Nỗi Đau Vĩnh Hằng

22/12/2020

Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Tất cả những linh hồn đã bị Sa-tan làm bại hoại đều bị bắt làm nô lệ dưới quyền của Sa-tan. Chỉ những ai tin Đấng Christ mới được tách riêng ra, được cứu rỗi khỏi trại của Sa-tan, và được đưa vào vương quốc ngày nay. Những người này không còn sống dưới ảnh hưởng của Sa-tan nữa. Mặc dù vậy, bản tính của con người vẫn còn ăn sâu trong xác thịt của họ, điều đó có nghĩa là cho dù linh hồn các ngươi đã được cứu rỗi, nhưng bản tính của các ngươi vẫn còn y như cũ, và khả năng các ngươi sẽ phản bội Ta vẫn ở mức một trăm phần trăm. Đó là lý do tại sao công tác của Ta kéo dài lâu đến thế, bởi vì bản tính của các ngươi thì khó uốn nắn. Giờ đây tất cả các ngươi đang trải qua gian khổ hết mức khi thực hiện bổn phận của các ngươi, nhưng một thực tế không thể phủ nhận là: mỗi người trong các ngươi đều có khả năng phản bội Ta và quay trở về dưới quyền của Sa-tan, về trại của nó, và trở lại với đời sống cũ của các ngươi. Khi đó các ngươi không thể tỏ ra một chút nhân tính hay hình tượng giống con người như ngươi có bây giờ. Trong những trường hợp nghiêm trọng, các ngươi sẽ bị hủy diệt và hơn nữa sẽ bị diệt vong đời đời, bị trừng phạt nghiêm khắc, không bao giờ có thể đầu thai trở lại. Đây là vấn đề được đặt ra trước mắt các ngươi(Một vấn đề rất nghiêm trọng: Sự phản bội (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Vì đã hơn mười năm tin vào Đức Chúa Trời, có thể từ bỏ mọi thứ để theo chân Ngài, chịu đựng vì bổn phận của mình, và không chùn bước trước sự chèn ép của ĐCSTQ, nên tôi cho rằng mình đã tận tụy với Đức Chúa Trời và sẽ không bao giờ có thể phản bội Ngài. Điều mà tôi không đời nào ngờ đến đó là khi bị cảnh sát Trung Cộng bắt giữ và tra tấn dã man, tôi sẽ đánh mất nhân phẩm của mình và thỏa hiệp với Sa-tan. Bản tính phản bội Đức Chúa Trời của tôi đã bị phơi bày toàn bộ. Nghĩ đến thất bại khủng khiếp đó khiến tôi đau đớn vô ngần, và nó sẽ là nỗi ân hận cả đời của tôi.

Đó là vào năm 2008, khi ĐCSTQ bắt đầu một chiến dịch quy mô lớn khác để đàn áp và bắt giữ các Cơ Đốc nhân trên toàn quốc. Tôi nhớ, vào một ngày tháng Tám, tôi được thông báo rằng rất nhiều lãnh đạo hội thánh và anh chị em ở nhiều địa điểm đã bị bắt. Tôi vội liên lạc với một số anh chị em để cố gắng giải quyết hậu quả và di dời các tài sản của hội thánh. Phải mất hơn hai tuần để sắp xếp ổn thỏa mọi công việc của hội thánh. Lúc ấy, tôi cảm thấy thực sự hài lòng với bản thân. Tôi nghĩ rằng, trong khi ĐCSTQ đang điên cuồng bắt bớ, tôi lại có thể dũng cảm đối mặt và bảo vệ công tác của hội thánh, tôi đúng là người tận tụy và quan tâm nhất đến ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi nghe nói một số trong những người bị bắt đã trở thành Giu-đê, phản bội Đức Chúa Trời và bán rẻ anh chị em, tôi khinh bỉ họ vô cùng và âm thầm quyết chí: “Nếu ngày nào đó mình cũng bị bắt, mình thà chết chứ không trở thành Giu-đê!” Tôi cứ ngỡ rằng mình có đức tin cực kỳ mãnh liệt. Nhưng đâu ngờ, ngay sau Tết năm 2009, ĐCSTQ lại bắt đầu một chiến dịch bắt giữ trên cả nước, gọi là “Lôi Đình III”, nhắm vào Hội thánh của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Một ngày nọ, khi tôi đang tụ họp với vài anh chị em, hơn 30 cảnh sát bất ngờ xông vào. Chúng đưa bọn tôi đến đồn công an thành phố và tách mọi người ra để thẩm vấn. Chúng yêu cầu được biết hai điều: Họ tên lẫn địa chỉ của các lãnh đạo và đồng sự, hội thánh có bao nhiêu tiền và chúng được giấu ở nhà ai. Chúng nói với giọng đe dọa: “Nếu không thật thà khai ra, mày sẽ phải chết!” Lúc đó tôi không sợ lắm. Tôi cảm thấy rằng, từ nhỏ mình đã gánh chịu nhiều khổ đau, nên dù có bị chúng hành hạ, tôi vẫn có thể chịu được. Xưa nay tôi luôn thực hiện bổn phận và trung kiên với Đức Chúa Trời, nên chắc chắn Ngài sẽ bảo vệ tôi. Khi biết rằng tôi sẽ không hé miệng, bọn cảnh sát lôi ra các đoạn phim giám sát và ảnh chụp tôi ra vào nhà của người tiếp đãi, liệt kê tất cả những nơi tôi đến trong vài tháng qua, rồi bảo tôi thú tội. Nhìn thấy những bằng chứng thuyết phục đến thế về mình, tôi nghĩ, dù tôi có phủ nhận, chúng cũng sẽ không tin. Nên tôi đã cầu nguyện Đức Chúa Trời và xin Ngài ngăn tôi trở thành Giu-đê. Thấy tôi vẫn không chịu nói, một tên sĩ quan giận dữ quát: “Rượu mời không uống, lại muốn uống rượu phạt!” đồng thời xô gã chiếc ghế sắt mà tôi đang bị trói vào, để tôi nằm ngửa. Sau đó, chúng lấy một ống tiêm chứa hỗn hợp dầu mù tạt và nước cây cải ngựa, bắt đầu tiêm vào mũi tôi và chà thứ nước ấy vào mắt tôi. Đau rát vô cùng, tôi cảm thấy gần như không thở được. Cay đến mức tôi không mở mắt nổi, còn bụng thì sôi sùng sục. Sau đó, bọn cảnh sát lột áo, trói hai tay tôi ra sau lưng rồi giật lên một cách thô bạo. Khi đã thấm mệt, chúng dùng ngăn kéo để đỡ tay tôi. Tôi chỉ nghiến răng chịu đau mà không nói một lời. Thấy thủ đoạn của mình không hiệu quả, chúng lại thử một chiêu trò tàn độc khác. Chúng lại còng tay tôi vào ghế sắt, tìm vài sợi dây điện, buộc một đầu dây vào hai ngón chân cái của tôi, đầu kia buộc vào súng bắn điện, rồi bắt đầu dội nước lạnh vào tôi, trong khi liên tục kích điện. Tôi co thắt toàn thân vì bị điện giật, và có thể cảm nhận tim mình giật run. Thực sự cảm giác như mình sắp chết. Chúng hành hạ tôi mãi cho đến 2 giờ sáng.

Ngày hôm sau, cảnh sát đưa tôi đến nơi thẩm vấn bí mật. Ngay khi bước vào, tôi có thể thấy những vệt máu vương vãi khắp mọi nơi. Thật kinh khủng. Tôi sợ hãi, tự hỏi liệu chúng có đánh chết tôi ở đây không. Ngay lúc ấy, một tên sĩ quan, không nói không rằng, kéo tay tôi, bắt tôi ôm chiếc ghế sắt, rồi xô cả người lẫn ghế xuống sàn. Hai cổ tay tôi đã sẵn hằn sâu vết cắt vì bị còng tay, máu chảy âm ỉ, còn bàn tay thì sưng rộp như quả bóng bay. Khoảnh khắc bị đẩy xuống sàn, tôi vô cùng đau đớn và tất cả những gì tôi có thể làm là cầu nguyện Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác. Sau đó, bọn cảnh sát tuông ra một loạt những lời dối trá vu khống hội thánh. Nghe những lời dối trá ấy khiến buồn nôn và tức giận. Thấy tôi vẫn không chịu hé môi, một trong số chúng bực tức nhặt khẩu súng bắn điện lên và liên tục chích điện khắp người, mặt và thậm chí cả miệng tôi. Một tia sáng xanh lóe lên. Tôi không dám mở mắt, nhưng có thể nghe tiếng nổ của súng điện và ngửi thấy mùi da thịt mình đang cháy. Lúc này, một tên sĩ quan dường như điên tiết. Hắn nhặt một cái túi nhựa rồi trùm lên đầu tôi, và chỉ chịu gỡ ra khi tôi suýt chết ngạt. Một gã bắt đầu đá dữ dội vào phần thân dưới của tôi trong khi một tên khác lấy cây dùi cui dày khoảng 4 cm, bắt đầu đánh đập tôi, vừa đánh vừa giận dữ la hét: “Có hơn 100 dụng cụ tra tấn ở đây, và bọn tao sẽ cho mày nếm từng cái một. Đứa nào chết thì đem quăng xuống hố, không vấn đề gì cả! Nếu không chịu nói, mày vẫn sẽ ngồi tù tám đến mười năm, dù có bị đánh đến tàn phế, mày vẫn sẽ phải bóc lịch. Đến khi ra tù thì phần đời còn lại của mày cũng chẳng đáng sống nữa đâu!” Tôi hơi lo lắng khi nghe điều này, bụng nghĩ: “Nếu bị đánh tàn phế, thì quãng đời còn lại phải sống sao đây? Tên cảnh sát nói chúng đã lấy hết dữ liệu từ máy tính của mình, vì vậy, nếu mình không khai, khi bắt được các anh chị em khác, chúng sẽ nói là mình đã bán đứng họ. Mọi người trong hội thánh sẽ căm ghét mình và mình sẽ không còn mặt mũi nào gặp họ”. Khi bọn cảnh sát nghỉ ngơi, tôi có thể cảm nhận cả khuôn mặt mình đều sưng tấy, mắt tôi sưng húp, đến nỗi gần như chẳng thấy gì. Cổ tay tôi chảy máu, còn khắp người thì đầy vết bỏng. Tôi có thể thấy tim mình co thắt, thở không ra hơi, cảm giác dường như sắp chết. Sau đó tôi nghe một sĩ quan nói rằng chuyên gia máy tính đã đến và truy cập được mọi thứ trên máy tính của tôi. Tôi bỗng sợ hãi vô cùng. Tôi nghĩ: “Thế là hết. Trong máy tính có thông tin về các lãnh đạo và đồng sự, cộng thêm một danh sách các thành viên và sổ sách tiền nong của hội thánh”. Tôi cảm thấy hoảng loạn và không biết nên làm gì tiếp theo. Tối hôm đó, bọn sĩ quan đặt một cái giá ba chân trong phòng, trói chặt tay tôi ra sau lưng rồi treo tôi lơ lửng. Tôi bị treo cách mặt đất hai thước, liên tục bị đẩy đung đưa qua lại. Mỗi lần bị chúng đẩy, hai cánh tôi tay tôi lại đau thấu tim, những hạt mồ hôi to đùng lăn dài xuống mặt. Rồi tôi nghĩ về những gì bọn cảnh sát nói, rằng có đánh chết tôi cũng chẳng vấn đề gì, dù tàn phế vẫn phải vào lao ngục. Tôi bắt đầu cảm thấy mình không chịu được nữa. Tôi nghĩ: “Nếu chết ở đây thật thì sao? Mình chỉ mới 30 tuổi, bị đánh đến chết thì liệu có đáng không? Nếu bị tật nguyền và không thể làm việc, thì nửa đời còn lại mình phải sống sao? Dù gì chúng cũng đã lấy hết dữ liệu trên máy tính, nên mình có khai hay không cũng chẳng thành vấn đề. Nếu khai ra chút đỉnh, có lẽ chúng sẽ tha mạng cho mình”. Nhưng rồi tôi nghĩ: “Không được. Làm thế khác nào mình đã hóa Giu-đê?” Tâm trí tôi không ngừng đấu tranh. Dù tôi đã cầu Đức Chúa Trời và nguyện rằng thà chết còn hơn làm Giu-đê, nhưng thời gian càng trôi, cơn đau càng dữ dội, và đến 2 hoặc 3 giờ sáng hôm đó, tôi thực sự không chịu nổi sự tra tấn nữa và hoàn toàn suy sụp. Tôi đồng ý khai ra thông tin về hội thánh. Rồi cuối cùng chúng cũng thả tôi xuống. Khi được thả xuống, tôi chỉ nằm đó trên sàn, không di chuyển được, hai cánh tay mất hết cảm giác. Bọn cảnh sát yêu cầu tôi xác nhận số tầng và số căn hộ của hai vị chủ nhà, và tôi đã khai ra tất cả. Khoảnh khắc phản bội anh chị em của mình, đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng. Tôi hoảng loạn và cảm thấy điều gì đó khủng khiếp sắp xảy ra. Những lời này của Đức Chúa Trời chợt vang lên trong tâm trí tôi: “Bất kỳ ai khiến Ta buồn lòng sẽ không nhận được sự khoan dung từ Ta lần thứ hai”. Tôi biết rõ rằng mình đã phản bội Đức Chúa Trời, xúc phạm tâm tính của Ngài, và Ngài sẽ không tha thứ cho tôi nữa. Tôi thực sự đau khổ và căm ghét bản thân. Tôi nghĩ: “Sao mình lại bán đứng họ? Nếu cắn răng chịu đựng thêm một chút, có lẽ mình đã vượt qua”. Lòng tôi ngập tràn cảm giác tội lỗi và hối hận. Sau đó, bất kể cảnh sát có làm gì, tôi cũng từ chối nói thêm. Bất cứ khi nào nghĩ về việc phản bội Đức Chúa Trời và anh chị em, trở thành một Giu-đê, làm ra chuyện không thể tha thứ như vậy, lòng tôi thực sự đau đớn. Tôi cảm thấy con đường đức tin của mình đã kết thúc, như thể tôi đã bị kết án tử, và có thể chết trong tù bất cứ lúc nào.

Sau đó, điều bất ngờ đã xảy ra. Hơn 5 giờ sáng ngày thứ tư sau khi tôi bị bắt, trong lúc bọn sĩ quan canh giữ ngủ say, tôi khẽ cởi trói sợi dây trên người và nhảy ra bằng lối cửa sổ. Sau nhiều gian nan, tôi tìm được đường đến nhà một người anh em và ngay lập tức viết thư để báo với lãnh đạo hội thánh về việc tôi đã khai ra hai vị chủ nhà, bảo họ phải đề phòng ngay lập tức. Sau đó, người lãnh đạo đã sắp xếp cho tôi ở lại một nơi an toàn. Tôi xấu hổ vô cùng khi thấy một thành viên hội thánh khác sẵn sàng chấp nhận rủi ro để chứa chấp tôi. Tôi đã phản bội Đức Chúa Trời và bán rẻ anh chị em. Tôi đã hóa thành một Giu-đê. Tôi hoàn toàn không xứng đáng được bất cứ ai che chở và không còn mặt mũi nhìn các anh chị em khác. Rồi tôi đọc những lời này của Đức Chúa Trời: “Đối với những kẻ đã không cho Ta thấy chút ít sự trung thành nào suốt trong những kỳ hoạn nạn, Ta sẽ không thương xót nữa, vì lòng thương xót Ta chỉ nới đến thế thôi. Hơn nữa, Ta không thích bất kỳ ai đã một lần phản bội Ta, Ta càng không thích kết giao với những kẻ bán đứng những lợi ích của bạn bè mình. Đây là tâm tính của Ta, bất kể người đó có thể là ai. Ta phải bảo với các ngươi điều này: Bất kỳ ai khiến Ta buồn lòng sẽ không nhận được sự khoan dung từ Ta lần thứ hai, và bất kỳ ai đã trung tín với Ta sẽ vẫn mãi ở trong lòng Ta(Hãy chuẩn bị đầy đủ những việc lành cho đích đến của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời làm tôi rung động đến tâm can. Mỗi từ mỗi chữ như một cú tát đau đớn. Kẻ không trung thành với Đức Chúa Trời trong lúc hoạn nạn chính là tôi. Kẻ phản bội Đức Chúa Trời và bán đứng lợi ích của bạn bè chính là tôi. Kẻ làm Đức Chúa Trời buồn lòng chính là tôi. Tôi là một kẻ hèn nhát, phản bội Đức Chúa Trời, bán rẻ các anh chị em, và đã xúc phạm nghiêm trọng đến tâm tính của Đức Chúa Trời. Tôi sẽ không bao giờ nhận được sự khoan hồng của Đức Chúa Trời nữa, mà nhất định sẽ bị Ngài trừng phạt. Càng nghĩ về điều đó, tôi càng buồn bã và không cầm được nước mắt.

Vài ngày sau, tôi nghe nói một người chị tại một trong những nhà tiếp đãi mà tôi bán đứng đã bị bắt và lục soát nhà. Chị ấy đã mạo hiểm để tiếp đón và chăm sóc tôi, nhưng tôi đã bán rẻ chị ấy. Tôi thừa biết ĐCSTQ tàn bạo thế nào đối với các Cơ Đốc nhân, và chính tôi cũng đã trải qua sự tra tấn đó, nhưng để giữ mạng mình, tôi đã giao chị ấy vào tay ác quỷ. Thật là một hành động xấu xa! Tôi đã tự tát mạnh vào mặt nhiều lần và phủ phục trước Đức Chúa Trời trong lời cầu nguyện: “Đức Chúa Trời ơi, con đã phản bội Ngài và bán đứng anh chị em. Con thậm chí không phải con người và không đáng được sống. Con nên bị nguyền rủa và trừng phạt. Cái chết của con cũng sẽ là sự công chính của Ngài”. Mỗi ngày tôi đều cảm thấy bất an và không ngừng dằn vặt. Tôi thường xuyên giật mình tỉnh giấc bởi những cơn ác mộng về đêm, và tôi cứ nghĩ: “Sao mình lại có thể phản bội Đức Chúa Trời và trở thành một Giu-đê? Trong những năm tin vào Đức Chúa Trời, mình đã từ bỏ gia đình và sự nghiệp vì Ngài, và không bao giờ đầu hàng dù bổn phận có nguy hiểm đến đâu. Tại sao chỉ trong chốc lát, mình lại phản bội Đức Chúa Trời và trở thành Giu-đê? Cớ gì mình lại làm thế?” Ngay sau khi bị bắt, tôi đã muốn đứng ra làm chứng cho Đức Chúa Trời, nhưng khi bị tra tấn dã man và đe dọa tính mạng, tôi đã co rúm lại vì sợ hãi. Khi nghe bọn cảnh sát nói chúng có thể giết con chiên của Đức Chúa Trời Toàn Năng mà không bị trừng phạt, và tôi sẽ vào tù kể cả khi tàn tật, tôi đã lo mình sẽ sống thế nào khi trở thành kẻ tật nguyền. Tôi chỉ mới 30 tuổi, nếu chết thì thật uổng cuộc đời! Khi chúng nói chúng đã bẻ khóa mật khẩu trên máy tính của tôi và có được tất cả thông tin về hội thánh, tôi đã bỏ cuộc và nghĩ dù có khai hay không cũng chẳng có gì khác biệt, tôi có thể tự cứu mạng mình bằng cách cho chúng một ít thông tin. Tôi đã đánh mất phẩm giá của mình và trở thành một Giu-đê. Tôi thấy rằng lý do chính khiến tôi phản bội Đức Chúa Trời là vì tôi tham sống sợ chết, muốn cứu bản thân mình. Tôi từng nghĩ rằng mình có thể chịu đau khổ, hết lòng vì Đức Chúa Trời, và trong tất cả mọi người, tôi sẽ không bao giờ phản bội Đức Chúa Trời. Nhưng ngay khi bị bắt giữ và tra tấn, tôi đã để lộ ra chân tướng thật của mình. Tôi thấy mình hoàn toàn thiếu đi hiện thực của lẽ thật và không thực sự tin vào Đức Chúa Trời. Khi đối mặt với thử luyện, khó khăn, và khi mạng sống lâm nguy, tôi có thể chống đối và phản bội Đức Chúa Trời bất cứ lúc nào. Tôi bắt đầu đọc lời Đức Chúa Trời để giải quyết nỗi sợ chết của mình. Tôi đã đọc đoạn này: “Ai trong toàn thể nhân loại không được quan tâm trong mắt của Đấng Toàn Năng chứ? Ai không sống giữa sự tiền định của Đấng Toàn Năng chứ? Có phải sự sống và chết của con người xảy đến bởi sự chọn lựa của bản thân họ không? Con người có kiểm soát được vận mệnh của chính mình không? Nhiều người kêu xin đòi chết, nhưng cái chết ở xa họ; nhiều người muốn được là những người mạnh mẽ trong cuộc sống và sợ chết, nhưng họ không biết rằng ngày chết của họ đã gần kề, nhấn chìm họ xuống vực sâu của sự chết(“Chương 11” của Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ trong Lời xuất hiện trong xác thịt). “Khi con người sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, thì mọi thứ trở nên vặt vãnh, và không ai có thể đánh bại họ. Điều gì có thể quan trọng hơn sự sống? Do đó, Sa-tan trở nên không có khả năng làm bất cứ điều gì nữa trong con người, nó không thể làm gì với con người. Mặc dù, trong định nghĩa của ‘xác thịt’ người ta nói rằng xác thịt bị bại hoại bởi Sa-tan, nhưng nếu con người thực sự từ bỏ chính mình, và không bị Sa-tan thao túng, thì không ai có thể đánh bại họ…(“Chương 36” của Diễn giải những mầu nhiệm của lời Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ trong Lời xuất hiện trong xác thịt). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi nhận ra rằng mọi thứ đều nằm trong tay Ngài, kể cả chuyện sống chết của chúng ta. Khi tôi chết, dù có bị đánh đập hay tật nguyền, bất kể cuộc sống ra sao, tất cả đều do Đức Chúa Trời định sẵn. Mọi thứ nơi tôi đều đến từ Đức Chúa Trời, và dù sống hay chết, tôi cũng phải phục tùng sự sắp đặt của Ngài. Ngay cả khi bị Sa-tan bức hại đến chết, nếu tôi có thể đứng ra làm chứng cho Đức Chúa Trời, đó vẫn sẽ là một cái chết đáng giá và có ý nghĩa. Tôi nhớ rằng Đức Chúa Jêsus đã nói: “Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống, thì sẽ cứu(Lu-ca 9:24). Tôi nghĩ về các sứ đồ và môn đồ của Đức Chúa Jêsus. Nhiều người trong số họ đã tử vì đạo để truyền bá Phúc Âm và làm theo ý muốn của Ngài. Cái chết của họ đã được Đức Chúa Trời ghi khắc. Thể xác họ đã chết, nhưng linh hồn họ thì không. Nhưng việc tôi phản bội Đức Chúa Trời, bán rẻ người khác và trở thành Giu-đê là một nỗi xấu hổ muôn đời. Tôi giống như một thây ma, một xác chết biết đi nhưng không có linh hồn. Tôi hối hận vì đã phản bội và căm ghét sự dại dột của mình. Nghĩ lại lúc đó, tôi tưởng cảnh sát đã lấy được thông tin của hội thánh, nên nghĩ rằng dù mình có khai hay không cũng chả có gì khác biệt. Nhưng tôi đã sai hoàn toàn. Khi tôi bị con rồng lớn sắc đỏ hành hạ, Đức Chúa Trời chỉ quan tâm thái độ của tôi và liệu tôi có làm chứng trước Satan hay không. Cho dù chúng đã thực sự lấy được thông tin, tôi vẫn không nên khai gì cả. Việc tôi khai ra với cảnh sát chính là cúi đầu trước Satan, và đó là dấu hiệu của nỗi ô nhục. Tôi căm ghét mình vì đã không theo đuổi lẽ thật và không thực sự tin vào Đức Chúa Trời. Tôi ghét thói tham sống sợ chết, vô phẩm giá và thiếu chính trực của mình. Hơn thế nữa, tôi còn ghét con quỷ đó, con rồng lớn sắc đỏ. Nó ghét Đức Chúa Trời và lẽ thật đến cùng cực, điên cuồng bắt bớ và hành hạ những người Đức Chúa Trời chọn. Nó bắt ép mọi người chối bỏ, phản bội Đức Chúa Trời, và hủy hoại cơ may được cứu rỗi của họ. Tôi quyết tâm hoàn toàn thoát khỏi con rồng lớn sắc đỏ và dành cả đời mình đi theo Đức Chúa Trời.

Một lần nọ, tôi đọc vài bài viết chứng ngôn về kinh nghiệm của những người đắc thắng và thấy rằng khi bị tra tấn bởi con rồng lớn sắc đỏ, tất cả họ đều dựa vào lời của Đức Chúa Trời để thắng vượt Sa-tan và đứng ra làm chứng. Tôi càng cảm thấy xấu hổ hơn. Cũng là những tín đồ bị bắt bớ như tôi, sao họ có thể chịu đựng nỗi đau và đứng ra làm chứng? Sao tôi lại quá ích kỷ, đáng khinh và tham sống, đến nỗi biến thành gã Giu-đê phản bội? Nghĩ đến việc bán rẻ anh chị em và trở thành trò cười của Sa-tan, tôi cảm thấy như bị dao đâm vào tim, vô cùng đau đớn và không thể tha thứ cho mình. Tôi cảm thấy thực sự bi quan. Đó là lúc tôi đọc được những lời này từ Đức Chúa Trời: “Đa số mọi người đều đã phạm phải những vi phạm. Ví dụ như, một số người từng chống đối Đức Chúa Trời, một số phản nghịch lại Ngài, một số lên tiếng phàn nàn về Ngài, và một số khác đã làm những việc gây bất lợi cho Hội thánh hoặc những việc gây tổn hại cho nhà Đức Chúa Trời. Những người này nên bị xử lý như thế nào? Kết cục của họ sẽ được định đoạt tùy theo bản tính của họ và hành vi nhất quán của họ. … Ngài xử lý từng người tùy theo môi trường và bối cảnh tại thời điểm đó, tình hình thực tế, hành động của người đó, hành vi và các biểu hiện của họ. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bất công với bất kỳ ai. Đây là sự công chính của Đức Chúa Trời(“Đức Chúa Trời đối xử với mọi người trên cơ sở nào?” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau đó, tôi đọc đoạn này từ một bài thuyết giảng: “Có một số người, do yếu đuối, đã khai ra chút thông tin sau khi bị bắt. Tuy nhiên, họ không phục vụ Sa-tan. Trong tim, họ vẫn tin vào Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Ngài. Họ khai ra một chút là do vóc giạc họ quá non nớt, da thịt họ quá yếu mềm. Nhưng họ không khai ra mọi thứ, cũng không phục vụ cho Sa-tan; điều này cũng tương đương với việc đứng ra làm chứng. Những kẻ ngay khi bị bắt đã khai hết mọi thứ về hội thánh và anh chị em, những kẻ hợp tác với con rồng lớn sắc đỏ để theo dõi và bắt giữ anh chị em, và những kẻ thậm chí ký cam kết không bao giờ tin vào Đức Chúa Trời nữa – những kẻ đó sẽ bị loại bỏ hoàn toàn và chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời nguyền rủa… Trong quá khứ, khi bị giam trong tù, đã có một số anh chị em khai ra một chút, vì họ còn yếu đuối. Sau này, đau khổ vì lương tâm cắn rứt, họ cảm thấy hối hận, khóc lóc và ghê tởm bản thân. Họ đã thề trước mặt Đức Chúa Trời để Ngài trừng phạt họ, và xin Ngài cho họ đối mặt với nghịch cảnh lần nữa để họ có cơ hội làm chứng và làm vui lòng Đức Chúa Trời. Họ thường xuyên cầu nguyện Đức Chúa Trời theo cách đó, cho đến cuối cùng, họ đã có thể theo đuổi lẽ thật, thực hiện bổn phận như thường, thậm chí có được công tác của Đức Thánh Linh. Những người như thế đã thực sự ăn năn, và là kẻ trung thực. Đức Chúa Trời sẽ thương xót họ” (“Các bài giảng và thông công về lối vào sự sống”). Những lời này thực sự khiến tôi cảm động và không thể ngừng khóc. Đức Chúa Trời định đoạt một người dựa trên bối cảnh, mức độ vi phạm của họ, và liệu họ có thực sự ăn năn. Ngài đâu định đoạt kết cục của họ dựa trên một vi phạm duy nhất. Tôi thấy rằng tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính, và sự công chính của Ngài chứa đựng cả sự phán xét và lòng xót thương đối với con người. Tôi đã vi phạm là phản bội Đức Chúa Trời và bán đứng anh chị em, nhưng Đức Chúa Trời đã không loại bỏ tôi. Ngài đã cho tôi cơ hội hối lỗi. Đức Chúa Trời đã khai sáng, hướng dẫn và cho phép tôi hiểu ý muốn của Ngài. Tôi thực sự tạ ơn Đức Chúa Trời vì đã mang đến sự cứu rỗi vĩ đại nhất cho mỗi chúng ta, Đức Chúa Trời thực sự bác ái biết bao. Tôi càng cảm thấy hối hận, tội lỗi, và cảm thấy mình mắc nợ Đức Chúa Trời. Tôi đã quyết tâm: “Nếu bị bắt bởi ĐCSTQ một lần nữa, tôi sẵn sàng hy sinh tính mạng mình. Ngay cả khi bị cảnh sát tra tấn đến chết, tôi vẫn sẽ đứng ra làm chứng và khiến Sa-tan bẽ mặt!”

Vài tháng sau, hội thánh sắp xếp cho tôi nhận một nhiệm vụ khác. Tôi cảm thấy vô cùng xúc động. Sự phản bội của tôi đã khiến Đức Chúa Trời buồn lòng, nhưng với lòng khoan dung và thương xót vô ngần, Ngài đã cho tôi cơ hội ăn năn. Tôi biết mình phải trân trọng cơ hội này và toàn lực thi hành bổn phận để đáp lại tình yêu của Ngài.

Mới chớp mắt đã đến tháng 12/2012, Trung Cộng lại bắt đầu chiến dịch quy mô lớn để bắt giữ và đàn áp Hội thánh của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Chúng đã sử dụng điện thoại giám sát và theo đuôi mọi người để bắt giữ rất nhiều anh chị em. Vào ngày 18/12, hai chị em thực hiện bổn phận cùng tôi đã bị bắt sau khi bị nghe trộm điện thoại, và có hai lãnh đạo cũng bị bắt ngay sau đó. Khi nghe tin đó, tôi bắt đầu cảm thấy thực sự lo lắng. Tôi biết rằng rất có thể mình đã bị ĐCSTQ giám sát và có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Không cách nào biết được liệu tôi có sống sót nếu bị bắt lần nữa không. Ý nghĩ đó khiến tôi vô cùng sợ hãi, nhưng tôi cũng biết rằng mọi thứ đều xảy ra dưới sự cho phép của Đức Chúa Trời. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nói rằng tôi không muốn nghĩ đến an nguy của cá nhân, mà chỉ muốn xử lý khủng hoảng và hết mình làm tròn bổn phận. Ngay cả khi bị bắt, tôi cũng sẽ đứng ra làm chứng cho sự hổ thẹn của Satan, thậm chí nếu phải trả giá bằng mạng sống của mình. Tôi cảm thấy bình tĩnh và thoải mái hơn sau khi cầu nguyện, rồi bắt đầu sắp xếp công việc của hội thánh. Nhờ ơn Đức Chúa Trời, hơn một tháng sau, công việc của hội thánh đã trở lại bình thường. Qua trải nghiệm này, tôi thấy rằng khi người ta không sống vì lợi ích riêng, mà có thể thực hiện nghĩa vụ của mình, họ sẽ thực sự cảm thấy bình an và thoải mái, lương tâm của họ có thể an yên.

Mỗi lần nghĩ đến việc mình là tên Giu-đê đáng xấu hổ, phản bội Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng khủng khiếp. Tuy nhiên, chính nhờ thất bại và phơi bày theo cách đó đã giúp tôi hiểu thêm về tâm tính công chính của Đức Chúa Trời và kính sợ Ngài hơn. Tôi đã thấy Đức Chúa Trời khôn ngoan đến nhường nào. Tôi thấy rằng Đức Chúa Trời đã sử dụng các vụ bắt bớ và bức hại của con rồng lớn sắc đỏ để vạch trần lỗi lầm của tôi. Chỉ sau đó, tôi mới hiểu và căm ghét chính mình, và thực sự bắt đầu theo đuổi lẽ thật. Tôi cũng thấy được công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời thực tế đến nhường nào! Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger