Những lời về việc nhận thức công tác và tâm tính của Đức Chúa Trời

Trích đoạn 19

Hầu hết mọi người không hiểu công tác của Đức Chúa Trời, nên đức tin của họ quá nhỏ bé. Biết Đức Chúa Trời không phải là chuyện dễ; trước hết, người ta phải biết rằng mọi công tác của Đức Chúa Trời đều có kế hoạch và tất thảy được thực hiện theo thời điểm Đức Chúa Trời định. Con người vĩnh viễn không thể hiểu thấu được Đức Chúa Trời làm gì và làm khi nào; Đức Chúa Trời làm một số công tác nhất định vào một thời điểm nhất định, và Ngài không trì hoãn; không ai có thể phá hủy công tác của Ngài. Làm việc theo kế hoạch của Ngài và theo ý định của Ngài là nguyên tắc mà Ngài thực hiện công tác của Ngài, và không ai có thể thay đổi điều này. Ở đó, ngươi sẽ thấy tâm tính của Đức Chúa Trời. Công tác của Đức Chúa Trời không chờ đợi ai, và khi đến thời điểm thực hiện công tác nào đó thì công tác đó phải được hoàn thành. Các ngươi đều đã trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong mấy năm qua. Ai có thể phá hoại cách Ngài cung dưỡng cho con người, ai có thể ngăn Ngài phán lời khi Ngài cần nói và ai có thể ngăn Ngài thực hiện công tác khi nó cần được thực hiện chứ? Khi mới bắt đầu rao truyền phúc âm, hầu hết mọi người phân phát sách lời Đức Chúa Trời cho người ở các nhà thờ và người trong tôn giáo. Kết quả thế nào? Rất ít người tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời, mà hầu hết họ đều phỉ báng, phán xét và đầy thù địch. Có người đốt sách, có người tịch thu sách, có người đánh đập những ai rao truyền phúc âm, ép họ nhận tội, thậm chí có người còn gọi cảnh sát để bắt giữ và bách hại họ. Vào lúc đó, mọi giáo phái đều điên cuồng chống đối, nhưng cuối cùng, phúc âm vương quốc vẫn được rao truyền khắp Trung Quốc đại lục. Ai có thể phá hoại việc thực thi ý muốn của Đức Chúa Trời chứ? Ai có thể cản trở sự mở mang phúc âm vương quốc của Đức Chúa Trời chứ? Chiên của Đức Chúa Trời thì nghe tiếng Ngài, những ai nên được Đức Chúa Trời thu phục thì sớm hay muộn cũng sẽ được thu phục. Đây là chuyện mà không ai phá hoại được. Cũng như có câu trong sách Châm ngôn: “Lòng của vua ở trong tay Ðức Giê-hô-va khác nào dòng nước chảy; Ngài làm nghiêng lệch nó bề nào tùy ý Ngài muốn” (Châm ngôn 21:1), huống gì những kẻ vô danh tiểu tốt? Đức Chúa Trời có kế hoạch và sự an bài của Ngài về thời điểm Ngài thực hiện công tác nào. Có người luôn xét đoán rằng Đức Chúa Trời không thể làm việc này việc kia, nhưng đó chỉ là tưởng tượng của con người mà thôi. Cho dù con người phá hoại đến thế nào, cho dù Sa-tan gây nhiễu loạn đến đâu, cũng chẳng có tác dụng gì cả, và chúng sẽ không thể cản trở công tác của Đức Chúa Trời. Công tác của Đức Thánh Linh quyết định mọi sự, và không có công tác của Đức Thánh Linh thì người ta chẳng thành tựu được gì. Đối với chuyện này, con người phải có dạng lý trí nào? Khi người ta nhận ra Đức Thánh Linh không công tác, họ phải buông bỏ những quan niệm của mình và phải cẩn trọng đừng làm việc gì mù quáng. Chọn lựa khôn ngoan chính là tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời và chờ thời điểm của Ngài. Có người luôn dựa vào những quan niệm và tưởng tượng của con người mà chạy trước Đức Chúa Trời, kết quả là Đức Thánh Linh không công tác và nỗ lực của họ chỉ là công dã tràng. Tuy nhiên, người ta phải làm những gì mình nên làm, phải thực hiện bổn phận của mình. Ngươi không thể thụ động chờ đợi vì sợ sẽ làm sai gì đó, ngươi càng không được nói: “Đức Chúa Trời chưa làm việc này, Đức Chúa Trời chưa phán rằng Ngài muốn tôi làm gì, nên hiện giờ, tôi sẽ không làm gì cả”. Đây chẳng phải là không thực hiện bổn phận sao? Ngươi phải nghĩ cho thông chuyện này, vì nó không phải là chuyện nhỏ, và chỉ cần một sai sót trong suy nghĩ đã có thể gây hại cho tiền đồ của ngươi hoặc hủy hoại ngươi.

Trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, bất kỳ công tác nào Đức Chúa Trời làm thì đều làm theo lịch trình, vào đúng thời điểm, cực kỳ chính xác, tuyệt đối không theo tưởng tượng của những người nói rằng: “Thế này không được, thế kia không được, sẽ chẳng được gì đâu!” Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, với Ngài không có gì là khó thành cả. Từ Thời đại Luật pháp, qua Thời đại Ân điển, cho đến Thời đại Vương quốc, mỗi một bước công tác của Đức Chúa Trời đều đi ngược lại với quan niệm của con người vốn nghĩ là việc đó bất khả thi. Dù vậy, cuối cùng tất cả đều thành sự, Sa-tan hoàn toàn thất bại và bị hạ nhục, con người thì phải che miệng trong hổ thẹn.[a] Con người có thể làm gì đây? Họ còn không thể thực hành lẽ thật, thế mà vẫn có thể kiêu ngạo, tự đại và nghĩ rằng việc gì mình cũng làm được, lòng họ đầy những dục vọng ngông cuồng, họ không hề có lời chứng thực sự nào. Thậm chí còn có những người nghĩ rằng: “Ngày của Đức Chúa Trời sắp đến, chúng ta sẽ không phải chịu khổ nữa, chúng ta sẽ có cuộc sống tốt đẹp, hồi kết cận kề rồi”. Để Ta nói cho các ngươi nghe, những người như thế chỉ đang a dua và bỡn cợt, cuối cùng họ sẽ chỉ bị trừng phạt và chẳng đạt được gì! Tin Đức Chúa Trời để thấy ngày của Đức Chúa Trời và thoát khỏi đại họa thì có giúp người ta đạt được lẽ thật và sự sống không? Bất kỳ ai tin Đức Chúa Trời để hòng thoát khỏi tai họa và thấy ngày của Đức Chúa Trời, thì họ đều sẽ diệt vong. Nhưng những ai tin để mưu cầu lẽ thật, để được cứu rỗi nhờ sự thay đổi tâm tính thì sẽ tồn tại. Họ là những người thật sự tin Đức Chúa Trời. Những ai tin kiểu hồ đồ thì cuối cùng sẽ chẳng đạt được gì, chỉ nhọc mình vô ích và sẽ bị trừng phạt nặng hơn. Tất cả mọi người đều thiếu thấu suốt nghiêm trọng. Những ai tin Đức Chúa Trời mà không lo làm nhiệm vụ của mình, luôn nghĩ về chuyện ác, thì chính là những kẻ hành ác, họ là những kẻ chẳng tin và họ chỉ tự hại mình mà thôi. Chẳng phải người tin Đức Chúa Trời và kẻ chẳng tin đều nằm trong tay Đức Chúa Trời sao? Ai có thể thoát khỏi tay Đức Chúa Trời chứ? Không một ai. Những ai thoát ra, cuối cùng đều phải trở về với Đức Chúa Trời và bị trừng phạt. Đây là chuyện rõ ràng, tại sao con người không thể thấy rõ được cơ chứ?

Có người tin Đức Chúa Trời Toàn Năng mà không có chút hiểu biết nào về sự toàn năng của Đức Chúa Trời. Họ luôn mãi mơ hồ về câu hỏi sau đây: “Vì Đức Chúa Trời toàn năng, có thẩm quyền, có thể tể trị vạn vật, vậy tại sao Ngài vẫn tạo ra Sa-tan, cho phép nó làm bại hoại nhân loại suốt 6.000 năm và đẩy thế gian vào tình trạng hỗn loạn? Tại sao Đức Chúa Trời không tiêu diệt Sa-tan? Nếu Sa-tan bị tiêu diệt, chẳng phải con người sẽ có đời sống tốt đẹp hơn sao?”. Hầu hết mọi người nghĩ theo cách này. Hiện tại, các ngươi có thể giải thích về vấn đề này chưa? Chuyện này liên quan đến lẽ thật về các khải tượng. Nhiều người đã suy nghĩ về câu hỏi này, nhưng giờ các ngươi đã có được nền tảng nhất định, các ngươi sẽ không nghi hoặc Đức Chúa Trời vì chuyện này. Tuy nhiên, phải xóa tan sự mơ hồ về chuyện này. Có người hỏi: “Tại sao Đức Chúa Trời để cho thiên sứ trưởng phản bội Ngài? Có lẽ nào Đức Chúa Trời không biết thiên sứ trưởng có thể phản bội Ngài sao? Đức Chúa Trời không kiểm soát được nó, Ngài cho phép nó, hay là Ngài có mục đích gì đó?”. Người ta đặt câu hỏi này cũng là chuyện bình thường, và họ nên biết rằng câu hỏi này liên quan đến toàn bộ kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời an bài cho thiên sứ trưởng tồn tại và sự phản bội của thiên sứ trưởng được Đức Chúa Trời cho phép và an bài, chắc chắn là chuyện này nằm trong phạm vi kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cho phép thiên sứ trưởng, sau khi phản bội Ngài, được làm bại hoại nhân loại mà Ngài tạo dựng. Không phải Đức Chúa Trời không khống chế được Sa-tan cho nên nhân loại mới bị con rắn mê hoặc và bị Sa-tan làm cho bại hoại, mà là chính Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan làm việc đó. Chỉ sau khi cho phép Sa-tan làm việc này, Đức Chúa Trời mới mở ra kế hoạch quản lý của Ngài và công tác cứu rỗi nhân loại của Ngài. Con người có thể dò thấu lẽ mầu nhiệm trong chuyện này không? Khi nhân loại đã bị Sa-tan làm cho bại hoại rồi, lúc đó Đức Chúa Trời mới bắt đầu công tác quản lý nhân loại của Ngài. Trước hết, Ngài thực hiện công tác của Thời đại Luật pháp ở Y-sơ-ra-ên. Sau hai ngàn năm, Ngài thực hiện công tác chịu đóng đinh lên thập tự giá trong Thời đại Ân điển, và toàn thể nhân loại được cứu chuộc. Đến thời kỳ sau rốt, Ngài nhập thể để chinh phục và cứu rỗi một nhóm người trong thời kỳ sau rốt. Những người được sinh ra trong thời kỳ sau rốt là dạng người nào? Họ là những người đã trải qua hàng ngàn năm bị Sa-tan làm cho bại hoại, đã bị làm bại hoại sâu sắc đến nỗi không còn hình tượng giống con người. Sau khi trải nghiệm sự phán xét, hành phạt và phơi bày của lời Đức Chúa Trời, sau khi được chinh phục, họ đạt được lẽ thật từ trong lời Đức Chúa Trời và tâm phục khẩu phục Đức Chúa Trời, họ đạt được nhận thức về Đức Chúa Trời, có thể tuyệt đối vâng phục Ngài và làm thỏa mãn ý muốn của Ngài. Cuối cùng, nhóm người được thu phục thông qua kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời sẽ là những người như vậy. Các ngươi nói xem, ai sẽ thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời, những người chưa bị Sa-tan làm bại hoại hay là những người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại và cuối cùng được cứu rỗi? Những người được thu phục xuyên suốt quá trình của toàn bộ kế hoạch quản lý là một nhóm người có thể hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, đạt được lẽ thật từ Đức Chúa Trời, và có dạng sự sống và hình tượng giống con người mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Khi nhân loại mới được Đức Chúa Trời tạo dựng, họ đơn thuần chỉ có hình tượng giống con người và sự sống của con người. Nhưng họ không có lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu nơi con người và họ không thể sống trọn hình tượng mà Đức Chúa Trời luôn hy vọng con người sẽ có. Nhóm người cuối cùng sẽ được thu phục là những người sẽ trụ lại đến cùng, đây là những người mà Đức Chúa Trời thu phục, những người mà Ngài hài lòng và là những người làm thỏa lòng Ngài. Qua quá trình hàng ngàn năm của công tác quản lý, những người mà cuối cùng Đức Chúa Trời cứu rỗi đã thu được nhiều nhất, lẽ thật mà những người này đạt được chính xác là sự chăm tưới và cung dưỡng mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ qua cuộc chiến của Ngài với Sa-tan. Những người trong nhóm này tốt hơn những người mà Đức Chúa Trời tạo dựng thuở ban đầu; cho dù họ đã bị làm cho bại hoại, đây là chuyện tất nhiên, và đây là chuyện nằm trong phạm vi kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Điều này thể hiện trọn vẹn sự toàn năng và khôn ngoan của Đức Chúa Trời, cũng như cho thấy sự thật rằng mọi sự Đức Chúa Trời đã an bài, lên kế hoạch và thành tựu đều là những điều tuyệt đối vĩ đại nhất. Nếu sau này có ai lại hỏi ngươi: “Nếu Đức Chúa Trời toàn năng, sao thiên sứ trưởng vẫn có thể phản bội Ngài? Rồi Đức Chúa Trời còn đày nó xuống trần gian, cho nó làm bại hoại nhân loại ở đó. Chuyện này có ý nghĩa gì chứ?”, thì ngươi có thể nói rằng: “Chuyện này nằm trong sự tiền định của Đức Chúa Trời và là chuyện có ý nghĩa nhất. Con người không thể dò thấu hết chuyện này, nhưng từ mức độ mà con người lĩnh hội được và vươn tới được, thì có thể thấy rằng việc Đức Chúa Trời làm rất đỗi ý nghĩa. Chắc chắn không phải là Đức Chúa Trời có lúc nhất thời thất thủ hay là mất quyền kiểm soát và không có cách nào để quản lý mọi sự rồi Ngài tương kế tựu kế, nói rằng: ‘Đằng nào thiên sứ trưởng cũng đã phản bội, nên có lẽ Ta cứ thuận theo đó, Ta sẽ chỉ cứu rỗi nhân loại sau khi họ đã bị nó làm cho bại hoại’. Tuyệt đối chuyện không phải như vậy”. Người ta chí ít phải biết rằng chuyện này nằm trong phạm vi kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Là kế hoạch gì? Ở giai đoạn thứ nhất, có thiên sứ trưởng, ở giai đoạn thứ hai, thiên sứ trưởng phản bội, ở giai đoạn thứ ba, sau khi thiên sứ trưởng phản bội, nó đến giữa nhân loại để làm cho họ bại hoại, rồi Đức Chúa Trời bắt đầu thực hiện công tác quản lý nhân loại của Ngài. Khi tin Đức Chúa Trời, người ta phải hiểu được khải tượng về kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Có người không bao giờ hiểu được phương diện này của lẽ thật, cảm thấy rằng có quá nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Không hiểu nên họ cảm thấy không chắc chắn, và nếu không chắc chắn thì họ không có sức lực để tiến lên. Không có lẽ thật thì khó mà tiến bộ, nên khi những người không tìm kiếm lẽ thật gặp phải vấn đề gì thì sẽ rất khó khăn cho họ. Mối thông công này đã giúp các ngươi hiểu ra chưa? Chỉ sau khi thiên sứ trưởng phản bội, Đức Chúa Trời mới có kế hoạch quản lý để cứu rỗi con người. Thiên sứ trưởng bắt đầu phản bội khi nào? Chắc chắn có điều gì đó vạch trần sự phản bội của nó, có một quá trình trong sự phản bội của thiên sứ trưởng, chắc chắn nó không thể đơn giản như những gì được ghi chép lại. Nó cũng như chuyện Giu-đa phản bội Jêsus, chuyện này có một quá trình. Hắn không phản bội Jêsus ngay sau khi theo Ngài. Giu-đa không yêu lẽ thật, hắn tham lam tiền bạc và luôn trộm cắp. Đức Chúa Trời giao hắn cho Sa-tan, Sa-tan cho hắn ý niệm, rồi hắn bắt đầu phản bội Jêsus. Giu-đa đã sa đọa từng bước một và trong những hoàn cảnh đặc biệt, khi thời điểm đến, thì hắn phản bội Jêsus. Có quy luật thông thường cho sự sa đọa của con người, và nó không đơn giản như người ta tưởng tượng. Hiện tại, người ta chỉ có thể hiểu những chuyện trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời đến mức độ này, nhưng khi phát triển về vóc giạc, họ sẽ có thể lĩnh hội ý nghĩa của nó một cách sâu sắc hơn.

Chú thích:

a. Văn bản gốc không có từ “hổ thẹn”.


Trích đoạn 20

Toàn thể nhân loại bại hoại đều có bản tính Sa-tan. Hết thảy đều có tâm tính Sa-tan và có thể phản bội Đức Chúa Trời mọi nơi mọi lúc. Có người hỏi: “Đức Chúa Trời tạo dựng con người, và họ ở trong tay Ngài. Tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ con người mà lại để cho họ phản bội Ngài? Đức Chúa Trời không toàn năng sao?”. Hỏi như vậy đấy. Ngươi có thể thấy câu hỏi này có vấn đề gì không? Đức Chúa Trời có khía cạnh toàn năng và cũng có khía cạnh thực tế. Dù không bị Sa-tan làm cho bại hoại, con người vẫn có thể phản bội Đức Chúa Trời. Về chuyện phải thờ phượng Đức Chúa Trời thế nào, làm sao để từ bỏ Sa-tan, không kết giao với Sa-tan, và làm sao để vâng phục Đức Chúa Trời, con người không có ý chí chủ quan tự thân. Đức Chúa Trời có lẽ thật, sự sống và đường đi, Đức Chúa Trời không thể bị xúc phạm… Con người thì không có những điều này trong mình. Họ không nhìn thấu những thứ trong bản tính Sa-tan và không hiểu được chút lẽ thật nào, nên họ có thể phản bội Đức Chúa Trời mọi nơi mọi lúc. Hơn nữa, sau khi bị Sa-tan làm cho bại hoại, con người có những thứ của Sa-tan trong mình, và họ càng dễ phản bội Đức Chúa Trời. Vấn đề là thế. Nếu ngươi chỉ có thể nhìn thấy khía cạnh thực tế của Đức Chúa Trời mà không thấy được khía cạnh toàn năng của Ngài, thì ngươi sẽ dễ phản bội Đức Chúa Trời và xem Đấng Christ là một con người bình thường, ngươi sẽ không biết làm sao Ngài có thể bày tỏ vô vàn lẽ thật để cứu rỗi nhân loại. Nếu ngươi chỉ thấy khía cạnh toàn năng của Đức Chúa Trời mà không thấy được khía cạnh thực tế của Ngài, ngươi cũng sẽ dễ chống đối Ngài. Nếu ngươi không thấy được cả hai khía cạnh này, ngươi càng dễ chống đối Đức Chúa Trời hơn nữa. Do đó, nhận thức Đức Chúa Trời chẳng phải là chuyện khó nhất trên đời sao? Người ta càng nhận thức Đức Chúa Trời thì càng hiểu được những ý định của Ngài, hiểu rằng mọi sự Đức Chúa Trời làm đều có ý nghĩa. Nếu người ta thật sự nhận thức Đức Chúa Trời thì họ có thể đạt được những kết quả này. Mặc dù Đức Chúa Trời có khía cạnh thực tế, nhưng người ta không bao giờ có thể nhận thức Đức Chúa Trời một cách trọn vẹn được. Đức Chúa Trời quá vĩ đại và hoàn toàn không thể dò lường, trong khi tư duy của con người thì có hạn. Tại sao lại nói rằng con người mãi là đứa trẻ sơ sinh trước Đức Chúa Trời? Ý là như vậy.

Khi Đức Chúa Trời phán hay làm gì đó, người ta luôn hiểu lầm: “Làm sao Đức Chúa Trời có thể làm thế? Đức Chúa Trời toàn năng mà!”. Con người luôn có những quan niệm riêng. Về chuyện Đức Chúa Trời nếm trải đau khổ nhân gian, có người nghĩ: “Chẳng phải Đức Chúa Trời toàn năng sao? Ngài cần phải nếm trải đau khổ nhân gian sao? Đức Chúa Trời không biết đau khổ nhân gian là gì sao?”. Đây là khía cạnh thực tế trong công tác của Đức Chúa Trời. Trong Thời đại Ân điển, Jêsus đã chịu đóng đinh lên thập giá để cứu chuộc nhân loại, nhưng con người không nhận thức Đức Chúa Trời và luôn nuôi quan niệm về Ngài, họ nói rằng: “Để cứu chuộc toàn thể nhân loại, Đức Chúa Trời chỉ cần bảo Sa-tan rằng ‘Ta toàn năng. Ngươi dám giữ nhân loại không chịu giao nộp cho Ta sao? Ngươi phải giao nhân loại cho Ta’. Vài lời như thế là có thể giải quyết hết mọi chuyện, lẽ nào Đức Chúa Trời không có thẩm quyền sao? Chỉ cần Đức Chúa Trời phán rằng Ngài cứu chuộc nhân loại và tha tội cho họ, thì con người sẽ không còn tội lỗi. Lẽ nào lời Đức Chúa Trời không định đoạt được những chuyện này sao? Nếu trời đất vạn vật khai sinh nhờ lời Đức Chúa Trời, vậy tại sao Ngài không giải quyết được vấn đề này? Tại sao Đức Chúa Trời phải đích thân chịu đóng đinh lên thập giá?”. Trong vấn đề này có cả khía cạnh toàn năng và khía cạnh thực tế của Đức Chúa Trời. Khía cạnh thực tế của Đức Chúa Trời đó là Đức Chúa Trời nhập thể đã chịu nhiều đau khổ trong ba mươi ba năm rưỡi sống trên địa cầu, cuối cùng bị đóng đinh lên thập giá. Ngài đã chịu nỗi thống khổ khủng khiếp nhất. Rồi Ngài phục sinh từ cõi chết và sự phục sinh của Ngài chính là khía cạnh toàn năng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không đưa ra điềm báo gì, không đổ máu hay đổ mưa để nói rằng đây là của lễ chuộc tội. Ngài không làm bất kỳ việc gì như thế, mà thay vào đó, Ngài đích thân trở nên xác thịt để cứu chuộc nhân loại và chịu đóng đinh lên thập giá, để cho nhân loại biết đến việc làm này. Nhờ việc làm này, nhân loại bắt đầu biết rằng Đức Chúa Trời thật sự đã cứu rỗi con người và đây chính là bằng chứng. Dù sự nhập thể nào thực hiện công tác hay là Thần có trực tiếp thực hiện công tác hay không, tất cả đều cần thiết. Điều này nghĩa là khi hành động theo cách này, công tác mới có giá trị nhất và ý nghĩa nhất, và chỉ khi thực hiện theo cách này, con người mới thu được lợi ích từ đó. Đó là bởi toàn thể nhân loại là đối tượng quản lý của Đức Chúa Trời. Trước đây, Ta đã phán rằng đây chính là mở cuộc chiến với Sa-tan và hạ nhục nó. Và thật ra thì chẳng phải cuối cùng điều này tốt cho con người sao? Với con người, đây là điều đáng tưởng nhớ, là điều giá trị và ý nghĩa nhất, bởi vì điều Đức Chúa Trời muốn tạo thành chính là những người được sinh ra từ trong hoạn nạn với nhận thức về Đức Chúa Trời, những người đã được Đức Chúa Trời hoàn thiện và đã từng bị Sa-tan làm bại hoại. Do đó, công tác này chắc chắn phải được thực hiện theo cách này. Phương thức Đức Chúa Trời dùng trong mọi giai đoạn công tác của Ngài được quyết định dựa trên nhu cầu của nhân loại. Công tác của Đức Chúa Trời chắc chắn không được thực hiện bằng những phương thức tùy tiện. Nhưng con người có sự lựa chọn và quan niệm riêng của họ. Về việc Jêsus chịu đóng đinh lên thập giá, người ta nghĩ: “Chuyện Đức Chúa Trời chịu đóng đinh lên thập giá thì liên quan gì đến chúng ta?”. Họ nghĩ là chẳng liên quan gì, nhưng Đức Chúa Trời đã phải chịu đóng đinh lên thập giá để cứu rỗi nhân loại. Chịu đóng đinh lên thập giá là nỗi thống khổ tột cùng nhất thời đó, liệu Thần có thể chịu đóng đinh lên thập giá được không? Thần không thể bị đóng đinh lên thập giá và không thể là hình bóng của Đức Chúa Trời, càng không thể đổ máu và qua đời. Chỉ có sự nhập thể mới có thể chịu đóng đinh lên thập giá, đây là bằng chứng của của lễ chuộc tội. Xác thịt Ngài mặc lấy hình dạng của một thân xác tội lỗi và gánh chịu đau khổ vì nhân loại. Thần không thể chịu đau khổ vì nhân loại, càng không thể chuộc tội cho nhân loại. Jêsus đã chịu đóng đinh lên thập giá vì nhân loại. Đây là khía cạnh thực tế của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có thể làm việc này và yêu thương con người theo cách này, trong khi con người không thể. Đây chính là khía cạnh toàn năng của Đức Chúa Trời.

Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều có phương diện toàn năng và phương diện thực tế của Ngài. Sự toàn năng của Đức Chúa Trời là bản chất của Ngài, và sự thực tế của Ngài cũng là bản chất của Ngài; hai phương diện này không thể tách rời. Việc Đức Chúa Trời hành sự một cách thực tế và thiết thực là khía cạnh thực tế của Ngài, và việc Ngài có thể công tác theo cách này cũng cho thấy khía cạnh toàn năng của Ngài. Ngươi không thể nói: “Bởi vì Đức Chúa Trời công tác trong thực tế, nên Ngài thực tế, Ngài chỉ có khía cạnh thực tế chứ không có khía cạnh toàn năng”; nếu ngươi nói như thế, thì nó sẽ trở thành quy điều. Đây là khía cạnh thực tế, nhưng cũng có khía cạnh toàn năng nữa. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời làm đều chứa đựng cả hai phương diện – sự toàn năng của Ngài và sự thực tế của Ngài – và tất cả những gì Ngài làm đều dựa trên thực chất của Ngài; đây là sự thể hiện của tâm tính Ngài, cũng như sự tỏ lộ thực chất của Ngài và Ngài là gì. Người ta nghĩ rằng trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời thương xót và yêu thương, nhưng Ngài vẫn có sự thịnh nộ và sự phán xét. Đức Chúa Trời rủa sả những người Pha-ri-si và toàn thể dân Do Thái, đây chẳng phải là sự thịnh nộ và sự công chính của Ngài sao? Ngươi không thể nói rằng Đức Chúa Trời trong Thời đại Ân điển chỉ có thương xót và yêu thương, rằng Ngài căn bản không thịnh nộ, không phán xét, không rủa sả. Nói như thế cho thấy con người không hiểu về công tác của Đức Chúa Trời. Toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời trong Thời đại Ân điển đều là sự biểu lộ tâm tính Ngài. Mọi sự Đức Chúa Trời đã làm mà con người thấy được đều để chứng minh rằng Ngài chính là Đức Chúa Trời và Ngài toàn năng, rằng chính Ngài có thực chất của Đức Chúa Trời. Có phải công tác phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời trong giai đoạn hiện tại nghĩa là Ngài không yêu thương và thương xót không? Không. Nếu ngươi tổng kết thực chất của Đức Chúa Trời chỉ trong một câu, một lời, thì ngươi quá kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, vô tri và ngu muội, và nó cho thấy ngươi không nhận thức Đức Chúa Trời. Có người nói: “Nói cho chúng tôi biết sự thật về việc biết Đức Chúa Trời với, giải thích rõ ràng giúp chúng tôi với”. Người biết Đức Chúa Trời sẽ nói gì? Họ sẽ nói: “Nhận thức Đức Chúa Trời là chuyện quá thâm sâu đến nỗi tôi không thể giải thích rõ ràng trong vài câu được. Tôi có nói thế nào anh cũng không thể hiểu được. Chỉ cần hiểu ý chính là đủ rồi. Người ta không bao giờ có thể hiểu thấu Đức Chúa Trời được”. Người kiêu ngạo không biết về Đức Chúa Trời sẽ nói: “Tôi biết Ngài là dạng Đức Chúa Trời gì, tôi thật sự hiểu Ngài”. Đây chẳng phải là khoác lác sao? Bất kỳ ai nói như thế đều kiêu ngạo tột cùng! Có những chuyện mà nếu con người không trải nghiệm và không thấy được vài sự thực, thì họ không thể thật sự nhận thức hay cảm nghiệm được, nên họ cảm thấy rằng sự hiểu biết về Đức Chúa Trời khá là trừu tượng. Người không biết thì chỉ nghe một dạng phát ngôn, hiểu lôgic của nó, nhưng lại không hiểu được nó. Ngươi không hiểu nó đâu có nghĩa nó không phải là lẽ thật. Với những người không có trải nghiệm thì nó có vẻ trừu tượng, nhưng thật ra nó không hề trừu tượng. Nếu thật sự có trải nghiệm, người ta sẽ có thể soi bối cảnh của mình vào lời Đức Chúa Trời tương ứng và áp dụng, đưa chúng vào thực hành. Hiểu lẽ thật chính là như vậy. Nếu ngươi chỉ lắng nghe câu chữ của lời Đức Chúa Trời mà không có nhận thức thực tế, thì ngươi có thể hiểu lẽ thật không? Ngươi phải đưa lời Đức Chúa Trời vào thực hành và trải nghiệm mới được. Hiểu lẽ thật không phải là chuyện đơn giản.

Trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời cứu chuộc hết thảy nhân loại. Đây là khía cạnh toàn năng của Đức Chúa Trời và sự toàn năng của Ngài bao gồm toàn bộ công tác thực tế của Ngài. Bằng cách thực hiện công tác của Ngài để chinh phục con người, toàn thể nhân loại phủ phục trước Đức Chúa Trời và có thể tiếp nhận Ngài. Nếu con người nói về sự toàn năng và sự thực tế của Đức Chúa Trời một cách riêng rẽ, thì họ sẽ không thể hiểu thấu được chúng. Để biết Đức Chúa Trời, ngươi phải kết hợp nhận thức về hai khía cạnh toàn năng và thực tế của Ngài, chỉ khi đó ngươi mới có thể đạt được kết quả. Việc Đức Chúa Trời có thể thực hiện công tác của Ngài một cách thực tế và thiết thực, có thể làm tinh sạch và giải quyết sự bại hoại của nhân loại bằng cách bày tỏ lẽ thật, cũng như việc Ngài có thể trực tiếp dẫn dắt con người, những điều này thể hiện khía cạnh thực tế của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bày tỏ tâm tính của chính Ngài và Ngài là gì, Ngài có thể làm bất kỳ công tác nào mà con người không thể làm được; từ chuyện này có thể thấy được khía cạnh toàn năng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thực hiện thẩm quyền để đưa những gì Ngài phán vào hiện thực, làm cho những mệnh lệnh của Ngài vững vàng, và khiến những gì Ngài phán được thực hiện. Khi Đức Chúa Trời phán, sự toàn năng của Ngài được thể hiện. Đức Chúa Trời tể trị muôn vật, vận dụng Sa-tan để phục vụ cho Ngài, sắp xếp những hoàn cảnh để thử luyện và tinh luyện con người, làm tinh sạch và biến đổi tâm tính họ. Tất cả những điều này thể hiện phương diện toàn năng của Đức Chúa Trời. Thực chất chất của Đức Chúa Trời vừa toàn năng vừa thực tế, và hai phương diện này bổ sung cho nhau. Mọi điều Đức Chúa Trời làm đều là sự thể hiện tâm tính Ngài và sự tỏ lộ Ngài là gì. Việc Ngài là gì bao gồm sự toàn năng của Ngài, sự công chính của Ngài và sự oai nghi của Ngài. Công tác của Đức Chúa Trời từ đầu đến cuối là sự mặc khải thực chất của chính Ngài cũng như là sự biểu lộ Ngài là gì. Thực chất của Đức Chúa Trời có hai khía cạnh: khía cạnh toàn năng và khía cạnh thực tế. Bất kể nhìn vào giai đoạn công tác nào của Đức Chúa Trời, cũng đều có hai khía cạnh này, mọi việc Đức Chúa Trời làm đều có hai khía cạnh này. Đây là một cách để hiểu Đức Chúa Trời.

Trích đoạn 21

Dù Đức Chúa Trời thực hiện công tác của Ngài thông qua sự nhập thể hay Thần của Ngài, thì tất cả đều dựa trên kế hoạch quản lý của Ngài, chứ không phải theo bất kỳ phương thức công khai hay bí mật nào, cũng không theo nhu cầu của con người, mà hoàn toàn theo kế hoạch quản lý của Ngài. Nói như thế không có nghĩa là về công tác của thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời muốn làm thế nào thì làm, mà giai đoạn này được thực hiện trên nền tảng của hai giai đoạn công tác trước đó của Ngài. Công tác trong Thời đại Ân điển, tức là giai đoạn công tác thứ hai của Ngài, đã cho nhân loại được cứu chuộc, và công tác này được thực hiện bởi sự nhập thể. Không phải là Thần không thể thực hiện được giai đoạn công tác hiện tại của Đức Chúa Trời, Ngài làm được, nhưng sự nhập thể thực hiện thì phù hợp hơn, và như thế có thể cứu rỗi con người hiệu quả hơn. Suy cho cùng, những lời phán của sự nhập thể vẫn hơn những lời phán trực tiếp của Đức Thánh Linh trong việc chinh phục con người, và cũng giúp con người dễ có được sự hiểu biết về Đức Chúa Trời hơn. Khi Thần công tác, Ngài không thể lúc nào cũng ở bên con người, cũng không thể sống ngay cạnh và nói chuyện trực diện với con người như sự nhập thể hiện giờ, và có những lúc Thần không thể phơi bày những gì bên trong con người như sự nhập thể. Trong giai đoạn này, công tác của sự nhập thể chủ yếu là chinh phục con người, và khi đã chinh phục rồi thì làm cho họ hoàn thiện, để họ biết đến Đức Chúa Trời và có thể thờ phượng Ngài. Đây là công tác kết thúc thời đại. Nếu giai đoạn công tác này không phải là để chinh phục con người mà chỉ để cho họ biết rằng thực sự có Đức Chúa Trời, thì việc này Thần có thể làm được. Có lẽ các ngươi nghĩ rằng nếu Thần thực hiện giai đoạn công tác này, thì Ngài có thể thay thế sự nhập thể và thực hiện công tác y như sự nhập thể, và rằng, bởi vì Đức Chúa Trời là toàn năng, nên cho dù sự nhập thể hay Thần thực hiện công tác, thì đều có thể đạt được kết quả như nhau. Thế nhưng, các ngươi sai rồi. Đức Chúa Trời thực hiện công tác theo sự quản lý của Ngài, và theo kế hoạch cũng như các bước của Ngài để cứu rỗi con người. Không giống như ngươi tưởng tượng, rằng Thần là toàn năng, sự nhập thể là toàn năng, và chính Đức Chúa Trời là toàn năng, thế nên Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Đức Chúa Trời công tác theo kế hoạch quản lý của Ngài, và mỗi giai đoạn công tác của Ngài đều có một số bước nhất định trong đó. Giai đoạn này nên thực hiện như thế nào, gồm các chi tiết ra sao, tất cả đều đã được hoạch định. Giai đoạn công tác đầu tiên của Đức Chúa Trời được thực hiện ở Y-sơ-ra-ên, và giai đoạn cuối cùng này là ở đất nước của con rồng lớn sắc đỏ, là Trung Quốc. Có người nói: “Đức Chúa Trời không thể thực hiện việc đó ở một quốc gia khác sao?”. Theo kế hoạch quản lý của giai đoạn này, nó phải được thực hiện ở Trung Quốc. Người dân Trung Quốc lạc hậu, sống cuộc sống suy đồi, và không có nhân quyền hay tự do. Đây là một quốc gia nơi Sa-tan và ma quỷ đang nắm quyền. Mục đích của việc xuất hiện và công tác ở Trung Quốc là để cứu rỗi những con người đang sống ở nơi tăm tối nhất thế gian và những con người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại hết sức. Đây là cách duy nhất để thực sự đánh bại Sa-tan và hoàn toàn đạt được vinh quang. Nếu Đức Chúa Trời xuất hiện và công tác ở một quốc gia khác, thì sẽ không có ý nghĩa bằng. Mỗi giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời đều cần thiết và nó phải được thực hiện như thế nào thì Đức Chúa Trời thực hiện như thế ấy. Một số điều có thể đạt được qua công tác của sự nhập thể và một số thì qua công tác của Thần. Đức Chúa Trời chọn công tác thông qua sự nhập thể hay Thần thì còn tùy thuộc vào cách nào sẽ cho kết quả tốt nhất. Không phải như các ngươi đã nói rằng cách công tác nào cũng được, rằng Đức Chúa Trời có thể thực hiện công tác bằng cách tùy tiện mặc lấy hình dạng một con người, rằng Thần cũng có thể làm việc đó mà không cần gặp trực diện bất kỳ ai, và rằng cả hai phương pháp này đều có thể đạt được một số kết quả nhất định. Các ngươi không được nhầm lẫn chuyện này. Đức Chúa Trời là toàn năng, nhưng Ngài cũng có một mặt thực tế mà con người không thể nhìn thấy. Con người thấy Đức Chúa Trời rất siêu nhiên, và họ không thể dò thấu Ngài, vì thế họ hình thành những quan niệm và đủ thứ ý tưởng phi thực tế về Ngài. Ít ai thấy được rằng lời và công tác của Đức Chúa Trời là lẽ thật, là thực tế và là những điều thật nhất, con người có thể chạm vào và nhìn thấy được chúng. Nếu người ta thực sự có tố chất và khả năng lĩnh hội, thì sau khi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong vài năm, họ sẽ có thể thấy rằng tất cả những lời Đức Chúa Trời bày tỏ đều là thực tế lẽ thật, rằng trong mọi công tác cũng như mọi việc Ngài làm đều có lẽ thật và nguyên tắc, và thấy rằng mọi việc Ngài làm đều có ý nghĩa to lớn. Bất kể Đức Chúa Trời làm gì, cũng đều có ý nghĩa, cần thiết và có thể đạt được kết quả tốt nhất. Tất cả đều có mục đích, kế hoạch và ý nghĩa nhất định. Các ngươi nghĩ rằng công tác của Đức Chúa Trời được thực hiện dựa trên những lời nói thiếu suy nghĩ sao? Ngài có mặt toàn năng, nhưng Ngài cũng có mặt thực tế. Sự hiểu biết của các ngươi còn phiến diện lắm. Sự hiểu biết của các ngươi về mặt toàn năng của Đức Chúa Trời còn có những sai lầm, chưa nói đến mặt thực tế của Ngài, các ngươi còn sai lầm lớn hơn thế nhiều.

Trong ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời, giai đoạn đầu tiên do Thần thực hiện, còn hai giai đoạn còn lại được thực hiện bởi sự nhập thể; mỗi giai đoạn công tác của Ngài đều rất thiết yếu. Lấy ví dụ về việc đóng đinh trên thập giá, nếu như Thần bị đóng đinh lên thập giá thì sẽ chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì người ta đâu thể nhìn thấy hay sờ chạm được Thần, còn Thần thì đâu thể cảm nhận được gì hay chịu đau khổ chút nào đâu. Bởi thế nên việc đóng đinh trên thập giá sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Giai đoạn công tác diễn ra ở thời kỳ sau rốt là giai đoạn chinh phục con người, là công tác mà sự nhập thể có thể thực hiện; Thần không thể thay thế cho sự nhập thể trong công tác này, và công tác do Thần thực hiện thì sự nhập thể cũng không thể thực hiện được. Khi Đức Chúa Trời chọn sự nhập thể hay Thần để thực hiện giai đoạn công tác nào của Ngài, thì sự lựa chọn ấy đều tuyệt đối cần thiết và đều để đạt được kết quả tốt nhất, đạt được các mục tiêu trong kế hoạch quản lý của Ngài. Đức Chúa Trời có một mặt toàn năng và một mặt thực tế. Ngài làm việc một cách thực tế trong mọi giai đoạn công tác của Ngài. Người ta tưởng tượng rằng Đức Chúa Trời không nói, không nghĩ, rằng Ngài làm bất cứ điều gì Ngài muốn; nhưng không đúng như vậy. Ngài có sự khôn ngoan, có mọi điều về Ngài, và đây là thực chất của Ngài. Khi công tác, Ngài cần tỏ lộ và thể hiện tâm tính của Ngài, thực chất của Ngài, sự khôn ngoan của Ngài, và toàn bộ những gì Ngài có và là, hầu cho con người có thể hiểu, biết được, và đạt được những điều này. Ngài công tác không dựa vào hư không, càng không dựa vào tưởng tượng của con người, mà Ngài hành động theo nhu cầu của công việc và theo những kết quả cần phải đạt được. Ngài phán dạy theo cách thực tế, làm công tác và chịu khổ mỗi ngày, và khi phải chịu khổ, Ngài cảm thấy đau đớn. Không phải là Thần hiện diện trong lúc sự nhập thể làm công tác và phán dạy, rồi Thần rời đi khi sự nhập thể không công tác và phán dạy nữa. Nếu mà là như vậy thì Ngài đã không chịu khổ gì rồi, và đây đã không phải là một sự nhập thể rồi. Người ta không thể nhìn thấy mặt thực tế của Đức Chúa Trời, và vì vậy nên họ không biết rõ Đức Chúa Trời, sự hiểu biết của họ về Ngài chỉ là hời hợt. Người ta nói là Đức Chúa Trời thực tế và bình thường, hay là Đức Chúa Trời toàn năng và toàn quyền – thì toàn bộ những lời này đều là những lời họ học được từ người khác, bởi họ đâu có được hiểu biết thật hay trải nghiệm thật. Khi nói đến sự nhập thể, tại sao lại có sự nhấn mạnh như vậy đến thực chất của sự nhập thể? Tại sao không phải là Thần? Trọng tâm là công tác của sự nhập thể, còn công tác của Thần là để hỗ trợ và giúp đỡ, như vậy thì công tác của sự nhập thể mới đạt được kết quả. Ở mỗi giai đoạn, con người có thể biết đến Đức Chúa Trời một chút, nhưng khi họ muốn biết thêm chút nữa về Ngài cũng không thể đột phá hay đạt được. Khi Đức Chúa Trời phán một ít thì người ta hiểu một ít, nhưng hiểu biết của họ về Ngài vẫn không rõ lắm, và họ không dễ nắm bắt được phần cốt yếu trong đó. Nếu ngươi cho rằng điều gì sự nhập thể làm được thì Thần làm được và Thần có thể thay thể sự nhập thể, thì ngươi sẽ không bao giờ biết được ý nghĩa của sự nhập thể, công tác của sự nhập thể, và sự nhập thể là gì.

Trích đoạn 22

Nội dung của cuốn sách “Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt” rất phong phú, bao gồm lẽ thật trên nhiều khía cạnh khác nhau, cũng như một số lời lẽ có tính chất tiên tri, tiên đoán tình trạng của các thời đại sau này. Thực ra những lời tiên tri cũng chỉ chung chung, đa số lời lẽ trong cuốn sách này thảo luận về khía cạnh bước vào sự sống, vạch rõ bản chất con người và nói về cách biết Đức Chúa Trời, biết về tâm tính của Ngài. Còn về về chuyện sau này sẽ là thời đại nào, còn bao nhiêu thời đại, sau này nhân loại sẽ bước vào những cảnh ngộ nào, có phải là không có bản kế hoạch cụ thể, dấu hiệu cụ thể nào, thậm chí không có niên đại cụ thể nào sao? Nhưng vậy tức là con người không cần quan tâm đến các thời đại sau này, bây giờ vẫn chưa đến lúc, vẫn còn cách thời điểm đó quá xa. Cho dù Ta có nói với các ngươi thì các ngươi cũng không hiểu, hơn nữa hiện tại con người chưa cần hiểu những điều đó. Những điều đó không liên quan gì nhiều đến sự thay đổi trong tâm tính sự sống của con người. Các người chỉ cần hiểu những lời lẽ về khía cạnh vạch rõ bản chất con người là được rồi. Những chuyện được tiên tri lúc trước như chuyện Vương Quốc Ngàn Năm, Đức Chúa Trời và con người sẽ cùng bước vào sự nghỉ ngơi, Thời đại của Lời là gì. Phàm là những dự ngôn bằng ngôn từ thì đều là về thời đại gần đây, những chuyện không được nhắc đến thì là chuyện rất xa xôi. Các ngươi không cần nghiên cứu những chuyện rất xa xôi đó, những điều các ngươi không cần biết thì sẽ không cho các ngươi biết. Điều các ngươi cần biết là toàn bộ lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời, ví dụ như tâm tính mà Ngài bày tỏ với con người, Đức Chúa Trời có gì và là gì được tỏ lộ bằng lời, và bản tính con người bị mặc khải thông qua phán xét và trừng phạt, ngoài ra còn là phương hướng cuộc đời mà Ngài đã chỉ ra cho con người, bởi vì công tác cứu rỗi con người của Ngài chính là lấy những những nội dung này làm trung tâm.

Những lời Đức Chúa Trời phán khi tiến hành công tác quản lý con người chủ yếu là lấy việc chinh phục, cứu rỗi, thay đổi tâm tính con người làm mục đích. Hiện nay Thời đại của Lời là thời đại hiện thực, là thời đại lẽ thật chinh phục và cứu rỗi con người. Sau này sẽ còn nhiều lời lẽ nữa, còn nhiều lời lẽ hiện chưa được nói ra. Có người cho rằng những lời lẽ hiện nay là tất cả những gì Đức Chúa Trời bày tỏ. Đây là một nhận thức cực kỳ sai lầm, bởi vì công tác của Thời đại của Lời chỉ mới bắt đầu ở Trung Quốc, rồi đây sẽ có càng nhiều lời lẽ hơn sau khi Đức Chúa Trời công khai xuất hiện và công tác. Sau này Thời đại Vương quốc sẽ ra sao, con người sẽ bước vào đích đến thế nào, sau khi bước vào đích đến còn những nội dung gì, phương thức sống của con người vào lúc đó ra sao, bản năng của con người có thể đạt đến mức độ nào, cần sự lãnh đạo ra sao, cung cấp thế nào. Những điều này cũng đều là nội dung công tác trong Thời đại của Lời. Sự bao hàm tất cả của Đức Chúa Trời không phải đều nằm trong trong cuốn “Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt” như ngươi tưởng tượng. Sự bày tỏ tâm tính của Đức Chúa Trời và việc Ngài muốn công tác ra sao có thể đơn giản như ngươi tưởng tượng hay sao? Đức Chúa Trời toàn diện, toàn tại, toàn năng và tối cao không phải là những lời nói suông. Nếu ngươi nói rằng cuốn “Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt” đã đại diện cho tất cả những gì Ngài có, kết thúc mọi sự quản lý của Ngài thì ngươi đã nhìn nhận Đức Chúa Trời quá nhỏ bé rồi, như thế không phải đã lại hạn định Đức Chúa Trời rồi sao? Ngươi phải biết rằng những lời lẽ này chỉ là một phần rất nhỏ của Đức Chúa Trời bao-hàm-tất-cả. Toàn bộ giới tôn giáo đều hạn định Đức Chúa Trời trong một cuốn “Kinh Thánh”. Hôm nay các ngươi chẳng phải lại đang hạn định Ngài hay sao? Các ngươi không biết rằng hạn định Đức Chúa Trời chính là đang hạ thấp Ngài, đang lên án, báng bổ Ngài sao? Hiện tại, có phải hầu hết mọi người đều nghĩ: “Những lời Đức Chúa Trời nói trong thời kỳ sau rốt đều đã nằm trong cuốn ‘Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt’ rồi, sẽ không còn lời lẽ nào nữa, lời Ngài đã được nói hết rồi” không? Đây là một nhận định vô cùng sai lầm! Những lời lẽ trong cuốn “Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt” chỉ là lời mở đầu, một phần trong những lời lẽ dành cho công tác ở thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, chủ yếu là lời lẽ về phương diện lẽ thật của những khải tượng. Sau này còn có rất nhiều lời lẽ chi tiết về phương diện thực hành. Nên mới nói, cuốn sách “Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt” được công khai cho công chúng không có nghĩa là công tác của Đức Chúa Trời đã xong một giai đoạn, càng không thể nói là công tác phán xét ở thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời đã hoàn toàn kết thúc. Đức Chúa Trời còn rất nhiều lời lẽ muốn bày tỏ, đến khi đã phán hết những lời lẽ này thì cũng không thể nói là toàn bộ công tác quản lý của Ngài đã kết thúc. Sau khi hoàn thành công tác trên toàn vũ trụ, chỉ có thể nói là Kế hoạch Quản lý 6000 năm đã kết thúc, nhưng đến lúc đó phải chăng vẫn còn nhân loại sinh tồn trong vũ trụ này? Chỉ cần còn sự tồn tại của sinh mạng, có con người tồn tại, thì bắt buộc phải có sự quản lý của Đức Chúa Trời. Sau khi Kế hoạch Quản lý 6000 năm kết thúc, chỉ cần còn con người, còn sinh mạng, còn vũ trụ này thì Đức Chúa Trời vẫn còn quản lý, nhưng không thể gọi là Kế hoạch Quản lý 6000 năm được nữa. Bây giờ nói là “sự quản lý của Đức Chúa Trời”, sau này cũng có thể gọi bằng một danh từ khác, đó lại là một loại hình cuộc sống khác của Đức Chúa Trời và con người, không thể nói rằng Đức Chúa Trời vẫn dùng những lời lẽ hiện tại để dẫn dắt con người nữa, những lời lẽ này chỉ phù hợp với giai đoạn này thôi. Nên mới nói, bất cứ lúc nào ngươi cũng đừng hạn định công tác của Đức Chúa Trời. Có người nói: “Đức Chúa Trời chỉ cung cấp cho con người những lời lẽ này thôi, không còn gì nữa, Đức Chúa Trời chỉ có thể nói những lời lẽ này”. Như thế là lại hạn định Đức Chúa Trời trong một phạm vi rồi. Cũng như hiện nay là Thời đại Vương quốc, ngươi đem hết những lời lẽ đã được nói trong Thời đại Jêsus ra thì có còn thích hợp để dùng không? Có những thứ thích hợp để dùng, có thứ phải xóa bỏ, vậy thì ngươi không thể nói rằng bất cứ lúc nào lời Đức Chúa Trời cũng không thể bị bãi bỏ. Có phải con người thích hạn định không? Chưa biết chừng họ đã hạn định Đức Chúa Trời trong một chuyện nào đó. Cho đến một ngày, có lẽ ngươi sẽ nhìn cuốn sách “Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt” cũng như con người bây giờ nhìn “Kinh Thánh”, không thể bắt kịp dấu chân của Đức Chúa Trời nữa. Bây giờ đúng là lúc để đọc “Lời Xuất Hiện Trong Xác Thịt”, không chừng bao nhiêu năm sau đọc lại những lời lẽ này cũng sẽ thấy lỗi thời, bởi vì đã có cái mới thay thế cái cũ. Nhu cầu của con người sản sinh, phát triển theo công tác của Đức Chúa Trời. Khi đó, bản tính con người và những thuộc tính bản năng mà một con người phải có sẽ có một số thay đổi, sau khi thế giới thay đổi, nhu cầu của con người cũng khác. Có người hỏi: “Sau này Đức Chúa Trời có phán lời nữa không?”. Có người sẽ hạn định nói: “Không thể phán đâu, bởi vì công tác của Thời đại của Lời đã kết thúc rồi, không thể phán tiếp những lời lẽ khác nữa, còn có thêm những lời lẽ khác nữa thì chính là giả đấy”. Như thế không phải là lại sai rồi sao? Con người đều dễ dàng mắc lỗi hạn định Đức Chúa Trời, đều thích bảo thủ, thích hạn định, rõ ràng không biết Đức Chúa Trời nhưng vẫn hạn định công tác của Đức Chúa Trời một cách bừa bãi, bản tính con người thật sự là quá kiêu căng! Con người luôn sẵn lòng bám lấy những quan niệm cũ trong quá khứ, cất giữ những thứ ngày xưa trong lòng, và coi những thứ đó là vốn liếng của mình, kiêu căng ngạo mạn, tự cho rằng mình đã hiểu mọi thứ, có gan dám hạn định công tác của Đức Chúa Trời. Như thế không phải là đang phán xét Đức Chúa Trời sao? Ngoài ra, con người vốn không hề quan sát tỉ mỉ công tác mới của Đức Chúa Trời. Điều này đã nói lên rằng con người không dễ dàng tiếp nhận cái mới, còn nhắm mắt hạn định bừa, con người đúng là kiêu căng, không có lý trí, không nghe lời ai, cho dù là lời của Đức Chúa Trời cũng không tiếp nhận nổi. Đây chính là bản tính của con người, tràn đầy kiêu căng, tự cho mình là đúng, không có một chút quy phục nào. Lúc đó người Pha-ri-si định tội Jêsus cũng như vậy, họ cho rằng: “Dù Ngài có làm đúng thì tôi cũng không đi theo Ngài, chỉ có Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thực thụ”. Bây giờ cũng có người nói: “Ngài ấy là Đấng Christ? Cho dù Ngài ấy có là Đấng Christ thật thì tôi cũng không đi theo đâu!” Có ai như vậy không? Có quá nhiều người như thế trong đạo, điều này chứng minh là tâm tính của con người quá bại hoại, hết thuốc chữa rồi.

Trong số các thánh đồ qua các thời đại, những người duy nhất có hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời chỉ có Môi-se và Phi-e-rơ, họ được Đức Chúa Trời khen ngợi, nhưng liệu họ có thể hiểu được Đức Chúa Trời không? Những gì họ đạt được cũng có hạn, và bản thân họ cũng không dám nói rằng mình biết Đức Chúa Trời. Những người thực sự có hiểu biết về Ngài sẽ không hạn định Ngài, bởi vì họ đã biết được sự không thể đo đếm, không thể ước lượng của Đức Chúa Trời. Những người không biết Ngài mới thích hạn định Ngài, hạn định Đức Chúa Trời có gì và là gì. Họ tràn đầy tưởng tượng với Đức Chúa Trời, dễ dàng nảy sinh quan niệm nhất với công tác của Ngài. Cho nên mới nói, những người tự cho là biết Ngài là những người chống đối Ngài nhất và là những người nguy hiểm nhất.

Trích đoạn 26

Có những loại người khác nhau, và họ được phân biệt bởi loại linh hồn mà họ có. Một số người có linh hồn con người, và họ là những người mà Đức Chúa Trời đã định trước và đã chọn. Một số người thì không có linh hồn con người; họ là những ma quỷ lừa lẻn vào. Những người không được Đức Chúa Trời định trước và chọn lựa thì có lẻn vào được nhà Đức Chúa Trời cũng không thể được cứu rỗi, và sau cùng, họ sẽ bị vạch trần và đào thải. Việc con người có thể tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời hay không, sau khi đã tiếp nhận thì họ đi dạng con đường nào và có biến đổi hay không, tất cả đều tùy thuộc vào linh hồn và bản tính bên trong họ. Một số người không thể không đi chệch hướng; linh hồn của họ quyết định họ là người như thế, và họ không thể thay đổi. Ở một số người, Đức Thánh Linh không hoạt động, bởi vì họ không đi chính đạo; tuy nhiên, nếu họ có thể quay đầu thì Đức Thánh Linh vẫn có thể hoạt động. Còn nếu họ không chịu quay đầu thì tất cả sẽ kết thúc đối với họ. Tình huống nào cũng có, nhưng Đức Chúa Trời công chính trong cách đối đãi với mỗi người. Mọi người nên nhận thức và lĩnh hội tâm tính công chính của Đức Chúa Trời như thế nào? Người công chính nhận được phước lành của Ngàicòn kẻ ác bị Ngài nguyền rủa. Đây là sự công chính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ban thưởng cho người lành và trừng phạt kẻ ác, và Ngài báo ứng mỗi người tùy theo việc làm của họ. Đúng là như thế, nhưng hiện nay có một số chuyện không phù hợp với quan niệm của con người, cụ thể là có một số người tin Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài mà bị giết hoặc gặp phải những sự rủa sả của Ngài, hoặc chưa bao giờ được Ngài ban phước hay chú ý đến; dù họ có thờ phượng Ngài đến đâu, Ngài cũng phớt lờ họ. Có những kẻ gian ác mà Đức Chúa Trời không ban phước cũng không trừng phạt, vậy mà họ vẫn phú quý, đông con đông cháu, và mọi việc đều hanh thông với họ; làm gì cũng thuận lợi. Đây có phải là sự công chính của Đức Chúa Trời không? Một số người nói: “Chúng tôi thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng vẫn chưa nhận được phước lành từ Ngài, trong khi những kẻ ác không thờ phượng Đức Chúa Trời và thậm chí chống đối Ngài thì lại đang sống tốt hơn và sung túc hơn chúng tôi. Đức Chúa Trời không công chính!”. Điều này cho các ngươi thấy điều gì? Ta vừa đưa cho các ngươi hai ví dụ. Ví dụ nào nói về sự công chính của Đức Chúa Trời? Một số người nói: “Cả hai đều là biểu hiện của sự công chính của Đức Chúa Trời!”. Tại sao họ lại nói như vậy? Có những nguyên tắc trong hành động của Đức Chúa Trời – chỉ là con người không thể nhìn rõ, và khi không thể nhìn rõ, họ không thể nói rằng Đức Chúa Trời không công chính. Con người chỉ có thể nhìn thấy những gì ngoài bề mặt; họ không thể nhìn thấu thực tình. Vì vậy, những gì Đức Chúa Trời làm là công chính, cho dù nó ít phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người như thế nào đi nữa. Có nhiều người liên tục than oán rằng Đức Chúa Trời không công chính. Đó là bởi họ không hiểu thực tình. Khi luôn nhìn sự việc dưới góc độ của những quan niệm và sự tưởng tượng của mình thì họ rất dễ mắc sai lầm. Nhận thức của con người tồn tại trong tư duy và quan điểm của riêng họ, trong quan niệm về sự đổi chác của họ, hoặc trong những góc nhìn của họ về thiện ác, đúng sai, hoặc lô-gic. Khi một người nhìn sự việc từ những quan điểm như vậy, họ rất dễ hiểu sai về Đức Chúa Trời, nảy sinh những quan niệm, rồi sẽ chống đối Ngài, than oán về Ngài. Có một người nghèo khổ chỉ biết thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng Ngài lại thờ ơ và không ban phước cho anh ta. Có lẽ các ngươi sẽ nghĩ rằng: “Kể cả Đức Chúa Trời có không ban phước cho anh ta trong đời này, thì chắc chắn Ngài sẽ ban phước cho anh ta trong đời đời và tưởng thưởng cho anh ta gấp vạn lần hơn thế. Chẳng phải như thế sẽ khiến Đức Chúa Trời công chính sao? Một người giàu vui hưởng phước lành gấp trăm lần trong đời này và sẽ đối mặt với sự hủy diệt trong đời đời. Chẳng phải đây cũng là sự công chính của Đức Chúa Trời sao?”. Người ta nên hiểu về sự công chính của Đức Chúa Trời như thế nào đây? Hãy lấy sự hiểu biết về công tác của Đức Chúa Trời làm ví dụ: nếu Đức Chúa Trời đã khép lại công tác của Ngài sau khi hoàn thành công tác trong Thời đại Ân điển, và đã không làm công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt, không triệt để cứu rỗi con người, dẫn đến việc con người hoàn toàn bị hủy diệt, thì như thế Ngài có thể được xem là có tình yêu và sự công chính không? Nếu những ai thờ phượng Đức Chúa Trời mà lại bị ném vào hồ lửa và diêm sinh, còn những kẻ không thờ phượng Ngài hay thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của Ngài thì lại được cho sống sót, thì việc này phải hiểu ra làm sao? Khi nói năng trong bối cảnh giáo lý, thường người ta luôn nói rằng Đức Chúa Trời công chính, nhưng khi đối mặt với dạng tình huống như vậy, thì có lẽ họ không thể phân định đúng đắn được và có thể còn oán trách Đức Chúa Trời và phán xét rằng Ngài không công chính.

Tình yêu và sự công chính của Đức Chúa Trời phải được hiểu một cách thấu đáo, và phải được giải thích và lĩnh hội dựa trên lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Hơn nữa, người ta phải trải qua những trải nghiệm thật và đạt được sự khai sáng của Đức Chúa Trời thì mới có thể thực sự biết được tình yêu và sự công chính của Đức Chúa Trời. Sự đánh giá của người ta đối với tình yêu và sự công chính của Ngài không được dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của họ. Theo quan niệm của con người, thì phải thưởng thiện phạt ác, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão, người tốt được đền đáp xứng đáng, kẻ ác bị trừng trị và ai không làm điều ác đều nên được đền đáp xứng đáng cũng như nhận được phước lành. Có vẻ như, trong mọi trường hợp mà con người không xấu xa, họ nên được đền đáp xứng đáng; chỉ điều này mới là sự công chính của Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là quan niệm của con người sao? Nhưng nếu họ không được đền đáp xứng đáng thì sao? Khi đó ngươi có nói rằng Đức Chúa Trời không công chính không? Chẳng hạn như, trong thời Nô-ê, Đức Chúa Trời đã bảo với Nô-ê rằng: “Kỳ cuối cùng của mọi xác thịt đã đưa đến trước mặt ta; vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy, Ta sẽ diệt-trừ họ cùng đất” (Sách sáng thế 6:13). Sau đó Ngài đã lệnh cho Nô-ê đóng tàu. Sau khi Nô-ê đã tiếp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời và đóng con tàu, một trận mưa dữ dội đã đổ xuống trên đất suốt bốn mươi ngày đêm, toàn bộ thế gian chìm ngập dưới nước lụt, và Đức Chúa Trời đã hủy diệt tất thảy loài người thời đó, ngoại trừ Nô-ê và bảy thành viên gia đình của ông. Ngươi nghĩ sao về câu chuyện này? Ngươi có cho rằng Đức Chúa Trời không yêu thương không? Đối với con người mà nói thì dù cho họ có bại hoại tới mấy đi nữa, nhưng hễ Đức Chúa Trời hủy diệt nhân loại thì điều đó có nghĩa rằng Ngài không yêu thương. Họ nghĩ vậy thì có đúng không? Ý nghĩ này chẳng phải là lố bịch sao? Đức Chúa Trời không yêu thương những kẻ mà Ngài đã ủy diệt, nhưng ngươi có thể nói thật lòng rằng Ngài không yêu thương những người đã sống sót và đạt được sự cứu rỗi của Ngài sao? Phi-e-rơ yêu kính Đức Chúa Trời đến tột cùng, và Đức Chúa Trời đã yêu thương Phi-e-rơ – ngươi có thể thật sự nói rằng Đức Chúa Trời không yêu thương sao? Đức Chúa Trời yêu thương những người thật sự yêu kính Ngài, và khinh ghét rủa sả những kẻ chống đối Ngài và không chịu ăn năn. Đức Chúa Trời có cả yêu và hận, đây là sự thật. Con người không nên quy định hay phán xét Đức Chúa Trời theo quan niệm và tưởng tượng của họ, vì quan niệm và tưởng tượng của nhân loại, tức là cách mà họ nhìn nhận sự việc, hoàn toàn không có lẽ thật. Phải nhận biết Đức Chúa Trời dựa trên thái độ của Ngài đối với con người, trên tâm tính và thực chất của Ngài. Người ta tuyệt đối không được dựa trên vẻ bên ngoài của những điều Ngài làm và xử lý mà quy định thực chất của Đức Chúa Trời. Nhân loại đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc; họ không biết thực chất bản tính của nhân loại bại hoại, càng không biết nhân loại bại hoại là thứ gì trước Đức Chúa Trời, cũng như cách họ phải được đối xử như thế nào theo tâm tính công chính của Ngài. Hãy xem Gióp, ông là một người công chính và Đức Chúa Trời đã ban phước cho ông. Đây là sự công chính của Đức Chúa Trời. Sa-tan đã đánh cược với Đức Giê-hô-va: “Gióp há kính sợ Ðức Chúa Trời luống công sao? Chúa há chẳng dựng hàng rào binh vực ở bốn phía người, nhà người, và mọi vật thuộc về người sao? Chúa đã ban phước cho công việc của tay người và làm cho của cải người thêm nhiều trên đất. Nhưng bây giờ hãy giơ tay Chúa ra, đụng đến hại các vật người có, ắt là người sẽ phỉ báng Chúa trước mặt” (Gióp 1:9-11). Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán: “Nầy, các vật người có đều phó trong tay người; nhưng chớ tra tay vào mình nó” (Gióp 1:12). Vì vậy, Sa-tan đã tìm đến Gióp, tấn công và cám dỗ ông, và sau đó Gióp đã gặp phải sự thử luyện. Ông bị tước đoạt mọi thứ mình có – ông mất con cái và tài sản, còn mình mẩy thì nổi đầy ung nhọt. Giờ thì, trong những thử luyện của Gióp có tâm tính công chính của Đức Chúa Trời không? Ngươi không thể nói rõ, đúng không? Ngay cả khi ngươi là người công chính, Đức Chúa Trời cũng có quyền bắt ngươi phải chịu thử luyện và cho phép ngươi làm chứng cho Ngài. Đức Chúa Trời có tâm tính công chính; Ngài đối xử bình đẳng với mọi người. Không phải là những người công chính không cần phải trải qua thử luyện kể cả khi họ có thể chịu được, hoặc họ phải được bảo vệ; không phải như vậy. Đức Chúa Trời có quyền bắt những người công chính phải trải qua thử luyện. Điều này là sự tỏ lộ tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, sau khi Gióp đã trải qua thử luyện và làm chứng cho Đức Giê-hô-va xong, Đức Giê-hô-va ban phước cho ông thậm chí còn nhiều hơn trước, tốt hơn trước, và Ngài đã ban cho ông phước lành nhiều gấp đôi. Hơn nữa, Đức Giê-hô-va hiện ra với ông, và phán với ông từ trong cơn gió, và Gióp nhìn thấy Ngài như thể mặt đối mặt. Đây là một phước lành được Đức Chúa Trời ban cho ông. Đây là sự công chính của Đức Chúa Trời. Khi Gióp đã trải qua thử luyện xong và Đức Giê-hô-va thấy Gióp đã làm chứng cho Ngài như thế nào trước mặt Sa-tan và khiến Sa-tan xấu hổ, sau đó Đức Giê-hô-va quay lưng bỏ đi, phớt lờ ông và Gióp không nhận được phước lành, nếu chuyện xảy ra như vậy thì sao, liệu trong đây có sự công chính của Đức Chúa Trời không? Bất kể Gióp có được ban phước lành sau những thử luyện hay không, hay liệu Đức Giê-hô-va có hiện ra trước ông hay không, tất cả những điều này đều chứa đựng thiện ý của Đức Chúa Trời. Việc xuất hiện với Gióp sẽ là sự công chính của Đức Chúa Trời, và việc không xuất hiện với ông cũng là sự công chính của Đức Chúa Trời. Dựa trên cơ sở nào mà ngươi – một loài thọ tạo – lại đưa ra những đòi hỏi với Đức Chúa Trời? Con người không có tư cách để đưa ra những đòi hỏi với Đức Chúa Trời. Không gì vô lý hơn là đưa ra những đòi hỏi với Đức Chúa Trời. Ngài sẽ làm những gì Ngài phải làm, và tâm tính của Ngài là công chính. Công chính không có nghĩa là công bằng hoặc hợp lý; đó không phải là chủ nghĩa quân bình, hay vấn đề phân bổ cho ngươi những gì ngươi xứng đáng tương ứng với lượng công việc ngươi đã hoàn thành, hoặc trả ngươi cho bất cứ công việc nào ngươi đã làm, hoặc ghi nhận về những nỗ lực ngươi bỏ ra. Đây không phải là sự công chính, nó chỉ đơn thuần là công bằng và hợp lý. Rất ít người có khả năng biết được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Giả sử Đức Chúa Trời đã hủy diệt Gióp sau khi Gióp làm chứng cho Ngài: Việc đó có công chính không? Thực ra là có. Tại sao gọi đây là sự công chính? Con người nhìn nhận sự công chính như thế nào? Nếu điều gì đó phù hợp với quan niệm của mọi người, thì rất dễ dàng để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính; tuy nhiên, nếu họ không thấy điều đó phù hợp với quan niệm của họ – nếu đó là điều mà họ không thể hiểu được – thì sẽ khó để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính. Nếu Đức Chúa Trời hủy diệt Gióp vào lúc ấy, con người sẽ không nói Ngài công chính. Tuy nhiên, thật ra thì dù con người có bị bại hoại hay không, và dù họ có bị bại hoại sâu sắc hay không thì Đức Chúa Trời có phải biện minh cho Ngài khi Ngài hủy diệt họ không? Ngài có phải giải thích cho con người là Ngài làm như vậy dựa trên cơ sở nào không? Đức Chúa Trời có phải nói cho con người biết những quy luật Ngài ấn định không? Không cần. Trong mắt Đức Chúa Trời, ai đó bại hoại và ai đó có thể chống đối Đức Chúa Trời thì đều không có giá trị; dù Đức Chúa Trời có xử lý họ như thế nào thì cũng sẽ là thích hợp, và tất cả đều là những sự an bài của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chướng mắt đối với Đức Chúa Trời, và nếu Ngài nói rằng Ngài không cần tới ngươi sau chứng ngôn của ngươi và do đó hủy diệt ngươi thì điều này cũng là sự công chính của Ngài chứ? Đúng vậy. Có lẽ ngươi không thể nhận ra điều này ngay bây giờ từ thực tế, nhưng ngươi phải hiểu giáo lý. Các ngươi nói xem – việc Đức Chúa Trời hủy diệt Sa-tan có phải là biểu hiện của sự công chính của Ngài không? (Phải.) Sẽ thế nào nếu Ngài cho phép Sa-tan tồn tại? Ngươi không dám nói phải không? Thực chất của Đức Chúa Trời là sự công chính. Mặc dù không dễ dàng hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm là công chính; chỉ đơn giản là mọi người không hiểu. Khi Đức Chúa Trời giao Phi-e-rơ cho Sa-tan, Phi-e-rơ đã phản ứng lại thế nào? “Nhân loại không thể hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm đều chứa đựng ý tốt của Ngài; tất thảy đều có sự công chính trong đó. Làm sao tôi có thể không thốt lên lời khen ngợi sự khôn ngoan và những việc làm của Ngài?”. Giờ ngươi nên hiểu lý do Đức Chúa Trời không tiêu diệt Sa-tan trong thời kỳ Ngài cứu rỗi con người là để con người có thể thấy rõ Sa-tan đã làm họ bại hoại ra sao và nó đã làm họ bại hoại đến mức nào, cũng như cách Đức Chúa Trời làm tinh sạch và cứu rỗi họ. Cuối cùng, khi con người đã hiểu được lẽ thật và thấy rõ được bộ mặt ghê tởm của Sa-tan, thấy được tội lỗi khủng khiếp của việc Sa-tan làm họ bại hoại, thì Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt Sa-tan, cho họ thấy sự công chính của Ngài. Thời điểm mà Đức Chúa Trời tiêu diệt Sa-tan chứa đầy tâm tính và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều công chính. Mặc dù có thể con người không thể nhận ra được sự công chính của Đức Chúa Trời, nhưng họ không nên tùy ý phán xét. Nếu điều gì đó mà Ngài làm đối với con người có vẻ là không hợp lý, hoặc nếu họ có bất kỳ quan niệm nào về điều đó, và nó khiến họ cho rằng Ngài không công chính, thì họ đang là kẻ vô lý nhất. Ngươi thấy rằng Phi-e-rơ có một số chuyện không thể hiểu thấu được, nhưng ông chắc chắn rằng trong những chuyện này có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và ý tốt của Ngài. Con người không thể hiểu thấu mọi thứ; có quá nhiều thứ mà họ không thể nắm bắt được. Vì vậy, để biết tâm tính của Đức Chúa Trời không phải là một điều dễ dàng. Mặc dù trong giới tôn giáo có rất nhiều người tin Đức Chúa Trời, nhưng ít ai có thể biết được tâm tính của Ngài. Khi có người cố gắng rao truyền phúc âm đến những người trong tôn giáo và cho họ đọc lời Đức Chúa Trời, thì họ chẳng những không tìm kiếm và tìm hiểu mà thậm chí còn đốt cả sách lời Đức Chúa Trời, và bị trừng phạt. Những người khác thì tin vào những lời đồn đoán, báng bổ Đức Chúa Trời, và bị trừng phạt. Quả thực có nhiều không đếm xuể các ví dụ về những chuyện như vậy xảy ra. Một số người mới tin rất kiêu căng ngạo mạn, vì vậy họ không tiếp nhận khi nghe những chuyện này, và họ nảy sinh các quan niệm. Đức Chúa Trời thấy rằng ngươi ngu muội và vô tri và Ngài bỏ qua cho ngươi, nhưng sẽ đến một ngày Ngài sẽ khiến ngươi hiểu được. Nếu ngươi đã theo Đức Chúa Trời nhiều năm mà vẫn cư xử như vậy, có bao nhiêu quan niệm cũng bám lấy, không chỉ không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề mà thậm chí còn lan truyền các quan niệm của mình khắp nơi, nhạo báng và châm biếm nhà Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ phải gặp quả báo. Trong vài trường hợp, có thể Đức Chúa Trời tha thứ cho ngươi bởi vì ngươi ngươi chỉ ngu muội và vô tri mà thôi, nhưng nếu ngươi hiểu biết nhiều hơn mà vẫn cố tình hảnh xử kiểu vậy, không chịu nghe lời cho dù được khuyên bảo nhiều tới mấy, thì ngươi phải bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Ngươi chỉ biết rằng Đức Chúa Trời có mặt bao dung, nhưng đừng quên Ngài còn có mặt không thể bị xúc phạm nữa, đó là tâm tính công chính của Ngài.

Trích đoạn 27

“Báng bổ và phỉ báng Đức Chúa Trời là một tội không được tha thứ trong thời này hay thời sau cũng vậy, và những ai phạm phải tội này sẽ không bao giờ được đầu thai nữa”. Câu này có nghĩa là tâm tính của Đức Chúa Trời không dung thứ cho sự xúc phạm của con người. Chắc chắn rằng sự báng bổ và phỉ báng Đức Chúa Trời sẽ không được tha thứ trong thời này hay thời sau. Báng bổ Đức Chúa Trời thì cho dù có cố tình hay không cũng là điều xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời, và nói những lời báng bổ Đức Chúa Trời thì dù có lý do gì chăng nữa vẫn sẽ chắc chắn bị kết tội. Tuy nhiên, có những người nói ra những lời báng bổ đáng lên án trong những tình huống họ không hiểu biết, hoặc họ bị người khác mê hoặc, khống chế hoặc áp chế. Sau khi nói ra những lời này thì họ cảm thấy mất bình an, cảm thấy mình đã bị cáo buộc, và họ vô cùng ăn năn. Sau đó, họ chuẩn bị đủ những việc lành, đồng thời đạt được nhận thức và thay đổi trong việc này; Đức Chúa Trời bởi vậy mà không còn nhớ tới sự vi phạm trước đây của họ nữa. Các ngươi phải biết chính xác lời Đức Chúa Trời và không được tùy tiện áp dụng theo quan niệm và sự tưởng tượng của mình. Ngươi phải hiểu những lời Ngài nhắm tới ai và Ngài nói ra trong bối cảnh nào. Ngươi không được áp dụng tùy tiện hay quy định những lời Ngài một cách cẩu thả. Những người không biết cách trải nghiệm thì không phản tỉnh bản thân về việc gì cả, họ không đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, trong khi những ai đã có chút ít trải nghiệm và sự thấu suốt thì có xu hướng nhạy cảm thái quá, đối chiếu bản thân với lời Ngài một cách tùy tiện khi họ đọc những lời rủa sả của Ngài hoặc khi Ngài khinh ghét và đào thải người ta. Những người này không hiểu lời Đức Chúa Trời và luôn hiểu sai Ngài. Một số người không đọc những lời hiện thời của Đức Chúa Trời hoặc không tìm hiểu công tác hiện tại của Ngài, huống chi là đạt được sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Họ đã nói năng phán xét Đức Chúa Trời, và rồi có người rao truyền phúc âm đến họ và họ đã tiếp nhận. Sau đó thì họ hối hận về những gì mình đã làm và sẵn lòng ăn năn, với trường hợp vậy thì chúng ta sẽ xem hành vi và biểu hiện của họ ra sao tiếp sau đó. Nếu hành vi của họ đặc biệt tồi sau khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời, và họ khiến mọi thứ tồi tệ thêm khi nghĩ rằng: “Chà, mình đã nói những lời báng bổ, phỉ báng và phán xét tới Đức Chúa Trời, nếu Đức Chúa Trời kết tội những dạng người như vậy, thì những mưu cầu của mình cũng vô ích thôi”, thế thì họ coi như xong rồi. Họ đã bỏ mặc bản thân cho sự tuyệt vọng và tự đào hố chôn mình.

Hầu hết mọi người đều đã vi phạm và tự bôi nhọ bản thân mình theo cách nào đó. Chẳng hạn như, một số người đã chống đối Đức Chúa Trời và nói những điều báng bổ; một số người đã từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời và không thực hiện bổn phận của họ, rồi bị Đức Chúa Trời từ bỏ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời khi họ phải đối mặt với những cám dỗ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời bằng việc ký tên vào “Tam thư” khi họ bị bắt; một số người đã ăn cắp của lễ; một số người đã phung phí của lễ; một số người thường xuyên làm nhiễu loạn đời sống hội thánh và gây hại cho những người được Đức Chúa Trời chọn; một số người thì lập bè phái và trừng trị người khác, làm xáo trộn hội thánh; một số người thường xuyên truyền bá các quan niệm và cái chết, làm hại các anh chị em; và một số người thì gian dâm và lang chạ, đã gây ảnh hưởng cực kỳ xấu. Điều đó đủ để nói rằng ai cũng có những vi phạm và vết nhơ. Ấy thế nhưng một số người có thể tiếp nhận lẽ thật và ăn năn trong khi những người khác thì lại không thể và có chết cũng không chịu ăn năn. Bởi vậy người ta nên được đối xử theo như thực chất bản tính của họ và những biểu hiện nhất quán của họ. Những người có thể ăn năn là những người thật sự tin Đức Chúa Trời, còn những kẻ thực sự không ăn năn, những kẻ đáng bị thanh trừ và khai trừ thì sẽ bị thanh trừ và khai trừ. Một số người thì gian ác, một số thì ngu muội, một số thì ngốc nghếch, và một số thì là loại súc sinh. Mọi người đều khác nhau. Một số kẻ ác bị tà linh ám, trong khi số khác thì là tay sai của quỷ Sa-tan. Một số đặc biệt nham hiểm trong bản tính, trong khi số khác thì đặc biệt giả dối, một số đặc biệt tham lam trong chuyện tiền bạc, và số khác thì ham thích chuyện dâm loạn. Biểu hiện của mỗi người mỗi khác, vậy nên người ta nên được xem xét một cách toàn diện theo bản tính và các biểu hiện nhất quán của họ. Theo bản năng xác thịt phàm tục của con người, mỗi người đều có ý chí tự do cho dù họ là ai. Họ có thể nghĩ về mọi thứ theo quan niệm của con người, và không có khả năng thâm nhập trực tiếp vào cõi thuộc linh hoặc không có cách nào để biết sự thật về cõi thuộc linh. Ví dụ như, khi ngươi tin vào Đức Chúa Trời thật và muốn tiếp nhận giai đoạn công tác mới này của Ngài, nhưng chưa có ai đến để rao truyền phúc âm cho ngươi và chỉ có công tác của Đức Thánh Linh đang khai sáng cho ngươi, hướng dẫn ngươi đâu đó, thì ngươi rất bị hạn chế về những gì mình biết. Ngươi không thể nào biết được hiện tại Đức Chúa Trời đang làm công tác gì và Ngài sẽ hoàn tất điều gì trong tương lai. Người ta không thể dò lường Đức Chúa Trời, họ không có khả năng làm vậy, cũng không có khả năng lĩnh hội trực tiếp về cõi thuộc linh hoặc hiểu thấu đáo công tác của Đức Chúa Trời, càng không phụng sự Ngài một cách sẵn lòng nhất như một thiên sứ. Nếu Đức Chúa Trời trước hết không chinh phục, cứu rỗi, và cảm hóa người ta thông qua những lời Ngài, hoặc chăm tưới họ, cung cấp cho họ những lẽ thật mà Ngài bày tỏ, thì người ta không thể nào tiếp nhận được công tác mới, đạt được lẽ thật và sự sống, hoặc biết đến Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời không làm công tác này, thì họ sẽ không có được những thứ này trong mình, và nó sẽ được định đoạt bởi bản năng của họ. Như thế, một số người chống đối hoặc dấy loạn, khiến Đức Chúa Trời nổi giận và căm ghét, nhưng Đức Chúa Trời có cách tiếp cận với từng trường hợp theo cách khác nhau, và xử lý từng trường hợp một cách tách biệt phù hợp với bản năng của con người. Bất kỳ công tác nào do Đức Chúa Trời thực hiện cũng đều thích đáng. Ngài biết phải làm gì và làm thế nào, và Ngài chắc chắn sẽ không để người ta làm bất cứ điều gì mà họ không thể làm theo bản năng. Đức Chúa Trời xử lý từng người dựa theo các tình huống thực tế về hoàn cảnh và bối cảnh của người đó, cũng như theo các hành động, cư xử và thực chất bản tính của họ. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bất công với bất kỳ ai. Đây là một mặt của sự công chính của Đức Chúa Trời. Ví dụ, Ê-va đã bị con rắn dụ ăn trái từ cây biết thiện ác, nhưng Giê-hô-va đã không quở trách bà bằng cách nói: “Ta đã bảo ngươi đừng ăn, vậy thì tại sao ngươi vẫn ăn? Ngươi đáng lẽ phải phân biệt rõ, đáng lẽ phải biết rằng những gì con rắn nói chỉ để cám dỗ ngươi”. Giê-hô-va đã không khiển trách Ê-va như thế. Bởi vì con người là tạo vật của Đức Chúa Trời, Ngài biết những bản năng của họ là gì và những bản năng đó có khả năng gì, con người có thể kiểm soát bản thân đến mức độ nào, và con người có thể đạt đến mức độ nào. Đức Chúa Trời biết rất rõ tất cả những điều này. Việc Đức Chúa Trời xử lý một con người không đơn giản như người ta nghĩ. Khi thái độ của Ngài đối với một người là khinh ghét hoặc ác cảm, hoặc khi nói đến điều người này phát biểu trong một bối cảnh nhất định, thì Ngài hiểu rõ tình trạng của họ. Điều này là do Đức Chúa Trời dò xét nội tâm và thực chất con người. Con người luôn nghĩ: “Đức Chúa Trời chỉ có thần tính của Ngài. Ngài công chính và không cho phép con người xúc phạm. Ngài không xét đến những khó khăn của con người hay đặt mình vào vị trí của con người. Nếu một người chống đối Đức Chúa Trời, Ngài sẽ trừng phạt họ”. Mọi chuyện hoàn toàn không phải là như vậy. Nếu đó là cách người ta hiểu về sự công chính của Ngài, công tác của Ngài, và cách Ngài đối xử với con người, thì họ đã sai lầm nghiêm trọng. Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của mỗi người không dựa trên quan niệm và trí tưởng tượng của con người mà dựa trên tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đáp trả mỗi người tùy theo những gì họ đã làm. Đức Chúa Trời công chính, và sớm hay muộn Ngài sẽ đảm bảo tất cả mọi người đều hoàn toàn tâm phục khẩu phục.

Trước: Những lời về việc tìm kiếm và thực hành lẽ thật

Tiếp theo: Những lời về việc thực hiện bổn phận

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger