Câu chuyện rao giảng phúc âm cho một mục sư
Một tối nọ vào tháng 4 năm nay, bỗng nhiên một lãnh đạo bảo tôi, có một Mục sư với hơn 50 năm đức tin muốn tìm hiểu công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời – đó chính là Mục sư Tào ở thôn Tào Gia. Tôi đã tới gặp ông ấy và làm chứng. Lãnh đạo bảo Mục sư Tào trước đây đã đi rao giảng ở nhiều quốc gia, ông ấy không từ bỏ Đức Chúa Trời kể cả khi bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc cầm tù vì đức tin, và ông ấy thực sự tin vào Chúa. Nghe lãnh đạo nói vậy, tôi nhớ tới nhiều mục sư và trưởng lão tôi đã gặp khi rao truyền phúc âm trước đây. Đa số họ bám vào câu chữ Kinh Thánh, giữ chặt quan niệm tôn giáo. Rất khó để họ nhận ra tiếng Đức Chúa Trời hay tiếp nhận lẽ thật. Họ lại còn quá coi trọng địa vị và thu nhập. Một số đã nghe về lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và thừa nhận đó là lẽ thật, nhưng lại không tiếp nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng. Liệu vị mục sư cao niên này có chịu tiếp nhận lẽ thật không? Hay ông ấy cũng sẽ cố chấp bám vào quan niệm tôn giáo hệt như những người khác? Đồng thời, tôi cũng thấy khá lo lắng, vì mấy năm qua tôi thực hiện bổn phận khác, cũng ít khi rao truyền phúc âm. Giờ bỗng nhiên phải gặp trực tiếp một mục sư già đầy kiến thức kinh thánh và quan niệm tôn giáo. Lỡ như tôi thông công lẽ thật không rõ ràng và không hóa giải được quan niệm tôn giáo của ông ấy, chẳng phải bổn phận của tôi thất bại sao? Lúc đó, tôi nhớ tới lời Đức Chúa Trời: “Đức tin của mọi người cần phải có khi điều gì đó không thể được nhìn thấy bằng mắt thường, và đức tin của ngươi cần phải có khi ngươi không thể buông bỏ các quan niệm của chính mình. Khi ngươi không có sự rõ ràng về công tác của Đức Chúa Trời, điều được đòi hỏi ở ngươi là có đức tin, có một lập trường vững chắc và đứng ra làm chứng” (Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đức Thánh Linh làm việc theo nguyên tắc này: Thông qua sự hợp tác của con người, qua việc họ tích cực cầu nguyện, tìm kiếm và đến gần hơn với Đức Chúa Trời, mà những kết quả có thể đạt được và họ có thể được khai sáng và soi sáng bởi Đức Thánh Linh. Không phải Đức Thánh Linh hành động đơn phương, hay con người hành động đơn phương. Cả hai đều không thể thiếu, và con người càng hợp tác cũng như càng theo đuổi việc đạt được các chuẩn mực theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì công tác của Đức Thánh Linh càng nhiều thêm” (Làm sao để biết hiện thực, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đúng vậy. Gặp đối tượng phúc âm tiềm năng thế này là sự an bài của Đức Chúa Trời. Dù trước kia tôi từng thất bại khi rao truyền phúc âm cho các mục sư và trưởng lão, nhưng tôi không được đánh đồng họ đều không thể tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời. Tôi phải có đức tin vào Đức Chúa Trời và thực sự trả giá bằng cách cộng tác. Chiên Đức Chúa Trời nghe tiếng Ngài – ông ấy đã khao khát lẽ thật từ lâu, sẵn sàng tìm hiểu con đường thật, tôi có bổn phận làm chứng công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời với ông ấy. Chỉ cần còn chút tia hy vọng, tôi không được từ bỏ, mà phải nương tựa nơi Đức Chúa Trời và thông công bằng tình yêu và sự nhẫn nại để làm tròn trách nhiệm và bổn phận – như thế thì không còn áy náy hay hối hận gì nữa. Suy nghĩ như thế đã cho tôi đức tin.
Khi gặp Mục sư Tào, tôi hỏi ý kiến của ông ấy về sự tái lâm của Chúa. Ông ấy nghiêm nghị nói, “Kỳ thực, hơn 20 năm trước, có mấy lần người ta rao giảng phúc âm cho tôi. Họ làm chứng rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus đã tái lâm, bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt. Họ nói Kinh Thánh đã chép lại lời và công tác trước đó của Đức Chúa Trời – hiện Đức Chúa Jêsus đã tái lâm, và Ngài đã bày tỏ những lời mới, rằng chỉ đọc những lời mới của Đức Chúa Trời Toàn Năng và thực sự tiếp nhận chúng tôi mới có thể hiểu lẽ thật và được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Nghe nói thế, tôi không thể tiếp nhận – Phao-lô đã nói rất rõ, ‘Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn’ (2 Ti-mô-thê 3:16). Có nghĩa Kinh Thánh là lời Đức Chúa Trời, là kinh điển của Cơ Đốc giáo, không thể chối cãi. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Đức Chúa Trời sẽ còn mãi. Nên các tín hữu mọi thời đại phải đọc Kinh Thánh, và bám vào Kinh Thánh. Lúc đó, tôi tin chắc rằng họ đã sai lầm rồi, cho nên tôi không muốn nghe họ thông công thêm nữa”. Tôi nói với ông ấy: “Mục sư Tào, tôi hiểu vì sao ông nghĩ thế. Hầu hết mọi người trong giới tôn giáo dựa vào lời Phao-lô nói mà xác định rằng mọi lời trong Kinh Thánh là lời Đức Chúa Trời Nhưng phát biểu này có phù hợp với sự thật không?”. Mục sư Tào đáp lại, “Đương nhiên là phù hợp sự thật rồi”. Tôi bảo ông ấy, “Việc Kinh Thánh có hoàn toàn là lời Đức Chúa Trời hay không, đáp án chính xác đã được lời Đức Chúa Trời Toàn Năng đưa ra từ lâu. Chúng ta đọc những lời đó bây giờ luôn được không?”. Ông ấy trông có vẻ nghiêm nghị, do dự một hồi rồi gật đầu chấp thuận: “Đã tới đây rồi thì chị cứ đọc đi”. Vậy nên chúng tôi đã chia sẻ những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng với ông ấy.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ngày nay, mọi người tin Kinh Thánh là Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời là Kinh Thánh. Vì vậy, họ cũng tin rằng mọi lời trong Kinh Thánh là những lời duy nhất Đức Chúa Trời phán, và tất cả chúng đều do Đức Chúa Trời phán. Những người tin vào Đức Chúa Trời thậm chí còn nghĩ rằng mặc dù tất cả sáu mươi sáu sách của Cựu Ước và Tân Ước đều do con người viết ra, nhưng tất cả đều được Đức Chúa Trời soi dẫn, và là bản ghi chép về những lời phán của Đức Thánh Linh. Đây là cách hiểu sai lầm của con người, và nó không hoàn toàn phù hợp với sự thật. Thực ra, ngoài các sách tiên tri, đa phần Cựu Ước là bản ghi chép lịch sử. Một số thư tín của Tân Ước đến từ những kinh nghiệm của con người, và một số đến từ sự khai sáng của Đức Thánh Linh; chẳng hạn, các thư tín của Phao-lô phát xuất từ công tác của một con người, tất cả chúng đều là kết quả của sự khai sáng của Đức Thánh Linh, và chúng đã được viết cho các hội thánh và là những lời khuyên bảo, khích lệ cho các anh chị em trong các hội thánh. Chúng không phải là những lời do Đức Thánh Linh phán – Phao-lô không thể phán nhân danh Đức Thánh Linh, và ông cũng không phải là một tiên tri, lại càng không nhìn thấy những khải tượng mà Giăng đã trông thấy. Các thư tín của ông được viết cho các hội thánh Ê-phê-sô, Phi-la-đen-phi, Ga-la-ti, và các hội thánh khác. Và do đó, các thư tín của Phao-lô trong Tân Ước là các thư tín mà Phao-lô đã viết cho các hội thánh, chứ không phải là những sự soi dẫn từ Đức Thánh Linh, chúng cũng không phải là những lời phán trực tiếp của Đức Thánh Linh. Chúng chỉ đơn thuần là những lời khuyên bảo, an ủi và khích lệ mà ông đã viết cho các hội thánh trong suốt quá trình công tác của mình. Vì vậy, chúng cũng là một bản ghi chép về nhiều công việc của Phao-lô thời đó. Chúng đã được viết cho tất cả những người là các anh chị em trong Chúa, để cho các anh chị em trong các hội thánh thời đó sẽ làm theo lời khuyên của ông và tuân theo con đường ăn năn của Đức Chúa Jêsus” (Xét về Kinh Thánh (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Không phải mọi thứ trong Kinh Thánh đều là bản ghi chép về những lời do Đức Chúa Trời đích thân phán dạy. Kinh Thánh chỉ đơn giản ghi lại hai giai đoạn trước trong công tác của Đức Chúa Trời, trong đó một phần là bản ghi chép về những lời tiên báo của các tiên tri, còn một phần là những kinh nghiệm và kiến thức được viết bởi những người được Đức Chúa Trời sử dụng qua các thời đại. Những kinh nghiệm của con người thì nhiễm những quan điểm và kiến thức của con người, và đây là điều không thể tránh khỏi. Trong nhiều sách của Kinh Thánh có chứa những quan niệm của con người, những thành kiến của con người, và những cách hiểu phi lý của con người. Tất nhiên, hầu hết những lời đó đều là kết quả của sự khai sáng và soi sáng của Đức Thánh Linh, và chúng là những hiểu biết chính xác – nhưng vẫn không thể nói rằng chúng là những sự bày tỏ hoàn toàn chính xác về lẽ thật. Quan điểm của họ về một số điều không gì khác hơn là kiến thức rút ra từ kinh nghiệm cá nhân, hoặc sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Lời tiên báo của các tiên tri đã được Đức Chúa Trời đích thân chỉ dẫn: Những lời tiên tri tương tự như của Ê-sai, Đa-ni-ên, E-xơ-ra, Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên xuất phát từ sự chỉ dẫn trực tiếp của Đức Thánh Linh; những người này là những nhà tiên kiến, họ đã nhận được Thần tiên tri, và tất cả họ đều là các tiên tri của Cựu Ước. Trong Thời đại Luật pháp, những người này, nhận được sự soi dẫn của Đức Giê-hô-va, đã nói nhiều lời tiên tri được Đức Giê-hô-va trực tiếp chỉ dẫn” (Xét về Kinh Thánh (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Trong khi chúng tôi đọc lời Đức Chúa Trời, Mục sư Tào chăm chú lắng nghe, gật đầu lia lịa. Sau đó, tôi thông công: “Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng rất rõ ràng – Kinh Thánh chỉ chép lại hai giai đoạn công tác trước đó của Đức Chúa Trời. Ngoài lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời và lời của Đức Chúa Jêsus, còn có lời của Đức Chúa Trời truyền đạt qua các nhà tiên tri, phần còn lại là ghi chép lịch sử và trải nghiệm của con người. Kinh Thánh không chỉ chứa đựng lời Đức Chúa Trời, mà còn lời của con người, thậm chí là của Sa-tan. Chúng ta phải phân biệt rõ, chứ không được lẫn lộn. Giống như cách Cựu Ước ghi chép lại các lời tiên tri của những nhà tiên tri như Ê-sai, Êlia, hay Êzêkiel. Trước những lời họ nói, luôn có những câu như ‘Đức Giê-hô-va nói vậy’, hay ‘Đức Giê-hô-va nói với’ – chứng tỏ họ đang trực tiếp truyền đạt lời Đức Chúa Trời. Các thư tín của sứ đồ lại là trải nghiệm của con người, bản ghi chép của con người. Thư gửi các hội thánh, như của Phao-lô, là trải nghiệm và hiểu biết của riêng ông. Khi các anh chị em lúc nhận được thư của Phao-lô thì nói rằng ‘Thư của Phao-lô đến’. Họ chưa bao giờ nói ‘Lời Đức Chúa Trời đã đến’, đúng vậy không? Cho nên tuyệt đối không thể nói những thư tín đó là lời của Đức Chúa Trời. Lấy lời của con người và Sa-tan trong Kinh Thánh và tuyên bố đó là lời của Đức Chúa Trời, chẳng phải là phỉ báng Ngài sao? Như vậy niềm tin rằng ‘Cả Kinh Thánh đều bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, và hoàn toàn là lời Đức Chúa Trời’ về cơ bản là không đúng”.
Nghe tôi nói xong, Mục sư Tào sửng sốt và xúc động bảo tôi, “Tôi nhớ lúc học thần học, giảng viên của tôi đã nói rằng cả Kinh Thánh đều bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, và đó là lời Đức Chúa Trời. Đó là điều chúng ta luôn nói bao năm nay. Liệu Phao-lô có thể nhầm sao?”. Nghe Mục sư Tào hỏi vậy, tôi bỗng giật mình lo ngại. Lúc thấy ông ấy gật gù, tôi cứ tưởng rằng ông ấy đã hiểu, nhưng hóa ra ông không hiểu một chút nào. Có phải Mục sư Tào cũng như các lãnh đạo tôn giáo kia, đều không hiểu được lời Đức Chúa Trời? Nhưng rồi tôi lại nghĩ, “Vị mục sư già này đã bám vào quan niệm tôn giáo hàng chục năm – liệu ông ấy có dễ dàng gạt bỏ nó như vậy không? Mình phải kiên trì thông công mới được”. Sau đó tôi tiếp tục thông công: “Bây giờ đừng quan tâm việc Phao-lô đúng hay sai. Hãy chú ý đến các sự thật. Mục sư Tào, ông hẳn biết rằng Kinh Thánh được biên soạn như thế nào. Bao nhiêu năm sau thời của Chúa thì Phao-lô mới viết thư Ti-mô-thê 2?”. Không chút do dự, ông ấy bảo là hơn 60 năm sau. “Và bao nhiêu năm sau thời của Chúa thì Tân Ước được biên soạn?”. Ông ấy bảo hơn 300 năm sau thời của Chúa. Tôi mới nói: “Giờ hãy nghĩ xem – khi Phao-lô viết thư Ti-mô-thê 2, Tân Ước có tồn tại chưa?”. Ông ấy giật mình nói, “Chưa có”. Tôi hỏi tiếp: “Nếu chưa có, thì lời Phao-lô nói, ‘Cả Kinh Thánh đều là bởi Ðức Chúa Trời soi dẫn’, có bao gồm cả Tân Ước không?”. Ông ấy mở to mắt và nói, “Giờ tôi hiểu rồi. Lời của Phao-lô không thể bao gồm cả Tân Ước. Tạ ơn Chúa! Sao trước đây, tôi lại không nghĩ đến nhỉ? Suốt bao năm tin Chúa, chúng tôi luôn tin rằng ‘Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, và đó là lời Ngài’, và đã rao giảng về điều này khắp nơi. Chúng tôi chưa từng nghi ngờ về tính xác thực của phát biểu này. Giờ chị thông công như thế thì tôi mới hiểu – Kinh Thánh không hoàn toàn là lời Đức Chúa Trời và quan niệm hàng chục năm của tôi phải thay đổi thôi. Tạ ơn Đức Chúa Trời!”. Thấy quan niệm của Mục sư Tào đã được hóa giải, tôi càng cảm thêm tự tin rao giảng phúc âm cho ông ấy.
Nên tôi tiếp tục thông công với ông ấy: “Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt để thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt, bày tỏ hàng triệu lời về lẽ thật – không chỉ tiết lộ lẽ nhiệm mầu của Kinh Thánh, mà cả toàn bộ lẽ nhiệm mầu của kế hoạch quản lý 6.000 năm của Ngài, chẳng hạn như lẽ nhiệm mầu của 3 giai đoạn công tác, danh Ngài và sự nhập thể của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng cũng đã tỏ lộ lẽ thật về sự bại hoại của con người do Sa-tan, bản tính Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời của con người và các tâm tính Sa-tan khác nhau, Ngài đã chỉ ra con đường để chúng ta thoát khỏi tội lỗi và được Ngài cứu rỗi. Những lẽ thật mà Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ là lời của Đức Thánh Linh phán cùng các hội thánh, là con đường tới sự sống đời đời mà Đức Chúa Trời ban cho nhân loại vào thời kỳ sau rốt, và là con đường duy nhất để được cứu rỗi và bước vào thiên quốc”. Ông ấy đã tiếp nhận, nhưng vẫn còn quan niệm về việc Đức Chúa Trời trở nên xác thịt làm nữ nhân vào thời kỳ sau rốt. Ông ấy nói: “Chị à, giờ tôi có thể tiếp nhận công tác phán xét và làm tinh sạch của Đức Chúa Trời Toàn Năng, nhưng sao chị có thể làm chứng rằng Đức Chúa Jêsus đã trở nên xác thịt làm một nữ nhân? Lần cuối giáng trần, Đức Chúa Jêsus là một nam nhân – và Kinh Thánh hay gọi Ngài là ‘Con trai’ – nên lẽ ra Ngài phải là nam nhân khi Ngài tái lâm. Sao Ngài lại là nữ nhân được? Tôi không thể hiểu được. Chị có thể thông công chỗ này cho tôi được không?”. Tôi nói, “Hai ngàn năm qua, mọi tín hữu đều tưởng rằng vì Đức Chúa Jêsus đến làm nam nhân, nên chắc chắn Ngài cũng sẽ tái lâm làm nam nhân, không phải là nữ nhân. Thế nhưng Đức Chúa Trời Toàn Năng lại trở nên xác thịt làm nữ nhân vào thời kỳ sau rốt – khiến nhiều người thấy khó chấp nhận. Nhưng ta phải hiểu rằng mọi người càng có quan niệm về điều gì, thì hẳn có lẽ thật ẩn sau đó để chúng ta tìm kiếm. Trong Kinh Thánh, khi tiên tri về sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus, có nhắc đến ‘Con người’, ‘sự đến của Con người’, ‘Con người đã đến’, và ‘Con người trong ngày của Ngài’. ‘Con người’ này nghĩa là gì? Điều này nghĩa là một người được sinh ra làm con người, có nhân tính bình thường – bất kể họ là nam hay nữ. Vậy tại sao Đức Chúa Jêsus nhiều lần nhấn mạnh cụm từ ‘Con người’? Ngài muốn nói với chúng ta rằng vào thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời sẽ tái lâm nhập thể, làm Con người, để bày tỏ và công tác. Nhưng Đức Chúa Jêsus chưa hề nói Con người vào thời kỳ sau rốt sẽ là nam hay nữ. Vậy làm sao mọi người tùy tiện quyết định được? Chúng ta đều biết Sáng Thế Ký chương 1, câu 27: ‘Ðức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Ðức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ’. Có thể thấy ban đầu Đức Chúa Trời tạo ra nam và nữ theo hình tượng của Ngài. Nếu chúng ta quy định Đức Chúa Trời là nam, thì sao giải thích được việc Đức Chúa Trời cũng tạo ra nữ nhân theo hình tượng của Ngài? Nên chúng ta không thể hạn định Đức Chúa Trời dựa vào quan niệm hay tưởng tượng của mình”. Rồi tôi đọc cho Mục sư Tào nghe một vài đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Mỗi giai đoạn công tác được Đức Chúa Trời thực hiện đều có ý nghĩa thực tế riêng của nó. Thời xưa, khi Jêsus đến, Ngài đến trong hình hài người nam, và khi Đức Chúa Trời đến lần này, hình hài của Ngài là người nữ. Từ điều này, ngươi có thể thấy rằng sự tạo dựng cả người nam và người nữ của Đức Chúa Trời đều có thể hữu dụng trong công tác của Ngài, và với Ngài không có sự phân biệt giới tính. Khi Thần của Ngài đến, Ngài có thể mang lấy bất kỳ xác thịt nào mà Ngài muốn, và xác thịt đó có thể đại diện cho Ngài; dù là nam hay nữ, nó có thể đại diện cho Đức Chúa Trời miễn nó là xác thịt nhập thể của Ngài. Nếu Jêsus đã xuất hiện trong thân phận một người nữ khi Ngài đến, nói cách khác, nếu một bé gái sơ sinh, chứ không phải một bé trai, đã được thai dựng bởi Đức Thánh Linh, thì giai đoạn công tác đó sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Nếu đúng là như thế, thì giai đoạn công tác hiện tại thay vào đó sẽ phải được hoàn thành bởi một người nam, nhưng công tác sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Công tác được thực hiện trong mỗi giai đoạn đều có ý nghĩa; không có giai đoạn công tác nào bị lặp lại, chúng cũng không mâu thuẫn với nhau” (Hai lần nhập thể hoàn tất ý nghĩa của sự nhập thể, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Về giới tính, một người là nam và người kia là nữ, như vậy làm trọn ý nghĩa sự nhập thể của Đức Chúa Trời, và xua tan những quan niệm của con người về Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời có thể trở thành cả nam lẫn nữ, và về thực chất, Đức Chúa Trời nhập thể là phi giới tính. Ngài đã tạo nên cả người nam và người nữ, còn đối với Ngài, thì không có sự phân chia giới tính” (Thực chất của xác thịt mà Đức Chúa Trời ngự vào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Nếu Đức Chúa Trời trở nên xác thịt chỉ là một người nam, mọi người sẽ định nghĩa Ngài là nam, là Đức Chúa Trời của người nam, và sẽ không bao giờ tin Ngài là Đức Chúa Trời của người nữ. Khi đó, người nam sẽ cho rằng Đức Chúa Trời có cùng giới tính như người nam, rằng Đức Chúa Trời là thủ lĩnh của người nam – nhưng vậy còn người nữ thì sao? Điều này không công bằng; chẳng phải đó là sự thiên vị sao? Nếu đúng như vậy, thì tất cả những người được Đức Chúa Trời cứu sẽ là người nam giống như Ngài, và sẽ không một người nữ nào được cứu. Khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người, Ngài đã dựng nên A-đam và Ngài đã dựng nên Ê-va. Ngài đã không chỉ dựng nên A-đam, mà dựng nên cả người nam và người nữ theo hình Ngài. Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Chúa Trời của người nam – Ngài còn là Đức Chúa Trời của người nữ” (Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Đọc xong, tôi thông công tiếp: “Chúng ta đều biết thuở ban đầu Đức Chúa Trời tạo ra nam và nữ theo hình tượng của Ngài. Nên dĩ nhiên Đức Chúa Trời có thể trở nên xác thịt làm nam, nhưng cũng có thể làm nữ. Nếu Đức Chúa Trời nhập thể hai lần làm nam nhân, thì con người có thể hạn định Ngài, và tin rằng Ngài chỉ có thể trở nên xác thịt làm nam nhân, chứ không phải nữ nhân – rằng Ngài chỉ là Đức Chúa Trời của nam, chứ không phải của nữ – đây chẳng phải là hiểu nhầm tai hại về Ngài sao? Đây sẽ là sự phân biệt đối xử đời đời với nữ giới. Sẽ rất bất công cho nữ giới. Đức Chúa Trời rất công chính. Nên đầu tiên Ngài nhập thể làm nam nhân, và vào thời kỳ sau rốt thì nhập thể làm nữ nhân. Điều này có ý nghĩa rất lớn. Nó cho thấy tâm tính hoàn toàn công chính của Đức Chúa Trời, thể hiện rằng Ngài đối xử công bằng giữa nam và nữ. Việc này làm trọn vẹn ý nghĩa việc Ngài tạo ra nam và nữ. Thật ra, Đức Chúa Trời nhập thể làm nam hay nữ không quan trọng. Chỉ cần người này có thể bày tỏ lẽ thật, và thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại, thì có thể đại diện cho Đức Chúa Trời, và là chính Đức Chúa Trời nhập thể. Vào thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời Toàn Năng đã đến. Ngài đang bày tỏ mọi lẽ thật để làm tinh sạch và cứu rỗi con người, thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt, mở ra Thời đại Vương quốc, và kết thúc Thời đại Ân điển. Việc này chứng tỏ chắc chắn Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Trời nhập thể, và là Đức Chúa Jêsus tái lâm”.
Lúc đó, Mục sư Tào đáp lại tôi với giọng rất nghiêm túc: “Chị à, mọi lời chị nói rất hợp lý và tôi không phản bác được. Nhưng còn có điều này tôi chưa hiểu. Trong Sáng Thế Ký chương 3, câu 16: Đức Chúa Trời phán: ‘Sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi’. Và thư Cô-rin-tô chương 11, câu 3 có nói, ‘Người đờn ông là đầu người đờn bà’. Từ những lời này ta thấy rằng nữ nhân là nguồn gốc của sự bại hoại, và chịu sự cai quản của nam nhân. Vậy sao Chúa có thể tái lâm làm nữ nhân được?”. Nghe những lời của Mục sư Tào, tôi nghĩ: “Tôi đã đọc nhiều lời Đức Chúa Trời cho ông, còn thông công rất cặn kẽ, thế mà ông vẫn hạn định Đức Chúa Trời là nam nhân và không chịu tiếp nhận sự thật việc Ngài nhập thể làm nữ nhân. Có vẻ không dễ để ông gạt bỏ quan niệm của mình”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Quan niệm đó là vì sự lệch lạc trong hiểu biết về Kinh Thánh của ông ấy. Nếu ông ấy hiểu lẽ thật, những quan niệm này sẽ tự nhiên bị xóa bỏ”. Tôi mới nói với ông ấy, “Mục sư Tào, Đức Chúa Trời Toàn Năng đã phán rất rõ về vấn đề này. Hãy cùng xem Ngài phán gì”.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Trong quá khứ, khi người ta nói rằng người nam là đầu của người nữ, điều này nhắm vào A-đam và Ê-va, những người đã bị con rắn dụ dỗ – không phải nhắm vào người nam và người nữ như khi họ được Đức Giê-hô-va tạo dựng nên lúc ban đầu. Tất nhiên, một người phụ nữ phải vâng lời và yêu thương chồng mình, còn một người chồng phải học cách nuôi dưỡng và chu cấp cho gia đình mình. Đây là những luật lệ và sắc lệnh do Đức Giê-hô-va đặt ra mà loài người phải tuân theo trong cuộc sống của họ trên đất. Đức Giê-hô-va đã phán với người nữ: ‘Sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi’. Ngài chỉ phán như vậy hầu cho loài người (nghĩa là, cả người nam và người nữ) có thể sống cuộc đời bình thường dưới sự thống trị của Đức Giê-hô-va, và hầu cho cuộc sống của loài người có thể có được một kết cấu, và không chệch ra khỏi trật tự đúng đắn của chúng. Do đó, Đức Giê-hô-va đã đưa ra các quy tắc phù hợp về cách người nam và người nữ nên hành động, mặc dù điều này chỉ liên quan đến muôn loài thọ tạo sống trên đất, và không liên quan gì đến xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời. Làm sao Đức Chúa Trời có thể giống như những loài thọ tạo của Ngài được? Những lời của Ngài chỉ nhắm vào loài người được Ngài dựng nên mà thôi; chính vì để cho loài người sống cuộc đời bình thường mà Ngài đã thiết lập các quy tắc cho người nam và người nữ. Ban đầu, khi Đức Giê-hô-va dựng nên loài người, Ngài đã dựng nên hai loại người, cả nam và nữ; và do đó có sự phân chia giữa nam và nữ trong các xác thịt nhập thể của Ngài. Ngài đã không quyết định công việc của Ngài dựa trên những lời Ngài đã phán với A-đam và Ê-va. Hai lần Ngài trở nên xác thịt đã được quyết định hoàn toàn dựa theo suy nghĩ của Ngài tại thời điểm Ngài tạo dựng nên loài người lần đầu tiên; nghĩa là, Ngài đã hoàn tất công tác của hai lần nhập thể của Ngài dựa trên người nam và người nữ trước khi họ bị bại hoại. … Khi Đức Giê-hô-va hai lần trở nên xác thịt, giới tính của xác thịt Ngài liên quan đến người nam và người nữ chưa bị con rắn cám dỗ; chính vì để phù hợp với người nam và người nữ chưa bị con rắn lừa gạt mà Ngài đã hai lần trở nên xác thịt. Đừng nghĩ rằng nam tính của Jêsus cũng giống như của A-đam, người đã bị con rắn dụ dỗ. Hai người hoàn toàn không liên quan, họ là hai người nam với hai bản chất khác nhau. Chắc chắn không thể nào nam tính của Jêsus lại chứng minh Ngài là đầu của mọi người nữ mà không phải là đầu của mọi người nam? Chẳng phải Ngài là Vua của tất cả người Do Thái (bao gồm cả nam và nữ) sao? Ngài chính là Đức Chúa Trời, không chỉ là đầu của người nữ mà cũng là đầu của người nam. Ngài là Chúa của mọi tạo vật và là đầu của mọi tạo vật. Làm sao ngươi có thể định đoạt nam tính của Jêsus là biểu tượng của đầu của người nữ? Điều này chẳng phải là phạm thượng sao? Jêsus là một người nam chưa bị bại hoại. Ngài là Đức Chúa Trời; Ngài là Đấng Christ; Ngài là Chúa. Làm sao Ngài có thể là một người nam giống như A-đam, là người đã bị bại hoại được? Jêsus là xác thịt được mặc lấy bởi Thần thánh khiết nhất của Đức Chúa Trời. Làm sao ngươi có thể nói Ngài là một Đức Chúa Trời sở hữu nam tính của A-đam? Trong trường hợp đó, chẳng lẽ mọi công tác của Đức Chúa Trời đều đã sai trật ư? Liệu Đức Giê-hô-va có kết hợp bên trong Jêsus nam tính của A-đam, là người đã bị con rắn dụ dỗ không? Chẳng phải sự nhập thể của thời hiện tại là một ví dụ khác về công tác của Đức Chúa Trời nhập thể, Đấng khác giới tính với Jêsus nhưng giống Ngài về bản chất sao? Ngươi vẫn dám nói rằng Đức Chúa Trời nhập thể không thể là người nữ, bởi vì người nữ là người đầu tiên bị con rắn dụ dỗ sao? Ngươi vẫn dám nói rằng, vì người nữ là người ô uế nhất và là nguồn gốc cho sự bại hoại của loài người, nên Đức Chúa Trời không thể nào trở nên xác thịt như một người nữ sao? Ngươi có dám khăng khăng nói rằng ‘người nữ phải luôn vâng lời người nam và không bao giờ có thể biểu lộ hay đại diện trực tiếp cho Đức Chúa Trời’ không?” (Hai lần nhập thể hoàn tất ý nghĩa của sự nhập thể, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Tôi nói tiếp: “Từ lời Đức Chúa Trời Toàn Năng ta thấy rằng khi Đức Chúa Trời phán với nữ nhân, ‘Và dục vọng của ngươi sẽ hướng về chồng, và chồng ngươi sẽ cai quản ngươi’, đây là yêu cầu và sự quản thúc của Đức Chúa Trời đối với nhân loại bại hoại, để nhân loại bại hoại có thể sống dưới sự tể trị của Giê-hô-va Đức Chúa Trời một cách có kỷ luật. Yêu cầu này chẳng hề liên quan gì đến sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Giống như trong Cựu Ước, khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ra lệnh cho con người giữ ngày Sa-bát. Đây là điều Đức Chúa Trời yêu cầu con người – con người không thể yêu cầu Đức Chúa Jêsus phải làm thế. Như Đức Chúa Jêsus đã phán, ‘Vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải vì ngày Sa-bát mà dựng nên loài người. Vậy thì Con người cũng làm chủ ngày Sa-bát’ (Mác 2:27-28). Cho nên, dù Kinh Thánh nói, ‘Sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi’ (Sách sáng thế 3:16), ‘Người đờn ông là đầu người đờn bà’ (1 Cô-rinh-tô 11:3), những điều này không liên quan gì đến sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Bất kể Đức Chúa Trời nhập thể làm nam hay nữ, thì vẫn luôn là xác thịt mà Thần của Ngài mang, và luôn là chính Đức Chúa Trời. Nếu con người dùng những lời này để hạn định Đức Chúa Trời là nam, không được trở thành nữ, và chối bỏ Đức Chúa Trời nhập thể vào thời kỳ sau rốt, đây chẳng phải là đánh đồng Đức Chúa Trời nhập thể với con người bại hoại sao? Chẳng phải đây là phỉ báng Đức Chúa Trời sao?”. Nghe tôi nói xong, Mục sư Tào sửng sốt. Ông ấy nghiêm mặt nói, “Chị à, bởi lẽ Chúa đã đến trong xác thịt, Ngài hẳn sẽ làm con người và có giới tính. Chỉ là ngay lúc này tôi không thể nào lập tức tiếp nhận chuyện Ngài đã nhập thể làm nữ nhân. Tôi phải cầu nguyện và xin Chúa khai sáng cho tôi”. Khi nghe mục sư nói vậy, tôi có chút lo lắng và lúng túng. Tôi đã thông công rất kỹ, sao ông ấy vẫn chưa gạt bỏ được quan niệm của mình? Chuyện gì đang xảy ra vậy? Ông ấy không hiểu lời Đức Chúa Trời à? Ông ấy có phải chiên của Đức Chúa Trời không? Tôi có nên nói chuyện tiếp với ông ấy không? Tôi phải rút ra bài học gì đây? Tôi thầm cầu nguyện Đức Chúa Trời.
Sau đó, tôi nhớ lại lời Đức Chúa Trời: “Trong việc truyền bá Phúc Âm, ngươi phải hoàn thành trách nhiệm của mình và đối xử một cách nghiêm túc với tất cả những người mà ngươi truyền bá. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người ở phạm vi hết sức có thể, và ngươi phải lưu tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, ngươi không được bất cẩn bỏ qua bất kỳ ai đang tìm kiếm và xem xét con đường thật. … Một số người xem xét con đường thật có khả năng hiểu và có tố chất tuyệt vời, nhưng lại kiêu ngạo và tự nên công chính, bám chặt lấy các quan niệm tôn giáo, vì vậy lẽ thật nên được thông công với họ để giúp giải quyết điều này. Ngươi chỉ nên từ bỏ nếu họ không tiếp nhận lẽ thật cho dù ngươi có thông công với họ như thế nào, vì khi đó ngươi đã làm tất cả những gì có thể và phải làm” (Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời giúp tôi bình tâm. Đức Chúa Trời yêu cầu chúng ta yêu thương và nhẫn nại với những đối tượng phúc âm tiềm năng. Bất kể cuối cùng họ có tiếp nhận phúc âm hay không, thì chúng ta đã làm hết những gì có thể. Tôi nhận ra mình chưa làm hết sức có thể khi rao giảng phúc âm với Mục sư Tào. Tôi chưa đạt yêu cầu của Đức Chúa Trời. Thấy ông ấy bám vào Kinh Thánh, không chịu đổi ý, nên nghĩ ông ấy sẽ không bao giờ tiếp nhận lẽ thật. Ông ấy có quan niệm về sự nhập thể làm nữ nhân của Đức Chúa Trời và chưa thể hiểu ngay thông công của tôi, nên tôi đã lại mất kiên nhẫn. Tôi có định kiến với Mục sư Tào, nghĩ rằng các mục sư không dễ dàng nhận ra tiếng Đức Chúa Trời. Khi ông ấy có quan niệm không thể vượt qua được tôi đã hạn định ông ấy, thậm chí muốn từ bỏ. Tôi nghĩ về việc Đức Chúa Trời đã nỗ lực hết tâm huyết để cứu rỗi nhân loại bại hoại, và việc Ngài đã bày tỏ rất nhiều lời để cung dưỡng cho chúng ta. Để giúp chúng ta hiểu lẽ thật, Ngài thông công với chúng ta, giải thích cặn kẽ mọi lẽ thật. Ngài phán bằng các câu chuyện và phép ẩn dụ, phán từ mọi khía cạnh, để cung cấp đầy đủ chi tiết và sự sáng tỏ. Tôi đã thấy tình yêu của Đức Chúa Trời cho nhân loại và những gì Ngài dành cho chúng ta thật vĩ đại đến mức không thể biểu đạt bằng lời. Nhưng trong bổn phận rao truyền phúc âm của mình, tôi đã ngại khó và muốn từ bỏ Mục sư Tào. Lòng yêu thương của tôi đâu rồi? Sao tôi có thể thực hiện bổn phận như vậy chứ? Dù Mục sư Tào không thể đổi ý ngay, tôi cũng không được mất kiên nhẫn. Tôi phải dùng tình yêu đối đãi với ông ấy, nếu ông ấy không hiểu, tôi phải thông công lâu hơn nữa, cầu nguyện và nương tựa nơi Đức Chúa Trời và xin Ngài khai sáng cho vị mục sư.
Nghĩ vậy, tôi tiếp tục thông công với Mục sư Tào. “Khi chúng ta tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, chúng ta tin vào lẽ thật mà Ngài bày tỏ. Bất kể sự nhập thể của Đức Chúa Trời là nam nhân hay nữ nhân, chỉ cần Ngài bày tỏ lẽ thật, có thể làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại, Ngài chính là chính Đức Chúa Trời, và chúng ta phải tin và tiếp nhận Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã công tác hơn 30 năm, bày tỏ hàng triệu lời. Ngài đã bày tỏ mọi lẽ thật để giải thoát con người khỏi tội lỗi và đưa chúng ta đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Nhiều người mong mỏi Đức Chúa Trời xuất hiện, từ mọi tôn giáo và giáo phái, đã nhận ra tiếng Đức Chúa Trời trong lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng và hướng về Ngài. Những người này đều là trinh nữ khôn ngoan. Họ đã trải nghiệm sự phán xét và hành phạt của lời Đức Chúa Trời, thấy lẽ thật về sự bại hoại của mình, cảm thấy hối hận và căm ghét bản thân. Nhận ra rằng tâm tính công chính của Đức Chúa Trời không dung thứ cho sự xúc phạm, họ kính sợ Đức Chúa Trời, thực sự hối cải, và tâm tính bại hoại của họ dần thay đổi. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã lập nên một nhóm những người đắc thắng trước đại họa – họ là những quả đầu tiên được tiên tri trong Khải Huyền. Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và chứng ngôn từ những người được chọn của Đức Chúa Trời khi chiến thắng Sa-tan đã được đăng lên mạng từ lâu, làm chứng với toàn bộ nhân loại rằng Đấng Cứu Thế đã tái lâm. Ngày càng nhiều người từ mọi quốc gia đang tìm hiểu con đường thật. Công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng kết thúc kế hoạch quản lý 6.000 năm cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, hoàn toàn cứu rỗi chúng ta khỏi sự thống trị của Sa-tan. Tất cả được hoàn thành bởi công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng chứng tỏ rằng chắc chắn Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Trời nhập thể, chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm. Điều này nghĩa là việc quyết định Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Jêsus tái lâm không thể chỉ dựa vào giới tính. Ngài có bày tỏ được lẽ thật và thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại không? Đây chính là điểm mấu chốt”. Lúc này, Mục sư Tào nghiêm nghị nói: “Chị à, tôi hiểu thông công của chị rồi. Nếu một người có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác cứu rỗi, thì bất kể là nam nhân hay nữ nhân, họ chính là Đức Chúa Trời nhập thể. Giờ lòng tôi đã sáng tỏ rồi!”.
Sau đó, Mục sư Tào đọc thêm rất nhiều lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng, quan niệm của ông ấy đã được hóa giải, Ông ấy đã tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời.
Qua trải nghiệm chia sẻ phúc âm này, tôi thấy rằng công tác của Đức Chúa Trời được chính bản thân Đức Chúa Trời thực hiện. Dù là mục sư hay trưởng lão, bất kể kiến thức Kinh Thánh, hiểu biết thần học hay quan niệm tôn giáo, tất cả chúng đều vô dụng trước lẽ thật. Chỉ cần họ hiểu được lời Đức Chúa Trời, có thể tiếp nhận và sẵn sàng tìm kiếm lẽ thật, họ có thể tìm câu trả lời trong lời Đức Chúa Trời, và cuối cùng sẽ bị chúng chinh phục. Khi tôi chia sẻ phúc âm với Mục sư Tào, tôi nghĩ các mục sư và trưởng lão sẽ khó tiếp nhận lẽ thật, nên tôi đã có định kiến với Mục sư Tào. Khi chia sẻ phúc âm với ông ấy, thấy ông ấy bám vào quan niệm, tôi đã cho rằng ông ấy không hiểu tiếng Đức Chúa Trời, và suýt nữa từ bỏ. May thay lời Đức Chúa Trời đã dẫn dắt tôi và tôi đã có thể hiểu bản thân và hoàn thành bổn phận.
Sau đó, tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời đã làm sáng tỏ cách để đối đãi với những đối tượng phúc âm tiềm năng có quan niệm. “Nếu một người đang xem xét con đường thật liên tục đặt câu hỏi, ngươi nên ứng phó như thế nào? Ngươi không nên sợ mất thời gian và phiền hà khi trả lời họ, và nên tìm cách để thông công rõ về câu hỏi của họ, cho đến khi họ hiểu và không hỏi lại nữa. Khi đó, ngươi sẽ làm tròn trách nhiệm của mình và lòng của ngươi sẽ không có cảm giác tội lỗi. Quan trọng nhất là ngươi sẽ không còn cảm giác tội lỗi đối với Đức Chúa Trời trong vấn đề này, bởi vì bổn phận này, trách nhiệm này được Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi. Khi mọi việc ngươi làm được thực hiện trước Đức Chúa Trời, được thực hiện đối mặt với Đức Chúa Trời, khi mọi việc được thực hiện theo lời Đức Chúa Trời, theo nguyên tắc của lẽ thật, thì việc thực hành của ngươi sẽ hoàn toàn phù hợp với lẽ thật và những yêu cầu của Đức Chúa Trời. Theo cách này, tất cả những gì ngươi nói và làm sẽ mang lại lợi ích cho mọi người, và sẽ được họ tán thành cũng như dễ dàng tiếp nhận” (Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng bất kể vấn đề hay quan niệm tôn giáo ra sao, nếu những người tìm hiểu con đường thật có nhân tính tốt, khao khát lẽ thật, và có thể hiểu lời Đức Chúa Trời, thì chúng ta không nên có định kiến hay tùy tiện hạn định họ, chứ đừng nói đến việc từ bỏ. Thay vào đó, chúng ta nên thực hành lời Đức Chúa Trời, “Ngươi không nên sợ mất thời gian và phiền hà khi trả lời họ, và nên tìm cách để thông công rõ về câu hỏi của họ”, thông công lẽ thật mà chúng ta hiểu cho họ hết sức có thể cho đến khi không còn gì áy náy. Đây cũng là trách nhiệm của tôi với tư cách một tạo vật. Sau này, bất kể gặp phải đối tượng phúc âm tiềm năng như thế nào, nếu họ có nhân tính tốt và hiểu lời Đức Chúa Trời, tôi sẽ làm hết sức mình để thông công lẽ thật và làm chứng cho Đức Chúa Trời, để những ai chân thành khao khát sự xuất hiện của Đức Chúa Trời có thể hướng về Ngài càng sớm càng tốt, và nghênh tiếp sự tái lâm của Chúa. Tạ ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?