Tôi tin vào Đức Chúa Trời: Sao lại tôn thờ con người chứ?

24/07/2022

Bởi Hữu Tâm, Hàn Quốc

Khi tôi đảm trách công tác Phúc Âm của hội thánh, nhóm của chúng tôi đã làm không tốt và tôi đã rất lo lắng. Sau đó Ngô Bình đã được điều chuyển qua hội thánh chúng tôi. Tôi nghe nói chị ấy đã theo đạo hơn hai mươi năm rồi và đã hy sinh rất nhiều cho Đức Chúa Trời, rằng chị ấy đã rao giảng khắp nơi và đã trải qua nhiều nguy hiểm mà không bao giờ từ bỏ. Tôi thực sự nể trọng chị ấy. Không lâu sau, lãnh đạo sắp xếp cho Ngô Bình cộng sự với tôi trong công tác Phúc Âm, và tôi đã rất vui. Tôi vẫn nhớ mãi buổi họp đầu tiên của chị ấy với chúng tôi. Chị ấy nói về việc mình đã bị các lãnh đạo tôn giáo quấy phá khi đi truyền bá Phúc Âm như thế nào, cách chị ấy thông công và tranh luận với họ, khiến họ không nói nên lời ra sao, và cách chị thông công với những người có nhiều quan niệm tôn giáo, kiến thức Kinh thánh và giải quyết những khúc mắc của họ. Chị ấy cũng nói về nhiều khó khăn họ gặp phải khi truyền giáo, về cái giá mà chị ấy và các anh chị em khác phải trả để truyền bá Phúc Âm ở những vùng khác nhau, về việc các lãnh đạo cấp trên đã coi trọng và bồi dưỡng chị, giao cho chị những bổn phận quan trọng như thế nào. Điều khiến tôi ấn tượng nhất là khi chị ấy nói về tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho con người, mắt chị rưng rưng lệ, nói rằng chúng ta phải quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, và dù có phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, chúng ta cũng phải truyền bá Phúc Âm của thời kỳ sau rốt, đó là là sứ mệnh của chúng ta. Lúc đó, tôi thấy dường như chị ấy tràn đầy tình yêu dành cho Đức Chúa Trời và tôi ngay lập tức thấy tôn trọng chị ấy. Tôi cảm thấy chị ấy đã có đức tin từ lâu, hiểu nhiều lẽ thật hơn chúng tôi, và có vóc giạc lớn hơn, vì thế tôi nên học hỏi từ chị.

Sau đó, chúng tôi bắt đầu cùng nhau thực hiện bổn phận, và khi làm việc với nhau, tôi để ý thấy Ngô Bình thực sự có thể chịu được gian khó, thức đêm nhiều để theo dõi công việc và giải quyết vấn đề. Chị ấy chỉ ra những sai sót, sơ suất trong công việc của tôi và thông công về các con đường thực hành. Khi chia sẻ Phúc Âm với người khác, chị ấy đưa ra ví dụ, dùng ẩn dụ, nói chuyện rất sâu sắc, và có thể giải quyết những khúc mắc của mọi người. Khi nói về sự kém cỏi của mình trong công việc tại các cuộc họp, chị ấy thường rơi nước mắt, nói mình nợ Đức Chúa Trời nhiều. Đôi lúc, khi người chăm tưới có khúc mắc muốn hỏi chị ấy, chị liền dành thời gian để giúp giải quyết chúng. Chị cũng tỏ ra rất quan tâm khi thấy tôi không khỏe. Lúc đó, tôi ngày càng thấy thích chị ấy hơn. Sau đó chị ấy đã được bầu làm lãnh đạo hội thánh và tôi càng cảm thấy chị ấy có thực tế của lẽ thật, nên càng ngưỡng mộ và nể trọng chị nhiều hơn. Tôi thấy chị thường xuyên bận rộn ngược xuôi trong hội thánh giúp các anh chị em giải quyết vấn đề của họ, và tôi thấy chị có một vai trò cực kỳ quan trọng trong hội thánh, rằng chắc chắn chúng tôi không thể thiếu chị ấy. Khi gặp rắc rối, tôi sẽ tìm chị ấy để thông công và hăm hở ghi lại quan điểm của chị, những điều chị ấy nói, sau đó tôi sẽ làm theo bất cứ điều gì chị ấy đề nghị. Tôi thậm chí còn bắt chước một số hành vi của chị ấy, chẳng hạn như, khi thấy chị ấy thức khuya rất nhiều, tôi nghĩ đó là đang chịu khổ đau vì bổn phận và là sự tận tâm, nên tôi cũng thức khuya. Đôi khi không có việc gì gấp, tôi có thể đi ngủ sớm hơn, nhưng khi thấy Ngô Bình còn thức, tôi cũng thức theo. Tôi thấy chị ấy vẫn mạnh mẽ sau khi bị xử lý, và vẫn bận rộn làm bổn phận. Tôi nghĩ đây chính là có vóc giạc và thực tế. Tôi thực sự rất khó chịu khi bị xử lý và muốn tĩnh nguyện, phản tỉnh, nhưng khi nghĩ đến hành vi của Ngô Bình, tôi lại vội quay lại thực hiện bổn phận mà không tập trung tìm hiểu thêm về bản thân. Tôi đã sống trong tình trạng tôn thờ, sùng bái Ngô Bình mà không hề hay biết gì. Thế rồi Đức Chúa Trời đã sắp đặt một số tình huống dần cho phép tôi nhận ra phần nào con người của Ngô Bình.

Trong khi là lãnh đạo hội thánh, chị ấy luôn tự mình thực hiện công việc và có thể làm bất cứ gì cần thiết để đạt được mục tiêu, nhưng các vấn đề trong công việc cứ liên tục nảy sinh, và tính hiệu quả của công tác hội thánh dần giảm sút. Một ngày nọ, chị Dương, chấp sự chăm tưới đã bảo tôi rằng chị ấy đã phát hiện một số vấn đề trong công việc của Ngô Bình, rằng chị ấy đang đảm trách mọi thứ mà không để cho các anh chị em thực hành, và chị ấy không trau dồi nhân tài. Chị ấy đang làm công việc của các chấp sự và trưởng nhóm, nên không ai có cơ hội để thực hành cả. Qua thời gian, mọi người đều cảm thấy họ hoàn toàn vô dụng, và thực sự ngưỡng mộ chị ấy. Đó không phải là một môi trường lành mạnh. Chị Dương nói chị ấy muốn nói chuyện với Ngô Bình về việc trao cơ hội thực hành cho người khác để mọi người có thể tìm hiểu về những thiếu sót của họ và tiến bộ nhanh hơn, sau đó, họ cũng có thể sử dụng tài năng của mình, và thành tích của họ trong bổn phận chắc chắn sẽ cải thiện. Tôi rất ủng hộ ý kiến của chị Dương, nên đã cùng chị ấy đi nói chuyện với Ngô Bình. Ngạc nhiên thay, Ngô Bình thực sự không hài lòng. Chị ấy tỏ vẻ không vui và không đồng tình với chúng tôi. Chị ấy nói những người khác có quá nhiều vấn đề, nên việc chỉ dạy họ rất phiền và sẽ làm đình trệ công việc. Chị ấy tự làm lấy thì tốt hơn và hiệu quả hơn. Lúc đó, chị ấy giải thích mọi việc rất hùng hồn và tôi không biết phải nói gì cả. Nhưng sau đó, khi nghĩ về chuyện này, tôi cảm thấy chị ấy đang xử lý mọi chuyện chưa đúng. Chúng tôi không thể bồi dưỡng mọi người theo cách đó được. Các anh chị em sẽ không được đào tạo, và chúng tôi sẽ phụ thuộc vào chị ấy, như vậy, sẽ không thể hoàn thành tốt công việc được. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, chúng tôi không hiểu lẽ thật, nên việc đi theo chị ấy giải quyết vấn đề sẽ chỉ là vô ích, làm trì hoãn mọi việc. Chị ấy hiểu lẽ thật tốt hơn, vì thế chúng tôi nên để chị ấy đảm trách mọi việc. Thế là Ngô Bình lại tiếp tục ngày nào cũng bận rộn, nhưng nhiều vấn đề vẫn còn đó. Các anh chị em đã rất thụ động trong bổn phận của mình và sẽ chờ chị ấy giải quyết vấn đề. Hầu hết mọi người lúc nào cũng thất vọng và chán nản. Sau đó một lãnh đạo cấp trên phát hiện ra có rất nhiều vấn đề trong hội thánh của chúng tôi, và thu thập ý kiến đánh giá về Ngô Bình, cho thấy chị ấy rất kiêu ngạo, chuyên quyền và không chấp nhận bất cứ lời đề nghị nào. Chị ấy cũng tự cao tự đại, luôn phô trương và đưa người khác tới trước mình. Chị ấy đã bị cách chức ngay lập tức. Lãnh đạo cũng nói chúng tôi thiếu sự sáng suốt và chỉ mù quáng bợ đỡ Ngô Bình, và bảo chúng tôi hãy tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật trong bổn phận chứ đừng thờ phượng bất cứ con người nào cả. Rồi tôi nhận ra mình đã sống trong tình trạng sùng bái một con người và vì vậy tôi đã không có một mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời. Tôi đã nghĩ đến sắc lệnh quản trị thứ tám: “Những người tin vào Đức Chúa Trời nên vâng phục Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài. Không được đề cao hay kính trọng bất kỳ ai; không được xếp Đức Chúa Trời thứ nhất, những người mà ngươi kính trọng thứ hai, và bản thân ngươi thứ ba. Không người nào được giữ vị trí trong lòng ngươi, và ngươi không được xem con người – đặc biệt những ai mà ngươi tôn sùng – ngang hàng với Đức Chúa Trời hay tương đương với Ngài. Điều này là không thể dung thứ với Đức Chúa Trời(Mười sắc lệnh quản trị phải được vâng phục bởi dân sự được Đức Chúa Trời chọn trong Thời đại Vương quốc, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi thấy hơi sợ, như thể mình đã xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ về cách mình đã ngưỡng mộ Ngô Bình kể từ khi tiếp xúc với chị ấy, và tôi đã không tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật trong bổn phận như thế nào, mà chỉ dựa vào chị ấy. Hễ gặp bất cứ vấn đề gì tôi đều tìm chị ấy và làm theo mọi điều chị bảo. Tôi thực sự nể trọng chị ấy và không có chỗ cho Đức Chúa Trời trong lòng. Tôi cảm thấy công việc của chúng tôi không thể hoàn thành nếu không có chị ấy trong hội thánh, như thể không có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời và nguyên tắc của lẽ thật cũng không sao, nhưng chúng tôi phải có chị ấy. Tôi có phải là một tín hữu không cơ chứ? Chẳng phải đây chỉ là thờ phượng và đi theo một người sao? Điều này thực sự khiến Đức Chúa Trời ghê gởm. Chả trách tôi không thể đạt được công tác của Đức Thánh Linh trong bổn phận, và tôi không có chút tiến bộ nào sau một thời gian dài như thế. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, muốn thay đổi tình trạng và thôi sùng bái người khác.

Sau đó, một vài chuyện xảy ra thực sự đã cho tôi thấy bộ mặt thật của Ngô Bình. Sau khi bị cách chức, biết rõ rằng nhiều người sùng bái mình, chị ấy vẫn không phân tích hoặc tìm hiểu về bản thân trong các cuộc họp, mà thay vào đó lại hành động như thể mình bị oan, nói rằng chị ấy ngưỡng mộ chị cộng sự Chu, và đã lắng nghe mọi điều chị Chu nói. Tôi đã sốc khi thấy chị ấy đổ lỗi cho chị Chu. Tôi nghĩ lãnh đạo rõ ràng đã vạch trần và phân tích vấn đề của chị ấy, sao chị ấy lại không hề tự biết mình hay chịu bất kỳ trách nhiệm gì? Đây là biểu hiện của việc không chấp nhận lẽ thật. Sau đó, lãnh đạo lại giao cho chị ấy làm công tác Phúc Âm với tôi, và dù không ngưỡng mộ chị ấy như trước nữa, nhưng tôi đã rất vui. Người ta nói lạc đà gầy vẫn hơn một con ngựa mà, nên tôi vẫn cảm thấy Ngô Bình giỏi hơn tôi nhiều. Nhưng sau đó, khi làm việc cùng nhau, chị ấy không còn thoải mái và dễ gần như trước nữa, mà rất gay gắt. Khi thảo luận công việc, chị ấy sẽ không lắng nghe bất kỳ lời đề nghị nào của tôi và thường lập tức bác bỏ chúng. Nhiều lần chị ấy tránh mặt tôi, và chỉ đi thảo luận mọi việc với người chị em đã làm việc cùng trước đó. Tôi cảm thấy rất ức chế và có cảm giác mình bị chối bỏ. Một thời gian sau, chúng tôi thực sự không đạt được gì trong bổn phận, nên tôi đã đi nói chuyện với chị ấy về những vấn đề mình thấy trong sự hợp tác của chúng tôi. Tôi đã sốc khi chị ấy không chấp nhận bất cứ điều gì và còn cảm thấy mình vô tội. Chị ấy chỉ nói với tôi rằng: “Tôi nói thẳng nhé, và chị đừng buồn. Tôi không quen làm việc với chị. Tôi thực sự không thích cách làm việc của chị và nó khiến tôi lo lắng”. Nghe chị ấy nói vậy khiến tôi rất buồn. Tôi cũng cảm thấy như thể mình đang kìm chân chị ấy.

Sau đó lãnh đạo đã nghe được về những vấn đề này, chị ấy đã xử lý Ngô Bình vì sự kiêu ngạo và không chấp nhận lẽ thật. Rồi trong một cuộc họp, Ngô Bình đã nói trước mặt mọi người rằng việc mình bị xử lý là tình yêu của Đức Chúa Trời và khóc lóc nói rằng mình thấy mắc nợ Ngài vì đã không làm tròn bổn phận. Có vẻ như chị ấy thực sự đã biết mình. Nhưng khi tương tác riêng với tôi, chị ấy đã trút bỏ sự tiêu cực của mình, nói rằng chị ấy đã “xong đời” và chẳng còn tâm trí thực hiện bổn phận nữa. Chị ấy không nghe tôi thông công. Đặc biệt là khi lãnh đạo nói một số anh chị em đã tiến bộ và làm tốt bổn phận của mình, thì chị ấy lại càng chán nản hơn, và nghĩ rằng lãnh đạo đã coi trọng người khác thay vì chị ấy. Chị ấy luôn hỏi riêng tôi xem liệu người khác có đang cười nhạo chị ấy không. Mỗi lần nói về chuyện đó tôi cảm thấy rất phiền. Tôi có thể thấy chị ấy chán nản, không ổn cả về thể chất lấn tinh thần, nhưng trong các buổi họp lại thể hiện mình rất mạnh mẽ, làm bộ chấp nhận lẽ thật và quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời. Điều đó khiến tôi thấy mệt mỏi. Đôi lúc tôi tự hỏi, đây là người mà mình đã từng rất ngưỡng mộ sao? Chị ấy không giống như người có thực tế của lẽ thật gì cả. Chị ấy quá chú trọng vào danh vị, hoàn toàn không chấp nhận lẽ thật. Chị ấy không tìm hiểu về bản thân khi vấn đề nảy sinh, mà thay vào đó lại giả vờ. Chị ấy như vậy là không ổn. Sau đó, tình trạng của chị ấy cứ thế xấu đi. Lãnh đạo đã thông công với chị ấy khá nhiều lần và có vẻ chị ấy đã chấp nhận điều đó, nhưng lại không hề thay đổi. Chị ấy thậm chí còn ghét người khác và nhìn họ với ánh mắt hằn học. Lãnh đạo đã xử lý chị ấy và vạch trần vấn đề của chị ấy, nhưng trong lòng chị ấy lại căm ghét và trách móc Đức Chúa Trời. Chị ấy cứ liên tục đổ hết mọi lỗi lầm lên Đức Chúa Trời. Tôi thấy chị ấy có bản tính xấu xa, căm ghét Đức Chúa Trời và lẽ thật. Chị ấy là một con quỷ, một kẻ địch lại Đấng Christ Sau đó chị ấy không được phép sống đời sống hội thánh hay thực hiện bổn phận nữa.

Sau khi chị ấy đi, tôi thực sự không thể bình tâm được trong một thời gian dài. Tôi tự hỏi tại sao mình lại tôn thờ chị ấy nhiều đến thế, đến mức thậm chí còn muốn được như chị ấy. Bất cứ khi nào gặp ai đó có tài ăn nói, có thể chịu khổ đau, từ bỏ mọi thứ và dâng hiến tất cả vì Đức Chúa Trời, bị bắt và tra tấn mà vẫn không phản bội Đức Chúa Trời, thì tôi rất sùng bái họ. Tại sao tôi lại tôn thờ những người này nhiều như vậy chứ? Tôi đã bị điều gì chi phối? Sau đó, tôi đã đọc được hai đoạn lời của Đức Chúa Trời. “Một số người có thể chịu đựng khó khăn, có thể trả giá, bề ngoài cư xử rất tốt, khá được tôn trọng và thích được người khác ngưỡng mộ. Liệu các ngươi có nói rằng kiểu hành vi bên ngoài này có thể được coi là đưa lẽ thật vào thực hành không? Người ta có thể khẳng định rằng những người như thế đang thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời không? Tại sao hết lần này đến lần khác mọi người thấy những cá nhân như thế và nghĩ rằng họ đang làm Đức Chúa Trời thỏa lòng, đi con đường đưa lẽ thật vào thực hành và giữ đường lối của Đức Chúa Trời? Tại sao một số người nghĩ theo cách này? Chỉ có một lời giải thích duy nhất cho điều đó. Lời giải thích đó là gì? Đó là đối với rất nhiều người thì một vài câu hỏi – như là đưa lẽ thật vào thực hành có nghĩa là gì, làm Đức Chúa Trời thỏa lòng có nghĩa là gì, và thực sự sở hữu thực tế của lẽ thật có nghĩa là gì – không rõ ràng lắm. Vì vậy, có một số người thường bị những kẻ bề ngoài có vẻ tâm linh, cao thượng, cao quý và vĩ đại lừa gạt. Đối với những kẻ có thể nói hùng hồn về những câu chữ và giáo lý, và những kẻ có lời nói và hành động có vẻ đáng ngưỡng mộ, thì những ai bị họ lừa gạt chưa bao giờ nhìn vào thực chất trong những hành động của họ, những nguyên tắc đằng sau việc làm của họ hoặc mục đích của họ là gì. Hơn nữa, họ chưa bao giờ nhìn xem liệu những người này có thực sự đầu phục Đức Chúa Trời hay không, và họ cũng chưa từng xác định liệu những người này có thực sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không. Họ chưa bao giờ thông hiểu thực chất nhân tính của những người này. Đúng hơn, bắt đầu với bước đầu tiên là làm quen với họ, từng chút một, họ đã bắt đầu ngưỡng mộ và sùng kính những người này, và cuối cùng, những người này trở thành thần tượng của họ. Hơn nữa, trong tâm trí của một số người, những thần tượng mà họ tôn sùng – và những người họ tin có thể từ bỏ gia đình và công việc, và những người ngoài mặt ra vẻ có thể trả giá – là những người thực sự đang làm Đức Chúa Trời thỏa lòng và có thể thực sự có được kết cục và đích đến tốt đẹp. Trong tâm trí họ, những thần tượng này là những người mà Đức Chúa Trời khen ngợi(Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời).

Chỉ có duy nhất một căn nguyên khiến cho con người có những hành động và quan điểm ngu dốt như thế, hay những ý kiến và thực hành phiến diện – và hôm nay Ta sẽ cho các ngươi biết về nó: Lý do là, dù con người có thể đi theo Đức Chúa Trời, cầu nguyện với Ngài mỗi ngày và đọc lời Ngài mỗi ngày, nhưng họ không thực sự hiểu được ý muốn của Ngài. Gốc rễ của vấn đề nằm ở đây. Nếu ai đó hiểu được lòng Đức Chúa Trời và biết Ngài thích gì, Ngài ghét gì, Ngài muốn gì, Ngài loại bỏ gì, Ngài yêu loại người nào, Ngài không thích loại người nào, Ngài sử dụng loại tiêu chuẩn nào khi đặt ra những yêu cầu đối với con người và Ngài dùng cách tiếp cận nào để hoàn thiện họ, thì liệu người đó vẫn còn những ý kiến cá nhân của riêng mình không? Liệu những người như thế này chỉ đơn giản đi và thờ phượng người khác không? Liệu một người bình thường có thể trở thành thần tượng của họ được không? Những người hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời có quan điểm hợp lý hơn thế một chút. Họ sẽ không tùy tiện thần tượng hóa một con người bại hoại, và cũng sẽ không tin rằng, trong khi đi con đường đưa lẽ thật vào thực hành, việc mù quáng tuân thủ một vài quy tắc hoặc nguyên tắc đơn giản là tương đương với việc đưa lẽ thật vào thực hành(Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời mô tả chính xác vấn đề của tôi. Tôi nhận ra bao năm qua mình có quan điểm sai lầm trong đức tin. Tôi cứ ngỡ là một tín hữu lâu năm, nhiệt thành trả giá và thực hiện nhiều công tác là đang thực hành lẽ thật và có thực tế của lẽ thật. Tôi nghĩ loại người đó sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và có thể có chỗ đứng trong nhà Đức Chúa Trời. Vì thế lúc tương tác với Ngô Bình, khi thấy chị ấy đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm và hy sinh rất nhiều, thấy chị ấy đã chịu nhiều khổ đau để truyền bá Phúc Âm và thông công rất hùng hồn, tôi bị thu hút bởi hình ảnh xuất chúng và hành vi ấn tượng của chị ấy, nên tôi đã tôn thờ chị. Cuối cùng tôi đã nhận ra mình thật khờ khạo, ngu ngốc, và có một góc nhìn thật nực cười làm sao. Khi ai đó có thể hy sinh và chịu khổ đau trong bổn phận, đó chỉ là hành vi tốt bề ngoài. Điều đó không có nghĩa là họ có nhân tính tốt, yêu lẽ thật, hay có thực tế của lẽ thật. Ngô Bình đã là một tín hữu hơn hai mươi năm. Chị ấy đã hy sinh rất nhiều và là người có tài ăn nói, nhưng lại sử dụng những điều này làm vốn liếng cá nhân, luôn phô trương và đưa mọi người đến trước mình. Chị ấy không hề chấp nhận hay thực hành lẽ thật. Dù đối mặt với thất bại hay sự phê bình nhiều thế nào đi nữa, thì chị ấy cũng không bao giờ tự phản tỉnh hay thật lòng ăn năn. Khi được coi trọng và có địa vị, chị năng nổ làm bổn phận, có thể thức trắng đêm và nỗ lực hết mình, nhưng khi bị cách chức thì lại mất hết động lực làm bổn phận. Lúc nào chị ấy cũng chống đối và phàn nàn, thầm trút ra sự tiêu cực, nhưng bề ngoài thì lại nói mình nợ Đức Chúa Trời và dường như rất ăn năn, khiến người khác cảm thấy như chị ấy quan tâm đến ý muốn của Ngài, rằng chị ấy có vóc giạc và thực tế, để mọi người nể trọng chị ấy. Sau khi bị tỉa sửa và xử lý, chị ấy nói với mọi người đó là tình yêu của Đức Chúa Trời, nhưng lại thầm trách móc và căm ghét Đức Chúa Trời. Chẳng phải chị ấy là một kẻ địch lại Đấng Christ ghét lẽ thật và Đức Chúa Trời sao? Giờ thì tôi đã biết rằng việc có đức tin nhiều năm, có thể hy sinh và có tài ăn nói, có kinh nghiệm và được coi trọng, không có nghĩa là người đó có thực tế của lẽ thật, huống hồ là làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Dù một người có đức tin bao lâu hay họ đã làm việc chăm chỉ thế nào đi nữa, mà nếu không thực hành lẽ thật và chưa thay đổi tâm tính Sa-tan của mình, thì về bản chất, họ vẫn chống đối Đức Chúa Trời và cuối cùng sẽ bị loại bỏ. Điều này ứng nghiệm những gì Đức Chúa Jêsus đã phán: “Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhơn danh Chúa mà nói tiên tri sao? nhơn danh Chúa mà trừ quỉ sao? và lại nhơn danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? Khi ấy, ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi ta!(Ma-thi-ơ 7:22-23). Sau đó, tôi đã nghĩ về những lời này của Đức Chúa Trời: “Ta không quan tâm công việc chăm chỉ của ngươi đáng khen thế nào, phẩm chất của ngươi ấn tượng ra sao, ngươi theo sát Ta thế nào, ngươi nổi tiếng như thế nào, hoặc ngươi đã cải thiện thái độ của mình bao nhiêu; chừng nào mà ngươi còn chưa đáp ứng những yêu cầu của Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ được Ta khen ngợi. Hãy xóa bỏ tất cả những ý tưởng và sự tính toán của các ngươi càng sớm càng tốt, và bắt đầu xem trọng những yêu cầu của Ta; nếu không, Ta sẽ biến mọi người thành tro để kết thúc công tác của Ta và, tồi tệ nhất là biến những năm công tác và đau khổ của Ta thành con số không, bởi Ta không thể đem kẻ thù của Ta và những kẻ sặc mùi xấu xa và sự hiện diện của Sa-tan vào trong vương quốc của Ta hoặc đem họ vào trong thời đại kế tiếp(Sự vi phạm sẽ dẫn con người xuống địa ngục, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ta quyết định đích đến của từng người không dựa trên cơ sở tuổi tác, thâm niên, bao nhiêu gian khổ, và đặc biệt là không phải mức độ họ mời gọi lòng trắc ẩn, mà tùy vào việc họ có sở hữu lẽ thật hay không. Không có lựa chọn nào khác ngoài điều này. Các ngươi phải nhận ra rằng tất cả những kẻ không tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời đều sẽ bị trừng phạt. Đây là một sự thật bất biến(Hãy chuẩn bị đầy đủ những việc lành cho đích đến của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi vô cùng xúc động. Đức Chúa Trời không xác định đích đến của một người dựa trên nỗ lực của họ, họ hành xử tốt như thế nào hay đã hoàn thành bao nhiêu việc, mà là liệu họ có lẽ thật hay không. Đức Chúa Trời không phán xét con người dựa vào vẻ bề ngoài, mà vào thực chất của họ. Ngài xem xét liệu họ có yêu lẽ thật và có thể đưa nó vào thực hành hay không, liệu họ có quy phục Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn của Ngài hay không. Tôi nhận ra Đức Chúa Trời thực sự có tâm tính công chính, thánh khiết. Ngài có các tiêu chuẩn và nguyên tắc phán xét con người mà không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ cảm xúc nào. Đức Chúa Trời sẽ không quyết định ai đó là công chính hay tử tế chỉ vì họ nhiệt tình, có chút đóng góp hoặc chịu chút đau khổ. Mặt khác, dù một người có là tín hữu bao lâu đi nữa, đã làm bao nhiêu việc, hay nổi tiếng thế nào, nhưng nếu họ không thực hành lẽ thật và chưa thay đổi tâm tính, thì chắc chắn họ sẽ bị Đức Chúa Trời loại bỏ. Một khi đã hiểu điều này, tôi thực sự nhận ra mình thật ngu ngốc và đáng thương. Bao năm theo đạo, tôi đã không mưu cầu lẽ thật hay hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời. Tôi chỉ tin Đức Chúa Trời dựa trên các quan niệm riêng của mình và cứ thờ phượng người khác. Tôi nhận ra mình đã mù quáng và ngu ngốc như thế nào. Sau đó, tôi đã đọc được những lời này của Đức Chúa Trời. “Trong số con người, không ai có thể làm gương cho người khác, bởi vì con người về cơ bản là giống nhau, không khác biệt, không có gì để phân biệt người này với người kia. Vì vậy cho tới nay, con người vẫn không thể hoàn toàn nhận thức được các công tác của Ta. Chỉ đợi khi sự hành phạt của Ta giáng xuống toàn nhân loại, thì con người mới ‘trong sự không hay không biết’ biết được các công tác của Ta, và không cần Ta làm gì, không cần Ta ép buộc ai, con người sẽ biết đến Ta, và từ đó nhìn thấy hành động của Ta. Đây là kế hoạch của Ta, là khía cạnh công tác của Ta được biểu hiện và là những gì con người cần phải biết(“Chương 26” của Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ trong Lời xuất hiện trong xác thịt). Lời Đức Chúa Trời cực kỳ rõ ràng. Con người bị Sa-tan làm cho bại hoại và chúng ta có thực chất của Sa-tan. Chúng ta chỉ toàn bộc lộ tâm tính Sa-tan. Không ai trong chúng ta đáng được tôn thờ cả. Nếu trước kia tôi hiểu được điều này, tôi hẳn đã không tôn thờ hay thần tượng bất cứ ai khác.

Không lâu sau tôi bị cách chức vì không đạt được gì trong bổn phận. Lúc đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, và ngẫm lại lý do mình thất bại. Tôi nghĩ về việc mình đã bị mắc kẹt trong tình trạng tôn thờ Ngô Bình như thế nào, nghĩ chị ấy có đức tin đã lâu, từng rao giảng Phúc Âm nhiều năm, chịu nhiều đau khổ, và có nhiều kinh nghiệm làm việc, vì thế chị ấy phải hiểu lẽ thật và có thực tế. Do đó, tôi đã luôn cố bắt chước hành vi của chị ấy và có thắc mắc gì cũng đi hỏi chị ấy. Dù chị ấy nói gì, tôi cũng nghe theo mà không hề suy nghĩ và làm bất cứ gì chị ấy nói. Đức Chúa Trời đã không hề có chỗ trong lòng tôi. Tôi đã không tìm kiếm lẽ thật khi gặp rắc rối, và không có nguyên tắc. Tôi chỉ lắng nghe một con người, Ngô Bình. Tôi đã không đi theo Đức Chúa Trời, mà đi theo một con người. Đúng như Đức Chúa Trời phán: “Điều mà ngươi ngưỡng mộ không phải là sự khiêm nhường của Đấng Christ, mà là những kẻ chăn dắt giả mạo có địa vị nổi trội. Ngươi không quý mến vẻ đáng yêu và sự khôn ngoan của Đấng Christ, mà quý mến những kẻ phóng đãng chìm đắm trong sự nhơ nhuốc của trần gian. Ngươi cười vào nỗi đau của Đấng Christ, Đấng không có nơi để gối đầu, nhưng ngươi lại ngưỡng mộ những cái xác săn lùng của lễ và sống trong sự trụy lạc. Ngươi không sẵn lòng chịu khổ bên cạnh Đấng Christ, nhưng ngươi vui vẻ lao vào vòng tay của những kẻ khinh suất địch lại Đấng Christ, mặc dù họ chỉ cung cấp cho ngươi xác thịt, lời nói, và sự kiểm soát. Ngay cả lúc này, lòng ngươi vẫn hướng về họ, hướng đến thanh danh của họ, hướng đến địa vị của họ, hướng đến sự ảnh hưởng của họ. Ấy thế mà ngươi tiếp tục giữ thái độ mà qua đó ngươi cảm thấy công tác của Đấng Christ là khó chấp nhận được và ngươi không sẵn lòng chấp nhận nó. Đây là lý do vì sao Ta phán rằng ngươi thiếu đức tin để thừa nhận Đấng Christ. Lý do ngươi theo Ngài đến ngày nay chỉ là vì ngươi không có sự chọn lựa nào khác. Một loạt những hình ảnh cao trọng mãi chồng chất trong lòng ngươi; ngươi không thể quên mỗi lời nói và việc làm của họ, cũng như những lời nói và bàn tay thế lực của họ. Trong lòng các ngươi, họ mãi là những người hùng tối cao và vĩnh viễn. Thế nhưng đối với Đấng Christ của hôm nay thì không như vậy. Ngài mãi mãi không đáng kể trong lòng ngươi, và mãi mãi không đáng tôn kính. Bởi vì Ngài quá tầm thường, có quá ít tầm ảnh hưởng, và quá là không cao quý(Ngươi có phải là tín đồ thật sự của Đức Chúa Trời? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã phơi bày tình trạng thật của tôi. Nghĩ lại bao năm theo đạo, tôi chỉ tôn thờ những người xung quanh có tố chất và ân tứ, được ủng hộ và đánh giá cao. Tôi coi từng lời nói và việc làm của họ là tấm gương để noi theo mà không bao giờ tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, hay liệu đó có phải là điều Đức Chúa Trời muốn và phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật hay không. Tôi chỉ mù quáng thờ phượng và làm theo người khác, thậm chí còn muốn giống như họ. Tôi đã đi sai đường suốt thời gian qua, tìm kiếm để chịu đau khổ và làm nhiều việc nhất có thể. Trong bổn phận, tôi dựa vào tố chất, kinh nghiệm, và không bao giờ tập trung tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật hay lối vào sự sống của riêng mình, vì vậy qua nhiều năm đức tin, tôi không hiểu được nhiều lẽ thật và cuộc sống phải chịu tổn thất. Tôi thực sự cảm thấy mình thật ngu ngốc và đáng thương. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta rất nhiều lời, nhưng tôi hầu như không nhớ được gì. Còn Ngô Bình nói gì, hay có ý kiến gì, tôi cũng đều nhớ rất rõ, và sẽ lập tức thực hiện ngay. Tôi luôn dựa vào chị ấy trong bổn phận, còn lòng tôi không có chỗ cho Đức Chúa Trời. Qua chuyện này, tôi cùng Ngô Bình đã bị vạch trần hoàn toàn. Đặc biệt là khi chị ấy bị cách chức, các vấn đề của chị ấy đã được đưa ra ánh sáng và tôi cũng đã biết, nhưng khi lại làm việc cùng nhau, tôi vẫn giữ hình ảnh xuất chúng và nổi bật của chị ấy trong tâm trí. Tôi vẫn dựa vào chị ấy trong bổn phận và cứ nghĩ rằng kể cả lạc đà gầy thì vẫn lớn hơn ngựa, và tôi thấy chị ấy giỏi hơn tôi ngay cả khi chị ấy có vài vấn đề. Đây là cách tôi đã nhìn nhận sự việc. Tôi đã tôn thờ một người thái quá. Tôi đã không tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật khi giao thiệp, và không có khả năng nhận định. Tôi đã nhìn vào mọi thứ dựa trên những lời dối trá của Sa-tan. Sau đó, vấn đề của Ngô Bình ngày càng lộ ra nhiều. Vậy mà tôi vẫn không có chút sáng suốt nào, vẫn tiếp tục đi theo chị ấy, và vẫn bị chị ấy kìm kẹp. Vì vậy tôi thường xuyên trong tình trạng tiêu cực và khổ sở. Tôi thực sự đáng bị như vậy. Tôi đã nể trọng Ngô Bình và dựa vào chị ấy trong bổn phận, nhưng điều đó đã mang lại gì cho tôi chứ? Sự lừa dối, ức chế và sự chối bỏ. Tôi khổ sở, cảm thấy ức chế, và ngày càng xa rời Đức Chúa Trời. Tôi có đức tin nhưng không dựa vào Đức Chúa Trời hay nể trọng Ngài, và không hề mưu cầu lẽ thật. Tôi chỉ tôn thờ và đi theo một con người. Tôi là một kẻ ngốc không có chút sáng suốt nào. Lúc đó, tôi đã thất bại và sụp đổ, và đó chính là sự công chính và cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Sự mặc khải đó khiến tôi phải ngẫm kỹ lại con đường sai trái mình đã đi, xem xét các quan niệm sai lầm của mình, và có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những vấn đề này. Tôi cũng cảm nghiệm được tầm quan trọng của việc mưu cầu lẽ thật. Điều Đức Chúa Trời đã phán: “Những ai không theo đuổi lẽ thật thì không thể theo cho đến cùng”, quá thực tế. Những người không mưu cầu lẽ thật chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời vạch trần và loại bỏ. Kinh nghiệm thất bại của bản thân và sự thất bại của người mà tôi đã ngưỡng mộ là minh chứng tốt nhất cho việc này.

Hai tháng sau, tôi cùng Vương Lý làm công tác Phúc Âm. Trước đó tôi đã nghe nói rằng sau khi có được đức tin, chị ấy đã từ bỏ một công việc tuyệt vời để thực hiện bổn phận, thực sự chú tâm vào công việc, và có tố chất tuyệt vời. Chị ấy đã hoàn thành nhiều công tác Phúc Âm và là người có kinh nghiệm. Tôi đã biết chị ấy được một thời gian và thấy chị ấy rất quan tâm đến công tác của hội thánh. Chị ấy rất tích cực thông công trong các cuộc họp, và dường như không bị giới hạn bởi bất kỳ số lượng người hay hoàn cảnh nào. Chị ấy nói năng đĩnh đạc và không hề có chút sợ hãi. Chị ấy tích cực thông công giúp đỡ bất cứ ai đang gặp rắc rối, và mọi người đều rất thích chị. Tôi cảm thấy chị ấy thực sự mưu cầu lẽ thật, và đã nể trọng chị ấy. Tôi rất vui khi có cơ hội làm việc với chị ấy, nhưng tôi lại nhớ đến thất bại lần trước, nhớ mình đã đánh giá cao tố chất và ân tứ của Ngô Bình, tôn thờ và đi theo chị ấy như thế nào. Tôi đã đi sai đường và điều đó có hại cho sự sống của tôi. Tôi biết khi tương tác với Vương Lý, tôi không thể dựa vào những quan niệm sai lầm để nhìn nhận sự việc nữa, và tôi phải tiếp cận chị ấy theo nguyên tắc của lẽ thật. Vương Lý có tố chất tốt và có kinh nghiệm chia sẻ Phúc Âm, nên tôi có nhiều điều để học hỏi từ chị ấy để bù đắp cho thiếu sót của mình. Nhưng chị ấy cũng là một con người bại hoại, có những tâm tính bại hoại và thiếu sót. Tôi không thể tôn thờ và dựa vào chị ấy. Nếu chị ấy có vấn đề và sai sót trong bổn phận, tôi không thể cứ mù quáng đi theo chị ấy được. Tôi phải luôn sáng suốt và đối xử với chị ấy theo nguyên tắc của lẽ thật. Sau đó trong các buổi thảo luận công việc của chúng tôi, tôi để ý thấy hầu hết những đề nghị của Vương Lý rất không thực tế. Một số chị em khác và tôi đều cảm thấy chúng sẽ không hiệu quả, nhưng chị ấy rất bảo thủ. Chị ấy sẽ giữ vững lập trường với bất cứ gì chúng tôi không đồng tình, và một khi chị ấy gặp khó khăn thì chúng tôi cũng bị bế tắc rất lâu, thực sự cản trở tiến độ công việc. Dần dần, tôi nhận ra rằng Vương Lý rất ngạo mạn và bướng bỉnh, và chị ấy sẽ gắt gỏng khi đề nghị của mình bị từ chối. Chị ấy sẽ bĩu môi, và điều đó khiến người khác ức chế. Chị ấy gây trở ngại trong nhóm Phúc Âm, và cản trở tiến độ công việc. Tôi đã nói với lãnh đạo về hành vi của chị ấy. Sau khi biết chuyện, lãnh đạo đã vạch trần và mổ xẻ các vấn đề của chị ấy, nhưng chị ấy vẫn không chấp nhận, và sau đó chị ấy đã bị điều chỉnh bổn phận. Tôi cảm thấy rất bình yên sau chuyện đó. Tôi thấy cuối cùng thì mình đã thay đổi được tư tưởng sai lầm và không còn tôn thờ hay sùng bái con người như trước nữa. Tôi cũng thực sự biết ơn Đức Chúa Trời vì đã sắp đặt những tình huống để tôi đạt được sự sáng suốt, để tôi có thể rút ra được những bài học đó. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Trong họa được phúc

Bởi Đỗ Quyên, Nhật Bản Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Khi một người nhìn lại con đường mình đã đi, khi một người hồi tưởng lại từng giai...

Leave a Reply

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger