là danh nhân, giả vờ có năng lực, giả vờ khôn ngoan, và thậm chí giả vờ biết mọi thứ, có khả năng làm mọi thứ, và chuyện gì cũng làm được. Điều này là để những người khác tôn sùng và ngưỡng mộ ngươi. Họ sẽ đến gặp ngươi để chia sẻ mọi vấn đề, dựa vào ngươi và nể phục ngươi. Vì vậy, ngươi giống như tự đưa mình vào lửa nung. Nói Ta nghe, cảm giác bị nung trên lửa có dễ chịu không? (Thưa, không). Ngươi không hiểu, nhưng ngươi không dám nói rằng ngươi không hiểu. Ngươi không thể nhìn thấu, nhưng ngươi không dám nói rằng ngươi không thể nhìn thấu. Rõ ràng là ngươi đã phạm sai lầm nhưng ngươi lại không dám thừa nhận. Lòng ngươi đau khổ nhưng ngươi không dám nói: “Lần này đúng thật là lỗi của tôi, tôi mắc nợ Đức Chúa Trời và các anh chị em. Tôi đã gây tổn thất to lớn là thế cho nhà Đức Chúa Trời nhưng lại không đủ can đảm đứng trước mọi người và thừa nhận”. Tại sao ngươi lại không dám nói? Ngươi tin rằng: “Mình cần phải sống xứng đáng với danh tiếng và hào quang mà các anh chị em đã dành cho mình, mình không được phản bội sự nể trọng và tin tưởng mà họ dành cho mình, càng không được phản bội những kỳ vọng thiết tha mà họ đã dành cho mình suốt nhiều năm qua. Cho nên, mình phải tiếp tục giả vờ thôi”. Ngụy trang như vậy là thế nào? Ngươi đã biến mình thành vĩ nhân và siêu nhân thành công. Các anh chị em muốn đến gặp ngươi để hỏi chuyện, tham vấn, và thậm chí xin lời khuyên của ngươi về bất cứ vấn đề gì họ gặp phải. Có vẻ như họ thậm chí không thể sống thiếu ngươi được. Thế nhưng, chẳng phải lòng ngươi đang đau khổ sao? Tất nhiên là một số người không cảm thấy nỗi đau khổ này. Kẻ địch lại Đấng Christ không cảm thấy nỗi đau khổ này. Thay vào đó, họ vui thích và nghĩ địa vị của họ là cao hơn hết. Tuy nhiên, một người trung bình và bình thường thì sẽ cảm thấy đau khổ khi bị nung trên lửa. Họ cảm thấy mình chẳng là gì cả, chỉ như một người bình thường mà thôi. Họ không tin rằng họ mạnh hơn những người khác. Họ không chỉ nghĩ rằng họ không thể hoàn thành bất kỳ công việc thực tế nào mà còn sẽ trì hoãn công việc của hội thánh, trì hoãn dân sự được Đức Chúa Trời chọn, nên họ sẽ nhận lỗi và từ chức. Đây là một người có lý trí. Vấn đề này có dễ giải quyết không? Người có lý trí thì giải quyết vấn đề này dễ dàng, nhưng người thiếu lý trí thì sẽ khó mà làm được. Nếu, sau khi có được địa vị, ngươi trơ trẽn tận hưởng những lợi ích của địa vị và kết quả là ngươi bị vạch trần, bị đào thải vì không làm được công tác thực tế, thì đây là do ngươi tự chuốc lấy và ngươi đáng bị như vậy! Ngươi không xứng đáng được nhận dù chỉ một chút lòng thương hại hay lòng thương cảm. Tại sao Ta phán như vậy? Đó là bởi vì ngươi nhất quyết muốn đứng ở vị trí cao. Ngươi tự đưa mình vào lửa nung. Vết thương của ngươi là do ngươi tự gây ra. Nếu không muốn ngồi trên lửa nung thì ngươi nên từ bỏ mọi chức danh, hào quang này và nói cho các anh chị em biết tình trạng cũng như suy nghĩ thực trong lòng ngươi. Bằng cách này, các anh chị em có thể đối xử với ngươi thích đáng và ngươi không cần phải ngụy trang. Giờ đây, khi ngươi đã cởi mở và làm sáng tỏ tình trạng thực của mình, chẳng phải lòng ngươi cảm thấy thoải mái hơn, thư thái hơn sao? Tại sao phải lê bước với một gánh nặng như vậy trên lưng? Nếu ngươi tiết lộ tình trạng thật của mình, các anh chị em thật sự sẽ coi thường ngươi sao? Họ thật sự sẽ ruồng bỏ ngươi sao? Tuyệt đối là không. Ngược lại, các anh chị em sẽ tán thành và ngưỡng mộ ngươi vì dám nói thật lòng. Họ sẽ nói rằng ngươi là người trung thực. Điều này sẽ không cản trở công việc của ngươi trong hội thánh, cũng như không có chút tác động tiêu cực gì đến công việc ấy. Nếu các anh chị em thực sự thấy rằng ngươi gặp khó khăn thì họ sẽ chủ động giúp đỡ và làm việc cùng ngươi. Các ngươi nói gì đây? Chẳng phải sự việc sẽ diễn ra như thế sao? (Thưa, phải). Luôn ngụy trang để người khác nể phục mình, đây là việc làm ngu xuẩn nhất. Tốt nhất là ngươi nên làm một người bình thường có tấm lòng bình thường, có thể cởi mở với dân sự được Đức Chúa Trời chọn theo cách đơn sơ, thuần túy và thường nói chuyện tâm tình. Đừng bao giờ chấp nhận để người khác nể phục ngươi, ngưỡng mộ ngươi, khen ngợi ngươi quá mức, hoặc nói những lời tâng bốc. Ngươi nên từ chối tất cả những thứ này. Ví dụ như một số người có thể nói: “Chẳng phải anh là giáo sư đại học sao? Anh am hiểu như vậy, hẳn là anh hiểu biết sâu rộng về lẽ thật”. Hãy nói với họ: “Tôi là giáo sư đại học thì đã sao chứ? Không có lượng kiến thức nào có thể thay thế được lẽ thật. Kiến thức này đã khiến tôi khổ sở rất nhiều. Kiến thức này hoàn toàn vô dụng. Đừng đánh giá cao tôi, tôi chỉ là một người bình thường thôi”. Tất nhiên, một số người khó mà buông bỏ địa vị. Họ quả thật muốn trở thành người tầm thường, người bình thường và đứng đúng vị trí của một loài thọ tạo. Họ không muốn phải chịu khổ như vậy, nhưng họ lại không thể làm được. Họ luôn coi mình là người vượt trội và không thể bước xuống khỏi địa vị cao trọng của mình – như vậy là có vấn đề. Họ thích mọi người vây quanh họ, nhìn họ với ánh mắt ngưỡng mộ. Họ thích mọi người đến gặp họ để nhờ giải quyết mọi vấn đề, dựa vào họ, nghe lời họ và nể phục họ. Họ thích mọi người tin rằng họ là cao nhân, chuyện gì cũng nắm rõ, rằng họ toàn tri nên không có gì họ không hiểu, và thậm chí họ còn nghĩ rằng nếu mọi người coi họ là những người đắc thắng thì sẽ thật tốt và tuyệt vời biết bao. Như thế này là vô phương cứu chữa. Một số người tiếp nhận những lời khen và mão triều thiên mà người khác trao cho và đóng vai siêu nhân, vĩ nhân trong một thời gian, nhưng họ cảm thấy khó chịu và đau khổ. Họ nên làm gì? Những người muốn tâng bốc ngươi thực ra đều đang đưa ngươi vào lửa nung, và ngươi nên tránh xa họ. Hoặc nếu không, hãy tìm cơ hội phơi bày với họ sự thật về sự bại hoại của ngươi, nói với họ về tình trạng thật của ngươi, vạch trần những khuyết điểm và thất bại của ngươi. Theo cách này, họ sẽ không tôn sùng hay nể phục ngươi. Làm như vậy có dễ không? Trên thực tế, làm như vậy dễ. Nếu ngươi thực sự không thể làm được như vậy thì chứng tỏ ngươi quá kiêu ngạo và tự đại. Ngươi thực sự coi mình là một siêu nhân, vĩ nhân, và trong lòng ngươi không hề ghét bỏ, ghê tởm loại tâm tính này. Vì vậy, chỉ có thể chờ đến lúc vấp ngã khiến ngươi bị thất sủng trong mắt người khác. Nếu ngươi là người thực sự có lý trí, ngươi sẽ cảm thấy ghê tởm và buồn nôn với tâm tính bại hoại luôn muốn đóng vai siêu nhân và vĩ nhân. Chí ít, ngươi phải có cảm giác này. Chỉ khi đó ngươi mới có thể ghét chính mình và phản bội xác thịt. Ngươi nên thực hành như thế nào để làm một người tầm thường, một người bình thường, một người thông thường? Đầu tiên, ngươi nên từ chối và buông bỏ những thứ ngươi đang nắm giữ – những thứ mà ngươi cho là rất tốt và có giá trị, cũng như những lời hoa mỹ, hời hợt mà người khác ngưỡng mộ, ca ngợi ngươi. Nếu trong lòng ngươi hiểu rõ mình là loại người gì, thực chất của ngươi là gì, những khiếm khuyết của ngươi là gì, và sự bại hoại mà ngươi tỏ lộ là gì, thì ngươi nên cởi mở thông công điều này với những người khác, để họ có thể thấy tình trạng thực của ngươi là gì, những tư tưởng và quan điểm của ngươi là gì, để họ biết ngươi có kiến thức gì về những điều đó. Dù làm bất cứ điều gì, ngươi cũng đừng giả vờ hoặc tỏ vẻ, đừng che giấu sự bại hoại và khiếm khuyết của bản thân với người khác, để không ai biết về chúng. Loại hành vi giả tạo này là một chướng ngại trong lòng ngươi, cũng là một tâm tính bại hoại, và có thể ngăn cản người ta ăn năn và thay đổi. Ngươi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời, duy trì sự phản tỉnh và mổ xẻ những điều giả tạo như lời khen ngợi của những người khác dành cho ngươi, vinh quang mà họ tuôn đổ trên ngươi, và những chiếc mão triều thiên mà họ ban cho ngươi. Ngươi phải thấy tác hại của những thứ này đối với ngươi. Khi làm như vậy, ngươi sẽ đánh giá được chính mình, ngươi sẽ đạt được sự tự biết mình, và sẽ không còn coi mình là siêu nhân hay một vĩ nhân nữa. Một khi ngươi có sự tự nhận thức như vậy, lòng ngươi sẽ trở nên dễ dàng tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và những gì Đức Chúa Trời yêu cầu nơi con người, tiếp nhận sự cứu rỗi của Đấng Tạo Hóa đối với ngươi, kiên định là một người bình thường, một người trung thực và đáng tin cậy, và thiết lập một mối quan hệ bình thường giữa bản thân ngươi – một loài thọ tạo, và Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa. Đây chính xác là điều Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người, và là điều hoàn toàn có thể đạt được đối với họ. Đức Chúa Trời chỉ cho phép những người tầm thường, bình thường đến trước Ngài. Ngài không chấp nhận sự tôn thờ từ những kẻ ngụy trang hay từ những danh nhân, vĩ nhân và siêu nhân giả. Khi ngươi buông bỏ những hào quang giả này, thừa nhận rằng mình là một người tầm thường, bình thường và đến với Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật cũng như cầu nguyện với Ngài, thì tấm lòng ngươi dành cho Ngài sẽ chân thật hơn rất nhiều, và ngươi sẽ cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều. Vào lúc đó, ngươi sẽ cảm thấy mình cần Đức Chúa Trời hỗ trợ và giúp đỡ, ngươi sẽ có thể đến trước Đức Chúa Trời thường xuyên hơn để tìm kiếm và cầu nguyện với Ngài. Nói Ta nghe, các ngươi nghĩ rằng làm vĩ nhân, siêu nhân hay làm người bình thường thì dễ hơn? (Thưa, làm người bình thường). Về lý thuyết, làm người bình thường thì dễ còn làm vĩ nhân hay siêu nhân thì khó, và điều này luôn gây đau khổ. Tuy nhiên, khi con người đưa ra lựa chọn của riêng mình và đưa điều này vào thực hành thì họ không thể kìm nổi mong muốn được là siêu nhân hay vĩ nhân. Họ không thể cưỡng lại được. Đây là do thực chất bản tính của họ gây ra. Vì vậy, con người phải cần sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Trong tương lai, khi có người hỏi các ngươi rằng “Làm thế nào để ai đó có thể thôi cố làm siêu nhân và vĩ nhân?” thì các ngươi có thể trả lời câu hỏi này không? Tất cả những gì các ngươi cần làm là thực hành phương pháp Ta đã đặt ra. Hãy là một người bình thường, đừng ngụy trang, hãy cầu nguyện với Đức Chúa Trời và học cách cởi mở theo lối đơn giản và nói chuyện thật lòng với những người khác. Thực hành như vậy, ngươi tự nhiên sẽ có được kết quả. Dần dần, ngươi sẽ học được cách làm người bình thường, ngươi sẽ không còn mệt mỏi với cuộc sống, không còn đau khổ, không còn đau đớn. Hết thảy mọi người đều là người bình thường. Giữa họ không có sự khác biệt, ngoại trừ là họ có những ân tứ cá nhân khác nhau và họ có thể có tố chất khác nhau phần nào. Nếu không có sự cứu rỗi và bảo vệ của Đức Chúa Trời thì tất cả họ đều sẽ hành ác và phải chịu sự trừng phạt. Nếu ngươi có thể thừa nhận rằng mình là một người bình thường, nếu ngươi có thể bước ra khỏi sự tưởng tượng, ảo tưởng trống rỗng của con người và tìm cách làm một người trung thực, làm những việc thành thực, nếu ngươi có thể tận tâm vâng phục Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ không gặp vấn đề gì và ngươi sẽ hoàn toàn sống thể hiện ra hình tượng giống con người. Đơn giản thế thôi, vậy thì sao lại không có con đường chứ? Điều Ta vừa phán rất đơn giản. Trên thực tế, sự việc diễn ra chính xác như vậy. Những ai yêu lẽ thật thì có thể hoàn toàn tiếp nhận lẽ thật, và họ cũng sẽ nói: “Thật ra, Đức Chúa Trời không đòi hỏi quá nhiều ở con người. Lương tâm và lý trí của con người có thể đáp ứng những yêu cầu của Ngài. Không khó để người ta làm tròn bổn phận. Nếu người ta hành động thật tâm và có ý muốn, mong muốn đưa điều này vào thực hành thì họ sẽ đạt được dễ dàng”. Nhưng một số người lại không thể đạt được. Đối với những người luôn có tham vọng và ham muốn, luôn muốn trở thành siêu nhân và vĩ nhân, thì dù họ có muốn làm người bình thường cũng không dễ. Họ luôn cảm thấy mình vượt trội và giỏi hơn người khác, nên toàn bộ lòng trí họ dành trọn cho ham muốn làm siêu nhân hoặc vĩ nhân. Họ không những không sẵn lòng làm người bình thường và ở đúng vị trí của mình với tư cách là loài thọ tạo, mà họ còn thề rằng sẽ không bao giờ thôi theo đuổi mong muốn làm siêu nhân và vĩ nhân. Đây đúng là vô phương cứu chữa.

Có một số người không tìm kiếm lẽ thật và không cầu nguyện với Đức Chúa Trời bất kể gặp phải chuyện gì. Họ chỉ hành động dựa trên mong muốn, ân tứ và tố chất của riêng họ. Ngay cả khi họ có cầu nguyện với Đức Chúa Trời, họ cũng chỉ làm chiếu lệ, và họ nghĩ thầm: “Đức Chúa Trời có khai sáng cho mình hay không là việc của Ngài ấy. Mình sẽ chỉ hành động theo cách mà mình cho là tốt nhất thôi”. Họ cảm thấy hoàn toàn có khả năng tự mình giải quyết những vấn đề này và hoàn toàn có đủ năng lực cho công việc họ làm. Đối với họ, cầu nguyện với Đức Chúa Trời chỉ là việc làm cho có lệ. Những người như vậy thì như thế nào? Họ có thể thừa nhận mình là người tầm thường, bình thường không? Họ có thể bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời không? (Thưa, hoàn toàn không). Có phải những người như vậy nghĩ rằng chuyện gì họ cũng làm được không? (Thưa, phải). Họ tin rằng ngay cả khi không hành động phù hợp với lời Đức Chúa Trời thì họ vẫn có thể xử lý được bất cứ chuyện gì, rằng họ không cần tìm kiếm lời Đức Chúa Trời mà vẫn có thể hoàn thành công việc chẳng chút rắc rối hay khó khăn. Những người như vậy đang bước đi trên con đường gì? Có phải là con đường mưu cầu trở thành siêu nhân và vĩ nhân không? (Thưa, phải). Cho dù họ có gây họa lớn và nhiều đến đâu hay họ phạm bao nhiêu vi phạm thì đối với họ, đó cũng chẳng là gì cả. Chỉ cần họ làm được nhiều việc, tích lũy được những thành tích nhất định và có cảm giác ưu việt nhất định, thì họ cảm thấy rằng mình có nguồn lực và khả năng. Họ nghĩ mình là người đã làm việc chăm chỉ và đạt được nhiều thành tựu cho nhà Đức Chúa Trời. Họ không cần lời Đức Chúa Trời. Họ không cần công tác của Đức Chúa Trời. Bản thân họ có thể làm bất cứ chuyện gì. Những người như vậy sẽ không bao giờ đến trước Đức Chúa Trời. Họ khoe khoang rằng họ không gì là không thể làm được. Khi gặp phải chuyện gì đó, họ không bao giờ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cũng không tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, càng không thông công với các anh chị em. Họ cũng không bao giờ tìm kiếm Bề trên, càng không tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời. Họ nghĩ rằng trong lời Đức Chúa Trời, nhiều điều không được đề cập tới và không được giải thích cụ thể, nên dù họ có tự mình giải quyết những điều như vậy thì cũng không sao. Tự lúc nào không hay, họ đã gạt Đức Chúa Trời sang một bên. Tự lúc nào không hay, họ khinh thường người khác và chà đạp mọi người dưới chân. Con đường họ đang đi là con đường trở thành danh nhân, vĩ nhân và siêu nhân. Đến cuối cùng, loại người này không thể kiên vững được. Nếu ngươi yêu cầu họ học cách thừa nhận rằng họ là người bình thường, rằng họ có khả năng phạm sai lầm, mắc phải vi phạm và thất bại, và rằng họ có nhiều lỗi lầm, khuyết điểm, thì liệu họ có làm được không? (Thưa, họ không thể). Nếu ngươi bảo họ cởi bỏ những hào quang và mão triều thiên ấy, buông bỏ sự tôn sùng mà các anh chị em dành cho họ, từ bỏ danh tiếng và địa vị của họ trong hội thánh, thì liệu họ có đồng ý không? (Thưa, họ sẽ không đồng ý). Họ sẽ nói: “Làm sao tôi có thể cam tâm từ bỏ danh tiếng và mão triều thiên mà tôi vất vả kiếm được như vậy chứ? Tôi không ngốc đến thế đâu!” Họ háo hức muốn mọi người coi họ như những siêu nhân và vĩ nhân. Họ không thích mọi người nhìn thấy lỗi lầm, khuyết điểm của họ và đối xử với họ như những người bình thường. Họ càng không thích mọi người vạch trần những sai lầm, thất bại và hành vi của họ. Những người như vậy có thể thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và tìm kiếm lẽ thật không? (Thưa, họ không thể). Ngay cả khi họ đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện thì liệu lòng họ có chân thành không? Không. Tất cả những gì họ nói và làm đều vì mão triều thiên trên đầu và danh tiếng của chính họ. Họ làm việc cho mọi người xem, nhưng không chấp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời và không thể dâng lên Đức Chúa Trời tấm lòng chân thành – thứ mà họ không có. Họ không tài nào hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời trong lời Đức Chúa Trời, không tài nào hành động phù hợp với những gì Đức Chúa Trời yêu cầu. Vì vậy, ngay cả khi loại người này có muốn tìm kiếm lẽ thật và muốn thoát khỏi ham muốn trở thành danh nhân hay vĩ nhân thì họ cũng không chân thành. Họ không thể phản bội xác thịt, họ cũng không thể thực hành lẽ thật. Họ là loại người như thế nào? Họ là những kẻ chẳng tin. Họ là những kẻ địch lại Đấng Christ. Một khi những kẻ địch lại Đấng Christ có địa vị, quyền thế và một chút danh tiếng giữa mọi người, họ sẽ lao vào thành lập một vương quốc độc lập, đi vào một con đường không thể quay đầu. Cho dù ngươi có thông công về lẽ thật với họ hay tỉa sửa và xử lý họ bao nhiêu lần đi chăng nữa thì cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Trong nhà Đức Chúa Trời, thông công về lẽ thật, nói về chứng ngôn trải nghiệm, tìm cách yêu kính Đức Chúa Trời và làm chứng cho Đức Chúa Trời, tham gia thông công dựa trên sự hiểu biết thuần khiết và các nguyên tắc của lẽ thật – những điều tích cực này chỉ hiệu nghiệm đối với những ai yêu lẽ thật và có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt. Đối với những ai không yêu lẽ thật, những ai chỉ theo đuổi phước lành, những ai thích đóng vai siêu nhân và vĩ nhân, thì chúng chẳng hề có tác dụng gì. Mọi lẽ thật, những lời đúng đắn và những điều tích cực đều dành cho những ai yêu lẽ thật, yêu lời Đức Chúa Trời và có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt. Sau khi nghe lẽ thật, những người không có các phẩm chất này cũng sẽ nói rằng lẽ thật là đúng và lẽ thật là hay, nhưng họ sẽ suy ngẫm và nghĩ: “Mình sống vì cái gì? Mình sống vì danh tiếng, địa vị, mão triều thiên, hào quang và phần thưởng của Đức Chúa Trời. Không có những thứ này, mình còn có tôn nghiêm không? Ý nghĩa cuộc sống của mình là gì? Chẳng phải đức tin nơi Đức Chúa Trời chỉ là phương tiện để chạy theo phần thưởng và mão triều thiên sao? Giờ đây, khi mình đã trả giá rất nhiều bằng cả trái tim và máu của mình, và sau khi chờ đợi lâu như vậy, cuối cùng cũng đến lúc Đức Chúa Trời thưởng thiện phạt ác. Đây là lúc mình nên được trao mão triều thiên và nhận phần thưởng. Làm sao mình có thể nhường điều này cho người khác chứ? Sống làm một người bình thường, một người tầm thường giống như bao người thông thường khác thì có ích gì chứ? Mình không ngốc thế đâu!” Chẳng phải người như vậy thật vô phương cứu chữa sao? (Thưa, phải). Đừng tìm cách thuyết phục những người như vậy. Lẽ thật không dành cho họ, và điều họ muốn không phải là lẽ thật. Loại người này chỉ tìm kiếm phước lành và mão triều thiên. Những ham muốn và tham vọng của họ vượt quá giới hạn những gì cần thiết đối với người bình thường. Một số người không thể tưởng tượng được tại sao loại người này lại bám lấy địa vị, quyền lực và không chịu buông bỏ. Đây là thực chất và bẩm tính của loại người này. Ngươi không thể hiểu được là vì thực chất của ngươi khác với thực chất của họ, và họ cũng không thể hiểu được ngươi. Họ không biết tại sao ngươi lại ngu ngốc đến vậy. Ngươi không muốn những mão triều thiên có sẵn, không muốn hào quang và danh tiếng, mà thay vào đó, ngươi thà làm một người bình thường. Họ thấy ngươi là người mà họ không thể hiểu được. Kiểu người này nghĩ: “Anh tận tâm mưu cầu lẽ thật, anh thực hành những gì Đức Chúa Trời bảo anh, anh làm những gì Đức Chúa Trời bảo anh làm, anh vâng phục bất cứ điều gì Đức Chúa Trời bảo anh vâng phục. Sao anh có thể ngu ngốc đến thế?” Họ nghĩ rằng làm người trung thực và thực hành lẽ thật là ngu ngốc, dốt nát và đần độn. Họ tin rằng họ thông minh khi theo đuổi kiến thức và đóng vai một người vượt trội. Nghĩ rằng mình hiểu mọi thứ, họ kết luận rằng “cuộc sống của một người không có địa vị, danh tiếng, không đội mão triều thiên trên đầu, không có giá trị gì giữa mọi người và không có quyền lên tiếng là cuộc sống vô giá trị. Nếu người ta không sống vì danh thì họ phải sống vì lợi. Nếu không vì lợi thì họ phải sống vì danh”. Đây chẳng phải là lô-gic của Sa-tan sao? Sống theo lô-gic của Sa-tan thì họ đúng là vô phương cứu chữa. Họ không bao giờ có thể tiếp nhận bất kỳ lời nào của Đức Chúa Trời, bất kỳ điều tích cực nào hay lời khuyên đúng đắn nào. Nếu họ không thể tiếp nhận những điều như vậy thì còn làm gì được nữa? Những lời này chúng ta không nói với họ. Những lời này chỉ dành cho những người có nhân tính bình thường, chỉ dành cho những người có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt. Những lời này chỉ dành cho những người như vậy. Chỉ những người như vậy mới có thể nghiêm túc lắng nghe và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, đạt đến hiểu lẽ thật, hành động phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật, thực hiện bổn phận theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời trong những hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã an bài, và dần dần bước vào thực tế lẽ thật. Đối với những người ngấm ngầm nuôi lòng khinh miệt và thù địch những điều tích cực cũng như lời Đức Chúa Trời, họ không thể cam tâm sống một cuộc sống tầm thường, không có gì nổi bật, làm một người tầm thường, tận tâm đến trước Đức Chúa Trời, hết lòng tìm kiếm và chờ đợi khi gặp những chuyện họ không hiểu. Họ không cam tâm làm một người như vậy. Vì thế, dạng người này không thể được cứu rỗi. Thiên quốc không được chuẩn bị cho những người này. Các ngươi hiểu không? (Thưa, chúng con hiểu). Bất cứ ai có thể làm loài thọ tạo tầm thường, bình thường mà Đức Chúa Trời nói đến, và đứng vào vị trí thích hợp của một loài thọ tạo, bất cứ ai sẵn lòng làm kẻ ngu ngốc bị người khác coi thường, có thể tiếp nhận và vâng phục lời Đức Chúa Trời bất kể Ngài phán gì, thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời, thường xuyên tìm kiếm, và có lòng chân thành, thì có thể trở thành một trong những người đắc thắng mà Đức Chúa Trời nói đến. Bất cứ ai trở thành một trong những người đắc thắng mà Đức Chúa Trời nói đến thì rốt cuộc sẽ nhận được điều mà Đức Chúa Trời đã hứa với nhân loại. Chắc chắn là như vậy.

Khi Đức Chúa Trời suy xét liệu một cá nhân là tốt hay xấu, liệu họ có mưu cầu lẽ thật hay không và liệu họ có thể đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời hay không, Ngài xem xét sự hiểu biết của họ về lời Ngài và thái độ của họ đối với lời Ngài. Ngài xem xét liệu họ có thể thực hành những lẽ thật mà họ hiểu hay không. Ngài xem xét liệu họ có thể tiếp nhận lẽ thật khi bị tỉa sửa, xử lý và khi trải qua những sự thử luyện hay không. Ngài xem xét liệu họ có khao khát và tiếp nhận Đức Chúa Trời với lòng chân thành hay không. Đức Chúa Trời không xét về trình độ học vấn, tố chất của họ, không xét xem họ sở hữu bao nhiêu ân tứ, họ đã đi bao xa, hay họ đã làm bao nhiêu việc. Đức Chúa Trời không xem xét những điều này, Ngài cũng không ham muốn gì những điều này. Ngươi luôn muốn đưa ra những ham muốn và tham vọng của mình với Đức Chúa Trời và đổi chúng lấy phần thưởng, lấy mão triều thiên, nhưng ngươi luôn làm ngơ và phớt lờ lời Đức Chúa Trời. Mặc dù Đức Chúa Trời đã phán hàng ngàn ngàn lời nhưng không một lời nào của Đức Chúa Trời đọng lại trong lòng ngươi. Thậm chí không một lời khuyên răn nào của Đức Chúa Trời, lời cảnh báo hay nhắc nhở nào của Ngài, hay thậm chí là sự phán xét, hình phạt hay giáo huấn nào của Ngài – không một lời nào trong số này có trong lòng ngươi. Lòng ngươi không lấy một lời phán nào của Đức Chúa Trời làm phương châm cả. Lòng ngươi không nhớ một lời nào của Đức Chúa Trời và đồng thời, ngươi không hề trả giá gì để thực hành và bước vào lời Đức Chúa Trời. Nếu tất cả những điều này đều là thật thì từ góc nhìn của Đức Chúa Trời, kết cục và đích đến của ngươi đã được định sẵn. Nếu như trước mặt của Đức Chúa Trời, trước mặt Đấng Tạo Hóa, ngươi không cam tâm làm một người bình thường hay tầm thường; nếu như trước mặt Đấng Tạo Hóa, ngươi dám hành động xấc xược; nếu ngươi luôn muốn đóng vai vĩ nhân, siêu nhân, cá nhân phi thường, và ngươi không ở vị trí mà Đức Chúa Trời đã ban cho, thì ngươi còn muốn đạt được gì từ Đức Chúa Trời chứ? Liệu Đức Chúa Trời có ban cho ngươi không? Nếu con người muốn đạt được những gì Đức Chúa Trời đã hứa với con người thì trước tiên, họ phải đi theo con đường của Đức Chúa Trời. Đây là định hướng chung, còn định hướng cụ thể là, họ phải lắng nghe và thực hành lời Đức Chúa Trời. Con đường này sẽ không bao giờ khiến họ đi chệch hướng. Hãy lắng nghe và thực hành lời Đức Chúa Trời, biến lời Đức Chúa Trời thành thực tế sống của ngươi, thành nền tảng, nguyên tắc, phương hướng và mục tiêu của lời ngươi nói, cách ngươi hành xử, cách ngươi nhìn nhận sự việc và cách ngươi làm việc. Nói thế nghĩa là, những gì ngươi nói và những phán đoán mà ngươi đưa ra phải lấy lời Đức Chúa Trời làm cơ sở. Bất cứ khi nào ngươi muốn tiếp xúc với một kiểu người và tránh né hoặc từ chối một kiểu người khác, ngươi phải có lời Đức Chúa Trời làm nền tảng. Ngay cả khi ngươi tức giận và mắng chửi người khác, hành động của ngươi cũng phải có nguyên tắc, bối cảnh, và về cơ bản phải phù hợp với lẽ thật. Bằng cách này, ngươi sẽ sống thể hiện ra thực tế của lời Đức Chúa Trời và được Đức Chúa Trời khen ngợi. Mưu cầu bước vào thực tế lẽ thật là một quá trình mưu cầu lẽ thật và sống thể hiện ra nhân tính bình thường để trở thành một loài thọ tạo đủ tư cách. Đây cũng là quá trình giải phóng bản thân khỏi việc cố làm siêu nhân, làm người đặc biệt, làm danh nhân hay vĩ nhân. Nếu ngươi muốn thoát khỏi con đường phấn đấu trở thành siêu nhân, danh nhân, vĩ nhân, hay kiểu phương thức theo đuổi này, thì trước tiên ngươi phải hạ mình, khiêm nhường, thừa nhận mình là một con người, là một con người tầm thường, và là một con người không làm được gì nếu không có sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời – chỉ là một người bình thường mà thôi. Ngươi phải thừa nhận mình chẳng là gì khi tách khỏi Đức Chúa Trời và tách khỏi lời Đức Chúa Trời. Ngươi là người sẵn lòng tiếp nhận quyền tối thượng và sự sắp đặt của Đấng Tạo Hóa. Nếu không có hơi thở mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi – không có tất cả những gì Ngài đã ban cho ngươi – thì ngươi chỉ là một cái xác và chẳng ra gì. Tất nhiên, khi thừa nhận những điều này, ngươi cũng phải đến trước Đức Chúa Trời và tiếp nhận mọi lời sự sống mà Ngài đã phán. Quan trọng nhất, ngươi phải bước vào thực tế của những lời phán này của Đức Chúa Trời, biến lời Đức Chúa Trời thành sự sống của ngươi, khiến chúng trở thành nền tảng và cơ sở cho cuộc sống và sự tồn tại của ngươi, biến chúng thành nguồn lực và sự hỗ trợ cho sự sống còn của ngươi trong suốt cuộc đời ngươi. Đây là ý muốn của Đức Chúa Trời và yêu cầu cao nhất của Ngài đối với con người.

Hôm nay, chủ đề chính cho buổi thông công của chúng ta là cách đối đãi với lời Đức Chúa Trời, cách ăn uống lời Đức Chúa Trời, cách con người nên trân quý lời Đức Chúa Trời, và cách họ nên thực hành lời Đức Chúa Trời để bước vào thực tế lẽ thật và được cứu rỗi. Chúng ta chủ yếu đã thông công về tầm quan trọng của lời Đức Chúa Trời. Đây chính là những điều các ngươi thiếu kém, và là những điều mà con người nên có. Nếu Ta không thông công theo cách này thì ngươi sẽ không thể nhìn thấy rõ những điều như vậy. Các ngươi có vẻ có chút kiến thức tiềm thức nhưng lại không thể giải thích rõ ràng những gì ngươi biết. Tình huống này cũng giống như khi viết một bài, khi dàn ý đã được lập sẵn nhưng ngươi vẫn không thể bổ sung thêm nội dung. Đây là tình hình thực tế của các ngươi. Buổi thông công hôm nay về những điều này là một lời nhắc nhở và cảnh báo cho ngươi. Đối với mỗi người, lời Đức Chúa Trời là quan trọng nhất, và không gì có thể thay thế lẽ thật. Một khi hiểu được điểm này thì các ngươi sẽ có con đường thực hành. Ngươi phải nỗ lực nhiều hơn để ăn uống lời Đức Chúa Trời và thực hành lời Đức Chúa Trời để bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời. Ngươi nên làm gì nếu cảm thấy vóc giạc của mình quá nhỏ, khả năng nhận thức thấu đáo của mình còn thiếu kém, và ngươi không thể thấu tỏ hay hiểu sâu lời Đức Chúa Trời và không thể áp dụng chúng cho bản thân mình? Hãy bắt đầu bằng cách ăn uống dần dần. Ngươi hãy ghi tâm những lời đơn giản, dễ hiểu mà ngươi có thể tự mình thực hành, hãy biến chúng thành những nguyên tắc mà ngươi tuân theo trong thực hành, và hành động phù hợp với lời Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời bảo đi về hướng Đông thì hãy đi về hướng Đông. Nếu Đức Chúa Trời bảo đi về hướng Tây thì hãy đi về hướng Tây. Nếu Đức Chúa Trời bảo hãy cầu nguyện nhiều hơn thì hãy cầu nguyện nhiều hơn. Hãy làm bất cứ điều gì Đức Chúa Trời bảo. Thà bị người khác coi là kẻ ngốc còn hơn là làm kẻ mà Sa-tan coi là khôn khéo và thông minh. Chỉ những người chọn thực hành lẽ thật với mục đích duy nhất là được Đức Chúa Trời khen ngợi mới là những người thực sự thông minh và khôn ngoan.

Ngày 25 tháng 9 năm 2021

Trước: Cần phải điều chỉnh lại mối quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời

Tiếp theo: Cách con người bước vào thời đại mới

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger