Hậu quả khi đức tin dựa trên quan niệm và tưởng tượng

22/09/2024

Năm 2004, tôi được Đức Chúa Trời chọn vào nhà Ngài. Họp mặt cùng các anh chị em, thi thoảng tôi nghe họ thông công về các trải nghiệm, kể về việc không từ bỏ bổn phận của mình trong lúc đau ốm, và rồi hồi phục một cách kỳ diệu. Tôi cũng đọc các bài viết về lời chứng trải nghiệm do các anh chị em viết. Có một chị mắc ung thư nhưng vẫn kiên trì thực hiện bổn phận của mình, và tự lúc nào không hay, Đức Chúa Trời đã chữa lành căn bệnh đó. Nhận ra những lời chứng này, tôi tự nhủ: “Khi gặp phải sự thử luyện của bệnh tật, các anh chị em dựa vào đức tin để trải nghiệm, đứng vững làm chứng và bệnh tình của họ đều thuyên giảm. Sau này, mình phải học hỏi từ họ. Dù bệnh tật hay tai họa nào ập xuống, mình phải giữ vững bổn phận và đứng vững làm chứng. Bằng cách này, mình cũng sẽ được sống trong phước lành của Đức Chúa Trời như những anh chị em khác”.

Mùa hè năm 2011, vào một buổi trưa, cậu con trai 7 tuổi của tôi đang chơi trong phòng khách, trên chân là đôi giày trượt patin. Vô tình, thằng bé làm đổ chiếc tivi, khiến nó rơi trúng người, thằng bé bị chảy máu khắp người, kể cả máu mũi. Tôi hoảng hốt vô cùng, cảm giác như tim rơi khỏi lồng ngực. Ngay lập tức tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, dù điều gì xảy ra với con trai con, dù thằng bé sống hay chết, xin hãy giữ cho lòng con không than trách”. Sau khi thằng bé được khám ở bệnh viện, bác sĩ dặn phải theo dõi ở nhà, nếu thằng bé không bị sốt, thì không có vấn đề gì. Con trai tôi sau đó đã hồi phục. Về sau, tôi suy ngẫm về sự việc này. Tôi đã không than trách khi tai họa xảy ra, và con trai tôi đã nhanh chóng hồi phục. Điều này khiến tôi càng tin vào việc không than trách khi gặp tai ương và đứng vững làm chứng sẽ cho phép tôi thấy được sự bảo vệ và phước lành của Đức Chúa Trời, Kể từ đó, tôi càng nhiệt huyết dành trọn bản thân. Dù hội thánh giao cho tôi bổn phận gì, dù phải chịu bao nhiêu đau khổ hay phải trả giá bao nhiêu, tôi đều thuận phục. Tôi cảm thấy mình là người yêu kính Đức Chúa Trời, và chắc chắn sau này sẽ được Ngài ban phước.

Tháng 05/2016, tôi đang làm bổn phận xa nhà. Một hôm, tôi nhận được một lá thư từ nhà, nói rằng con trai tôi mắc bệnh bạch cầu, thằng bé đang ốm rất nặng, đã được đưa vào bệnh viện. Đọc xong lá thư, đầu óc tôi trống rỗng, tôi trở về phòng để cầu nguyện. Tôi quỳ xuống giường, không kìm được nức nở và nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con trai con mới chỉ 12 tuổi. Ngài thực sự sẽ mang thằng bé đi sao?” Sau đó, tôi không thể nói gì thêm nữa. Tôi muốn về nhà ngay lập tức để chăm sóc đứa con của mình, để an ủi và động viên thằng bé, song tôi nghĩ về việc có những kẻ địch lại Đấng Christ đang quấy nhiễu đời sống hội thánh, cản trở rất nhiều công tác, gây tổn hại đến sự sống của các anh chị em. Tại thời điểm quyết định này, Đức Chúa Trời đang quan sát xem tôi sẽ chọn duy trì công tác của hội thánh hay gác lại bổn phận để chăm sóc con trai mình. Tôi nghĩ đến Gióp phải chịu những sự thử luyện lớn lao, trên người nổi đầy ung nhọt, nhưng ông không than trách Đức Chúa Trời mà đứng vững làm chứng. Cuối cùng, Đức Chúa Trời xuất hiện trước ông, không những chữa lành mà còn ban phước dư dật cho ông. Khi tôi nghĩ về bệnh tình của con trai mình ở trong tay của Đức Chúa Trời, tôi cũng phải lựa chọn làm hài lòng Ngài và tuân giữ bổn phận của mình, không để cho quỷ kế của Sa-tan thắng thế. Tôi tin rằng nếu tôi đứng vững làm chứng, Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho con trai tôi hồi phục. Đặc biệt khi nghĩ đến việc Áp-ra-ham đã thuận phục Đức Chúa Trời và sẵn sàng hy sinh con trai duy nhất của mình là Y-sác, Đức Chúa Trời đã không lấy đi đứa con của ông và còn ban phước cho ông nhiều hơn, tôi cảm thấy Đức Chúa Trời cũng đang thử thách tôi bằng đứa con của mình. Nếu tôi giao phó con trai mình vào tay Đức Chúa Trời và đứng vững làm chứng, tôi tin rằng Ngài sẽ ban phước cho con tôi hồi phục. Sau đó, tôi không còn nghĩ nhiều đến bệnh tình của con mình nữa mà tập trung vào bổn phận.

