Không còn phô trương nữa

02/12/2020

Bởi Mộ Văn, Tây Ban Nha

Tôi nhớ vào năm 2018, mình đang thực hiện bổn phận rao giảng phúc âm trong hội thánh, sau đó tôi phụ trách công việc này luôn. Tôi có thể thấy các vấn đề và sai lầm trong bổn phận của các anh chị em và giải quyết chúng thông qua thông công, nên mọi người rất hài lòng về tôi, và tôi có cảm giác hoàn thành được bổn phận. Tôi bắt đầu cảm thấy thỏa mãn với bản thân và giỏi hơn người khác, nên không tránh khỏi việc phô trương. Tôi nghĩ: “Mình đưa ra đề xuất và giải quyết vấn đề của mọi người, nên ai cũng có ấn tượng tốt với mình. Nếu giúp đỡ được họ nhiều hơn, sẽ càng chứng tỏ được rằng mình giỏi hơn bọn họ nhiều. Thế thì họ sẽ càng ngưỡng mộ mình”. Một ngày nọ, trong một buổi họp, anh Lục nói mình đã gặp một đồng sự thuộc giáo phái khác khi đang rao giảng phúc âm. Người này đã rao giảng hơn 20 năm rồi, và là một tín hữu chân chính, nhưng anh ta có các quan niệm tôn giáo rất cứng nhắc. Anh Lu đã thông công cho anh ta, nhưng anh ta không chịu tiếp nhận phúc âm nên anh Lục không biết phải làm sao. Tôi thầm nghĩ: “Anh ta là một tín hữu chân chính và muốn nghe thông công. Anh đã không cải đạo được cho anh ta vì anh thông công lẽ thật chưa đủ rõ ràng. Trước kia tôi đã có kinh nghiệm về chuyện này, nên đây là cơ hội để tôi nói cho các người nghe”. Tôi bảo họ: “Tôi thấy chuyện này chẳng có gì khó khăn cả. Anh phải tập trung vào các điểm chính và thông công rõ ràng. Nếu anh ta sẵn lòng lắng nghe và anh giải quyết được vấn đề cho anh ta, thì sao anh ta lại không tiếp nhận được chứ? Đồng sự Trương từng có nhiều quan niệm, vậy nên tôi đã thông công bác bỏ quan niệm vững chắc nhất của anh ấy, sau đó chuyển sang quan niệm tiếp theo. Cuối cùng anh ấy đã tiếp nhận phúc âm. Anh phải thông công rõ ràng khi làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời”. Sau đó tôi nói với họ về mọi vấn đề mà những người mình từng rao giảng cho gặp phải, cách tôi thông công để giải quyết chúng, và cách họ tiếp nhận phúc âm. Tôi kể lại rất chi tiết những trải nghiệm đó, đảm bảo không sót chỗ nào, để mọi người thấy tôi giỏi ra sao. Sau đó, mọi người đã khen tôi và một chị nói: “Anh nói rất đúng. Tại sao tôi lại không nhận ra điều này nhỉ?” Tôi nói đó đều là nhờ sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, nhưng trong lòng tôi rất vui sướng. Đôi khi mọi người đang thảo luận về công việc, tôi sẽ nghĩ đến việc tôi nên nói gì để khiến mọi người nghĩ mình đang cân nhắc và phân tích mọi chi tiết, rằng tôi có tố chất, thông minh và giỏi hơn người khác. Khi đến lượt tôi đưa ra ý kiến, tôi sẽ nói một hồi không thôi và câu nào cũng có từ “Tôi” trong đó. “Tôi nghĩ việc này…” hay “Tôi đã giải quyết chuyện đó”. “Tôi, tôi, tôi…” Tôi sẽ liệt kê các lý thuyết và ý tưởng của mình, sau đó phân tích chi tiết. Sau một thời gian, mọi người bắt đầu phụ thuộc vào tôi, nên không biết tìm kiếm nguyên tắc khi gặp rắc rối. Khi thảo luận về công việc, đôi khi họ sẽ mời tôi nói trước, sau đó mới góp ý thêm. Thỉnh thoảng trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ: “Nếu cứ tiếp tục thế này, liệu cuối cùng mọi người có thần tượng mình không?” Nhưng sau đó tôi nghĩ: “Mình đâu có bắt mọi người phải lắng nghe mình. Mình chỉ bày tỏ quan điểm thôi mà. Dù sao đi nữa, chủ động là cách tiếp cận tích cực và có trách nhiệm”. Tôi không nghĩ nhiều về chuyện đó nữa và cứ thế mà làm.

Sau đó chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc truyền bá phúc âm và các anh chị em có vẻ hơi nản lòng. Tôi cũng cảm thấy như vậy. Tôi muốn mở lòng chia sẻ cảm giác của mình với mọi người, nhưng vì là người chịu trách nhiệm, nếu bản thân dễ bị tiêu cực quá, thì chẳng phải mọi người sẽ thấy tôi yếu đuối sao? Họ sẽ nghĩ gì về tôi nếu biết vóc giạc của tôi quá nhỏ bé? Chẳng phải hình ảnh của tôi trong mắt họ sẽ bị hủy hoại sao? Tôi tự hỏi: “Nếu mình nói về những điều tích cực và dẫn mọi người đi theo hướng tích cực, chẳng phải điều đó sẽ giúp họ có thêm động lực ư?” Vì vậy, trong mọi mối thông công, tôi đều tập trung nói về cách đối mặt với các vấn đề mình gặp phải bằng sự tích cực, tôi đã cậy dựa vào Đức Chúa Trời để vượt qua nghịch cảnh như thế nào và cách tôi vượt qua thử thách ra sao. Mọi người đã nghĩ tôi có vóc giạc và có thể xử lý mọi việc. Họ đều ngưỡng mộ tôi. Thỉnh thoảng khi thảo luận công việc với người khác, tôi sẽ tiết lộ rằng mình đang bị áp lực trong bổn phận, rằng tôi bận đến nỗi không có thời gian ăn uống hay nghỉ ngơi để họ biết tôi đã chịu khổ nhiều như thế nào. Trong các buổi họp, tôi đã không nghĩ về lời Đức Chúa Trời hay tự phản tỉnh, mà chỉ nghĩ cách khiến mọi người nghĩ rằng các mối thông công của mình sâu sắc, có sức nặng. Cứ thế, tôi vô tình rao giảng một số giáo lý cao thâm và thực sự thích thú khi thấy vẻ tán đồng của người khác. Dần dà, một số người bắt đầu hỏi tôi trước mỗi khi họ gặp rắc rối trong bổn phận. Dù chỉ cần suy nghĩ một chút thôi thì bản thân họ cũng có thể tự giải quyết được, nhưng họ vẫn hỏi xin ý kiến của tôi trước. Họ kể với tôi về tình trạng của họ và những nỗi niềm sâu kín nhất trong lòng, còn tôi rất hài lòng khi biết họ tin tưởng mình. Thời gian trôi đi, mặc dù bề ngoài tôi rất bận rộn, nhưng tôi không cảm thấy bất kỳ sự khai sáng nào từ Đức Thánh Linh khi đọc lời Đức Chúa Trời. Khi thảo luận công việc với người khác, tất cả những lời đề xuất của tôi đều vô giá trị và tôi thậm chí không thấy được vấn đề đơn giản nhất trong công tác của chúng tôi. Cuối cùng tôi nhận ra mình đang ở trong tình trạng rất tồi tệ. Tính kiêu ngạo của tôi đã không còn. Tôi từng nghĩ mình là người cực kỳ xuất chúng, nhưng đột nhiên tôi cảm thấy mình giống như một tên ngốc chẳng có gì để phô trương cả. Tâm trí tôi đầy u tối và đau khổ.

Một ngày nọ, tôi đang nói chuyện với hai người anh em, thì một anh tên Tô nói: “Tôi đã biết anh được một thời gian. Anh luôn đề cao bản thân và thích phô trương. Anh hầu như không đề cập đến sự bại hoại và lỗi lầm của mình khi thông công, mà toàn nói về các điểm tốt của bản thân. Điều đó khiến tôi nghĩ anh rất giỏi, và ngưỡng mộ anh. Khi tôi gặp rắc rối trong công tác, anh không thông công về nguyên tắc của lẽ thật, mà chỉ nói về những gì anh đã làm và cách anh giải quyết vấn đề, để tôi nghĩ anh rất tuyệt vời và giỏi hơn bọn tôi…” Tôi không thể chấp nhận được lời anh Tô nói, đặc biệt là khi anh nói tôi luôn tự đề cao bản thân và thích phô trương. Những lời đó cứ vang vọng trong tâm trí tôi. Mặc dù tôi đã không tranh cãi, nhưng tôi cảm thấy không thích những gì anh ấy đã nói. Tôi nghĩ: “Tôi chưa bao giờ yêu cầu anh phải thần tượng tôi. Tôi thật sự tồi tệ như anh nói sao?” Tôi không chấp nhận điều đó, nên đã hỏi người còn lại xem anh ấy nghĩ gì. Thật ngạc nhiên là anh ấy cũng nói: “Anh chưa từng nói về sự bại hoại hay lỗi lầm của mình. Tôi không còn hiểu nổi anh nữa”. Nghe vậy thậm chí còn khiến tôi thấy tồi tệ hơn. “Sao anh ấy có thể nói là không còn hiểu nổi mình chứ? Mình khó hiểu đến thế sao?” Tôi thật sự muốn nói gì đó để lấy lại chút phẩm giá, nhưng thấy hai bọn họ tỉa sửa và xử lý mình như vậy, tôi biết hẳn là phải có lý do. Nếu điều họ nói là đúng, vậy thì quả thực là tôi có vấn đề!

Tôi lập tức tìm một số lời của Đức Chúa Trời phơi bày những người đề cao và làm chứng cho chính họ. Tôi đã đọc được những lời này: “Tâng bốc và chứng thực cho chính mình, khoe khoang bản thân, cố khiến người khác đề cao mình – loài người bại hoại hoàn toàn có thể làm những việc đó. Đây là cách con người phản ứng theo bản năng khi họ bị thao túng bởi bản tính ma quỷ của mình, và điều này rất phổ biến trong toàn nhân loại bại hoại. Con người thường tâng bốc và chứng thực cho bản thân mình như thế nào? Làm thế nào để họ đạt được mục đích đó? Một cách là chứng thực cho việc họ đã chịu khổ đến mức nào, đã làm nhiều việc đến mức nào, và đã dâng mình đến mức nào. Đó là họ dùng những thứ đó như đơn vị tiền tệ để tâng bốc bản thân, giúp họ có được vị trí cao hơn, vững chắc hơn, an toàn hơn trong tâm trí mọi người; để nhiều người quý mến họ, ngưỡng mộ hộ, tôn trọng họ, thậm chí là sùng kính họ, thần tượng họ, và đi theo họ. Đó chính là kết quả sau cùng. Những thứ họ làm để đạt được mục đích này – tất cả những việc tâng bốc và chứng thực cho bản thân đó – liệu chúng có hợp lý hay không? Không hề. Chúng đã vượt quá phạm vi của sự hợp lý. Những người này chẳng biết hổ thẹn: Họ không hề nao núng làm chứng thực về công việc mình đã làm cho Đức Chúa Trời và về việc họ đã chịu đựng nhiều khổ sở vì Ngài đến mức nào. Họ thậm chí còn khoe khoang ân tứ, tài năng, kinh nghiệm và các kỹ năng đặc biệt của mình hay những kỹ xảo khéo léo trong cách tự cư xử và những thủ đoạn họ dùng để bỡn cợt mọi người. Phương pháp họ dùng để tâng bốc và chứng thực cho bản thân là khoe khoang mình và xem thường người khác. Họ cũng che đậy và ngụy trang bản thân, ẩn giấu các điểm yếu, thiếu sót và thất bại của mình trước mọi người để mọi người chỉ có thể nhìn thấy sự tài giỏi của họ. Họ thậm chí chẳng dám nói với mọi người khi họ cảm thấy tiêu cực; họ thiếu dũng khí để cởi mở và thông công với mọi người, và khi họ làm sai điều gì thì họ sẽ cố hết sức để giấu giếm và che đậy điều đó. Họ chẳng bao giờ nhắc đến những tổn hại họ đã gây ra cho nhà Đức Chúa Trời trong quá trình họ thực hiện bổn phận của mình. Thế nhưng khi thực hiện được vài đóng góp chẳng đáng kể hoặc đạt được một chút thành công nhỏ nhoi thì họ lại khoe khoang rất nhanh. Họ không thể chờ để cho cả thế giới biết mình tài giỏi thế nào, tố chất cao đến đâu, xuất chúng đến mấy, và họ vượt trội hơn người thường nhiều như thế nào nào. Đó chẳng phải là một cách tâng bốc và chứng thưc cho bản thân ư? Liệu tâng bốc và chứng thực cho bản thân có nằm trong phạm vi lý trí của nhân loại bình thường không? Không hề. Vậy khi con người làm điều này, tâm tính nào thường được tỏ lộ? Sự kiêu ngạo là một trong những biểu hiện chủ yếu, tiếp theo sau là sự giả dối, nó bao gồm cả việc làm mọi thứ có thể để khiến người khác quý trọng họ. Những câu chuyện của họ hoàn toàn chặt chẽ; lời nói của họ rõ ràng có chứa đựng các động cơ và ý đồ, và họ tìm được cách để ẩn giấu sự thật là mình đang khoe khoang, nhưng kết quả của điều họ nói là người nghe vẫn bị buộc phải cảm thấy họ vượt trội hơn người khác, chẳng ai ngang hàng được với họ và tất cả những người khác đều thấp kém hơn họ. Và kết quả đó chẳng phải đã đạt được bằng thủ đoạn lừa lọc sao? Tâm tính nào là trung tâm của những thủ đoạn đó? Và có các yếu tố nào của sự gian ác trong đó không? Đây chính xác là một loại tâm tính gian ác. Có thể thấy những thủ đoạn họ sử dụng đều được định hướng bởi tâm tính giả dối – vậy tại sao Ta lại nói đó là gian ác? Chuyện này có liên hệ gì với sự gian ác? Các ngươi nghĩ thế nào: Liệu họ có thể công khai về các mục tiêu của bản thân trong việc tâng bốc và chứng thực cho chính họ không? (Không thể.) Luôn có một ham muốn thẳm sâu trong lòng họ, và những điều họ nói và làm đều nhằm để trợ giúp ham muốn đó; vậy nên những mục tiêu và động lực thẳm sâu bên trong những điều họ nói và làm luôn được giữ một cách hết sức bí mật. Chẳng hạn như, họ sẽ đưa ra chỉ dẫn sai trái hay dùng các chiến thuật mờ ám để đạt được những mục tiêu này. Chẳng phải kiểu giấu giếm đó về bản chất là rất quỷ quyệt ư? Và chẳng lẽ sự quỷ quyệt như vậy không thể gọi là gian ác sao? Đó quả thật có thể gọi là gian ác, và nó sâu xa hơn sự giả dối nhiều(“Đối với những người dẫn dắt và những người làm công, việc chọn một con đường là điều vô cùng quan trọng (2)” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi đã nghĩ về cách mà mình hành xử trong bổn phận. Khi các anh chị em gặp rắc rối, tôi đã hành động như thể mình đang thông công và giúp đỡ họ, nói về cách mình đã giải quyết vấn đề để khoe khoang năng lực của mình trong công việc và khiến mọi người nghĩ tôi có năng lực hơn họ. Khi thảo luận công việc, từ đầu tiên tôi thốt ra là từ “tôi”, để thể hiện bản thân, khiến người khác nghĩ tôi biết hết để họ thần tượng tôi. Tôi đã che giấu không để người khác biết sự bại hoại và tiêu cực của mình. Tôi chưa từng nói về những khó khăn của mình, huống hồ là mổ xẻ tâm tính bại hoại của bản thân. Thay vào đó, tôi đã nói những điều tích cực để che giấu lỗi lầm, khiến người khác nghĩ tôi có vóc giạc và ngưỡng mộ tôi. Tôi luôn nói về việc mình đã chịu khổ trong bổn phận và việc đó khó khăn như thế nào để họ thấy tôi đã hết lòng với bổn phận ra sao. Và trong các cuộc họp, rõ ràng tôi không hiểu gì về lời của Đức Chúa Trời hay bản thân cả, mà chỉ nói mãi không thôi, thêu dệt ảo tưởng rằng tôi đã biết mình, để mọi người nghĩ tốt về mình nhiều hơn. Để tiếp tục tận hưởng sự kính trọng và yêu mến của họ, tôi tiếp tục nói và làm những điều có vẻ đúng đắn, nhưng thực ra là tôi đang khoe khoang và phô trương, khiến lòng người khác dần xa rời Đức Chúa Trời. Chẳng phải lời Đức Chúa Trời đã vạch trần hành vi xuất phát từ tâm tính xấu xa của tôi sao? Bất kể tôi làm gì, hay bề ngoài tôi có vẻ dâng mình thế nào, mục đích của tôi không bao giờ là thực hiện tốt bổn phận. Tôi làm tất cả những gì có thể chỉ để củng cố địa vị, khiến người khác thần tượng mình. Tôi đã đi trên con đường của những kẻ địch lại Đấng Christ. Cuối cùng tôi nhận ra sự nguy hiểm của mình nên đã nhanh chóng cầu nguyện với Đức Chúa Trời, mong được ăn năn.

Đột nhiên tôi nghĩ đến những lời này của Đức Chúa Trời: “Nếu một người muốn sống trọn nhân tính bình thường, họ nên cởi mở chính mình và trải bày bản thân như thế nào? Việc này được thực hiện bằng cách tự cởi mở chính mình và cho người khác thấy rõ ràng cảm xúc thực sự từ tận đáy lòng mình, bằng việc có thể thực hành lẽ thật, giản đơn và thuần túy. Nếu một người tỏ lộ sự bại hoại của chính họ, họ phải có thể hiểu bản chất của vấn đề và có thể căm ghét, ghê tởm bản thân mình từ tận đáy lòng. Khi họ trải bày bản thân, họ sẽ không tìm cách biện hộ cho hành vi của mình, cũng không cố tự bảo vệ mình. … Thứ nhất, một người cần hiểu các vấn đề của mình ở mức độ bản chất, mổ xẻ chính mình và trải bày bản thân. Họ cần phải có tấm lòng trung thực và thái độ chân thành, và nói ra điều họ có thể hiểu về các vấn đề trong tâm tính của họ. Thứ hai là, nếu một người cảm thấy tâm tính của họ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, họ cần phải nói với tất cả: ‘Nếu tôi lại tỏ lộ tâm tính bại hoại như thế một lần nữa thì tất cả mọi người hãy trổi lên – xử lý tôi, chỉ điều đó ra cho tôi. Cứ thẳng thắn, đừng nương tay. Có thể lúc đó tôi sẽ không chịu đựng nổi, nhưng xin đừng để tâm. Hãy hợp tác cùng nhau giám sát tôi. Nếu tâm tính bại hoại này bùng lên một cách nghiêm trọng, tất cả mọi người hãy trổi lên vạch trần và xử lý tôi. Tôi thành thật mong mọi người sẽ giám sát tôi, giúp đỡ tôi và giữ cho tôi đừng lạc lối’. Đây chính là thái độ cần có của một người thực hành lẽ thật(“Sự phối hợp hài hòa” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã dẫn lối cho tôi. Dù có hiểu vấn đề của mình đến mấy, thì tôi biết mình cũng không thể tiếp tục như vậy nữa. Tôi phải trung thực và vạch trần bản thân để cho mọi người thấy động cơ đằng sau hành động của mình, để họ thấy tôi đang đề cao bản thân, phô trương và đi trên con đường của những kẻ địch lại Đấng Christ. Đây là điều quan trọng nhất. Tôi phải mở lòng chia sẻ với mọi người, về tình trạng thật sự của tôi, dù họ nghĩ sao về tôi cũng được.

Trong buổi họp kế tiếp, tôi bộc bạch tất cả mọi thứ trước mặt các anh chị em, và xin mọi người giúp đỡ cũng như lời khuyên. Sau khi hoàn toàn cởi mở, tôi cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều. Vài ngày sau, những người khác cũng gửi tin nhắn chỉ ra vấn đề của tôi. Có người nói: “Anh luôn thích phô trương trong bổn phận. Tôi đã không muốn tìm kiếm nguyên tắc trong bổn phận của mình nữa, mà chỉ phụ thuộc vào anh. Tôi tưởng anh biết rõ mọi thứ, và hỏi anh thì sẽ dễ hơn”. Có người lại nói: “Dạo gần đây tôi không học hỏi thêm được gì về Đức Chúa Trời, mà chỉ học cách thần tượng anh hơn. Tôi tưởng anh vừa làm việc giỏi, lại vừa có trách nhiệm trong bổn phận. Tôi thực sự đã rất ngưỡng mộ anh”. Nghe bọn họ nói như vậy, tôi thực sự rất khó chịu. Tôi không thể tin được rằng đây là kết quả sau nhiều tháng thực hiện bổn phận. Tôi cảm thấy rất buồn, và cực kỳ đau khổ. Tôi nghĩ Đức Chúa Trời hẳn là ghét tôi lắm. Tôi thực sự đã chìm sâu vào tiêu cực. Tuy nhiên, nhờ thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời và được mọi người giúp đỡ cũng như hỗ trợ, cuối cùng tôi cũng nhận ra Đức Chúa Trời không làm thế để loại bỏ tôi mà là để làm tinh sạch và thay đổi tôi. Nếu chuyện này không xảy ra, chắc hẳn tôi đã đi trên con đường sai lầm rồi. Đây là sự cứu rỗi tuyệt vời mà Đức Chúa Trời dành cho tôi! Khi đã hiểu được ý muốn của Ngài, tôi quyết tâm phản tỉnh và ăn năn thật sự.

Sau đó, tôi đã đọc được những lời này của Ngài: “Một số người đặc biệt tôn sùng Phao-lô. Họ thích ra ngoài, diễn thuyết và làm việc, họ thích tham dự các buổi tụ họp và rao giảng, và họ thích mọi người lắng nghe họ, tôn thờ họ, và xoay quanh họ. Họ thích có địa vị trong tâm trí người khác, và họ đánh giá cao việc người khác coi trọng hình ảnh mà họ thể hiện. Hãy cùng phân tích bản tính của họ từ những hành vi này: Bản tính của họ là gì? Nếu họ thực sự cư xử như vậy, thì cũng đủ cho thấy họ kiêu ngạo và tự phụ. Họ không thờ phụng Đức Chúa Trời chút nào; họ tìm kiếm một địa vị cao hơn và mong muốn có quyền lực với người khác, chiếm hữu họ, và có địa vị trong tâm trí họ. Đây là hình ảnh điển hình của Sa-tan. Các khía cạnh nổi bật trong bản tính của họ là sự kiêu ngạo và tự phụ, không sẵn lòng thờ phụng Đức Chúa Trời, và tham muốn được người khác tôn thờ. Những hành vi như vậy có thể cho ngươi một cái nhìn rất rõ ràng về bản tính của họ(“Làm thế nào để biết bản tính con người” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Chẳng hạn, nếu sự kiêu ngạo và tự phụ tồn tại trong ngươi, ngươi sẽ thấy không thể tránh khỏi việc thách thức Đức Chúa Trời; ngươi sẽ cảm thấy buộc phải thách thức Ngài. Ngươi sẽ không chủ tâm làm điều đó; ngươi sẽ làm điều đó dưới sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của mình. Sự kiêu ngạo và tự phụ của ngươi sẽ khiến ngươi coi thường Đức Chúa Trời và xem Ngài là tầm thường; chúng sẽ khiến ngươi tự đề cao bản thân, không ngừng khoe khoang về bản thân, và, cuối cùng, ngồi vào vị trí của Đức Chúa Trời và làm chứng cho chính mình. Cuối cùng, ngươi sẽ biến những ý tưởng của chính mình, suy nghĩ của chính mình và những quan niệm của chính mình thành lẽ thật để tôn thờ. Hãy xem có bao nhiêu tội ác được thực hiện bởi những người chịu sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của họ!(“Chỉ có theo đuổi lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sự mặc khải trong lời Đức Chúa Trời cho tôi thấy rằng: chính bản tính kiêu ngạo đã khiến tôi tìm cách có được địa vị cao trong lòng mọi người, và rằng tôi đang chống đối Đức Chúa Trời. Bị bản tính ngạo mạn kiểm soát, tôi bắt đầu tự hài lòng với bản thân khi thấy kết quả trong bổn phận, đề cao bản thân và phô trương bất cứ khi nào có thể. Tôi nói và làm chỉ để mình nổi trội, để thể hiện ân tứ và khả năng của mình. Tôi đã mặt dày khoe khoang mình đã khổ cực như thế nào trong bổn phận, mệt mỏi ra sao, cách mình giải quyết vấn đề, tất cả là để khiến mọi người nghĩ tôi giỏi hơn họ, hay tôi là người phi thường. Tôi chỉ muốn mọi người tôn trọng và ngưỡng mộ mình. Chẳng phải đó là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Phao-lô cũng giống y như tôi. Ông ta thường xuyên phô trương kiến thức và ân tứ thông qua rao giảng và công tác, khoe khoang để khiến mọi người ngưỡng mộ mình. Ông ta luôn viết thư cho các hội thánh thể hiện rằng mình đã công tác và chịu khổ đau nhiều như thế nào vì Chúa, để lấy lòng mọi người. Ông ta làm việc cực nhọc chẳng phải là để thực hiện tốt bổn phận hay làm chứng cho Đấng Christ nhập thể, mà để đạt được tham vọng và mong muốn của riêng mình. Dù ông ta có làm công tác hoặc chịu khổ nhiều như thế nào, số người thần tượng ông nhiều ra sao, nhưng vì không theo đuổi lẽ thật mà chỉ ngày càng kiêu ngạo, cuối cùng ông ta đã trơ trẽn làm chứng rằng mình chính là Đấng Christ. Điều này đã xúc phạm nghiêm trọng đến tâm tính của Đức Chúa Trời và Ngài đã trừng phạt ông. Tôi cũng có bản tính giống như Phao-lô. Tôi đã quá kiêu ngạo và tự phụ, yêu địa vị, luôn đề cao bản thân và thích phô trương để mọi người thần tượng mình, làm mất vị trí của Đức Chúa Trời trong lòng họ, và họ sẽ không cậy dựa Đức Chúa Trời hay tìm kiếm lẽ thật khi gặp rắc rối. Thực hiện bổn phận như vậy là chống đối Đức Chúa Trời và làm hại các anh chị em. Tôi chưa từng nghĩ sự xấu xa và chống đối Đức Chúa Trời lại có thể xuất phát từ việc sống theo bản tính ngạo mạn của mình. Nếu tôi không ăn năn, sớm muộn gì tôi cũng sẽ khơi dậy sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời và bị trừng phạt. Nếu không có sự sửa dạy của Đức Chúa Trời, giúp đỡ và hỗ trợ của các anh chị em, tôi hẳn đã không tự kiểm điểm rồi. Chính sự cứu rỗi lớn lao và tâm tính công chính của Đức Chúa Trời đã khiến tôi bị vạch trần như vậy.

Nghĩ về chuyện này, khi tôi đạt được kết quả trong bổn phận và phát hiện ra các vấn đề, đều là nhờ sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Nếu không có công tác của Đức Thánh Linh, tôi chỉ là kẻ ngốc chẳng hiểu được gì cả. Tôi không có chút thực tế về lẽ thật nào, vậy mà lại quá kiêu căng ngạo mạn, trơ trẽ tranh giành địa vị với Đức Chúa Trời. Tôi đúng là kẻ ngu dại! Tôi đã không thông công lẽ thật hay làm chứng cho Đức Chúa Trời trong bổn phận, mà chỉ phô trương và lừa gạt mọi người, đúng là làm điều ác mà! Từ đó tôi thật sự bắt đầu căm ghét bản thân. Tôi không muốn tiếp tục sống như vậy nữa, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã quá sai rồi! Con thấy mình thật ngạo mạn và ngu dốt. Tạ ơn Ngài vì đã cho con cơ hội ăn năn. Từ giờ con sẽ nghiêm túc thực hành lẽ thật, và đi trên con đường đúng đắn. Xin hãy dẫn dắt con”.

Sau đó tôi đã đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Một người nên làm gì để không tán dương và chứng thực cho bản thân mình? Liên quan đến cùng một vấn đề, có sự phô diễn bản thân để đạt được mục tiêu tán dương và chứng thực cho bản thân mình và truyền cảm hứng cho người khác tôn kính mình, trái với việc cởi mở và phơi bày con người thật của mình – những điều này khác nhau về bản chất. Đây không phải là các chi tiết sao? Ví dụ, để cởi mở và phơi bày những động cơ cùng ý nghĩ của mình, thì cách diễn đạt, sự biểu đạt để thể hiện sự tự biết mình là gì? Kiểu phô diễn nào dẫn đến sự bợ đỡ của những người khác cấu thành việc tán tụng và làm chứng cho chính bản thân mình? Việc kể lại mình đã cầu nguyện, tìm kiếm lẽ thật và đứng ra làm chứng qua những sự thử luyện như thế nào là tán dương và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Dạng thực hành này không phải là tán dương và làm chứng cho chính mình. Việc vạch trần bản thân có liên quan đến động lực: Nếu động lực của ai đó là cho mọi người thấy sự bại hoại của họ hơn là tán dương chính họ thì những lời của họ sẽ nghiêm túc, chân thật và dựa trên thực tế; nếu động lực của họ là khiến những người khác kính trọng mình, lừa bịp người khác và che giấu bộ mặt thật của mình, để ngăn không cho những động cơ, sự bại hoại hay yếu điểm và sự tiêu cực của họ bị phơi bày trước những người khác, thì cách nói của họ sẽ giả dối và gây hiểu lầm. Chẳng phải có sự khác biệt cụ thể ở đây sao?(“Đối với những người dẫn dắt và những người làm công, việc chọn một con đường là điều vô cùng quan trọng (2)” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Khi làm chứng cho Đức Chúa Trời, các ngươi nên chủ yếu nói nhiều hơn về cách Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt mọi người, những thử luyện nào Ngài sử dụng để tinh luyện mọi người và thay đổi tâm tính của họ. Các ngươi cũng nên nói về việc sự hư hoại đã được bộc lộ bao nhiêu trong trải nghiệm của các ngươi, các ngươi đã chịu đựng bao nhiêu và các ngươi cuối cùng đã được Đức Chúa Trời chinh phục như thế nào; nói về kiến thức thực sự về công việc của Đức Chúa Trời mà các ngươi có được là bao nhiêu, và các ngươi nên làm chứng cho Đức Chúa Trời và đền đáp tình yêu của Ngài như thế nào. Các ngươi nên đưa thực chất vào loại ngôn ngữ này, trong khi diễn đạt nó một cách đơn giản. Đừng nói về những lý thuyết trống rỗng. Hãy nói thực tế hơn; nói từ tấm lòng. Đây là cách ngươi nên trải nghiệm. Đừng trang bị cho mình những lý thuyết trống rỗng có vẻ sâu sắc cố để phô trương; làm như vậy khiến ngươi trông khá kiêu ngạo và phi lý. Ngươi nên nói nhiều hơn về những điều có thật từ trải nghiệm thực tế của ngươi mà chân thật và từ tấm lòng; điều này có lợi nhất cho người khác, và phù hợp nhất để họ thấy(“Chỉ có theo đuổi lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời cho tôi thấy rằng tôi phải tập trung phản tỉnh và hiểu rõ bản thân bằng trải nghiệm để khắc phục vấn đề tự đề cao và khoe khoang của mình. Tôi phải có động cơ đúng đắn khi chia sẻ thông công, nói nhiều hơn về sự bại hoại mà mình đã thể hiện, mổ xẻ động cơ và những ý nghĩ dơ bẩn, chia sẻ trải nghiệm đã bị lời Đức Chúa Trời trừng phạt như thế nào, tôi thực sự hiểu ra điều gì về bản thân, hiểu gì về tâm tính của Đức Chúa Trời và tình yêu của Ngài, cũng như dùng trải nghiệm thực tế của mình để tôn cao và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Đó mới thực sự là thực hiện bổn phận. Trong buổi họp tiếp ttheo, tôi đã cố tình mổ xẻ cách mình toan tính và phô trương vì địa vị, cách Đức Chúa Trời đã sắp đặt tình huống để xử lý tôi, giúp tôi thấy được sự xấu xí của mình. Một người anh em đã nói với tôi: “Trải nghiệm của anh đã cho tôi thấy rằng dù chúng ta có các tâm tính bại hoại, chỉ cần chấp nhận bị lời của Đức Chúa Trời phán xét và xử lý, thực hành lẽ thật và phản bội xác thịt, thì ta sẽ thay đổi được. Tôi cũng nhận ra rằng mọi điều Đức Chúa Trời làm đều là để cứu rỗi nhân loại”. Tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời khi nghe anh ấy nói vậy. Tôi đạt được hiểu biết về bản thân đều là nhờ sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời.

Sau đó, tôi bắt đầu ý thức bước vào điều này trong bổn phận của mình. Khi phát hiện người khác sai phạm trong khi thực hiện bổn phận, tôi sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, thiết lập động cơ đúng đắn và thể hiện quan điểm một cách khách quan, tôi không còn khoe khoang như trước nữa. Tôi cũng tìm ra một số nguyên tắc của lẽ thật để chia sẻ với các anh chị em. Trong các cuộc họp, tôi sẽ mổ xẻ các động cơ và sự suy đồi trong hành động của mình, và tâm tính bại hoại mà mình tỏ lộ để mọi người thấy được con người thật của tôi. Bằng cách thực hành theo cách này, tôi cảm thấy lòng rất bình an và mối quan hệ của tôi với Đức Chúa Trời đã trở lại bình thường. Một thời gian sau, tôi cảm thấy mọi người đã đối xử với mình đúng cách và không ngưỡng mộ mình như trước kia nữa. Khi tôi nói hay làm trái với các nguyên tắc của lẽ thật, họ đã chỉ ra để giúp tôi có thể sửa sai. Tương tác với mọi người theo cách này quả thực rất thoải mái. Tôi thực sự cảm tạ Đức Chúa Trời vì đã sắp xếp tình huống đó để làm tinh sạch và thay đổi tôi!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Học cách làm chứng nhân tốt hơn

Bởi Mặc Nhiên, Trung Quốc Tháng 6 năm ngoái, tôi được chọn làm chấp sự chăm tưới, phụ trách những người mới tin nhận công tác thời kỳ sau...

Chọn lựa đau lòng

Bởi Trần Mẫn, Tây Ban Nha Tôi tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng vào năm 1999, và không lâu sau đã bắt đầu phục...

Leave a Reply

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger