Hậu quả của việc luôn chiều lòng người khác

23/02/2023

Bởi Tâm Thành, Hoa Kỳ

Tôi phụ trách công tác Phúc Âm trong hội thánh. Chị Wanda và tôi đều cùng là trưởng nhóm. Lúc đầu, tôi thấy chị Wanda chủ động trong bổn phận và làm việc khá hiệu quả. Tôi nghĩ chị ấy là người có trách nhiệm và mang gánh nặng. Nhưng sau một thời gian, tôi để ý thấy chị ấy ngày càng thụ động trong bổn phận. Chị ấy hiếm khi nhận ra vấn đề trong công việc, chứ đừng nói là giải quyết chúng. Trước kia, khi chúng tôi tổng kết công việc, chị ấy luôn đến gặp tôi để tổng kết các vấn đề hay sai phạm trong công việc, và để thảo luận cách giải quyết. Nhưng lần này, chị ấy lại không có động tĩnh gì. Thông thường, chúng tôi chia sẻ rất nhiều việc trong nhóm, và các vấn đề được tổng kết kịp thời. Việc này có thể giải quyết vấn đề tốt hơn và cải thiện được hiệu quả công việc. Nhưng giờ chị Wanda không chú tâm vào các vấn đề của nhóm. Tôi nghĩ: “Chị ấy đang không thực hiện bổn phận trưởng nhóm của mình. Điều này là không thể chấp nhận được, mình phải thông công với chị ấy”. Nhưng tôi cũng nghĩ: “Mối quan hệ của mình với chị Wanda bình thường khá tốt. Nếu mình nói thẳng với chị ấy rằng chị ấy không mang gánh nặng lắm trong bổn phận và không làm được công tác thực tế nào, thì có làm chị ấy mất mặt không? Nếu nói vậy, mình sẽ làm mất hòa khí, sau đó làm sao mình hòa thuận với chị ấy được đây? Bỏ đi. Tốt hơn là không nên mạo hiểm. Mình không nên làm chị ấy buồn”. Lúc đó, tôi thường xuyên cảm thấy cắn rứt lương tâm: “Chẳng phải tình trạng của chị Wanda đã xấu đi trong suốt thời gian này sao? Nếu cứ như thế, đời sống của chị ấy sẽ phải chịu tổn hại và sẽ ảnh hưởng đến công việc của chị ấy. Chẳng phải mình nên nhanh chóng thông công với chị ấy sao? Nhưng nếu mình cứ thế mà chỉ ra rằng chị ấy thiếu gánh nặng, thì liệu chị ấy có cảm thấy kìm kẹp và nghĩ mình đang giám sát công việc của chị ấy không? Có lẽ mình chỉ nên nói với lãnh đạo và để chị ấy giúp chị Wanda. Thế thì mình sẽ không phải xúc phạm chị ấy”. Nhưng rồi tôi nghĩ: “Nếu mình nói với lãnh đạo mà chị Wanda phát hiện ra, thì chị ấy có nói mình mách lẻo về chuyện của chị ấy không? Không, tốt hơn là mình không nên nói gì cả”. Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại như vậy và không sao nghĩ thông được chuyện này. Tôi nhận thức được tình trạng của mình là sai, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi tìm kiếm lẽ thật và sửa chữa lỗi lầm của tôi.

Có lần trong một cuộc họp, tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Khi ngươi thấy một vấn đề và không làm gì để ngăn chặn, không thông công vấn đề đó, không cố gắng hạn chế nó, bên cạnh đó còn không báo cáo việc đó lên cấp trên của mình, mà còn đóng vai một ‘người tốt’, đấy có phải là dấu hiệu của sự không trung thành không? Những người tốt có trung thành với Đức Chúa Trời không? Không một chút nào. Những người như thế không chỉ không trung thành với Đức Chúa Trời – họ còn đang đóng vai đồng phạm với Sa-tan, kẻ hầu cận và đi theo nó. Họ không trung thành trong bổn phận và trách nhiệm của mình, nhưng với Sa-tan thì lại hoàn toàn trung thành. Bản chất của vấn đề là nằm ở đây. Đối với sự thiếu trình độ chuyên môn, có thể liên tục học hỏi và đúc kết kinh nghiệm của ngươi trong khi thực hiện bổn phận. Những vấn đề như vậy có thể dễ dàng giải quyết được. Điều khó giải quyết nhất là tâm tính bại hoại của con người. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật hoặc không giải quyết tâm tính bại hoại của mình, mà luôn đóng vai người tử tế, không xử lý hay giúp đỡ những người mà ngươi thấy là vi phạm nguyên tắc, cũng không vạch trần hay phơi bày họ, mà luôn thu mình lại, không chịu trách nhiệm, thì việc thực hiện bổn phận như của ngươi sẽ chỉ làm tổn hại và trì hoãn công việc của hội thánh mà thôi(Muốn thực hiện bổn phận một cách đúng đắn đòi hỏi phải có sự hợp tác hài hòa, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Con người cư xử và đối đãi với người khác phải dựa trên lời Đức Chúa Trời; đây là nguyên tắc xử sự cơ bản nhất của con người. Làm sao con người có thể thực hành lẽ thật nếu họ không hiểu được các nguyên tắc xử sự của con người? Thực hành lẽ thật không phải là nói những lời sáo rỗng và hô hào khẩu hiệu. Bất kể điều gì người ta có thể gặp phải trong cuộc sống, miễn là nó liên quan đến các nguyên tắc ứng xử của con người, quan điểm về các sự kiện, hoặc vấn đề thực hiện bổn phận của mình, họ phải đối mặt với việc đưa ra lựa chọn, và họ nên tìm kiếm lẽ thật, họ nên tìm kiếm cơ sở và nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời, và sau đó họ nên tìm kiếm một con đường để thực hành; những người có thể thực hành theo cách này là những người mưu cầu lẽ thật. Có thể mưu cầu lẽ thật theo cách này cho dù người ta gặp phải khó khăn lớn đến đâu là bước đi con đường của Phi-e-rơ và con đường mưu cầu lẽ thật. Ví dụ: cần tuân theo nguyên tắc nào khi tương tác với người khác? Quan điểm ban đầu của ngươi là không nên xúc phạm bất kỳ ai, mà phải duy trì sự hòa thuận và tránh làm mất mặt bất kỳ ai, để trong tương lai, mọi người có thể hòa thuận. Bị giới hạn bởi quan điểm này, khi ngươi thấy ai đó làm điều gì xấu, mắc sai lầm, hay thực hiện một hành động trái với các nguyên tắc, ngươi thà dung túng hơn là nêu ra với người đó. Bị giới hạn bởi quan điểm của mình, ngươi trở nên không muốn xúc phạm bất kỳ ai. Dù ngươi đang kết giao với ai, bị cản trở bởi những suy nghĩ về sĩ diện, về tình cảm, hoặc về những tình cảm đã phát triển qua nhiều năm tương tác, ngươi sẽ luôn nói những điều tử tế khiến người đó vui. Nếu có những điều ngươi thấy không vừa lòng, ngươi cũng chịu đựng; ngươi chỉ kín đáo bộc lộ chút bực dọc, thốt vài lời nói xấu, nhưng khi ngươi gặp họ trực tiếp, ngươi sẽ không hó hé và vẫn duy trì mối quan hệ với họ. Ngươi nghĩ gì về cách cư xử như vậy? Chẳng phải đó là cách của một kẻ dễ dãi sao? Chẳng phải như vậy là khá láu cá sao? Điều này vi phạm các nguyên tắc ứng xử. Do đó chẳng phải hành động như vậy là đê tiện sao? Những người hành động như vậy không phải là người tốt, cũng không phải là cao thượng. Cho dù ngươi đã phải chịu đựng bao nhiêu, và cho dù ngươi phải trả giá như thế nào, nếu ngươi cư xử không có nguyên tắc, thì ngươi đã thất bại và sẽ không được chấp thuận trước Đức Chúa Trời, cũng không được Ngài nhớ đến, cũng không làm vui lòng Ngài(Để làm tròn bổn phận, chí ít người ta phải có lương tâm và lý trí, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời giúp tôi nhận ra tôi đã có một quan điểm sai lầm rằng mối quan hệ giữa con người với nhau luôn cần sự hòa thuận. Nếu tôi luôn chỉ ra và vạch trần vấn đề của người khác, thì sẽ xúc phạm họ và có thể làm tổn thương lòng tự trọng của họ cũng như mối quan hệ của chúng tôi, khiến chúng tôi khó hòa thuận được. So sánh quan điểm này với lời Đức Chúa Trời, cuối cùng tôi nhận ra nó không phù hợp với lẽ thật, và trái với nguyên tắc làm người. Những người như thế là ích kỷ, hèn hạ, lươn lẹo và dối trá. Để duy trì mối quan hệ tốt, họ chẳng nói gì khi thấy ai đó có vấn đề, và chỉ nói những lời tâng bốc, khen ngợi. Họ không chân thành khi tương tác và không thực sự giúp đỡ người khác, mà chỉ gây hại cho mọi người. Những người này chỉ là kẻ hạ đẳng trong mắt Đức Chúa Trời, và Ngài không chấp thuận họ. Đúng y như cái cách mà tôi đã đối xử với chị Wanda – rõ ràng tôi thấy chị ấy không mang gánh nặng trong bổn phận và không làm công tác thực tế, nhưng tôi lại không thực hành lẽ thật bằng cách chỉ ra cho chị ấy thấy vấn đề của mình. Tôi thậm chí còn không có dũng khí trình báo vấn đề của chị ấy. Tôi chỉ nghĩ làm sao để bảo vệ mối quan hệ của mình với chị ấy. Tôi nghĩ việc vạch trần vấn đề của ai đó sẽ xúc phạm và làm tổn thương họ. Dù nhận ra điều đó làm ảnh hưởng đến công việc, nhưng tôi vẫn không sẵn lòng phản bội xác thịt và thực hành lẽ thật. Tôi là một kẻ dối trá thích chiều lòng người khác! Tôi biết được vấn đề của chị ấy nhưng lại không nói ra. Dù bảo vệ được mối quan hệ của chúng tôi, nhưng điều đó chẳng có lợi gì cho lối vào sự sống của chị ấy cả, và nó còn ảnh hưởng đến cả công tác Phúc Âm của hội thánh. Làm như vậy, tôi thực sự đã gây hại cho người khác và công tác của hội thánh.

Sau chuyện này, tôi đã suy nghĩ mọi người nên tương tác với nhau theo nguyên tắc nào. Tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Các ngươi phải tập trung vào lẽ thật – chỉ khi đó các ngươi mới có thể bước vào sự sống, và chỉ khi ngươi đã bước vào sự sống, ngươi mới có thể chu cấp cho những người khác và dẫn dắt họ. Nếu phát hiện ra hành động của người khác trái ngược với lẽ thật, chúng ta phải yêu thương giúp họ phấn đấu để đạt được lẽ thật. Nếu người khác có thể thực hành lẽ thật và hành động có nguyên tắc, chúng ta nên cố gắng học hỏi và noi gương họ. Yêu thương lẫn nhau là như vậy. Đây là loại bầu không khí phải có trong hội thánh – mọi người tập trung vào lẽ thật và cố gắng để đạt được nó. Không quan trọng già hay trẻ, có phải là tín đồ kỳ cựu hay không. Cũng không quan trọng có tố chất cao hay thấp. Những điều này không quan trọng. Trước lẽ thật, mọi người đều bình đẳng. Những điều ngươi phải xem xét là ai nói đúng và phù hợp với lẽ thật, ai nghĩ đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, ai mang trọng trách lớn nhất trong công tác của nhà Đức Chúa Trời, ai hiểu lẽ thật rõ ràng hơn, ai cùng có một ý thức công chính, và ai sẵn lòng trả giá. Những người như thế cần phải được ủng hộ và được tán dương bởi các anh chị em mình. Bầu không khí chính trực bắt nguồn từ việc theo đuổi lẽ thật này phải thịnh hành trong hội thánh; bằng cách này, ngươi sẽ có được công tác của Đức Thánh Linh, và Đức Chúa Trời sẽ ban phước lành và dẫn dắt(Chỉ ai thực hiện bổn phận bằng cả tấm lòng, khối óc và tâm hồn mới là người yêu kính Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Trong hội thánh, lẽ thật ngự trị; Các thành viên của hội thánh nên ưu tiên thực hành lẽ thật khi tương tác. Bất cứ ai vi phạm nguyên tắc nên được chỉ bảo, xử lý và giúp đỡ bằng tình yêu thương để họ có thể phấn đấu hướng đến lẽ thật. Bất cứ ai nói và hành động theo lẽ thật, ngay thẳng và có thể bảo vệ công tác của hội thánh đều phải được hỗ trợ và bảo vệ. Chỉ khi mọi người đều tập trung tìm kiếm và thực hành lẽ thật, để cho sự mưu cầu lẽ thật thắng thế trong hội thánh, thì Đức Thánh Linh mới có thể thực hiện công tác của Ngài. Khi đã hiểu được những điều này, lòng tôi nhẹ bẫng, và tôi đã có một con đường để thực hành. Tôi cũng đến việc mọi tín hữu chân chính nơi Đức Chúa Trời đều thực sự muốn làm tròn bổn phận và đền đáp tình yêu của Ngài. Nhưng không ai có thể tránh được việc thể hiện sự bại hoại và nhiều thiếu sót của mình trong quá trình thực hiện bổn phận. Các anh chị em phải giúp đỡ và sửa sai cho nhau về việc này. Chỉ ra và vạch trần vấn đề của người khác không phải là để làm xấu mặt họ, hay công kích họ, mà là để giúp đỡ mọi người nhận ra vấn đề của mình và sửa đổi trạng thái sai trái của họ. Chỉ có như vậy mới là tình yêu chân chính, là biểu hiện của sự yêu thương lẫn nhau. Đó là để bảo vệ công tác của hội thánh. Trái lại, khi thấy vấn đề của người khác nhưng lại không hé răng, làm theo các triết lý Sa-tan để bảo vệ tư lợi, thì đó là vô trách nhiệm đối với lối vào sự sống của người khác và công tác của hội thánh. Sống như vậy là quá ích kỷ và thấp hèn. Tôi nghĩ về sự tương tác của mình với chị Wanda. Tôi thấy có vấn đề trong bổn phận của chị ấy, nhưng lại không thực sự giúp gì cho chị ấy cả vì tôi chỉ lo bảo vệ hình ảnh của mình, và chẳng thèm quan tâm đến lối vào sự sống của chị ấy cũng như công tác của hội thánh. Tôi thực sự ích kỷ, thấp hèn và không có nhân tính! Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy tự trách mình rất nhiều, và sẵn lòng thực hành lời Đức Chúa Trời, đối xử với chị ấy theo nguyên tắc của lẽ thật.

Sau đó, tôi đã đi gặp chị Wanda và cởi mở thông công với chị ấy. Tôi nói với chị ấy về từng vấn đề mà mình đã thấy. Sau khi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời, chị ấy đã rất xúc động và nói tình trạng của chị ấy dạo gần đây thực sự rất tệ, thậm chí chẳng có gì để nói trong khi cầu nguyện. Tôi đã sốc khi nghe thấy vậy và cũng tự trách mình. Giá như tôi chỉ ra việc này và giúp chị ấy sớm hơn, thì có lẽ chị ấy đã có thể sửa đổi trạng thái sai trái của mình và bổn phận của chị đã không bị ảnh hưởng rồi. Tôi nhận ra việc mình không thực hành lẽ thật và hành động như một kẻ thích chiều lòng người khác chỉ để bảo vệ mối quan hệ của mình với chị ấy thực sự đã hại chị ấy. Vì vậy tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời và quyết tâm rằng sau này, khi tương tác với mọi người, tôi sẽ tập trung thực hành lẽ thật, và nếu phát hiện ra vấn đề thì tôi sẽ chỉ nó ra và lập tức giúp đỡ họ chứ không làm kẻ thích chiều lòng người khác.

Từ đó trở đi, chị Wanda đã chủ động hơn trong bổn phận. Nhưng sau một thời gian, tôi để ý thấy công việc của chị ấy thường xuyên vi phạm nguyên tắc. Kể cả khi ai đó có nhân tính xấu và không phù hợp với nguyên tắc rao giảng Phúc Âm, chị ấy cũng vẫn rao giảng Phúc Âm với họ, làm tốn công tốn sức. Tôi đã rất bối rối. Chị Wanda đã rao giảng Phúc Âm lâu lắm rồi. Chị ấy nên nắm rõ mọi khía cạnh của các nguyên tắc hơn chứ. Sao chị ấy có thể phạm những sai lầm rõ ràng như thế? Trạng thái của chị ấy chưa được sửa đổi sao? Có lẽ mình nên nhắc nhở chị ấy. Nhưng rồi tôi nghĩ: “Trước kia, mình đã giúp đỡ chị ấy. Mình không cần phải thường xuyên sửa chị ấy. Như vậy thì sẽ rất bất tiện. Nếu mình luôn sửa chị ấy, thì chị ấy có nghĩ mình là người kiêu ngạo không? Rằng mình luôn soi mói vấn đề của người khác, hoặc đòi hỏi ở họ quá nhiều? Như vậy thì sẽ làm xấu hình ảnh của mình. Mình nên để mặc chuyện này thôi”. Cứ như thế, tôi chứng kiến trạng thái và tình trạng của chị Wanda trong bổn phận là không đúng đắn, nhưng tôi vẫn cứ nhắm mắt cho qua và không chỉ ra hay giúp đỡ chị ấy. Một thời gian sau, chị Wanda đã bị cách chức vì thực hiện bổn phận cẩu thả và kém hiệu quả trong một thời gian dài. Tôi cảm thấy rất tội lỗi. Rõ ràng là đã thấy có vấn đề trong bổn phận của chị ấy, nhưng tôi lại không thèm lưu tâm. Tôi đã vờ như không thấy và chẳng nhắc nhở hay giúp đỡ gì chị ấy cả. Giờ chị ấy đã bị cách chức, chẳng phải tôi cũng có trách nhiệm sao? Tôi cảm thấy dằn vặt và không biết phải làm gì cả. Tại sao tôi lại luôn là người thích chiều lòng người khác và không thể thực hành lẽ thật chứ? Căn nguyên của vấn đề này là gì?

Khi suy ngẫm và tìm kiếm, tôi thấy đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Có một nguyên lý trong các triết lý sống rằng: ‘Thấy lỗi của bạn chớ nói gì thì tình bạn trường tồn tốt đẹp’. Điều này có nghĩa rằng để duy trì một mối quan hệ thân thiện, người ta phải giữ im lặng về các vấn đề của bạn mình, ngay cả khi họ nhìn thấy rõ ràng – rằng họ nên tuân thủ các nguyên tắc không tấn công nhân phẩm của người khác hoặc vạch trần những thiếu sót của họ. Họ phải lừa mị nhau, che giấu nhau, mưu mô với nhau; và mặc dù họ biết rất rõ người kia là loại người gì, họ cũng không nói thẳng ra điều đó, mà sử dụng các mưu chước để giữ gìn mối quan hệ thân thiện của họ. Tại sao người ta muốn giữ gìn những mối quan hệ như vậy? Điều này liên quan đến việc không muốn gây thù chuốc oán trong xã hội này, trong nhóm này, là điều có nghĩa rằng thường xuyên để cho bản thân gặp những tình huống nguy hiểm. Vì ngươi không biết ai đó sẽ làm hại ngươi theo cách nào sau khi ngươi vạch trần lỗi lầm của họ hoặc làm tổn thương họ và họ trở thành kẻ thù của ngươi, và không muốn đặt mình vào vị trí như vậy, ngươi áp dụng nguyên lý của các triết lý sống rằng ‘Đánh người đừng đánh vào mặt, chửi người đừng nhằm điểm yếu’. Xét về điều này, nếu hai người đang ở trong một mối quan hệ như vậy, liệu họ có được coi là bạn bè thực sự không? (Không.) Họ không phải là những người bạn thật sự, càng không phải là bạn tâm giao của nhau. Vậy, chính xác thì đây là mối quan hệ gì? Chẳng phải là một mối quan hệ xã hội cơ bản sao? (Đúng là như vậy.) Trong các mối quan hệ xã hội như vậy, con người sống trên đời không thể tâm sự với nhau, không thể giao tình sâu sắc, cũng không thể muốn nói gì thì nói, cũng không nói ra được những gì trong lòng, hay những vấn đề họ nhìn thấy ở người kia, hay những lời lẽ mang lại lợi ích cho người kia. Thay vào đó, họ chọn những lời dễ nghe để không làm tổn thương đối phương. Họ không muốn gây thù chuốc oán. Mục tiêu của việc này là giữ cho những người xung quanh mình không đặt ra mối đe dọa. Khi không có ai đe dọa họ, chẳng phải họ sống tương đối thoải mái và yên bình sao? Chẳng phải đây là mục tiêu của mọi người trong việc quảng bá câu khẩu hiệu: ‘Đánh người đừng đánh vào mặt, chửi người đừng nhằm điểm yếu’ sao? (Đúng là như vậy.) Rõ ràng, đây là một cách tồn tại xảo quyệt, lọc lừa, có yếu tố phòng thủ, và có mục tiêu là tự vệ. Những người sống như thế này không có bạn tâm giao, không có bạn thân mà họ có thể nói bất cứ điều gì. Họ phòng thủ với nhau, và tính toán, mưu lược, mỗi người đều lấy những gì họ cần từ mối quan hệ. Không phải như vậy sao? Về cơ bản, mục tiêu của ‘Đánh người đừng đánh vào mặt, chửi người đừng nhằm điểm yếu’ là tránh xúc phạm người khác và tránh gây thù chuốc oán, bảo vệ bản thân bằng cách không làm tổn thương bất kỳ ai. Đó là một kỹ thuật và phương pháp được áp dụng để giữ cho bản thân khỏi bị tổn thương(Mưu cầu lẽ thật là gì (8), Lời, Quyển 6 – Về việc theo đuổi lẽ thật). “Bản tính Sa-tan của con người chứa rất nhiều triết lý. Đôi khi chính ngươi thậm chí cũng không biết chúng và không hiểu chúng, nhưng mọi giây phút trong cuộc sống của ngươi đều dựa trên những điều này. Hơn nữa, ngươi còn nghĩ rằng những triết lý này là khá chính xác, hợp lý và không sai trật chút nào. Điều này đủ để cho thấy rằng những triết lý của Sa-tan đã trở thành bản tính của con người, và họ đang hoàn toàn sống theo chúng, nghĩ rằng cách sống này là tốt, và không hề có bất kỳ ý thức ăn năn nào. Do đó, họ liên tục tỏ lộ bản tính Sa-tan của mình, và trong mọi mặt, họ tiếp tục sống theo những triết lý của Sa-tan. Bản tính của Sa-tan là sự sống của nhân loại, và đó là bản tính và thực chất của nhân loại(Làm thế nào để đi con đường của Phi-e-rơ, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Qua sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu. Lý do tôi cứ làm kẻ thích chiều lòng người khác là vì tôi đã bị Sa-tan làm bại hoại quá trầm trọng. Lòng tôi đầy những triết lý và luật lệ của Sa-tan, chẳng hạn “Đánh người đừng đánh vào mặt, chửi người đừng nhằm điểm yếu”, và “Thấy lỗi của bạn chớ nói gì thì tình bạn trường tồn tốt đẹp”, vân vân. Những thứ này đã trở thành quy tắc sống của đời tôi. Dưới sự chỉ huy của những triết lý Sa-tan này, tôi nghĩ rằng việc không xúc phạm người khác bằng lời nói và hành động, duy trì mối quan hệ tốt đẹp và giữ hòa khí là một cách sống khôn ngoan. Thế nên, dù thấy chị Wanda cẩu thả trong bổn phận, vi phạm nguyên tắc, và điều đó đã ảnh hưởng đến công việc, nhưng tôi vẫn không sẵn lòng vạch trần hay sửa chị ấy. Tôi thà để công tác Phúc Âm chịu tổn hại để bảo vệ các mối quan hệ của mình còn hơn. Tôi đã bị những triết lý của Sa-tan ràng buộc quá chặt đến nỗi không thể thực hành lẽ thật và có chút lương tâm hay lý trí nào! Tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Rõ ràng, đây là một cách tồn tại xảo quyệt, lọc lừa, có yếu tố phòng thủ, và có mục tiêu là tự vệ”. Tôi đã vô cùng xúc động. Lời Đức Chúa Trời đã nói rất đúng, và vạch trần ý định hèn hạ của tôi khi tôi sống bằng những triết lý Sa-tan này. Trước kia, tôi cứ vênh vang nghĩ rằng lý do tôi không sửa chị ấy là vi sợ chị ấy cảm thấy bị kìm kẹp. Nhưng thật ra, đó chỉ là cái cớ để tôi không thực hành lẽ thật. Tôi sợ nếu mình sửa chị ấy quá thường xuyên, chị ấy sẽ bị xúc phạm, nghĩ tôi là kẻ ngạo mạn thích soi mói và không thể đối xử công bằng với người khác. Để cho chị ấy ấn tượng tốt về mình, tôi vờ như không thấy vấn đề của chị ấy, khiến chị ấy thường xuyên sống trong sự bại hoại và không có khả năng tự biết mình. Tôi đã không thành thật khi tương tác với người khác, tất cả chỉ là vẻ ngoài giả tạo và thủ đoạn. Tôi thật quá lươn lẹo và dối trá! Tôi nhớ hồi còn cộng tác với chị Wanda trong bổn phận, tôi đã không thực hành lẽ thật mà mình nên thực thành, và không làm tròn tránh nhiệm của mình. Giờ chị ấy đã bị cách chức, tôi cảm thấy rất ân hận. Tôi đã cảm nghiệm được việc sống theo triết lý của Sa-tan thực sự gây hại cho bản thân và người khác như thế nào. Đó là một cuộc sống hèn hạ và đáng trách. Tôi không muốn sống như vậy nữa. Tôi muốn tìm kiếm lẽ thật và làm tròn bổn phận.

Sau đó, tôi thấy lời Đức Chúa Trời phán: “Nói rõ hơn một chút: làm người trung thực là làm người giản dị và cởi mở, không giấu diếm che đậy, không nói dối hay nói quanh co, là người thẳng thắn, công tâm và nói năng một cách trung thực. Đây là điều đầu tiên cần phải làm. … Những người giả dối là những người mà Đức Chúa Trời ghê tởm nhất. Nếu ngươi muốn loại bỏ ảnh hưởng của Sa-tan và được cứu rỗi, ngươi phải tiếp nhận lẽ thật. Ngươi phải bắt đầu bằng việc là một người trung thực, nói những điều chân thật và thực tế, không bị cảm xúc chế ngự, loại bỏ sự giả tạo và gian xảo, nói và hành động có nguyên tắc. Sống như vậy là tự do và hạnh phúc, và ngươi có thể sống trước Đức Chúa Trời(Chỉ bằng cách thực hành lẽ thật thì mới có thể loại bỏ sự trói buộc của tâm tính bại hoại, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Vương quốc của Ta cần những người trung thực, những người không đạo đức giả hay giả dối. Chẳng phải những người thật thà và trung thực không được nhiều người thích trên thế gian sao? Ta thì hoàn toàn ngược lại. Những người trung thực được hoan nghênh đến với Ta; Ta hài lòng với loại người này, và Ta cũng cần loại người này. Đây chính là sự công chính của Ta(Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 33, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời giúp tôi hiểu ra Đức Chúa Trời thích những người thuần khiết, ngay thẳng và trung thực, những người thẳng thắn và không gian dối trong lời nói và hành động. Chỉ những người trung thực mới xứng đáng được vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Điều này được quyết định bởi tâm tính công chính của Ngài. Hãy nghĩ đến thế giới của những người ngoại đạo, mọi sự tương tác đều chỉ là một màn kịch. Họ chỉ nói những lời tâng bốc và dễ nghe trước mặt nhau. Không có lời nào là trung thực cả. Khi đối mặt với những việc tà ác trái với lương tâm và đạo đức, hầu hết mọi người đều chọn bảo vệ bản thân, nghĩ rằng tốt nhất là nên tránh rắc rối không cần thiết. Đến một lời thật lòng họ cũng chẳng dám nói. Họ cực kỳ xảo trá và đạo đức giả, không có phẩm giá hay ý chí nào. Nhưng khi tương tác với người khác, tôi cũng làm theo những triết lý Sa-tan này. Khi thấy một vấn đề, tôi đã không vạch trần nó hay giúp đỡ. Tôi chỉ bảo vệ mối quan hệ của mình với người khác. Sống như vậy thật quá lươn lẹo và dối trá. Đây là điều Đức Chúa Trời ghê tởm và căm ghét. Lúc đó, tôi đã nghĩ đến việc Đức Chúa Trời rất thánh khiết và có thực chất trung tín. Đức Chúa Trời nhập thể đang thực sự tương tác với con người. Ngài đang bày tỏ lẽ thật, phán xét và vạch trần mọi người mọi lúc nọi nơi theo tâm tính bại hoại mà họ thể hiện và quan niệm của họ về Đức Chúa Trời. Đặc biệt, sự phán xét và vạch trần của lời Đức Chúa Trời trực tiếp chỉ ra căn nguyên và thực chất sự bại hoại của chúng ta. Dù lời Ngài có nghiêm khắc và khó nghe, nhưng chúng đều là để chúng ta biết mình, ăn năn và thay đổi. Lời Đức Chúa Trời mạnh mẽ và rõ ràng. Chúng đều là những lời thật lòng. Đức Chúa Trời có một tấm lòng cực kỳ đáng tin và trung thực đối với mọi người. Nếu Đức Chúa Trời không chỉ ra và giải thích rõ cho chúng ta, nếu Ngài không vạch trần sự thật về việc con người đã bị Sa-tan làm bại hoại trầm trọng như thế nào, chúng ta sẽ không bao giờ biết mình được. Thay vào đó, chúng ta sẽ sống trong tưởng tượng của mình, nghĩ mình là tốt. Tâm tính bại hoại của chúng ta sẽ không bao giờ thay đổi và chúng ta sẽ không bao giờ đạt được sự cứu rỗi. Đức Chúa Trời hy vọng chúng ta có thể nhận ra lẽ thật về sự bại hoại của mình qua những lời phán xét và vạch trần của Ngài, và chúng ta có thể ăn năn với Đức Chúa Trời, sống theo lời Ngài, tìm kiếm để trở thành một người trung thực. Đây là tình yêu của Đức Chúa Trời đối với con người. Sau khi suy ngẫm toàn bộ chuyện này, tôi cảm thấy mình cực kỳ hăng hái. Tôi quyết tâm sẵn sàng làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và trở thành một người trung thực, ngay thẳng và thuần khiết.

Có lần, chị Belinda, lãnh đạo của chúng tôi đang thảo luận công việc với chúng tôi. Tôi nhận ra có sự sai phạm trong công việc mà chị ấy giao, và muốn chỉ ra cho chị ấy. Nhưng rồi tôi nghĩ: “Người chị em này là lãnh đạo. Nếu mình chỉ ra thiếu sót hay sai phạm trong bổn phận của chị ấy, liệu chị ấy có mất mặt không? Nếu chị ấy nghĩ mình đang cố làm khó chị ấy và sau đó chị ấy trả thù mình thì sao? Bỏ đi, mình không nên nói gì cả. Ai mà chẳng phạm sai lầm”. Lúc đó, tôi nhận ra tâm tính chiều lòng người khác của mình lại xuất hiện. Vì vậy tôi đã cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt tôi thực hành các nguyên tắc của lẽ thật. Sau đó, tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi có động cơ và quan điểm của ‘người tốt’ thì trong mọi sự, ngươi đều không có khả năng thực hành lẽ thật và tuân thủ nguyên tắc, và ngươi sẽ luôn thất bại và sa ngã. Nếu ngươi không thức tỉnh và không bao giờ tìm kiếm lẽ thật thì ngươi là kẻ chẳng tin, và ngươi sẽ không bao giờ đạt được lẽ thật và sự sống. Vậy thì ngươi nên làm gì? Khi đối mặt với những việc như vậy, ngươi phải kêu cầu Đức Chúa Trời trong lúc cầu nguyện, cầu xin sự cứu rỗi, và xin Đức Chúa Trời ban cho ngươi thêm đức tin và sức mạnh để ngươi có thể tuân thủ nguyên tắc, làm điều ngươi nên làm, xử lý mọi việc theo nguyên tắc, giữ vững quan điểm, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và ngăn chặn mọi tổn hại xảy đến cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Nếu ngươi có thể từ bỏ lợi ích cá nhân, danh tiếng và quan điểm của một ‘người tốt’, và nếu ngươi làm điều ngươi nên làm với tấm lòng trung thực, trọn vẹn thì như thế ngươi đã đánh bại được Sa-tan và đã đạt được khía cạnh này của lẽ thật. Nếu ngươi luôn sống theo triết lý của Sa-tan, duy trì mối quan hệ của mình với mọi người và không bao giờ thực hành lẽ thật, không dám tuân thủ nguyên tắc, thế thì ngươi có thể thực hành lẽ thật trong những vấn đề khác không? Các ngươi sẽ không có đức tin, không có sức mạnh. Nếu các ngươi không bao giờ có thể tìm kiếm hoặc tiếp nhận lẽ thật, thì đức tin nơi Đức Chúa Trời như vậy có giúp các ngươi đạt được lẽ thật không? (Không.) Và nếu các ngươi không thể đạt được lẽ thật, các ngươi có thể được cứu rỗi không? Không thể được. Nếu các ngươi luôn sống theo triết lý của Sa-tan, hoàn toàn không có thực tế của lẽ thật, thì các ngươi không bao giờ có thể được cứu rỗi. Các ngươi phải hiểu rõ rằng việc đạt được lẽ thật là điều kiện cần thiết để được cứu rỗi. Vậy, làm sao các ngươi có thể đạt được lẽ thật? Nếu ngươi có thể thực hành lẽ thật, nếu ngươi có thể sống theo lẽ thật, và lẽ thật trở thành nền tảng cho đời sống của ngươi thì khi đó ngươi sẽ đạt được lẽ thật và có sự sống, và như thế ngươi sẽ là một trong những người được cứu rỗi(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra nếu con người sống bằng các tâm tính Sa-tan và luôn làm kẻ chiều lòng người khác, thì họ sẽ không bao giờ đạt được lẽ thật, và cuối cùng sẽ không bao giờ đạt được sự cứu rỗi. Đồng thời, tôi cũng hiểu ra rằng nếu muốn khắc phục vấn đề thích chiều lòng người khác, ta cần phải cầu nguyện thật nhiều và cậy dựa vào Đức Chúa Trời, xin Ngài ban cho sức mạnh, để có thể phản bội xác thịt, từ bỏ tư lợi, và quan tâm đến công tác của hội thánh. Bằng cách thường xuyên thực hành như vậy, dần dần ta có thể chiến thắng được sự chế ngự của tâm tính bại hoại. Nếu mãi không thể thực hành lẽ thật và không tận tâm với bổn phận, thì cuối cùng ta sẽ bị vạch trần và loại bỏ. Nghĩ vậy, tôi đã có dũng khí và động lực để thực hành lẽ thật. Tôi không thể tiếp tục làm kẻ vô lương tâm và nhân tính thích chiều lòng người khác. Vì vậy, tôi đã nêu ra vấn đề này với lãnh đạo. Sau khi nói với chị ấy, tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm. Sau đó, trong một cuộc họp, lãnh đạo đã thông công về việc suy ngẫm và lợi ích mà chị ấy đã đạt được sau khi đối mặt với vấn đề. Nghe được trải nghiệm và nhận thức của chị ấy khiến tôi rất xúc động, và tôi đã được nếm vị ngọt của việc thực hành lẽ thật! Có được trải nghiệm này càng làm tôi tin vào việc thực hành lẽ thật. Sau đó, khi đối mặt với những tình huống tương tự, dù vẫn thường thể hiện quan điểm của một kẻ thích chiều lòng người khác, nhưng tôi không còn cảm thấy đau đớn và khó khăn như trước nữa. Tôi đã có thể ý thức chối bỏ bản thân và thực hành lẽ thật. Thực hành lẽ thật như vậy khiến lòng tôi cực kỳ nhẹ nhõm và thanh thản. Chính nhờ lời Đức Chúa Trời mà tôi mới có được kết quả này. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Nỗi đau của nói dối

Bởi Ni Cường, Myanmar Tháng 10 năm 2019, tôi tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Ở những buổi hội họp, tôi thấy...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger