Sự cay đắng khi làm kẻ chiều lòng người
Năm ngoái, anh Tân, người cùng đi truyền bá Phúc Âm với tôi, đã bị tước bổn phận. Khi tôi hỏi anh ấy về chuyện đó, anh ấy bảo là trong vài năm qua, anh ấy không làm tốt bổn phận mà hội thánh giao phó, cứ làm theo cách của mình, gây gián đoạn nghiêm trọng công tác của hội thánh, vì thế mới bị tước bổn phận. Thấy anh ấy hối hận và đau buồn đến thế, tôi thấy tội nghiệp cho anh ấy. Khi chúng tôi làm việc chung, tôi để ý thấy anh ấy bất cẩn và làm theo cách của riêng mình. Tôi đã muốn chỉ ra cho anh ấy thấy, để giúp anh ấy phản tỉnh và hiểu mình, nhưng đến lúc sắp nói ra, tôi lại lưỡng lự. Tôi cho rằng khi tuyên bố tước bổn phận, hẳn lãnh đạo đã xử lý anh ấy dữ lắm, nên anh ấy đã khá khổ sở rồi. Nếu tôi cũng nói như thế nữa, chẳng phải là xát muối vào vết thương sao? Liệu anh ấy có nghĩ tôi thiếu cảm thông không? Hơn nữa, hẳn từ lâu lãnh đạo đã nói đến những vấn đề mà tôi để ý thấy rồi, nên tôi quyết định chỉ an ủi anh ấy thôi. Tôi bảo anh ấy, “Tôi chắc chắn anh đã thu hoạch nhiều trong những năm truyền bá Phúc Âm, anh có nhiều thấu suốt mà. Nhiều anh chị em trong hội thánh chỉ vừa mới tin Đức Chúa Trời và chưa có kinh nghiệm truyền bá Phúc Âm. Anh có thể giúp đỡ họ khi về đến nhà”. Ngạc nhiên thay, anh ấy lại bảo tôi, “Người anh em à, nghe anh nói thế làm tôi buồn lắm. Cứ tưởng anh sẽ nói gì đó để giúp tôi, để tôi có thể phản tỉnh và biết mình hơn, như thế mới có ích cho sự sống của tôi. Nhưng thay vào đó, anh lại khen tôi dù tôi tuột dốc đến mức này, như thế tôi sẽ thấy việc mình bị tước bổn phận là chuyện nhỏ và nghĩ tôi giỏi hơn người khác. Anh đang làm phần việc của Sa-tan, đẩy tôi xuống gần địa ngục hơn. Chuyện này làm tôi nhớ đến câu Đức Chúa Jêsus khiển trách Phi-e-rơ: ‘Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta!’ (Ma-thi-ơ 16:23). Những kiểu khách sáo thế này chẳng giúp người ta tiến bộ, anh không nên nói kiểu đó nữa. Như thế không phải yêu thương mà là gây hại và hủy hoại họ đấy”. Lúc đó, tôi thật sự thấy hổ thẹn và chỉ muốn tìm cái hố mà chui xuống cho rồi. Tôi biết anh Tân không có nhiều thay đổi tâm tính sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, và anh ấy chưa hề có nhiều thành quả trong bổn phận – một tình trạng nguy hiểm. Nhưng tôi chỉ nói toàn những lời tốt đẹp. Tôi đã xảo trá, nói năng khách sáo và khen ngợi theo kiểu thế tục. Như thế chẳng phải là lừa bịp sao? Việc bị tước bổn phận là cơ hội tốt để anh Tân phản tỉnh và biết mình hơn. Nếu anh ấy có thể tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh và thật lòng ăn năn, thì thất bại đó có thể là điểm xoay chiều trong đức tin của anh. Nhưng tôi lại là vật cản, nói những lời dỗ dành không thật lòng để chơi đùa với cảm giác của anh ấy và khiến anh ấy lạc lối. Tôi đã làm tay sai cho Sa-tan. Đức Chúa Trời đã dốc hết sức để cứu chuộc mọi người, nhưng Sa-tan cố đủ mọi cách để khiến người ta xa Ngài, để lôi họ xuống địa ngục. Việc làm vô lý của tôi chỉ làm hại người anh em tôi. Lúc đó, tôi thấy sợ hãi vô cùng, nên tôi tìm và thấy một vài đoạn lời Đức Chúa Trời giúp tôi nghĩ cho thông vấn đề của mình.
Đức Chúa Trời phán: “Nếu ngươi có mối quan hệ tốt với một anh hay chị em và họ bảo ngươi chỉ ra điều gì sai ở họ, ngươi nên làm điều đó như thế nào? Điều này liên quan đến cách ngươi tiếp cận vấn đề. Ngươi tiếp cận bằng cách thực hành lẽ thật, hay ngươi dùng các triết lý sống? Vấn đề là gì khi ngươi có thể thấy rõ ai đó có vấn đề nhưng không nói thẳng với họ để tránh đụng chạm, và thậm chí ngươi còn bao biện rằng: ‘Vóc giạc của tôi bây giờ nhỏ bé và tôi không hiểu rõ các vấn đề của anh/chị. Khi nào hiểu, tôi sẽ nói với anh/chị’? Điều này liên quan đến một triết lý sống. Chẳng phải đây là cố lừa dối người khác sao? Ngươi nên nói trong phạm vi ngươi có thể thấy rõ; và nếu điều gì đó không rõ ràng với ngươi thì cứ nói như vậy. Đây là nói lên những gì trong lòng ngươi. Nếu ngươi có những suy nghĩ nhất định và những điều nhất định trông hiển nhiên với ngươi, nhưng ngươi lại sợ xúc phạm mọi người, sợ làm tổn thương cảm xúc của họ, và vì vậy chọn không nói gì, thì đây là cách sống theo triết lý trần tục. Nếu ngươi phát hiện ra ai đó có vấn đề hoặc đã đi chệch hướng, thì ngay cả khi ngươi không thể giúp họ bằng tình yêu thương, chí ít ngươi phải chỉ ra vấn đề để họ có thể phản tỉnh về nó. Nếu ngươi lờ đi, chẳng phải điều này gây hại cho họ sao?” (“Chỉ bằng cách theo đuổi lẽ thật thì một người mới có thể giải quyết được các quan niệm và sự hiểu lầm của họ về Đức Chúa Trời” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Còn có một đoạn lời Đức Chúa Trời vạch trần con người xảo quyệt: “Họ không có tình yêu đối với những điều tích cực, họ không khao khát sự sáng, và họ không yêu con đường của Đức Chúa Trời hay lẽ thật. Họ thích chạy theo các xu hướng phàm tục, họ say mê địa vị và thanh thế, họ thích nổi trội giữa những xu hướng xấu xa, họ là người ủng hộ cái ác và các thế lực của Sa-tan. Trong lòng họ tôn sùng các vĩ nhân và người nổi tiếng, họ tôn sùng các quỷ vương, và trong lòng họ không theo đuổi lẽ thật hay những điều tích cực, mà chủ trương học hỏi. Trong lòng họ không tán thành những người theo đuổi lẽ thật và chứng thực cho Đức Chúa Trời; thay vào đó, họ tán thành và ngưỡng mộ kẻ xấu và những người có tài năng đặc biệt. Họ không bước đi con đường của đức tin nơi Đức Chúa Trời và theo đuổi lẽ thật, mà theo đuổi cái ác và quyền lực, họ cố gắng trở thành một người bí hiểm và quỷ quyệt, họ cố gắng hòa mình vào những tầng lớp thượng lưu của xã hội để trở thành một nhân vật oai phong, nổi tiếng. Họ muốn có thể luồn lách hoàn toàn dễ dàng vào bất kỳ đám đông nào, để ra sức vận dụng mọi dạng thủ đoạn, mưu kế và chiến thuật với nghệ thuật thiện xảo, và được chào đón với sự tôn sùng và hoan nghênh ở bất cứ nơi nào họ đến; họ muốn là thần tượng đối với mọi người. Đó là dạng người họ muốn trở thành. Đây là dạng con đường gì? Đây là con đường của ma quỷ, con đường tà ác. Nó không phải là con đường mà một tín hữu đi. Để lừa lòng tin cá nhân của mọi người, để khiến người ta tôn thờ và làm theo họ, họ sử dụng các triết lý của Sa-tan, lô-gic của hắn, họ dùng mọi âm mưu, mọi thủ đoạn của hắn, trong mọi bối cảnh. Đây không phải là con đường mà những người tin Đức Chúa Trời phải đi; những người như vậy không những không được cứu rỗi mà cũng sẽ gặp phải sự trừng phạt của Đức Chúa Trời – về điều này thì không nghi ngờ gì nữa” (“Niềm tin tôn giáo sẽ không bao giờ dẫn đến sự cứu rỗi” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt).
Lời Đức Chúa Trời thật sự phơi bày những động cơ tà ác và bản tính bại hoại của tôi. Anh Tân đã cẩu thả trong bổn phận, rồi cũng không để tâm vào bổn phận sau khi bị tước bổn phận. Anh ấy cứ bảo thủ ý mình trong công việc, lại không theo nguyên tắc, thích gì làm nấy. Tôi đã thấy rõ những hành vi của anh, nhưng tôi làm kẻ chiều lòng người, sợ xúc phạm anh và không hề chỉ ra cho anh thấy. Anh lại bị tước bổn phận và mở lòng thông công với tôi về những thất bại của mình. Đáng ra tôi phải nói về những vấn đề của anh và thông công về ý muốn của Đức Chúa Trời với anh để giúp anh phản tỉnh và ăn năn với Đức Chúa Trời. Như thế mới là thật sự yêu thương, mới có ích cho anh ấy và giúp anh ấy tiến bộ. Nhưng tôi lại làm kẻ chiều lòng người, nói toàn những lời rác rưởi gây lạc lối. Chẳng phải tôi đang cố lừa anh ấy quý mến tôi sao? Tôi đã muốn anh ấy cảm thấy rằng khi anh ấy gặp thất bại, lãnh đạo chỉ xử lý và phơi bày, nhưng tôi thì nồng hậu và an ủi anh. Rồi anh ấy sẽ mang ơn và có ấn tượng tốt với tôi. Tôi đã dùng những triết lý trần gian của người ngoại đạo, như “Đánh người đừng đánh vào mặt, chửi người đừng nhằm điểm yếu”. “Lời thuận tình tạo hữu hảo, lời bộc trực gây hiềm thù”, “Thấy lỗi của bạn chớ nói gì thì tình bạn trường tồn tốt đẹp” vân vân. Chúng đều là những châm ngôn sống xấu xa của thế gian, hoàn toàn là triết lý của Sa-tan. Những người ngoại đạo tương tác với nhau dựa trên lôgic của Sa-tan, lúc nào cũng muốn lấy lòng và giả nhân giả nghĩa. Chẳng nói ra lời nào chân thật, thực lòng. Họ toàn giả vờ và cố đoán ý người ta, lời nào nói ra cũng đầy chiêu trò. Nhưng là một người tin Đức Chúa Trời đã lâu, đã đọc quá nhiều lời Ngài, thế mà tôi vẫn không thể nói ra được lời nào phù hợp với lẽ thật. Thay vào đó, tôi dùng những triết lý Sa-tan hệt như một người ngoại đạo, và tôi là tay sai của Sa-tan, ngày càng lươn lẹo và dối trá. Thật thảm hại! Chuyện này khiến tôi nhớ lại lời Đức Chúa Trời: “Nếu các tín hữu chỉ tùy tiện và không kiềm chế trong lời nói của mình và hành xử như những người ngoại đạo, thì họ thậm chí còn xấu xa hơn những người ngoại đạo; họ là những con quỷ hiện nguyên hình” (Lời cảnh báo cho những ai không thực hành lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ngươi càng ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ càng có nhiều trải nghiệm. Nếu ngươi vẫn sống trong thế gian như một con thú, miệng của ngươi tự xưng niềm tin vào Đức Chúa Trời nhưng lòng ngươi lại ở một nơi khác, và nếu ngươi vẫn học những triết lý sống trần tục, thì tất cả những nỗ lực trước đây của ngươi chẳng phải là vô ích sao?” (Về trải nghiệm, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Qua nhiều năm tin Đức Chúa Trời, tôi đã không đạt được lẽ thật, cũng không trở thành người đơn sơ, trung thực, mà vẫn bám chặt đường lối thế tục. Tôi thấy mình chẳng phải là người yêu mến và tiếp nhận lẽ thật. Tôi đã đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, trong lời nói và hành động, con chẳng giống hình tượng con người chút nào. Con thật quá tà ác và quỷ quyệt! Con muốn thật lòng ăn năn và thôi sống theo những triết lý thế gian của Sa-tan”.
Qua trải nghiệm và bài học đó, sau đó, trong tương tác với các anh chị em và trong bổn phận, tôi có thể tỉnh táo và thực hành nói năng sao cho có ích cho mọi người, chứ không làm kẻ chiều lòng người lươn lẹo. Nhưng tôi đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc đến nỗi khi tư lợi của tôi bị ảnh hưởng, là tôi không thể kìm nổi mà cứ tái phạm chuyện đó.
Sau đó, tôi làm việc cùng anh Trần để sản xuất video. Anh ấy có chính kiến mạnh và am hiểu công tác đó nhiều hơn tôi xa. Tôi cảm thấy mình nên khiêm tốn để anh ấy không có ấn tượng rằng tôi là kẻ ngu mà ngạo. Vậy nên, khi thực hiện bổn phận, tôi cố giữ tinh thần “Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hoà, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất”. Nhiều lúc, tôi thấy ra vài vấn đề và sai lỗi trong những video anh ấy làm và đã đề nghị sửa chúng, nhưng ấy chẳng nghĩ những cái tôi nêu ra là vấn đề. Anh ấy chỉ viện cớ và nêu ý kiến. Dù tôi không hoàn toàn đồng ý với anh ấy, nhưng lại lo là nếu nói thêm thì sẽ khiến chúng tôi bị đình trệ công việc hoặc cãi vã, rồi mọi người sẽ bảo tôi là kẻ ngoan cố. Nghĩ như thế, tôi cứ cho qua hết. Nhưng thay vì cầu nguyện và tìm kiếm, tôi cứ giữ kiểu đó với anh ấy suốt mấy tháng, rồi khi video chúng tôi làm nảy sinh vấn đề nhiều chỗ, mà tôi nhận ra chúng là những vấn đề tôi đã chỉ ra từ đầu, và chúng tôi phải làm lại những video đó. Cuối cùng, anh Trần bị tước bổn phận vì kiêu ngạo và ngoan cố. Kể cả khi những video đó cuối cùng cũng được hoàn thành, nhưng tôi chẳng thấy bình an hay an tâm chút nào. Tôi cứ thấy bứt rứt và có lỗi. Tôi đã thấy được mình luôn làm kẻ chiều lòng người trong bổn phận để duy trì sự hòa hợp bề ngoài, thế nên tôi chẳng bảo vệ nguyên tắc vì sợ xúc phạm người khác. Tôi chẳng phải là một cộng sự đích thực, và tôi đã cản trở công tác làm video của nhà Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy cực kỳ đau lòng. Rồi lãnh đạo đến nói chuyện và vạch trần tôi, nói rằng: “Anh đã không bảo vệ nguyên tắc của lẽ thật trong khi công tác với các anh chị em. Anh biết rõ rằng ý kiến của người ta sai, mà vẫn cứ mù quáng làm theo họ để khỏi xảy ra xung đột và bảo vệ hình ảnh của mình. Như thế nghĩa là phải làm lại các video, và nó làm chậm tiến độ công tác của ta”. Rồi chị ấy còn nói: “Anh có khuynh hướng gió chiều nào ngả chiều ấy, anh cần tìm kiếm lẽ thật và giải quyết chuyện này ngay lập tức”. Nghe những lời đó, tôi đau lắm. Tôi đã cầu nguyện và suy ngẫm về chuyện này suốt mấy ngày tiếp theo, còn tìm kiếm lời Đức Chúa Trời để giúp tôi phản tỉnh.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Bề ngoài, lời nói của những kẻ địch lại Đấng Christ có vẻ đặc biệt tử tế, có văn hóa và xuất sắc. Bất kỳ ai vi phạm nguyên tắc, nhiễu sự và xâm phạm công tác hội thánh, đều không bị vạch trần hay phê bình bất kể họ là ai; những kẻ địch lại Đấng Christ làm ngơ, để mọi người nghĩ rằng họ cao thượng trong mọi vấn đề. Mọi sự bại hoại và việc làm xấu xa của mọi người đều gặp được sự độ lượng và khoan dung. Họ không giận dữ hay nổi cơn thịnh nộ, họ sẽ không khó chịu và đổ lỗi cho người ta khi họ làm điều gì đó sai trái và gây tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Bất kể ai phạm điều ác và làm nhiễu loạn công tác của nhà Đức Chúa Trời, họ cũng không để ý đến, như thể việc này không liên quan gì đến họ, và họ sẽ không bao giờ xúc phạm người ta vì điều đó. Họ quan tâm đến điều gì nhất? Quan tâm đến việc bao nhiêu người nể phục họ, và bao nhiêu người nhìn thấy họ khi họ chịu khổ, và ngưỡng mộ họ vì điều đó. Những kẻ địch lại Đấng Christ tin rằng không bao giờ được chịu khổ nếu không thu được gì cả; bất kể họ phải chịu đựng khó khăn gì, họ phải trả giá như thế nào, họ làm những việc lành gì, họ quan tâm, ân cần và yêu thương người khác như thế nào, tất cả những điều này đều phải được thực hiện trước mặt người khác, phải có nhiều người hơn nữa nhìn thấy điều đó. Và mục đích của họ khi hành động như vậy là gì? Để thu phục mọi người, khiến mọi người cảm thấy ngưỡng mộ và tán thành đối với những hành động của họ, đối với hành vi của họ, đối với tính cách của họ. Thậm chí có những kẻ địch lại Đấng Christ còn cố gắng thiết lập hình ảnh bản thân là một người tốt thông qua những hành xử tốt đẹp bề ngoài này, hầu cho nhiều người đến với họ để tìm kiếm sự giúp đỡ. … Những hành động của họ không chỉ đơn giản là khơi dậy sự tôn kính trong lòng mọi người – chúng còn cho họ một vị trí ở đó nữa. Những kẻ địch lại Đấng Christ muốn chiếm vị trí của Đức Chúa Trời. Đây là điều họ hướng tới khi làm những việc này. Rõ ràng là hành động của họ đã mang lại kết quả sớm: trong lòng những người thiếu sáng suốt này, những kẻ địch lại Đấng Christ bây giờ đã có chỗ đứng, giờ đây có những người tôn kính và ngưỡng mộ họ, và đó chính là mục tiêu của những kẻ địch lại Đấng Christ” (“Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, tham vọng của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ những lợi ích ấy để đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 10)” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Đức Chúa Trời tỏ lộ rằng những kẻ địch lại Đấng Christ thì tà ác và hèn hạ, chúng cư xử và nói năng tử tế để mê hoặc người ta, lấy lòng người ta để người ta nghĩ chỉ có chúng mới biết thông hiểu, nên họ tìm đến chúng để được an ủi. Chuyện đó khiến người ta ngày càng xa Đức Chúa Trời, và những kẻ địch lại Đấng Christ chiếm lấy chỗ của Ngài trong lòng họ. Tôi thấy ra mình đã hành động như thế. Trong bổn phận, các anh chị em cần phải nói ra những vấn đề và giúp đỡ nhau, nhưng tôi đã tránh bất kỳ chuyện gì gây mếch lòng để bảo vệ hình ảnh của mình. Tôi đã thấy việc sản xuất video của anh Trần có vấn đề, thế mà tôi chẳng bảo vệ nguyên tắc của lẽ thật, cứ thuận theo chiều gió, làm kẻ chiều lòng người và không thực hành lẽ thật. Tôi muốn mọi người nghĩ tôi không quá kiêu ngạo, nghĩ tôi bao dung và thông hiểu, nghĩ tôi biết cảm thương. Tôi đã muốn khiến mọi người tôi tiếp xúc được vui vẻ để họ thích tôi và có ấn tượng tốt về tôi. Để đạt được mục tiêu bỉ ổi này, tôi chẳng ngại làm hại công tác của hội thánh để duy trì hình ảnh đẹp của mình. Tôi đã quá ích kỷ và tà ác. Từ sự phán xét và tỏ lộ của Đức Chúa Trời, tôi đã thấy rằng khi làm kẻ chiều lòng người là tôi đã đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Nhận ra chuyện này, tôi cảm thấy quá tội lỗi. Rồi tôi tiếp tục phản tỉnh bản thân. Nghĩ về suốt thời gian có đức tin, tôi luôn mang bộ mặt tử tế với người khác. Mỗi khi thấy ai đó có vẻ có học thức và tử tế là tôi lại cố noi theo họ. Tôi muốn mình có vẻ dễ tính và dễ gần để bảo vệ hình ảnh của mình trong mắt anh chị em. Khi thấy người khác có vấn đề hoặc tỏ lộ sự bại hoại, tôi hầu như không bao giờ lên tiếng, sợ rằng sẽ làm mếch lòng họ. Tôi nhớ trước đây, khi tôi làm chấp sự Phúc Âm, tôi luôn cố hết sức để ẩn mình và nói năng khiêm tốn. Khi thấy người khác quá tùy tiện trong bổn phận và vô nguyên tắc, tôi sợ nếu nói ra sẽ khiến họ bị kìm hãm, khiến người khác đánh giá xấu về tôi, nên vì cái gọi là tình yêu và mong muốn giúp đỡ, tôi đã chăm chút lời nói, nhẹ nhàng và không trực tiếp. Tôi chưa hề chỉ thẳng mặt ai, cũng không giúp họ thấy tầm nghiêm trọng của việc họ làm. Tôi chỉ nói bóng gió với họ Khi phải tước bổn phận ai đó và thông công với họ, tôi cảm thấy việc đó quá dễ gây mếch lòng và chẳng biết phải nói gì. Tôi luôn muốn người khác thông công thay tôi, còn tôi cứ tránh mặt. Tôi đã cố hết sức để bảo vệ địa vị và hình ảnh của mình như thế, các anh chị em bảo rằng tôi chẳng hề cao ngạo, lại dễ gần. Họ còn tiến cử tôi làm lãnh đạo vì lý do đó, nghĩ tôi có nhân tính tốt và không đàn áp người khác. Tôi đã cảm thấy rất tự mãn. Những kẻ địch lại Đấng Christ dùng hành vi tốt bề ngoài để mê hoặc và đánh bẫy người ta, cố chiếm vị trí của Đức Chúa Trời trong lòng họ. Tôi nhận ra mình có cùng động cơ và mục tiêu như thế. Tôi chưa hề phản tỉnh về những động cơ hèn hạ và bản tính bại hoại của mình, cảm thấy làm người “tử tế” đâu có gì là sai. Làm thế thật dễ để được người khác tán thành và ủng hộ, được tán dương. Có vẻ đó là cách sống rất tuyệt. Nhưng giờ tôi có thể thấy tôi đã tạo dựng địa vị bản thân theo cách vụng trộm kín đáo nhất, lừa bịp người khác, thu phục họ, hành xử như một kẻ địch lại Đấng Christ để phá hoại công tác của Đức Chúa Trời.
Trong khi tĩnh nguyện, tôi đã đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời, chúng thật sự gợi lên cảm xúc trong tôi. “Việc không thực hành lẽ thật khi điều gì đó xảy ra với ngươi là một sự vi phạm. Và nếu ngươi vẫn không thực hành lẽ thật khi điều gì đó xảy ra với ngươi lần nữa – nếu ngươi từ bỏ lẽ thật để bảo vệ lợi ích, sự phù phiếm và kiêu hãnh của riêng mình – thì đây là loại hành vi gì? Có phải đó là phạm điều ác không? Nếu ngươi không thực hành lẽ thật tại bất kỳ thời điểm nào và những sự vi phạm của ngươi ngày càng nhiều hơn, thì kết cuộc của ngươi đã được xác định. Có thể thấy rõ là nếu tất cả các vi phạm của ngươi được tổng hợp lại, và thêm vào những lựa chọn của ngươi, những điều ngươi theo đuổi, và ý muốn chủ quan của ngươi, cũng như các hướng đi và những con đường mà ngươi đã chọn khi thực hiện mọi việc – nếu tất cả những điều này được gộp lại, thì có thể xác định kết cuộc của ngươi: ngươi sẽ bị ném vào địa ngục, có nghĩa là ngươi sẽ bị trừng phạt. Các ngươi nói xem, đây có phải là điều không đáng kể không? Khi cộng gộp lại, tất cả những vi phạm của ngươi là một bản trích yếu những việc ác, và do đó ngươi phải bị trừng phạt – là hậu quả cuối cùng khi ngươi tin Đức Chúa Trời nhưng không tiếp nhận lẽ thật” (“Phần quan trọng nhất của việc tin vào Đức Chúa Trời là đưa lẽ thật vào thực hành” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi đã luôn làm kẻ chiều lòng người và không thực hành lẽ thật. Khi hợp tác với người khác, tôi luôn hy sinh công tác của hội thánh vì động cơ tà ác là lấy lòng người khác. Làm thế thật hoàn toàn tà ác. Nếu tôi cứ theo con đường đó, cuối cùng tôi sẽ bị Đức Chúa Trời loại bỏ và trừng phạt. Từ lời Đức Chúa Trời, tôi có thể cảm nhận được tâm tính công chính của Ngài và thấy Ngài khinh ghét những kẻ không thực hành lẽ thật thế nào. Tôi muốn ăn năn ngay lập tức, tìm kiếm lẽ thật và giải quyết tâm tính chiều lòng người của mình.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Khi mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời đã trở nên bình thường, thì ngươi cũng sẽ có mối quan hệ bình thường với mọi người. Để xây dựng một mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, tất cả phải được xây dựng trên nền tảng của lời Đức Chúa Trời, ngươi phải có thể thực hiện bổn phận của mình theo lời Đức Chúa Trời và những gì Đức Chúa Trời yêu cầu, ngươi phải chấn chỉnh quan điểm của mình, và phải tìm kiếm lẽ thật trong mọi sự. Ngươi phải thực hành lẽ thật khi hiểu nó, và bất kể điều gì xảy ra với ngươi, ngươi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm với tấm lòng vâng phục Đức Chúa Trời. Thực hành như vậy, ngươi sẽ có thể duy trì mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời. Cùng với việc thực hiện bổn phận của mình một cách đúng đắn, ngươi cũng phải đảm bảo rằng mình không làm gì không có lợi cho lối vào sự sống của những người được Đức Chúa Trời chọn, và không nói điều gì không giúp ích cho các anh chị em. Chí ít, ngươi không được làm điều gì trái với lương tâm của mình và tuyệt đối không được làm bất cứ điều gì đáng hổ thẹn. Đặc biệt, với những điều phản nghịch hoặc chống đối Đức Chúa Trời, ngươi tuyệt đối không được làm, và ngươi không được làm bất cứ điều gì gây nhiễu loạn công tác hoặc đời sống hội thánh. Hãy công bằng và chính trực trong mọi việc ngươi làm và đảm bảo rằng mọi hành động của ngươi đều có thể trình lên trước Đức Chúa Trời. Dù xác thịt có thể đôi lúc yếu đuối, nhưng ngươi phải biết đặt lợi ích của gia đình Đức Chúa Trời lên hàng đầu, không tham tư lợi, không làm bất cứ điều gì ích kỷ hay đáng khinh, thường xuyên phản tỉnh về bản thân mình. Theo cách này, ngươi sẽ có thể thường xuyên sống trước Đức Chúa Trời, và mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ trở nên hoàn toàn bình thường” (Quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời như thế nào? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đối với tất cả những ai thực hiện bổn phận của mình, cho dù họ hiểu lẽ thật sâu sắc hay nông cạn như thế nào, thì cách thực hành đơn giản nhất để bước vào thực tế của lẽ thật cũng là nghĩ đến những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời trong mọi việc, và buông bỏ những ham muốn ích kỷ, các ý định cá nhân, động cơ, danh tiếng và địa vị. Hãy đặt những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời lên trước tiên – đây là điều chí ít người ta nên làm. Nếu một người thực hiện bổn phận của mình mà thậm chí không thể làm được nhiêu đó, thì làm sao có thể nói là họ thực hiện bổn phận được? Đây không phải là việc thực hiện bổn phận của một người. Trước tiên, ngươi nên xem xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, xem xét công tác của hội thánh và đặt những điều này lên trên hết; chỉ sau đó ngươi mới có thể nghĩ về sự ổn định về tình trạng của ngươi hoặc cách người khác nhìn nhận ngươi. Các ngươi chẳng cảm thấy rằng sẽ dễ dàng hơn một chút khi ngươi chia nó thành các bước này và thực hiện một số thỏa hiệp sao? Nếu ngươi thực hành như thế này trong một thời gian, ngươi sẽ cảm thấy rằng việc làm hài lòng Đức Chúa Trời là không khó. Thêm nữa, ngươi phải có thể làm tròn trách nhiệm của mình, thi hành nghĩa vụ và bổn phận của mình, gạt bỏ những tham muốn ích kỷ của mình, gạt bỏ những ý định và động cơ của riêng mình, cân nhắc đến ý muốn của Đức Chúa Trời, và đặt lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, công tác của hội thánh cũng như bổn phận ngươi nên thực hiện lên trên hết. Sau khi trải nghiệm những điều này một thời gian, ngươi sẽ cảm thấy đây là một cách ứng xử tốt. Đó là sống thật thà và trung thực, không phải là kẻ thấp hèn hay vô tích sự, sống một cách công minh chính trực và đáng trọng hơn là đáng khinh và hèn hạ. Ngươi sẽ cảm thấy rằng đây là cách một người nên sống và hành động” (“Trao tấm lòng chân thật của mình cho Đức Chúa Trời và ngươi có thể có được lẽ thật” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Những ai tìm kiếm lẽ thật và đứng về phía Đức Chúa Trời, những ai buông bỏ dục vọng cá nhân và bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời thì sống trọn hình tượng con người và có thể có mối quan hệ bình thường với người khác. Sau đó, tôi bắt đầu thực hành quan tâm đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời trước hết trong bất kỳ hoàn cảnh nào, và cố đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời trong mọi sự. Sau khi làm như thế một thời gian, tôi thấy mình có quá nhiều cơ hội để thực hành lẽ thật trong cuộc sống thường nhật và trong bổn phận. Ví dụ như, khi hội họp, Tôi để ý thấy một số người nói giáo điều hoặc nói lạc đề, hoặc có người nói dông nói dài, kéo dài thời gian họp, gây hại cho đời sống hội thánh, nhưng trưởng nhóm không cố chỉnh đốn chuyện đó. Mới đầu, tôi chẳng muốn nói gì, nhưng tôi cảm thấy có lỗi và tôi biết mình lại làm kẻ chiều lòng người. Tôi liền cầu nguyện ngay lập tức. Đến cuối cuộc họp, tôi đưa ra những vấn đề mình để ý thấy và đề xuất giải pháp. Tôi cảm thấy việc từ bỏ bản thân và bảo vệ lợi ích nhà Đức Chúa Trời thật sự khiến tôi được bình an. Còn nữa, một người anh em tôi quen biết rõ đã bị tước bổn phận, và anh ấy bảo tôi chuyện này là vì anh ấy tìm kiếm sự an hưởng và gian xảo trong bổn phận, làm việc không hiệu quả. Ban đầu, tôi muốn an ủi anh ấy và khiến anh ấy nghĩ tốt về tôi, nhưng rồi tôi nhận ra mình phải thực hành lẽ thật. Nên tôi đã bình tĩnh cân nhắc mình nên nói gì để đáp ứng Đức Chúa Trời và giúp anh ấy tiến bộ. Tôi nghĩ về những lúc chúng tôi tiếp xúc trước đây. Lòng tham hưởng an nhàn của anh ấy đã thể hiện khá rõ trong bổn phận. Tôi nói hết ra những vấn đề của anh ấy trong thái độ đối với bổn phận và gửi cho anh ấy một vài lời Đức Chúa Trời liên quan. Sau đó, anh ấy cảm ơn tôi và nói rằng những điều đó đã giúp ích cho anh ấy. Sau khi làm thế, tôi cảm thấy rất bình tâm, vô cùng bình an.
Những hoàn cảnh Đức Chúa Trời sắp đặt, sự phán xét và tỏ lộ của lời Ngài cho tôi thấy rằng nếu tôi sống theo những triết lý trần tục của Sa-tan, thì tôi sẽ trở nên xảo quyệt hơn và đánh mất cả giới hạn tối thiểu của con người, rồi tôi sẽ chỉ hại mình và hại người. Tôi cũng rút ra được rằng, sống theo lời Đức Chúa Trời và các nguyên tắc của lẽ thật là cách duy nhất để có nhân tính và làm người tốt.
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?