Khi về nhà, chồng tôi có nói rằng con trai chúng tôi không mắc bệnh bạch cầu, chỉ là tế bào bạch cầu tăng quá mức và hệ miễn dịch yếu, tình trạng này có thể tiến triển thành bệnh bạch cầu nếu không được điều trị kịp thời. Chúng tôi đã đến một số bệnh viện nổi tiếng, nhưng sau nhiều cuộc tư vấn với các chuyên gia, họ vẫn không thể chẩn đoán được căn bệnh. Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trở về nhà và điều trị duy trì. Chúng tôi đã mất 2.000 nhân dân tệ vào thuốc đông y, song không có sự cải thiện. Tôi tự nhủ: “Với Đức Chúa Trời, không có gì là khó khăn. Chỉ cần mọi người chân thành cậy dựa vào Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài, thì Đức Chúa Trời có thể dễ dàng chữa lành cho họ không?”. Sau đó, tôi thường xuyên thông công với con mình: “Trong lúc ốm đau này, mẹ con mình không được than phiền mà phải thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Nếu mẹ con mình đứng vững làm chứng, Đức Chúa Trời sẽ đảm bảo con khỏi bệnh”. Trong thời gian đó, tôi cũng đi khắp nơi tìm hiểu các bài thuốc dân gian để chữa bệnh cho con trai mình. Tuy nhiên, một tháng trôi qua, tình trạng của thằng bé không những không cải thiện, mà còn tệ đi. Tôi dần cảm thấy tiêu cực, tinh thần trở nên yếu đuối, nghĩ rằng: “Mình đã siêng năng làm bổn phận từ lúc con ốm. Tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ sức khỏe cho con? Tại sao tình trạng của con ngày càng xấu dù đã được điều trị nhiều hơn? Nếu thực sự chuyển biến thành bệnh bạch cầu như bác sĩ nói, vậy là con không còn hy vọng gì sao?”. Càng nghĩ tôi càng hoảng sợ.

Vào một buổi sáng, chồng tôi nghẹn ngào nói với tôi: “Chúng mình đã thử mọi phương pháp điều trị bệnh cho con, nhưng tình trạng không những không tốt lên, mà còn xấu đi. Chúng mình nên làm gì đây?”. Nhìn thấy nỗi đau của chồng, tôi cảm thấy sầu khổ không thể diễn tả được. Vì vậy tôi đã lấy lời của Đức Chúa Trời ra để đọc. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Trong khi trải qua những sự thử luyện, việc người ta yếu đuối, hoặc có sự tiêu cực bên trong họ, hoặc thiếu sự rõ ràng về tâm ý của Đức Chúa Trời hoặc đường hướng thực hành, là chuyện bình thường. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, ngươi phải có đức tin vào công tác của Đức Chúa Trời, và không được chối bỏ Đức Chúa Trời, giống như Gióp. Mặc dù Gióp đã yếu đuối và rủa sả ngày sinh của chính mình, nhưng ông đã không phủ nhận rằng mọi thứ trong cuộc đời con người đều được Đức Giê-hô-va ban cho, và rằng Đức Giê-hô-va cũng là Đấng lấy đi tất cả. Bất kể bị thử luyện ra sao, ông vẫn duy trì niềm tin này. Trong trải nghiệm của ngươi, bất kể ngươi trải qua sự tinh luyện nào thông qua những lời của Đức Chúa Trời, thì những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi ở nhân loại, tóm gọn lại, là đức tin và lòng yêu kính Đức Chúa Trời của họ. Những gì Ngài hoàn thiện bằng cách làm việc như thế này là đức tin, tình yêu, và những khát vọng của mọi người. Đức Chúa Trời làm công tác hoàn thiện mọi người, và họ không thể nhìn thấy điều đó, không thể cảm nhận được điều đó; trong những trường hợp như vậy thì cần đến đức tin của ngươi. Đức tin của mọi người cần phải có khi điều gì đó không thể được nhìn thấy bằng mắt thường, và đức tin của ngươi cần phải có khi ngươi không thể buông bỏ các quan niệm của chính mình. Khi ngươi không có sự rõ ràng về công tác của Đức Chúa Trời, điều được đòi hỏi ở ngươi là có đức tin, có một lập trường vững chắc và đứng vững làm chứng. Khi Gióp đạt đến điểm này, Đức Chúa Trời đã hiển linh và phán với ông. Nghĩa là, chỉ từ bên trong đức tin của mình thì ngươi mới có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời, và khi ngươi có đức tin thì Đức Chúa Trời sẽ hoàn thiện ngươi. Không có đức tin, Ngài không thể làm điều này(Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được rằng đức tin chân chính là tin Đức Chúa Trời và đứng vững làm chứng cho Ngài ngay cả khi chúng ta không thể thấy hoặc chạm vào, giống như Gióp, người không bao giờ chối bỏ Đức Chúa Trời. Đây là những gì Đức Chúa Trời mong muốn. Tôi đã thông công với chồng mình: “Nếu chỉ tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình khi mọi việc suôn sẻ thì sẽ không phản ánh được đức tin chân chính. Còn nếu chúng ta đối mặt với sự thử luyện mà không biết kết quả thế nào, song vẫn có thể tin và đi theo Đức Chúa Trời, thì đức tin ấy mới là chân thật, đó mới là kết quả mong đợi từ sự tinh luyện và thử luyện của Đức Chúa Trời. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ tin Đức Chúa Trời vì ân điển và lợi ích từ Ngài, Sa-tan cũng sẽ buộc tội và không phục chúng ta. Dù bệnh tình của con chúng ta có thuyên giảm hay không, nếu ta tiếp tục đi theo và thuận phục Đức Chúa Trời, thì Sa-tan sẽ bị đánh bại và bẽ mặt, còn Đức Chúa Trời sẽ đạt được vinh quang từ chúng ta”. Sau khi nghe những lời này, chồng tôi gật đầu tán thành.

Sau đó, tình trạng của con trai chúng tôi không có dấu hiệu cải thiện. Một hôm, thằng bé tựa vào bệ cửa sổ, nhìn những đứa trẻ khác đến trường với những chiếc cặp trên lưng. Thằng bé nhìn với vẻ ghen tị, mắt rưng rưng, nấc lên một tiếng và nói: “Mẹ ơi, bạn bè đều đang đến trường, còn con thì ốm, không đi học được. Mẹ luôn bảo con thuận phục Đức Chúa Trời. Con còn phải thuận phục bao lâu nữa để khỏe lại đây?”. Những lời của thằng bé như một nhát dao đâm vào tim tôi. Đức tin của tôi không thể trụ vững được nữa. Tôi nghĩ: “Kể từ khi con ốm, dù phải chịu đựng đau khổ, nhưng mình luôn kiên trì thực hiện bổn phận, đồng thời cố gắng hết sức để phối hợp. Sao Đức Chúa Trời vẫn chưa chữa lành bệnh cho con mình? Lòng mình chưa đủ chân thành hay sao? Bác sĩ nói nếu bệnh của con mình không được chữa trị, thằng bé có thể phải cắt mất một chân. Nếu vậy thì sau này thằng bé sẽ sống sao?”. Nghĩ đến những hậu quả khủng khiếp này, tôi cảm thấy đau đớn tột cùng, ruột đau như cắt. Giữa tận cùng của nỗi đau, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, tại sao bệnh tình của con trai con lại không thuyên giảm? Vóc giạc của con quá nhỏ bé; con thực sự không thể chịu đựng được nữa. Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy khai sáng cho con hiểu được tâm ý của Ngài”.

Cuối tháng 09, lãnh đạo gửi cho tôi một bức thư yêu cầu tôi phối hợp trong một bổn phận. Tôi đã từ chối vì bản thân đang lo lắng cho bệnh tình của con trai. Sau đó, tôi nhận ra trong ngần ấy năm tin vào Đức Chúa Trời, tôi chưa bao giờ từ chối bổn phận, dù phải đối mặt với khó khăn lớn đến đâu. Nhưng hôm nay, tôi đã từ chối một bổn phận vì bệnh tình của con mình. Tôi cảm thấy buồn khổ khi nhận ra điều này. Phản tỉnh về thái độ đối với Đức Chúa Trời khi đó, tôi nhận ra rằng bấy lâu nay mình chỉ cầu nguyện và đọc lời Ngài một cách chiếu lệ. Tôi không còn chút sức lực nào trong lòng. Hàng ngày, ngoài việc cho con uống thuốc, lòng tôi ngập tràn sợ hãi và âu lo. Tôi luôn lo lắng cho bệnh tình của con, sợ có thể mất con, nên không thể nào tập trung vào bổn phận. Suy nghĩ đến đây, đột nhiên tôi nhận ra chẳng phải mình đang phản bội Đức Chúa Trời sao? Tôi nghĩ đến lời của Đức Chúa Trời: “Việc ngươi nhìn nhận thế nào về sự ủy thác của Đức Chúa Trời là cực kỳ quan trọng, và đây là một vấn đề rất nghiêm trọng. Nếu ngươi không thể hoàn thành những gì Đức Chúa Trời đã giao phó cho con người, thì ngươi không phù hợp để sống trong sự hiện diện của Ngài và ngươi phải bị trừng phạt. Đó là điều thiên kinh địa nghĩa rằng con người phải hoàn thành bất kỳ sự ủy thác nào Đức Chúa Trời giao phó cho họ. Đây là trách nhiệm cao nhất của con người, và cũng quan trọng như chính sự sống của họ. Nếu ngươi không coi trọng sự ủy thác của Đức Chúa Trời, thì ngươi đang phản bội Ngài theo cách trầm trọng nhất. Trong chuyện này, ngươi còn thảm thương hơn cả Giu-đa, và phải bị nguyền rủa(Làm thế nào để biết bản tính con người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi cảm nhận được sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời qua những lời phán xét nghiêm khắc của Ngài. Hóa ra việc xem nhẹ sự ủy thác của Đức Chúa Trời là một vấn đề nghiêm trọng. Đối với những người từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời, thái độ của Ngài là ghê tởm và nguyền rủa. Đọc những lời này khiến tôi rùng mình. Tôi đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà không có thực tế lẽ thật; khi đối diện với những tình huống không hợp với quan niệm của mình, tôi vẫn có thể từ bỏ các bổn phận và phản bội Đức Chúa Trời. Nhận ra điều này, tôi ăn năn cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

Trong khi tìm kiếm, tôi đọc được những lời sau của Đức Chúa Trời: “Ngày nay, hầu hết mọi người đều ở trong kiểu tình trạng này: để có được phước lành, tôi phải dâng mình cho Đức Chúa Trời và trả giá cho Ngài. Để có được phước lành, tôi phải từ bỏ mọi thứ vì Đức Chúa Trời; tôi phải hoàn thành những gì Ngài đã giao phó cho tôi, và tôi phải làm tròn bổn phận của mình. Trạng thái này bị chi phối bởi ý định đạt được các phước lành, là một ví dụ về việc dành trọn bản thân cho Đức Chúa Trời hoàn toàn vì mục đích nhận được phần thưởng từ Ngài và giành được mão triều thiên. Những người như vậy không có lẽ thật trong lòng, và hiển nhiên là sự hiểu biết của họ chỉ gồm một vài câu chữ và đạo lý mà họ đi đâu cũng khoe khoang. Con đường của họ là con đường của Phao-lô. Đức tin của những người như thế là hành động lao nhọc không ngừng, và trong thâm tâm, họ cảm thấy rằng họ càng làm thì sẽ càng chứng tỏ lòng trung thành của họ với Đức Chúa Trời; rằng họ càng làm, thì chắc chắn Ngài sẽ càng hài lòng; và rằng họ càng làm, thì họ sẽ càng xứng đáng được trao mão triều thiên trước Đức Chúa Trời, và sẽ nhận được những phước lành lớn hơn. Họ nghĩ rằng nếu họ có thể chịu khổ, truyền đạo và chết vì Đấng Christ, nếu họ có thể hy sinh mạng sống của chính mình, và nếu họ có thể hoàn thành mọi bổn phận mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho họ, thì họ sẽ là những người đạt được phước lành lớn nhất, và họ chắc chắn sẽ được trao mão triều thiên. Đây chính xác là những gì Phao-lô đã tưởng tượng và những gì ông tìm kiếm. Đây chính xác là con đường mà ông đã đi, và chính dưới sự dẫn dắt của những suy nghĩ như thế mà ông đã làm việc để hầu việc Đức Chúa Trời. Những suy nghĩ và ý định đó chẳng phải bắt nguồn từ một bản tính Sa-tan sao? Cũng giống như con người trần tục, những người tin rằng khi ở trên đất, họ phải theo đuổi kiến thức, và rằng sau khi có được kiến thức thì họ mới có thể nổi bật giữa đám đông, trở thành các quan chức và có địa vị. Họ nghĩ rằng một khi họ có địa vị, họ có thể hiện thực hóa những tham vọng của mình và đưa việc kinh doanh cũng như công việc gia đình của họ lên một mức độ thịnh vượng nhất định. Chẳng phải hết thảy những người ngoại đạo đều đi trên con đường này sao? Những người bị bản tính Sa-tan này chi phối chỉ có thể giống như Phao-lô trong đức tin của họ. Họ nghĩ: ‘Tôi phải vứt bỏ mọi sự để dâng mình cho Đức Chúa Trời. Tôi phải trung thành trước Đức Chúa Trời, và cuối cùng, tôi sẽ nhận được những phần thưởng tuyệt vời nhất và mão triều thiên tuyệt vời nhất’. Đây cũng là thái độ mà con người trần tục theo đuổi những điều trần tục. Họ không khác chút nào, và họ có cùng bản tính. Khi người ta có loại bản tính Sa-tan này, ra đời, họ sẽ tìm cách đạt được kiến thức, học vấn, địa vị, và nổi bật giữa đám đông. Nếu họ tin Đức Chúa Trời, họ sẽ tìm cách có được mão triều thiên to lớn và những phước lành lớn lao. Nếu người ta không theo đuổi lẽ thật khi họ tin Đức Chúa Trời, thì họ chắc chắn đi con đường này. Đây là một thực tế không thể phủ nhận, đây là một quy luật tự nhiên. Con đường mà những người không theo đuổi lẽ thật đi là con đường hoàn toàn trái ngược với con đường của Phi-e-rơ(Làm thế nào để đi con đường của Phi-e-rơ, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Qua những lời của Đức Chúa Trời, tôi nhận ra trong suốt những năm qua, việc tôi từ bỏ và dành trọn bản thân không phải để hoàn thành bổn phận và làm Đức Chúa Trời hài lòng, mà là để giao dịch với Ngài, luôn bị chi phối bởi mong muốn đạt được phước lành, tôi đã đi theo con đường mưu cầu phước lành của Phao-lô. Kể từ khi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, tôi thấy rằng khi các anh chị em đứng vững làm chứng trong lúc ốm đau và thử luyện, thì họ đều nhận được sự quan tâm, bảo vệ và phước lành của Đức Chúa Trời. Vì vậy, dù các bổn phận mà hội thánh giao cho tôi có khó khăn hay nguy hiểm đến đâu, tôi cũng sẽ phối hợp mà không hề dè dặt. Trong lòng, tôi luôn tin rằng miễn là tôi chịu đựng đau khổ và trả giá vì Đức Chúa Trời, không than phiền khi đối mặt với khổ đau và kiên định thực hiện bổn phận của mình, thì chắc chắn sẽ được Đức Chúa Trời ban phước. Khi biết con mình ốm nặng, tôi vẫn chọn thực hiện bổn phận của mình và dành trọn bản thân cho Đức Chúa Trời, để Ngài có thể chữa lành cho con tôi. Tuy nhiên, khi bệnh tình của con không thuyên giảm trong thời gian dài, tôi bắt đầu oán trách Đức Chúa Trời. Tôi đã dùng việc vứt bỏ và dành trọn bản thân của mình trước đây làm công cụ mặc cả với Đức Chúa Trời, tranh cãi và kêu gào chống lại Ngài, than vãn về sự thiếu bảo vệ của Ngài đối với con trai mình, thậm chí còn từ chối thực hiện bổn phận. Bản tính Sa-tan ích kỷ, đê hèn và thích tìm kiếm lợi ích của tôi bị phơi bày hoàn toàn. Tôi đã sử dụng sự vứt bỏ và dành trọn bản thân của mình cho Đức Chúa Trời như một phương tiện để cầu xin phước lành từ Ngài. Tôi nhận ra mình đang đi trên con đường giống Phao-lô. Phao-lô đã dành trọn và trả giá vì Đức Chúa Trời với hy vọng nhận được phần thưởng và mão triều thiên, giao dịch với Đức Chúa Trời. Ông đã lừa gạt, chống đối Đức Chúa Trời, và cuối cùng phải nhận lấy sự lên án và sự trừng phạt của Ngài. Phản tỉnh về nhiều năm tin vào Đức Chúa Trời, do không mưu cầu lẽ thật hay tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời trong lời Ngài, tôi đã dùng việc dâng mình và thực hiện bổn phận để giao dịch với Ngài. Tôi thấy mình thật ích kỷ và đê tiện biết bao, hoàn toàn không xứng đáng với sự cứu rỗi của Ngài!

Sau đó tôi đọc những lời sau của Đức Chúa Trời: “Ngươi trải qua những sự thử luyện của Gióp, và đồng thời ngươi cũng trải qua những sự thử luyện của Phi-e-rơ. Khi Gióp bị thử, ông đã đứng ra làm chứng, và cuối cùng, Đức Giê-hô-va đã hiển linh với ông. Chỉ sau khi ông đứng ra làm chứng thì ông mới xứng đáng được thấy mặt Đức Chúa Trời. Vì sao lại nói: ‘Ta ẩn mình khỏi vùng đất ô trọc nhưng hiển hiện cho vương quốc thánh’? Điều đó có nghĩa là chỉ khi ngươi thánh khiết và đứng ra làm chứng thì ngươi mới có thể có phẩm cách để thấy mặt Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không thể đứng ra làm chứng cho Ngài, thì ngươi không có phẩm cách để thấy mặt Ngài. Nếu ngươi thoái lui hoặc phàn nàn về Đức Chúa Trời khi đối mặt với những sự tinh luyện, vì thế mà không thể đứng ra làm chứng cho Ngài và trở thành trò cười của Sa-tan, thì ngươi sẽ không có được sự hiển linh của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi giống như Gióp, người ở giữa những sự thử luyện đã nguyền rủa xác thịt của chính mình, không phàn nàn về Đức Chúa Trời, và đã có thể ghê tởm xác thịt của chính mình mà không phàn nàn hoặc phạm tội qua lời nói của mình, thì ngươi đang đứng ra làm chứng. Khi ngươi trải qua những sự tinh luyện đến một mức độ nhất định và vẫn có thể giống như Gióp, hoàn toàn thuận phục trước Đức Chúa Trời và không có những yêu cầu nào khác với Ngài hoặc những quan niệm của riêng mình, thì Đức Chúa Trời sẽ hiển linh với ngươi(Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Mặc dù, trong những bối cảnh khác nhau, Đức Chúa Trời dùng những cách khác nhau để kiểm tra mỗi người, nhưng ở Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã thấy điều Ngài muốn, Ngài đã thấy rằng tấm lòng của Áp-ra-ham là thật, và rằng sự thuận phục của ông là vô điều kiện. Chính sự ‘vô điều kiện’ này là điều Đức Chúa Trời mong muốn. Người ta thường nói: ‘Tôi đã dâng cái này, tôi đã kiêng cái nọ – tại sao Đức Chúa Trời vẫn không thỏa mãn với tôi? Tại sao Ngài cứ bắt tôi chịu thử luyện? Tại sao Ngài cứ kiểm tra tôi?’. Điều này minh chứng một thực tế: Đức Chúa Trời chưa thấy tấm lòng của ngươi, và chưa thu phục được lòng ngươi. Nói vậy nghĩa là, Ngài chưa thấy được sự chân thành như khi Áp-ra-ham có thể giơ dao lên để giết con trai bằng chính tay mình và dâng con cho Đức Chúa Trời. Ngài chưa thấy sự thuận phục vô điều kiện của ngươi, và chưa được an ủi bởi ngươi. Vậy thì, cũng là tự nhiên khi Đức Chúa Trời cứ thử luyện ngươi(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Từ những lời này của Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng Đức Chúa Trời ban phước cho những ai chân thành dành trọn bản thân cho Ngài. Dù Đức Chúa Trời hành động thế nào, họ đều thuận phục sự sắp đặt và an bài của Ngài một cách vô điều kiện, mà không có bất kỳ đòi hỏi, yêu cầu hay sự uế tạp nào. Đây mới là lời chứng thực sự. Tôi không khỏi nghĩ đến Gióp. Ông chỉ nghe nói về Đức Chúa Trời, nhưng khi ông mất tất cả tài sản và con cái, mình đầy ung nhọt, thậm chí còn bị người vợ chế giễu, ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, nói rằng: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Gióp không cố gắng mặc cả hay đòi hỏi điều gì từ Đức Chúa Trời; ông giữ một tấm lòng trong sạch đối với Ngài. Tôi cũng nghĩ đến Áp-ra-ham. Ông đã một trăm tuổi khi có đứa con trai Y-sác, người mà ông vô cùng yêu thương. Khi Đức Chúa Trời yêu cầu ông dâng Y-sác làm của lễ, dù ông rất yêu thương con trai mình, ông đã không để tình cảm đó chi phối. Ông sẵn lòng dâng Y-sác trên bàn thờ. Đức tin và sự thuận phục của họ đối với Đức Chúa Trời là tuyệt đối và vô điều kiện, không có sự mặc cả hay đòi hỏi nào. Những gì họ làm chỉ đơn thuần là tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, không phải vì phước lành hay lợi ích cá nhân. Lời chứng của họ thực sự đáng khen ngợi và ngưỡng mộ. Tuy nhiên, tôi đã luôn hiểu sai rằng khi đối mặt với bệnh tật hay tai ương, miễn là tôi có thể duy trì bổn phận mà không phàn nàn, thì những hành vi tốt này là đủ để đứng vững làm chứng, làm hài lòng Đức Chúa Trời, và tôi sẽ nhận được phước lành của Ngài. Nhưng đằng sau sự dâng mình của tôi, không hề có sự chân thành hay thuận phục Đức Chúa Trời. Sự hy sinh của tôi hoàn toàn bị sự lừa gạt, giao dịch và đòi hỏi chi phối. Đó hoàn toàn không phải là lời chứng chân thật, hành vi này là điều đáng ghê tởm đối với Đức Chúa Trời và không xứng đáng được Ngài ban phước. Trước đây, tôi đã đọc về lời chứng của Gióp và Áp-ra-ham vô số lần, nhưng tôi không tập trung vào cách họ đi theo con đường của Đức Chúa Trời, kính sợ Ngài, lánh xa điều ác, luôn trung thành và thuận phục Đức Chúa Trời. Thay vào đó, tôi tập trung vào những phước lành họ nhận được sau khi đứng vững làm chứng. Tất cả là do bản tính Sa-tan thích tìm kiếm lợi ích thúc đẩy tôi. Khi tiếp xúc với lời của Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu được thế nào là một lời chứng chân thật.

Sau đó, tôi suy ngẫm: Sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, mình luôn nghĩ rằng nếu mình dành trọn bản thân và hy sinh cho Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ ban phước cho mình; đây là sự công chính của Ngài. Vì vậy khi bệnh tình con mình không cải thiện và thậm chí trở nặng hơn, lòng mình mới tràn đầy sự than phiền và hiểu lầm, thậm chí còn từ chối bổn phận. Tôi tìm cách xử lý vấn đề này một cách đúng đắn. Trong quá trình đó, tôi tình cờ đọc được những lời sau của Đức Chúa Trời: “Công chính không có nghĩa là công bằng hoặc hợp lý; đó không phải là chủ nghĩa quân bình, hay vấn đề phân bổ cho ngươi những gì ngươi xứng đáng tương ứng với lượng công việc ngươi đã hoàn thành, hoặc trả cho ngươi vì bất cứ công việc nào ngươi đã làm, hoặc ghi nhận về những nỗ lực ngươi bỏ ra. Đây không phải là sự công chính, nó chỉ đơn thuần là công bằng và hợp lý. Rất ít người có khả năng biết được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Giả sử Đức Chúa Trời đã hủy diệt Gióp sau khi Gióp làm chứng cho Ngài: Việc đó có công chính không? Thực ra là có. Tại sao gọi đây là sự công chính? Con người nhìn nhận sự công chính như thế nào? Nếu điều gì đó phù hợp với quan niệm của mọi người, thì rất dễ dàng để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính; tuy nhiên, nếu họ không thấy điều đó phù hợp với quan niệm của họ – nếu đó là điều mà họ không thể hiểu được – thì sẽ khó để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính. Nếu Đức Chúa Trời hủy diệt Gióp vào lúc ấy, con người sẽ không nói Ngài công chính. Tuy nhiên, thật ra thì dù con người có bị bại hoại hay không, và dù họ có bị bại hoại sâu sắc hay không thì Đức Chúa Trời có phải biện minh cho Ngài khi Ngài hủy diệt họ không? Ngài có phải giải thích cho con người là Ngài làm như vậy dựa trên cơ sở nào không? Đức Chúa Trời có phải nói cho con người biết những quy luật Ngài ấn định không? Không cần. Trong mắt Đức Chúa Trời, ai đó bại hoại và ai đó có thể chống đối Đức Chúa Trời thì đều không có giá trị; dù Đức Chúa Trời có xử lý họ như thế nào thì cũng sẽ là thích hợp, và tất cả đều là những sự an bài của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chướng mắt đối với Đức Chúa Trời, và nếu Ngài nói rằng Ngài không cần tới ngươi sau chứng ngôn của ngươi và do đó hủy diệt ngươi thì điều này cũng là sự công chính của Ngài chứ? Đúng vậy. Có lẽ ngươi không thể nhận ra điều này ngay bây giờ từ thực tế, nhưng ngươi phải hiểu đạo lý. … Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều công chính. Mặc dù có thể con người không thể nhận ra được sự công chính của Đức Chúa Trời, nhưng họ không nên tùy ý phán xét. Nếu điều gì đó mà Ngài làm đối với con người có vẻ là không hợp lý, hoặc nếu họ có bất kỳ quan niệm nào về điều đó, và nó khiến họ cho rằng Ngài không công chính, thì họ đang là kẻ vô lý nhất. Ngươi thấy rằng Phi-e-rơ có một số chuyện không thể hiểu thấu được, nhưng ông chắc chắn rằng trong những chuyện này có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và ý tốt của Ngài. Con người không thể hiểu thấu mọi thứ; có quá nhiều thứ mà họ không thể dò thấu được. Vì vậy, để biết tâm tính của Đức Chúa Trời không phải là một điều dễ dàng(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Phản tỉnh về những lời này của Đức Chúa Trời, tôi nhận ra mình không có hiểu biết thuần túy về tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tôi từng nghĩ rằng nếu ta dành trọn bản thân cho Đức Chúa Trời và đứng vững làm chứng, thì Ngài sẽ ban phước cho ta, xóa bỏ mọi khó khăn và đau đớn, cho phép ta sống trong phước lành của Ngài. Điều này có vẻ công bằng và hợp lý với tôi, tôi nghĩ đây là sự công chính của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, kiểu hiểu biết này không phù hợp với tâm ý Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, và con người là thọ tạo. Đức Chúa Trời đối xử với ta như thế nào là việc của Ngài, còn ta không nên đưa ra những đòi hỏi vô lý với Ngài. Giống như khi Gióp đứng vững làm chứng, việc Đức Chúa Trời ban phước cho Gióp là sự công chính của Ngài, và ngay cả khi Ngài không ban phước cho Gióp, Ngài vẫn công chính. Thực chất tâm tính của Đức Chúa Trời là sự công chính. Song, tôi đã không nhận ra điều này. Tôi đã tin rằng công chính là chủ nghĩa quân bình, công bằng và hợp lý. Tôi đã nghĩ rằng nếu mình hy sinh cho Đức Chúa Trời, mình sẽ được đền đáp bằng những phước lành. Cách suy nghĩ này chứa đầy những giao dịch. Khi con trai tôi đổ bệnh, dù tôi kiên trì thực hiện các bổn phận, nhưng vẫn có động cơ cá nhân phía sau cầu xin Đức Chúa Trời ban ơn, để Đức Chúa Trời chữa lành bệnh cho con trai tôi. Đây thực sự là một giao dịch, không phải là làm chứng. Nếu không phải vì bệnh tình của con trai, động cơ đê hèn của tôi khi mặc cả với Đức Chúa Trời sẽ không bị phơi bày. Tôi đã thấy được sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, nhận ra sự thiếu lương tâm và lý trí của mình. Do đó, tôi đã quyết định: Dù con mình có ốm đau thế nào, tôi sẽ thuận phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời, và làm tròn bổn phận với tư cách một thọ tạo.

Sau đó, tôi đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Không có mối tương quan giữa bổn phận của con người và việc liệu họ được ban phước hay bị rủa sả. Bổn phận là việc con người phải thực hiện; đó là thiên hướng của họ và không nên lệ thuộc vào sự tưởng thưởng, điều kiện hay lý do. Chỉ khi đó mới là thực hiện bổn phận của mình. Được ban phước là khi ai đó được làm cho hoàn thiện và vui hưởng các phước lành của Đức Chúa Trời sau khi trải qua sự phán xét. Bị rủa sả là khi tâm tính của ai đó không thay đổi sau khi họ đã trải qua hình phạt và sự phán xét, đó là khi họ không trải nghiệm việc được làm cho hoàn thiện, mà bị trừng phạt. Nhưng bất kể họ được ban phước hay bị rủa sả, những loài thọ tạo cũng phải thực hiện bổn phận của mình, làm những điều họ cần phải làm, và làm những điều họ có thể làm; thực hành được như vậy chính là điều tối thiểu mà người mưu cầu Đức Chúa Trời nên làm. Ngươi không nên thực hiện bổn phận của mình chỉ để được ban phước, và ngươi không nên từ chối hành động vì sợ bị rủa sả(Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời của Đức Chúa Trời đã cho tôi câu trả lời rõ ràng: Thực hiện bổn phận của mình là thiên hướng. Nó không liên quan gì đến phước lành hay bất hạnh; đó là điều chúng ta nên làm. Trước đây, tôi đã sống với những quan niệm và tưởng tượng, tin rằng nếu tôi có thể kiên trì thực hiện bổn phận, thì tôi xứng đáng được Đức Chúa Trời ban phước, và Ngài sẽ giữ cho gia đình tôi được bình an. Giờ đây tôi đã hiểu, đây là quan điểm sai lầm. Dù bệnh tình của con tôi có cải thiện hay không, tôi cũng không nên mặc cả với Đức Chúa Trời. Kể từ đó, tôi sẵn sàng thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, hoàn thành các bổn phận và trách nhiệm. Ba ngày sau, tôi nhận được một lá thư từ lãnh đạo cấp trên nói rằng có việc gấp cần tôi làm ngay. Mặc dù tôi không muốn rời xa đứa con của mình, song tôi hiểu rằng mình không nên chỉ sống dựa vào tình cảm. Tôi phải thực hiện sứ mệnh của mình, còn bệnh tình của con trai tôi thì nằm trong tay của Đức Chúa Trời. Tôi sẵn sàng giao phó con mình cho Đức Chúa Trời, thuận phục sự sắp đặt và an bài của Ngài. Sau đó, tôi đã đi thực hiện bổn phận của mình.

Ba tháng sau, tôi về nhà thăm con và biết rằng chồng tôi đã đưa thằng bé đến một bác sĩ ở vùng nông thôn để điều trị. Tình trạng sưng tấy ở hai chân của con đã thuyên giảm, sức khỏe con cải thiện từng ngày. Cuối năm đó, bác sĩ nói rằng: “Thằng bé này hồi phục rất nhanh. Hết bệnh rồi”. Khi nghe kết quả này, tôi vui mừng đến mức không thể diễn tả bằng lời.

Sau trải nghiệm này, tôi đã hiểu thêm chút về tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tôi cũng nhận ra rằng việc mưu cầu lẽ thật và hoàn thành bổn phận như một thọ tạo là những điều quan trọng nhất khi tin Đức Chúa Trời. Chúng ta không nên xin Đức Chúa Trời ban cho lợi ích thể chất, bình an gia đình, thoát khỏi bệnh tật và tai ương, hay những kết cục và đích đến thuận lợi. Đây là những yêu cầu vô lý. Nếu chỉ dựa vào những quan niệm và tưởng tượng trong đức tin, ta sẽ không bao giờ có thể bước vào thực tế lẽ thật. Chỉ thông qua việc trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời cũng như những thử luyện và sự tinh luyện, chúng ta mới có thể đạt được lẽ thật, thoát khỏi sự bại hoại và sống trong ánh sáng hiện diện của Đức Chúa Trời. Mặc dù tôi đã phải chịu đựng một vài đau đớn và tinh luyện thông qua căn bệnh của con trai mình, nhưng chúng đã phơi bày những tạp chất bại hoại tồn tại từ lâu trong tôi và quan điểm sai lầm mà tôi từng có về việc tin Đức Chúa Trời. Trải nghiệm này giúp tôi biết mình, tìm kiếm lẽ thật và nhận ra loại chứng ngôn nào được Đức Chúa Trời chấp thuận. Nó giúp tôi nhanh chóng sửa chữa những quan điểm sai lầm và đi con đường đúng đắn. Đây chính là ân đãi Đức Chúa Trời dành cho tôi!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger