Sau cái chết của con trai tôi

24/07/2022

Bởi Vương Lệ, Trung Quốc

Một ngày tháng sáu năm 2014, con gái tôi bất ngờ gọi điện, và nói con trai tôi đã bị điện giật khi đi câu cá, Con bé chưa rõ tình hình cụ thể thế nào, nhưng bảo tôi hãy chuẩn bị tinh thần. Vừa nghe tin đó, tôi ngồi đơ trên giường, đầu óc quay cuồng. Con trai tôi là trụ cột của gia đình. Làm thế nào chúng tôi có thể vượt qua nếu có điều gì đó xảy ra với nó? Khi bình tĩnh lại, tôi nghĩ, Tôi đã tin Đức Chúa Trời rất nhiều năm và luôn làm tròn bổn phận, vì thế chắc hẳn Ngài sẽ bảo vệ con trai tôi. Chắc chắn nó sẽ ổn. Tôi loạng choạng đứng dậy, và nhờ được một người chở tôi đến hiện trường vụ tai nạn. Khi đến nơi, tôi thấy giám định pháp y đang khám nghiệm tử thi con trai tôi. Tôi bàng hoàng, không thể chấp nhận được những gì đang xảy ra trước mắt mình, tôi không còn sức để đi. Ai đó đã đỡ lấy tôi và dắt tôi đến bên con trai mình, từng bước một. Nhìn thấy xác thằng bé, Tôi không kìm được mà ngồi thụp xuống và òa khóc. Cháu trai nhỏ của tôi vừa được bốn tháng. Hai vợ chồng tôi ngày càng già yếu, Chúng tôi sẽ sống ra sao nếu không có nó? Thấy tôi như vậy, con gái tôi thì thầm, “Mẹ, anh ấy đi rồi, nhưng mẹ vẫn còn con, và còn Đức Chúa Trời!”. Câu nói “và còn Đức Chúa Trời” của con bé đã đánh thức tôi trong nỗi đau buồn. Nó nói đúng. Đức Chúa Trời là chỗ dựa của tôi – làm sao tôi có thể quên được Ngài? Tôi cố nén nỗi đau, gạt nước mắt để lo hậu sự cho con mình.

Về đến nhà, tôi đã bật khóc khi nghĩ đến gương mặt con trai mình. Tôi thấy đau đớn vô cùng. Bạn bè, người thân và hàng xóm mỉm cười và mỉa mai, “Vậy, chị tin vào Đức Chúa Trời, nhưng con trai chị vẫn chết vì điện giật? Chị tin Đức Chúa Trời mà Ngài không bảo vệ gia đình chị!”. Sau đó, con gái tôi cũng chỉ trích tôi, nói, “Tại sao mẹ tin Đức Chúa Trời nhưng anh vẫn phải chết? Sao Đức Chúa Trời không bảo vệ anh ấy?”. Những lời này như xát muối vào vết thương của tôi. Tôi không thể chịu đựng được sự chế giễu của họ – tôi bắt đầu có quan niệm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ lại tôi đã dâng mình thế nào khi tin Chúa. Đôi khi, tôi đạp xe hàng dặm để đi nâng đỡ những tín đồ khác, và dù mùa hè hay mùa đông, trời mưa hay gió, tôi vẫn không bao giờ trì hoãn. Sau khi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong những ngày sau rốt, tôi còn hy sinh nhiều hơn nữa để thực hiện bổn phận của mình, và tôi đã nhiệt tình tham gia vào việc truyền bá phúc âm và chăm tưới cho những tín hữu mới. Tôi tiếp tục theo Đức Chúa Trời ngay cả khi con rồng lớn sắc đỏ áp bức tôi và cướp phá nhà tôi. Tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ gia đình tôi, sau tất cả những gì tôi đã làm? Tại sao mọi chuyện lại thành ra như thế? Càng nghĩ càng thấy mình đã sai, tôi không thể ngăn dòng nước mắt tuôn ra. Tôi đã đau buồn ghê gớm trong vài ngày, Tôi không muốn đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không cầu nguyện, chỉ lầm lũi đi qua từng ngày với bóng tối trong lòng. Nhận ra mình đang ở trong tình trạng nguy hiểm, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, Tôi đã nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con không thể nguôi ngoai về cái chết của con trai mình. Con đang hiểu lầm và đổ lỗi cho Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, bây giờ con thật tiêu cực và yếu đuối. Xin hãy cứu lấy con, giúp con hiểu được ý Ngài muốn và thoát ra khỏi tình cảnh sai quấy này”.

Sau khi cầu nguyện, tôi đọc được điều này trong lời Đức Chúa Trời: “Nếu họ muốn được cứu rỗi, và muốn được Đức Chúa Trời thu phục hoàn toàn, thì tất cả những ai theo Đức Chúa Trời đều phải đối mặt với những cám dỗ và tấn công cả lớn lẫn nhỏ từ Sa-tan. Những ai vượt lên những cám dỗ và tấn công này và có thể đánh bại Sa-tan hoàn toàn là những người đã được Đức Chúa Trời cứu rỗi(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Những người chưa được cứu rỗi là tù nhân của Sa-tan, họ không có tự do, họ chưa được Sa-tan buông tha, họ không đủ tư cách hay có quyền thờ phượng Đức Chúa Trời, và họ bị Sa-tan truy đuổi sát sao và tấn công một cách tàn độc. Những người như thế không có niềm vui để nói đến, họ không có quyền tồn tại bình thường để nói đến, và hơn nữa họ không có phẩm giá để nói đến. Chỉ khi ngươi đứng lên và chiến đấu với Sa-tan, dùng đức tin nơi Đức Chúa Trời và sự vâng phục, kính sợ Đức Chúa Trời của ngươi làm vũ khí để chiến đấu cuộc chiến sinh tử với Sa-tan, như thế ngươi mới hoàn toàn đánh bại Sa-tan, khiến hắn cúp đuôi bỏ chạy và trở nên nhát sợ bất cứ khi nào hắn thấy ngươi, để hắn hoàn toàn từ bỏ những cuộc tấn công và cáo buộc chống lại ngươi – chỉ khi đó ngươi mới được cứu rỗi và trở nên tự do. Nếu ngươi quyết tâm hoàn toàn cắt đứt với Sa-tan, nhưng không được trang bị những vũ khí giúp ngươi đánh bại Sa-tan, thì ngươi vẫn sẽ gặp nguy hiểm; theo thời gian, khi ngươi đã bị Sa-tan hành hạ quá nhiều đến nỗi không còn chút sức lực nào trong mình, nhưng ngươi vẫn không thể làm chứng, vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi những cáo buộc và tấn công của Sa-tan chống lại ngươi, vậy thì ngươi sẽ có ít hy vọng được cứu rỗi. Cuối cùng, khi công tác của Đức Chúa Trời được tuyên bố khép lại, ngươi vẫn sẽ ở trong sự kìm kẹp của Sa-tan, không thể thoát ra, và do đó ngươi sẽ không bao giờ có cơ hội hay hy vọng. Như vậy, ẩn ý chính là những người như thế sẽ hoàn toàn ở trong sự giam cầm của Sa-tan(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu, cái chết của con trai tôi là một thử thách đối với tôi, Tôi phải dựa vào đức tin của mình để vượt qua nó và làm chứng cho Đức Chúa Trời, thay vì thụ động và yếu đuối như bây giờ, mất niềm tin vào Đức Chúa Trời, cũng như hiểu lầm và đổ lỗi cho Ngài. Tôi nghĩ đến khi ông Gióp bị Sa-tan thử thách. Vô số gia súc, cừu và tài sản đã bị bọn cướp lấy đi, tất cả 10 người con của ông đã chết, cơ thể ông thì chi chít những mụn nhọt, Nhưng Gióp thà nguyền rủa ngày sinh của chính mình, chứ không chối bỏ danh Đức Chúa Trời hay đổ lỗi cho Ngài. Ông nói: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Gióp đã đưa ra lời chứng tuyệt vời, vang dội cho Đức Chúa Trời và làm cho Sa-tan xấu hổ. Nhưng nhìn lại mình, Tôi đã hiểu lầm và đổ lỗi cho Đức Chúa Trời sau khi mất đi đứa con trai. Tôi thật quá kém xa so với Gióp – tôi rất vô cùng hổ thẹn. Tôi cũng nghĩ về cách, khi Job bị thử thách, vợ ông đã thuyết phục ông từ bỏ Đức Chúa Trời và chết đi. Nhìn bên ngoài, có vẻ như như người vợ đang chỉ trích ông, nhưng thực sự là Sa-tan đang thử thách ông. Chẳng phải bạn bè, người thân và con gái tôi đóng vai Sa-tan sao? Sa-tan đang dùng lời chế giễu của những người xung quanh tôi để thử thách và tấn công tôi để tôi phản bội Đức Chúa Trời. Nếu tôi cứ sống trong tiêu cực, hiểu lầm và đổ lỗi cho Đức Chúa Trời, Tôi sẽ rơi vào mánh khóe của Sa-tan và hoàn toàn trở thành trò cười của nó. Đó là lúc tôi nhận ra, Sa-tan đã theo dõi tôi qua toàn bộ thử thách đó, và Đức Chúa Trời đã hy vọng rằng tôi sẽ đứng ra làm chứng cho Ngài và làm bẽ mặt Sa-tan. Qua tất cả những năm tháng đức tin của mình, tôi biết rằng tôi đã được hưởng rất nhiều sự cung dưỡng từ lời Đức Chúa Trời, và bây giờ đã đến lúc tôi phải làm chứng cho Ngài, tôi phải ngừng việc hiểu lầm và đổ lỗi cho Ngài, nó chỉ khiến Sa-tan cười đắc ý. Tôi cần phải đứng ra làm chứng cho Đức Chúa Trời và làm Sa-tan hổ thẹn! Lúc này, tôi không còn cảm thấy đau khổ và bất lực như trước nữa. Đức tin của tôi lớn dần lên và tôi đã sẵn sàng nương tựa vào Đức Chúa Trời và vượt qua hoàn cảnh đó.

Sau đó, tôi đã tự hỏi tại sao tôi lại phàn nàn và tiêu cực đến thế khi đối mặt với tình huống đó. Rồi đến một ngày, tôi đọc được một đoạn trong lời Đức Chúa Trời. “Ngươi hi vọng rằng đức tin vào Đức Chúa Trời sẽ không mang lại bất kỳ thử luyện, phiền não, hay một chút khó khăn nào. Ngươi luôn tìm kiếm những thứ vô giá trị và ngươi không coi trọng sự sống, thay vào đó đặt những suy nghĩ ngông cuồng của mình lên trước lẽ thật. Ngươi thật vô giá trị! … Điều ngươi tìm kiếm là có thể có được bình an sau khi tin vào Đức Chúa Trời, để con cái ngươi không bị ốm đau, để chồng ngươi có công việc tốt, để con trai ngươi có người vợ hiền, để con gái ngươi có tấm chồng tử tế, để trâu ngựa có thể cày bừa tốt, để mùa màng có một năm mưa thuận gió hòa. Đây là những gì ngươi kiếm tìm. Sự tìm kiếm của ngươi chỉ là để có cuộc sống thoải mái, để tai ương không đổ xuống gia đình ngươi, để phong ba bỏ qua ngươi, để cát bụi không chạm mặt ngươi, để mùa màng không bị ngập úng, để thảm họa không ảnh hưởng tới ngươi, để sống trong sự bao bọc của Đức Chúa Trời, để sống trong tổ ấm đủ đầy. Một kẻ hèn nhát như ngươi, luôn kiếm tìm xác thịt – ngươi có tấm lòng không, ngươi có linh hồn không? Ngươi không phải là súc vật ư? Ta cho ngươi con đường thật mà chẳng đòi hỏi nhận lại điều gì, vậy mà ngươi không theo đuổi. Ngươi có phải là một trong những người tin vào Đức Chúa Trời không? … Cuộc sống của ngươi thật đáng khinh và hèn mọn, ngươi sống trong dơ bẩn và phóng túng, và ngươi không theo đuổi bất kỳ mục tiêu nào; chẳng phải cuộc sống của ngươi hèn mọn nhất trong muôn loài? Các ngươi có mặt mũi nào mà nhìn Đức Chúa Trời? Nếu các ngươi tiếp tục sống như vậy, chẳng phải các ngươi sẽ không thu nhận được điều gì sao? Ngươi đã được trao con đường thật nhưng cuối cùng ngươi có thể đạt được điều đó hay không còn tùy vào sự theo đuổi của riêng ngươi(Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng tôi đã hiểu lầm và đổ lỗi cho Đức Chúa Trời sau cái chết của con trai tôi bởi vì tôi có quan điểm sai lầm trong đức tin. Kể từ khi tin vào Đức Chúa Trời, tôi luôn ấp ủ ý muốn được ban phước lành, nghĩ rằng chỉ cần một người tin thì cả gia đình sẽ được ban phước lành. Sau khi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, tôi vẫn giữ quan điểm này: chừng nào tôi còn cống hiến hết mình cho Đức Chúa Trời, chịu đựng và trả giá, Đức Chúa Trời nhất định sẽ ban phước cho tôi, bảo vệ gia đình tôi và giữ cho họ được bình an vô sự. Đó là lý do tại sao, bất kể bổn phận nào mà hội thánh sắp đặt cho tôi, tôi đều tuân theo, và chủ động thực hiện bất kể khó khăn, cố gắng hết sức để tiếp tục, vui vẻ chấp nhận mọi đau khổ. Dù bị bạn bè và gia đình vu khống, ruồng rẫy, bị chính quyền đàn áp như thế nào, tôi vẫn kiên quyết làm tốt bổn phận của mình và không bao giờ lùi bước. Nhưng khi con trai tôi bất ngờ chết vì điện giật, tôi sống trong đau đớn mỗi ngày, không muốn cầu nguyện hay đọc lời Đức Chúa Trời. Tôi không còn mong muốn mưu cầu, và thậm chí còn kể lể những nỗ lực trước đây để làm cớ lý luận với Đức Chúa Trời, Tôi trách Đức Chúa Trời vì đã không nhìn nhận những hi sinh của mình, không bảo vệ con trai tôi. Đến khi sự việc sáng tỏ, tôi mới thấy rõ vóc giạc thực sự của mình. Trước đây tôi luôn nghĩ rằng tôi có thể hy sinh cho Đức Chúa Trời, chịu đau khổ và trả giá, luôn tận tâm và vâng phục Ngài, chắc chắn sau cùng Ngài sẽ cứu rỗi tôi. Nhưng vóc giạc thực sự của tôi đã được tiết lộ qua cái chết của con trai tôi, và tôi nhận ra mình có quá nhiều động cơ và ý định vụ lợi khác trong quá trình nỗ lực ấy. Thứ tôi cần chỉ là ân điển và phước lành, khi mục tiêu và hy vọng sụp đổ, Tôi không còn một chút ý chí nào, cũng chẳng thiết thi hành bổn phận. Điều này đã cho tôi thấy tất cả những cố gắng của tôi trong từng ấy năm chỉ là để được ban phước, để thỏa thuận với Đức Chúa Trời, chứ không phải là làm thỏa lòng Ngài. Tôi đang lợi dụng Đức Chúa Trời, lừa dối Ngài. Đức tin của tôi thật tồi tệ và thấp hèn. Nhận ra điều này, tôi cảm thấy rất biết ơn Đức Chúa Trời, và căm ghét bản thân mình vì đã tin Ngài lâu năm, nhưng lại không theo đuổi lẽ thật hoặc đứng ra làm chứng cho Ngài. Tôi quỳ xuống trước Đức Chúa Trời, cầu nguyện trong làn nước mắt: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã sống trong một tình cảnh thống khổ suốt thời gian qua, hiểu lầm và đổ lỗi cho Ngài. Hẳn Ngài đau lòng và thất vọng nhiều lắm! Lạy Đức Chúa Trời, con muốn ăn năn sám hối!”.

Rồi một ngày, tôi đọc được điều này trong lời Đức Chúa Trời: “Mỗi người có một đích đến thích hợp. Những đích đến này được quyết định dựa trên thực chất của mỗi cá nhân, và hoàn toàn không liên quan gì đến người khác. Một hành vi xấu xa của đứa con không thể chuyển sang cho cha mẹ của nó, cũng như sự công chính của đứa con không thể chia sẻ với cha mẹ của nó. Một hành vi xấu xa của cha mẹ không thể chuyển sang cho con cái của họ, cũng như sự công chính của cha mẹ không thể chia sẻ với con cái của họ. Mọi người gánh lấy tội lỗi của riêng mình, và mọi người tận hưởng phúc lành của riêng mình. Không ai có thể thay thế cho người khác; đây là sự công chính. Theo quan điểm của con người, nếu cha mẹ nhận được phúc lành, thì con cái của họ cũng có thể được, và nếu con cái phạm tội, thì cha mẹ chúng phải chuộc những tội lỗi đó. Đây là quan điểm của con người và cách làm của con người; đó không phải là quan điểm của Đức Chúa Trời. Kết cục của mỗi người được quyết định dựa trên thực chất đến từ hành vi của họ, và nó luôn luôn được quyết định một cách tương xứng. Không ai có thể gánh tội của người khác; còn hơn thế nữa, không ai có thể nhận hình phạt thay cho người khác. Điều này là chắc chắn(Đức Chúa Trời và con người sẽ cùng bước vào sự nghỉ ngơi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi thấy điểm đến của mỗi người được quyết định tùy theo bản chất của họ, và cho dù họ làm điều thiện hay làm điều ác, nó cũng không liên quan đến những người khác. Trong đức tin và bổn phận, bất kể phải chịu đựng hay phải trả giá như thế nào, tôi vẫn thực thi bổn phận của mình, làm tròn trách nhiệm, nghĩa vụ của một loài thọ tạo. Điều đó không liên quan gì đến số phận hay kết cục của con trai tôi, và nó sẽ chẳng được lợi gì từ gian khổ và nỗ lực của tôi. Một người tin Đức Chúa Trời và cả gia đình đều được ban phước là quan niệm trong Thời đại Ân điển, nhưng bây giờ trong thời kỳ sau rốt, mọi người được phán xét và phân chia theo loại. Đức Chúa Trời quyết định kết quả của mỗi người tùy theo sự thể hiện của họ. Tôi nghĩ vì tôi đã nỗ lực hết mình để làm bổn phận, Đức Chúa Trời nên trông chừng con trai tôi. Quan điểm của tôi thực sự vô lý và không phù hợp với lẽ thật chút nào. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, số phận của vạn vật và mọi người đều nằm trong tay Ngài, tuổi thọ của con trai tôi đã được Đức Chúa Trời định sẵn từ trước. Khi nó ra đi, đó là điểm kết thúc mà Ngài đã sắp xếp cho nó, không ai có thể thay đổi được. Dù con người có tin vào Đức Chúa Trời hay không, tất cả đều là tạo vật trong tay Ngài. Đức Chúa Trời có quyền năng để sắp đặt phù hợp cho bất kỳ sinh vật nào, và bất cứ sự sắp đặt và an bài nào mà Ngài thực hiện, đều là công chính. Tôi nên tuân theo sự tể trị của Ngài. Nhận ra điều này, lòng tôi như được khai sáng, không còn quá đau đớn nữa. Tình trạng của tôi dần dần được cải thiện, tôi cầu nguyện và đọc lời Đức Chúa Trời mỗi ngày, Đôi khi tôi cũng thông công với anh chị em về hoàn cảnh của mình, và cái chết của con trai tôi không ảnh hưởng nhiều đến tôi nữa.

Tháng 11 năm đó, tôi đã trở thành lãnh đạo của Hội Thánh. Tôi rât cảm kích Đức Chúa Trời và hết lòng phụng sự. Không lâu sau, khoản tiền bồi thường cho cái chết của con trai tôi đã được giải ngân, nhưng thật sốc là con dâu tôi muốn chiếm hết mọi thứ. Nó thậm chí còn bí mật lấy hết số tiền con trai tôi dành dụm cả đời và mọi thứ có giá trị của nó. Sau đó nó còn dẫn cháu trai tôi bỏ đi. Tôi nhìn vào căn phòng trống, nghĩ đến khi con trai tôi còn sống, Trước đây, cả gia đình chúng tôi ở bên nhau, vui vẻ hạnh phúc, ấy vậy mà bây giờ, cả người cả của đều không còn. Tôi không thể kìm được những giọt nước mắt cay đắng. Con trai mất, con dâu bỏ đi, Cô ta còn mang theo tất cả những thứ có giá trị. Gia đình chúng tôi tan vỡ và điêu tàn – tôi trắng tay. Tôi đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, và luôn bất chấp khó khăn để thực hiện bổn phận của mình, sau khi trở thành lãnh đạo, ngày nào tôi cũng bận rộn công tác trong hội thánh. Dù khó khăn đến đâu tôi cũng không bao giờ trốn tránh. Tôi thực sự tin tưởng vào Đức Chúa Trời, và thành tâm nỗ lực vì Đức Chúa Trời. Khi con dâu của tôi đối xử với tôi như vậy, sao Đức Chúa Trời lại lặng im? Tôi thấy mình ngày càng bị đối xử tệ, vô cùng cô độc và đau khổ.

Một hôm nọ, đang khóc lóc và đau buồn, thì tôi nhớ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Trong khi trải qua những sự thử luyện, việc người ta yếu đuối, hoặc có sự tiêu cực bên trong họ, hoặc thiếu sự rõ ràng về ý muốn của Đức Chúa Trời hoặc đường hướng thực hành, là chuyện bình thường. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, ngươi phải có đức tin vào công tác của Đức Chúa Trời, và không được chối bỏ Đức Chúa Trời, giống như Gióp. Mặc dù Gióp đã yếu đuối và rủa sả ngày sinh của chính mình, nhưng ông đã không phủ nhận rằng mọi thứ trong cuộc đời con người đều được Đức Giê-hô-va ban cho, và rằng Đức Giê-hô-va cũng là Đấng lấy đi tất cả. Bất kể ông đã bị thử ra sao, ông vẫn duy trì niềm tin này. Trong trải nghiệm của ngươi, bất kể ngươi trải qua sự tinh luyện nào thông qua những lời của Đức Chúa Trời, thì những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi ở nhân loại, tóm gọn lại, là đức tin và tình yêu của họ dành cho Ngài. Những gì Ngài hoàn thiện bằng cách làm việc như thế này là đức tin, tình yêu, và những khát vọng của mọi người. Đức Chúa Trời làm công tác hoàn thiện mọi người, và họ không thể nhìn thấy điều đó, không thể cảm nhận được điều đó; trong những trường hợp như vậy thì cần đến đức tin của ngươi. Đức tin của mọi người cần phải có khi điều gì đó không thể được nhìn thấy bằng mắt thường, và đức tin của ngươi cần phải có khi ngươi không thể buông bỏ các quan niệm của chính mình. Khi ngươi không có sự rõ ràng về công tác của Đức Chúa Trời, điều được đòi hỏi ở ngươi là có đức tin, có một lập trường vững chắc và đứng ra làm chứng. Khi Gióp đạt đến điểm này, Đức Chúa Trời đã hiển linh và phán với ông. Nghĩa là, chỉ từ bên trong đức tin của mình thì ngươi mới có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời, và khi ngươi có đức tin thì Đức Chúa Trời sẽ hoàn thiện ngươi. Không có đức tin, Ngài không thể làm điều này(Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi suy ngẫm lời của Đức Chúa Trời nhiều lần, tôi hiểu rằng, Đức Chúa Trời hoàn thiện đức tin và tình yêu của chúng ta qua gian khổ. Bất kể chúng ta phải đối mặt với điều gì, vấp phải nỗi đau và khó khăn nào, Đức Chúa Trời đều hy vọng rằng chúng ta sẽ dựa vào đức tin của mình để vượt qua và làm chứng cho Ngài. Tôi nghĩ đến việc Gióp mất hết tài sản của gia đình và con cái, biến từ một người giàu có trở thành một kẻ túng thiếu, không một xu dính túi. Nhưng ông vẫn cúi mình và ngợi khen danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời Vì ông không bao giờ nghĩ rằng những của cải này là do tự sức ông mà có được và ông không xem con cái là tài sản riêng của mình. Ông biết rất rõ ràng rằng tất cả đều đến từ Đức Chúa Trời. Nhìn bề ngoài thì có vẻ như bọn cướp đã lấy đi mọi thứ, Nhưng ông không chỉ nhìn bề nổi của sự việc ông chấp nhận mọi điều Đức Chúa Trời ban và vâng phục Ngài. Đức tin và lòng kính sợ Đức Chúa Trời của Gióp đã được tinh luyện thông qua nhiều lần thử luyện và hoạn nạn. Và Áp-ra-ham, người có đứa con trai đầu lòng năm 100 tuổi, nhưng khi Đức Chúa Trời bảo ông dâng con trai mình làm của lễ, mặc dù điều đó thực sự rất đau đớn với Áp-ra-ham, nhưng không thương lượng hay nói lý lẽ với Đức Chúa Trời. Ông biết Đức Chúa Trời đã ban cho ông đứa con trai đó, nên nếu Đức Chúa Trời muốn lấy lại thì nên trả lại cho Ngài. Thấy rằng cả Gióp và Áp-ra-ham đều có lương tâm và lý trí tuyệt vời, đức tin và sự vâng phục của họ đối với Đức Chúa Trời có thể vượt qua thử thách của thực tế. Nhưng nhìn lại bản thân tôi, sau khi con trai tôi chết, tôi đã hiểu sai và đổ lỗi cho Đức Chúa Trời, và sau này khi đã hiểu được một ít ý muốn của Đức Chúa Trời nhờ những lời của Ngài, tôi đã từng ít một phục tùng theo, vì vậy tôi nghĩ rằng mình đã đạt được một số vóc giạc và có thể đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời. Nhưng khi con dâu lấy hết những thứ quý giá của gia đình đi, những lời phàn nàn lại nảy sinh trong tôi. Tôi thấy tôi chỉ muốn tận hưởng những phước lành và phần thưởng của Đức Chúa Trời, nhưng không phải nhận bất kỳ tai họa hoặc bất hạnh nào. Nếu không, tôi sẽ tiêu cực và than vãn. Tôi không có bất kỳ sự tôn kính hay phục tùng thực sự nào đối với Đức Chúa Trời. Những hoàn cảnh này hết lần này đến lần khác, tiết lộ vóc giạc thật sự của tôi. Nếu không, tôi cũng bị lừa dối bởi những hành động bề ngoài của tôi, và nghĩ rằng tiếp tục thực hiện bổn phận sau cái chết của con trai tôi có nghĩa là tôi có sự tận tâm và vóc giạc. Nhưng Đức Chúa Trời biết rõ tâm ý vu lợi và mục tiêu tìm kiếm phước lành sâu thẳm trong tôi. Tôi phải trải qua tất cả những điều này để có thể dần dần thanh lọc và thay đổi. Đức Chúa Trời cho phép tất cả những chuyện đó xảy ra để cứu rỗi tôi. Càng nghĩ về điều đó, tôi càng tự trách mình, tôi quỳ trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời! Bây giờ con thấy rằng sau bao nhiêu năm tin Ngài, con vẫn chưa có đức tin thực sự vào Ngài. Con vẫn than vãn khi biến cố xảy ra, và con hoàn toàn thiếu chứng ngôn. Đức Chúa Trời ơi, con sẵn lòng ăn năn sám hối với Ngài, xin Ngài dẫn dắt để con hiểu mình”.

Sau đó, tôi đọc một đoạn lời của Đức Chúa Trời, nó đã cho tôi thấy rõ hơn về con đường mình theo đuổi trong suốt ngần ấy năm. Lời Đức Chúa Trời phán: “Bởi vì con người ngày nay không sở hữu cùng một nhân tính như Gióp, bản tính và thực chất của họ, và thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời là gì? Họ có kính sợ Đức Chúa Trời không? Họ có lánh khỏi điều ác không? Những ai không kính sợ Đức Chúa Trời hay lánh khỏi điều ác chỉ có thể được tóm tắt bằng những từ này: ‘kẻ thù của Đức Chúa Trời’. Các ngươi thường nói những từ này, nhưng các ngươi chưa bao giờ biết ý nghĩa thật của chúng. Những từ ‘kẻ thù của Đức Chúa Trời’ có thực chất như sau: Chúng không nói rằng Đức Chúa Trời xem con người là kẻ thù, mà rằng con người xem Đức Chúa Trời như kẻ thù. Trước tiên, khi con người bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, ai trong số họ không có mục đích, động cơ, và tham vọng riêng? Mặc dù một phần trong họ tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và đã nhìn thấy sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, nhưng niềm tin của họ nơi Đức Chúa Trời vẫn chứa đựng những động cơ đó, và mục tiêu sau cùng của họ trong việc tin vào Đức Chúa Trời là nhận những phúc lành của Ngài và những điều họ muốn. Trong những trải nghiệm sống của con người, họ thường tự nhủ rằng tôi đã từ bỏ gia đình và sự nghiệp vì Đức Chúa Trời, và Ngài đã cho tôi được gì? Tôi phải tổng lại, và xác nhận rằng – tôi đã nhận được bất kỳ phúc lành nào gần đây chưa? Tôi đã cho đi rất nhiều trong thời gian này, tôi đã làm tốt bấy lâu nay, và chịu đựng rất nhiều – đổi lại Đức Chúa Trời đã cho tôi bất kỳ lời hứa nào chưa? Ngài có nhớ những việc lành của tôi chưa? Kết cục của tôi sẽ là gì? Tôi có thể nhận những phúc lành của Đức Chúa Trời không? … Mỗi người đều liên tục thực hiện những sự tính toán như thế trong lòng họ, và họ đưa ra những yêu cầu đối với Đức Chúa Trời, những yêu cầu mang động cơ, tham vọng, và tâm lý đổi chác của họ. Nói vậy nghĩa là, trong lòng mình, con người liên tục kiểm tra Đức Chúa Trời, liên tục đặt ra những kế hoạch về Đức Chúa Trời, liên tục tranh luận về trường hợp kết cuộc cá nhân của riêng mình với Đức Chúa Trời, và cố gắng moi ra một câu tuyên bố từ Đức Chúa Trời, xem liệu Đức Chúa Trời có thể ban cho họ điều họ muốn hay không. Cùng với việc theo đuổi Đức Chúa Trời, con người không đối đãi với Đức Chúa Trời như một Đức Chúa Trời. Con người luôn cố gắng thỏa thuận với Đức Chúa Trời, không ngừng đòi hỏi ở Ngài, và thậm chí thúc ép Ngài trong mọi bước, được đằng chân lân đằng đầu. Cùng với việc cố gắng thỏa thuận với Đức Chúa Trời, con người cũng tranh luận với Ngài, và thậm chí có những người mà khi những thử luyện xảy đến với họ hay họ thấy mình trong những tình huống nhất định, thường trở nên yếu đuối, thụ động, bê trễ trong công việc, và đầy than oán về Đức Chúa Trời. Từ khi con người mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ đã xem Đức Chúa Trời là một nguồn cung dồi dào, là một con dao gấp đa năng, và họ coi chính mình là chủ nợ lớn nhất của Đức Chúa Trời, như thể việc cố gắng lấy được những phúc lành và lời hứa từ Đức Chúa Trời là quyền và nghĩa vụ vốn có của họ, trong khi trách nhiệm của Đức Chúa Trời là bảo vệ, chăm sóc cho con người, và chu cấp cho họ. Đó là sự hiểu biết cơ bản về ‘niềm tin nơi Đức Chúa Trời’ của tất cả những ai tin Đức Chúa Trời, và đó là sự hiểu biết sâu sắc nhất của họ về khái niệm niềm tin nơi Đức Chúa Trời. Từ bản tính và thực chất của con người cho đến sự theo đuổi chủ quan của họ, không điều gì liên quan đến sự kính sợ Đức Chúa Trời. Mục tiêu của con người trong việc tin vào Đức Chúa Trời không thể liên quan gì đến sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Nói vậy nghĩa là, con người chưa bao giờ xem xét hay hiểu rằng niềm tin nơi Đức Chúa Trời đòi hỏi kính sợ và thờ phượng Đức Chúa Trời. Với tình trạng như vậy, thực chất của con người thật rõ ràng. Đó là thực chất gì? Đó là lòng người hiểm độc, nuôi sự phản bội và lừa dối, không yêu sự công lý, công chính và những điều tích cực, nó đê tiện và tham lam. Lòng người không thể khép kín hơn với Đức Chúa Trời; họ chưa hề dâng nó cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời chưa bao giờ thấy tấm lòng thật của con người, Ngài cũng chưa bao giờ được con người thờ phượng. Cho dù cái giá mà Đức Chúa Trời trả có đắt như thế nào, hoặc Ngài làm bao nhiêu công tác, hoặc Ngài chu cấp cho con người nhiều bao nhiêu, con người vẫn mù quáng và hoàn toàn thờ ơ với tất cả. Con người chưa bao giờ dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời, họ chỉ muốn tự lo cho lòng mình, đưa ra những quyết định của riêng mình – ẩn ý của điều này là con người không muốn theo con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, hoặc vâng phục quyền tối thượng và những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, họ cũng không muốn thờ phượng Đức Chúa Trời như với một Đức Chúa Trời. Đó là tình trạng của con người ngày nay(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Sự mặc khải và phán xét của lời Đức Chúa Trời quá buốt nhói tim tôi. Bốn chữ “kẻ thù của Đức Chúa Trời” thật khiến tôi đau lòng. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sau ngần ấy năm tin Đức Chúa Trời, mình sẽ bị xem là kẻ thù của Ngài, nhưng lời của Đức Chúa Trời đã thực sự tiết lộ sự thật về tôi. “Người không vì mình, trời tru đất diệt” và “Không có lợi, dậy sớm làm gì” là những chất độc Sa-tan mà tôi sống theo. Tôi đã trở nên rất ích kỷ, đê hèn và chỉ biết lợi cho bản thân mình. Tôi đặt lợi ích của bản thân lên trên tất cả và trong mọi sự, tôi chỉ suy xét xem liệu mình có được ban phước hay không, có được lợi ích hay không. Tôi luôn đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu. Tôi bắt đầu tin Đức Chúa Trời vì mục tiêu nhận được ân điển và phước lành. Sau khi tiếp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời, mặc dù tôi không trực tiếp xin Đức Chúa Trời ban những điều này, nhưng trong sâu thẳm tôi cảm thấy vì tôi đã nỗ lực hết mình, Đức Chúa Trời nên trông chừng tôi và ban cho tôi tất cả những phước lành mà tôi muốn. Tôi thậm chí còn trơ trẽn nghĩ rằng đó là những gì tôi đáng được nhận, vì tôi đã phải trả giá, nên Đức Chúa Trời phải bù đắp cho tôi, nếu không thì Ngài không công chính. Khi gia đình được bình an, êm ấm, tôi nhìn thấy ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời, Tôi thực thi bổn phận của mình bằng tất cả sức lực, và cảm thấy mọi gian khổ đều xứng đáng. Khi con trai tôi chết vì điện giật, tôi nghĩ Đức Chúa Trời không bảo vệ gia đình tôi, vì vậy tôi đầy oán thán Ngài. Khi lợi ích của tôi bị xâm phạm, tôi trách Đức Chúa Trời đã không trông chừng tôi. Tôi thậm chí còn dùng nỗ lực và sự đau khổ của mình như một con bài mặc cả để lý luận với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho tôi bao nhiêu ân sủng, tôi đều coi đó là điều hiển nhiên, nhưng khi Ngài làm điều gì đó tôi không thích, tôi trở mặt với Ngài ngay lập tức, kêu ca và phán xét sai về Ngài. Tôi thấy mình vừa ích kỷ vừa ác tâm, không có chút lương tâm hay lý trí gì. Tôi chỉ là một kẻ không tin, và là một kẻ thù đích thực của Đức Chúa Trời! Tôi nghĩ về Phao-lô, người đã đi khắp Châu Âu để loan truyền phúc âm và phải chịu khá nhiều đau khổ, nhưng mọi công sức khó nhọc của ông chỉ để đổi lấy phần thưởng của vương quốc Đức Chúa Trời. Sau khi làm được một chút việc, ông nói: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:7-8). Quả thật là thế. Ý của Phao-lô là, ông đã chịu nhiều đau khổ để rao giảng phúc âm đến nỗi Đức Chúa Trời phải ban cho ông mão triều thiên, đó là những gì ông xứng đáng được hưởng, nếu không thì Đức Chúa Trời không công chính. Ông nói thế để ép buộc Đức Chúa Trời, và về cơ bản là thúc ép, réo đòi, công khai thách thức Đức Chúa Trời. Cuối cùng ông đã xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và bị Ngài trừng phạt. Tôi thấy tôi cũng vậy. Tôi đã đổ lỗi và hiểu lầm Đức Chúa Trời khi tôi không thể nhìn thấy ân điển và phước lành của Ngài, trong lòng tôi phán xét Ngài là không công chính. Chẳng phải tôi đang đi cùng con đường với Phao-lô, chống đối Đức Chúa Trời sao?

Sau đó, tôi lại đọc thêm lời Đức Chúa Trời: “Không có mối tương quan giữa bổn phận của con người và việc liệu họ được ban phước hay bị rủa sả. Bổn phận là việc con người phải thực hiện; đó là thiên hướng của họ và không nên lệ thuộc vào sự tưởng thưởng, điều kiện hay lý do. Chỉ khi đó mới là thực hiện bổn phận của mình. Được ban phước là khi ai đó được làm cho hoàn thiện và vui hưởng các phước lành của Đức Chúa Trời sau khi trải qua sự phán xét. Bị rủa sả là khi tâm tính của ai đó không thay đổi sau khi họ đã trải qua hình phạt và sự phán xét, đó là khi họ không trải nghiệm việc được làm cho hoàn thiện, mà bị trừng phạt. Nhưng bất kể họ được ban phước hay bị rủa sả, những loài thọ tạo cũng phải thực hiện bổn phận của mình, làm những điều họ cần phải làm, và làm những điều họ có thể làm; thực hành được như vậy chính là điều tối thiểu mà người mưu cầu Đức Chúa Trời nên làm. Ngươi không nên thực hiện bổn phận của mình chỉ để được ban phước, và ngươi không nên từ chối hành động vì sợ bị rủa sả. Để Ta bảo các ngươi điều này: Việc thực hiện bổn phận của con người là những gì họ cần phải làm, và nếu họ không thể thực hiện bổn phận của mình, thì đây là sự phản nghịch của họ(Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đúng rồi. Bổn phận là sự giao phó của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta, và đó là trách nhiệm mà chúng ta không thể trốn tránh. Cũng như con cái hiếu kính cha mẹ, điều đó là đúng đắn và hợp lý. Nó phải là vô điều kiện. Là một loài thọ tạo, hy sinh trong đức tin và bổn phận của mình là một trách nhiệm, một nghĩa vụ tôi phải thực hiện. Tôi không nên coi nó như cái cớ hay một con bài mặc cả để thỏa thuận với Đức Chúa Trời. Cho dù cuối cùng tôi được hưởng phước lành hay gặp bất hạnh, tôi vẫn nên phục tùng sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, và thực hiện bổn phận của mình. Trong mọi chuyện sinh lão bệnh tử, thăng trầm họa phúc, cho dù là người tin Đức Chúa Trời hay không tin, ai cũng phải đối mặt với khó khăn cũng như thất bại trong cuộc đời. Sự vắng bóng sớm của con trai tôi và những bất hạnh khác trong gia đình tôi là những điều hoàn toàn bình thường. Nhưng vì tôi có ham muốn phước lành quá lớn và đã hy sinh nhiều điều trong bổn phận của mình, tôi cảm thấy mình đã đóng góp rất nhiều, vì vậy tôi muốn dựa vào những thứ này để đòi hỏi phần thưởng của Đức Chúa Trời. Nếu tôi không đạt được điều tôi muốn, tôi sẽ hiểu lầm và đổ lỗi cho Đức Chúa Trời. Tôi nhận ra bản tính của mình ích kỷ và đê hèn thế nào, và những cảnh tôi vẽ ra hoang đường biết bao nhiêu. Tôi nghĩ đến việc Đức Chúa Trời chịu nỗi đau xác thịt hai lần để cứu rỗi nhân loại, chịu đựng bao nhiêu đau thương và sỉ nhục, nhưng Ngài không bao giờ kể lể rằng mình phải đã đánh đổi bao nhiêu máu, mồ hôi và nước mắt cho điều đó. Ngài chỉ lặng lẽ bày tỏ lẽ thật trong âm thầm, thực hiện sứ mệnh của Ngài để cứu rỗi nhân loại. Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho loài người thật vĩ đại! Là một tín đồ trong nhiều năm, tôi đã được hưởng rất nhiều ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời và rất nhiều sự chăm tưới cũng như cung dưỡng từ lẽ thật, nhưng tôi luôn muốn sử dụng những hy sinh nhỏ nhoi của mình làm vốn, táo tợn yêu cầu Đức Chúa Trời ban phước cho tôi và bảo vệ các thành viên trong gia đình tôi. Tự thấy mình quá trơ trẽn, quá phi lý! Càng nghĩ về điều đó, tôi càng thấy hối hận và tội lỗi, Tôi nhớ tới lời Đức Chúa Trời: “Những người vô nhân tính không có khả năng thực sự yêu mến Đức Chúa Trời. Khi tình cảnh an toàn và bảo đảm, hoặc có thể làm lợi, thì họ hoàn toàn vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng một khi những gì họ mong muốn bị tổn hại hoặc cuối cùng bị bác bỏ, họ nổi loạn ngay lập tức. Thậm chí chỉ trong một đêm, họ có thể đi từ một người tươi cười, ‘tốt bụng’ đến một tên sát nhân xấu xí và tàn bạo, bất thình lình đối xử với ân nhân của mình ngày hôm qua như là kẻ thù không đội trời chung, mà chẳng có lí do chính đáng gì. Nếu những con quỷ này không bị đuổi ra, những con quỷ này mà sẽ giết hại không chớp mắt, thì chẳng phải chúng sẽ là nguồn gốc của nguy hiểm tiềm ẩn sao?(Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi cảm thấy xấu hổ không còn chỗ trốn. Tôi chính xác là loại người này. Tôi tin vào Đức Chúa Trời để được ban phước, và khi mong muốn của tôi không được thực hiện, khi gia đình tôi gặp chuyện gì đó, tôi lập tức chống lại Đức Chúa Trời và căm phẫn Ngài, thậm chí còn coi Ngài như kẻ thù. Chỉ nhờ sự phơi bày trong lời Đức Chúa Trời, tôi mới thấy rõ bộ mặt thật của mình. Hóa ra bản tính của tôi là chống lại Đức Chúa Trời. Nhận ra điều này khiến tôi vô cùng hối hận và thấy tội lỗi. Tôi quỳ gối trước Đức Chúa Trời và rơi lệ cầu nguyện, lòng đầy hối hận, “Lạy Đức Chúa Trời, con chính xác là loại người thiếu nhân tính như Người mô tả. Con muốn lấy chút việc mình làm để thỏa thuận với Ngài. Con đã lừa dối và chống lại Ngài – Con nợ Ngài rất nhiều! Lạy Đức Chúa Trời, con sẵn lòng ăn năn với Ngài, cho dù Ngài sắp xếp như thế nào, con vẫn sẵn sàng tuân theo và chấp nhận, dốc hết sức mình làm tròn bổn phận để đền đáp tình yêu của Ngài!”. Sau đó, tôi đã nỗ lực cầu nguyện với Đức Chúa Trời và đọc những lời của Ngài nhiều hơn cũng như dồn hết tâm sức cho bổn phận của mình. Bằng cách này, tôi đã lấy lại được sự bình an và niềm vui, và tôi không còn bị nhận chìm trong nỗi đau mất con trai.

Mặc dù đây là một trải nghiệm đầy đau thương, đó chính xác là kiểu đau khổ cho tôi thấy mục đích thấp hèn của tôi là mưu cầu phước lành, cũng như sự bại hoại và uế tạp trong đức tin, tôi cũng hiểu được bản chất Sa-tan chống lại Đức Chúa Trời của mình, Nếu không trải qua những khó khăn này, cũng như không có sự phơi bày của sự thực, thật khó để tôi nhận ra vóc giạc thật sự của mình. Trải nghiệm này thật sự cho tôi thấy rằng càng gặp phải những thứ không tốt đẹp, thì có nhiều lẽ thật để tìm kiếm. Tình yêu và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta ở đằng sau nó. Cảm tạ Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Quá khứ ô nhục của tôi

Bởi Lý Nghị, Trung Quốc Tháng 8 năm 2015, tôi cùng gia đình chuyển đến Tân Cương. Tôi nghe nói Trung Cộng áp dụng những biện pháp giám sát...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger