Lãnh đạo biến thành Giu-đa sau khi bị bắt

22/09/2024

Ngày 4 tháng 7 năm 2018, Đinh Kiệt, người lãnh đạo làm việc cùng với tôi, đã bị theo dõi và bắt giữ. Khi nghe tin này, tôi rất lo lắng. Thủ đoạn tra tấn của cảnh sát rất tàn ác, liệu chị ấy có chịu nổi không? Tôi cũng thường xuyên tiếp xúc với chị ấy, vậy chẳng phải tôi cũng đã bị theo dõi sao? Suy nghĩ đến đây, tôi cảm thấy có chút lo sợ. Vài ngày sau, tôi nhận được một lá thư từ quê nhà. Trong thư nói rằng cảnh sát đã đến nhà tôi để bắt tôi và cũng bảo dân làng hãy để mắt đến tôi. Chị Lý Thanh ở làng tôi đã bị bắt, và cảnh sát vẫn đang truy lùng hai đứa con gái của chị. Tin này là một cú sốc lớn đối với tôi. Cảnh sát đang bắt bớ các anh chị em ở khắp nơi, và tôi đã trở thành một kẻ không nhà. Nhìn mức độ mà cảnh sát huy động để bắt giữ những người tin Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy rất phẫn nộ. Đồng thời, tôi lo rằng nếu đã bị cảnh sát theo dõi thì ở đây sẽ không còn an toàn cho mình nữa. Lỡ như bị cảnh sát bắt, chẳng phải tôi sẽ bị họ tra tấn sao? Liệu tôi có thể chịu đựng nổi không? Càng nghĩ, tôi càng sợ. Tôi đã trải qua vài ngày tiếp theo trong tâm trạng lo sợ.

Không lâu sau, tôi nghe nói Đinh Kiệt không chịu được sự tra tấn nên đã bán đứng nhiều anh chị em cũng như hai gia đình cất giữ sách lời Đức Chúa Trời. Trước đó, sách đã được chuyển đi rồi, nhưng người chị em trong gia đình cất giữ sách đã bị bắt, và cảnh sát đã lấy 300.000 tệ tiền tiết kiệm của nhà một người chị em khác. Đinh Kiệt thậm chí còn dẫn cảnh sát đi bắt các anh chị em. Hơn 10 lãnh đạo và chấp sự đã liên tiếp bị bắt. Nhà của một số anh chị em đã bị đột kích, nhiều anh chị em khác phải bỏ nhà đi trốn. Không lâu sau, Hạ Vũ, một lãnh đạo khác, đã bị bắt. Vì không thể chịu đựng được sự đe dọa, tra tấn của cảnh sát và sợ bị đi tù, cuối cùng, chị ấy đã bán đứng các anh chị em và khai ra nơi giữ tiền của hội thánh. Khi nghe tin này, tôi đã rất kinh ngạc và không dám tin đó là sự thật. Trước đó, những người lãnh đạo này thực sự đã mưu cầu lẽ thật. Sao họ có thể trở thành những kẻ phản bội như vậy được cơ chứ? Đinh Kiệt và Hạ Vũ đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm. Họ đã từ bỏ gia đình, sự nghiệp và dành trọn thời gian để thực hiện bổn phận. Dù bị gia đình bách hại và ngăn cản như thế nào, họ cũng vẫn tin vào Đức Chúa Trời, họ từng có thể chịu đựng đau khổ và trả giá khi thực hiện bổn phận. Sao đột nhiên họ lại trở thành Giu-đa được? Tôi thực sự không hiểu. Họ là các lãnh đạo, bình thường họ rất giỏi thông công với các anh chị em. Lẽ ra họ phải hiểu được nhiều lẽ thật hơn và có vóc giạc lớn hơn các anh chị em chứ. Nhưng ngay cả một số anh chị em bình thường cũng có thể đứng vững làm chứng, là những lãnh đạo, sao vóc giạc của họ lại có thể kém hơn anh chị em bình thường? Sao họ có thể phản bội Đức Chúa Trời được chứ? Lúc đó, tôi đã nghĩ về chính mình. Nói đến việc từ bỏ và dâng mình thì tôi không hơn được họ. Họ đã từ bỏ công việc, cha mẹ, con cái, và chọn thực hiện bổn phận, còn tôi thì vẫn thường bị tình cảm kìm kẹp khi thực hiện bổn phận. Vậy mà họ cũng không thể đứng vững. Nếu bị bắt và bị cảnh sát dọa bỏ tù, liệu tôi có thể đứng vững làm chứng không? Nếu tôi giống như họ, phản bội Đức Chúa Trời vì không chịu nổi nỗi đau xác thịt và sợ bị bỏ tù, vậy thì chẳng phải tôi cũng sẽ có kết cục và đích đến tồi tệ sao? Những năm tháng tin vào Đức Chúa Trời của tôi chẳng phải sẽ vô ích sao? Tôi không khỏi lo lắng cho chính mình. Tôi không hiểu tại sao hội thánh lại phải chịu sự bách hại khủng khiếp như vậy, và tại sao quá nhiều anh chị em lại bị bắt như thế. Hình tượng những chiến binh cao cả trong tâm trí tôi đã sụp đổ hết. Trong khoảng thời gian đó, tôi rất chán nản. Mỗi ngày, tôi đều thở dài tuyệt vọng, mặt đầy vẻ lo lắng. Tôi không để tâm khi đọc lời Đức Chúa Trời, và cũng chẳng còn nhiệt huyết khi nhóm họp hoặc thực hiện bổn phận.

Thấy tôi khá chán nản nên một người chị em đã nhắc nhở tôi: “Chị không thể tiếp tục tiêu cực như vậy được. Chị phải noi gương các anh chị em đứng vững làm chứng, đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn và rút ra thêm nhiều bài học”. Phải đến khi được chị ấy nhắc nhở, tôi mới nhận ra mình yếu đuối như thế nào. Các anh chị em của tôi đã phải chịu quá nhiều đau khổ và sự bách hại của cảnh sát, vậy mà họ vẫn biết cậy dựa vào Đức Chúa Trời và rút ra bài học. Tại sao tôi lại không biết tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời chứ? Trong khi tìm kiếm, tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Vậy thì, làm sao để có thể đi đoạn cuối của con đường? Trong những ngày ngươi trải qua hoạn nạn, ngươi phải chịu đựng mọi gian khổ, và ngươi phải có ý chí để chịu đựng; chỉ theo cách này ngươi mới có thể đi hết đoạn đường này. Ngươi có nghĩ rằng đi đoạn đường này là điều quá dễ dàng không? Ngươi nên biết mình phải thực hiện phận sự gì; ngươi phải nâng cao tố chất của mình và tự trang bị cho mình đầy đủ lẽ thật. Đây không phải là công việc ngày một ngày hai, và nó không đơn giản như ngươi nghĩ! Đi đoạn cuối của con đường tùy thuộc vào việc ngươi thực sự có loại đức tin và ý chí nào. Có lẽ ngươi không thể nhìn thấy Đức Thánh Linh đang làm việc trong ngươi, hoặc có lẽ ngươi không thể tìm thấy công tác của Đức Thánh Linh trong hội thánh, vì thế, ngươi bi quan, thất vọng và đầy tuyệt vọng về con đường phía trước. Cụ thể là, những chiến binh vĩ đại của quá khứ đều đã thất bại – chẳng phải tất cả những điều này là một đòn giáng vào ngươi sao? Ngươi nên nhìn nhận những điều này như thế nào? Ngươi có đức tin hay không? Ngươi có hiểu đầy đủ công tác của ngày hôm nay hay không? Những điều này có thể xác định liệu ngươi có thể đi đoạn cuối của con đường một cách thành công hay không(Ngươi nên đi đoạn cuối của con đường như thế nào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu được rằng sự bách hại và nghịch cảnh mà chúng ta phải chịu ngày hôm nay là bài học mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho mỗi người chúng ta. Chặng cuối cùng của con đường này không dễ đi, vì vậy chúng ta phải có đức tin to lớn và trang bị nhiều lẽ thật hơn. Nhìn thấy nhiều anh chị em bị bắt, những chiến binh cao cả bên cạnh mình thì gục ngã, nhiều anh chị em còn phải trốn chạy khắp nơi, vì vậy tôi trở nên bi quan, thất vọng và đánh mất đức tin. Chẳng phải tôi đang mắc phải âm mưu xảo quyệt của Sa-tan hay sao? Dù Đức Chúa Trời có làm gì thì Ngài cũng đều đã tính toán chu đáo cả, nhưng tôi lại không tìm kiếm tâm ý của Ngài mà còn sống trong quan niệm và tưởng tượng của mình, suy nghĩ tiêu cực về những chuyện đã xảy ra. Điều này không phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời! Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con không hiểu tại sao hội thánh lại phải đối mặt với những hoàn nghiêm trọng như vậy, và tại sao Ngài lại để chúng con phải chịu đựng sự bắt bớ, bách hại điên cuồng của Đảng Cộng sản. Lạy Đức Chúa Trời, xin dẫn dắt con hiểu được tâm ý của Ngài, cho con thoát khỏi tình trạng hiểu lầm và chán nản này”.

Trong khi tìm kiếm, tôi đã đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời mà nó đã khiến tôi vô cùng xúc động. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Mọi điều Đức Chúa Trời làm đều là cần thiết và mang ý nghĩa phi thường, bởi tất cả những gì Ngài làm nơi con người đều liên quan đến sự quản lý và cứu rỗi nhân loại của Ngài. Đương nhiên, công tác mà Đức Chúa Trời đã làm nơi Gióp không có gì khác cả, mặc dù Gióp trọn vẹn và ngay thẳng trong mắt Đức Chúa Trời. Nói cách khác, bất kể Đức Chúa Trời làm gì hay Ngài làm bằng phương tiện nào, bất kể giá nào, bất kể mục tiêu của Ngài, thì mục đích trong những hành động của Ngài cũng không thay đổi. Mục đích của Ngài là đưa lời Đức Chúa Trời vào con người, cũng như những yêu cầu và tâm ý của Đức Chúa Trời đối với con người; nói cách khác, đó là đưa vào con người tất cả những gì Đức Chúa Trời tin là tích cực theo các bước của Ngài, cho phép con người hiểu lòng Đức Chúa Trời và thấu hiểu thực chất của Đức Chúa Trời, cũng như cho phép con người thuận phục sự tể trị và những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, do đó cho phép con người đạt được sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác – tất cả những điều này là một phương diện của mục đích của Đức Chúa Trời trong tất cả những gì Ngài làm. Phương diện kia là, bởi vì Sa-tan là vật làm nền và đối tượng phục vụ trong công tác của Đức Chúa Trời, con người thường bị giao cho Sa-tan; đây là phương tiện mà Đức Chúa Trời dùng để cho phép con người từ những sự cám dỗ và tấn công của Sa-tan mà nhìn thấy sự độc ác, sự xấu xa, và tính đê hèn của Sa-tan, từ đó khiến con người ghét Sa-tan và có thể biết cũng như nhận ra điều gì là tiêu cực. Quá trình này cho phép họ dần giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát và cáo buộc, sự quấy rầy, và tấn công của Sa-tan – cho đến khi, nhờ lời Đức Chúa Trời, nhận thức và sự thuận phục Đức Chúa Trời của họ, cũng như đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời và sự kính sợ Ngài, mà họ chiến thắng những cuộc tấn công và cáo buộc của Sa-tan; chỉ khi đó họ mới hoàn toàn được giải cứu khỏi quyền lực của Sa-tan. Sự giải cứu con người có nghĩa là Sa-tan đã bị đánh bại, nghĩa là họ không còn là miếng mồi trong miệng Sa-tan nữa – thay vì nuốt chửng họ, Sa-tan đã thả họ ra. Điều này là vì những người như thế ngay thẳng, bởi vì họ có đức tin, sự thuận phục, và kính sợ đối với Đức Chúa Trời, và bởi vì họ hoàn toàn cắt đứt với Sa-tan. Họ khiến Sa-tan hổ thẹn, họ khiến Sa-tan thành kẻ hèn nhát, và họ đánh bại Sa-tan hoàn toàn. Niềm tin chắc của họ vào việc theo Đức Chúa Trời, và sự thuận phục, kính sợ Đức Chúa Trời của họ đánh bại Sa-tan, và làm cho Sa-tan hoàn toàn bỏ cuộc với họ. Chỉ những người như thế này mới thật sự được thu phục bởi Đức Chúa Trời, và đây chính là mục tiêu sau cùng của Đức Chúa Trời trong việc cứu rỗi con người. Nếu họ muốn được cứu rỗi, và muốn được Đức Chúa Trời thu phục hoàn toàn, thì tất cả những ai theo Đức Chúa Trời đều phải đối mặt với những cám dỗ và tấn công cả lớn lẫn nhỏ từ Sa-tan. Những ai vượt lên những cám dỗ và tấn công này và có thể đánh bại Sa-tan hoàn toàn là những người đã được Đức Chúa Trời cứu rỗi(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời rất rõ ràng. Hội thánh đang chịu sự bách hại và nhiều anh chị em bị bắt giữ là điều được Đức Chúa Trời cho phép. Một mặt, Ngài tỏ lộ mọi loại người, mặt khác, Ngài hoàn thiện những ai thực sự tin vào Ngài. Ngài sử dụng hoàn cảnh này để nhào nặn lời Ngài vào con người, khiến họ đạt được lẽ thật và bước vào thực tế. Công tác của Đức Chúa Trời là cứu rỗi con người khỏi tội lỗi và quyền thế của Sa-tan, rồi cuối cùng đưa họ vào vương quốc của Ngài. Sa-tan và các ma vương không thích như vậy. Chúng điên cuồng bắt bớ và bách hại dân được Đức Chúa Trời chọn, tìm mọi cách để cạnh tranh với Đức Chúa Trời và dùng mọi thủ đoạn để cản trở công tác của Ngài. Chúng buộc tội và tấn công từng người đi theo Đức Chúa Trời, cố gắng khiến họ chối bỏ Đức Chúa Trời, phản bội Ngài và bị trừng phạt dưới địa ngục cùng với chúng. Giữa các cuộc tấn công và cám dỗ của Sa-tan, dân được Đức Chúa Trời chọn có thể cậy dựa Ngài, đứng vững làm chứng và làm nhục Sa-tan là những người có thể được cứu rỗi. Trong khi đó, những kẻ phản bội Đức Chúa Trời, thỏa hiệp và đầu hàng Sa-tan sẽ đánh mất sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, bị tỏ lộ và đào thải. Hiểu được khía cạnh này của lẽ thật, lòng tôi chợt sáng tỏ. Việc chịu đựng sự bắt bớ và bách hại bởi quyền lực chính trị của Sa-tan là quá trình cần thiết để đạt được sự cứu rỗi. Việc tôi hèn nhát, sợ hãi và nghĩ đến việc thoát khỏi một môi trường như vậy là vô ích. Điều tôi nên làm là trang bị nhiều lẽ thật hơn và đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời.

Sau đó, tôi đã đọc được thêm đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Trong quốc gia của con rồng lớn sắc đỏ, Ta đã thực hiện một giai đoạn công tác khó hiểu đối với con người, khiến họ quay cuồng trong gió, và sau đó nhiều người đã lặng lẽ trôi đi theo gió. Thực ra, đây là ‘sân đạp lúa’ mà Ta sẽ dọn sạch; đây là điều mà Ta mong mỏi và cũng là kế hoạch của Ta. Vì nhiều kẻ ác đã lẻn vào khi Ta bận việc, nhưng Ta không vội vàng gì mà đuổi chúng đi. Thay vào đó, Ta sẽ giải tán chúng khi đến thời điểm phù hợp. Chỉ sau đó Ta mới trở thành nguồn sống, cho phép những người thực sự yêu Ta nhận được từ Ta trái của cây vả và hương thơm của hoa huệ. Trên vùng đất mà Sa-tan cư ngụ, vùng đất của bụi bặm, không còn chút vàng ròng nào nữa, chỉ còn cát; và vì thế, với tình huống này, Ta thực hiện một giai đoạn công tác như vậy. Ngươi cần biết rằng thứ mà Ta có được là vàng ròng nguyên chất, chứ không phải cát. Làm sao những kẻ ác có thể ở lại trong nhà của Ta? Làm sao Ta có thể cho phép lũ cáo ký sinh trong địa đàng của Ta? Ta vận dụng mọi phương cách có thể để xua đuổi những thứ đó đi. Trước khi tâm ý của Ta được mặc khải, không ai biết được điều Ta sẽ làm. Nhân cơ hội này, Ta xua đuổi những kẻ ác, và chúng buộc phải rời bỏ sự hiện diện của Ta. Đây là điều Ta làm với những kẻ ác, nhưng vẫn sẽ có một ngày cho chúng phục vụ Ta(Bảy tiếng sấm rền – Tiên đoán rằng Phúc Âm của vương quốc sẽ truyền bá khắp vũ trụ, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được rằng: Con rồng lớn sắc đỏ là một vật phục vụ trong công tác của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời dùng sự bắt bớ và bách hại của con rồng lớn sắc đỏ để phục vụ cho việc hoàn thiện dân được Ngài chọn, đồng thời tỏ lộ những kẻ chẳng tin và kẻ ác, phân mọi người theo loại. Công tác của Đức Chúa Trời thật toàn năng và khôn ngoan! Ngài sử dụng sự bách hại và bắt bớ điên cuồng của con rồng lớn sắc đỏ để hoàn thiện con người, tỏ lộ và loại bỏ họ. Lúa mì, cỏ dại, những tín đồ chân chính và giả mạo– Ngài tỏ lộ tất cả, từng người một, trong hoàn cảnh khó khăn này. Với những người thực sự tin Đức Chúa Trời và yêu lẽ thật, dù phải chịu đau khổ hay thậm chí phải chết, họ vẫn sẽ đi theo Đức Chúa Trời đến cùng và đứng vững làm chứng cho Ngài. Những người không có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời và không có nhân tính thì sẽ thỏa hiệp và đầu hàng Sa-tan trong mọi hoàn cảnh. Những người như vậy chính xác là cỏ lùng mà Đức Chúa Trời tỏ lộ trong công tác của Ngài vào thời kỳ sau rốt; họ là những người bị đào thải. Tôi nghĩ đến một người anh em còn trẻ trong số những người đã bị bắt. Cảnh sát đã lấy đầu thuốc lá châm vào người anh, tạt từng cốc nước sôi sùng sục lên cơ thể anh. Điều đó thật quá mức kinh khủng, nhưng dù phải chịu giày vò như thế, anh vẫn không phản bội Đức Chúa Trời. Anh đã dùng lẽ thật để phản bác những lời lẽ tẩy não của cảnh sát. Anh thà vào tù còn hơn phải nói một câu phủ nhận hoặc phản bội Đức Chúa Trời. Còn có một người chị em bị chúng lột quần áo, sốc điện bằng dùi cui trong một căn phòng tối. Đối với chị, cái chết còn đỡ đau đớn hơn. Nhưng chị ấy thà chết còn hơn phản bội Đức Chúa Trời. Sau khi bị bắt, nhiều anh chị em đã chết mà không phản bội Đức Chúa Trời. Họ đã làm chứng vang dội cho Đức Chúa Trời và hạ nhục Sa-tan. Mặc dù họ đã bị bắt, chịu sự bách hại, và xác thịt phải chịu một số đau đớn, nhưng sau khi chứng kiến những việc làm của Đức Chúa Trời, đức tin của họ đã được hoàn thiện. Tôi nhận ra sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời đã được thực hiện dựa trên âm mưu xảo quyệt của Sa-tan. Con rồng lớn sắc đỏ đã dùng đủ mọi cách để bách hại những người tin vào Đức Chúa Trời, cố gắng trong tuyệt vọng để khiến họ phản bội và chối bỏ Ngài, nhưng Đức Chúa Trời đã sử dụng một môi trường như thế để hoàn thiện một nhóm người trở thành những người đắc thắng, những chiến binh tuyệt vời của vương quốc, đồng thời tỏ lộ, loại bỏ những kẻ chẳng tin và kẻ ác muốn tìm kiếm bánh mì để thỏa mãn cơn đói của chúng. Tôi nghĩ đến việc trước khi Đinh Kiệt và Hạ Vũ bị bắt, họ đã có thể vứt bỏ và dâng mình, luôn nói rằng mọi người phải đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời. Bề ngoài, họ có vẻ là những người thực lòng tin vào Đức Chúa Trời, nhưng ngay khi phải đối mặt với việc bị bắt bớ và tra tấn, họ đã bảo vệ mạng sống của chính mình và phản bội Đức Chúa Trời, bán đứng các anh chị em, thậm chí trở thành tay sai của Đảng Cộng sản. Họ chính xác là dạng kẻ ác mà Đức Chúa Trời đã vạch trần. Trước đây, nếu có ai nói rằng họ là những kẻ ác và sẽ phản bội Đức Chúa Trời, chắc chắn tôi sẽ không tin. Nhưng khi sự thật được tỏ lộ, tôi đã thấy rõ thực chất của họ. Những gì họ thường nói chỉ toàn là câu chữ và đạo lý, là lý thuyết sáo rỗng. Tôi lại nghĩ về mình. Trước đây, tôi đã quyết tâm trước Đức Chúa Trời rằng dù hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, tôi vẫn sẽ luôn kiên trì thực hiện bổn phận, làm hài lòng Ngài, và tôi tưởng mình có vóc giạc lớn. Nhưng khi đối mặt với hiểm nguy và hoạn nạn, tôi đã sống trong trạng thái kinh hoàng, sợ hãi và đánh mất đức tin. Cuối cùng tôi nhận ra vóc giạc của mình thật nhỏ bé.

Sau đó, tôi nghĩ về việc Đinh Kiệt và Hạ Vũ đã thất bại như thế nào. Tôi phải rút ra bài học từ thất bại của họ. Tại sao việc họ trở thành Giu-đa và phản bội Đức Chúa Trời lại khiến tôi ngạc nhiên và khó chấp nhận đến thế? Khi nghĩ kỹ về điều này, tôi thấy mình có một quan điểm sai lầm. Tôi nghĩ rằng vì họ là các lãnh đạo, đã từ bỏ gia đình, sự nghiệp để thực hiện bổn phận, mối thông công của họ thường rất hay, nên họ hẳn phải hiểu lẽ thật và có thực tế, vóc giạc của họ phải lớn hơn các anh chị em, và sẽ không dễ dàng phản bội Đức Chúa Trời như vậy. Tôi nhận ra mình đã đánh giá họ dựa trên tiêu chuẩn sai lầm. Tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Khi một người nào đó được các anh chị em chọn làm lãnh đạo, hoặc được nhà Đức Chúa Trời đề bạt làm một phần công việc nhất định hay thực hiện một bổn phận nhất định, điều này không có nghĩa là họ có một địa vị hay thân phận đặc biệt, hoặc rằng những lẽ thật mà họ hiểu thì sâu hơn và nhiều hơn của những người khác – càng không có nghĩa là người này có thể thuận phục Đức Chúa Trời và sẽ không phản bội Ngài. Đương nhiên nó cũng không có nghĩa là họ biết Đức Chúa Trời và là người kính sợ Đức Chúa Trời. Trên thực tế, họ chưa đạt được điều nào trong số này; đây chỉ là sự đề bạt bồi dưỡng theo nghĩa đơn giản nhất, và không tương đương với việc họ được Đức Chúa Trời định trước hay khen ngợi. Sự đề bạt và bồi dưỡng của họ đơn thuần có nghĩa là họ đã được đề bạt, và đang chờ đợi sự bồi dưỡng. Và kết quả cuối cùng của sự bồi dưỡng này phụ thuộc vào liệu người này có thể mưu cầu lẽ thật hay không, và liệu họ có thể chọn con đường mưu cầu lẽ thật hay không. Do vậy, khi một người nào đó trong hội thánh được đề bạt và bồi dưỡng để làm lãnh đạo, đây chỉ là sự đề bạt bồi dưỡng theo nghĩa đơn giản nhất; nó không có nghĩa họ đã là một lãnh đạo đạt tiêu chuẩn, hay một người có năng lực, là họ đã có khả năng đảm nhận công việc của một lãnh đạo, và họ có thể thực hiện công tác thực tế – không phải vậy(Trách nhiệm của lãnh đạo và người làm công (5), Lời, Quyển 5 – Trách nhiệm của lãnh đạo và người làm công). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra điều này: Khi một người được chọn làm lãnh đạo, đó chỉ là cơ hội để rèn luyện, chứ hoàn toàn không có nghĩa là họ hiểu lẽ thật và có thực tế. Hơn nữa, việc họ có thể đứng vững đến cùng hay không được quyết định bởi thực chất bản tính của họ và con đường họ đi, chứ chẳng liên quan gì đến việc họ có phải lãnh đạo hay không. Cho dù vóc giạc của một người có lớn đến đâu, họ có vẻ vứt bỏ, dâng mình nhiều cỡ nào, có nhiệt huyết và có thể chịu đựng đau khổ ra sao, nhưng khi có chuyện xảy đến, nếu họ chỉ bảo vệ tư lợi, trong lòng không có Đức Chúa Trời, và có thể phản bội Đức Chúa Trời ở bất cứ đâu hoặc bất cứ lúc nào, thì họ không có thực tế lẽ thật. Trước đây, tôi cho rằng việc các lãnh đạo và người làm công biết cách thông công với người khác chứng tỏ họ hiểu tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời, rằng vóc giạc của họ lớn hơn của các anh chị em, và họ có thể đứng vững khi đối mặt với thử luyện. Tất cả những điều này đều là quan niệm và tưởng tượng của tôi. Giờ đây, tôi đã hiểu được rằng một người có thực tế lẽ thật hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc họ có thực sự đang sống thể hiện ra những hiểu biết mà mình đã thông công hay không. Dù lời họ nói có hay đến đâu, nhưng nếu không thể sống thể hiện ra những lời đó, thì những gì họ đang thông công chỉ là đạo lý, phi thực tế, và họ không thực sự hiểu được lẽ thật. Có vóc giạc không đồng nghĩa với việc có thực tế lẽ thật, làm lãnh đạo và có địa vị cũng không đồng nghĩa với việc biết và thuận phục Đức Chúa Trời, chứ đừng nói đến chuyện yêu kính Đức Chúa Trời và có nhân tính. Khi đánh giá một người, ta không nên nhìn xem vóc giạc của họ lớn hay nhỏ, mà hãy nhìn vào những gì họ thực sự đang sống thể hiện ra. Nếu một người có thể thuận phục, trung thành với Đức Chúa Trời, thực sự biết Đức Chúa Trời, khi mọi chuyện xảy đến, trong thời khắc quan trọng, họ có thể từ bỏ mạng sống và làm Đức Chúa Trời hài lòng, thì điều này nghĩa là họ có thực tế lẽ thật. Bề ngoài, Đinh Kiệt và Hạ Vũ có thể từ bỏ và dâng mình, nhưng khi đối mặt với hiểm nguy, họ chỉ nghĩ đến tư lợi và sự an toàn của bản thân, không thể trung thành với Đức Chúa Trời và bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Họ hoàn toàn không phải là những người thực sự mưu cầu lẽ thật. Họ có thể vứt bỏ, dâng mình, chịu khổ đau và trả giá là vì họ bị chi phối bởi mong muốn đạt được phước lành; họ muốn đạt được lợi ích từ Đức Chúa Trời. Một khi đối mặt với hoàn cảnh liên quan đến lợi ích cá nhân, họ có thể từ bỏ Đức Chúa Trời mà không hề do dự. Họ hoàn toàn không phải là những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời. Việc họ từ bỏ và dâng mình không phải là hành động chân thành, mà là đang thực hiện giao dịch với Đức Chúa Trời. Ngoài ra, còn có một lý do khác khiến họ phản bội Ngài, đó là họ quá coi trọng xác thịt của mình, họ sợ chết và không muốn chịu đựng nỗi đau bị tù đày, vì vậy, họ đã biến thành Giu-đa. Nghĩ đến lý do họ thất bại, tôi nghĩ đến việc mình cũng thật hèn nhát, sợ rằng một ngày nào đó, nếu bị bắt và không thể chịu nổi sự tra tấn mà phản bội Đức Chúa Trời, thì tôi phải tính sao đây? Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, xin cho con biết những lẽ thật mà mình nên trang bị để không phản bội Ngài”.

Trong khi tìm kiếm, tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Một điều gì đó xảy ra đòi hỏi ngươi phải chịu đựng gian khó, tại thời điểm đó, ngươi nên hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời là gì và ngươi nên quan tâm đến tâm ý của Ngài như thế nào. Ngươi không được tự hài lòng: Trước tiên hãy gạt bản thân sang một bên. Không có gì đáng khinh hơn xác thịt. Ngươi phải tìm cách làm Đức Chúa Trời hài lòng và ngươi phải làm tròn bổn phận của mình. Với những suy nghĩ như vậy, Đức Chúa Trời sẽ đem đến sự khai sáng đặc biệt cho ngươi trong vấn đề này và lòng ngươi cũng sẽ tìm thấy sự ủi an. Dù lớn hay nhỏ, khi có điều gì đó xảy đến với ngươi, trước tiên ngươi phải gạt bản thân mình sang một bên và coi xác thịt là thứ thấp kém nhất trong tất cả mọi thứ. Ngươi càng đáp ứng xác thịt thì nó càng tùy tiện; nếu ngươi đáp ứng nó lần này, lần sau nó sẽ đòi hỏi nhiều hơn. Khi việc này tiếp diễn, con người sẽ bắt đầu yêu thích xác thịt hơn nữa. Xác thịt luôn có những ham muốn ngông cuồng; nó luôn yêu cầu ngươi đáp ứng nó và làm nó hài lòng ở bên trong, cho dù đó là trong những thứ ngươi ăn, những gì ngươi mặc, hay trong lúc ngươi mất bình tĩnh, hay xuôi theo những điểm yếu và sự lười biếng của chính ngươi… Ngươi càng đáp ứng xác thịt, ham muốn của nó càng trở nên lớn hơn và xác thịt càng trở nên đồi trụy hơn, cho đến khi nó lên đến mức mà xác thịt con người thậm chí còn nuôi những quan niệm ăn sâu hơn, phản nghịch Đức Chúa Trời, tự tán dương nó, và trở nên nghi ngờ về công tác của Đức Chúa Trời. Ngươi càng đáp ứng xác thịt, thì điểm yếu của xác thịt càng lớn; ngươi sẽ luôn cảm thấy không ai đồng cảm với những điểm yếu của mình, ngươi sẽ luôn tin rằng Đức Chúa Trời đã đi quá xa, và ngươi sẽ nói: ‘Làm sao Đức Chúa Trời có thể nghiêm khắc như vậy? Tại sao Ngài không tha cho mọi người?’. Khi con người đáp ứng xác thịt và trân quý nó quá nhiều, thì họ tự hủy hoại chính mình(Chỉ yêu kính Đức Chúa Trời mới thực sự là tin vào Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng xác thịt là thuộc về Sa-tan. Chúng ta đã bị Sa-tan làm cho bại hoại quá trầm trọng, đều sống theo độc tố Sa-tan là “Người không vì mình, trời tru đất diệt”. Khi sống như vậy, làm gì người ta cũng chỉ nghĩ đến bản thân, đến tư lợi. Để xác thịt không phải chịu đau khổ, họ có thể làm những điều trái lương tâm và thiếu nhân tính. Giống như khi bị Đảng Cộng sản bắt và phải đối mặt với đủ loại tra tấn, giam cầm, nếu người ta luôn muốn xác thịt mình ít chịu đau đớn, không bị đánh đập hay vào tù, thì họ sẽ có thể bán đứng anh chị em và phản bội Đức Chúa Trời. Cuối cùng, lợi ích xác thịt của họ được thỏa mãn, nhưng cuộc sống của họ đã bị hủy hoại, và họ đã mãi đánh mất sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, rơi xuống địa ngục cùng với Sa-tan để bị trừng phạt. Khi tự phản tỉnh, tôi nhận ra mình đã quá coi trọng xác thịt, luôn muốn tin vào Đức Chúa Trời một cách thoải mái và không muốn xác thịt của mình phải chịu bất kỳ đau khổ nào. Khi hoàn cảnh thoải mái, tôi vẫn có thể thực hiện bổn phận, nhưng khi đối mặt với sự bắt bớ và bách hại, tôi trở nên hèn nhát và sợ hãi, sợ rằng mình sẽ bị bắt, tra tấn, và phải vào tù. Ngày nào tôi cũng sống trong nỗi kinh hoàng. Sa-tan đã lợi dụng sự ham muốn xác thịt của tôi và việc tôi không muốn chịu đau khổ để khiến tôi phản bội Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ đến việc Đức Chúa Jêsus đã xuất hiện và công tác trong quá trình nhập thể. Khi biết bản thân sẽ bị đóng đinh, mặc dù lúc đó có đau đớn và yếu đuối, nhưng Ngài vẫn có thể thuận phục ý chỉ của Đức Chúa Trời, chịu đủ mọi sỉ nhục, chế giễu, nỗi đau và vu khống, bị roi quất, phải đội mão gai, bước từng bước đến nơi mình sắp bị đóng đinh, và cuối cùng bị đóng đinh trên thập tự giá. Lần thứ hai Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài đã gặp phải mọi sự truy đuổi và bách hại từ Đảng Cộng sản. Trong hoàn cảnh như thế, Ngài vẫn bày tỏ lẽ thật, thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại. Để cứu rỗi nhân loại, Đức Chúa Trời đã chịu đựng tất cả những đau khổ ấy mà không một lời oán trách. Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho con người quá lớn! Còn tôi lại tin Đức Chúa Trời chỉ để được cứu rỗi. Khi phải chịu chút khổ đau, tôi liền đổ lỗi và hiểu lầm Đức Chúa Trời. Tôi thực sự quá ích kỷ, đáng khinh và thiếu nhân tính!

Sau đó, tôi đã tìm thấy một con đường thực hành trong lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Khi ngươi đối mặt với đau khổ, ngươi phải có thể không màng đến xác thịt và không phàn nàn về Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời ẩn mình Ngài khỏi ngươi, ngươi phải có thể có đức tin để theo Ngài, để duy trì tình yêu trước đó của ngươi mà không để nó dao động hay tan biến. Bất kể Đức Chúa Trời làm gì, ngươi phải thuận phục kế hoạch của Ngài và sẵn sàng rủa sả xác thịt của chính mình thay vì phàn nàn về Ngài. Khi ngươi phải đối mặt với những sự thử luyện, ngươi phải làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, cho dù ngươi có thể khóc trong cay đắng hay cảm thấy miễn cưỡng phải chia tay đối tượng yêu quý nào đó. Chỉ đây mới là tình yêu và đức tin đích thực. Cho dù vóc giạc thực tế của ngươi là gì, trước tiên ngươi phải sở hữu cả ý chí chịu khổ và đức tin thực sự, cũng như ngươi phải có ý chí chống lại xác thịt. Ngươi nên sẵn sàng chịu đựng những khó khăn cá nhân và chịu những tổn thất trong lợi ích cá nhân của mình để đáp ứng làm thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời. Ngươi cũng phải có khả năng cảm thấy ân hận về bản thân trong lòng: Trong quá khứ, ngươi đã không thể làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, và hiện giờ, ngươi có thể hối hận về bản thân. Ngươi không được thiếu bất cứ điều gì trong những điểm này – chính nhờ những điều này mà Đức Chúa Trời sẽ hoàn thiện ngươi. Nếu ngươi không thể đáp ứng được những tiêu chí này, thì ngươi không thể được hoàn thiện(Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Suy ngẫm về lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu được rằng: Những gì Đức Chúa Trời làm trong thời kỳ sau rốt là công tác phán xét và làm tinh sạch con người. Ngài dùng đủ mọi loại hoàn cảnh khốn khổ để thử luyện và tinh luyện chúng ta, để chúng ta hiểu được tâm tính bại hoại và ý định sai lầm của mình, để cuối cùng, chúng ta có thể chống lại xác thịt, từ bỏ những ham muốn quá độ bên trong mình, thuận phục Đức Chúa Trời bất kể Ngài làm gì đi nữa, sẵn lòng chịu đựng đau khổ xác thịt và chọn làm hài lòng Đức Chúa Trời; chỉ những người như vậy mới có thể được Ngài hoàn thiện. Đức Chúa Trời sử dụng đủ loại hoàn cảnh khốn khổ để tinh luyện ý chí chịu đựng đau khổ của con người, hoàn thiện đức tin, lòng yêu kính và sự thuận phục thực sự của họ đối với Ngài. Con người không thể đạt được những thực tế lẽ thật như vậy trong hoàn cảnh thoải mái. Cũng giống như việc trải nghiệm môi trường bắt bớ và bách hại của Đảng Cộng sản lần này đã khiến tôi thấy rõ vóc giạc thực sự của mình. Tôi nhận ra mình không có đức tin vào Đức Chúa Trời, và cũng hiểu được phần nào tâm tính bại hoại ích kỷ, đáng khinh của mình. Tôi hiểu được rằng Đức Chúa Trời đã dùng sự bắt bớ và bách hại điên cuồng của Đảng Cộng sản để hoàn thiện một nhóm người trở thành những người đắc thắng, Ngài cũng dùng chúng để tỏ lộ và đào thải những kẻ chẳng tin và kẻ ác. Tôi thấy sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được thực hiện dựa trên âm mưu xảo quyệt của Sa-tan. Đây là những lẽ thật mà tôi sẽ không đạt được trong một môi trường thoải mái. Tôi càng thấy rõ hơn bản chất tà ác chống đối Đức Chúa Trời của Đảng Cộng sản. Tôi căm ghét chúng và thậm chí càng quyết tâm theo Đức Chúa Trời. Tôi cũng sẵn lòng thực hiện bổn phận của mình để làm Sa-tan bẽ mặt. Tôi nghĩ đến lời bài hát “Chứng ngôn của sự sống”: “Một ngày nào đó tôi có thể bị bắt và bách hại vì làm chứng cho Đức Chúa Trời, sự chịu đựng này là vì sự công chính, trong lòng mình tôi hiểu. Nếu cuộc đời tôi vụt qua trong nháy mắt, Tôi sẽ vẫn cảm thấy tự hào vì có thể theo Đấng Christ và làm chứng cho Ngài trong cuộc đời này. Nếu tôi không thể nhìn thấy sự trọng đại của việc lan rộng Phúc Âm vương quốc, tôi sẽ vẫn dâng những nguyện ước tốt đẹp nhất. Nếu tôi không thể nhìn thấy ngày vương quốc thành hiện thực nhưng tôi có thể làm Sa-tan hổ thẹn hôm nay, thì lòng tôi sẽ được đầy trànniềm vui và sự bình an” (Theo Chiên Con và hát những bài ca mới). Khi thầm hát bài này, tôi đã khóc vì cảm động, và càng quyết tâm đi theo Đức Chúa Trời đến cùng.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Sau khi tôi bị tố giác

Bởi Can Tiểu, Trung Quốc Một ngày nọ vào năm 2016, tôi bất ngờ nhận được một lá thư tố giác mình. Lá thư được viết bởi hai chị mà trước đó...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger