Biết đến Đức Chúa Trời I
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 1
Mỗi người các ngươi nên xem xét lại cuộc đời tin vào Đức Chúa Trời của mình để xem khi theo Đức Chúa Trời, liệu ngươi có thật sự hiểu, thật sự hiểu thấu, và thật sự biết được Đức Chúa Trời hay không, liệu ngươi có thật sự biết Đức Chúa Trời có thái độ gì với những dạng người khác nhau, và liệu ngươi có thật sự hiểu công tác mà Đức Chúa Trời đang làm trên ngươi và Đức Chúa Trời định nghĩa từng hành động của ngươi như thế nào. Đức Chúa Trời này, Đấng bên cạnh ngươi, chỉ lối cho sự tiến triển của ngươi, định đoạt số mệnh của ngươi, và cung cấp cho những nhu cầu của ngươi – xét cho cùng, ngươi hiểu được bao nhiêu về Đức Chúa Trời này? Ngươi thật sự biết được bao nhiêu về Đức Chúa Trời này? Ngươi có biết Ngài làm gì trên ngươi mỗi một ngày không? Ngươi có biết những nguyên tắc và mục đích mà Ngài làm căn cứ cho mọi hành động của Ngài không? Ngươi có biết Ngài hướng dẫn ngươi thế nào không? Ngươi có biết những phương tiện mà Ngài dùng để cung cấp cho ngươi không? Ngươi có biết những phương pháp mà Ngài dùng để dẫn dắt ngươi không? Ngươi có biết Ngài mong muốn đạt được gì từ ngươi và mong muốn đạt được gì ở ngươi không? Ngươi có biết thái độ của Ngài đối với những cách hành xử khác nhau của ngươi không? Ngươi có biết liệu mình có phải là một người được Ngài yêu mến không? Ngươi có biết nguồn gốc của sự hoan hỉ, giận dữ, đau buồn, và vui mừng của Ngài, những suy nghĩ và ý tưởng đằng sau đó, và bản tính của Ngài không? Ngươi có biết cuối cùng thì Đức Chúa Trời mà ngươi tin này là dạng Đức Chúa Trời nào không? Có phải những câu hỏi này và những câu hỏi khác tương tự là điều ngươi chưa bao giờ hiểu hay nghĩ về không? Khi theo đuổi niềm tin của mình vào Đức Chúa Trời, ngươi đã loại bỏ được những hiểu lầm của mình về Ngài bằng sự cảm kích và trải nghiệm thật sự lời Đức Chúa Trời chưa? Sau khi nhận lãnh sự sửa dạy và sửa phạt của Đức Chúa Trời, ngươi đã có được sự vâng lời và quan tâm thật sự chưa? Giữa hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời, ngươi đã nhận biết được sự phản nghịch và bản tính Sa-tan của con người và có được chút hiểu biết về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời chưa? Dưới sự hướng dẫn và khai sáng của lời Đức Chúa Trời, ngươi đã bắt đầu có cách nhìn mới về sự sống chưa? Giữa những thử luyện mà Đức Chúa Trời gửi tới, ngươi đã cảm nhận được sự không dung thứ của Ngài đối với những xúc phạm của con người cũng như những gì Ngài yêu cầu ở ngươi và cách Ngài đang cứu rỗi ngươi chưa? Nếu ngươi không biết hiểu lầm Đức Chúa Trời là gì, hay cách loại bỏ sự hiểu lầm này, khi ấy có thể nói rằng ngươi chưa bao giờ bước vào sự tương giao thật sự với Đức Chúa Trời và chưa bao giờ hiểu Đức Chúa Trời, hoặc ít nhất có thể nói ngươi chưa bao giờ mong muốn được hiểu Ngài. Nếu ngươi không biết sự sửa dạy và sửa phạt của Đức Chúa Trời là gì, vậy thì ngươi chắc chắn không biết sự vâng lời và quan tâm là gì, hay chí ít ngươi chưa bao giờ vâng lời hay quan tâm Đức Chúa Trời thật sự. Nếu ngươi chưa bao giờ trải nghiệm hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời, vậy thì ngươi chắc chắn không biết sự thánh khiết của Ngài là gì, và ngươi thậm chí sẽ càng không rõ sự phản nghịch của con người là gì. Nếu ngươi chưa bao giờ thật sự có cái nhìn đúng về sự sống, hay một mục đích đúng trong cuộc sống, mà vẫn trong trạng thái bối rối và do dự về con đường tương lai của mình trong cuộc sống, thậm chí tới mức lưỡng lự tiến tới, vậy thì chắc chắn ngươi chưa bao giờ nhận lãnh sự khai sáng và hướng dẫn của Đức Chúa Trời; cũng có thể nói rằng ngươi chưa bao giờ thật sự được cung cấp hay bổ sung bởi lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chưa trải qua những thử luyện của Đức Chúa Trời, vậy thì hiển nhiên ngươi chắc hẳn không biết sự không dung thứ của Đức Chúa Trời đối với những xúc phạm của con người là gì, ngươi cũng sẽ không hiểu cuối cùng Đức Chúa Trời yêu cầu điều gì ở ngươi, và càng không hiểu cuối cùng công tác quản lý và cứu rỗi con người của Ngài là gì. Bất kể con người đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, nếu họ chưa bao giờ trải nghiệm hay nhận thức bất cứ điều gì trong lời Đức Chúa Trời, vậy thì chắc chắn họ không đang đi trên con đường hướng tới sự cứu rỗi, đức tin của họ vào Đức Chúa Trời chắc chắn không có nội dung thật, kiến thức của họ về Đức Chúa Trời chắc chắn cũng là con số không, và hiển nhiên họ hoàn toàn không biết tôn kính Đức Chúa Trời là gì.
– Lời tựa, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 2
Những vật sở hữu và hữu thể của Đức Chúa Trời, thực chất của Đức Chúa Trời, tâm tính Đức Chúa Trời – hết thảy đều được cho biết trong những lời của Ngài với nhân loại. Khi con người trải nghiệm lời Đức Chúa Trời thì trong quá trình đưa chúng vào thực hành, họ sẽ bắt đầu hiểu mục đích đằng sau những lời Đức Chúa Trời phán, hiểu nguồn gốc và bối cảnh của lời Đức Chúa Trời, hiểu và cảm kích tác dụng đã định của lời Đức Chúa Trời. Đối với nhân loại, đây là tất cả những điều mà con người phải trải nghiệm, nắm bắt, và đạt được để có được lẽ thật và sự sống, nắm bắt những ý định của Đức Chúa Trời, trở nên được chuyển hóa trong tâm tính của mình, và trở nên có thể vâng theo quyền tối thượng và những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Đồng thời với việc trải nghiệm, nắm bắt và đạt được những điều này, con người sẽ dần có được một sự hiểu biết về Đức Chúa Trời, và vào lúc này họ cũng sẽ có được những mức độ kiến thức khác nhau về Ngài. Sự hiểu biết và kiến thức này không đến từ điều gì đó mà con người đã tưởng tượng hay sáng tác ra, mà thay vào đó là từ những gì họ cảm kích, trải nghiệm, cảm nhận, và chứng thực bên trong mình. Chỉ sau khi cảm kích, trải nghiệm, cảm nhận và chứng thực những điều này, kiến thức của con người về Đức Chúa Trời mới có được nội dung, chỉ kiến thức mà họ có được lúc này mới là có thật, đích thực, chính xác, và quá trình này – quá trình có được sự hiểu biết và kiến thức đích thực về Đức Chúa Trời thông qua sự cảm kích, trải nghiệm, cảm nhận, và chứng thực lời Ngài – không gì khác chính là sự tương giao thật sự giữa con người và Đức Chúa Trời. Trong dạng tương giao này, con người trở nên thật sự hiểu và lĩnh hội những ý định của Đức Chúa Trời, bắt đầu thật sự hiểu và biết những vật sở hữu và hữu thể của Đức Chúa Trời, bắt đầu thật sự hiểu và biết thực chất của Đức Chúa Trời, bắt đầu dần hiểu và biết tâm tính Đức Chúa Trời, đạt đến sự chắc chắn thật sự, và định nghĩa đúng về thực tế của việc Đức Chúa Trời thống trị mọi sự tạo dựng, và có được sự thấu hiểu và kiến thức thực chất về thân phận và vị trí của Đức Chúa Trời. Trong dạng tương giao này, con người từng bước một thay đổi những ý tưởng của mình về Đức Chúa Trời, không còn tưởng tượng Ngài từ hư không, hay bị những hoài nghi của chính mình về Ngài chế ngự, hay hiểu lầm Ngài, hay lên án Ngài, hay phán xét Ngài, hay ngờ vực Ngài. Do đó, con người sẽ có ít cuộc tranh luận với Đức Chúa Trời hơn, họ sẽ có ít mâu thuẫn với Đức Chúa Trời hơn, và họ sẽ có ít lần phản nghịch Đức Chúa Trời hơn. Ngược lại, sự quan tâm và vâng lời của con người với Đức Chúa Trời sẽ ngày càng nhiều hơn, và sự tôn kính Đức Chúa Trời của họ sẽ trở nên thật hơn, cũng như sâu sắc hơn. Trong khi tương giao như thế này, con người sẽ không chỉ có được sự cung cấp lẽ thật và phép báp-tem cho sự sống, mà đồng thời họ cũng sẽ có được kiến thức thật về Đức Chúa Trời. Trong khi tương giao như thế này, con người sẽ không chỉ được chuyển hóa về tâm tính của mình và lãnh nhận sự cứu rỗi, mà đồng thời họ cũng sẽ có được sự tôn kính và thờ phượng thật sự của một hữu thể thọ tạo đối với Đức Chúa Trời. Có được dạng tương giao này, đức tin của con người vào Đức Chúa Trời sẽ không còn là tờ giấy trắng, hay một lời hứa đầu môi chót lưỡi, hay một dạng theo đuổi và sùng bái mù quáng; chỉ với dạng tương giao này, sự sống của con người mới phát triển hướng đến sự chín chắn từng ngày, và chỉ lúc này tâm tính của họ mới dần trở nên được chuyển hóa, và đức tin của họ vào Đức Chúa Trời sẽ từng bước đi từ niềm tin mơ hồ và bất định sang sự vâng lời và quan tâm đích thực, sang sự tôn kính thật sự, và khi theo Đức Chúa Trời, con người cũng sẽ dần tiến triển từ thế thụ động sang chủ động, từ tiêu cực sang tích cực; chỉ với dạng tương giao này, con người mới đạt đến sự hiểu biết và hiểu thấu thật sự về Đức Chúa Trời, kiến thức thật về Đức Chúa Trời. Bởi phần lớn mọi người chưa bao giờ bước vào sự tương giao thật với Đức Chúa Trời, kiến thức của họ về Đức Chúa Trời dừng lại ở mức độ lý thuyết, ở mức độ câu chữ và học thuyết. Điều đó có nghĩa là, phần lớn mọi người, dù đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, thì trong việc biết Đức Chúa Trời, họ vẫn ở vị trí cũ giống như khi bắt đầu, mắc kẹt ở nền tảng của những hình thức thần phục truyền thống, với những mê tín phong kiến và màu sắc huyền thoại đặc thù. Kiến thức của con người về Đức Chúa Trời có thể bị sa lầy ở điểm khởi đầu có nghĩa là nó hầu như không tồn tại. Ngoài sự quả quyết của con người về vị trí và thân phận của Đức Chúa Trời, đức tin của con người vào Đức Chúa Trời vẫn ở trạng thái bất định mơ hồ. Như vậy, con người có thể có được bao nhiêu sự tôn kính thật đối với Đức Chúa Trời?
Dù ngươi tin vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời vững vàng như thế nào, điều này cũng không thể thay cho kiến thức của ngươi về Đức Chúa Trời, cũng không thể thay cho sự tôn kính của ngươi đối với Đức Chúa Trời. Dù ngươi đã hưởng những phúc lành và ân điển của Ngài nhiều như thế nào, điều này cũng không thể thay cho kiến thức của ngươi về Đức Chúa Trời. Dù ngươi sẵn lòng tận hiến và dành trọn bản thân vì Ngài, điều này cũng không thể thay cho kiến thức của ngươi về Đức Chúa Trời. Có lẽ ngươi đã trở nên quá quen với những lời Ngài phán, hay thậm chí thuộc lòng chúng và có thể đọc một mạch, nhưng điều này không thể thay cho kiến thức của ngươi về Đức Chúa Trời. Dù con người có dốc lòng theo Đức Chúa Trời như thế nào, nếu họ chưa bao giờ có sự tương giao đích thực với Đức Chúa Trời, hay có trải nghiệm đích thực về lời Đức Chúa Trời, vậy thì kiến thức của họ về Đức Chúa Trời sẽ chỉ là một mảng trắng hay một ảo tưởng bất tận; với tất cả những gì mà ngươi có thể đã chạm vai với Đức Chúa Trời khi lướt qua, hoặc gặp Ngài mặt đối mặt, kiến thức của ngươi về Đức Chúa Trời vẫn là con số không, và sự tôn kính của ngươi dành cho Đức Chúa Trời không khá hơn một khẩu hiệu rỗng tuếch hay một khái niệm được lý tưởng hóa.
– Lời tựa, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 3
Nhiều người giữ lời Đức Chúa Trời để đọc ngày qua ngày, thậm chí tới mức cẩn thận ghi nhớ tất cả các đoạn kinh điển trong đó như thể đó là tài sản quý giá nhất của họ, và ngoài ra còn rao giảng lời Đức Chúa Trời khắp nơi, cung cấp và trợ giúp những người khác bằng phương tiện là lời Ngài. Họ nghĩ rằng làm như vậy là làm chứng cho Đức Chúa Trời, làm chứng cho lời Ngài, rằng làm như vậy là theo đường lối của Đức Chúa Trời; họ nghĩ rằng làm như vậy là sống theo lời Đức Chúa Trời, rằng làm như vậy là đưa lời Ngài vào đời sống thực tế của họ, rằng làm như vậy sẽ cho phép họ nhận được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời, được cứu rỗi và hoàn thiện. Nhưng, ngay cả khi họ rao giảng lời Đức Chúa Trời, họ không bao giờ tuân theo lời Đức Chúa Trời trong thực hành, hay cố gắng so bản thân với những gì được mặc khải trong lời Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ dùng lời Đức Chúa Trời để có được sự mến mộ và tin tưởng của những người khác bằng thủ đoạn gian trá, để tự mình bước vào sự quản lý, để biển thủ và cướp đi vinh quang của Đức Chúa Trời. Một cách hão huyền, họ hy vọng sử dụng cơ hội có được bằng cách loan truyền lời Đức Chúa Trời để được thưởng công tác của Đức Chúa Trời và sự khen ngợi của Ngài. Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng những người này không chỉ không thể nhận được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời trong quá trình rao giảng lời Đức Chúa Trời, và họ không chỉ không thể khám phá con đường mà họ nên theo trong quá trình làm chứng cho lời Đức Chúa Trời, và họ không chỉ không trợ giúp hay cung cấp cho bản thân trong quá trình trợ giúp và cung cấp cho những người khác bằng phương tiện là lời Đức Chúa Trời, và họ không chỉ không thể biết Đức Chúa Trời, hay đánh thức sự tôn kính đích thực trong bản thân họ đối với Đức Chúa Trời, trong quá trình thực hiện hết thảy những điều này; mà trái lại, những sự hiểu lầm của họ về Đức Chúa Trời ngày càng sâu hơn bao giờ hết, sự ngờ vực của họ với Ngài càng trầm trọng hơn bao giờ hết, và những sự tưởng tượng của họ về Ngài càng cường điệu hơn bao giờ hết. Được cung cấp và hướng dẫn bởi những lý thuyết của họ về lời Đức Chúa Trời, họ trông như thể hoàn toàn làm chủ tình hình, như thể ra sức vận dụng các kỹ năng của họ một cách dễ dàng, như thể họ đã tìm thấy mục đích trong cuộc sống, sứ mệnh của họ, và như thể họ đã giành được sự sống mới và được cứu rỗi, như thể, với những lời của Đức Chúa Trời vanh vách tuôn ra từ miệng lưỡi khi trích giảng, họ đã có được lẽ thật, nắm bắt được những ý định của Đức Chúa Trời, và khám phá ra con đường biết Đức Chúa Trời, như thể, trong quá trình rao giảng lời Đức Chúa Trời, họ thường đối diện với Đức Chúa Trời. Ngoài ra, họ cũng thường “xúc động” đến phát khóc, và thường được dẫn dắt bởi “Đức Chúa Trời” trong lời Đức Chúa Trời, họ trông như liên tục nắm bắt được sự quan tâm ân cần và ý tốt của Ngài, và đồng thời nắm bắt được sự cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời và việc quản lý của Ngài, biết được thực chất của Ngài, và hiểu tâm tính công chính của Ngài. Trên cơ sở này, họ dường như càng vững tin hơn vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời, biết rõ hơn về trạng thái cao quý của Ngài, và cảm nhận sâu hơn sự quyền uy và siêu nghiệm của Ngài. Chìm trong kiến thức hời hợt về lời Đức Chúa Trời, trông có vẻ như đức tin của họ đã phát triển, quyết tâm chịu khổ của họ đã được củng cố, và kiến thức của họ về Đức Chúa Trời đã sâu xa hơn. Họ ít nhận biết rằng, cho đến khi họ thật sự trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, toàn bộ kiến thức của họ về Đức Chúa Trời và những ý tưởng của họ về Ngài đều phát xuất từ trí tưởng tượng và sự phỏng đoán theo mong muốn của họ. Đức tin của họ sẽ không qua được bất kỳ dạng thử thách nào từ Đức Chúa Trời, cái gọi là tinh thần và vóc giạc của họ sẽ đơn giản là không qua được sự thử luyện hoặc kiểm nghiệm của Đức Chúa Trời, quyết tâm của họ chỉ như một lâu đài xây trên cát, và cái gọi là kiến thức của họ về Đức Chúa Trời thì không hơn một sự tưởng tượng. Trên thực tế, những người này, những người đã bỏ rất nhiều nỗ lực vào lời Đức Chúa Trời, chưa từng nhận ra đức tin thật sự là gì, sự vâng lời thật sự là gì, sự quan tâm thật sự là gì, hay kiến thức thật sự về Đức Chúa Trời là gì. Họ lấy lý thuyết, trí tưởng tượng, kiến thức, năng khiếu, truyền thống, sự mê tín, và thậm chí cả những giá trị đạo đức của loài người, biến chúng thành “vốn” và “vũ khí” cho việc tin vào Đức Chúa Trời và đi theo Ngài, thậm chí biến chúng thành những nền tảng cho niềm tin vào Đức Chúa Trời và việc đi theo Ngài của họ. Đồng thời, họ cũng lấy vốn và vũ khí này và biến chúng thành bùa phép để biết Đức Chúa Trời, để đối mặt và đối phó với những sự kiểm nghiệm, thử luyện, hình phạt, và phán xét của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, điều họ thu được vẫn không gì khác hơn là những kết luận về Đức Chúa Trời nhuốm màu ý nghĩa tôn giáo, sự mê tín phong kiến, và tất cả những gì lãng mạn, lố bịch, và khó hiểu. Cách nhận biết và định nghĩa Đức Chúa Trời của họ được đóng trong cùng một khuôn mẫu như của những người chỉ tin vào Trời Cao, hay Ông Trời, trong khi tính thực tế của Đức Chúa Trời, thực chất của Ngài, tâm tính của Ngài, những vật sở hữu và hữu thể của Ngài, v.v. – hết thảy những gì liên quan tới chính Đức Chúa Trời thật – là những điều mà kiến thức của họ đã không nắm bắt được, hoàn toàn không liên quan và thậm chí đối lập. Theo cách này, mặc dù họ sống dưới sự cung cấp và nuôi dưỡng của lời Đức Chúa Trời, thế nhưng họ vẫn không thể thật sự bước trên con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Nguyên nhân thật sự cho điều này là họ chưa bao giờ trở nên quen với Đức Chúa Trời, họ cũng chưa bao giờ có sự liên hệ hay tương giao đích thực với Ngài, và do đó họ không thể đạt được sự hiểu biết qua lại với Đức Chúa Trời, hay đánh thức trong họ niềm tin, sự đi theo, hay thờ phượng đích thực đối với Đức Chúa Trời. Việc họ nên xem lời Đức Chúa Trời như vậy, việc họ nên xem Đức Chúa Trời như vậy – góc độ và thái độ này đã khiến họ trở về tay trắng từ những nỗ lực của mình, đã khiến họ đời đời không bao giờ có thể đi trên con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Mục tiêu mà họ đang nhắm tới, và đường hướng mà họ đang đi, biểu thị họ là kẻ thù của Đức Chúa Trời suốt muôn đời, và họ suốt muôn đời sẽ không bao giờ có thể nhận lãnh sự cứu rỗi.
– Lời tựa, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 4
Nếu, trong trường hợp một người đã theo Đức Chúa Trời nhiều năm và đã hưởng sự cung cấp của lời Ngài trong nhiều năm, định nghĩa của họ về Đức Chúa Trời về thực chất giống như định nghĩa của người nằm phủ phục sùng kính trước các tượng thần, thì điều này sẽ cho thấy rằng người này chưa đạt được thực tế của lời Đức Chúa Trời. Đây là vì người này đơn giản là chưa bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, và vì lý do này, thực tế, lẽ thật, những ý định, và những yêu cầu đối với nhân loại, toàn bộ những điều vốn có trong lời Đức Chúa Trời, không hề có chút liên hệ gì với người này. Điều đó có nghĩa là, dù một người như vậy có làm việc cật lực thế nào trên ý nghĩa bề mặt của lời Đức Chúa Trời thì tất cả đều vô ích: Bởi vì điều mà họ theo đuổi là lời nói đơn thuần, điều họ nhận được cũng sẽ tất yếu là lời nói đơn thuần. Dù những lời Đức Chúa Trời phán nhìn bề ngoài là đơn giản hay sâu sắc, tất cả đều là lẽ thật không thể thiếu đối với con người khi họ bước vào sự sống; chúng là nguồn nước hằng sống cho phép họ sống sót trong cả linh hồn lẫn xác thịt. Chúng cung cấp những gì con người cần để tiếp tục sống; những nguyên tắc và tín điều để sống cuộc sống hàng ngày; con đường mà con người phải đi để được cứu rỗi cũng như mục tiêu và phương hướng; mọi lẽ thật mà con người phải sở hữu như một hữu thể thọ tạo trước Đức Chúa Trời; và mọi lẽ thật về cách con người vâng lời và thờ phượng Đức Chúa Trời. Chúng là sự đảm bảo cho sự sống còn của con người, chúng là bánh hàng ngày của con người, và chúng cũng là chỗ dựa vững chắc cho phép con người mạnh mẽ và đứng vững. Chúng phong phú trong thực tế của lẽ thật mà loài người thọ tạo dùng để sống thể hiện ra nhân tính bình thường, phong phú trong lẽ thật mà nhân loại dùng để thoát khỏi sự bại hoại và tránh được những mưu chước của Sa-tan, phong phú trong sự dạy dỗ, thúc giục, khích lệ, và an ủi không mệt mỏi mà Đấng Tạo Hóa ban cho loài người thọ tạo. Chúng là ngọn hải đăng hướng dẫn và khai sáng cho con người hiểu mọi điều tích cực, là sự bảo đảm rằng con người sẽ sống thể hiện ra và sở hữu được tất cả mọi điều công chính và thiện lành, là tiêu chuẩn mà qua đó mọi con người, sự vật và sự việc đều được đo lường, và cũng là kim chỉ nam để đưa con người đến sự cứu rỗi và con đường của sự sáng. Chỉ trong trải nghiệm thực về lời Đức Chúa Trời, con người mới có thể được cung cấp lẽ thật và sự sống; chỉ ở đây con người mới có thể bắt đầu hiểu nhân tính bình thường là gì, sự sống đầy ý nghĩa là gì, hữu thể thọ tạo đích thực là gì, sự vâng lời Đức Chúa Trời thực sự là gì; chỉ ở đây con người mới có thể bắt đầu hiểu mình nên quan tâm đến Đức Chúa Trời như thế nào, hoàn thành bổn phận của một hữu thể thọ tạo như thế nào, và sở hữu hình tượng giống một con người thật như thế nào; chỉ ở đây con người mới có thể hiểu được ý nghĩa của đức tin đích thực và thờ phượng đích thực; chỉ ở đây con người mới có thể hiểu ra ai là Đấng Thống Trị của trời đất và muôn vật; chỉ ở đây con người mới có thể bắt đầu hiểu phương tiện mà Đấng là Chủ của toàn bộ sự tạo dựng dùng để cai trị, dẫn dắt, và cung cấp cho sự tạo dựng; và chỉ ở đây con người mới có thể bắt đầu hiểu và nắm bắt được phương tiện mà nhờ đó, Đấng là Chủ của mọi sự tạo dựng tồn tại, trở nên hiển hiện, và hoạt động. Khi xa rời trải nghiệm thực về lời Đức Chúa Trời, con người không có kiến thức hay sự hiểu thấu thật sự lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Một người như thế là một cái xác sống đích thực, một cái vỏ trơn láng, và mọi kiến thức liên quan đến Đấng Tạo Hóa đều không có chút liên quan gì đến họ. Trong mắt Đức Chúa Trời, một người như thế chưa bao giờ tin vào Ngài, cũng chưa bao giờ theo Ngài, và do vậy Đức Chúa Trời không công nhận họ là người tin Ngài hay người theo Ngài, càng không phải là một hữu thể thọ tạo đích thực.
– Lời tựa, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 5
Một hữu thể thọ tạo đích thực phải biết Đấng Tạo Hóa là ai, việc tạo dựng con người để làm gì, thực hiện những trách nhiệm của một hữu thể thọ tạo như thế nào, và thờ phượng Chúa của mọi sự tạo dựng như thế nào, phải hiểu, nắm bắt, nhận biết và quan tâm đến những ý định, mong muốn, và yêu cầu của Đấng Tạo Hóa, và phải hành động phù hợp với đường lối của Đấng Tạo Hóa – kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác.
Kính sợ Đức Chúa Trời là gì? Và người ta có thể lánh khỏi điều ác như thế nào?
“Kính sợ Đức Chúa Trời” không có nghĩa là khiếp đảm và ghê sợ khôn tả, cũng không phải là lẩn tránh, cũng không phải là giữ khoảng cách, cũng không phải là sùng bái hay mê tín. Thay vào đó, đó là sự ngưỡng mộ, kính mến, tin cậy, hiểu biết, quan tâm, vâng lời, hiến dâng, yêu thương, cũng như thờ phượng, đền đáp và quy phục không điều kiện và không ca thán. Không có kiến thức đích thực về Đức Chúa Trời, con người sẽ không có sự ngưỡng mộ đích thực, sự tin cậy đích thực, sự hiểu biết đích thực, sự quan tâm hay vâng lời đích thực, mà chỉ khiếp sợ và bất an, chỉ hoài nghi, hiểu lầm, thoái thác, và lẩn tránh; không có kiến thức đích thực về Đức Chúa Trời, con người sẽ không có sự hiến dâng và đền đáp đích thực; không có kiến thức đích thực về Đức Chúa Trời, con người sẽ không có sự thờ phượng và quy phục đích thực, chỉ sùng bái và mê tín mù quáng; không có kiến thức đích thực về Đức Chúa Trời, con người không thể hành động phù hợp với đường lối của Đức Chúa Trời, hay kính sợ Đức Chúa Trời, hay lánh khỏi điều ác. Trái lại, mọi hoạt động và hành vi mà con người thực hiện sẽ đầy sự phản nghịch và bất chấp, đầy những quy tội vu khống và những phán xét ác ý về Ngài, và đầy những việc hành ác trái với lẽ thật và ý nghĩa thật của lời Đức Chúa Trời.
Một khi con người có sự tin cậy đích thực ở Đức Chúa Trời, họ sẽ thật sự theo Ngài và nương tựa vào Ngài; chỉ với sự tin cậy và nương tựa thật sự vào Đức Chúa Trời mà con người mới có thể có sự hiểu biết và lĩnh hội đích thực; đi cùng với sự hiểu thấu thật sự về Đức Chúa Trời là sự quan tâm thật sự dành cho Ngài; chỉ với sự quan tâm thật sự dành cho Đức Chúa Trời mà con người mới có được sự vâng lời đích thực; chỉ với sự vâng lời đích thực với Đức Chúa Trời mà con người mới có được sự hiến dâng đích thực; chỉ có sự hiến dâng đích thực với Đức Chúa Trời mà con người mới có được sự đền đáp vô điều kiện và không ca thán; chỉ với sự tin cậy và nương tựa đích thực, sự hiểu biết và quan tâm đích thực, sự vâng lời đích thực, sự hiến dâng và đền đáp đích thực mà con người mới thật sự hiểu được tâm tính và thực chất Đức Chúa Trời, và biết thân phận của Đấng Tạo Hóa; chỉ khi thật sự biết được về Đấng Tạo Hóa, con người mới có thể đánh thức sự thờ phượng và quy phục đích thực bên trong mình; chỉ khi họ có sự thờ phượng và quy phục thật sự với Đấng Tạo Hóa, con người mới có thể thật sự dẹp bỏ những cách thức tà ác của mình, nghĩa là lánh khỏi điều ác.
Điều này cấu thành toàn bộ quá trình “kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác”, và cũng là nội dung trong toàn bộ sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Đây là con đường phải đi qua để đạt được sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác.
Việc “kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” và việc biết Đức Chúa Trời được gắn kết khắng khít với nhau bởi vô vàn mối dây, và mối liên kết giữa chúng là hiển nhiên. Nếu người ta muốn đạt tới sự lánh khỏi điều ác, trước tiên người ta phải có sự kính sợ thật với Đức Chúa Trời; nếu người ta muốn đạt tới sự kính sợ thật với Đức Chúa Trời, trước tiên người ta phải có được kiến thức thật về Đức Chúa Trời; nếu người ta muốn đạt tới kiến thức về Đức Chúa Trời, trước tiên người ta phải trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, trải nghiệm sự sửa phạt và sửa dạy của Đức Chúa Trời, hình phạt và phán xét của Ngài; nếu người ta muốn trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, trước tiên người ta phải đến đối diện với lời Đức Chúa Trời, đến đối diện với Đức Chúa Trời, và xin Đức Chúa Trời ban cho cơ hội để trải nghiệm lời Đức Chúa Trời dưới mọi hình thức môi trường liên quan đến những con người, sự vật và sự việc; nếu người ta ao ước đến đối diện với Đức Chúa Trời và với lời Đức Chúa Trời, trước hết người ta phải sở hữu một tấm lòng giản dị và thành thật, sự sẵn sàng chấp nhận lẽ thật, ý chí chịu đau khổ, sự quyết tâm và dũng cảm để lánh khỏi điều ác, và khát vọng trở thành một hữu thể thọ tạo đích thực… Theo cách này, đi tới từng bước, ngươi sẽ đến gần Đức Chúa Trời hơn bao giờ hết, lòng ngươi sẽ trở nên thanh khiết hơn bao giờ hết, và với việc ngươi biết đến Đức Chúa Trời, sự sống của ngươi và giá trị của việc sống sẽ trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết và rạng rỡ hơn bao giờ hết. Cho đến một ngày, ngươi sẽ cảm nhận rằng Đấng Tạo Hóa không còn là bí ẩn, rằng Đấng Tạo Hóa chưa bao giờ ẩn mình với ngươi, rằng Đấng Tạo Hóa chưa bao giờ giấu mặt Ngài khỏi ngươi, rằng Đấng Tạo Hóa hoàn toàn không xa ngươi, rằng Đấng Tạo Hóa không còn là Đấng ngươi hằng mong mỏi trong những ý nghĩ của mình mà không thể với tới bằng những cảm nhận của mình, rằng Ngài thật sự và đích thực đang đứng bảo vệ bên trái và bên phải ngươi, cung cấp cho sự sống của ngươi, và kiểm soát vận mệnh ngươi. Ngài không ở chân trời xa xăm, Ngài cũng không ẩn mình xa trên những đám mây. Ngài ở ngay bên cạnh ngươi, điều khiển hết thảy ngươi, Ngài là tất cả những gì ngươi có, và Ngài là điều duy nhất ngươi có. Một Đức Chúa Trời như thế cho phép ngươi yêu Ngài từ tấm lòng, gắn bó với Ngài, gần gũi Ngài, ngưỡng mộ Ngài, sợ mất Ngài, và không sẵn lòng từ bỏ Ngài nữa, không sẵn lòng bất tuân với Ngài nữa, hay lảng tránh Ngài hoặc giữ khoảng cách với Ngài nữa. Tất cả những gì ngươi muốn là quan tâm đến Ngài, vâng lời Ngài, đền đáp tất cả những gì Ngài ban cho ngươi, và quy phục sự thống trị của Ngài. Ngươi không còn từ chối được hướng dẫn, cung cấp, theo dõi, và chăm sóc bởi Ngài, không còn từ chối những gì Ngài sai khiến và ra lệnh cho ngươi. Tất cả những gì ngươi muốn là theo Ngài, ở bên đồng hành cùng Ngài, tất cả những gì ngươi muốn là chấp nhận Ngài như sự sống có một và duy nhất của mình, chấp nhận Ngài như Chúa có một và duy nhất của mình, Đức Chúa Trời có một và duy nhất của mình.
– Lời tựa, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 6
Niềm tin của con người không thể thay thế lẽ thật
Một số người có thể chịu đựng khó khăn, có thể trả giá, bề ngoài cư xử rất tốt, khá được tôn trọng và thích được người khác ngưỡng mộ. Liệu các ngươi có nói rằng kiểu hành vi bên ngoài này có thể được coi là đưa lẽ thật vào thực hành không? Người ta có thể khẳng định rằng những người như thế đang thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời không? Tại sao hết lần này đến lần khác mọi người thấy những cá nhân như thế và nghĩ rằng họ đang làm Đức Chúa Trời thỏa lòng, đi con đường đưa lẽ thật vào thực hành và giữ đường lối của Đức Chúa Trời? Tại sao một số người nghĩ theo cách này? Chỉ có một lời giải thích duy nhất cho điều đó. Lời giải thích đó là gì? Đó là đối với rất nhiều người thì một vài câu hỏi – như là đưa lẽ thật vào thực hành có nghĩa là gì, làm Đức Chúa Trời thỏa lòng có nghĩa là gì, và thực sự sở hữu thực tế của lẽ thật có nghĩa là gì – không rõ ràng lắm. Vì vậy, có một số người thường bị những kẻ bề ngoài có vẻ tâm linh, cao thượng, cao quý và vĩ đại lừa gạt. Đối với những kẻ có thể nói hùng hồn về những câu chữ và giáo lý, và những kẻ có lời nói và hành động có vẻ đáng ngưỡng mộ, thì những ai bị họ lừa gạt chưa bao giờ nhìn vào thực chất trong những hành động của họ, những nguyên tắc đằng sau việc làm của họ hoặc mục đích của họ là gì. Hơn nữa, họ chưa bao giờ nhìn xem liệu những người này có thực sự đầu phục Đức Chúa Trời hay không, và họ cũng chưa từng xác định liệu những người này có thực sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không. Họ chưa bao giờ thông hiểu thực chất nhân tính của những người này. Đúng hơn, bắt đầu với bước đầu tiên là làm quen với họ, từng chút một, họ đã bắt đầu ngưỡng mộ và sùng kính những người này, và cuối cùng, những người này trở thành thần tượng của họ. Hơn nữa, trong tâm trí của một số người, những thần tượng mà họ tôn sùng – và những người họ tin có thể từ bỏ gia đình và công việc, và những người ngoài mặt ra vẻ có thể trả giá – là những người thực sự đang làm Đức Chúa Trời thỏa lòng và có thể thực sự có được kết cục và đích đến tốt đẹp. Trong tâm trí họ, những thần tượng này là những người mà Đức Chúa Trời khen ngợi. Điều gì khiến họ tin một điều như thế? Thực chất của vấn đề này là gì? Nó có thể dẫn tới hậu quả gì? Trước tiên chúng ta hãy thảo luận về thực chất của vấn đề.
Về thực chất, những vấn đề này liên quan đến quan điểm của con người, những phương pháp thực hành của họ, các nguyên tắc thực hành nào họ chọn để áp dụng, và những gì từng người họ có xu hướng chú trọng vào mà không liên quan gì đến những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Dù con người chú trọng vào những vấn đề nông cạn hay sâu sắc, hoặc vào câu chữ và giáo lý hay tính hiện thực, thì họ cũng không tuân thủ những điều họ nên tuân thủ nhất, và họ cũng không biết điều nào họ nên biết nhất. Lý do của việc này là vì con người không thích lẽ thật chút nào; như thế, họ không sẵn sàng bỏ thời giờ và công sức vào việc tìm kiếm và đưa vào thực hành những nguyên tắc thực hành được tìm thấy trong những lời phán của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ thích sử dụng các lối tắt hơn, đúc kết những gì họ hiểu và nhận biết là cách thực hành tốt và hành vi tốt; sau đó đúc kết này trở thành mục tiêu theo đuổi của bản thân họ, điều mà họ xem như lẽ thật cần được thực hành. Hậu quả trực tiếp của việc này là mọi người dùng hành vi tốt của con người thay thế cho việc đưa lẽ thật vào thực hành, điều đó cũng thỏa mãn mong muốn nịnh nọt Đức Chúa Trời của họ. Điều này cho họ vốn liếng để đấu tranh với lẽ thật, điều mà họ cũng sử dụng để lý luận và cạnh tranh với Đức Chúa Trời. Đồng thời, con người cũng gạt Đức Chúa Trời sang một bên một cách vô liêm sỉ, thay thế Ngài bằng những thần tượng mà họ ngưỡng mộ. Chỉ có duy nhất một căn nguyên khiến cho con người có những hành động và quan điểm ngu dốt như thế, hay những ý kiến và thực hành phiến diện – và hôm nay Ta sẽ cho các ngươi biết về nó: Lý do là, dù con người có thể đi theo Đức Chúa Trời, cầu nguyện với Ngài mỗi ngày và đọc lời Ngài mỗi ngày, nhưng họ không thực sự hiểu được ý muốn của Ngài. Gốc rễ của vấn đề nằm ở đây. Nếu ai đó hiểu được lòng Đức Chúa Trời và biết Ngài thích gì, Ngài ghét gì, Ngài muốn gì, Ngài loại bỏ gì, Ngài yêu loại người nào, Ngài không thích loại người nào, Ngài sử dụng loại tiêu chuẩn nào khi đặt ra những yêu cầu đối với con người và Ngài dùng cách tiếp cận nào để hoàn thiện họ, thì liệu người đó vẫn còn những ý kiến cá nhân của riêng mình không? Liệu những người như thế này chỉ đơn giản đi và thờ phượng người khác không? Liệu một người bình thường có thể trở thành thần tượng của họ được không? Những người hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời có quan điểm hợp lý hơn thế một chút. Họ sẽ không tùy tiện thần tượng hóa một con người bại hoại, và cũng sẽ không tin rằng, trong khi đi con đường đưa lẽ thật vào thực hành, việc mù quáng tuân thủ một vài quy tắc hoặc nguyên tắc đơn giản là tương đương với việc đưa lẽ thật vào thực hành.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 7
Có nhiều ý kiến liên quan đến tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời dùng để định đoạt kết cục của con người
Trong khi điều mà mọi người đều quan tâm là kết cục của bản thân mình, nhưng các ngươi có biết Đức Chúa Trời định đoạt kết cục đó như thế nào không? Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của một người theo cách thức nào? Hơn nữa, Ngài sử dụng kiểu tiêu chuẩn nào để định đoạt nó? Khi kết cục của một người vẫn chưa được định đoạt, thì Đức Chúa Trời làm gì để tỏ lộ nó? Có ai biết không? Như Ta vừa mới phán, có một số người đã dành rất nhiều thời gian nghiên cứu lời Đức Chúa Trời trong nỗ lực tìm ra những manh mối về kết cục của con người, về những loại mà các kết cục này được phân chia, và về những kết cục khác nhau đang chờ đợi những loại người khác nhau. Họ cũng hy vọng tìm ra việc lời Đức Chúa Trời tuyên bố kết cục của con người như thế nào, Ngài sử dụng loại tiêu chuẩn nào, và chính xác Ngài định đoạt kết cục của một người như thế nào. Tuy nhiên cuối cùng, những người này không bao giờ tìm được bất kỳ đáp án nào. Trong thực tế, vấn đề này được nói đến rất ít trong những lời phán của Đức Chúa Trời. Tại sao vậy? Chừng nào mà kết cục của con người chưa đến lúc tỏ lộ, thì Đức Chúa Trời không muốn cho ai biết cuối cùng chuyện gì sẽ xảy ra, mà Ngài cũng không muốn cho bất kỳ ai biết trước về đích đến của họ – bởi vì làm như thế sẽ không có bất kỳ lợi ích nào cho nhân loại. Ngay lúc này đây, Ta chỉ muốn cho các ngươi biết về cách thức Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của con người, về những nguyên tắc Ngài sử dụng trong công tác của Ngài để định đoạt và hiển lộ những kết cục này, và về tiêu chuẩn Ngài sử dụng để định đoạt liệu một ai đó có thể sống sót hay không. Chẳng phải đây là những câu hỏi mà các ngươi quan tâm nhất sao? Vậy thì, mọi người cho rằng Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của con người như thế nào? Các ngươi vừa mới nói đến một phần của điều đó: Một số người trong các ngươi đã nói rằng nó có liên quan đến việc thực hiện bổn phận của mình một cách trung tín và dâng mình cho Đức Chúa Trời; một số nói rằng đó là về việc đầu phục Đức Chúa Trời và làm Ngài thỏa lòng; một số nói đến nhân tố đầu phục sự an bài của Đức Chúa Trời; và một số nói mấu chốt là ẩn mình kín đáo… Khi các ngươi đưa những lẽ thật này vào thực hành, và khi các ngươi thực hành theo những nguyên tắc mà các ngươi cho là đúng, thì các ngươi có biết Đức Chúa Trời nghĩ gì không? Các ngươi có bao giờ suy xét xem liệu cứ tiếp tục như thế này thì có đang thỏa mãn ý muốn của Ngài hay không? Điều đó có đáp ứng tiêu chuẩn của Ngài không? Điều đó có đáp ứng các yêu cầu của Ngài không? Ta tin rằng hầu hết mọi người đều không thực sự suy nghĩ nhiều về những câu hỏi này. Họ chỉ áp dụng một cách máy móc một phần trong lời Đức Chúa Trời, hoặc một phần bài giảng, hoặc những tiêu chuẩn của những nhân vật tâm linh nào đó mà họ thần tượng hóa, tự ép mình làm điều này điều nọ. Họ tin rằng đây là cách làm đúng, vì vậy họ tiếp tục bám theo và thực hiện nó, bất kể cuối cùng điều gì sẽ xảy ra. Một số người nghĩ rằng: “Tôi đã có đức tin trong rất nhiều năm; tôi đã luôn luôn thực hành cách này. Tôi cảm thấy như tôi đã thực sự làm Đức Chúa Trời thỏa lòng, và tôi cũng cảm thấy như tôi đã nhận được rất nhiều từ điều đó. Đó là vì tôi đã bắt đầu hiểu nhiều lẽ thật trong thời gian này, cũng như nhiều điều mà trước đây tôi không hiểu được. Cụ thể là, nhiều tư tưởng và quan điểm của tôi đã thay đổi, giá trị cuộc sống của tôi đã thay đổi rất nhiều, và giờ đây tôi đã hiểu khá rõ về thế giới này”. Những người như thế tin rằng đây là một vụ thu hoạch, và đó là kết quả sau cùng trong công tác của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Theo quan điểm của các ngươi, với những tiêu chuẩn này gộp chung với tất cả những sự thực hành của các ngươi, thì các ngươi có đang thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời không? Một số người trong các ngươi sẽ nói chắc như đinh đóng cột rằng: “Tất nhiên! Chúng con đang thực hành theo lời Đức Chúa Trời; chúng con đang thực hành theo những điều được giảng và truyền đạt ở trên. Chúng con luôn luôn thực hiện bổn phận của mình và không ngừng đi theo Đức Chúa Trời, và chúng con chưa bao giờ rời bỏ Ngài. Do đó, chúng con có thể hoàn toàn tự tin nói rằng chúng con đang làm Đức Chúa Trời thỏa lòng. Bất kể chúng con hiểu được ý định của Ngài được bao nhiêu, và bất kể chúng con lĩnh hội lời Ngài được bao nhiêu, thì chúng con cũng luôn luôn đi trên con đường cố gắng để tương hợp với Đức Chúa Trời. Miễn là chúng con hành động đúng và thực hành đúng, thì chúng con nhất định đạt được kết quả đúng”. Ngươi nghĩ gì về quan điểm này? Nó có đúng không? Có thể cũng có một số người nói: “Trước đây, con chưa bao giờ nghĩ về những điều này. Con chỉ nghĩ rằng miễn là con còn tiếp tục thực hiện bổn phận của mình và hành động đúng với những yêu cầu trong lời Đức Chúa Trời, thì con có thể tồn tại. Con chưa bao giờ xem xét đến câu hỏi liệu con có thể làm thỏa lòng Đức Chúa Trời không, và con cũng chưa bao giờ xem xét liệu con có đang đáp ứng tiêu chuẩn mà Ngài đã đặt ra không. Vì Đức Chúa Trời chưa bao giờ cho con biết hay cung cấp cho con bất kỳ sự chỉ dẫn rõ ràng nào, nên con tin rằng miễn là con cứ tiếp tục làm việc và không dừng lại, thì Đức Chúa Trời sẽ thỏa lòng và không nên không đưa ra yêu cầu nào thêm đối với con”. Những niềm tin này có đúng không? Theo Ta nghĩ, cách thực hành này, lối suy nghĩ này, và những quan điểm này hết thảy đều kéo theo những ảo tưởng, cũng như là một chút mù quáng. Có lẽ Ta phán điều này khiến một vài người các ngươi cảm thấy hơi nản lòng, suy nghĩ: “Sự mù quáng? Nếu đây là sự mù quáng, thì hy vọng của chúng con về sự cứu rỗi và sống sót rất ít và không chắc chắn, phải vậy không? Nói như thế, chẳng phải là Ngài đang dội gáo nước lạnh vào chúng con sao?” Bất kể các ngươi tin gì, những gì Ta phán và làm không phải là để làm cho các ngươi cảm thấy như bị dội gáo nước lạnh. Đúng hơn, chúng nhằm cải thiện hiểu biết của các ngươi về những ý định của Đức Chúa Trời và gia tăng sự thông hiểu của các ngươi về những gì Ngài đang nghĩ, những gì Ngài muốn thực hiện, Ngài thích những loại người nào, Ngài ghét gì, Ngài khinh miệt điều gì, loại người nào Ngài mong muốn thu phục và loại người nào Ngài cự tuyệt. Chúng là để cho các ngươi thông suốt trí óc và cho các ngươi hiểu rõ về những hành động và suy nghĩ của từng người một các ngươi đã đi lệch khỏi những tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu đến đâu. Có nhất thiết phải thảo luận về những chủ đề này không? Bởi vì Ta biết các ngươi đã có đức tin từ rất lâu, và đã nghe rất nhiều lời giảng, nhưng đây chính là những điều mà các ngươi thiếu nhất. Mặc dù các ngươi đã ghi chép lại mọi lẽ thật vào sổ, đã thuộc lòng và khắc ghi trong lòng một số điều mà bản thân các ngươi cho là quan trọng, và dù các ngươi lên kế hoạch dùng những điều này để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời trong khi thực hành, dùng chúng khi các ngươi thấy cần, dùng chúng để vượt qua những thời điểm khó khăn phía trước, hoặc đơn giản là để những điều này đồng hành cùng các ngươi trong khi các ngươi sống đời mình, theo như Ta nghĩ, bất kể các ngươi làm điều đó như thế nào, nếu các ngươi chỉ làm thôi, thì điều này không quá quan trọng. Vậy điều gì mới thực sự quan trọng? Đó là trong khi ngươi thực hành, ngươi phải biết trong thâm tâm, với sự chắc chắn tuyệt đối, liệu mọi thứ ngươi đang làm – từng việc làm đơn lẻ – có phù hợp với những gì Đức Chúa Trời muốn hay không, và liệu tất cả các hành động và suy nghĩ của ngươi, các kết quả và mục tiêu mà ngươi mong muốn đạt được có thực sự thỏa mãn ý muốn Đức Chúa Trời và đáp ứng những yêu cầu của Ngài, cũng như liệu Ngài có chấp thuận chúng hay không. Đây là những điều rất quan trọng.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 8
Đi trong đường lối của Đức Chúa Trời: Kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác
Có một câu nói mà các ngươi nên ghi lại. Ta tin rằng câu nói này rất quan trọng, bởi vì đối với Ta, nó xuất hiện trong tâm trí vô số lần mỗi một ngày. Tại sao vậy? Chính vì mỗi lần Ta đối mặt với ai đó, mỗi lần Ta nghe câu chuyện của ai đó, và mỗi lần Ta nghe về sự trải nghiệm hay chứng ngôn về việc tin Đức Chúa Trời của một người, thì Ta luôn luôn sử dụng câu nói này để xác định trong lòng rằng liệu cá nhân này có phải là loại người mà Đức Chúa Trời muốn và loại người mà Đức Chúa Trời thích không. Vậy thì câu nói này là gì? Giờ thì Ta khiến tất cả các ngươi đều thấp thỏm. Khi ta tiết lộ câu nói, có lẽ các ngươi sẽ cảm thấy thất vọng, bởi vì nó là câu nói đầu môi chót lưỡi của một số người trong nhiều năm. Tuy nhiên, Ta chưa một lần nào coi nó là câu nói đầu môi chót lưỡi cả. Câu nói này ngự trong lòng Ta. Vậy thì câu nói này là gì? Đó là: “Đi trong đường lối của Đức Chúa Trời: Kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác”. Đây chẳng phải là một cụm từ cực kỳ đơn giản sao? Tuy nhiên, mặc dù nó đơn giản, những người đích thực có một sự hiểu biết sâu sắc về những lời này sẽ cảm thấy rằng chúng có tầm quan trọng rất lớn, rằng câu nói này rất có giá trị cho sự thực hành của con người, rằng đó là một câu từ ngôn ngữ cuộc sống chứa đựng thực tế của lẽ thật, rằng đó là một mục tiêu suốt đời đối với những ai cố gắng làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, và rằng đó là một con đường đời mà bất kỳ ai quan tâm về những ý định của Đức Chúa Trời nên đi theo. Vậy thì, các ngươi nghĩ gì: Câu nói này chẳng phải là lẽ thật sao? Nó có hay không tầm quan trọng như thế? Ngoài ra, có lẽ một số người trong các ngươi đang suy nghĩ về câu nói này, và cố gắng luận ra nó, và có lẽ có một số người trong các ngươi thậm chí còn cảm thấy nghi ngờ về nó: Câu nói này rất quan trọng sao? Nó rất quan trọng sao? Có cần thiết phải nhấn mạnh nó nhiều đến thế không? Cũng có thể có vài người trong các ngươi không thích câu nói này lắm, bởi vì các ngươi nghĩ rằng việc lấy đường lối của Đức Chúa Trời và chắt lọc nó thành một câu nói này là một sự đơn giản hóa quá mức. Lấy tất cả những gì Đức Chúa Trời phán và cô đặc lại thành một câu nói – chẳng phải điều đó sẽ làm cho Đức Chúa Trời hóa ra hơi quá tầm thường sao? Điều đó có phải như vậy không? Có thể là hầu hết các ngươi không hiểu đầy đủ về ý nghĩa sâu sắc của những từ này. Dù tất cả các ngươi đều đã ghi chép nó, nhưng các ngươi không có ý định cất giữ câu nói này trong lòng; các ngươi chỉ đơn giản viết nó vào sổ ghi chép để xem lại và suy ngẫm trong thời gian rảnh rỗi. Một số người các ngươi sẽ thậm chí còn không bận tâm ghi nhớ câu này, chứ đừng nói đến việc cố gắng tận dụng nó. Dù vậy, tại sao Ta muốn đề cập đến câu nói này? Bất kể quan điểm của các ngươi là gì và bất kể các ngươi nghĩ gì, Ta phải đề cập đến câu nói này, vì nó cực kỳ liên quan đến việc Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của con người như thế nào. Bất kể hiện tại các ngươi hiểu gì về câu nói này hoặc các ngươi xem nó như thế nào, thì Ta vẫn sẽ cho các ngươi biết điều này: Nếu con người có thể đưa những lời trong câu nói này vào thực hành và trải nghiệm, cũng như đáp ứng tiêu chuẩn kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, thì đảm bảo họ sẽ là những người sống sót và chắc chắn có những kết cục tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu ngươi không thể đáp ứng tiêu chuẩn câu nói này đề ra, thì có thể nói rằng kết cục của ngươi là một ẩn số. Do đó, Ta phán với các ngươi về câu nói này để cho các ngươi chuẩn bị tinh thần và để các ngươi sẽ biết loại tiêu chuẩn nào Đức Chúa Trời sử dụng để đo lường các ngươi.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 9
Đức Chúa Trời dùng những thử luyện khác nhau để thử xem con người có kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không
Trong mỗi thời đại công tác của Đức Chúa Trời, Ngài ban cho con người một số lời và cho họ biết một vài lẽ thật. Những lẽ thật này đóng vai trò là đường lối mà con người nên tuân thủ, đường lối mà con người nên bước vào, đường lối làm cho họ kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, đường lối mà con người nên đưa vào thực hành và tuân theo trong cuộc sống và trong suốt hành trình cuộc đời của mình. Chính vì những lý do này mà Đức Chúa Trời bày tỏ những lời này với loài người. Những lời đến từ Đức Chúa Trời này nên được con người tuân theo, và tuân theo chúng là nhận được sự sống. Nếu một người không tuân theo chúng, không đưa chúng vào thực hành, và không sống bày tỏ ra lời Đức Chúa Trời trong đời mình, thì người này đang không đưa lẽ thật vào thực hành. Hơn nữa, nếu con người đang không đưa lẽ thật vào thực hành, thì họ đang không kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, mà cũng không thể làm Đức Chúa Trời thỏa lòng. Những ai không có khả năng làm Đức Chúa Trời thỏa lòng thì không thể nhận được sự khen ngợi của Ngài, và những người như thế không có hậu. Thế thì, trong quá trình công tác của Ngài, Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của một người như thế nào? Ngài sử dụng phương pháp nào để định đoạt kết cục của một người? Có lẽ vào lúc này các ngươi vẫn còn chút mơ hồ về điều này, nhưng khi Ta nói cho các ngươi biết về quá trình này, thì nó sẽ trở nên khá rõ ràng, bởi vì nhiều người trong các ngươi đã tự mình trải nghiệm nó rồi.
Trong suốt quá trình công tác của Ngài, ngay từ thuở ban đầu, Đức Chúa Trời đã đặt ra những thử luyện cho mọi người – hay ngươi có thể nói là mọi người đi theo Ngài – và những thử luyện này đến trong những phạm vi khác nhau. Có những người đã trải qua thử luyện bị gia đình từ bỏ, những người trải qua thử luyện trong những môi trường bất lợi, những người trải qua thử luyện bị bắt giữ và tra tấn, những người trải qua thử luyện phải đối diện với những sự lựa chọn, và những người đối diện những thử luyện về tiền tài địa vị. Nói chung, từng người trong các ngươi đều đã đối diện với đủ kiểu thử luyện. Tại sao Đức Chúa Trời lại làm như thế này? Tại sao Ngài lại đối xử với mọi người theo cách này? Ngài tìm kiếm loại kết quả gì? Đây là điểm mà Ta mong muốn truyền đạt lại cho các ngươi: Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy con người này có phải là loại người kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác hay không. Điều này có nghĩa là khi Đức Chúa Trời đưa ra một thử luyện cho ngươi, và để ngươi đối diện với tình cảnh nào đó, thì ý định của Ngài là thử xem ngươi có phải là người kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác hay không. Nếu người nào đó đối diện với bổn phận cất giữ của lễ, và bổn phận này dẫn đến việc tiếp xúc với các của lễ dâng Đức Chúa Trời, liệu ngươi có nói rằng đây là điều mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt không? Chắc chắn là thế! Mọi thứ mà ngươi gặp phải đều là điều Đức Chúa Trời đã sắp đặt. Khi ngươi đối mặt với vấn đề này, Đức Chúa Trời sẽ bí mật quan sát ngươi, theo dõi xem ngươi chọn gì, ngươi thực hành như thế nào, và ngươi có những suy nghĩ gì. Điều Đức Chúa Trời quan tâm nhất là kết quả cuối cùng, vì chính kết quả này giúp Ngài đánh giá liệu ngươi có sống theo tiêu chuẩn của Ngài trong thử luyện cụ thể này không. Tuy nhiên, bất cứ khi nào con người gặp vấn đề, thì họ thường không suy nghĩ về việc tại sao họ lại đang đối diện với nó, tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời mong đợi họ đáp ứng là gì, Ngài muốn nhìn thấy điều gì ở họ hoặc Ngài mong muốn đạt được gì từ họ. Khi đối mặt với vấn đề này, những người như thế chỉ đơn thuần suy nghĩ: “Đây là điều mà tôi phải đối mặt; tôi phải cẩn thận, không được bất cẩn! Dù gì đi nữa, đây là của lễ dâng Đức Chúa Trời và tôi không được phép chạm vào”. Được trang bị với những suy nghĩ đơn giản như thế, con người tin rằng họ đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Liệu kết quả của sự thử luyện này có làm Đức Chúa Trời thỏa lòng hay không? Nào, hãy nói về điều đó đi. (Nếu con người kính sợ Đức Chúa Trời trong lòng, thì khi đối mặt với một bổn phận cho phép họ tiếp xúc với những của lễ dâng Đức Chúa Trời, họ sẽ cân nhắc xem sẽ dễ xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời như thế nào, và điều đó khiến họ chắc chắn phải tiến hành cẩn thận). Đáp án của ngươi thì đúng hướng, nhưng mà nó chưa hoàn toàn trúng. Đi trong đường lối của Đức Chúa Trời không phải là việc tuân theo các quy tắc bề ngoài; đúng hơn, nó có nghĩa là khi ngươi gặp phải một vấn đề, trước hết ngươi xem nó là một tình huống đã được Đức Chúa Trời sắp đặt, một trách nhiệm mà Ngài đã giao cho ngươi, hoặc một nhiệm vụ mà Ngài đã giao phó cho ngươi. Khi đối diện vấn đề này, ngươi thậm chí nên xem nó như là một sự thử luyện mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho ngươi. Khi ngươi gặp vấn đề này, ngươi phải có một tiêu chuẩn trong lòng, và ngươi phải nghĩ rằng vấn đề này đã đến từ Đức Chúa Trời. Ngươi phải nghĩ cách xử lý nó theo cách mà ngươi có thể hoàn thành trách nhiệm của mình trong khi vẫn trung tín với Đức Chúa Trời, cũng như là làm điều đó như thế nào mà không khiến Ngài giận dữ hoặc xúc phạm tâm tính của Ngài. Một vài phút trước chúng ta đã nói về việc cất giữ các của lễ. Vấn đề này liên quan đến các của lễ, và nó cũng đả động đến bổn phận và trách nhiệm của ngươi. Ngươi có bổn phận đối với trách nhiệm này. Tuy nhiên, khi đối mặt với vấn đề này, có bất kỳ sự cám dỗ nào không? Có. Sự cám dỗ này đến từ đâu? Sự cám dỗ này đến từ Sa-tan, và nó cũng đến từ tâm tính xấu xa, bại hoại của con người. Cho rằng có sự cám dỗ, vấn đề này liên quan đến việc đứng ra làm chứng mà con người phải thực hiện, đó cũng là trách nhiệm và bổn phận của ngươi. Một số người nói: “Đây là một vấn đề nhỏ mà; có thực sự cần phải làm to chuyện thế không?” Đây là điều không thể cần thiết hơn! Đó là vì để giữ đường lối của Đức Chúa Trời, chúng ta không thể bỏ qua bất kỳ điều gì xảy ra đối với chúng ta hoặc xung quanh chúng ta, ngay cả những điều nhỏ nhặt; dù chúng ta có suy nghĩ mình nên chú ý đến nó hay không, miễn là bất kỳ vấn đề nào mà chúng ta đang đối mặt thì chúng ta không được bỏ qua nó. Tất cả mọi thứ xảy ra nên được xem như là những thử luyện mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho chúng ta. Ngươi nghĩ thế nào về cách nhìn nhận sự việc này? Nếu ngươi có kiểu thái độ này, thì điều đó xác nhận một sự thật: Trong thâm tâm, ngươi kính sợ Đức Chúa Trời và sẵn sàng lánh khỏi điều ác. Nếu ngươi có mong muốn làm Đức Chúa Trời thỏa lòng như thế này, thì những gì ngươi đưa vào thực hành sẽ không còn xa để đáp ứng tiêu chuẩn kính sợ Đức Chúa Trời và tránh khỏi điều ác.
Thường có những người tin rằng những vấn đề mà con người không chú ý nhiều và không đề cập đến thường xuyên chỉ là những chuyện nhỏ nhặt không liên quan gì đến việc đưa lẽ thật vào thực hành. Khi đối diện với một vấn đề như thế, những người này không suy nghĩ nhiều về nó, và sau đó họ để nó trôi qua. Tuy nhiên trong thực tế, vấn đề này là một bài học mà ngươi nên học – một bài học về việc làm thế nào để kính sợ Đức Chúa Trời và làm thế nào để lánh khỏi điều ác. Hơn nữa, điều mà ngươi càng nên quan tâm nhiều hơn nữa là việc biết Đức Chúa Trời đang làm gì khi vấn đề này nảy sinh đối với ngươi. Đức Chúa Trời ở ngay bên cạnh ngươi, quan sát từng lời nói và hành động của ngươi, dõi theo mọi việc ngươi làm và những thay đổi xảy ra trong suy nghĩ của ngươi – đây là công tác của Đức Chúa Trời. Một số người hỏi: “Nếu điều đó đúng, thì tại sao con đã không cảm nhận được nó?” Ngươi đã không cảm nhận được nó bởi vì ngươi không tuân theo đường lối kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác như là con đường chính yếu của mình; do đó ngươi không thể cảm nhận được công việc tinh tế mà Đức Chúa Trời làm trong con người, điều biểu lộ theo những ý tưởng và hành động khác nhau của con người. Ngươi thật là một người đãng trí! Vấn đề lớn là gì? Vấn đề nhỏ là gì? Những vấn đề liên quan đến việc đi trong đường lối của Đức Chúa Trời không được phân chia thành vấn đề lớn hay nhỏ, tất cả đều là việc quan trọng – các ngươi có thể chấp nhận điều đó không? (Chúng con có thể chấp nhận điều đó). Về những vấn đề diễn ra hàng ngày, có một vài vấn đề mà con người xem là rất lớn và quan trọng, và những chuyện khác được xem là những vấn đề vặt vãnh. Con người thường xem những vấn đề lớn này là rất quan trọng, và họ coi như chúng được Đức Chúa Trời đưa đến. Tuy nhiên, khi những vấn đề lớn này diễn ra, do vóc giạc non nớt của con người và vì tố chất kém của họ, con người thường không đủ khả năng thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời, không thể nhận được bất kỳ sự mặc khải nào, và không thể có được bất kỳ kiến thức thực tế nào có giá trị. Đối với các vấn đề nhỏ, những điều này chỉ đơn giản là bị con người làm ngơ và để dần dần trôi qua. Như thế, con người đã mất nhiều cơ hội để được soi xét trước Đức Chúa Trời và được Ngài thử luyện. Nếu ngươi luôn luôn bỏ qua những con người, sự vật, sự việc, và những tình huống mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho ngươi thì điều đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là mỗi ngày, và thậm chí mỗi phút giây, ngươi đang liên tục chối bỏ việc Đức Chúa Trời hoàn thiện ngươi, cũng như sự dẫn dắt của Ngài. Bất cứ khi nào Đức Chúa Trời sắp đặt một tình huống cho ngươi, Ngài cũng đang bí mật theo dõi, nhìn vào lòng ngươi, quan sát những suy nghĩ và cân nhắc của ngươi, theo dõi cách ngươi suy nghĩ, và chờ xem ngươi sẽ hành động thế nào. Nếu ngươi là một người bất cẩn – một người chưa bao giờ nghiêm túc về đường lối của Đức Chúa Trời, lời Ngài hoặc lẽ thật – thì ngươi sẽ không quan tâm hay chú ý đến những gì Đức Chúa Trời mong muốn hoàn thành hoặc những yêu cầu Ngài mong ngươi đạt được khi Ngài sắp đặt một môi trường nhất định cho ngươi. Ngươi cũng sẽ không biết những con người, sự vật và sự việc mà ngươi gặp có liên quan thế nào đến lẽ thật hoặc ý muốn của Đức Chúa Trời. Sau khi ngươi đối mặt với những tình cảnh lặp đi lặp lại và những thử luyện lặp đi lặp lại như thế này, mà Đức Chúa Trời không nhìn thấy bất kỳ kết quả nào trong ngươi, thì Ngài sẽ tiếp tục như thế nào? Sau khi đã liên tục đối mặt với những thử luyện, ngươi chưa tôn vinh Đức Chúa Trời trong lòng, ngươi cũng chưa thấy được những tình cảnh Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho ngươi thực chất là những sự thử luyện và kiểm tra từ Đức Chúa Trời. Thay vào đó, ngươi đã lần lượt từ chối những cơ hội mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi, để chúng trôi qua hết lần này đến lần khác. Đây chẳng phải là sự bất tuân tột bực mà con người biểu lộ ra sao? (Đúng vậy). Đức Chúa Trời sẽ cảm thấy tổn thương vì điều này không? (Ngài sẽ cảm thấy vậy). Sai rồi, Đức Chúa Trời sẽ không cảm thấy bị tổn thương! Nghe Ta phán điều như thế một lần nữa làm các ngươi bị sốc. Có lẽ ngươi đang suy nghĩ: “Chẳng phải trước đây đã nói rằng Đức Chúa Trời luôn luôn cảm thấy bị tổn thương sao? Như thế chẳng lẽ Đức Chúa Trời không cảm thấy bị tổn thương? Vậy thì khi nào Ngài cảm thấy bị tổn thương?” Tóm lại, Đức Chúa Trời sẽ không cảm thấy bị tổn thương trong tình huống này. Vậy thì, Đức Chúa Trời có thái độ thế nào đối với kiểu hành xử được đề cập ở trên? Khi con người từ chối những thử luyện và kiểm tra mà Đức Chúa Trời đã đưa đến, và khi họ chạy trốn chúng, thì Đức Chúa Trời chỉ có một thái độ duy nhất đối với những người như vậy. Thái độ này là gì? Đức Chúa Trời cự tuyệt loại người này từ tận đáy lòng Ngài. Có hai tầng nghĩa cho từ “cự tuyệt”. Ta nên giải thích nó thế nào theo quan điểm của Ta? Về cơ bản, từ “cự tuyệt” mang nghĩa rộng là ghê tởm và căm ghét. Tầng nghĩa còn lại thì sao? Đó là phần ám chỉ việc từ bỏ điều gì đó. Hết thảy các ngươi đều biết “từ bỏ” có nghĩa là gì đúng không? Tóm lại, “cự tuyệt” là một từ thể hiện phản ứng và thái độ sau cùng của Đức Chúa Trời đối với những ai đang hành xử theo cách như thế; đó là sự căm ghét tột cùng đối với họ, và sự kinh tởm, do đó, dẫn đến quyết định loại bỏ họ. Đây là quyết định sau cùng của Đức Chúa Trời đối với một người chưa bao giờ đi trong đường lối của Đức Chúa Trời và chưa bao giờ kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Giờ đây hết thảy các ngươi đều có thể thấy được tầm quan trọng của câu nói mà Ta đã đề cập đến lúc đầu rồi phải không?
Giờ đây các ngươi đã hiểu được phương pháp Đức Chúa Trời sử dụng để định đoạt kết cục của con người phải không? (Ngài sắp đặt các tình cảnh khác nhau mỗi ngày). Ngài sắp đặt các tình cảnh khác nhau – đây là điều mà con người có thể cảm nhận và tiếp xúc. Vậy thì, lý do để Đức Chúa Trời làm việc này là gì? Ý định của Ngài là đưa ra cho từng người một những cách thức thử luyện khác nhau vào những thời gian khác nhau và tại những địa điểm khác nhau. Những phương diện nào của con người được đưa vào kiểm tra trong một cuộc thử luyện? Một cuộc thử luyện xác định xem ngươi có phải là kiểu người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác trong từng vấn đề ngươi đối mặt, nghe thấy, nhìn thấy và đích thân trải nghiệm hay không. Mọi người đều sẽ đối mặt với loại thử luyện này, bởi vì Đức Chúa Trời công bằng đối với hết thảy mọi người. Một vài người trong số các ngươi nói: “Con đã tin vào Đức Chúa Trời trong nhiều năm, vậy tại sao con chưa bao giờ đối mặt với bất kỳ thử luyện nào?” Ngươi cảm thấy rằng ngươi chưa đối mặt với bất kỳ thử luyện nào bởi vì bất cứ khi nào Đức Chúa Trời sắp đặt những tình cảnh cho ngươi, ngươi đã không xem trọng nó và không muốn bước đi trong đường lối của Đức Chúa Trời. Do đó, ngươi hoàn toàn không cảm nhận được những thử luyện của Đức Chúa Trời. Một số người nói: “Con đã đối mặt với một vài thử luyện, nhưng con không biết cách thực hành đúng đắn. Ngay cả khi con đã thực hành, con vẫn không biết liệu mình đã đứng vững trong những thử luyện của Đức Chúa Trời hay chưa”. Những người ở trong tình trạng kiểu này chắc chắn không phải là thiểu số. Vậy thì, tiêu chuẩn Đức Chúa Trời dùng để đo lường con người là gì? Đó chính là điều Ta vừa phán lúc nãy: Chính là việc ngươi có kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác trong mọi việc ngươi làm, suy nghĩ và thể hiện hay không. Đây là cách xác định xem ngươi có phải là người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không. Khái niệm này có đơn giản hay không? Điều đó nói thì đơn giản, nhưng có dễ dàng đưa vào thực hành không? (Điều đó không dễ như vậy). Tại sao lại không dễ như vậy? (Bởi vì con người không biết Đức Chúa Trời, và họ không biết Đức Chúa Trời hoàn thiện con người như thế nào, vì thế khi họ đối diện với vấn đề, họ không biết cách tìm ra lẽ thật để giải quyết những vấn đề của mình. Họ phải trải qua nhiều sự thử luyện, tinh luyện, hành phạt và phán xét khác nhau trước khi họ có thể sở hữu hiện thực kính sợ Đức Chúa Trời). Các ngươi có thể giải thích theo cách đó, nhưng theo các ngươi, thì ngay bây giờ việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác dường như rất dễ dàng thực hiện. Tại sao Ta phán điều này? Chính vì các ngươi đã nghe nhiều bài giảng và nhận không ít sự chăm tưới từ thực tế của lẽ thật; điều này đã cho phép các ngươi hiểu cách để kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác về mặt lý thuyết và trí thức. Đối với việc làm thế nào để thực sự đưa việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác đó vào thực hành, thì tất cả kiến thức này rất hữu ích và làm cho ngươi cảm thấy dường như một điều như thế có thể đạt được một cách dễ dàng. Vậy thì, tại sao con người không bao giờ có thể thực sự đạt được điều đó? Đó là vì bản tính và thực chất con người không kính sợ Đức Chúa Trời, và nó thích cái ác. Đây là lý do thực sự.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 10
Không kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác là chống đối Đức Chúa Trời
Để Ta bắt đầu bằng cách hỏi các ngươi câu nói “kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” đến từ đâu. (Sách Gióp). Vì chúng ta vừa đề cập đến Gióp, nên hãy bàn về ông ta. Trong thời đại của Gióp, Đức Chúa Trời có đang làm việc vì sự cứu rỗi và chinh phục nhân loại không? Không. Chẳng phải vậy sao? Ngoài ra, đối với Gióp, khi đó ông có được bao nhiêu kiến thức về Đức Chúa Trời? (Không nhiều). Sự hiểu biết của Gióp về Đức Chúa Trời là nhiều hay ít hơn của các ngươi ngay lúc này? Tại sao các ngươi lại không dám trả lời? Đây là một câu hỏi rất dễ trả lời. Ít hơn! Chắc chắn là thế! Ngày nay các ngươi đối diện với Đức Chúa Trời và mặt đối mặt với lời Đức Chúa Trời; sự hiểu biết của các ngươi về Đức Chúa Trời nhiều hơn của Gióp. Tại sao Ta đề cập đến điều này? Mục đích của Ta khi phán những điều này là gì? Ta muốn giải thích một sự thật với các ngươi, nhưng trước khi Ta giải thích, Ta muốn hỏi các ngươi một câu hỏi: Gióp biết rất ít về Đức Chúa Trời, nhưng mà vẫn có thể kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác; tại sao con người ngày nay không làm được như thế? (Họ bị bại hoại một cách sâu sắc). Việc họ bị bại hoại một cách sâu sắc là một hiện tượng bề nổi tạo ra vấn đề, nhưng Ta sẽ không bao giờ xem nó theo cách như vậy. Các ngươi thường lấy những giáo lý và cụm từ được sử dụng thường xuyên, như là “sự bại hoại sâu sắc”, “dấy nghịch với Đức Chúa Trời”, “bất trung với Đức Chúa Trời”, “sự bất tuân”, “không thích lẽ thật”, v.v., và dùng những cụm từ thông dụng này để giải thích về thực chất của từng vấn đề một. Đây là một cách thực hành sai trật. Sử dụng cùng một đáp án để giải thích những vấn đề có bản chất khác nhau thì không tránh khỏi việc nảy sinh những sự nghi ngờ báng bổ về lẽ thật và Đức Chúa Trời; Ta không thích nghe kiểu đáp án này. Hãy suy nghĩ thật kỹ càng về điều đó! Không ai trong các ngươi có bất kỳ suy nghĩ nào về vấn đề này, nhưng Ta có thể nhìn thấy nó từng ngày, và từng ngày một Ta có thể cảm nhận nó. Do đó, trong khi các ngươi hành động, Ta đang theo dõi. Khi các ngươi đang làm một việc gì, các ngươi không thể cảm nhận được thực chất của nó, nhưng khi Ta theo dõi, Ta có thể thấy được thực chất của nó và Ta cũng có thể cảm nhận được thực chất của nó nữa. Vậy thì thực chất này là gì? Tại sao con người ngày nay không thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác? Những đáp án của các ngươi không thể giải thích được thực chất của vấn đề, và chúng cũng không thể giải quyết nó. Đó là vì nó có một nguồn gốc mà các ngươi không biết. Nguồn gốc này là gì? Ta biết hết thảy các ngươi đều muốn nghe về nó, vì thế Ta sẽ cho các ngươi biết về nguồn gốc của vấn đề này.
Từ khi Đức Chúa Trời bắt đầu thực hiện công tác, Ngài đã nghĩ về con người như thế nào? Đức Chúa Trời đã giải thoát họ; Ngài đã xem con người như là những thành viên trong gia đình Ngài, là những đối tượng công tác của Ngài, là những người Ngài muốn chinh phục và cứu rỗi, và là những người Ngài muốn hoàn thiện. Đây là thái độ của Đức Chúa Trời đối với nhân loại vào lúc Ngài bắt đầu công tác. Dù vậy, thái độ của nhân loại đối với Ngài khi đó là gì? Đức Chúa Trời không quen thuộc với con người và họ đã xem Đức Chúa Trời như một người xa lạ. Có thể nói rằng thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời đã không gặt hái được kết quả tốt đẹp, và rằng họ đã không hiểu rõ mình nên đối xử với Đức Chúa Trời như thế nào. Vậy nên, họ đã đối xử với Ngài theo bất kỳ cách nào họ muốn, và làm bất kỳ điều gì họ thích. Họ đã có bất kỳ quan điểm nào về Đức Chúa Trời không? Lúc đầu, họ không có; những cái gọi là quan điểm của họ chỉ đơn thuần bao gồm những quan niệm và giả định nào đó về Ngài. Họ chấp nhận những gì phù hợp với các quan niệm của họ, và khi có điều gì không phù hợp với các quan niệm của họ thì bề ngoài họ tuân theo, nhưng trong thâm tâm họ cảm thấy hết sức mâu thuẫn và đã chống lại nó. Đây là mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người vào thuở ban đầu: Đức Chúa Trời xem họ như là những thành viên trong gia đình, còn họ đã đối xử với Ngài như một người xa lạ. Tuy nhiên, sau một giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời, con người bắt đầu hiểu được điều Ngài đang cố gắng đạt được, và họ đã biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời thật; họ cũng bắt đầu biết được những gì họ có thể có được từ Đức Chúa Trời. Vào thời điểm này con người đã nghĩ về Đức Chúa Trời như thế nào? Họ đã xem Ngài như phao cứu sinh, và hy vọng được Ngài ban cho ân điển, các phước lành và lời hứa. Vào thời điểm này, Đức Chúa Trời đã nghĩ về con người như thế nào? Ngài đã xem họ là những mục tiêu chinh phục của Ngài. Đức Chúa Trời muốn sử dụng lời để phán xét họ, để thử họ và để giúp họ vượt qua thử luyện. Tuy nhiên, đối với con người khi đó, Đức Chúa Trời chỉ là một đối tượng mà họ có thể sử dụng để đạt được những mục đích của bản thân mình. Con người thấy rằng lẽ thật Đức Chúa Trời đưa ra có thể chinh phục và cứu rỗi họ, rằng họ đã có một cơ hội để có được những gì họ muốn từ Ngài, cũng như để đạt được những đích đến mà họ muốn. Vì điều này, một chút ít chân thành đã hình thành trong lòng họ, và họ trở nên sẵn sàng đi theo vị Đức Chúa Trời này. Thời gian trôi qua, và do họ đã có được một số kiến thức hời hợt và giáo lý về Đức Chúa Trời, thậm chí có thể nói rằng con người đang bắt đầu trở nên “quen thuộc” với Đức Chúa Trời và những lời Ngài phán, việc giảng dạy của Ngài, lẽ thật Ngài đưa ra và công tác của Ngài. Do đó họ đã hiểu sai rằng Đức Chúa Trời đã không còn xa lạ, và rằng họ đã đặt chân lên con đường để trở nên tương hợp với Đức Chúa Trời. Cho đến nay, con người đã nghe rất nhiều bài giảng về lẽ thật và kinh qua rất nhiều công tác của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, bởi vì sự can thiệp và cản trở gây ra bởi nhiều yếu tố và tình cảnh khác nhau, hầu hết mọi người không thể thành công trong việc đưa lẽ thật vào thực hành, và họ cũng không thể làm Đức Chúa Trời thỏa lòng. Con người ngày càng trở nên ù lì và ngày càng thiếu tự tin. Họ ngày càng ý thức được rằng họ không biết được kết cục của chính mình. Họ không dám đưa ra bất kỳ ý tưởng ngông cuồng nào, và họ không cố gắng để đạt tiến bộ; họ chỉ miễn cưỡng theo sau, tiến về phía trước, từng bước một. Đối với tình trạng hiện nay của con người, Đức Chúa Trời có thái độ nào đối với họ? Ngài chỉ mong ban những lẽ thật này cho họ và làm cho họ thấm nhuần đường lối của Ngài, sau đó sắp đặt những tình cảnh khác nhau để thử luyện họ bằng nhiều cách khác nhau. Mục tiêu của Ngài là dùng những lời này, những lẽ thật này và công tác của Ngài và mang lại một kết cục mà nhờ đó con người có khả năng kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác. Hầu hết những người mà Ta thấy chỉ đơn thuần lấy lời Đức Chúa Trời và xem chúng như là những giáo lý, chỉ là những câu chữ viết trên giấy, những quy định cần phải tuân thủ. Trong lời nói và hành động của họ, hoặc trong khi đối mặt với sự thử luyện, họ không xem đường lối của Đức Chúa Trời là một đường lối họ phải tuân theo. Điều này đặc biệt đúng khi con người đối mặt với những thử luyện lớn; Ta không thấy bất kỳ người nào thực hành theo hướng kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Do đó, thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người đầy những sự ghê tởm và căm ghét cực độ! Mặc dù Ngài đã nhiều lần đưa ra những thử luyện cho họ, thậm chí hàng trăm lần, nhưng họ vẫn không có bất kỳ thái độ rõ ràng nào để thể hiện quyết tâm của mình: “Con muốn kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác!” Vì con người không có quyết tâm này và không thực hiện kiểu bày tỏ này, nên thái độ hiện tại của Đức Chúa Trời đối với họ không giống như trong quá khứ, khi Ngài dành cho họ lòng thương xót, khoan dung, nhịn nhục và nhẫn nại. Thay vào đó, Ngài cực kỳ thất vọng về loài người. Ai đã gây ra sự thất vọng này? Thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người phụ thuộc vào ai? Nó phụ thuộc vào mỗi một người đi theo Ngài. Trong suốt quá trình công tác nhiều năm của Ngài, Đức Chúa Trời đã đưa ra nhiều yêu cầu đối với con người và sắp đặt nhiều tình cảnh cho họ. Tuy vậy, bất kể họ đã thể hiện như thế nào, và bất luận thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời ra sao, thì con người đã không thể thực hành rõ ràng theo mục tiêu kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Vì vậy, Ta sẽ đưa ra một cụm từ tóm tắt, và dùng cụm từ này để giải thích mọi điều chúng ta vừa nói về việc tại sao con người không thể đi trong đường lối của Đức Chúa Trời về việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Cụm từ này là gì? Chính là: Đức Chúa Trời xem con người là đối tượng cứu rỗi của Ngài và đối tượng công tác của Ngài; con người xem Đức Chúa Trời là kẻ thù của họ và sự đối lập của họ. Giờ đây ngươi đã hiểu rõ về vấn đề này phải không? Con người có thái độ nào, Đức Chúa Trời có thái độ nào và mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người là gì đều rất rõ ràng. Cho dù các ngươi có nghe bao nhiêu bài giảng, thì những điều mà từ đó ngươi đã rút ra những kết luận cho riêng mình, như là trung thành với Đức Chúa Trời, đầu phục Đức Chúa Trời, tìm kiếm con đường trở nên tương hợp với Đức Chúa Trời, muốn dành trọn đời cho Đức Chúa Trời và muốn sống vì Đức Chúa Trời – đối với Ta, những điều này không phải là những ví dụ của việc đi trong đường lối của Đức Chúa Trời một cách có ý thức, tức là kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, mà thay vào đó, chúng chỉ là những kênh mà qua đó các ngươi có thể đạt được những mục tiêu nhất định. Để đạt được chúng, các ngươi miễn cưỡng tuân thủ một vài quy định, và chính những quy định này khiến con người còn xa rời hơn khỏi đường lối kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, và điều đó lại đặt Đức Chúa Trời vào sự đối nghịch với loài người một lần nữa.
Đề tài của ngày hôm nay khá nặng, nhưng dù thế nào, Ta vẫn hy vọng rằng khi các ngươi trải qua những trải nghiệm sắp xảy đến, và những thời đại sắp tới, thì các ngươi sẽ có thể làm những gì mà Ta vừa phán với các ngươi. Đừng xem Đức Chúa Trời chỉ là một khối không khí – như thể Ngài tồn tại khi Ngài có ích đối với ngươi, nhưng lại không tồn tại khi ngươi không cần Ngài. Một khi ngươi có tư tưởng như thế trong tiềm thức, thì ngươi đã làm Đức Chúa Trời tức giận. Có thể có những người nói rằng: “Con không xem Đức Chúa Trời chỉ là không khí. Con luôn luôn cầu nguyện với Ngài và luôn luôn cố gắng làm Ngài thỏa lòng, và mọi thứ con làm đều nằm trong phạm vi, tiêu chuẩn và những nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Con chắc chắn không đang thực hành theo những ý tưởng của riêng mình”. Vâng, cách thức mà trong đó ngươi đang thực hành thì đúng. Tuy nhiên, ngươi nghĩ gì khi ngươi đối diện với một vấn đề? Ngươi thực hành thế nào khi ngươi phải đối diện với một vấn đề? Một vài người cảm thấy rằng Đức Chúa Trời tồn tại khi họ cầu nguyện với Ngài và cầu xin Ngài, nhưng rồi bất cứ khi nào họ gặp phải một vấn đề, họ đều nảy ra những ý tưởng của riêng mình và muốn tuân theo chúng. Điều này có nghĩa là họ xem Đức Chúa Trời chỉ là một khối không khí, và một tình huống như thế làm cho Đức Chúa Trời không hiện hữu trong tâm trí họ. Con người cho rằng Đức Chúa Trời nên hiện hữu khi họ cần Ngài, nhưng đừng nên hiện hữu khi họ không cần Ngài. Con người nghĩ rằng việc thực hành dựa trên những ý tưởng của riêng họ là đủ rồi. Họ cho rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn; họ hoàn toàn không cho rằng họ cần tìm kiếm đường lối Đức Chúa Trời. Đối với những người hiện nay đang ở trong kiểu tình huống này và mắt kẹt trong tình trạng này, chẳng phải họ đang chuốc lấy nguy hiểm sao? Một vài người nói: “Dù con có đang chuốc lấy nguy hiểm hay không, con đã có đức tin trong rất nhiều năm, và con tin rằng Đức Chúa Trời sẽ không từ bỏ con, bởi vì Ngài đã không thể chịu được”. Những người khác nói: “Con đã tin vào Chúa từ khi con còn trong bụng mẹ. Đã được bốn mươi hay năm mươi năm rồi, vì thế xét về thời gian, con xứng đáng nhất để được Đức Chúa Trời cứu rỗi và con xứng đáng nhất để sống sót. Trong bốn hoặc năm thập kỷ này, con đã từ bỏ gia đình và công việc của mình và con đã từ bỏ mọi thứ con có – những thứ như tiền tài, địa vị, sự hưởng thụ và thời gian với gia đình. Con đã không ăn nhiều món ăn ngon, con đã không thưởng thức nhiều trò giải trí, con đã không đi tham quan nhiều nơi thú vị và thậm chí con đã trải qua những đau khổ mà người bình thường không thể chịu được. Nếu Đức Chúa Trời không thể cứu rỗi con vì tất cả những điều này, thì con đang bị đối xử không công bằng, và con không thể tin vào vị Đức Chúa Trời kiểu này”. Có nhiều người có kiểu quan điểm này không? (Có). Vậy thì hôm nay Ta sẽ giúp các ngươi hiểu một sự thật: Những người có quan điểm như thế đều đang vô tình làm hại mình. Đó là vì họ đang che mắt mình bằng những tưởng tượng của bản thân. Chính những tưởng tượng này, cũng như những kết luận của riêng họ, chiếm chỗ của tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải đáp ứng và cản trở họ chấp nhận những ý định thực sự của Đức Chúa Trời. Nó làm cho họ không thể cảm nhận được sự tồn tại thực sự của Ngài, và nó cũng khiến họ mất đi cơ hội được Đức Chúa Trời hoàn thiện, từ bỏ bất kỳ phần nào hoặc chia sẻ nào trong lời hứa của Đức Chúa Trời.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 11
Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của con người như thế nào và theo những tiêu chuẩn nào
Trước khi đưa ra bất kỳ quan điểm hay kết luận nào, thì trước tiên ngươi nên hiểu được Đức Chúa Trời có thái độ nào đối với ngươi và Ngài đang nghĩ gì, sau đó ngươi có thể quyết định xem suy nghĩ của bản thân mình có đúng hay không. Đức Chúa Trời chưa bao giờ dùng thời gian như là một đơn vị đo lường để định đoạt kết cục của một người, và Ngài cũng chưa bao giờ định đoạt như thế dựa trên việc một người đã chịu bao nhiêu đau khổ. Vậy thì, Đức Chúa Trời sử dụng điều gì như một tiêu chuẩn để định đoạt kết cục của một người? Định đoạt nó dựa trên thời gian sẽ là điều phù hợp với những quan niệm của con người nhất. Hơn nữa, có những người mà các ngươi thường thấy họ tại một thời điểm đã cống hiến rất nhiều, nỗ lực rất nhiều, trả một giá rất đắt, và chịu đựng rất nhiều. Đây là những người, theo cách nhìn của các ngươi, có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Tất cả những gì những người này thể hiện và sống bày tỏ ra đều hoàn toàn phù hợp với những quan niệm của con người về những tiêu chuẩn để định đoạt kết cục của con người do Đức Chúa Trời đề ra. Bất kể các ngươi tin điều gì, Ta sẽ không liệt kê từng ví dụ này. Tóm lại, bất kỳ điều gì không phải là một tiêu chuẩn trong chính suy nghĩ của Đức Chúa Trời, mà thay vào đó đến từ sự tưởng tượng của con người, và tất cả những điều như thế đều là các quan niệm của con người. Nếu ngươi cứ mù quáng khăng khăng bám vào những quan niệm và sự tưởng tượng của riêng mình, thì kết quả sẽ ra sao? Hoàn toàn rõ ràng rằng hậu quả của việc này chỉ có thể là bị Đức Chúa Trời cự tuyệt. Đó là vì ngươi luôn luôn phô trương năng lực của mình trước Đức Chúa Trời, cạnh tranh với Ngài, tranh luận với Ngài, và ngươi không cố gắng để thực sự hiểu thấu suy nghĩ của Ngài, ngươi cũng không cố gắng để hiểu thấu ý muốn của Ngài hay thái độ của Ngài đối với nhân loại. Việc tiến hành theo cách thức này tôn vinh chính bản thân ngươi trên hết thảy; điều đó không tôn vinh Đức Chúa Trời. Ngươi tin vào chính mình; ngươi không tin vào Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn những con người như thế, và Ngài cũng sẽ không mang sự cứu rỗi đến cho họ. Nếu ngươi có thể buông bỏ kiểu quan điểm này, và hơn nữa, điều chỉnh những quan điểm sai trật mà ngươi có trong quá khứ, nếu ngươi có thể tiến hành theo những yêu cầu của Đức Chúa Trời, nếu ngươi có thể thực hành đường lối kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác từ giờ trở đi, nếu ngươi có thể cố gắng để tôn vinh Đức Chúa Trời là Đấng vĩ đại trong muôn vật và cố không sử dụng những sự tưởng tượng, quan điểm hay niềm tin của chính bản thân mình để định nghĩa chính mình và Đức Chúa Trời, mà thay vào đó nếu ngươi có thể tìm ra những ý định của Đức Chúa Trời trong mọi phương diện, bắt đầu nhận ra và hiểu được thái độ của Ngài đối với nhân loại, và làm Đức Chúa Trời thỏa lòng bằng cách đáp ứng các tiêu chuẩn của Ngài, điều đó sẽ thật tuyệt vời! Điều đó sẽ báo hiệu rằng ngươi sắp dấn thân vào con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác.
Nếu Đức Chúa Trời không sử dụng những suy nghĩ, ý tưởng và quan điểm khác nhau của con người như là những tiêu chuẩn dùng để định đoạt kết cục của họ, thì Ngài sử dụng loại tiêu chuẩn nào để định đoạt kết cục của con người? Ngài sử dụng những sự thử luyện để định đoạt kết cục của họ. Có hai tiêu chuẩn cho việc Đức Chúa Trời sử dụng những sự thử luyện để định đoạt kết cục của con người: Thứ nhất là số lượng những thử luyện mà con người trải qua và thứ hai là kết quả mà những thử luyện này mang lại cho con người. Chính hai chỉ số này hình thành nên kết cục của một con người. Bây giờ, hãy thảo luận chi tiết về hai tiêu chuẩn này.
Để bắt đầu, khi một người đối diện với một sự thử luyện từ Đức Chúa Trời (sự thử luyện này có thể là một sự thử luyện nhỏ đối với ngươi, không đáng nhắc đến), Ngài sẽ làm cho ngươi nhận ra một cách rõ ràng rằng đây là bàn tay Ngài đặt trên ngươi, và rằng chính Ngài đã sắp đặt tình cảnh này cho ngươi. Trong khi ngươi còn non nớt về vóc giạc, Đức Chúa Trời sẽ sắp đặt những sự thử luyện để kiểm tra ngươi, và những thử luyện này sẽ tương xứng với vóc giạc của ngươi, những gì ngươi có thể lĩnh hội, và những gì ngươi có thể chịu được. Phần nào của ngươi sẽ được thử luyện? Thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời. Thái độ này rất quan trọng phải không? Tất nhiên nó quan trọng! Nó đặc biệt quan trọng! Thái độ này trong con người là kết quả mà Đức Chúa Trời mong muốn, vì vậy theo Ngài, nó là điều quan trọng nhất trong tất cả mọi điều. Nếu không, Đức Chúa Trời sẽ không dành nỗ lực của Ngài cho con người bằng cách tiến hành công tác như thế. Qua các thử luyện này, Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy thái độ của ngươi đối với Ngài; Ngài muốn thấy liệu ngươi có đi đúng hướng hay không. Ngài cũng muốn thấy liệu ngươi có kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không. Do đó, dù ngươi có hiểu nhiều hay ít về lẽ thật vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào, thì ngươi vẫn sẽ đối diện với những sự thử luyện của Đức Chúa Trời, và dựa theo bất kỳ sự gia tăng nào về lượng lẽ thật mà ngươi hiểu được, Ngài sẽ tiếp tục sắp đặt những sự thử luyện thích hợp cho ngươi. Khi ngươi một lần nữa lại đối diện với một sự thử luyện, Đức Chúa Trời sẽ muốn nhìn thấy liệu quan điểm, các tư tưởng và thái độ của ngươi đối với Ngài có trải qua được bất kỳ tiến bộ nào trong giai đoạn này không. Một số người tự hỏi: “Tại sao Đức Chúa Trời luôn luôn muốn thấy thái độ của con người? Chẳng phải Ngài đã nhìn thấy họ đưa lẽ thật vào thực hành như thế nào rồi sao? Tại sao Ngài vẫn muốn thấy thái độ của họ?” Đây là một lời nói ngớ ngẩn! Trong khi Đức Chúa Trời làm việc theo cách thức này, thì ý muốn của Ngài phải nằm ở đó. Đức Chúa Trời liên tục ở bên cạnh quan sát con người, theo dõi từng lời nói và hành động của họ, từng việc làm và chuyển động của họ; thậm chí Ngài còn quan sát từng suy nghĩ và ý tưởng của họ. Đức Chúa Trời ghi nhận lại mọi thứ xảy ra với con người – những việc lành, thiếu sót, vi phạm của họ, ngay cả những sự dấy loạn và phản bội của họ – như là những chứng cứ dùng để định đoạt kết cục của họ. Từng bước một, khi công tác của Đức Chúa Trời gia tăng, ngươi sẽ nghe nhiều lẽ thật hơn và bắt đầu chấp nhận những điều và thông tin tích cực hơn, và ngươi sẽ đạt được nhiều hơn tính hiện thực của lẽ thật. Trong suốt quá trình này, những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với ngươi cũng sẽ tăng lên, và khi chúng tăng lên, Ngài sẽ sắp đặt những thử luyện khắc nghiệt hơn cho ngươi. Mục tiêu của Ngài là kiểm tra xem liệu thái độ của ngươi đối với Ngài trong lúc đó có tiến bộ không. Tất nhiên, khi điều này xảy ra, quan điểm mà Đức Chúa Trời yêu cầu ở ngươi sẽ tương ứng với sự hiểu biết của ngươi về thực tế của lẽ thật.
Khi vóc giạc của ngươi dần dần lớn lên, thì tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu ở ngươi cũng sẽ như vậy. Trong khi ngươi còn non nớt, Ngài sẽ đặt một tiêu chuẩn rất thấp để ngươi đáp ứng; khi vóc giạc của ngươi lớn hơn một chút, Ngài sẽ nâng tiêu chuẩn cho ngươi cao hơn một chút. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ làm gì sau khi ngươi đã hiểu tất cả lẽ thật? Ngài sẽ để ngươi đối mặt với những thử luyện còn lớn lao hơn. Giữa những thử luyện này, điều mà Đức Chúa Trời mong muốn đạt được từ ngươi, điều Ngài muốn thấy từ ngươi, là một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Ngài, một sự tôn kính thực sự đối với Ngài. Vào thời điểm này, những yêu cầu của Ngài đối với ngươi sẽ cao hơn và “khe khắt hơn” những yêu cầu khi vóc giạc của ngươi còn non nớt hơn (con người có thể xem chúng là khe khắt, nhưng Đức Chúa Trời thực sự xem chúng là hợp lý). Khi Đức Chúa Trời đang thử luyện con người, Ngài muốn tạo ra kiểu hiện thực nào? Ngài không ngừng yêu cầu con người dâng lòng mình cho Ngài. Một số người sẽ nói: “Làm sao con có thể dâng lòng mình cho Ngài? Con đã thực hiện bổn phận của mình; con đã từ bỏ gia đình và kế sinh nhai của mình, và con đã dành trọn bản thân mình. Chẳng phải đây là tất cả những điển hình của việc con dâng trọn lòng mình cho Đức Chúa Trời sao? Con có thể dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời theo cách nào khác nữa? Lẽ nào những điều này không phải là những cách thực sự dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời sao? Những yêu cầu cụ thể của Đức Chúa Trời là gì?” Yêu cầu rất đơn giản. Thực ra, có một số người đã dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời ở những mức độ khác nhau trong những giai đoạn thử luyện khác nhau của họ, nhưng đại đa số mọi người không bao giờ dâng trọn lòng mình cho Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời thử luyện ngươi, Ngài thấy được lòng ngươi ở với Ngài, với xác thịt hay với Sa-tan. Khi Đức Chúa Trời thử luyện ngươi, Ngài thấy được liệu ngươi đang đứng ở vị trí đối nghịch với Ngài hay ở một vị trí tương hợp với Ngài, và Ngài cũng nhìn thấy lòng của ngươi có đứng về phía Ngài hay không. Khi ngươi còn non nớt và đối diện với những sự thử luyện, ngươi ít tự tin, và ngươi không thể biết chính xác ngươi cần phải làm gì để thực hiện những ý định của Đức Chúa Trời, bởi sự hiểu biết của ngươi về lẽ thật còn hạn chế. Tuy nhiên, nếu ngươi vẫn có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời một cách thành thật và chân thành, và nếu ngươi có thể sẵn sàng dâng trọn lòng mình cho Đức Chúa Trời, tôn Ngài là Đấng Tối Cao của ngươi, và sẵn lòng dâng lên Ngài tất cả những gì mà ngươi cho là quý giá nhất, thì ngươi cũng đã dâng lòng mình cho Ngài. Khi ngươi nghe nhiều bài giảng hơn và hiểu thêm về lẽ thật, thì vóc giạc của ngươi sẽ dần dần phát triển. Vào thời điểm này, tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu sẽ không giống như lúc ngươi chưa trưởng thành; Ngài sẽ yêu cầu ngươi một tiêu chuẩn cao hơn. Khi con người dần dần dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời, lòng họ từ từ đến gần với Ngài hơn; khi con người có thể thực sự đến gần với Đức Chúa Trời hơn, thì lòng họ sẽ càng tôn kính Ngài hơn bao giờ hết. Điều Đức Chúa Trời muốn chỉ là một tấm lòng như thế.
Khi Đức Chúa Trời muốn thu nhận lòng của một người nào đó, Ngài sẽ để người đó vượt qua nhiều thử luyện. Trong những cuộc thử luyện này, nếu Đức Chúa Trời không thu nhận được lòng của người đó hay không thấy rằng người này có bất kỳ thái độ nào – nghĩa là, nếu Đức Chúa Trời không thấy người này thực hành hay hành xử theo cách thể hiện sự tôn kính với Ngài, và nếu Ngài không nhìn thấy ở người này một thái độ và quyết tâm lánh khỏi điều ác – thì sau nhiều cuộc thử luyện, Đức Chúa Trời sẽ không còn nhẫn nại với họ, và Ngài sẽ không dung thứ họ nữa. Ngài sẽ không còn thử luyện người này, và Ngài sẽ không còn làm việc trên họ nữa. Vậy thì, điều này có ý nghĩa gì đối với kết cục của người này? Nó có nghĩa là họ không có hậu. Có thể người này đã không làm điều gì xấu xa; có thể họ đã không phá hoại hay gây nhiễu loạn gì. Có thể họ đã không chống đối Đức Chúa Trời một cách công khai. Tuy nhiên, lòng của người này vẫn còn ẩn giấu với Đức Chúa Trời; họ chưa bao giờ có một thái độ và quan điểm rõ ràng đối với Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời không thể thấy rõ rằng họ đã dâng lòng mình cho Ngài hoặc họ đang cố gắng để kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác. Đức Chúa Trời mất kiên nhẫn với những người như thế, và sẽ không còn trả bất kỳ giá nào cho họ, dành bất kỳ sự thương xót nào cho họ hoặc làm việc trên họ. Đời sống đức tin nơi Đức Chúa Trời của một người như thế đã kết thúc. Đó là vì, trong tất cả nhiều thử luyện mà Đức Chúa Trời đưa ra cho họ, Đức Chúa Trời đã không thu nhận được kết quả Ngài muốn. Do đó, có một số người mà Ta chưa bao giờ nhìn thấy sự khai sáng và soi sáng của Đức Thánh Linh trong họ. Điều này có thể được hiểu như thế nào? Những người này có thể đã tin vào Đức Chúa Trời trong nhiều năm, và bề ngoài, họ hành xử một cách sốt sắng; họ đã đọc nhiều sách, xử lý nhiều công việc, ghi chép gần cả chục quyển sổ, và nắm vững rất nhiều lời và giáo lý. Tuy nhiên, không bao giờ có thể nhìn thấy bất kỳ sự tăng trưởng nào trong họ, quan điểm của họ về Đức Chúa Trời vẫn vô hình, và thái độ của họ vẫn không rõ ràng. Nói cách khác, không thể nhìn thấy lòng của họ; chúng luôn luôn được bọc lại và niêm phong – chúng bị cô lập khỏi Đức Chúa Trời. Vì thế, Ngài không nhìn thấy tấm lòng thật sự của họ, Ngài không nhìn thấy trong những người này bất kỳ sự tôn kính thật sự nào đối với Ngài, và hơn nữa, Ngài đã không nhìn thấy những người này đi trong đường lối Ngài như thế nào. Nếu đến giờ Đức Chúa Trời vẫn chưa thu phục được những người như thế, thì trong tương lai liệu Ngài có thể thu phục được họ không? Ngài không thể! Ngài sẽ tiếp tục thúc đẩy những điều mà không thể đạt được không? Ngài sẽ không tiếp tục! Vậy thì, thái độ hiện tại của Đức Chúa Trời đối với những người như thế là gì? (Ngài cự tuyệt họ và bỏ mặc họ). Ngài bỏ mặc họ! Đức Chúa Trời không quan tâm những người như thế; Ngài cự tuyệt họ. Các ngươi đã thuộc những từ này rất nhanh và rất chính xác. Dường như các ngươi đã hiểu những gì các ngươi vừa nghe được!
Có một số người, khi họ bắt đầu đi theo Đức Chúa Trời, là người chưa trưởng thành và thiếu hiểu biết; họ không hiểu được ý muốn của Ngài, và họ cũng không biết tin vào Ngài nghĩa là gì. Họ chấp nhận một con đường tin và theo Đức Chúa Trời do con người thai dựng và sai lầm. Khi những con người như thế phải đối diện với sự thử luyện, họ không nhận thức được điều đó; họ vẫn còn tê liệt đối với sự dẫn dắt và khai sáng của Đức Chúa Trời. Họ không biết dâng trọn lòng mình cho Đức Chúa Trời có nghĩa là gì hoặc đứng vững trong sự thử luyện có nghĩa là gì. Đức Chúa Trời sẽ cho những người như thế một khoảng thời gian có giới hạn, và trong thời gian này, Ngài sẽ để họ hiểu những sự thử luyện của Ngài là gì và ý định của Ngài là gì. Sau đó, những người này phải thể hiện quan điểm của mình. Đối với những người ở giai đoạn này, Đức Chúa Trời vẫn đang chờ đợi. Còn đối với những ai đã có một vài quan điểm nhưng vẫn còn dao động, những người muốn dâng trọn lòng mình cho Đức Chúa Trời nhưng không đành cam chịu làm như thế, và những người, mặc dù đã đưa một vài lẽ thật căn bản vào thực hành, cố gắng ẩn giấu và đầu hàng khi đối mặt với những thử luyện lớn – Đức Chúa Trời có thái độ nào đối với họ? Ngài vẫn còn mong đợi một chút ít từ họ, và kết quả phụ thuộc vào thái độ và sự thể hiện của họ. Nếu con người không tích cực tiến bộ, Đức Chúa Trời sẽ làm gì? Ngài từ bỏ họ. Đó là vì, trước khi Ngài từ bỏ ngươi, thì ngươi đã từ bỏ chính mình. Do đó, ngươi không thể đổ lỗi cho Đức Chúa Trời vì đã làm như vậy. Thật sai trật khi ngươi tỏ sự bất bình về Đức Chúa Trời.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 12
Khi đi theo Đức Chúa Trời, con người ít khi chú ý đến ý muốn của Ngài, họ ít khi chú ý đến những suy nghĩ và thái độ của Ngài đối với con người. Con người không hiểu được suy nghĩ của Đức Chúa Trời, vì thế, khi được hỏi về ý định và tâm tính của Ngài, các ngươi thấy bối rối; các ngươi rơi vào tình trạng hoang mang vô cùng, và sau đó các ngươi hoặc là phỏng đoán hoặc là đánh cược. Đây là kiểu tư duy gì vậy? Điều đó chứng minh một thực tế là: hầu hết những người tin vào Đức Chúa Trời xem Ngài như một chùm không khí và như một thứ gì đó dường như chỉ tồn tại thoáng qua mà thôi. Tại sao Ta lại phán vậy? Bởi vì bất cứ khi nào các ngươi gặp vấn đề, các ngươi đều không biết ý muốn của Đức Chúa Trời. Tại sao ngươi không biết ý muốn của Ngài? Không chỉ vào lúc này, mà từ đầu đến cuối, ngươi không biết thái độ của Đức Chúa Trời đối với vấn đề này. Ngươi không thể dò lường nó và không biết được Đức Chúa Trời có thái độ nào, nhưng ngươi đã nghĩ nhiều về nó chưa? Ngươi đã cố gắng để biết nó chưa? Ngươi đã thông công về nó chưa? Chưa! Điều này xác nhận một thực tế: Đức Chúa Trời mà ngươi tin không có mối liên hệ nào với Đức Chúa Trời của hiện thực. Trong niềm tin của ngươi vào Đức Chúa Trời, ngươi chỉ suy ngẫm về những ý định của bản thân mình và của những người lãnh đạo của mình; ngươi chỉ đơn thuần nghĩ đến ý nghĩa hời hợt và giáo lý trong lời Đức Chúa Trời, mà không thực sự cố gắng để biết hoặc tìm kiếm ý Đức Chúa Trời chút nào. Không phải vậy sao? Thực chất của vấn đề này vô cùng khủng khiếp! Sau rất nhiều năm, Ta đã thấy nhiều người tin vào Đức Chúa Trời. Niềm tin của họ đã biến đổi Đức Chúa Trời thành gì trong tâm trí của họ? Một số người tin vào Đức Chúa Trời như thể Ngài chỉ là một khối không khí. Những người này không có đáp án cho những câu hỏi về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, bởi vì họ không thể cảm thấy mà cũng không ý thức được sự hiện diện của Ngài hay sự vắng mặt của Ngài, chứ đừng nói đến nhìn thấy rõ ràng hay hiểu được nó. Trong tiềm thức, những người này nghĩ rằng Đức Chúa Trời không tồn tại. Những người khác tin Đức Chúa Trời như thể Ngài là một con người. Những người này tin rằng Ngài không thể làm được tất cả những điều mà họ cũng không thể làm, và rằng Ngài nên nghĩ theo cách họ nghĩ. Định nghĩa của họ về Đức Chúa Trời là “một người không thể nhìn thấy và không thể chạm vào”. Cũng có một nhóm người tin vào Đức Chúa Trời như thể Ngài là một con rối; những người này tin rằng Đức Chúa Trời không có cảm xúc. Họ nghĩ Đức Chúa Trời là một bức tượng đất sét, và khi đối diện với một vấn đề, Đức Chúa Trời không có thái độ, quan điểm hay ý kiến gì; họ cho rằng Ngài bị nhân loại thao túng. Con người chỉ tin theo cách họ muốn tin. Nếu họ làm cho Ngài vĩ đại, thì Ngài vĩ đại; nếu họ làm cho Ngài nhỏ bé, thì Ngài nhỏ bé. Khi con người phạm tội và cần sự thương xót, khoan dung và tình yêu thương của Đức Chúa Trời, thì họ cho rằng Đức Chúa Trời nên mở rộng lòng thương xót của Ngài. Những người này phát minh ra một “vị Đức Chúa Trời” trong tâm trí của riêng mình, sau đó làm cho “vị Đức Chúa Trời” này đáp ứng những đòi hỏi của mình và thỏa mãn tất cả những mong muốn của mình. Bất kể khi nào hoặc nơi nào, và bất kể những người đó làm gì, họ cũng sẽ áp dụng sự tưởng tượng này trong việc đối xử với Đức Chúa Trời và trong đức tin của mình. Thậm chí còn có những người, sau khi chọc giận tâm tính của Đức Chúa Trời, vẫn tin rằng Ngài có thể cứu rỗi họ, bởi vì họ cho rằng tình yêu thương của Ngài thì vô biên và tâm tính của Ngài thì công chính, và rằng bất kể con người xúc phạm Đức Chúa Trời bao nhiêu, thì Ngài sẽ không nhớ chút gì về điều đó. Họ nghĩ rằng vì những lầm lỗi, vi phạm và sự bất tuân của con người là những biểu hiện nhất thời về tâm tính của một người, nên Đức Chúa Trời sẽ cho con người những cơ hội, và khoan dung, nhẫn nại với họ; họ tin rằng Đức Chúa Trời sẽ vẫn yêu thương họ như trước đây. Do đó, họ vẫn giữ những kỳ vọng về việc có được sự cứu rỗi. Thật ra, bất kể con người tin vào Đức Chúa Trời thế nào, chỉ cần là họ không mưu cầu lẽ thật, thì Ngài sẽ giữ một thái độ tiêu cực đối với họ. Đó là vì trong suốt quá trình ngươi tin vào Đức Chúa Trời, dù ngươi đã cầm quyển sách về lời Đức Chúa Trời và xem nó như một báu vật, nghiên cứu và đọc nó hàng ngày, nhưng ngươi lại đặt Đức Chúa Trời thực tế sang một bên. Ngươi xem Ngài chỉ là không khí, hoặc chỉ là một con người – và một số người các ngươi xem Ngài không hơn gì một con rối. Tại sao Ta lại giải thích theo cách này? Ta làm thế bởi vì cách mà Ta nhìn nhận nó, dù các ngươi có phải đối mặt với một vấn đề hay gặp phải một tình cảnh nào đó, thì những thứ tồn tại trong tiềm thức của các ngươi, những thứ mà các ngươi tạo ra ở bên trong, đều chưa bao giờ có bất kỳ liên quan nào với lời Đức Chúa Trời hay với việc mưu cầu lẽ thật. Ngươi chỉ biết bản thân mình đang nghĩ gì, quan điểm của bản thân mình là gì, sau đó ngươi áp đặt những tư tưởng và quan điểm của bản thân mình lên Đức Chúa Trời. Trong tâm trí ngươi, chúng trở thành các quan điểm của Đức Chúa Trời, và ngươi biến những quan điểm này thành các tiêu chuẩn mà ngươi giữ vững một cách kiên định. Theo thời gian, việc tiến hành như thế này khiến ngươi càng ngày càng xa Đức Chúa Trời hơn.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 13
Hiểu về thái độ của Đức Chúa Trời và để gạt bỏ tất cả những quan niệm sai lầm về Đức Chúa Trời
Vị Đức Chúa Trời mà hiện nay các ngươi tin chính là Đức Chúa Trời nào? Các ngươi có bao giờ nghĩ về điều đó chưa? Khi Ngài nhìn thấy một kẻ ác thực hiện những hành động xấu xa, Ngài có xem thường điều đó không? (Có). Đức Chúa Trời có thái độ gì khi Ngài thấy những người thiếu hiểu biết phạm sai lầm? (Buồn bã). Khi Ngài thấy con người ăn cắp những của lễ dâng cho Ngài, thái độ của Ngài thế nào? (Ngài xem thường họ). Điều này hết thảy đều rất rõ ràng. Khi Đức Chúa Trời thấy ai đó mơ hồ trong niềm tin của họ vào Ngài, người mà tuyệt nhiên không hề mưu cầu lẽ thật, thì thái độ của Đức Chúa Trời thế nào? Các ngươi không chắc chắn lắm phải không? “Mơ hồ”, là một thái độ, không phải là một tội lỗi, nó cũng không xúc phạm Đức Chúa Trời, và con người cảm thấy rằng nó không phải là một loại sai lầm lớn. Vậy thì, hãy cho Ta biết – Đức Chúa Trời có thái độ nào trong trường hợp này? (Ngài không sẵn lòng thừa nhận họ). “Không sẵn lòng thừa nhận” – đây là loại thái độ gì? Điều đó có nghĩa là Đức Chúa Trời coi thường những người này và khinh miệt họ! Cách mà Ngài đối xử với những người như thế là tỏ ra lạnh nhạt với họ. Cách tiếp cận của Đức Chúa Trời là gạt họ sang một bên, không thực hiện bất kỳ công tác nào đối với họ, và điều này bao gồm công tác khai sáng, soi sáng, sửa phạt và sửa dạy. Những người như thế hoàn toàn không được tính vào công tác của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có thái độ nào đối với những người chọc giận tâm tính của Ngài và vi phạm những sắc lệnh quản trị của Ngài? Ghê tởm tột bậc! Đức Chúa Trời vô cùng phẫn nộ bởi những người không ăn năn về việc chọc giận tâm tính của Ngài! “Phẫn nộ” thì không gì hơn một cảm giác, một tâm trạng; nó không tương đương với một thái độ rõ ràng. Tuy nhiên, cảm giác này – tâm trạng này – sẽ mang lại một kết cục cho những người như thế: Nó sẽ khiến Đức Chúa Trời đầy sự ghê tởm tột bực! Hậu quả của sự ghê tởm tột bực này là gì? Đó là Đức Chúa Trời sẽ gạt những người này sang một bên và không đáp lại họ trong thời gian này. Sau đó Ngài sẽ đợi để phân loại họ “sau thời kỳ suy tàn”. Việc này ám chỉ điều gì? Những người này vẫn sẽ có kết cục chứ? Đức Chúa Trời không bao giờ có ý định ban cho những người như thế bất kỳ kết cục nào! Do đó, chẳng phải việc Đức Chúa Trời hiện nay không đáp lại những người như thế là điều hoàn toàn bình thường sao? (Đúng, điều đó bình thường). Những người như thế nên chuẩn bị làm gì? Họ nên chuẩn bị để gánh chịu những hậu quả tiêu cực từ hành vi của họ và từ những hành động xấu xa mà họ đã gây ra. Đây là sự đáp lại của Đức Chúa Trời đối với một người như thế. Vì thế, giờ đây Ta phán cho rõ với những người như thế: Đừng bám víu vào những ảo tưởng của ngươi nữa, và đừng mơ tưởng thêm nữa. Đức Chúa Trời sẽ không khoan dung với con người một cách vô hạn định; Ngài sẽ không chịu đựng sự vi phạm và bất tuân của họ đến đời đời. Một số người sẽ nói: “Con cũng đã thấy một vài người như thế, và khi họ cầu nguyện, họ đã cảm thấy đặc biệt cảm động bởi Đức Chúa Trời, sau đó họ khóc một cách cay đắng. Bình thường họ cũng rất vui vẻ; họ dường như có sự hiện diện của Đức Chúa Trời và sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời bên mình”. Đừng thốt ra lời vô lý như thế! Những giọt lệ cay đắng không nhất thiết có nghĩa là một người đang được Đức Chúa Trời cảm động hoặc tận hưởng sự hiện diện của Đức Chúa Trời, chứ đừng nói đến sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Nếu con người chọc giận Đức Chúa Trời, liệu Ngài có còn dẫn dắt họ không? Tóm lại, khi Đức Chúa Trời đã quyết định loại bỏ và từ bỏ ai đó, thì kết cục của người đó đã xong. Bất kể họ có cảm giác tốt thế nào khi cầu nguyện, hoặc họ có bao nhiêu đức tin nơi Đức Chúa Trời trong lòng, điều này không còn quan trọng nữa. Điều quan trọng là Đức Chúa Trời không cần loại đức tin này; Ngài đã cự tuyệt những người này. Xử lý họ như thế nào trong tương lai cũng không quan trọng. Điều quan trọng là ngay chính khoảnh khắc mà những người này chọc giận Đức Chúa Trời, thì kết cục của họ đã được định đoạt. Nếu Đức Chúa Trời đã quyết định không cứu rỗi những người như thế, thì họ sẽ bị bỏ lại phía sau để bị trừng phạt. Đây là thái độ của Đức Chúa Trời.
Mặc dù thực chất của Đức Chúa Trời có một yếu tố về tình yêu thương, và Ngài có lòng thương xót đối với từng người một, nhưng con người đã bỏ qua và quên đi thực tế là tôn nghiêm cũng là một thực chất của Ngài. Việc Ngài có tình yêu thương không có nghĩa là con người có thể tự do xúc phạm Ngài, mà không gợi trong Ngài cảm xúc hay phản ứng gì, và thực tế là Ngài có lòng thương xót cũng không có nghĩa là Ngài không có nguyên tắc trong cách đối xử với con người. Đức Chúa Trời là hằng sống; Ngài thực sự hiện hữu. Ngài không phải là một con rối được tưởng tượng ra hay bất kỳ vật thể nào khác. Trong khi Ngài hiện hữu, chúng ta nên cẩn thận lắng nghe tiếng lòng của Ngài mọi lúc, chú ý kỹ đến thái độ của Ngài và bắt đầu hiểu cảm nhận của Ngài. Chúng ta không nên dùng trí tưởng tượng của con người để định nghĩa Đức Chúa Trời, và cũng không nên áp đặt những suy nghĩ và ước muốn của con người lên Ngài, làm cho Đức Chúa Trời đối xử với con người theo cách thức của con người dựa trên những sự tưởng tượng của con người. Nếu ngươi làm điều này, thì ngươi đang chọc giận Đức Chúa Trời, đang kích động cơn thạnh nộ của Ngài, và thách thức phẩm cách của Ngài! Do đó, một khi các ngươi đã bắt đầu hiểu được mức độ nghiêm trọng của vấn đề này, Ta khuyên mỗi một người các ngươi hãy cẩn thận và thận trọng trong hành động của mình. Cũng hãy cẩn thận và thận trọng trong lời nói – về cách đối xử với Đức Chúa Trời, các ngươi càng cẩn thận và thận trọng thì càng tốt! Khi ngươi không hiểu được thái độ của Đức Chúa Trời, hãy kiềm chế nói năng bất cẩn, đừng sơ suất trong hành động của mình, và đừng chụp mũ một cách tùy ý. Thậm chí quan trọng hơn, đừng đi đến bất kỳ kết luận nào một cách tùy tiện. Thay vào đó, ngươi nên chờ đợi và tìm kiếm; những hành động này cũng là một biểu hiện của việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Trên hết, nếu ngươi có thể đạt được điều này, và trên hết, nếu ngươi có thái độ này, thì Đức Chúa Trời sẽ không trách cứ ngươi vì sự ngớ ngẩn, ngu dốt và thiếu hiểu biết về những lý do đằng sau các sự việc. Thay vào đó, nhờ thái độ e sợ xúc phạm đến Đức Chúa Trời, tôn trọng ý định của Ngài và sẵn lòng vâng lời Ngài của ngươi, mà Đức Chúa Trời sẽ nhớ đến ngươi, dẫn dắt và khai sáng ngươi, hoặc khoan dung cho sự non nớt và thiếu hiểu biết của ngươi. Ngược lại, nếu ngươi có thái độ bất kính đối với Ngài – phán xét Ngài tùy thích hoặc tùy tiện phán đoán và định nghĩa các tư tưởng của Ngài – thì Đức Chúa Trời sẽ lên án ngươi, sửa dạy ngươi, và thậm chí trừng phạt ngươi; hoặc là, Ngài có thể đưa ra sự nhận xét về ngươi. Có thể sự nhận xét này sẽ bao gồm kết cục của ngươi. Do đó, Ta muốn nhấn mạnh một lần nữa: Từng người các ngươi nên cẩn thận và cẩn trọng về mọi thứ đến từ Đức Chúa Trời. Đừng nói năng một cách bất cẩn, và đừng sơ suất trong các hành động của mình. Trước khi ngươi nói bất cứ điều gì, ngươi nên dừng lại và suy nghĩ: Liệu hành động này của tôi có chọc giận Đức Chúa Trời không? Khi làm điều đó, tôi có tôn kính Đức Chúa Trời không? Thậm chí trong những vấn đề đơn giản, ngươi cũng nên cố gắng tìm hiểu những câu hỏi này, và dành nhiều thời gian hơn để xem xét chúng. Nếu ngươi có thể thực sự thực hành theo những nguyên tắc này trong mọi phương diện, trong mọi sự việc, trong mọi lúc, và áp dụng một thái độ như thế đặc biệt là khi ngươi không hiểu điều gì đó, thì Đức Chúa Trời sẽ luôn luôn dẫn dắt ngươi và cung cấp cho ngươi một con đường để đi theo. Bất kể con người có trình diễn với hình thức nào đi nữa, thì Đức Chúa Trời cũng nhìn thấy chúng hoàn toàn rõ ràng và hiển nhiên, và Ngài sẽ đưa ra một sự đánh giá chính xác và thích đáng về những màn biểu diễn này của ngươi. Sau khi ngươi đã trải qua sự thử luyện cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ gom tất cả các hành vi của ngươi và tổng kết lại toàn bộ để định đoạt kết cục của ngươi. Kết quả này sẽ thuyết phục từng người một không có chút nghi ngờ. Điều mà Ta muốn phán với ngươi ở đây là: Mỗi việc làm của ngươi, mỗi hành động của ngươi và mỗi suy nghĩ của người đều quyết định số phận của các ngươi.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 14
Ai định đoạt kết cục của con người?
Có một vấn đề cực kỳ quan trọng khác để thảo luận và đó là thái độ của các ngươi đối với Đức Chúa Trời. Thái độ này vô cùng quan trọng! Nó quyết định liệu cuối cùng ngươi sẽ đi đến sự hủy diệt hay là bước vào đích đến tốt đẹp mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho các ngươi. Trong Thời đại Vương quốc, Đức Chúa Trời đã thực hiện công tác trong hơn hai mươi năm, và có lẽ, trong suốt quá trình hai thập kỷ này, trong thâm tâm các ngươi đã có chút không chắc chắn về việc mình đã thể hiện như thế nào. Tuy nhiên, trong lòng Đức Chúa Trời, Ngài đã có một sự ghi lại thực tế và trung thực về từng người các ngươi. Từ khi từng người bắt đầu đi theo Ngài và lắng nghe những bài giảng của Ngài, dần dần càng ngày càng hiểu nhiều hơn về lẽ thật, và cho đến khi từng người bắt đầu hoàn thành bổn phận của mình, Đức Chúa Trời đã ghi lại đủ loại hành vi từng người đã làm. Trong khi thực hiện bổn phận của mình và phải đối mặt với mọi kiểu môi trường và thử luyện, con người có thái độ nào? Họ thể hiện ra sao? Họ cảm nhận thế nào về Đức Chúa Trời trong lòng? … Đức Chúa Trời có một ký thuật về tất cả những điều này; Ngài có một bản ghi chép về tất cả. Có lẽ, theo quan điểm của các ngươi, những vấn đề này khó hiểu. Tuy nhiên, trên lập trường của Đức Chúa Trời, hết thảy chúng đều rõ ràng phân minh, và thậm chí không có một chút cẩu tắc nào. Đây là một vấn đề liên quan đến kết cục của từng người, và nó cũng liên quan đến số phận và viễn cảnh tương lai của từng người, và hơn nữa, đây là nơi mà Đức Chúa Trời dốc hết mọi nỗ lực công phu; do đó, Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ xao nhãng nó một chút nào, và Ngài cũng không dung thứ bất kỳ sự bất cẩn nào. Đức Chúa Trời đang ghi chép lại ký thuật này của nhân loại, ghi chép về toàn bộ quá trình con người đi theo Đức Chúa Trời, từ thuở ban đầu đến tận khi kết thúc. Thái độ của ngươi đối với Ngài trong giai đoạn này đã quyết định số phận của ngươi. Chẳng phải vậy sao? Giờ đây, ngươi có tin rằng Đức Chúa Trời công chính không? Những hành động của Ngài có thích đáng không? Các ngươi vẫn còn có bất kỳ sự tưởng tượng nào khác về Đức Chúa Trời trong đầu không? (Không). Khi ấy các ngươi sẽ nói rằng kết cục của con người được quyết định bởi Đức Chúa Trời hay được quyết định bởi chính con người? (Chúng được quyết định bởi Đức Chúa Trời). Chính ai là người quyết định chúng? (Đức Chúa Trời). Ngươi không chắc, phải vậy không? Các anh chị em đến từ Hồng Kông, hãy lên tiếng đi – ai quyết định chúng? (Chính con người quyết định chúng). Chính con người quyết định chúng phải không? Vậy thì chẳng phải điều đó sẽ có nghĩa rằng kết cục của con người không liên quan gì đến Đức Chúa Trời sao? Các anh chị em đến từ Hàn Quốc, hãy lên tiếng đi. (Đức Chúa Trời quyết định kết cục của con người dựa trên mọi hành động và việc làm của họ, và theo con đường nào mà họ đang đi). Đây là một câu trả lời rất khách quan. Có một thực tế ở đây Ta phải báo cho hết thảy các ngươi: Trong quá trình công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời, Ngài đã lập ra một tiêu chuẩn cho con người. Tiêu chuẩn này là họ phải lắng nghe lời Đức Chúa Trời và đi trong đường lối của Đức Chúa Trời. Chính tiêu chuẩn này được dùng để cân đo kết cục của con người. Nếu ngươi thực hành theo tiêu chuẩn này của Đức Chúa Trời, thì ngươi có thể có được một kết cục tốt đẹp; nếu ngươi không thực hành, thì ngươi không thể có được một kết cục tốt đẹp. Vậy thì, ngươi nói ai sẽ quyết định kết cục này? Không phải là một mình Đức Chúa Trời quyết định nó, mà đúng hơn là Đức Chúa Trời cùng với con người. Có đúng vậy không? (Đúng). Tại sao vậy? Đó là vì chính Đức Chúa Trời là Đấng chủ động thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại và chuẩn bị một đích đến tốt đẹp cho nhân loại; con người là đối tượng công tác của Đức Chúa Trời, và kết cục này, đích đến này, là thứ mà Đức Chúa Trời chuẩn bị cho họ. Nếu không có đối tượng để Ngài làm việc, thì Ngài không cần thực hiện công tác này; nếu Ngài không đang thực hiện công tác này, thì con người sẽ không có một cơ hội để có được sự cứu rỗi. Con người là những người được cứu rỗi, và mặc dù được cứu rỗi là một vai trò thụ động trong quá trình này, nhưng chính thái độ của những người giữ vai trò này quyết định liệu Đức Chúa Trời sẽ thành công trong công tác cứu rỗi nhân loại của Ngài hay không. Nếu không nhờ sự dẫn dắt Đức Chúa Trời ban cho ngươi, thì ngươi sẽ không biết được tiêu chuẩn của Ngài, và ngươi cũng sẽ không có một mục tiêu. Nếu ngươi có tiêu chuẩn này, mục tiêu này, nhưng mà ngươi vẫn không hợp tác, đưa nó vào thực hành hoặc trả giá, thì ngươi sẽ không có được kết cục này. Vì lý do này, Ta phán rằng kết cục của con người không thể tách rời khỏi Đức Chúa Trời, và nó cũng không thể tách rời khỏi con người. Vậy thì, giờ đây các ngươi đã biết ai quyết định kết cục của con người.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 15
Con người có khuynh hướng định nghĩa Đức Chúa Trời dựa trên kinh nghiệm (Trích đoạn)
Khi đang trao đổi về đề tài biết về Đức Chúa Trời, các ngươi có để ý điều gì không? Các ngươi có để ý rằng thái độ của Ngài những ngày này đã trải qua một sự biến đổi không? Thái độ của Ngài đối với con người là không thể thay đổi phải không? Ngài sẽ luôn luôn chịu đựng như thế này, dành tất cả tình yêu thương và lòng thương xót của Ngài cho con người đến đời đời sao? Vấn đề này cũng liên quan đến thực chất của Đức Chúa Trời. … Khi biết rằng Đức Chúa Trời yêu nhân loại, họ định nghĩa Ngài là biểu tượng của tình yêu: Họ tin rằng bất kể con người làm gì, bất kể họ hành xử ra sao, bất kể họ đối xử với Đức Chúa Trời thế nào và bất kể họ có thể bất tuân như thế nào, không điều gì trong số này thực sự quan trọng, bởi Đức Chúa Trời có tình yêu thương và tình yêu thương của Ngài là vô hạn và vô lượng. Đức Chúa Trời có tình yêu thương, vì vậy Ngài có thể khoan dung cho con người; và Đức Chúa Trời có tình yêu thương, vì vậy Ngài có thể thương xót con người, thương xót sự non nớt của họ, thương xót sự thiếu hiểu biết của họ và thương xót sự bất tuân của họ. Điều này thực sự là vậy phải không? Đối với một số người, khi họ đã trải qua sự nhẫn nại của Đức Chúa Trời một lần hay thậm chí một vài lần, họ sẽ xem những kinh nghiệm này là vốn liếng trong sự hiểu biết của riêng họ về Đức Chúa Trời, tin rằng Ngài sẽ mãi mãi nhẫn nại và thương xót đối với họ, sau đó, trong suốt cuộc đời, họ lấy sự nhẫn nại này của Đức Chúa Trời và xem đó là tiêu chuẩn mà Ngài dùng để đối xử với họ. Cũng có những người, sau một lần trải nghiệm sự khoan dung của Đức Chúa Trời, thì họ sẽ mãi mãi định nghĩa Đức Chúa Trời là người khoan dung – và trong tâm trí họ, sự khoan dung này là vô hạn, vô điều kiện, và thậm chí hoàn toàn vô nguyên tắc. Những niềm tin như thế có đúng không? Mỗi lần những vấn đề về thực chất của Đức Chúa Trời hay tâm tính của Đức Chúa Trời được thảo luận, thì các ngươi dường như đều hoang mang. Nhìn thấy các ngươi như thế này làm cho Ta rất lo lắng. Các ngươi đã nghe rất nhiều lẽ thật liên quan đến thực chất của Đức Chúa Trời; các ngươi cũng nghe rất nhiều thảo luận liên quan đến tâm tính của Ngài. Tuy nhiên, trong tâm trí các ngươi, những vấn đề này và lẽ thật về những khía cạnh này chỉ là những ký ức dựa trên lý thuyết và những chữ viết; trong cuộc sống hàng ngày của mình, không ai trong số các ngươi từng có thể trải nghiệm hay thấy được tâm tính của Đức Chúa Trời thực sự là gì. Do đó, các ngươi hết thảy đều ngu muội trong niềm tin của mình; hết thảy các ngươi đều tin một cách mù quáng, đến độ mà các ngươi có một thái độ bất kính đối với Đức Chúa Trời và thậm chí phớt lờ Ngài. Việc các ngươi có thái độ này đối với Đức Chúa Trời dẫn đến điều gì? Nó dẫn đến việc các ngươi luôn luôn đưa ra những kết luận về Đức Chúa Trời. Một khi ngươi đã có được một chút ít kiến thức, thì ngươi cảm thấy rất thỏa mãn, như thể ngươi đã có được trọn vẹn Đức Chúa Trời. Sau đó, ngươi kết luận rằng Đức Chúa Trời là như thế, và ngươi không để Ngài tự do hành động. Hơn nữa, bất kỳ khi nào Đức Chúa Trời làm điều gì mới, ngươi chỉ đơn giản từ chối thừa nhận rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Một ngày nọ, khi Đức Chúa Trời phán: “Ta không còn yêu thương loài người nữa; Ta sẽ không còn dành sự thương xót cho con người nữa; Ta không còn bất kỳ sự dung thứ hay nhẫn nại nào đối với họ nữa; trong Ta đầy dẫy sự ghê tởm và ác cảm tột bậc đối với họ”, những lời tuyên bố như thế sẽ tạo nên sự xung đột trong thâm tâm của con người. Thậm chí một số người trong số họ còn nói: “Ngài không phải là Đức Chúa Trời của con nữa; Ngài không còn là Đức Chúa Trời mà con muốn đi theo. Nếu đây là những gì Ngài phán, thì Ngài không còn đủ tiêu chuẩn làm Đức Chúa Trời của con, và con không cần phải tiếp tục đi theo Ngài. Nếu Ngài không ban cho con lòng thương xót, tình yêu thương và sự khoan dung nữa, thì con sẽ ngừng đi theo Ngài. Nếu Ngài khoan dung với con vô thời hạn, luôn luôn nhẫn nại với con, và cho con thấy rằng Ngài là tình yêu thương, Ngài là sự nhẫn nại, và Ngài là sự khoan dung, thì chỉ khi đó con mới có thể đi theo Ngài, và chỉ khi đó con mới có tự tin để đi theo Ngài đến cùng. Vì con có sự nhẫn nại và thương xót của Ngài, nên sự bất tuân và những vi phạm của con có thể được tha thứ và tha tội vô thời hạn, và con có thể phạm tội mọi lúc mọi nơi, xưng tội và được tha tội mọi lúc mọi nơi, và chọc giận Ngài mọi lúc mọi nơi. Ngài sẽ không có bất kỳ ý kiến hay bất kỳ kết luận nào về con”. Mặc dù không một ai trong các ngươi có thể nghĩ về loại vấn đề này một cách chủ quan và có chủ ý như thế, nhưng bất cứ khi nào các ngươi xem Đức Chúa Trời như là một công cụ được dùng để tha thứ cho những tội lỗi của các ngươi hoặc là một đối tượng được dùng để có được một đích đến tốt đẹp, thì các ngươi đã ngấm ngầm đặt Đức Chúa Trời hằng sống đối lập với các ngươi, như là kẻ thù của các ngươi. Đây là những gì Ta nhìn thấy. Ngươi có thể tiếp tục nói những điều như: “Con tin vào Đức Chúa Trời”, “Con mưu cầu lẽ thật”, “Con muốn thay đổi tâm tính của mình”, “Con muốn thoát khỏi ảnh hưởng của bóng tối”, “Con muốn làm Đức Chúa Trời thỏa lòng”, “Con muốn đầu phục Đức Chúa Trời”, “Con muốn trung tín với Đức Chúa Trời, và làm tốt bổn phận của mình”, v.v. Tuy nhiên, cho dù những lời nói của ngươi nghe có vẻ ngọt ngào đến mấy, cho dù ngươi có thể biết được bao nhiêu lý thuyết, và cho dù lý thuyết đó có hoành tráng hoặc cao cả đến đâu chăng nữa, thì thực tế của vấn đề là giờ đây có nhiều người các ngươi đã học cách sử dụng những quy định, giáo lý, lý thuyết mà các ngươi đã nắm vững để đưa ra những kết luận về Đức Chúa Trời, do đó tự nhiên đặt Ngài đối lập với chính các ngươi. Mặc dù ngươi có thể đã nắm vững những câu chữ và giáo lý, nhưng ngươi chưa thực sự bước vào hiện thực của lẽ thật, vì vậy rất khó cho ngươi để đến gần với Đức Chúa Trời, để biết về Ngài và để hiểu được Ngài. Điều này thật đáng thương!
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 16
Thái độ của Đức Chúa Trời đối với những ai chạy trốn trong công tác của Ngài
Có những người như thế này ở khắp nơi: Sau khi họ đã chắc chắn về đường lối Đức Chúa Trời, vì nhiều lý do khác nhau, họ lặng lẽ bỏ đi, không một lời từ biệt, để từ bỏ và làm bất cứ điều gì mình muốn. Vào thời điểm này, chúng ta sẽ không đi vào lý do tại sao những người này bỏ đi; trước tiên chúng ta sẽ nhìn xem Đức Chúa Trời có thái độ nào đối với loại người này. Điều đó quá rõ ràng. Ngay khi những ngươi này vừa đi khỏi, trong mắt của Đức Chúa Trời, đời sống đức tin của họ đã kết thúc. Không phải là cá nhân con người chấm dứt nó, mà là Đức Chúa Trời. Việc người này rời bỏ Đức Chúa Trời có nghĩa rằng họ đã chối bỏ Đức Chúa Trời, rằng họ không còn cần Ngài nữa, và rằng họ không còn chấp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Vì những người như thế này không cần Đức Chúa Trời nữa, liệu Ngài còn cần họ không? Hơn nữa, khi những người như thế có loại thái độ này, quan điểm này, và đã nuôi quyết tâm rời bỏ Đức Chúa Trời, thì họ đã chọc giận tâm tính của Ngài. Mặc dù họ có thể đã không nổi cơn thịnh nộ và nguyền rủa Đức Chúa Trời, mặc dù họ có thể đã không thực hiện bất kỳ hành vi xấu xa hay thái quá nào, mặc dù thực tế những người này đang nghĩ rằng: “Nếu đến một ngày mà tôi đã vui chơi thỏa thích ở bên ngoài, hoặc tôi vẫn cần đến Đức Chúa Trời cho một điều gì đó, thì tôi sẽ quay lại. Hoặc là nếu Đức Chúa Trời gọi tôi, thì tôi sẽ quay lại”, hoặc họ nói: “Khi tôi bị tổn thương ở bên ngoài, hoặc khi tôi thấy rằng thế giới bên ngoài quá tối tăm và quá xấu xa và tôi không còn muốn đi cùng dòng chảy, thì tôi sẽ quay lại với Đức Chúa Trời”. Mặc dù những người này đã tính toán trong đầu chính xác khi nào họ sẽ quay trở lại, và mặc dù họ vẫn cố gắng chừa cửa để trở về, nhưng họ không nhận ra rằng bất kể họ tin gì hoặc họ lên kế hoạch như thế nào, thì tất cả những điều này chỉ là sự mơ tưởng mà thôi. Sai lầm lớn nhất của họ là không rõ về việc mong muốn bỏ đi của họ làm cho Đức Chúa Trời cảm thấy thế nào. Ngay từ lúc họ quyết định rời bỏ Đức Chúa Trời, Ngài đã hoàn toàn từ bỏ họ; khi đó, Ngài đã quyết định kết cục cho một người như thế trong lòng. Kết cục đó là gì? Đó chính là người này sẽ là một trong những con chuột, và do đó sẽ bị diệt vong cùng với chúng. Vì vậy, con người thường nhìn thấy loại tình huống này: Một người nào đó từ bỏ Đức Chúa Trời, nhưng sau đó không nhận lãnh sự trừng phạt nào. Đức Chúa Trời vận hành theo các nguyên tắc riêng của Ngài; một vài điều có thể được nhìn thấy, trong khi những điều khác chỉ được kết luận trong lòng Đức Chúa Trời, vì vậy con người không thể nhìn thấy những kết quả. Phần mà con người có thể nhìn thấy thì không nhất thiết là mặt thật của sự việc, mà mặt bên kia – mặt mà ngươi không thấy được – thực sự chứa đựng những suy nghĩ và kết luận chân thành của Đức Chúa Trời.
Những ai bỏ chạy trong công tác của Đức Chúa Trời là những người từ bỏ con đường thật
Tại sao Đức Chúa Trời có thể ban cho những người bỏ chạy trong quá trình công tác của Ngài một hình phạt nghiêm khắc như thế? Tại sao Ngài lại tức giận họ như vậy? Trước hết, chúng ta biết rằng tâm tính của Đức Chúa Trời là sự oai nghi và thạnh nộ; Ngài không phải là con chiên bị giết bởi bất kỳ ai, càng không phải là một con rối bị con người điều khiển theo cách họ muốn. Ngài cũng không phải là một khối không khí bị người ta thao túng. Nếu ngươi thực sự tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu, thì ngươi nên có một lòng kính sợ Đức Chúa Trời, và ngươi nên biết rằng thực chất của Ngài không phải là để bị chọc giận. Sự giận dữ này có thể gây ra bởi một lời nói, hoặc có thể bởi một suy nghĩ, hoặc có thể bởi kiểu hành vi xấu xa nào đó, hoặc thậm chí có thể bởi một dạng hành vi ôn hòa, hay hành vi mà trong mắt và đạo đức của con người có thể cho qua; hoặc, có lẽ nó bị khiêu khích bởi một giáo lý hoặc một lý thuyết. Tuy nhiên, một khi ngươi đã chọc giận Đức Chúa Trời, thì cơ hội của ngươi không còn và những ngày cuối cùng của ngươi đã đến. Đây là một điều khủng khiếp! Nếu ngươi không hiểu rằng không được xúc phạm Đức Chúa Trời, thì có lẽ ngươi không sợ Ngài, và có thể ngươi đang thường xuyên xúc phạm Ngài. Nếu ngươi không biết cách kính sợ Đức Chúa Trời, thì ngươi không thể kính sợ Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ không biết cách để đặt mình vào con đường đi theo đường lối của Đức Chúa Trời – kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Một khi ngươi bắt đầu nhận thức và ý thức rằng không được xúc phạm Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ biết kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác chính là gì.
Đi trong đường lối kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác không nhất thiết là ngươi biết được bao nhiêu lẽ thật, ngươi đã kinh qua bao nhiêu sự thử luyện, hoặc ngươi đã được sửa dạy bao nhiêu. Đúng hơn, điều đó tùy thuộc vào loại thái độ mà ngươi có đối với Đức Chúa Trời trong lòng ngươi, và thực chất nào ngươi bộc lộ. Thực chất của con người và thái độ chủ quan của họ – những điều này rất quan trọng, rất chính yếu. Đối với những ai đã từ bỏ và rời bỏ Đức Chúa Trời, thì thái độ khinh miệt của họ đối với Ngài và lòng xem thường lẽ thật của họ đã chọc giận tâm tính của Ngài, vì thế về phần Ngài, họ sẽ không bao giờ được tha thứ. Họ đã biết về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, được báo tin rằng Ngài đã đến, và thậm chí đã trải nghiệm công tác mới của Đức Chúa Trời. Sự ra đi của họ không phải là một trường hợp bị đánh lừa hay đầu óc ngu muội, càng không phải là họ bị ép buộc phải bỏ đi. Đúng hơn, họ đã chọn lựa rời bỏ Đức Chúa Trời một cách có chủ ý, và với một tâm trí minh mẫn. Sự ra đi của họ không phải là một vấn đề lạc đường, và cũng không phải họ bị đào thải. Do đó, trong mắt Đức Chúa Trời, họ không phải là những con chiên lạc đàn, chứ đừng nói là những đứa con hoang đàn đã bị lạc lối. Họ ra đi mà không bị trừng phạt – và một điều kiện như thế, một tình huống như thế, chọc giận tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính vì sự chọc giận này mà Ngài dành cho họ những kết cục vô vọng. Chẳng phải loại kết cục này đáng sợ sao? Do đó, nếu con người không biết về Đức Chúa Trời, họ có thể xúc phạm đến Ngài. Đây không phải là vấn đề nhỏ! Nếu con người không xem trọng thái độ của Đức Chúa Trời, và vẫn tin rằng Ngài đang mong chờ sự trở về của họ bởi vì họ là một số con chiên lạc của Ngài và Ngài vẫn đang chờ đợi họ thay lòng, thì ngày trừng phạt của họ không còn xa nữa. Đức Chúa Trời sẽ không chỉ đơn thuần không chấp nhận họ – giả sử đây là lần thứ hai họ chọc giận tâm tính của Ngài, thì vấn đề còn khủng khiếp hơn thế nũa! Thái độ bất kính của những người này đã vi phạm những sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời. Liệu Ngài sẽ vẫn chấp nhận họ không? Trong lòng Ngài, những nguyên tắc của Đức Chúa Trời về vấn đề này là khi một ai đó đã chắc chắn đâu là con đường thật, nhưng vẫn có thể chối bỏ Đức Chúa Trời và rời xa Đức Chúa Trời một cách có chủ ý và với một tâm trí minh mẫn, thì Ngài sẽ chặn đường đến sự cứu rỗi của một người như thế, và đối với cá nhân này, cánh cổng vào vương quốc sẽ bị đóng lại kể từ đó. Khi người này đến gõ cửa một lần nữa, Đức Chúa Trời sẽ không mở cửa; người này sẽ bị đóng cửa đời đời. Có lẽ một vài người các ngươi đã đọc câu chuyện về Môi-se trong Kinh Thánh. Sau khi Môi-se được Đức Chúa Trời xức dầu, 250 nhà lãnh đạo đã bày tỏ sự bất tuân đối với Môi-se bởi vì hành động của ông và vì những lý do khác nhau khác. Họ đã từ chối đầu phục ai? Đó không phải là Môi-se. Họ từ chối đầu phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời; họ từ chối đầu phục công tác của Đức Chúa Trời về vấn đề này. Họ đã nói như sau: “Thôi đủ rồi! Vì cả hội chúng đều là thánh, và Ðức Giê-hô-va ngự ở trong”. Theo quan điểm của con người, những lời và dòng chữ này có quá nghiêm trọng không? Chúng không nghiêm trọng. Ít nhất thì nghĩa đen của những từ này không nghiêm trọng. Về mặt pháp lý, chúng không vi phạm bất cứ luật lệ nào, bởi vì nhìn bề ngoài, đây không phải là một ngôn ngữ hay từ vựng mang tính chống đối, nó càng không có bất kỳ ý nghĩa phạm thượng nào. Đây chỉ là những câu thông thường, không có gì hơn. Vậy thì, tại sao những từ này có thể gây ra một cơn thịnh nộ như thế từ Đức Chúa Trời? Đó là vì chúng không nói với con người, mà với Đức Chúa Trời. Thái độ và tâm tính mà họ thể hiện chính xác là những điều chọc giận tâm tính của Đức Chúa Trời, và xúc phạm phần tâm tính không được xúc phạm của Đức Chúa Trời. Hết thảy chúng ta đều biết cuối cùng thì kết cục của những nhà lãnh đạo này là gì. Về phần những người đã từ bỏ Đức Chúa Trời, quan điểm của họ là gì? Họ có thái độ nào? Và tại sao quan điểm và thái độ của họ lại khiến Đức Chúa Trời xử lý với họ theo cách thức như thế? Lý do là mặc dù họ biết rõ Ngài là Đức Chúa Trời, nhưng họ vẫn chọn cách phản bội Ngài, và đây là lý do tại sao họ đã hoàn toàn bị tước mất cơ hội được cứu rỗi. Như Kinh Thánh có chép: “Vì nếu chúng ta đã nhận biết lẽ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn có tế lễ chuộc tội nữa” (Hê-bơ-rơ 10:26). Giờ đây các ngươi đã hiểu rõ về vấn đề này phải không?
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 17
Số phận con người được quyết định bởi thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời
Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời hằng sống, và giống như con người hành xử khác nhau trong những tình huống khác nhau, thái độ của Ngài đối với những hành vi này cũng khác nhau bởi vì Ngài không phải là một con rối mà Ngài cũng không phải là một khối không khí. Nhận biết được thái độ của Đức Chúa Trời là một mưu cầu đáng giá đối với nhân loại. Thông qua việc biết được thái độ của Đức Chúa Trời, con người nên học cách để có thể có được sự hiểu biết về tâm tính của Đức Chúa Trời từng chút một và bắt đầu hiểu được lòng Ngài. Khi ngươi dần dần bắt đầu hiểu được lòng Đức Chúa Trời, ngươi sẽ không cảm thấy việc kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác là một việc khó thực hiện đến thế. Hơn nữa, khi ngươi hiểu được Đức Chúa Trời, ngươi sẽ không thể đưa ra kết luận về Ngài như vậy. Một khi ngươi đã ngừng đưa ra những kết luận về Đức Chúa Trời, ngươi sẽ ít có khả năng xúc phạm đến Ngài, và khi ngươi không hề nhận ra điều đó, Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt ngươi để có được sự hiểu biết về Ngài; điều này sẽ làm lòng ngươi tràn đầy sự tôn kính dành cho Ngài. Sau đó ngươi sẽ ngừng định nghĩa Đức Chúa Trời thông qua các giáo lý, câu chữ, và những lý thuyết mà ngươi đã nắm vững. Thay vào đó, bằng việc thường xuyên tìm kiếm những ý định của Đức Chúa Trời trong mọi sự, ngươi sẽ vô thức trở thành người hợp lòng Đức Chúa Trời.
Công tác của Đức Chúa Trời thì con người không nhìn thấy được và không thể chạm tới được, nhưng về phần Ngài, những hành động của mỗi một người – cùng với thái độ của họ đối với Ngài – không những Đức Chúa Trời có thể cảm nhận được, mà Ngài còn có thể thấy được. Đây là điều mà mọi người nên nhận ra và hiểu thật rõ. Ngươi có thể luôn luôn tự hỏi: “Đức Chúa Trời có biết tôi đang làm gì ở đây không? Ngài có biết ngay lúc này tôi đang nghĩ gì không? Có thể Ngài biết, và có thể Ngài không biết”. Nếu ngươi chấp nhận loại quan điểm này, đi theo và tin vào Đức Chúa Trời nhưng vẫn nghi ngờ về công tác của Ngài và sự hiện hữu của Ngài, thì sớm muộn gì cũng sẽ đến một ngày ngươi sẽ làm Ngài tức giận, vì ngươi đang ở trên bờ vực thẳm rồi. Ta đã thấy những người đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm nhưng mà vẫn chưa có được thực tế của lẽ thật, càng không hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời. Những người này không có tiến bộ gì trong đời sống và vóc giạc của mình mà chỉ tuân thủ những giáo lý nông cạn nhất. Đó là vì những người như thế chưa bao giờ xem lời Đức Chúa Trời chính là sự sống, và chưa bao giờ đối mặt và chấp nhận sự hiện hữu của Ngài. Ngươi có nghĩ rằng khi nhìn thấy những người như thế Đức Chúa Trời sẽ tràn đầy niềm vui không? Họ có an ủi Ngài không? Do đó, chính cách mà con người tin vào Đức Chúa Trời quyết định số phận của họ. Liên quan đến cách con người tìm kiếm và cách họ tiếp cận Đức Chúa Trời, thì thái độ của con người có tầm quan trọng hàng đầu. Đừng thờ ơ với Đức Chúa Trời như thể Ngài chỉ là một khối không khí bay lơ lửng phía sau gáy ngươi; hãy luôn luôn nghĩ rằng Đức Chúa Trời mà ngươi tin là một Đức Chúa Trời hằng sống, một Đức Chúa Trời có thật. Ngài không ngồi quanh quẩn trên tầng trời thứ ba mà không có gì để làm. Đúng hơn, Ngài đang thường xuyên nhìn vào tấm lòng của mọi người, quan sát xem ngươi đang làm gì, theo dõi từng lời nói và từng hành động nhỏ của ngươi, theo dõi cách ngươi cư xử và xem ngươi có thái độ nào đối với Ngài. Dù ngươi có sẵn lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời hay không, tất cả những thái độ của ngươi và suy nghĩ và tư tưởng thầm kín nhất của ngươi đều được phơi bày trước Ngài và được Ngài xem xét. Do hành vi của ngươi, do việc làm của ngươi, và do thái độ của ngươi đối với Ngài mà nhận định của Đức Chúa Trời về ngươi và thái độ của Ngài đối với ngươi liên tục thay đổi. Ta muốn đưa ra vài lời khuyên cho một số người: Đừng đặt mình như là đứa trẻ sơ sinh vào tay Đức Chúa Trời, như thể Ngài sẽ cưng chiều ngươi, như thể Ngài không bao giờ có thể bỏ rơi ngươi, và như thể thái độ của Ngài đối với ngươi đã được cố định và không bao giờ có thể thay đổi, và Ta khuyên ngươi thôi đừng mơ nữa! Đức Chúa Trời là công chính trong cách đối xử của Ngài đối với từng người một, và Ngài sốt sắng trong cách tiếp cận của Ngài đối với công tác chinh phục và cứu rỗi con người. Đây là sự quản lý của Ngài. Ngài đối xử nghiêm túc với từng người một, và không giống như chơi đùa với một con thú cưng. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với con người không phải là kiểu nuông chiều hay làm hư, và lòng thương xót và khoan dung của Ngài đối với nhân loại cũng không phải là chiều theo hoặc thờ ơ. Trái lại, tình yêu thương của Đức Chúa Trời liên quan đến sự yêu mến, thương xót và tôn trọng đời sống; lòng thương xót và khoan dung của Ngài truyền tải những kỳ vọng của Ngài về họ, và là những gì mà nhân loại cần để tồn tại. Đức Chúa Trời hằng sống, và Đức Chúa Trời thực sự hiện hữu; thái độ của Ngài đối với nhân loại là có nguyên tắc, hoàn toàn không phải là một loạt các quy tắc giáo điều, và nó có thể thay đổi. Các ý định của Ngài đối với nhân loại đang dần dần thay đổi và biến đổi theo thời gian, tùy thuộc và những bối cảnh khi chúng nảy sinh, và theo thái độ của từng người một. Do đó, ngươi nên biết trong lòng một cách hoàn toàn rõ ràng rằng thực chất của Đức Chúa Trời thì không thay đổi, và rằng tâm tính của Ngài sẽ tỏ lộ vào những thời điểm khác nhau và trong những bối cảnh khác nhau. Ngươi có thể không nghĩ rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng, và ngươi có thể sử dụng những quan niệm riêng của bản thân ngươi để tưởng tượng Đức Chúa Trời nên làm mọi việc như thế nào. Tuy nhiên, có những thời điểm thái cực đối lập với quan điểm của ngươi lại đúng, và bằng việc sử dụng những quan niệm riêng của bản thân để cố gắng đánh giá Đức Chúa Trời, ngươi đã chọc giận Ngài. Đó là vì Đức Chúa Trời không vận hành theo cách ngươi nghĩ, và Ngài cũng không giải quyết vấn đề này giống như ngươi nói Ngài sẽ làm. Do đó, Ta nhắc ngươi hãy cẩn thận và khôn ngoan trong cách tiếp cận của mình đối với mọi thứ xung quanh ngươi, và học cách làm theo nguyên tắc đi trong đường lối của Đức Chúa Trời trong mọi sự, đó là kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Ngươi phải phát triển một sự hiểu biết chắc chắn liên quan đến những vấn đề về ý muốn của Đức Chúa Trời và thái độ của Đức Chúa Trời, ngươi phải tìm ra những người đã được khai sáng để truyền đạt những vấn đề này cho ngươi, và ngươi phải tìm kiếm một cách sốt sắng. Đừng xem Đức Chúa Trời trong niềm tin của ngươi là một con rối – tùy tiện phán xét Ngài, tùy tiện đi đến kết luận về Ngài, và không đối xử với Ngài bằng sự kính trọng mà Ngài xứng đáng. Trong khi Đức Chúa Trời đang mang đến cho ngươi sự cứu rỗi và định đoạt kết cục của ngươi, Ngài có thể ban cho ngươi sự thương xót, hoặc khoan dung, hoặc phán xét và hành phạt, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, thái độ của Ngài đối với ngươi không cố định. Điều đó phụ thuộc vào thái độ của bản thân ngươi đối với Ngài, cũng như sự hiểu biết của ngươi về Ngài. Đừng để một khía cạnh thoáng qua trong kiến thức của ngươi hay sự hiểu biết của ngươi về Đức Chúa Trời định nghĩa về Ngài đến đời đời. Đừng tin vào một vị Đức Chúa Trời đã chết; hãy tin vào Đấng hằng sống. Hãy nhớ lấy điều này! Mặc dù Ta đã bàn về một vài sự thật ở đây – những sự thật các ngươi cần phải nghe – xét theo tình trạng hiện nay và vóc giạc hiện nay của các ngươi, Ta sẽ không đặt ra những yêu cầu lớn lao hơn đối với các ngươi bây giờ, để không làm giảm sự nhiệt thành của các ngươi. Làm như thế có thể làm lòng các ngươi đầy sự ảm đạm và khiến các ngươi cảm thấy quá thất vọng đối với Đức Chúa Trời. Thay vào đó, Ta hy vọng các ngươi có thể sử dụng tình yêu dành cho Đức Chúa Trời có trong lòng các ngươi và dùng một thái độ kính trọng đối với Đức Chúa Trời khi đi trên con đường phía trước. Đừng có loay hoay với vấn đề làm cách nào để tin vào Đức Chúa Trời; hãy xem nó là một trong những vấn đề lớn nhất. Hãy đặt nó vào lòng ngươi, đưa nó vào thực hành, và liên hệ nó với đời thực; đừng chỉ nói lời chót lưỡi đầu môi – vì đây là một vấn đề sinh tử, và là điều sẽ quyết định số phận của ngươi. Đừng xem nó như một trò đùa hay trò chơi của trẻ con! Sau khi chia sẻ những lời này với các ngươi hôm nay, Ta tự hỏi tâm trí của các ngươi đã thu hoạch được bao nhiêu sự hiểu biết. Các ngươi có bất kỳ câu hỏi nào muốn hỏi về những gì Ta đã phán ở đây hôm nay không?
Mặc dù những đề tài này hơi mới, và hơi khác biệt với những quan điểm của các ngươi, với những sự theo đuổi thông thường của các ngươi, và những gì các ngươi hay chú ý đến, nhưng Ta nghĩ rằng một khi chúng đã được các ngươi thông công một thời gian, thì các ngươi sẽ phát triển một sự hiểu biết chung về mọi điều Ta đã phán ở đây. Những đề tài này hết thảy đều rất mới, và là những đề tài mà trước đây các ngươi chưa bao giờ xem xét đến, vì vậy Ta hy vọng rằng chúng sẽ không làm tăng thêm gánh nặng cho các ngươi dù thế nào. Hôm nay Ta đang phán những lời này không phải để làm các ngươi sợ, và Ta cũng không dùng chúng như là một cách để đối phó với các ngươi; đúng hơn, mục đích của Ta là để giúp các ngươi hiểu được những chân tướng của sự thật Bởi vì sự khác biệt tồn tại giữa nhân loại và Đức Chúa Trời, nên dù con người tin vào Đức Chúa Trời, nhưng họ chưa bao giờ hiểu được Ngài hay biết được thái độ của Ngài. Con người cũng chưa bao giờ quan tâm quá nhiệt thành đối với thái độ của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ đã tin và tiến hành một cách mù quáng, và bất cẩn trong kiến thức và sự hiểu biết của mình về Đức Chúa Trời. Do đó Ta cảm thấy buộc phải làm rõ những vấn đề này cho các ngươi, và giúp các ngươi hiểu đúng Đức Chúa Trời mà các ngươi tin vào là Đức Chúa Trời nào, cũng như Ngài đang nghĩ gì, Ngài có thái độ nào trong khi đối xử với những loại người khác nhau, các ngươi đã thực hiện các yêu cầu của Ngài đến đâu, và sự chênh lệch lớn như thế nào giữa hành động của các ngươi và tiêu chuẩn mà Ngài yêu cầu. Mục tiêu cho các ngươi biết về những điều này là để cho các ngươi một thước đo dùng để đo chính mình, và hầu cho các ngươi sẽ biết được con đường mà mình đang đi đã dẫn đến những loại thu hoạch gì, những gì mà các ngươi chưa đạt được trên con đường này, và trong lãnh vực nào mà các ngươi đã hoàn toàn chưa tham gia. Trong khi các ngươi trao đổi với nhau, các ngươi hay nói về một vài đề tài thường được thảo luận mà chúng rất hạn hẹp về phạm vi và nông cạn về nội dung. Có một sự cách biệt, một khoảng cách giữa những gì các ngươi thảo luận và các ý định của Đức Chúa Trời, cũng như giữa những gì các ngươi thảo luận và phạm vi và tiêu chuẩn trong những yêu cầu của Đức Chúa Trời. Tiến hành như thế này theo thời gian sẽ dẫn đến việc các ngươi càng chệch xa khỏi đường lối của Đức Chúa Trời hơn. Các ngươi chỉ đang lấy những lời phán hiện tại của Đức Chúa Trời rồi biến chúng thành đối tượng thờ phượng, và xem chúng như là những nghi thức và quy định. Đó là tất cả những gì các ngươi đang làm! Trong thực tế, Đức Chúa Trời hoàn toàn không có chỗ trong lòng các ngươi, và Ngài chưa bao giờ thu phục được lòng các ngươi. Một số người nghĩ rằng để biết được Đức Chúa Trời thì rất là khó, và đây là sự thật. Thực sự khó. Nếu con người được tạo ra để thực hiện bổn phận và hoàn thành mọi việc bề ngoài, và làm việc chăm chỉ, thì họ sẽ nghĩ rằng tin vào Đức Chúa Trời rất dễ dàng, bởi vì tất cả những điều đó nằm trong phạm vi khả năng của con người. Tuy nhiên, khi chuyển sang đề tài những ý định của Đức Chúa Trời và thái độ của Ngài đối với nhân loại, thì theo quan điểm của mọi người, mọi thứ thực sự trở nên khó khăn hơn một chút. Đó là vì điều này liên quan đến sự hiểu biết của con người về lẽ thật và lối vào hiện thực của họ, vì thế tất nhiên sẽ có một mức độ khó khăn! Tuy nhiên, một khi các ngươi đã qua được cánh cửa thứ nhất và bắt đầu có được lối vào, mọi thứ dần dần trở nên dễ dàng hơn.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 18
Điểm khởi đầu cho việc kính sợ Đức Chúa Trời là đối xử với Ngài như Đức Chúa Trời
Vừa mới đây, có người đã đưa ra một câu hỏi: Làm thế nào mà mặc dù chúng ta biết về Đức Chúa Trời nhiều hơn Gióp biết, nhưng chúng ta vẫn không thể tôn kính Ngài? Chúng ta đã đề cập một chút về vấn đề này trước đây. Thực sự chúng ta cũng đã thảo luận về thực chất của câu hỏi này trước đây, đó là sự thật rằng mặc dù khi đó Gióp không biết Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn đối xử với Ngài như Đức Chúa Trời và xem Ngài như Đấng Chủ Tể của trời đất và muôn vật. Gióp đã không xem Đức Chúa Trời như là một kẻ thù; thay vào đó, ông thờ phượng Ngài như Đấng Tạo Hóa của muôn vật. Tại sao con người ngày nay chống đối Đức Chúa Trời nhiều đến thế? Tại sao họ không thể tôn kính Ngài? Một lý do là vì họ đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc, và với bản tính sa-tan ăn sâu như thế, họ đã trở thành kẻ thù của Đức Chúa Trời. Do đó, cho dù họ tin vào Đức Chúa Trời và thừa nhận Đức Chúa Trời, nhưng họ vẫn có thể chống đối Ngài và đặt mình vào thế đối nghịch với Ngài. Điều này do thực chất con người quyết định. Lý do khác nữa là mặc dù họ tin vào Đức Chúa Trời, con người hoàn toàn không xem Ngài là Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ xem Ngài đối nghịch với loài người, xem Ngài như kẻ thù của mình, và cảm thấy rằng họ không thể hòa hợp được với Đức Chúa Trời. Đơn giản là thế. Chẳng phải vấn đề này đã được đề cập trong phần trước của chúng ta rồi sao? Hãy suy nghĩ về điều đó: Chẳng lẽ đó là lý do sao? Ngươi có thể có chút hiểu biết về Đức Chúa Trời, nhưng sự hiểu biết này dẫn đến điều gì? Chẳng phải đây là điều mọi người đang bàn đến sao? Chẳng phải đó là những gì Đức Chúa Trời đã phán với ngươi sao? Ngươi chỉ quen thuộc với những khía cạnh về lý thuyết và giáo lý của nó – nhưng có bao giờ ngươi nhận thức được mặt thật của Đức Chúa Trời chưa? Ngươi có kiến thức chủ quan không? Ngươi có kiến thức và kinh nghiệm thực tế không? Nếu Đức Chúa Trời không cho ngươi biết, liệu ngươi có thể biết được không? Kiến thức lý thuyết của ngươi không đại diện cho kiến thức thực tế. Tóm lại, bất kể ngươi biết bao nhiêu hay ngươi bắt đầu biết điều đó như thế nào, Ngài sẽ là kẻ thù của ngươi cho đến khi ngươi có được một sự hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ chống lại ngươi cho đến khi ngươi thực sự bắt đầu xem Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, vì ngươi là hiện thân của Sa-tan.
Khi ngươi ở cùng với Đấng Christ, có lẽ ngươi có thể phục vụ Ngài một ngày ba bữa ăn, hoặc có lẽ phục vụ Ngài thức uống và đáp ứng những nhu cầu đời sống của Ngài; ngươi dường như đã đối xử với Đấng Christ như Đức Chúa Trời. Bất cứ khi nào có chuyện gì xảy ra, quan điểm của con người luôn đi ngược lại với Đức Chúa Trời; con người luôn luôn không hiểu và chấp nhận quan điểm của Đức Chúa Trời. Mặc dù bề ngoài con người có thể hòa hợp với Đức Chúa Trời, nhưng điều này không có nghĩa là họ tương hợp với Ngài. Ngay sau khi có chuyện gì xảy ra, sự thật về sự bất tuân của nhân loại xuất hiện, qua đó xác nhận sự thù địch tồn tại giữa con người và Đức Chúa Trời. Sự thù địch này không phải là câu chuyện Đức Chúa Trời đối nghịch với con người hoặc Đức Chúa Trời muốn thù địch với họ, và cũng không phải là Ngài đặt họ vào vị trí đối nghịch với chính Ngài và sau đó đối xử với họ như thế. Thay vào đó, đó là vấn đề của thực chất trái ngược với Đức Chúa Trời, thứ ẩn nấp trong ý chí chủ quan của con người và trong tiềm thức của họ. Vì con người xem tất cả những gì đến từ Đức Chúa Trời là những đối tượng nghiên cứu của họ, nên phản ứng của họ đối với những gì đến từ Đức Chúa Trời và đối với mọi thứ liên quan đến Đức Chúa Trời trên hết là phỏng đoán, nghi ngờ, và sau đó nhanh chóng có một thái độ mâu thuẫn và chống đối Đức Chúa Trời. Ngay sau đó, họ mang một tâm trạng tiêu cực vào các cuộc tranh luận hoặc tranh cãi với Đức Chúa Trời, đi xa đến mức thậm chí còn nghi ngờ liệu một vị Đức Chúa Trời như thế có xứng đáng để đi theo hay không. Mặc dù thực tế là lý trí của họ nói với họ rằng họ không nên tiến hành theo cách này, nhưng họ vẫn chọn làm như vậy dù bản thân không muốn, đến mức họ sẽ tiếp tục cho đến tận cùng mà không do dự. Ví dụ như, phản ứng đầu tiên của một số người khi họ nghe những tin đồn hoặc câu chuyện vu khống về Đức Chúa Trời là gì? Phản ứng đầu tiên của họ là tự hỏi liệu những tin đồn này có đúng hay không và liệu những lời đồn đại này có tồn tại hay không, và sau đó chọn một thái độ chờ đợi xem sao. Sau đó họ bắt đầu suy nghĩ: “Không có cách nào để xác minh điều này. Điều đó có thực sự xảy ra không? Tin đồn này có đúng hay không?” Mặc dù bề ngoài những người như thế này không thể hiện điều đó, nhưng trong lòng họ đã bắt đầu nghi ngờ, và đã bắt đầu phủ nhận Đức Chúa Trời. Thực chất của loại thái độ này và của quan điểm như thế là gì? Chẳng phải đó là sự phản bội sao? Cho đến khi họ đối mặt với vấn đề này, ngươi không thể thấy được quan điểm của những kẻ này là gì; có vẻ như họ không có mâu thuẫn với Đức Chúa Trời, và như thể họ không xem Ngài là kẻ thù. Tuy nhiên, ngay sau khi họ đối mặt với một vấn đề, họ lập tức đứng về phía Sa-tan và chống lại Đức Chúa Trời. Điều này ám chỉ điều gì? Nó ám chỉ rằng con người và Đức Chúa Trời đối nghịch nhau! Không phải là Đức Chúa Trời xem nhân loại là kẻ thù, mà chính thực chất của loài người thù địch với Đức Chúa Trời. Bất kể một người đã đi theo Ngài được bao lâu hoặc họ đã trả một giá đắt thế nào, và bất kể họ ngợi khen Đức Chúa Trời như thế nào, họ có thể cố không chống đối Ngài ra sao, và thậm chí họ có ra sức cố gắng yêu mến Đức Chúa Trời đến mức nào, thì họ cũng không bao giờ có thể đối xử được với Đức Chúa Trời như Đức Chúa Trời. Chẳng phải điều này được quyết định bởi thực chất con người sao? Nếu ngươi đối xử với Ngài như Đức Chúa Trời và thực sự tin rằng Ngài là Đức Chúa Trời, thì ngươi có thể nào vẫn còn bất kỳ nghi ngờ nào đối với Ngài không? Lòng ngươi có thể nào vẫn còn chứa chấp bất kỳ dấu chấm hỏi nào về Ngài không? Không thể nào, đúng không? Những xu hướng của thế giới này rất xấu xa, và loài người này cũng vậy; thế sao mà ngươi không có bất kỳ quan niệm nào về chúng được? Bản thân ngươi rất xấu xa, vậy sao ngươi không có một quan niệm nào về điều đó? Vậy mà, chỉ một vài tin đồn và vài lời vu khống có thể tạo ra những quan niệm to tát như vậy về Đức Chúa Trời, và dẫn đến việc ngươi tưởng tượng ra quá nhiều thứ, điều đó chỉ cho thấy vóc giạc của ngươi non nớt cỡ nào! Chỉ cần tiếng “vo ve” của vài con muỗi và vài con ruồi gớm ghiếc – bấy nhiêu đó đủ lừa ngươi sao? Đây là loại người gì vậy? Ngươi biết Đức Chúa Trời nghĩ gì về loại người như thế không? Thái độ của Đức Chúa Trời thực sự rất rõ ràng về việc Ngài đối xử với họ như thế nào. Sự đối xử của Đức Chúa Trời đối với những người này chỉ là lạnh nhạt với họ – thái độ của Ngài là không chú ý gì đến họ, và không coi trọng những kẻ ngu dốt này. Tại sao vậy? Chính vì trong lòng Đức Chúa Trời, Ngài chưa bao giờ có kế hoạch thu phục những người này, những kẻ đã nguyện chống đối với Ngài đến tận cùng và những kẻ chưa bao giờ lên kế hoạch tìm kiếm một cách để có thể tương hợp với Ngài. Có lẽ những lời Ta vừa phán này có thể làm tổn thương một vài người. Các ngươi có luôn sẵn lòng để Ta làm tổn thương các ngươi như thế này không? Dù có hay không, mọi điều Ta phán đều là sự thật! Nếu Ta luôn luôn làm tổn thương các ngươi và để lộ những vết sẹo của các ngươi ra thế này, thì liệu điều đó sẽ ảnh hưởng đến hình tượng cao quý của Đức Chúa Trời mà các ngươi ấp ủ trong lòng không? (Không). Ta đồng ý rằng không, vì đơn giản là trong lòng các ngươi không có Đức Chúa Trời. Vị Đức Chúa Trời cao quý ngự trong lòng các ngươi – người mà các ngươi ra sức che chở và bảo vệ – hoàn toàn không phải là Đức Chúa Trời. Thay vào đó, vị ấy là một sự tưởng tượng của con người; người đó hoàn toàn không tồn tại. Do đó, tốt hơn hết là Ta tiết lộ đáp án cho câu hỏi này; chẳng phải điều này phơi bày toàn bộ sự thật sao? Đức Chúa Trời thật không phải là những gì mà con người tưởng tượng ra về Ngài. Ta hy vọng rằng hết thảy các ngươi có thể đối mặt với thực tế này, và điều đó sẽ giúp các ngươi hiểu về Đức Chúa Trời.
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 19
Những người không được Đức Chúa Trời thừa nhận
Có một số người mà đức tin của họ chưa bao giờ được thừa nhận trong lòng Đức Chúa Trời. Nói cách khác, Đức Chúa Trời không thừa nhận rằng họ là những người đi theo Ngài, bởi vì Ngài không khen ngợi niềm tin của họ. Đối với những người này, cho dù họ đã theo Đức Chúa Trời được bao nhiêu năm, thì tư tưởng và quan điểm của họ cũng chưa bao giờ thay đổi; họ giống như những người ngoại đạo, tuân theo các nguyên tắc và cách làm việc của những người ngoại đạo và theo quy luật sống và đức tin của người ngoại đạo. Họ chưa bao giờ chấp nhận lời Đức Chúa Trời như là sự sống của họ, chưa bao giờ tin rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, chưa bao giờ có ý định chấp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, và chưa bao giờ công nhận Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của họ. Họ xem việc tin vào Đức Chúa Trời như một loại sở thích nghiệp dư nào đó, xem Ngài chỉ là nguồn nuôi dưỡng thuộc linh đơn thuần; vì thế, họ không nghĩ rằng thật đáng giá để cố gắng và hiểu được tâm tính hay thực chất của Đức Chúa Trời. Có thể nói rằng, tất cả những gì tương hợp với Đức Chúa Trời thật thì không liên quan đến những người này; họ không quan tâm, và họ cũng không bận tâm chú ý. Đó là vì trong thâm tâm, có một giọng nói mạnh mẽ luôn luôn nói với họ rằng: “Đức Chúa Trời không thể nhìn thấy và không thể chạm tới được, và không tồn tại”. Họ tin rằng việc cố gắng để hiểu vị Đức Chúa Trời này thì không bõ công, và rằng khi làm như thế là họ đang lừa dối chính mình. Họ tin rằng chỉ bằng cách thừa nhận Đức Chúa Trời bằng lời mà không có bất kỳ lập trường thực tế nào hay hiến thân mình cho bất kỳ hành động thực tế nào, thì họ đang khá thông minh. Đức Chúa Trời nhìn vào những người này như thế nào? Ngài xem họ là những người ngoại đạo. Một số người hỏi: “Những người ngoại đạo có thể đọc lời Đức Chúa Trời không? Họ có thể hoàn thành bổn phận mình không? Họ có thể nói những lời như: ‘Con sẽ sống vì Đức Chúa Trời’ không?” Những gì mà con người thường nhìn thấy là những thể hiện mà người khác phô bày bên ngoài; họ không thấy được thực chất của con người. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không nhìn vào những sự thể hiện bề ngoài này; Ngài chỉ nhìn vào thực chất bên trong của họ. Do đó, đây là loại thái độ và định nghĩa của Đức Chúa Trời đối với những người này. Những người này nói: “Tại sao Đức Chúa Trời làm điều này? Tại sao Đức Chúa Trời làm điều nọ? Con không thể hiểu được điều này; Con không thể hiểu điều nọ; điều này không phù hợp với những quan niệm của con người; Ngài phải giải thích điều đó cho con…” Đáp lại điều này, Ta hỏi: Có thực sự cần thiết phải giải thích những vấn đề này cho ngươi không? Những vấn đề này thực ra có liên quan gì đến ngươi không? Ngươi nghĩ ngươi là ai? Ngươi từ đâu đến? Ngươi có đủ tư cách cho Đức Chúa Trời lời khuyên không? Ngươi có tin vào Ngài không? Ngài có thừa nhận đức tin của ngươi không? Vì đức tin của ngươi không liên quan gì đến Đức Chúa Trời, thì những gì Ngài làm có phải việc của ngươi không? Ngươi không biết vị trí của mình trong lòng Đức Chúa Trời, vậy thì làm sao ngươi có thể có đủ tư cách để trò chuyện với Ngài?
Những lời răn
Sau khi nghe những lời nhận xét này chẳng lẽ các ngươi không khó chịu sao? Mặc dù các ngươi có thể không muốn lắng nghe chúng hoặc là không muốn chấp nhận chúng, nhưng hết thảy chúng đều là sự thật. Bởi vì giai đoạn công tác này là để Đức Chúa Trời thực hiện, nên nếu ngươi không quan tâm đến những ý định của Ngài, không chú ý đến thái độ của Ngài, và không hiểu được thực chất và tâm tính của Ngài, thì cuối cùng, ngươi sẽ là người sẽ chịu thua thiệt. Đừng đổ lỗi cho những lời của Ta khó nghe, và đừng đổ lỗi cho chúng vì đã làm giảm lòng nhiệt thành của các ngươi. Ta phán sự thật; Ta không có ý định làm các ngươi nản lòng. Bất kể Ta yêu cầu các ngươi điều gì, bất kể ngươi cần phải làm điều đó như thế nào, Ta hy vọng rằng các ngươi đi con đường đúng và đi theo đường lối Đức Chúa Trời, và rằng các ngươi không bao giờ đi chệch khỏi con đường đúng. Nếu ngươi không tiến hành theo lời Đức Chúa Trời và đi theo đường lối của Ngài, thì chắc chắn rằng các ngươi đang phản nghịch lại Đức Chúa Trời và đi lệch khỏi con đường đúng. Do đó, Ta cảm thấy có một số vấn đề mà Ta phải làm rõ với các ngươi, và rằng Ta phải khiến các ngươi tin một cách dứt khoát, rõ ràng và không chút ngờ vực, và giúp các ngươi hiểu rõ về thái độ của Đức Chúa Trời, các ý định của Ngài, cách Ngài làm cho con người hoàn thiện, và cách thức mà Ngài định đoạt kết cục của con người. Nếu đến một ngày ngươi không thể dấn bước trên con đường này, thì Ta không chịu trách nhiệm, bởi những lời này đã được phán cho ngươi rất rõ ràng. Về việc ngươi đối phó với kết cục của bản thân ngươi như thế nào, thì đây là vấn đề hoàn toàn tùy thuộc vào ngươi. Về kết cục của những loại người khác nhau, Đức Chúa Trời có những thái độ khác nhau. Ngài có những cách riêng của Ngài để cân nhắc họ, cũng như tiêu chuẩn riêng của Ngài đối với những yêu cầu dành cho họ. Tiêu chuẩn của Ngài trong việc cân nhắc kết cục của con người là một tiêu chuẩn công bằng đối với mọi người – không nghi ngờ gì về điều đó! Do đó, một vài người sợ hãi là không cần thiết. Giờ đây các ngươi có cảm thấy nhẹ nhõm chưa?
– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 20
Trên thực tế, tâm tính của Đức Chúa Trời cởi mở với mọi người và không ẩn giấu, bởi vì Đức Chúa Trời chưa bao giờ chủ ý tránh né bất kỳ người nào và chưa bao giờ chủ ý tìm cách che giấu chính Ngài để ngăn con người biết Ngài hay hiểu Ngài. Tâm tính của Đức Chúa Trời luôn cởi mở và đối mặt với mỗi người một cách thẳng thắn. Trong sự quản lý của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời làm công tác của Ngài, đối diện với mọi người, và công tác của Ngài được thực hiện trên mỗi một con người. Khi Ngài làm công tác này, Ngài liên tục tỏ lộ tâm tính Ngài và liên tục dùng thực chất của Ngài, Ngài có gì và là gì, để hướng dẫn và chu cấp cho mỗi một người. Trong mỗi thời đại và mỗi giai đoạn, bất kể hoàn cảnh là tốt hay xấu, tâm tính của Đức Chúa Trời cũng luôn cởi mở với mỗi cá nhân, và những vật sở hữu và hữu thể của Ngài luôn cởi mở với mỗi cá nhân, cũng như sự sống của Ngài liên tục và không ngừng chu cấp, hỗ trợ cho nhân loại. Bất kể tất cả những điều này, tâm tính của Đức Chúa Trời vẫn còn là sự ẩn giấu đối với một số người. Tại sao? Bởi vì ngay cả khi những người này sống trong công tác của Đức Chúa Trời và theo Đức Chúa Trời, họ cũng không bao giờ cố gắng hiểu Đức Chúa Trời, cũng không muốn biết được Đức Chúa Trời, huống chi đến gần Đức Chúa Trời hơn. Đối với những người này, việc hiểu tâm tính Đức Chúa Trời là điềm báo rằng sự kết thúc của họ đã gần kề; điều này nghĩa là họ sắp bị phán xét và kết án bởi tâm tính của Đức Chúa Trời. Vì lẽ ấy, họ chưa bao giờ khao khát hiểu Đức Chúa Trời hay tâm tính của Ngài, cũng không bao giờ thèm muốn một sự hiểu biết hay kiến thức sâu hơn về ý muốn của Đức Chúa Trời. Họ không cố gắng để hiểu thấu ý muốn của Đức Chúa Trời thông qua sự phối hợp có chủ ý – họ cứ mãi vui hưởng và không bao giờ mệt mỏi làm những điều họ muốn làm; tin vào vị Đức Chúa Trời mà họ muốn tin; tin vào vị Đức Chúa Trời chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của họ, vị Đức Chúa Trời chỉ tồn tại trong những quan niệm của họ, và tin vào một vị Đức Chúa Trời không thể tách khỏi họ trong đời sống hàng ngày. Khi nói đến chính Đức Chúa Trời thật, họ hoàn toàn lãnh đạm và chẳng khao khát hiểu Ngài hay chú ý đến Ngài, và càng ít muốn đến gần Ngài hơn. Họ chỉ dùng những lời Đức Chúa Trời bày tỏ để tô điểm cho bản thân họ, để bao bọc chính họ. Đối với họ, điều này đã làm cho họ thành những tín đồ thành công và những người có đức tin nơi Đức Chúa Trời trong lòng. Trong lòng họ, họ được hướng dẫn bởi những sự tưởng tượng của họ, những quan niệm của họ, và thậm chí những định nghĩa của cá nhân họ về Đức Chúa Trời. Mặt khác, chính Đức Chúa Trời thật, lại tuyệt đối không có gì liên quan đến họ. Bởi vì, nếu họ hiểu chính Đức Chúa Trời thật, hiểu tâm tính thật của Đức Chúa Trời, và hiểu Đức Chúa Trời có gì và là gì, điều đó sẽ có nghĩa là những hành động của họ, đức tin của họ, và những sự mưu cầu của họ sẽ bị kết án. Đó là lý do tại sao họ ghét hiểu thực chất của Đức Chúa Trời, ghét và không sẵn lòng chủ động tìm kiếm hay cầu nguyện để hiểu Đức Chúa Trời rõ hơn, biết ý muốn của Đức Chúa Trời rõ hơn, và hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời rõ hơn. Họ thà rằng Đức Chúa Trời là điều gì đó được dựng nên, điều gì đó trống rỗng và mơ hồ. Họ thà rằng Đức Chúa Trời là ai đó y như họ đã tưởng tượng về Ngài, ai đó có thể chịu sự sai khiến của họ, chu cấp vô tận và luôn sẵn có. Khi họ muốn được hưởng ân điển của Đức Chúa Trời, họ đòi hỏi Đức Chúa Trời phải là ân điển đó. Khi họ cần phúc lành của Đức Chúa Trời, họ đòi hỏi Đức Chúa Trời phải là phúc lành đó. Khi đối mặt với nghịch cảnh, họ xin Đức Chúa Trời làm cho họ bạo dạn, làm lá chắn phía sau của họ. Kiến thức của những người này về Đức Chúa Trời bị mắc kẹt trong ranh giới của ân điển và phúc lành. Sự hiểu biết của họ về công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời cũng chỉ giới hạn trong những sự tưởng tượng của họ, những con chữ và học thuyết. Nhưng có một số người thiết tha được hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời, muốn thật sự được nhìn thấy chính Đức Chúa Trời, và thật sự hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời, hiểu Ngài có gì và là gì. Những người này đang theo đuổi hiện thực của lẽ thật và của sự cứu rỗi bởi Đức Chúa Trời, và tìm kiếm để nhận lãnh sự chinh phục, cứu rỗi, và hoàn thiện bởi Đức Chúa Trời. Họ dùng con tim họ để đọc lời Đức Chúa Trời, dùng con tim họ để cảm kích mọi tình huống và mọi người, sự kiện, và sự việc mà Đức Chúa Trời đã sắp xếp cho họ, và họ cầu nguyện, tìm kiếm bằng sự chân thành. Điều họ muốn biết nhất là ý muốn của Đức Chúa Trời, muốn hiểu nhất là tâm tính và thực chất thật của Đức Chúa Trời, rằng họ không còn xúc phạm Đức Chúa Trời, và thông qua những trải nghiệm của họ, có thể thấy được sự đáng mến của Đức Chúa Trời và phương diện thật của Ngài nhiều hơn. Điều đó cũng là để một Đức Chúa Trời thật đích thực sẽ hiện hữu trong lòng họ, và để Đức Chúa Trời sẽ có một chỗ trong lòng họ, như thế họ sẽ không còn sống giữa những sự tưởng tượng, quan niệm, hay sự mơ hồ nữa. Đối với những người này, lý do họ có sự khao khát luôn thôi thúc được hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời và thực chất của Ngài là vì tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời là những gì nhân loại cần vào mọi khoảnh khắc trong quá trình trải nghiệm của họ; chính tâm tính và thực chất của Ngài chu cấp sự sống xuyên suốt cuộc đời của một người. Một khi họ hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời, họ sẽ có thể tôn kính Đức Chúa Trời tốt hơn, phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời tốt hơn, ân cần hơn với ý muốn của Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của họ trong khả năng tốt nhất. Đó là những thái độ của hai kiểu người đối với tâm tính Đức Chúa Trời. Kiểu thứ nhất không muốn hiểu tâm tính Đức Chúa Trời. Ngay cả khi họ nói rằng họ muốn hiểu tâm tính Đức Chúa Trời, biết chính Đức Chúa Trời, thấy Đức Chúa Trời có gì và là gì, và thật sự cảm kích ý muốn của Đức Chúa Trời, thì tận sâu thẳm, họ muốn rằng Đức Chúa Trời không tồn tại. Đó là vì kiểu người này liên tục bất tuân và chống đối Đức Chúa Trời; họ chiến đấu với Đức Chúa Trời vì địa vị trong lòng của họ và thường hoài nghi hay thậm chí phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Họ không muốn để tâm tính của Đức Chúa Trời hay chính Đức Chúa Trời thật chiếm ngự lòng họ. Họ chỉ muốn đáp ứng những khao khát, sự tưởng tượng, và tham vọng của riêng họ. Như vậy, những người này có thể tin Đức Chúa Trời, theo Đức Chúa Trời, và cũng có thể từ bỏ gia đình, công việc vì Ngài, nhưng họ không bỏ được những con đường tà ác của họ. Một số người thậm chí ăn cắp hoặc hoang phí các của lễ, hay nguyền rủa Đức Chúa Trời trong âm thầm, trong khi những người khác thì có thể dùng vị trí của họ để hết lần này đến lần khác tự chứng thực, tự phóng đại bản thân họ, tranh giành con người và địa vị với Đức Chúa Trời. Họ dùng những biện pháp và phương pháp khác nhau để làm cho mọi người thờ phượng họ, liên tục cố gắng giành lấy mọi người và kiểm soát họ. Một số người thậm chí còn cố ý lường gạt để mọi người nghĩ rằng họ là Đức Chúa Trời, để họ có thể được đối đãi như Đức Chúa Trời. Họ sẽ không bao giờ nói với ai rằng họ đã bị bại hoại – rằng họ cũng sa ngã và kiêu ngạo, đừng thờ phượng họ, và rằng bất kể họ làm tốt như thế nào, thì tất cả đều là bởi sự đề cao của Đức Chúa Trời và rằng dù sao thì họ cũng đang làm điều họ phải làm. Tại sao họ không nói những điều này? Bởi vì họ vô cùng lo sợ đánh mất vị trí của họ trong lòng mọi người. Đây là lý do tại sao những người như thế không bao giờ tán tụng Đức Chúa Trời và không bao giờ làm chứng cho Đức Chúa Trời, bởi họ chưa bao giờ cố gắng hiểu Đức Chúa Trời. Họ có thể biết Đức Chúa Trời mà không hiểu Ngài không? Không thể! Như vậy, mặc dù những lời trong đề tài “công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời” có thể đơn giản, nhưng chúng lại có những ý nghĩa khác nhau đối với mỗi người. Đối với người thường xuyên bất tuân Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời, và thù địch Đức Chúa Trời, những lời ấy là điềm báo sự kết án; trong khi người theo đuổi thực tế của lẽ thật và thường đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời thì sẽ như cá gặp nước khi nghe những lời ấy. Như vậy trong số các ngươi có những người mà, khi họ nghe nói về tâm tính Đức Chúa Trời và công tác của Đức Chúa Trời, họ bắt đầu cảm thấy nhức đầu, lòng họ đầy sự kháng cự, và họ trở nên cực kỳ không thoải mái. Nhưng có những người khác trong các ngươi thì cảm thấy rằng đề tài này chính là thứ họ cần, bởi vì nó rất bổ ích cho họ. Nó là điều không thể thiếu trong trải nghiệm sống của họ; nó là mấu chốt của mấu chốt, nền tảng của đức tin nơi Đức Chúa Trời, và là điều nhân loại không thể từ bỏ. Đối với hết thảy các ngươi, đề tài này có thể dường như vừa gần lại vừa xa, chưa biết tới nhưng lại quen thuộc. Nhưng dù thế nào, đây cũng là đề tài mà mọi người phải lắng nghe, phải biết, và phải hiểu. Cho dù ngươi đối phó với nó như thế nào, cho dù ngươi nhìn nhận nó như thế nào, hay ngươi hiểu nó ra sao, thì cũng không thể lơ là tầm quan trọng của đề tài này.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 21
Đức Chúa Trời đã và đang làm công tác của Ngài kể từ khi Ngài tạo ra nhân loại. Vào lúc khởi đầu, đó là một công tác rất đơn giản, nhưng dù đơn giản, nó chứa đựng những sự bày tỏ về thực chất và tâm tính của Đức Chúa Trời. Mặc dù công tác của Đức Chúa Trời giờ đây đã được nâng tầm, và công tác này trên mỗi người theo Ngài đã trở nên lớn lao và cụ thể, với sự bày tỏ tuyệt vời của lời Ngài, thân vị của Đức Chúa Trời xuyên khắp đã ẩn đi khỏi nhân loại. Mặc dù Ngài đã được nhập thể hai lần, từ thời của những bản ghi chép Kinh Thánh cho đến những ngày hiện đại, ai đã từng thấy thân vị thật của Đức Chúa Trời? Dựa trên sự hiểu biết của các ngươi, có bất kỳ ai từng thấy thân vị thật của Đức Chúa Trời chưa? Chưa. Chưa ai từng thấy thân vị thật của Đức Chúa Trời cả, nghĩa là chưa ai từng thấy bản ngã thật của Đức Chúa Trời. Đây là điều mọi người đều đồng ý. Nói thế nghĩa là, thân vị thật của Đức Chúa Trời, hay Thần của Đức Chúa Trời, được che giấu khỏi toàn nhân loại, kể cả A-đam và Ê-va, những người mà Ngài đã tạo nên, và kể cả Gióp công chính, người mà Ngài đã chấp nhận. Không ai trong số họ đã nhìn thấy thân vị thật của Đức Chúa Trời. Nhưng tại sao Đức Chúa Trời lại chủ tâm che giấu thân vị thật của Ngài? Một số người nói: “Đức Chúa Trời e là sẽ làm con người sợ hãi”. Những người khác thì nói: “Đức Chúa Trời giấu đi thân vị thật của Ngài bởi vì con người quá nhỏ bé và Đức Chúa Trời thì quá vĩ đại; con người không thể nhìn thấy Ngài, nếu không họ sẽ chết”. Cũng có những người nói rằng: “Đức Chúa Trời bận quản lý công tác của Ngài mỗi ngày, và Ngài có thể không có thời gian để xuất hiện hầu cho mọi người có thể thấy Ngài”. Cho dù các ngươi tin như thế nào thì Ta cũng có một kết luận ở đây. Kết luận ấy là gì? Đó là Đức Chúa Trời đơn giản là không muốn mọi người thấy thân vị thật của Ngài. Ẩn đi khỏi nhân loại là điều Đức Chúa Trời làm một cách có chủ ý. Nói cách khác, ý định của Đức Chúa Trời là để cho con người không nhìn thấy thân vị thật của Ngài. Điều này nên rõ ràng với mọi người vào lúc này. Nếu Đức Chúa Trời chưa bao giờ tỏ lộ thân vị của Ngài với bất kỳ ai, vậy thì các ngươi nghĩ thân vị của Đức Chúa Trời có hiện hữu không? (Ngài có hiện hữu). Dĩ nhiên Ngài có. Sự hiện hữu của thân vị Đức Chúa Trời là không chút nghi ngờ. Nhưng đối với việc thân vị của Đức Chúa Trời vĩ đại như thế nào hay Ngài trông ra sao, đây có phải là những câu hỏi mà nhân loại nên điều tra không? Không. Câu trả lời là không. Nếu thân vị của Đức Chúa Trời không phải là một đề tài mà chúng ta nên khám phá, vậy thì cái gì mới phải? (Tâm tính của Đức Chúa Trời). (Công tác của Đức Chúa Trời). Tuy nhiên, trước khi bắt đầu thông công về đề tài chính, chúng ta hãy quay lại điều vừa mới thảo luận: Tại sao Đức Chúa Trời không bao giờ tỏ lộ thân vị Ngài với nhân loại? Tại sao Đức Chúa Trời lại cố ý ẩn giấu thân vị của Ngài khỏi nhân loại? Chỉ có một lý do, và đó là: Mặc dù con người mà Đức Chúa Trời tạo dựng đã trải nghiệm hàng ngàn năm công tác của Ngài, vẫn không một người nào biết công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và thực chất của Đức Chúa Trời. Trong mắt Đức Chúa Trời, những người như thế là đối lập với Ngài, và Đức Chúa Trời sẽ không cho những người thù nghịch với Ngài thấy Ngài. Đây là lý do duy nhất khiến Đức Chúa Trời chưa bao giờ tỏ lộ thân vị của Ngài với nhân loại và tại sao Ngài lại chủ ý che đậy thân vị của Ngài trước con người. Bây giờ tầm quan trọng của việc biết tâm tính Đức Chúa Trời đã rõ ràng với các ngươi chưa?
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 22
Từ lúc tồn tại việc quản lý của Đức Chúa Trời, Ngài đã luôn toàn tâm thực hiện công tác của Ngài. Cho dù che giấu thân vị của Ngài khỏi con người, Ngài luôn bên cạnh con người, làm công tác trên con người, bày tỏ tâm tính Ngài, hướng dẫn toàn nhân loại với thực chất của Ngài, và làm công tác của Ngài ở mỗi một con người thông qua sự toàn năng, sự khôn ngoan, và thẩm quyền của Ngài, nhờ đó làm nên Thời đại Luật pháp, Thời đại Ân điển, và Thời đại Vương quốc của ngày nay. Mặc dù Đức Chúa Trời che giấu thân vị Ngài khỏi con người, nhưng tâm tính của Ngài, hữu thể của Ngài, những vật sở hữu của Ngài, và ý muốn của Ngài đối với nhân loại được tỏ lộ một cách cởi mở cho con người để con người nhìn thấy và trải nghiệm. Nói cách khác, mặc dù nhân loại không thể thấy hay chạm Đức Chúa Trời, tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời mà nhân loại gặp phải tuyệt đối là những sự bày tỏ của chính Đức Chúa Trời. Chẳng phải đó là sự thật sao? Bất kể cách thức hay góc độ tiếp cận mà Đức Chúa Trời chọn cho công tác của Ngài, Ngài luôn đối đãi với con người thông qua thân phận thật của Ngài, làm công tác trong phận sự của Ngài, và phán những lời Ngài buộc phải phán. Cho dù Đức Chúa Trời phán từ vị trí nào – Ngài có thể đứng ở tầng trời thứ ba, hay đứng trong xác thịt, hay thậm chí như một người bình thường – Ngài luôn phán với con người bằng cả tấm lòng Ngài và cả tâm trí Ngài, không chút dối trá hay che đậy. Khi Đức Chúa Trời thực hiện công tác của mình, Ngài bày tỏ lời Ngài và tâm tính Ngài, và bày tỏ Ngài có gì và là gì, không chút e dè nào cả. Ngài hướng dẫn nhân loại bằng sự sống của Ngài, bằng hữu thể và những vật sở hữu của Ngài. Đây là cách con người sống suốt Thời đại Luật pháp – thuở nằm nôi của nhân loại – dưới sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời “không thể thấy được và không thể chạm được”.
Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt lần đầu tiên sau Thời đại Luật pháp – một sự nhập thể kéo dài ba mươi ba năm rưỡi. Đối với một con người, ba mươi ba năm rưỡi có là khoảng thời gian dài không? (Không dài). Bởi tuổi thọ của con người thường dài hơn nhiều so với ba mươi mấy năm, đây không phải là một khoảng thời gian quá dài với con người. Nhưng đối với Đức Chúa Trời nhập thể, ba mươi ba năm rưỡi này quả thật là dài. Ngài đã trở thành một con người – một con người bình thường đảm nhận công tác và sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời. Điều này nghĩa là Ngài đã phải đảm đương công tác mà một người bình thường không thể xử lý, đồng thời cũng chịu sự đau khổ mà những người bình thường không thể chịu được. Mức đau khổ mà Đức Chúa Jêsus đã chịu trong Thời đại Ân điển, từ lúc bắt đầu công tác của Ngài đến khi Ngài bị đóng đinh lên cây thập tự, có thể không phải là điều con người ngày nay có thể đích thân chứng kiến, nhưng chí ít, chẳng lẽ các ngươi không thể có được ý tưởng nào về điều đó thông qua những câu chuyện trong Kinh Thánh sao? Bất kể có bao nhiêu chi tiết trong những sự kiện được ghi chép này thì nhìn chung, công tác của Đức Chúa Trời trong khoảng thời gian này đầy gian truân và đau khổ. Đối với một con người bại hoại, ba mươi ba năm rưỡi không phải là thời gian dài; chút đau khổ chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng đối với Đức Chúa Trời thánh khiết, không chút vết nhơ, Đấng đã phải chịu đựng toàn bộ tội lỗi của nhân loại, và ăn, uống, sống với những kẻ tội lỗi, nỗi đau này to lớn đến không tưởng. Ngài là Đấng Tạo Hóa, Đấng Tối Cao của muôn vật và Đấng Thống Trị mọi sự, ấy thế mà khi Ngài đến thế gian, Ngài đã phải chịu sự áp bức và tàn ác của những con người bại hoại. Để hoàn thành công tác của Ngài và giải cứu nhân loại khỏi bể khổ, Ngài đã phải bị con người kết án và gánh tội cho toàn nhân loại. Mức độ đau khổ mà Ngài đã trải qua là không thể hiểu thấu, cũng không thể nhận thức rõ đối với những người bình thường. Sự đau khổ này đại diện cho điều gì? Nó đại diện cho sự tận tụy của Đức Chúa Trời với nhân loại. Nó đại diện cho sự nhục mạ mà Ngài đã chịu và cái giá mà Ngài đã trả vì sự cứu rỗi con người, để chuộc tội cho họ, và để hoàn thành giai đoạn này của công tác của Ngài. Nó cũng có nghĩa là con người sẽ được Đức Chúa Trời cứu chuộc khỏi cây thập tự. Đây là cái giá được trả bằng máu, bằng sự sống, và là một cái giá mà không tạo vật nào có khả năng trả được. Chính bởi vì Ngài có thực chất của Đức Chúa Trời và sở hữu những gì Đức Chúa Trời có và là mà Ngài có thể chịu đựng dạng đau khổ này và làm dạng công tác này. Đây là điều không hữu thể nào do Ngài tạo dựng có thể làm được thay cho Ngài. Đây là công tác của Đức Chúa Trời trong Thời đại Ân điển và là sự mặc khải về tâm tính Ngài. Điều này có tỏ lộ bất cứ điều gì về việc Đức Chúa Trời có gì và là gì không? Điều này có đáng để nhân loại biết không? Vào thời đại đó, mặc dù con người không nhìn thấy thân vị của Đức Chúa Trời nhưng họ đã nhận lãnh của lễ chuộc tội của Đức Chúa Trời và được Đức Chúa Trời cứu chuộc khỏi cây thập tự. Nhân loại có thể không xa lạ với công tác mà Đức Chúa Trời đã làm trong Thời đại Ân điển, nhưng có ai quen thuộc với tâm tính và ý muốn mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ trong khoảng thời gian đó không? Con người chỉ biết về những chi tiết trong công tác của Đức Chúa Trời qua những thời đại khác nhau và thông qua những kênh khác nhau, hoặc biết những câu chuyện liên quan đến Đức Chúa Trời đã diễn ra vào cùng lúc Đức Chúa Trời thực hiện công tác của Ngài. Những chi tiết và câu chuyện này cùng lắm chỉ là thông tin hay truyền thuyết nào đó về Đức Chúa Trời và không liên quan gì đến tâm tính và thực chất Đức Chúa Trời. Như vậy cho dù con người biết được bao nhiêu chuyện về Đức Chúa Trời, điều đó không có nghĩa rằng họ có sự hiểu biết và kiến thức sâu sắc về tâm tính của Đức Chúa Trời hay thực chất của Ngài. Cũng như trong Thời đại Luật pháp, mặc dù con người trong Thời đại Ân điển đã trải nghiệm sự gặp gỡ trực tiếp và mật thiết với Đức Chúa Trời trong xác thịt, kiến thức của họ về tâm tính Đức Chúa Trời và thực chất của Đức Chúa Trời hầu như không tồn tại.
Trong Thời đại Vương quốc, Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt một lần nữa, theo cùng một cách mà Ngài đã làm vào lần đầu. Trong khoảng thời gian công tác này, Đức Chúa Trời vẫn cởi mở bày tỏ lời Ngài, làm công tác mà Ngài buộc phải làm, và bày tỏ Ngài có gì và là gì. Đồng thời, Ngài tiếp tục chịu đựng và dung thứ cho sự bất tuân và ngu xuẩn của con người. Chẳng phải Đức Chúa Trời cũng liên tục tỏ lộ tâm tính của Ngài và bày tỏ ý muốn của Ngài trong khoảng thời gian công tác này sao? Vì lẽ ấy, từ khi tạo dựng con người cho đến bây giờ, tâm tính của Đức Chúa Trời, hữu thể và những sự sở hữu của Ngài, và ý muốn của Ngài luôn cởi mở với mọi người. Đức Chúa Trời chưa bao giờ chủ ý giấu đi thực chất của Ngài, tâm tính của Ngài, hay ý muốn của Ngài. Chỉ là nhân loại không quan tâm về việc Đức Chúa Trời đang làm gì, ý muốn của Ngài là gì – đó là lý do tại sao con người có sự hiểu biết kém cỏi như thế về Đức Chúa Trời. Nói cách khác, mặc dù Đức Chúa Trời che giấu thân vị của Ngài, Ngài cũng đứng bên con người trong mọi khoảnh khắc, phản chiếu rõ ý muốn, tâm tính và bản thể của Ngài vào mọi lúc một cách cởi mở. Theo một ý nghĩa nào đó, thân vị của Đức Chúa Trời cũng cởi mở với con người, nhưng do sự mù quáng và bất tuân của con người, họ không bao giờ có thể thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời. Như thế nếu đúng là vậy thì có phải việc hiểu về tâm tính Đức Chúa Trời và chính Đức Chúa Trời là không dễ đối với mọi người sao? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời, phải không? Ngươi có thể nói rằng điều này dễ dàng, nhưng mặc dù một số người cố gắng để biết Đức Chúa Trời, họ không thể thật sự biết được Ngài hay có được sự hiểu biết rõ ràng về Ngài – điều này luôn mù mịt và mơ hồ. Nhưng nếu ngươi nói rằng không dễ thì cũng không đúng. Đã là đối tượng cho công tác của Đức Chúa Trời lâu như vậy, thì thông qua trải nghiệm của mình, mọi người hẳn đã có được những sự giao thiệp đích thực với Đức Chúa Trời. Họ chí ít đã cảm nhận Đức Chúa Trời ở một mức độ nào đó trong lòng mình, hay đã có một sự va chạm thuộc linh với Đức Chúa Trời, và họ chí ít đã có sự nhận biết sâu sắc nào đó về tâm tính Đức Chúa Trời hay đạt được sự hiểu biết nào đó về Ngài. Từ lúc con người bắt đầu theo Đức Chúa Trời cho đến nay, nhân loại đã nhận lãnh quá nhiều, nhưng bởi đủ mọi nguyên do – tố chất kém cỏi, sự ngu dốt, phản nghịch, và những ý định khác nhau của con người – mà nhân loại cũng đã tổn thất rất nhiều. Chẳng lẽ Đức Chúa Trời chưa ban cho nhân loại đủ sao? Mặc dù Đức Chúa Trời giấu đi thân vị của Ngài khỏi nhân loại, Ngài chu cấp cho nhân loại với việc Ngài có gì và là gì, và sự sống của Ngài; kiến thức của nhân loại về Đức Chúa Trời không nên chỉ như những gì trong hiện tại. Đó là lý do tại sao Ta nghĩ rằng cần phải thông công thêm với các ngươi về chủ đề công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời. Mục đích là để hàng ngàn năm chăm sóc và quan tâm mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người không kết thúc cách vô ích, và để nhân loại có thể thật sự hiểu và cảm kích ý muốn của Đức Chúa Trời đối với họ. Điều này là để con người có thể tiến tới một giai đoạn mới trong kiến thức của mình về Đức Chúa Trời. Nó cũng sẽ đưa Đức Chúa Trời về lại vị trí thật của Ngài trong lòng con người; nghĩa là, công bằng với Ngài.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 23
Sự phán dạy của Đức Chúa Trời với A-đam
Sách sáng thế 2:15-17 Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn. Rồi, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết.
Các ngươi góp nhặt được gì từ những câu này? Phần này của Kinh Thánh khiến các ngươi cảm thấy thế nào? Tại sao Ta lại quyết định nói về sự phán dạy của Đức Chúa Trời với A-đam? Mỗi người trong các ngươi giờ đây có hình tượng về Đức Chúa Trời và A-đam trong trí mình không? Các ngươi có thể thử tưởng tượng: Nếu các ngươi là người trong cảnh tượng đó, thì tận sâu thẳm, các ngươi nghĩ Đức Chúa Trời sẽ như thế nào? Việc suy nghĩ về điều này khiến các ngươi cảm thấy ra sao? Đây là một bức tranh cảm động và ấm lòng. Mặc dù chỉ có Đức Chúa Trời và con người trong đó, sự mật thiết giữa họ khiến ngươi đầy cảm giác ngưỡng mộ: Tình yêu tràn đầy của Đức Chúa Trời được ban một cách tự do trên con người và vây lấy con người; con người ngây thơ và tinh sạch, không vướng bận và vô tư, sống sung sướng dưới mắt Đức Chúa Trời; Đức Chúa Trời thể hiện sự quan tâm đối với con người, trong khi con người thì sống dưới sự bảo vệ và phúc lành của Đức Chúa Trời; mỗi một điều con người làm và nói đều liên kết chặt chẽ và không thể tách khỏi Đức Chúa Trời.
Đây có thể được gọi là sự phán dạy đầu tiên của Đức Chúa Trời với con người sau khi tạo ra họ. Sự phán dạy này truyền đạt điều gì? Nó truyền đạt ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng cũng có cả những sự lo lắng của Ngài đối với nhân loại. Đây là sự phán dạy đầu tiên của Đức Chúa Trời, và cũng là lần đầu Đức Chúa Trời bày tỏ sự lo lắng đối với con người. Nói thế nghĩa là, Đức Chúa Trời đã cảm thấy một trách nhiệm đối với con người kể từ thời khắc Ngài tạo ra họ. Trách nhiệm của Ngài là gì? Ngài phải bảo vệ, trông nom con người. Ngài hy vọng con người có thể tin cậy và vâng lời Ngài. Đây cũng là sự kỳ vọng đầu tiên của Đức Chúa Trời về con người. Chính với sự kỳ vọng này mà Đức Chúa Trời phán như sau: “Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết”. Những lời đơn giản này đại diện cho ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúng cũng tỏ lộ rằng, trong lòng Ngài, Đức Chúa Trời đã bắt đầu thể hiện sự quan tâm lo lắng đối với con người. Trong muôn vật, chỉ A-đam được làm nên theo hình tượng của Đức Chúa Trời; A-đam là sinh vật sống duy nhất với hơi thở sự sống của Đức Chúa Trời; ông có thể đi dạo cùng Đức Chúa Trời, trò chuyện cùng Đức Chúa Trời. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời ban cho ông sự phán dạy này. Đức Chúa Trời đã nói rất rõ con người có thể và không thể làm gì trong sự phán dạy của Ngài.
Trong vài lời đơn giản này, chúng ta thấy được lòng Đức Chúa Trời. Nhưng nỗi lòng nào được tỏ bày? Có tình yêu trong lòng Đức Chúa Trời không? Có sự quan tâm lo lắng không? Trong những câu này, tình yêu và sự quan tâm của Đức Chúa Trời không chỉ có thể được nhận thức rõ, mà còn có thể được cảm nhận một cách mật thiết. Các ngươi không đồng ý sao? Sau khi nghe Ta nói điều này, các ngươi vẫn nghĩ rằng đây chỉ là vài lời đơn giản ư? Suy cho cùng thì chúng không đơn giản, phải không? Các ngươi có nhận biết về điều này trước kia không? Nếu Đức Chúa Trời đích thân nói với ngươi vài lời này, trong ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Nếu ngươi không phải là một con người nhân đức, nếu lòng ngươi lạnh như băng, thì ngươi sẽ không cảm thấy gì, ngươi sẽ không cảm kích tình yêu của Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ không cố gắng hiểu lòng Đức Chúa Trời. Nhưng khi là một người có lương tâm và ý thức về nhân tính, ngươi sẽ cảm nhận khác. Ngươi sẽ cảm nhận sự ấm áp, ngươi sẽ cảm nhận được chăm sóc và yêu thương, và ngươi sẽ cảm thấy hạnh phúc. Điều đó không đúng sao? Khi ngươi cảm nhận những điều này, ngươi sẽ hành động thế nào với Đức Chúa Trời? Ngươi sẽ cảm thấy gắn bó với Đức Chúa Trời chứ? Ngươi sẽ yêu thương và kính trọng Đức Chúa Trời từ đáy lòng mình chứ? Lòng ngươi sẽ trở nên gần gũi hơn với Đức Chúa Trời chứ? Từ điều này ngươi có thể thấy tình yêu của Đức Chúa Trời quan trọng với con người như thế nào. Nhưng điều thậm chí còn quan trọng hơn chính là sự cảm kích và thấu hiểu của con người đối với tình yêu của Đức Chúa Trời. Thực ra, chẳng phải Đức Chúa Trời nói rất nhiều điều tương tự trong giai đoạn công tác này của Ngài sao? Ngày nay có những người cảm kích lòng Đức Chúa Trời không? Các ngươi có thể cảm kích ý muốn của Đức Chúa Trời mà Ta vừa nói đến không? Các ngươi không thể thật sự cảm kích ý muốn của Đức Chúa Trời khi nó cụ thể, hữu hình và thật như thế này. Đó là lý do tại sao Ta nói các ngươi không có kiến thức và sự hiểu biết thật về Đức Chúa Trời. Điều này không thật sao?
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 24
Đức Chúa Trời tạo ra Ê-va
Sách sáng thế 2:18-20 Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lấy đất nắn nên các loài thú đồng, các loài chim trời, rồi dẫn đến trước mặt A-đam đặng thử xem người đặt tên chúng nó làm sao, hầu cho tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó. A-đam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần A-đam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết.
Sách sáng thế 2:22-23 Giê-hô-va Ðức Chúa Trời dùng xương sường đã lấy nơi A-đam làm nên một người nữ, đưa đến cùng A-đam. A-đam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có.
Có một dòng chính trong phần này của Kinh Thánh: “tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó”. Như vậy, ai đã đặt tên cho hết thảy các sinh vật sống? Đó là A-đam, không phải Đức Chúa Trời. Dòng này nói với nhân loại một thực tế: Đức Chúa Trời đã ban cho con người trí thông minh khi Ngài tạo nên họ. Nói thế nghĩa là, trí thông minh của con người đến từ Đức Chúa Trời. Điều này là chắc chắn. Nhưng tại sao? Sau khi Đức Chúa Trời tạo ra A-đam, A-đam có đi học không? Ông có biết đọc không? Sau khi Đức Chúa Trời tạo ra nhiều sinh vật sống khác nhau, A-đam có nhận ra hết tất cả những sinh vật này không? Đức Chúa Trời có nói với ông tên của chúng là gì không? Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời cũng không dạy ông cách nghĩ ra tên gọi cho các sinh vật này. Đó là sự thật! Vậy thì, làm thế nào A-đam biết cách đặt tên cho những sinh vật này và đặt cho chúng những loại tên nào? Điều này liên quan đến câu hỏi về việc Đức Chúa Trời đã thêm điều gì vào A-đam khi Ngài tạo ra ông. Những thực tế chứng tỏ rằng khi Đức Chúa Trời tạo ra con người, Ngài đã thêm trí thông minh của Ngài vào họ. Đây là một điểm then chốt, do đó hãy lắng nghe kỹ. Cũng có một điểm then chốt nữa mà các ngươi nên hiểu: Sau khi A-đam đặt tên cho những sinh vật sống này, những cái tên này trở nên được thiết lập trong từ vựng của Đức Chúa Trời. Tại sao Ta đề cập điều này? Bởi vì điều này cũng liên quan đến tâm tính của Đức Chúa Trời, và đây là một điểm mà Ta phải trình bày chi tiết thêm nữa.
Đức Chúa Trời đã tạo ra con người, thổi sự sống vào họ, và cũng cho họ chút trí thông minh của Ngài, những khả năng của Ngài, những gì liên quan đến việc Ngài có gì và là gì. Sau khi Đức Chúa Trời đã ban cho con người tất cả những điều này, con người có thể làm một số việc một cách độc lập và tự mình suy nghĩ. Nếu những gì con người đưa ra và thực hiện là tốt trong mắt Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời chấp nhận và không can thiệp. Nếu điều con người làm là đúng, Đức Chúa Trời sẽ để nó như thế. Vậy thì, cụm từ “tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó” biểu thị điều gì? Nó biểu thị rằng Đức Chúa Trời đã không thấy cần phải thay đổi bất kỳ tên nào được đặt cho những sinh vật sống khác nhau. Bất cứ tên gì A-đam gọi một sinh vật, Đức Chúa Trời cũng sẽ nói “Vậy thì là tên đó”, khẳng định tên của sinh vật. Đức Chúa Trời có bày tỏ bất kỳ ý kiến nào về chuyện này không? Không, Ngài hiển nhiên là không. Vậy thì, các ngươi góp nhặt được những gì từ đây? Đức Chúa Trời đã ban cho con người trí thông minh và con người đã dùng trí thông minh Đức Chúa Trời ban để làm mọi việc. Nếu điều con người làm là tích cực trong mắt Đức Chúa Trời, thì nó được khẳng định, công nhận, và chấp nhận bởi Đức Chúa Trời mà không có bất kỳ sự phán xét hay phê bình nào. Đây là điều không con người hay quỷ dữ nào, hay Sa-tan, có thể làm được. Các ngươi có thấy một sự mặc khải về tâm tính Đức Chúa Trời ở đây không? Liệu một con người, một người bại hoại, hay Sa-tan, có cho phép bất kỳ ai khác làm gì đó trên danh nghĩa họ, ngay trước mắt họ không? Dĩ nhiên là không! Liệu họ sẽ chiến đấu giành vị trí này với người hay thế lực khác với họ không? Dĩ nhiên họ sẽ như vậy! Nếu là một người bại hoại hay Sa-tan ở cùng A-đam vào lúc đó, họ hẳn sẽ bác bỏ điều A-đam đang làm. Để chứng tỏ rằng họ có khả năng suy nghĩ độc lập và có những sự hiểu biết sâu sắc độc nhất riêng của mình, họ tuyệt đối sẽ phủ nhận mọi điều A-đam đã làm: “Ông muốn gọi nó thế này à? Ừm, tôi sẽ không gọi như vậy đâu, tôi sẽ gọi nó thế kia; ông gọi nó là Tom nhưng tôi sẽ gọi nó là Harry. Tôi phải chứng tỏ mình thông minh như thế nào”. Đây là dạng bản chất gì? Chẳng phải là kiêu ngạo một cách ngông cuồng sao? Và Đức Chúa Trời thì sao? Ngài có một tâm tính như thế không? Đức Chúa Trời đã có bất kỳ sự phản đối bất thường nào với những gì A-đam làm không? Câu trả lời dứt khoát là không! Trong tâm tính mà Đức Chúa Trời tỏ lộ, không có chút dấu vết nào của tính thích tranh luận, kiêu ngạo, hay tự nên công chính cả. Bấy nhiêu đó là rất rõ ràng ở đây. Điều này có lẽ dường như là một điểm nhỏ nhặt, nhưng nếu ngươi không hiểu thực chất của Đức Chúa Trời, nếu lòng ngươi không cố gắng tìm hiểu cách Đức Chúa Trời hành động và thái độ của Đức Chúa Trời là gì, thì ngươi sẽ không biết tâm tính Đức Chúa Trời hay thấy được sự bày tỏ và mặc khải về tâm tính của Đức Chúa Trời. Chẳng phải như vậy sao? Các ngươi có đồng ý với những gì Ta vừa giải thích với các ngươi không? Đáp lại những hành động của A-đam, Đức Chúa Trời đã không tuyên bố long trọng rằng: “Ngươi đã làm tốt lắm, ngươi đã làm đúng, và Ta đồng ý!” Tuy nhiên, trong lòng Ngài, Đức Chúa Trời đã chấp thuận, cảm kích, và khen ngợi những gì A-đam đã làm. Đây là điều đầu tiên kể từ khi tạo dựng mà con người đã thực hiện cho Đức Chúa Trời theo sự hướng dẫn của Ngài. Đó là điều con người đã làm thay cho Đức Chúa Trời và đại diện cho Ngài. Trong mắt Đức Chúa Trời, điều này nảy sinh từ trí thông minh mà Ngài đã ban trên con người. Đức Chúa Trời đã xem nó như một điều tốt, một điều tích cực. Những gì A-đam đã làm vào lúc đó là biểu hiện đầu tiên của trí thông minh của Đức Chúa Trời nơi con người. Đó là một biểu hiện tốt từ quan điểm của Đức Chúa Trời. Điều Ta muốn nói với các ngươi ở đây là mục tiêu của Đức Chúa Trời trong việc truyền đạt cho con người điều gì đó về việc Ngài có gì và là gì và về trí thông minh của Ngài là hầu cho nhân loại có thể là sinh vật sống biểu hiện cho Ngài. Để cho một sinh vật sống như thế hành động thay cho Ngài chính là điều Đức Chúa Trời đã và đang mong mỏi được nhìn thấy.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 25
Đức Chúa Trời làm áo bằng da thú cho A-đam và Ê-va
Sách sáng thế 3:20-21 A-đam gọi vợ là Ê-va, vì là mẹ của cả loài người. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và mặc lấy cho.
“Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và mặc lấy cho”. Trong khung cảnh này, chúng ta thấy Đức Chúa Trời đóng dạng thân phận gì khi Ngài ở với A-đam và Ê-va? Đức Chúa Trời tỏ hiện chính Ngài theo cách nào, trong thế giới chỉ với hai con người này? Ngài có tỏ hiện chính Ngài trong thân phận của Đức Chúa Trời không? Các anh chị em từ Hong Kong, xin mời trả lời. (Trong thân phận của một bậc phụ huynh). Các anh chị em từ Hàn Quốc, các anh chị em nghĩ Đức Chúa Trời trông như có dạng thân phận nào? (Gia trưởng). Các anh chị em từ Đài Loan nghĩ gì? (Thân phận của một người trong gia đình A-đam và Ê-va, thân phận của một thành viên gia đình). Một số người trong các ngươi nghĩ Đức Chúa Trời có vẻ như một thành viên gia đình của A-đam và Ê-va, trong khi một số khác thì nói Đức Chúa Trời trông có vẻ là gia trưởng của gia đình và những người khác thì nói như một bậc phụ huynh. Tất cả đều rất thích hợp. Nhưng các ngươi có thấy Ta đang hướng đến điều gì không? Đức Chúa Trời đã tạo ra hai người này và đối đãi với họ như bạn đồng hành của Ngài. Là gia đình duy nhất của họ, Đức Chúa Trời đã trông nom cuộc sống của họ và chăm sóc những nhu cầu ăn, mặc và ở cho họ. Ở đây, Đức Chúa Trời tỏ ra như một bậc phụ huynh của A-đam và Ê-va. Khi Đức Chúa Trời làm điều này, con người không thấy Đức Chúa Trời cao trọng như thế nào; họ không thấy được quyền tối cao của Đức Chúa Trời, lẽ mầu nhiệm của Ngài, và đặc biệt không thấy sự thạnh nộ hay oai nghi của Ngài. Tất cả những gì họ thấy là sự khiêm nhường của Đức Chúa Trời, tình cảm của Ngài, sự quan tâm của Ngài đối với con người cũng như trách nhiệm và sự chăm sóc của Ngài đối với họ. Thái độ và cách thức Đức Chúa Trời đối đãi với A-đam và Ê-va giống với cách những bậc cha mẹ thể hiện sự quan tâm với con cái mình. Nó cũng giống như cách cha mẹ yêu thương, trông nom, và chăm sóc các con trai và con gái của họ – chân thật, rõ ràng, và hữu hình. Thay vì nâng chính Ngài lên một vị trí cao và toàn năng, Đức Chúa Trời lại đích thân dùng da thú để làm áo cho con người. Chẳng quan trọng việc liệu chiếc áo khoác lông thú này được dùng để che đi sự e lệ của họ hay che chắn cho họ khỏi cái lạnh, mà điều quan trọng là chiếc áo dùng để che thân cho con người được đích thân Đức Chúa Trời tự tay làm. Thay vì đơn thuần hô biến ra chiếc áo hay dùng cách thần diệu nào đó, như con người có thể tưởng tượng Đức Chúa Trời sẽ làm, Đức Chúa Trời lại chính thức làm điều mà con người nghĩ Đức Chúa Trời sẽ không và không nên làm. Điều này có lẽ dường như là một thứ không đáng kể – một số người có lẽ thậm chí không nghĩ rằng nó đáng đề cập đến – nhưng nó cho phép bất kỳ ai theo Đức Chúa Trời mà lại bị ngăn trở bởi những khái niệm mơ hồ về Ngài có được hiểu biết sâu sắc về sự chân thật và đáng mến của Ngài, thấy được sự tận tụy và khiêm nhường của Ngài. Nó làm cho những kẻ kiêu ngạo một cách không thể chịu được, nghĩ mình cao trọng và phi thường, phải cúi cái đầu đầy tự phụ của mình trong hổ thẹn khi đối diện với sự chân thật và khiêm nhường của Đức Chúa Trời. Ở đây, sự chân thật và khiêm nhường của Đức Chúa Trời càng cho phép con người thấy Ngài đáng mến như thế nào. Trái lại, Đức Chúa Trời “bao la”, Đức Chúa Trời “đáng mến”, và Đức Chúa Trời “có quyền tuyệt đối” mà con người giữ trong lòng đã trở nên tầm thường và xấu xí, và mong manh dễ sụp đổ. Khi ngươi thấy câu này và nghe câu chuyện này, ngươi có xem thường Đức Chúa Trời bởi Ngài đã làm một điều như thế không? Một số người có thể như vậy, nhưng những người khác thì sẽ có phản ứng ngược lại. Họ sẽ nghĩ Đức Chúa Trời chân thật và đáng mến, và chính sự chân thật và đáng mến của Đức Chúa Trời đã khiến họ cảm động. Càng thấy phương diện thật của Đức Chúa Trời, họ càng cảm kích sự hiện hữu thật của tình yêu của Đức Chúa Trời, tầm quan trọng của Đức Chúa Trời trong lòng họ, và cách Ngài đứng bên cạnh họ trong mọi khoảnh khắc.
Bây giờ, chúng ta hãy liên hệ những thảo luận của chúng ta với hiện tại. Nếu Đức Chúa Trời có thể làm đủ loại những điều nhỏ nhặt này cho con người mà Ngài đã tạo ngay từ đầu, thậm chí những điều mà con người không bao giờ dám nghĩ tới hay kỳ vọng, vậy thì Đức Chúa Trời có thể làm những điều như thế với con người ngày nay không? Một số người nói “Có!” Tại sao lại như vậy? Bởi vì thực chất của Đức Chúa Trời không ngụy tạo, và sự đáng mến của Ngài không ngụy tạo. Thực chất của Đức Chúa Trời thật sự tồn tại và không phải là điều được những người khác thêm vào, và hiển nhiên không phải là điều có thể thay đổi theo thời gian, nơi chốn và kỷ nguyên khác nhau. Sự chân thật và đáng mến của Đức Chúa Trời có thể thật sự được tỏ rõ bằng cách duy nhất là làm điều gì đó mà con người nghĩ là không đáng kể và không quan trọng – điều gì đó thật tầm thường đến nỗi con người thậm chí không nghĩ Ngài có bao giờ làm tới. Đức Chúa Trời không tỏ ra đạo mạo. Không có sự phóng đại, trá hình, tự cao, hay kiêu ngạo trong tâm tính và thực chất của Ngài. Ngài không bao giờ huênh hoang, mà thay vào đó là yêu thương, thể hiện sự quan tâm, trông nom, và dẫn dắt, với sự tận tụy và chân thành, với nhân loại mà Ngài đã tạo nên. Cho dù con người có thể cảm kích, cảm nhận hay nhìn thấy những việc Đức Chúa Trời làm ít ỏi như thế nào, Ngài chắc chắn cũng đang làm. Liệu việc biết rằng Đức Chúa Trời có một thực chất như thế có ảnh hưởng đến tình yêu của con người đối với Ngài không? Liệu nó có ảnh hưởng đến sự kính sợ của họ với Đức Chúa Trời không? Ta hy vọng khi ngươi hiểu phương diện thật của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ càng trở nên gần gũi với Ngài hơn và có thể thật sự cảm kích tình yêu và sự chăm sóc của Ngài với nhân loại hơn, cũng như có thể dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời và được giải cứu khỏi những sự ngờ vực và hoài nghi về Ngài. Đức Chúa Trời đang âm thầm làm mọi thứ cho con người, làm mọi thứ trong thầm lặng thông qua sự chân thành, tận tụy và tình yêu của Ngài. Nhưng Ngài chưa bao giờ có bất kỳ sự e sợ hay hối tiếc nào đối với bất kỳ điều gì Ngài làm, Ngài cũng không bao giờ cần bất kỳ ai đáp trả cho Ngài theo bất kỳ cách nào hay có ý định đạt lấy bất kỳ điều gì từ nhân loại. Mục đích duy nhất của mọi việc Ngài từng làm là để Ngài có thể nhận được đức tin và tình yêu thương đích thực của nhân loại.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 26
Đức Chúa Trời dự định hủy diệt thế gian bằng một trận lụt và hướng dẫn Nô-ê đóng tàu
Sách sáng thế 6:9-14 Nầy là dòng dõi của Nô-ê. Nô-ê trong đời mình là một người công bình và toàn vẹn, đồng đi cùng Ðức Chúa Trời. Nô-ê sanh ba con trai là Sem, Cham và Gia-phết. Thế gian bấy giờ đều bại hoại trước mặt Ðức Chúa Trời và đầy dẫy sự hung ác. Nầy, Ðức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy điều bại hoại, vì hết thảy xác thịt làm cho đường mình trên đất phải bại hoại. Ðức Chúa Trời bèn phán cùng Nô-ê rằng: Kỳ cuối cùng của mọi xác thịt đã đưa đến trước mặt ta; vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy, ta sẽ diệt-trừ họ cùng đất. Ngươi hãy đóng một chiếc tàu bằng cây gô-phe, đóng có từng phòng, rồi trét chai bề trong cùng bề ngoài.
Sách sáng thế 6:18-22 Nhưng ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, rồi ngươi và vợ, các con và các dâu của ngươi, đều hãy vào tàu. Về các loài sanh vật, ngươi hãy dẫn xuống tàu mỗi loài một cặp, có đực có cái, có trống có mái, hầu cho ở cùng ngươi đặng giữ tròn sự sống; chim tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng tùy theo loại, mỗi thứ hai con, sẽ đến cùng ngươi, để ngươi giữ tròn sự sống cho. Lại, ngươi hãy lấy các thứ đồ ăn đem theo, đặng để dành làm lương thực cho ngươi và các loài đó. Nô-ê làm các điều nầy y như lời Ðức Chúa Trời đã phán dặn.
Bây giờ các ngươi đã có sự hiểu biết tổng quát về việc Nô-ê là ai sau khi đọc hai đoạn này chưa? Nô-ê là dạng người gì? Văn bản gốc ghi là: “Nô-ê trong đời mình là một người công bình và toàn vẹn”. Theo sự hiểu biết của những người hiện đại, dạng người nào là “người công bình” vào thời đó? Một người công bình phải là một người toàn vẹn. Các ngươi có biết liệu con người toàn vẹn này là toàn vẹn trong mắt con người, hay toàn vẹn trong mắt Đức Chúa Trời không? Chắc chắn rằng, con người toàn vẹn này là một người toàn vẹn trong mắt Đức Chúa Trời chứ không phải trong mắt con người. Điều này là chắc chắn! Đây là bởi con người mù quáng và không thể nhìn thấy, và chỉ Đức Chúa Trời mới nhìn khắp thế gian và mỗi một con người, và chỉ Đức Chúa Trời mới biết rằng Nô-ê là một người toàn vẹn. Vì lẽ ấy, kế hoạch hủy diệt thế gian bằng một trận lụt của Đức Chúa Trời bắt đầu từ khoảnh khắc Ngài triệu gọi Nô-ê.
(…)
Việc Nô-ê được triệu gọi là một thực tế đơn giản, nhưng điểm chính của điều chúng ta đang nói đến – tâm tính Đức Chúa Trời, ý muốn của Ngài, và thực chất của Ngài qua việc này – thì không đơn giản cho lắm. Để hiểu một số phương diện này của Đức Chúa Trời, chúng ta trước hết phải hiểu dạng người mà Đức Chúa Trời mong muốn triệu gọi, và thông qua điều này, hiểu tâm tính, ý muốn, và thực chất của Ngài. Điều này là rất cần thiết. Như vậy trong mắt Đức Chúa Trời, con người mà Ngài triệu gọi này thuộc dạng người nào? Đây phải là một người có thể lắng nghe lời Ngài và có thể theo những hướng dẫn của Ngài. Đồng thời, đây cũng phải là một người có ý thức trách nhiệm, người sẽ thực hiện lời Đức Chúa Trời bằng cách coi đó như trách nhiệm và bổn phận mà họ buộc phải làm tròn. Vậy thì người này có cần phải là ai đó biết Đức Chúa Trời không? Không. Vào thời đó, Nô-ê đã chưa nghe được nhiều về những lời giáo huấn của Đức Chúa Trời hay đã trải nghiệm bất kỳ công tác nào của Đức Chúa Trời. Vì lẽ ấy, Nô-ê đã có rất ít kiến thức về Đức Chúa Trời. Mặc dù ở đây ghi chép rằng Nô-ê đã đi cùng Đức Chúa Trời, ông có bao giờ thấy bản thể của Đức Chúa Trời không? Câu trả lời chắc chắn là không! Bởi vì vào thời ấy, chỉ các sứ giả của Đức Chúa Trời đến giữa con người. Mặc dù họ có thể đại diện cho Đức Chúa Trời để phán và làm việc, họ chỉ đơn thuần truyền đạt ý muốn của Đức Chúa Trời và những ý định của Ngài. Bản thể của Đức Chúa Trời không được tỏ lộ mặt đối mặt với con người. Trong phần này của Kinh Thánh, về cơ bản thì tất cả những gì chúng ta thấy là điều Nô-ê đã phải làm và điều Đức Chúa Trời đã hướng dẫn ông. Như vậy thực chất được Đức Chúa Trời bày tỏ ở đây là gì? Mọi điều Đức Chúa Trời làm đều được lên kế hoạch chính xác. Khi Ngài thấy một việc hay một tình huống xuất hiện, trong mắt Ngài, có một tiêu chuẩn để đo lường nó, và tiêu chuẩn này quyết định liệu Ngài sẽ đưa ra một kế hoạch để xử lý nó hay sẽ dùng phương pháp nào để xử lý việc này hay tình huống này. Ngài không lãnh đạm hay vô cảm đối với mọi thứ. Thật ra là đối lập hoàn toàn. Có một câu ở đây tuyên bố điều Đức Chúa Trời đã phán với Nô-ê: “Kỳ cuối cùng của mọi xác thịt đã đưa đến trước mặt ta; vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy, ta sẽ diệt-trừ họ cùng đất”. Khi Đức Chúa Trời phán điều này, Ngài có ý rằng Ngài sắp hủy diệt chỉ mỗi loài người không? Không! Đức Chúa Trời nói Ngài sẽ hủy diệt mọi sinh vật sống thuộc xác thịt. Tại sao Đức Chúa Trời lại muốn hủy diệt? Có một sự tỏ lộ khác về tâm tính Đức Chúa Trời ở đây; trong mắt Đức Chúa Trời, có một giới hạn trong sự kiên nhẫn của Ngài đối với sự bại hoại của con người, đối với sự nhơ bẩn, hung ác, và bất tuân của mọi xác thịt. Giới hạn của Ngài là gì? Như Đức Chúa Trời đã phán: “Nầy, Ðức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy điều bại hoại, vì hết thảy xác thịt làm cho đường mình trên đất phải bại hoại”. Cụm từ “vì hết thảy xác thịt làm cho đường mình trên đất phải bại hoại” nghĩa là gì? Nó có nghĩa là bất kỳ sinh vật sống nào, bao gồm những người theo Đức Chúa Trời, những người kêu cầu danh Đức Chúa Trời, những người từng làm của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời, những người chính miệng công nhận Đức Chúa Trời và thậm chí tán dương Đức Chúa Trời – một khi hành vi của họ đầy bại hoại và đến mắt Đức Chúa Trời, Ngài sẽ phải hủy diệt họ. Đó là giới hạn của Đức Chúa Trời. Như vậy thì Đức Chúa Trời đã giữ kiên nhẫn với con người và sự bại hoại của mọi xác thịt đến mức độ nào? Đến mức độ mà hết thảy mọi người, dù là những người theo Đức Chúa Trời hay những người ngoại đạo, đều không đi trên con đường đúng đắn. Đến mức độ mà con người không chỉ bại hoại về đạo đức và đầy tà ác, mà cũng chẳng có ai tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, huống chi có ai tin rằng thế giới được Đức Chúa Trời cai trị và rằng Đức Chúa Trời có thể mang sự sáng và con đường đúng cho con người. Đến mức độ mà con người ghét sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và đã không cho phép Đức Chúa Trời được hiện hữu. Một khi sự bại hoại của con người đạt đến điểm này, Đức Chúa Trời không thể chịu đựng được nữa. Điều gì sẽ thay thế nó? Cơn thịnh nộ và hình phạt của Đức Chúa Trời sẽ đến. Chẳng phải đó là sự tỏ lộ phần nào tâm tính Đức Chúa Trời sao? Trong thời đại hiện tại này, không có người nào là công chính trong mắt Đức Chúa Trời sao? Không có người nào là hoàn thiện trong mắt Đức Chúa Trời sao? Thời đại này có phải là thời đại mà hành vi của mọi xác thịt trên đất đều bại hoại trong mắt Đức Chúa Trời không? Vào ngày nay và thời đại này, chẳng phải mọi con người xác thịt – ngoại trừ những người Đức Chúa Trời muốn làm cho trọn vẹn, và những người có thể theo Đức Chúa Trời và chấp nhận sự cứu rỗi của Ngài – đều đang thách thức giới hạn kiên nhẫn của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải mọi thứ diễn ra bên cạnh các ngươi – những gì các ngươi mắt thấy tai nghe, và đích thân trải nghiệm mỗi ngày trong thế giới này – không đầy sự hung ác sao? Trong mắt Đức Chúa Trời, chẳng lẽ một thế gian như thế, thời đại như thế, không nên bị kết thúc sao? Mặc dù bối cảnh của thời đại hiện tại hoàn toàn khác với bối cảnh thời Nô-ê, những cảm xúc và cơn thịnh nộ mà Đức Chúa Trời có đối với sự bại hoại của con người vẫn y nguyên. Đức Chúa Trời có thể kiên nhẫn bởi công tác của Ngài, nhưng xét đến những tình huống và điều kiện, thì trong mắt Đức Chúa Trời, thế gian này đã phải bị hủy diệt từ lâu. Những tình huống vượt xa những gì trước kia, khi thế gian bị hủy diệt bởi trận lụt. Nhưng sự khác biệt là gì? Đây cũng là điều làm buồn lòng Đức Chúa Trời nhất, và có lẽ là điều không ai trong các ngươi có thể nhận thức rõ.
Khi Đức Chúa Trời hủy diệt thế gian bằng trận lụt, Ngài đã có thể triệu gọi Nô-ê để đóng tàu và làm một số công tác chuẩn bị. Đức Chúa Trời đã có thể triệu gọi một người – Nô-ê – làm hàng loạt những việc này cho Ngài. Nhưng trong thời đại hiện tại, Đức Chúa Trời không có bất kỳ ai để có thể triệu gọi. Tại sao lại như thế? Mỗi một người ngồi ở đây đều có thể hiểu và biết lý do rất rõ. Các ngươi có cần Ta nói rõ ra không? Việc nói to ra có thể làm các ngươi mất mặt và khiến mọi người khó chịu. Một số người có thể nói: “Mặc dù chúng tôi không phải là những người công chính và chúng tôi không là những người hoàn thiện trong mắt Đức Chúa Trời, nhưng nếu Đức Chúa Trời có hướng dẫn chúng tôi làm điều gì đó, chúng tôi vẫn có khả năng làm được. Trước kia, khi Ngài phán rằng một thảm họa sẽ ập đến, chúng tôi bắt đầu chuẩn bị thức ăn và các vật dụng cần thiết cho một thảm họa. Chẳng phải toàn bộ việc này được thực hiện theo những yêu cầu của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải chúng tôi thật sự đang phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời sao? Những điều chúng tôi đã làm không thể so sánh với những gì Nô-ê đã làm sao? Chẳng phải làm những điều chúng tôi đã làm là vâng phục thật sự sao? Chẳng phải chúng tôi đang theo những hướng dẫn của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải chúng tôi đã làm điều Đức Chúa Trời phán dạy bởi vì chúng tôi có đức tin vào lời Đức Chúa Trời sao? Vậy thì tại sao Đức Chúa Trời vẫn buồn? Tại sao Đức Chúa Trời phán rằng Ngài không có ai để triệu gọi?” Có sự khác biệt nào giữa những hành động của các ngươi và của Nô-ê không? Sự khác biệt là gì? (Việc chuẩn bị thức ăn hôm nay cho thảm họa là ý định của riêng chúng tôi). (Những hành động của chúng tôi không thể được coi là “công chính”, trong khi Nô-ê thì là một người công chính trong mắt Đức Chúa Trời). Điều các ngươi nói không phải là quá sai. Điều Nô-ê đã làm thực chất là khác với những gì mọi người đang làm bây giờ. Khi Nô-ê làm như Đức Chúa Trời hướng dẫn, ông đã không biết những ý định của Đức Chúa Trời là gì. Ông đã không biết Đức Chúa Trời muốn đạt được gì. Đức Chúa Trời chỉ ban cho ông một sự phán dạy và đã hướng dẫn ông làm điều gì đó, và không giải thích nhiều, Nô-ê đã cứ thế mà làm. Ông đã không cố gắng âm thầm tìm hiểu những ý định của Đức Chúa Trời, ông cũng không chống đối Đức Chúa Trời hay thể hiện tính giả dối. Ông cứ thế mà làm theo với một tấm lòng tinh sạch và mộc mạc. Bất kể Đức Chúa Trời sai ông làm gì, ông cũng đã làm, và sự vâng phục, lắng nghe lời Đức Chúa Trời đã là nền tảng cho niềm tin của ông ở việc ông làm. Đó là cách ông đã xử lý một cách ngay thẳng và đơn giản với điều Đức Chúa Trời giao phó. Bản chất của ông – bản chất của hành động của ông là vâng phục, không đoán mò, không chống đối, và hơn nữa, không suy nghĩ về những ý thích cá nhân hay những điều thiệt hơn của riêng ông. Hơn nữa, khi Đức Chúa Trời phán Ngài sẽ hủy diệt thế gian bằng một trận lụt, Nô-ê đã không hỏi khi nào hay hỏi các sự việc sẽ trở nên như thế nào, và ông hẳn đã không hỏi Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ hủy diệt thế gian như thế nào. Ông chỉ đơn thuần làm như Đức Chúa Trời hướng dẫn. Đức Chúa Trời muốn làm nó như thế nào và làm bằng cái gì đi nữa, ông cũng đã làm chính xác như Đức Chúa Trời phán dạy và cũng đã triển khai hành động ngay lập tức. Ông đã hành động theo những hướng dẫn của Đức Chúa Trời với một thái độ muốn làm vừa lòng Đức Chúa Trời. Có phải ông làm như thế để giúp bản thân tránh thảm họa không? Không. Ông có hỏi Đức Chúa Trời còn bao lâu nữa thì thế gian sẽ bị hủy diệt không? Ông đã không hỏi. Ông có hỏi Đức Chúa Trời hay ông có biết sẽ mất bao lâu để đóng tàu không? Ông cũng đã không biết điều đó. Ông đơn thuần vâng lời, lắng nghe, và hành động theo đó. Con người ngày nay không giống như vậy: Ngay khi một mẩu thông tin bị rò rỉ thông qua lời Đức Chúa Trời, ngay khi con người cảm nhận dù chỉ là tiếng lá xào xạc trong gió, họ ngay lập tức nhảy xổ vào hành động, cho dù và bất kể giá nào, để chuẩn bị những gì họ sẽ ăn, uống, và sử dụng sau đó, thậm chí lên kế hoạch những lối thoát cho họ khi thảm họa tấn công. Càng thú vị hơn nữa là, vào khoảnh khắc chính yếu này, bộ não con người rất giỏi “sắp xếp đâu vào đấy”. Trong những tình huống mà Đức Chúa Trời không ban bất kỳ sự hướng dẫn nào, con người có thể lên kế hoạch mọi thứ một cách rất thích hợp. Các ngươi có thể dùng từ “hoàn hảo” để miêu tả những kế hoạch đó. Đối với những gì Đức Chúa Trời phán dạy, những ý định của Đức Chúa Trời, hay những gì Đức Chúa Trời muốn, thì không ai quan tâm và không ai cố gắng để hiểu rõ cả. Chẳng phải đó là điểm khác biệt lớn nhất giữa con người ngày nay và Nô-ê sao?
Trong bản ghi này về câu chuyện của Nô-ê, các ngươi có thấy một phần tâm tính Đức Chúa Trời không? Có một giới hạn cho sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời đối với sự bại hoại, nhơ bẩn, và hung ác của con người. Khi Ngài đạt đến giới hạn đó, Ngài sẽ không còn kiên nhẫn và thay vào đó sẽ bắt đầu sự quản lý mới và kế hoạch mới của Ngài, bắt đầu làm điều Ngài phải làm, tỏ lộ những việc làm của Ngài và mặt kia của tâm tính Ngài. Hành động này của Ngài không phải để chứng minh rằng con người không bao giờ được xúc phạm Ngài hay rằng Ngài đầy thẩm quyền và sự thịnh nộ, và không phải để cho thấy rằng Ngài có thể hủy diệt nhân loại. Mà chính là tâm tính Ngài và thực chất thánh khiết của Ngài không còn cho phép hay còn kiên nhẫn để dạng nhân loại này sống trước Ngài, sống dưới sự thống trị của Ngài nữa. Nói thế nghĩa là, khi toàn thể nhân loại chống lại Ngài, khi trên khắp thế gian không còn ai để Ngài có thể cứu rỗi, Ngài sẽ không còn kiên nhẫn với một nhân loại như thế nữa, và chắc chắn sẽ thực hiện kế hoạch của Ngài – hủy diệt dạng nhân loại này. Một hành động như thế của Đức Chúa Trời được quyết định bởi tâm tính Ngài. Đây là một hậu quả cần thiết, và là một hậu quả mà mọi tạo vật dưới sự thống trị của Đức Chúa Trời phải chịu. Chẳng phải điều này cho thấy rằng trong thời đại hiện tại này, Đức Chúa Trời rất nóng lòng để hoàn thành kế hoạch của Ngài và cứu rỗi những người Ngài muốn cứu rỗi sao? Trong những hoàn cảnh này, Đức Chúa Trời quan tâm đến điều gì nhất? Không phải là việc những người hoàn toàn không theo Ngài hay những người chống đối Ngài theo cách nào đó đối đãi với Ngài hay cự tuyệt Ngài như thế nào, hay nhân loại đang phỉ báng Ngài ra sao. Ngài chỉ quan tâm đến việc liệu những người theo Ngài, những đối tượng của sự cứu rỗi trong kế hoạch quản lý của Ngài, đã được Ngài làm cho trọn vẹn hay chưa, liệu họ có trở nên xứng đáng với sự thỏa nguyện của Ngài hay không. Đối với những người khác ngoài những ai theo Ngài, Ngài chỉ thỉnh thoảng đưa ra chút hình phạt để thể hiện cơn thịnh nộ của Ngài. Ví dụ: sóng thần, động đất, và núi lửa phun trào. Đồng thời, Ngài cũng mạnh mẽ bảo vệ và trông nom những ai theo Ngài và sắp sửa được Ngài cứu rỗi. Tâm tính Đức Chúa Trời là thế này: Một mặt, Ngài có thể có sự kiên nhẫn và chịu đựng cực độ với những người mà Ngài dự định làm cho trọn vẹn, và Ngài có thể chờ họ chừng nào Ngài có thể; mặt khác, Đức Chúa Trời cực kỳ căm ghét và ghê tởm những người kiểu Sa-tan, không theo Ngài và chống đối Ngài. Mặc dù Ngài không quan tâm liệu những loại Sa-tan này có theo Ngài hay thờ phượng Ngài hay không, Ngài vẫn khinh ghét họ dù trong lòng có sự kiên nhẫn với họ, và khi Ngài quyết định kết cục của những loại Sa-tan này, Ngài cũng chờ đợi đến những bước trong kế hoạch quản lý của Ngài.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 27
Phúc lành của Đức Chúa Trời với Nô-ê sau trận lụt
Sách sáng thế 9:1-6 Ðức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê cùng các con trai người, mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy trên mặt đất. Các loài vật ở trên đất, các loài chim trời, và các vật hành động trên đất, cùng các cá biển, đều sẽ kinh khủng ngươi và bị phú vào tay ngươi. Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như ta đã cho thứ cỏ xanh. Song các ngươi không nên ăn thịt còn hồn sống, nghĩa là có máu. Quả thật, ta sẽ đòi máu của sự sống ngươi lại, hoặc nơi các loài thú vật, hoặc nơi tay người, hoặc nơi tay của anh em người. Hễ kẻ nào làm đổ máu người, thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại; vì Ðức Chúa Trời làm nên người như hình của Ngài.
Sau khi Nô-ê đón nhận sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời và đóng tàu sống qua những ngày Đức Chúa Trời dùng một trận lụt để hủy diệt thế gian, cả gia đình tám người của ông đã sống sót. Ngoài gia đình tám người của Nô-ê ra, toàn thể nhân loại đều bị hủy diệt, và mọi sinh vật sống trên đất đều bị hủy diệt. Đối với Nô-ê, Đức Chúa Trời đã ban phúc lành, phán một số điều với ông và các con trai ông. Những điều này là những gì Đức Chúa Trời ban cho ông và cũng là phúc lành của Đức Chúa Trời với ông. Đây là phúc lành và lời hứa mà Đức Chúa Trời ban cho người có thể lắng nghe Ngài và đón nhận sự hướng dẫn của Ngài, và cũng là cách Đức Chúa Trời ban thưởng cho con người. Nói thế nghĩa là, bất kể Nô-ê có là một người hoàn thiện hay một người công chính trong mắt Đức Chúa Trời hay không, và bất kể ông biết nhiều bao nhiêu về Đức Chúa Trời, thì nói ngắn gọn, Nô-ê và ba con trai của ông đều nghe lời Đức Chúa Trời, phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời, và đã làm điều họ phải làm theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Kết quả là, họ đã bảo tồn được con người và nhiều loại sinh vật sống khác nhau cho Đức Chúa Trời sau sự hủy diệt thế gian bằng một trận lụt, đóng góp rất lớn cho bước tiếp theo trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Bởi mọi điều ông đã làm, Đức Chúa Trời ban phúc lành cho ông. Có lẽ đối với con người ngày nay, điều Nô-ê đã làm thậm chí không đáng đề cập. Một số người thậm chí nghĩ: “Nô-ê đã chẳng làm gì cả; Đức Chúa Trời đã quyết tha cho ông, do đó ông chắc chắn sẽ được tha. Sự sống sót của ông không phải do những thành quả của riêng ông. Đây là điều Đức Chúa Trời muốn xảy ra, bởi vì con người bị động”. Nhưng đó không phải là điều Đức Chúa Trời nghĩ. Đối với Đức Chúa Trời, bất kể một người là vĩ đại hay tầm thường, miễn sao họ có thể nghe lời Ngài, vâng theo sự hướng dẫn của Ngài và những gì Ngài giao phó, và có thể phối hợp với công tác của Ngài, ý muốn của Ngài, và kế hoạch của Ngài, hầu cho ý muốn và kế hoạch của Ngài có thể được hoàn thành suôn sẻ, vậy thì hạnh kiểm đó xứng đáng để Ngài nhớ đến và nhận được phúc lành của Ngài. Đức Chúa Trời trân quý những người như thế, và Ngài yêu mến những hành động của họ, tình yêu của họ và tình cảm của họ đối với Ngài. Đây là thái độ của Đức Chúa Trời. Như vậy tại sao Đức Chúa Trời lại ban phúc lành cho Nô-ê? Bởi vì đây là cách Đức Chúa Trời đối đãi với những hành động và sự vâng phục như thế của con người.
Liên quan đến phúc lành của Đức Chúa Trời với Nô-ê, một số người sẽ nói: “Nếu con người lắng nghe Đức Chúa Trời và đáp ứng Ngài, thì Đức Chúa Trời sẽ ban phúc lành cho con người. Chẳng phải điều đó là không cần bàn cãi sao?” Chúng ta có thể nói như thế không? Một số người nói: “Không”. Tại sao chúng ta không thể nói như thế? Một số người nói: “Con người không đáng được hưởng phúc lành của Đức Chúa Trời”. Điều đó không hoàn toàn đúng. Bởi vì khi một người đón nhận những gì Đức Chúa Trời giao phó cho họ, Đức Chúa Trời có một tiêu chuẩn để phán xét liệu những hành động của họ là tốt hay xấu và liệu người đó có vâng phục, liệu người đó có đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời và liệu họ có đáp ứng tiêu chuẩn ấy hay không. Điều Đức Chúa Trời quan tâm chính là tấm lòng của người đó, chứ không phải những hành động bề ngoài của họ. Không phải là Đức Chúa Trời sẽ ban phúc lành cho ai đó miễn sao họ làm điều gì đó, bất kể họ làm như thế nào. Đây là một sự hiểu lầm mà con người có về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không chỉ nhìn vào kết quả sau cùng của các sự việc, mà còn chú trọng hơn vào việc lòng người và thái độ của con người như thế nào trong quá trình phát triển của các sự vật, và Ngài xem xét liệu có sự vâng phục, cân nhắc, và khao khát đáp ứng Đức Chúa Trời trong lòng họ hay không. Nô-ê đã biết được bao nhiêu về Đức Chúa Trời vào lúc đó? Có nhiều như những học thuyết mà các ngươi biết lúc này không? Xét về những phương diện của lẽ thật chẳng hạn như những khái niệm và kiến thức về Đức Chúa Trời, ông có nhận được nhiều sự chăm tưới và chăn dắt như các ngươi không? Không, ông đã không được như vậy! Thế nhưng có một thực tế không thể phủ nhận: Trong ý thức, tâm trí, và thậm chí tận sâu thẳm lòng người ngày nay, những khái niệm và thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời là mơ hồ và nhập nhằng. Các ngươi thậm chí có thể nói rằng một bộ phận dân chúng còn có thái độ tiêu cực đối với sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Thế nhưng trong lòng Nô-ê và ý thức của ông, sự hiện hữu của Đức Chúa Trời là tuyệt đối và chẳng chút nghi ngại, và do đó sự vâng phục của ông đối với Đức Chúa Trời là thuần khiết và có thể chịu được thử thách. Lòng ông tinh sạch và cởi mở đối với Đức Chúa Trời. Ông đã không cần quá nhiều kiến thức học thuyết để thuyết phục bản thân mình làm theo mọi lời của Đức Chúa Trời, ông cũng đã không cần nhiều sự kiện để chứng minh sự hiện hữu của Đức Chúa Trời nhằm có thể chấp nhận điều Đức Chúa Trời đã giao phó cho ông và có khả năng làm bất cứ điều gì Đức Chúa Trời sai ông làm. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa Nô-ê và con người ngày nay. Đó cũng là định nghĩa thật về việc một người hoàn thiện chính xác là như thế nào trong mắt Đức Chúa Trời. Điều Đức Chúa Trời muốn là những người như Nô-ê. Ông là kiểu người mà Đức Chúa Trời khen ngợi và cũng chính là kiểu người mà Đức Chúa Trời ban phúc lành. Các ngươi đã nhận được sự khai sáng nào từ điều này chưa? Con người nhìn vào con người từ bề ngoài, trong khi Đức Chúa Trời thì nhìn vào lòng người và bản chất của họ. Đức Chúa Trời không cho phép bất kỳ ai có bất kỳ sự nửa vời hay hoài nghi nào đối với Ngài, Ngài cũng không cho phép con người nghi ngờ hay kiểm tra Ngài theo bất kỳ cách nào. Do vậy, ngay cả khi con người ngày nay đối mặt với lời Đức Chúa Trời – các ngươi thậm chí có thể nói đối mặt với Đức Chúa Trời – thì bởi điều gì đó sâu trong lòng họ, sự hiện hữu của bản chất bại hoại của họ, và thái độ thù nghịch của họ với Đức Chúa Trời, mà con người bị cản trở không có được niềm tin thật nơi Đức Chúa Trời và bị ngăn chặn khỏi việc vâng lời Ngài. Bởi điều này, rất khó để họ đạt được phúc lành y như Đức Chúa Trời đã ban cho Nô-ê.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 28
Đức Chúa Trời dùng cầu vồng làm biểu tượng cho giao ước của Ngài với con người (Các trích đoạn)
Sách sáng thế 9:11-13 Vậy, ta lập giao ước cùng các ngươi, và các loài xác thịt chẳng bao giờ lại bị nước lụt hủy diệt, và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðây là dấu chỉ về sự giao ước mà ta lập cùng các ngươi, cùng hết thảy vật sống ở với các ngươi, trải qua các đời mãi mãi. Ta đặt mống của ta trên từng mây, dùng làm dấu chỉ sự giao ước của ta với đất.
Hầu hết mọi người đều biết cầu vồng là gì và đã nghe một số câu chuyện liên quan đến cầu vồng. Đối với câu chuyện về cầu vồng trong Kinh Thánh, một số người tin và một số thì coi đó như truyền thuyết, trong khi những người khác thì không hề tin chút nào. Cho dù thế nào, tất cả những sự kiện đã xảy ra liên quan đến cầu vồng đều là công tác của Đức Chúa Trời và đã diễn ra trong quá trình quản lý con người của Đức Chúa Trời. Những sự kiện này đã được ghi chép chính xác trong Kinh Thánh. Những ghi chép này không cho chúng ta biết tâm trạng của Đức Chúa Trời vào lúc đó hay ý định đằng sau những lời Đức Chúa Trời đã phán. Hơn nữa, không ai có thể nhận thức rõ Đức Chúa Trời đang cảm thấy thế nào khi Ngài phán chúng. Tuy nhiên, trạng thái tinh thần của Đức Chúa Trời liên quan đến toàn bộ sự kiện này được tỏ lộ ẩn ý giữa các câu chữ. Như thể những ý nghĩ của Đức Chúa Trời vào lúc đó đã bật ra qua mỗi từ và cụm từ trong lời Ngài.
Những ý nghĩ của Đức Chúa Trời là điều con người nên quan tâm và là điều họ nên cố gắng biết được nhiều nhất. Đây là vì những ý nghĩ của Đức Chúa Trời có liên quan mật thiết với sự hiểu biết của con người về Đức Chúa Trời, và sự hiểu biết của con người về Đức Chúa Trời là một mối liên kết không thể thiếu cho lối vào sự sống của con người. Vậy thì, Đức Chúa Trời đã nghĩ gì vào lúc các sự kiện này diễn ra?
Ban đầu, Đức Chúa Trời đã tạo ra một nhân loại mà trong mắt Ngài là rất tốt và gần gũi với Ngài, nhưng họ đã bị hủy diệt bởi trận lụt sau khi phản nghịch Ngài. Đức Chúa Trời có đau lòng không khi một nhân loại như vậy lại ngay lập tức biến mất như thế? Dĩ nhiên là đau lòng! Vậy thì sự bày tỏ nỗi đau này của Ngài là gì? Nó được ghi chép như thế nào trong Kinh Thánh? Nó được ghi chép trong Kinh Thánh ở những lời sau: “Vậy, ta lập giao ước cùng các ngươi, và các loài xác thịt chẳng bao giờ lại bị nước lụt hủy diệt, và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa”. Câu đơn giản này tỏ lộ những ý nghĩ của Đức Chúa Trời. Sự hủy diệt thế gian này đã khiến Ngài rất đau đớn. Theo cách nói của con người, Ngài đã rất buồn. Chúng ta có thể tưởng tượng: Thế gian từng đầy sự sống đã trông như thế nào sau khi bị hủy diệt bằng trận lụt? Thế gian từng đầy con người đã trông như thế nào vào lúc đó? Không có người ở, không sinh vật sống, nước ở khắp nơi và sự tàn phá hoàn toàn trên mặt nước. Một cảnh tượng như thế có phải là ý định ban đầu của Đức Chúa Trời khi Ngài tạo dựng thế gian không? Dĩ nhiên là không! Ý định ban đầu của Đức Chúa Trời là nhìn thấy sự sống trên khắp đất, thấy con người mà Ngài đã tạo dựng thờ phượng Ngài, chứ không phải để Nô-ê là người duy nhất thờ phượng Ngài hay người duy nhất có thể đáp lại lời kêu gọi của Ngài để làm trọn vẹn điều được giao phó cho ông. Khi nhân loại biến mất, Đức Chúa Trời đã không thấy điều Ngài dự định ban đầu, mà là điều trái ngược hoàn toàn. Làm sao lòng Ngài có thể không đau cho được? Như vậy khi Đức Chúa Trời tỏ lộ tâm tính Ngài và bày tỏ những cảm xúc của Ngài, Đức Chúa Trời đã đưa ra quyết định. Ngài đã đưa ra dạng quyết định nào? Đặt mống trên từng mây (nghĩa là cầu vồng mà chúng ta thấy) như một giao ước với con người, một lời hứa rằng Đức Chúa Trời sẽ không hủy diệt nhân loại bằng trận lụt lần nữa. Đồng thời, nó cũng là để nói với con người rằng Đức Chúa Trời đã hủy diệt thế giới bằng một trận lụt, hầu cho nhân loại sẽ nhớ mãi tại sao Đức Chúa Trời lại làm một điều như thế.
Sự hủy diệt thế gian vào thời đó có phải là điều Đức Chúa Trời muốn không? Đó chắc chắn không phải là điều Đức Chúa Trời muốn. Chúng ta hẳn có thể tưởng tượng một phần nhỏ cảnh tượng thương tâm của đất sau sự hủy diệt thế gian, nhưng chúng ta còn lâu mới tưởng tượng ra cảnh tượng lúc đó trong mắt Đức Chúa Trời như thế nào. Chúng ta có thể nói rằng, dù là con người của bây giờ hay lúc ấy, không ai có thể tưởng tượng hay nhận thức rõ Đức Chúa Trời đã cảm thấy thế nào khi Ngài nhìn thấy cảnh tượng ấy, hình ảnh thế giới sau sự hủy diệt bởi trận lụt. Đức Chúa Trời đã buộc phải làm điều này bởi sự bất tuân của con người, nhưng nỗi đau mà lòng Ngài phải chịu từ sự hủy diệt thế gian bởi trận lụt này là một hiện thực mà không ai có thể hiểu thấu hay nhận thức rõ. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời đã lập một giao ước với nhân loại, thông qua đó Ngài nhắm đến việc bảo con người nhớ rằng Đức Chúa Trời đã từng làm điều như thế này, và để hứa với họ rằng Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ hủy diệt thế gian theo cách như vậy lần nữa. Trong giao ước này chúng ta thấy được lòng Đức Chúa Trời – chúng ta thấy rằng lòng Đức Chúa Trời đau đớn khi Ngài hủy diệt nhân loại này. Theo ngôn ngữ của con người, khi Đức Chúa Trời hủy diệt nhân loại và thấy nhân loại biến mất, lòng Ngài đổ lệ và máu. Chẳng phải đó là cách miêu tả hay nhất sao? Những từ này được con người dùng để minh họa xúc cảm của con người, nhưng bởi vì ngôn ngữ của con người quá nghèo nàn, việc sử dụng chúng để miêu tả những tình cảm và cảm xúc của Đức Chúa Trời có vẻ không quá tệ đối với Ta, và cũng không thái quá. Chí ít nó cho các ngươi một sự hiểu biết rất sống động, rất nhanh nhạy về việc tâm trạng của Đức Chúa Trời đã như thế nào vào lúc đó. Bây giờ các ngươi sẽ nghĩ gì khi thấy cầu vồng lần nữa? Chí ít các ngươi sẽ nhớ Đức Chúa Trời đã từng đau đớn như thế nào khi hủy diệt thế gian bằng trận lụt. Các ngươi sẽ nhớ cách mà lòng Đức Chúa Trời, cho dù Ngài ghét thế gian này và khinh miệt nhân loại này, đã đau đớn, chật vật khi phải buông bỏ, cảm thấy lưỡng lự, và thấy khó mà chịu đựng được khi Ngài hủy diệt nhân loại mà Ngài đã tự tay tạo ra. Sự an ủi duy nhất của Ngài là gia đình tám người của Nô-ê. Chính sự phối hợp của Nô-ê đã làm cho những nỗ lực cần cù để tạo nên muôn vật của Ngài không trở nên luống công vô ích. Vào lúc Đức Chúa Trời đau khổ, đây là điều duy nhất có thể bù đắp cho nỗi đau của Ngài. Từ điểm đó, Đức Chúa Trời đã đặt mọi kỳ vọng của Ngài với nhân loại lên gia đình Nô-ê, hy vọng họ có thể sống dưới những phúc lành của Ngài chứ không phải sự rủa sả của Ngài, hy vọng rằng họ sẽ không bao giờ thấy Đức Chúa Trời hủy diệt thế gian bằng một trận lụt lần nữa, và cũng hy vọng rằng họ sẽ không bị hủy diệt.
Chúng ta nên tìm hiểu phần nào của tâm tính Đức Chúa Trời từ điều này? Đức Chúa Trời đã khinh ghét con người bởi vì con người thù nghịch Ngài, nhưng trong lòng Ngài, sự chăm sóc, quan tâm, và lòng thương xót của Ngài đối với nhân loại vẫn không đổi. Ngay cả khi Ngài hủy diệt nhân loại, lòng Ngài vẫn không đổi. Khi nhân loại đầy bại hoại và bất tuân với Đức Chúa Trời đến mức trầm trọng, Đức Chúa Trời đã phải hủy diệt nhân loại này, bởi tâm tính của Ngài và thực chất của Ngài, và theo những nguyên tắc của Ngài. Thế nhưng bởi thực chất của Đức Chúa Trời, Ngài vẫn cảm thương nhân loại, và thậm chí muốn dùng nhiều cách khác nhau để cứu chuộc nhân loại hầu cho họ có thể tiếp tục sống. Tuy nhiên, con người lại chống đối Đức Chúa Trời, tiếp tục bất tuân Đức Chúa Trời, và không chịu chấp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời; nghĩa là, không chịu chấp nhận những ý định tốt của Ngài. Cho dù Đức Chúa Trời kêu gọi họ, nhắc nhở họ, chu cấp cho họ, giúp đỡ họ, hay khoan thứ họ như thế nào, con người cũng đã không hiểu hay cảm kích điều đó, họ cũng chẳng chú ý tới. Trong nỗi đau của Ngài, Đức Chúa Trời vẫn không quên ban cho con người lòng khoan dung tột độ của Ngài, chờ đợi con người hoán cải. Sau khi Ngài đạt đến giới hạn của Ngài, Ngài đã làm điều Ngài phải làm mà không chút lưỡng lự. Nói cách khác, có một khoảng thời gian và quá trình cụ thể từ khoảnh khắc Đức Chúa Trời lên kế hoạch hủy diệt nhân loại đến lúc khởi động công tác hủy diệt nhân loại của Ngài. Quá trình này hiện hữu với mục đích cho phép con người hoán cải, và đây là cơ hội cuối cùng Đức Chúa Trời ban cho con người. Vậy Đức Chúa Trời đã làm gì trong khoảng thời gian này trước khi hủy diệt nhân loại? Đức Chúa Trời đã làm một lượng đáng kể công tác nhắc nhở và khích lệ. Cho dù lòng Đức Chúa Trời đau đớn và buồn rầu thế nào, Ngài cũng tiếp tục ban sự chăm sóc, quan tâm, và lòng thương xót vô vàn với nhân loại. Chúng ta thấy gì từ điều này? Không nghi ngờ gì, chúng ta thấy được rằng tình yêu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại là thật và không phải là điều Ngài chỉ nói suông. Nó thực tế, hữu hình và có thể nhận thức rõ, không bịa đặt, giả dối, lừa gạt hay vờ vịt. Đức Chúa Trời không bao giờ dùng bất kỳ sự lừa dối hay tạo ra những hình tượng giả nào để làm cho con người thấy rằng Ngài đáng mến. Ngài không bao giờ dùng chứng ngôn giả để con người thấy sự đáng mến của Ngài, hoặc khoe khoang về sự đáng mến và thánh khiết của Ngài. Chẳng lẽ những khía cạnh này của tâm tính Đức Chúa Trời không xứng đáng có được tình yêu của con người sao? Chẳng lẽ chúng không đáng thờ phượng sao? Chẳng lẽ chúng không đáng trân quý sao? Đến đây, Ta muốn hỏi các ngươi: Sau khi nghe những lời này, các ngươi có nghĩ rằng sự vĩ đại của Đức Chúa Trời đơn thuần là những lời sáo rỗng trên giấy không? Sự đáng mến của Đức Chúa Trời có phải chỉ là những lời sáo rỗng không? Không! Chắc chắn là không! Quyền tối cao, sự vĩ đại, thánh khiết, khoan dung, yêu thương, v.v. của Đức Chúa Trời – mỗi chi tiết của mỗi một trong số các phương diện khác nhau trong tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời đều bày tỏ thực tế mỗi khi Ngài làm công tác của Ngài, được thể hiện trong ý muốn của Ngài đối với con người, và cũng được làm tròn và phản ánh ở mỗi người. Cho dù trước kia ngươi có cảm thấy hay không, Đức Chúa Trời cũng đang chăm sóc cho mỗi người theo mọi cách có thể, sử dụng tấm lòng chân thành, sự khôn ngoan, và những phương pháp khác nhau của Ngài để sưởi ấm lòng mỗi người, và đánh thức linh hồn mỗi người. Đây là một thực tế không thể bàn cãi.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 29
Đức Chúa Trời dùng cầu vồng làm biểu tượng cho giao ước của Ngài với con người (Các trích đoạn)
Sách sáng thế 9:11-13 Vậy, ta lập giao ước cùng các ngươi, và các loài xác thịt chẳng bao giờ lại bị nước lụt hủy diệt, và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðây là dấu chỉ về sự giao ước mà ta lập cùng các ngươi, cùng hết thảy vật sống ở với các ngươi, trải qua các đời mãi mãi. Ta đặt mống của ta trên từng mây, dùng làm dấu chỉ sự giao ước của ta với đất.
Đức Chúa Trời đã tạo ra nhân loại; bất kể họ đã bại hoại hay họ có theo Ngài hay không, Đức Chúa Trời cũng đối đãi với họ như những người yêu quý nhất của Ngài – hoặc như cách nói của con người là những người thân thương nhất của Ngài – và không phải là những món đồ chơi của Ngài. Mặc dù Đức Chúa Trời nói Ngài là Đấng Tạo Hóa và rằng con người là tạo vật của Ngài, điều nghe có vẻ hơi khác biệt về tầng lớp, nhưng hiện thực là mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho nhân loại đều vượt xa bản chất của mối quan hệ này. Đức Chúa Trời yêu nhân loại, chăm sóc cho nhân loại, và thể hiện sự quan tâm đối với nhân loại, cũng như liên tục và không ngừng chu cấp cho nhân loại. Ngài không bao giờ cảm thấy trong lòng rằng đây là một công việc phụ hay điều gì đó đáng được thật nhiều công trạng. Ngài cũng không cảm thấy rằng cứu rỗi nhân loại, chu cấp cho họ, và ban cho họ mọi thứ, là làm nên sự đóng góp khổng lồ cho nhân loại. Ngài đơn thuần chu cấp cho nhân loại một cách âm thầm và lặng lẽ, theo cách của riêng Ngài và thông qua thực chất của riêng Ngài, thông qua việc Ngài có gì và là gì. Cho dù nhân loại nhận được bao nhiêu sự chu cấp và giúp đỡ từ Ngài, Đức Chúa Trời cũng không bao giờ nghĩ đến hay cố gắng ghi vào công trạng. Điều này được quyết định bởi thực chất của Đức Chúa Trời, và cũng chính là sự bày tỏ thật về tâm tính Đức Chúa Trời. Đây là lý do tại sao, dù trong Kinh Thánh hay bất kỳ sách nào khác, chúng ta cũng không bao giờ thấy Đức Chúa Trời bày tỏ những ý nghĩ của Ngài, và chúng ta không bao giờ thấy Đức Chúa Trời miêu tả hay tuyên bố với con người – với mục đích làm cho nhân loại biết ơn Ngài hay tán dương Ngài – về việc tại sao Ngài lại làm những điều này, hay tại sao Ngài lại chăm sóc nhân loại nhiều như vậy. Ngay cả khi Ngài đau khổ, khi lòng Ngài cực kỳ đau đớn, Ngài cũng không bao giờ quên trách nhiệm của mình đối với nhân loại hay sự quan tâm của Ngài đối với nhân loại; tất cả đều trong lúc Ngài chịu sự đau khổ và đau đớn này một mình trong âm thầm. Mà trái lại, Đức Chúa Trời tiếp tục chu cấp cho nhân loại như Ngài đã luôn làm. Mặc dù nhân loại thường ca ngợi Đức Chúa Trời hay làm chứng cho Ngài, Đức Chúa Trời không đòi hỏi điều gì trong cách hành xử này cả. Điều này là vì Đức Chúa Trời không bao giờ có ý định rằng bất kỳ việc tốt nào Ngài làm cho nhân loại là hòng đổi lấy lòng biết ơn hay đáp trả. Trái lại, những người có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, những người có thể thật sự theo Đức Chúa Trời, lắng nghe Ngài và trung thành với Ngài, và những người có thể vâng lời Ngài – đây là những người sẽ thường xuyên nhận được phúc lành của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời sẽ ban những phúc lành như thế mà không tiếc tay. Hơn nữa, những phúc lành mà con người được nhận từ Đức Chúa Trời thường vượt ngoài trí tưởng tượng của họ, và cũng vượt tầm bất kỳ điều gì con người có thể biện minh thông qua những gì họ đã làm hay cái giá mà họ đã trả. Khi nhân loại vui hưởng những phúc lành của Đức Chúa Trời, có bất kỳ ai quan tâm đến việc Đức Chúa Trời đang làm gì không? Có bất kỳ ai thể hiện sự quan tâm nào với việc Đức Chúa Trời đang cảm thấy thế nào không? Có bất kỳ ai cố gắng nhận thức rõ nỗi đau của Đức Chúa Trời không? Câu trả lời dứt khoát là không! Có bất kỳ người nào, kể cả Nô-ê, nhận thức rõ nỗi đau mà Đức Chúa Trời đang cảm nhận vào khoảnh khắc đó không? Có bất kỳ ai hiểu rõ tại sao Đức Chúa Trời lại lập một giao ước như thế không? Họ không thể! Nhân loại không nhận thức rõ nỗi đau của Đức Chúa Trời không phải là vì họ không thể hiểu nỗi đau của Đức Chúa Trời, và không phải bởi khoảng cách giữa Đức Chúa Trời và con người hay sự khác biệt ở địa vị của họ; mà đúng hơn, chính là vì nhân loại không hề quan tâm đến bất kỳ cảm xúc nào của Đức Chúa Trời. Nhân loại nghĩ rằng Đức Chúa Trời độc lập – rằng Đức Chúa Trời không cần con người chăm sóc cho Ngài, hiểu Ngài hay thể hiện sự quan tâm với Ngài. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, do đó Ngài không có nỗi đau, không có xúc cảm; Ngài sẽ không buồn, Ngài không cảm thấy đau khổ, Ngài thậm chí không khóc. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, do đó Ngài không cần bất kỳ sự thể hiện tình cảm nào và Ngài không cần bất kỳ sự an ủi tình cảm nào. Nếu trong những hoàn cảnh nhất định, Ngài không cần những điều này, thì Ngài có thể đương đầu một mình và sẽ không cần bất kỳ sự hỗ trợ nào từ nhân loại. Trái lại, chính những con người yếu đuối, non nớt mới cần đến sự yên ủi, chu cấp, khích lệ của Đức Chúa Trời, và thậm chí cần Ngài an ủi xúc cảm của họ mọi nơi mọi lúc. Những điều như thế ẩn sâu trong lòng nhân loại: Con người là kẻ yếu đuối; họ cần Đức Chúa Trời trông nom họ theo mọi cách, họ xứng đáng với tất cả những sự chăm sóc mà họ nhận được từ Đức Chúa Trời, và họ phải đòi hỏi ở Đức Chúa Trời bất cứ điều gì họ cảm thấy nên là của họ. Đức Chúa Trời là Đấng mạnh mẽ; Ngài có mọi thứ, và Ngài phải là Đấng bảo hộ và Đấng ban phúc lành cho nhân loại. Bởi vì Ngài đã là Đức Chúa Trời, Ngài có quyền tuyệt đối và không bao giờ cần bất cứ điều gì từ nhân loại.
Bởi con người không để ý đến bất kỳ sự mặc khải nào của Đức Chúa Trời, họ chưa bao giờ cảm nhận sự buồn phiền, đau đớn, hay niềm vui của Đức Chúa Trời. Nhưng trái lại, Đức Chúa Trời biết tất cả mọi biểu hiện của con người như biết rõ lòng bàn tay Ngài. Đức Chúa Trời chu cấp cho các nhu cầu của mọi người vào mọi lúc và ở mọi nơi, quan sát những ý nghĩ đổi thay của mỗi người và bởi đó an ủi, khích lệ họ, hướng dẫn và soi sáng họ. Đối với tất cả những điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho nhân loại và mọi cái giá mà Ngài đã trả bởi vì họ, con người có thể tìm được đoạn nào trong Kinh Thánh hay từ bất cứ điều gì mà Đức Chúa Trời đã phán cho đến nay tuyên bố rõ rằng Đức Chúa Trời sẽ đòi hỏi điều gì đó từ con người không? Không! Trái lại, cho dù con người phớt lờ suy nghĩ của Đức Chúa Trời như thế nào, Ngài vẫn liên tục dìu dắt nhân loại, liên tục chu cấp cho nhân loại và giúp đỡ họ, tạo điều kiện cho họ theo con đường của Đức Chúa Trời hầu cho họ có thể đạt được đích đến tốt đẹp mà Ngài đã chuẩn bị cho họ. Khi nói đến Đức Chúa Trời, thì việc Ngài có gì và là gì, ân điển của Ngài, lòng thương xót của Ngài, và mọi sự ban thưởng của Ngài, sẽ được ban không tiếc tay cho những ai yêu thương và theo Ngài. Thế nhưng Ngài không bao giờ tỏ lộ với bất kỳ ai nỗi đau mà Ngài đã chịu hay trạng thái tinh thần của Ngài, và Ngài không bao giờ than phiền về bất kỳ ai việc họ không lưu tâm tới Ngài hay không biết ý muốn của Ngài. Ngài đơn thuần âm thầm chịu đựng tất cả những điều này, đợi đến ngày nhân loại sẽ có thể hiểu được.
Tại sao Ta nói những điều này ở đây? Các ngươi thấy gì từ những điều Ta đã nói? Có điều gì đó trong thực chất và tâm tính Đức Chúa Trời mà quá dễ bị bỏ qua, điều gì đó chỉ được sở hữu bởi Đức Chúa Trời chứ không bởi bất kỳ người nào, kể cả những người mà người khác nghĩ là các vĩ nhân, người tốt, hay là Đức Chúa Trời trong trí tưởng tượng của họ. Điều đó là gì? Đó là lòng vị tha của Đức Chúa Trời. Khi nói về lòng vị tha, có thể ngươi nghĩ mình cũng rất vị tha, bởi vì khi nói đến con cái ngươi, ngươi không bao giờ điều đình hay mặc cả với chúng, hoặc ngươi nghĩ mình cũng rất vị tha khi nói đến cha mẹ mình. Cho dù ngươi nghĩ gì, chí ít ngươi có một khái niệm về từ “vị tha” và nghĩ về nó như một từ tích cực, và rằng việc là một người vị tha là rất cao quý. Khi ngươi vị tha, ngươi cho là bản thân mình cao cả. Nhưng không ai có thể thấy sự vị tha của Đức Chúa Trời trong mọi sự, giữa những con người, sự kiện, và sự vật, và trong công tác của Ngài. Tại sao lại như vậy? Bởi vì con người quá ích kỷ! Tại sao Ta nói như thế? Nhân loại sống trong một thế giới vật chất. Có thể ngươi theo Đức Chúa Trời, nhưng ngươi không bao giờ thấy hay cảm kích cách Đức Chúa Trời chu cấp cho ngươi, yêu thương ngươi, và thể hiện sự quan tâm đối với ngươi. Vậy thì ngươi thấy gì? Ngươi thấy những người họ hàng ruột thịt của mình, những người yêu thương mình hay cưng chiều mình. Ngươi thấy những điều có lợi cho xác thịt của ngươi, ngươi quan tâm đến những người và vật mà ngươi yêu thương. Đây là điều được gọi là lòng vị tha của con người. Tuy nhiên, những người “vị tha” như thế không bao giờ quan tâm đến Đức Chúa Trời là Đấng ban sự sống cho họ. Trái ngược với lòng vị tha của Đức Chúa Trời, lòng vị tha của con người trở nên ích kỷ và đáng khinh. Lòng vị tha mà con người tin vào thì rỗng tuếch và không thực tế, giả tạo, không tương hợp với Đức Chúa Trời, và không liên quan tới Đức Chúa Trời. Lòng vị tha của con người là vì chính họ, trong khi lòng vị tha của Đức Chúa Trời là một sự mặc khải thật về thực chất Ngài. Chính bởi lòng vị tha của Đức Chúa Trời mà con người liên tục được Ngài chu cấp cho. Có thể các ngươi không quá cảm động bởi đề tài mà Ta đang nói đến hôm nay và chỉ đơn thuần gật gù chấp nhận, nhưng khi ngươi cố gắng cảm kích tấm lòng Đức Chúa Trời trong lòng mình, ngươi sẽ vô tình khám phá điều này: Trong số mọi người, sự việc, và sự vật mà ngươi có thể cảm nhận trong thế gian này, chỉ lòng vị tha của Đức Chúa Trời là thật và rõ ràng, bởi vì chỉ tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho ngươi là vô điều kiện và không chút vết nhơ. Ngoài Đức Chúa Trời ra, cái gọi là lòng vị tha của bất kỳ ai khác cũng đều là vờ vịt, hời hợt, không thực; nó có mục đích, có những ý đồ nhất định, mang sự đổi chác, và không thể chịu được thử thách. Các ngươi thậm chí có thể nói rằng nó nhơ bẩn và đáng khinh. Các ngươi có đồng ý với những lời này không?
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 30
Đức Chúa Trời dùng cầu vồng làm biểu tượng cho giao ước của Ngài với con người (Các trích đoạn)
Sách sáng thế 9:11-13 Vậy, ta lập giao ước cùng các ngươi, và các loài xác thịt chẳng bao giờ lại bị nước lụt hủy diệt, và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðây là dấu chỉ về sự giao ước mà ta lập cùng các ngươi, cùng hết thảy vật sống ở với các ngươi, trải qua các đời mãi mãi. Ta đặt mống của ta trên từng mây, dùng làm dấu chỉ sự giao ước của ta với đất.
Ở phần kết câu chuyện về Nô-ê, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời đã dùng một phương pháp khác thường để bày tỏ những cảm xúc của Ngài vào lúc đó. Đó là một phương pháp rất đặc biệt: lập giao ước với con người, tuyên bố chấm dứt sự hủy diệt thế gian của Đức Chúa Trời bằng trận lụt. Ở bề ngoài, việc lập giao ước có vẻ là một điều rất bình thường. Nó không khác gì hơn là dùng từ ngữ để ràng buộc hai bên và ngăn họ vi phạm thỏa thuận của mình, nhằm bảo vệ lợi ích của cả hai. Về hình thức, đó là một điều rất bình thường, nhưng từ những động cơ đằng sau và ý định của Đức Chúa Trời khi làm điều này, đó là một sự tỏ lộ thật sự về tâm tính và trạng thái tinh thần của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chỉ gạt những lời này sang một bên và lờ chúng đi, nếu Ta không bao giờ nói với các ngươi sự thật về các sự việc, thì nhân loại sẽ thật sự không bao giờ biết được suy nghĩ của Đức Chúa Trời. Có lẽ trong trí tưởng tượng của ngươi, Đức Chúa Trời mỉm cười khi Ngài lập giao ước này, hay có lẽ sự bày tỏ của Ngài thật nghiêm túc, nhưng bất kể những sự bày tỏ thông thường nhất nào con người tưởng tượng ra cho Đức Chúa Trời, không ai có thể thấy được lòng Đức Chúa Trời hay nỗi đau của Ngài, huống chi sự cô đơn của Ngài. Không ai có thể làm cho Đức Chúa Trời tin tưởng họ hay xứng đáng với sự tin tưởng của Đức Chúa Trời, hay là người Ngài có thể bày tỏ những ý nghĩ của Ngài hay giãi bày nỗi đau của Ngài. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời không có sự chọn lựa nào khác hơn là làm một việc như thế. Ngoài mặt, Đức Chúa Trời đã làm một điều dễ dàng là từ biệt nhân loại như vốn dĩ, giải quyết vấn đề của quá khứ và đưa ra một kết cuộc hoàn hảo bằng trận lụt hủy diệt thế gian của Ngài. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã chôn giấu nỗi đau bởi khoảnh khắc này tận sâu trong lòng Ngài. Vào lúc Đức Chúa Trời không có bất kỳ ai để giãi bày, Ngài đã lập một giao ước với nhân loại, nói với họ rằng Ngài sẽ không hủy diệt thế gian bằng một trận lụt lần nữa. Khi cầu vồng xuất hiện, đó là để nhắc con người rằng một điều như thế đã xảy ra và để cảnh báo họ kiềm chế việc ác. Ngay cả trong trạng thái đau đớn như thế, Đức Chúa Trời đã không quên nhân loại và vẫn thể hiện sự quan tâm rất nhiều đối với họ. Chẳng phải đó là tình yêu và lòng vị tha của Đức Chúa Trời sao? Thế nhưng con người nghĩ gì khi họ đau khổ? Chẳng phải đây là lúc họ cần Đức Chúa Trời nhất sao? Vào những lúc như thế này, con người luôn lôi Đức Chúa Trời vào để Ngài có thể an ủi họ. Bất kể khi nào, Đức Chúa Trời cũng sẽ không bao giờ làm con người thất vọng, và Ngài sẽ luôn cho phép con người thoát ra khỏi những nguy khốn của họ và sống trong sự sáng. Mặc dù Đức Chúa Trời chu cấp cho nhân loại như vậy, trong lòng con người, Đức Chúa Trời không gì hơn là một viên thuốc an thần, một viên thuốc bổ. Khi Đức Chúa Trời đau khổ, khi lòng Ngài tổn thương, thì việc có một tạo vật hay bất kỳ người nào đồng hành cùng Ngài hay an ủi Ngài hẳn nhiên sẽ chỉ là một ước muốn xa vời đối với Đức Chúa Trời. Con người chẳng bao giờ chú ý đến những cảm xúc của Đức Chúa Trời, do đó Đức Chúa Trời không bao giờ đòi hỏi cũng không kỳ vọng sẽ có ai đó có thể an ủi Ngài. Ngài chỉ dùng những phương pháp của riêng Ngài để bày tỏ tâm trạng của Ngài. Con người không nghĩ rằng việc Đức Chúa Trời trải qua nỗi đau khổ nào đó không phải là một gian khổ to lớn, mà chỉ khi ngươi thật sự cố gắng hiểu Đức Chúa Trời, khi ngươi có thể thật sự cảm kích những ý định thiết tha của Đức Chúa Trời trong mọi việc Ngài làm, thì ngươi mới có thể cảm nhận sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và lòng vị tha của Ngài. Mặc dù Đức Chúa Trời đã dùng cầu vồng để lập một giao ước với nhân loại, Ngài chưa bao giờ nói với bất kỳ ai tại sao Ngài làm như vậy – tại sao Ngài lập giao ước này – nghĩa là Ngài chưa bao giờ nói với bất kỳ ai những ý nghĩ thật của Ngài. Điều này là bởi không ai có thể hiểu thấu chiều sâu của tình yêu mà Đức Chúa Trời có đối với nhân loại mà Ngài đã tự tay tạo nên, và cũng không ai có thể nhận thức rõ lòng Ngài đã chịu bao đau đớn khi Ngài hủy diệt nhân loại. Vì lẽ ấy, ngay cả khi Ngài có nói với con người Ngài cảm thấy thế nào, họ cũng sẽ không thể đảm nhận sự tin tưởng này. Bất chấp đau đớn, Ngài vẫn tiếp tục với bước tiếp theo trong công tác của Ngài. Đức Chúa Trời luôn ban phần tốt nhất của Ngài và những điều tốt nhất của Ngài cho nhân loại, đồng thời tự mình âm thầm chịu đựng mọi đau khổ. Đức Chúa Trời không bao giờ công khai tiết lộ những sự đau khổ này. Thay vào đó, Ngài chịu đựng chúng và chờ đợi trong thinh lặng. Sự chịu đựng của Đức Chúa Trời không lạnh lùng, tê dại, hay bất lực, nó cũng không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối. Đúng hơn, tình yêu và thực chất của Đức Chúa Trời luôn vị tha. Đây là sự tỏ lộ tự nhiên của thực chất và tâm tính Ngài, và là hiện thân đích thực cho thân phận của Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa thật.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời