Hậu Quả Của Việc Đề Phòng Đức Chúa Trời

28/02/2025

Bởi La Anh, Trung Quốc

Năm 2013, vì tôi không tìm kiếm nguyên tắc trong khi làm bổn phận, lại dựa vào tâm tính kiêu ngạo mà làm việc, gây gián đoạn và nhiễu loạn cho công tác phúc âm của hội thánh, nên đã bị xác định là lãnh đạo giả, rồi bị cách chức. Suốt thời gian sau đó, tôi cảm thấy vô cùng tiêu cực và hối hận. Tôi đã hiểu thêm một chút về tâm tính bại hoại của mình nhờ đọc lời Đức Chúa Trời và phản tỉnh bản thân, nhưng sâu trong lòng, tôi vẫn đề phòng Đức Chúa Trời, thấy rằng vì mình có tâm tính bại hoại và đã vi phạm nghiêm trọng, nên sau này tuyệt đối không nên thực hiện bổn phận quan trọng. Nếu vi phạm thêm lần nữa, nhẹ thì tôi sẽ bị cách chức, còn nặng thì có thể tôi sẽ bị tỏ lộ hoàn toàn, bị đào thải và mất cơ hội được cứu rỗi. Nhất là khi thấy xung quanh có những người có tài, có tố chất và thực hiện những bổn phận quan trọng, sau cùng lại bị tỏ lộ là lãnh đạo giả và bị cách chức, thậm chí bị coi là kẻ địch lại Đấng Christ và bị khai trừ do không tìm kiếm lẽ thật, không ngừng mưu cầu địa vị và danh tiếng, hành động theo tâm tính kiêu ngạo và không hề ăn năn, từ đó làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác phúc âm của hội thánh, tôi càng chắc chắn rằng suy nghĩ của mình là đúng. Từ giờ trở đi, tôi sẽ chỉ làm những bổn phận ít trách nhiệm hơn và không có quá nhiều rủi ro, vậy thì tôi vẫn sẽ có cơ hội sống sót khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc. Sau này, lãnh đạo giao cho tôi công tác thanh lọc hội thánh. Tôi thầm nghĩ: “Trước đây, có những chị em thực hiện công tác thanh lọc đã bị cách chức do hành động theo tâm tính bại hoại và không tuân thủ nguyên tắc, từ đó làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh. Mình ít hiểu biết về lẽ thật hơn chị em lại còn có tâm tính bại hoại nghiêm trọng, nếu làm gì đó gây gián đoạn và nhiễu loạn thì đó là việc ác!”. Sau nhiều lần suy nghĩ, tôi quyết định từ chối. Sau đó, lãnh đạo giao cho tôi công tác văn tự, và tôi rất hài lòng với phân công này. Tôi cảm thấy công tác văn tự không đòi hỏi mình phải đưa ra những quyết định quan trọng cho hội thánh và không có rủi ro nào, nên tôi sẵn sàng chấp nhận. Năm 2017, lãnh đạo lại tìm đến tôi, nói rằng công tác thanh lọc của hội thánh rất cần người làm và hy vọng tôi sẽ cân nhắc tâm ý của Đức Chúa Trời và đảm nhận công việc trong nhóm thanh lọc. Tôi vẫn còn chút do dự, nhưng chợt nhớ ra tôi đã từ chối một lần và nếu từ chối thêm lần nữa vì tương lai và tiền đồ của mình, đây chẳng phải là phản bội Đức Chúa Trời sao? Tôi không thể vô lương tâm như vậy! Trong lúc đau khổ, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời và xin Ngài dẫn dắt tôi thoát khỏi tình trạng sai trái ấy.

Sau này, tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Có người dù bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại đi nữa, vẫn không chịu tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Kết quả là dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, mà những tâm tính của họ vẫn không thay đổi. Họ nghĩ: ‘Hễ làm gì mình cũng bộc lộ những tâm tính bại hoại, nếu mình kiềm chế không làm gì cả thì sẽ không bộc lộ tâm tính bại hoại. Như thế chẳng phải vấn đề đã được giải quyết hay sao?’. Như thế chẳng giống sợ nghẹn mà nhịn ăn à? Kết quả sẽ thế nào? Chỉ có thể dẫn đến cảnh chết đói. Nếu người ta bộc lộ những tâm tính bại hoại mà không giải quyết chúng, thì cũng tương đương với không tiếp nhận lẽ thật rồi gục chết. Tin Đức Chúa Trời mà không mưu cầu lẽ thật thì hậu quả sẽ là gì? Là ngươi sẽ tự đào mộ chôn mình. Những tâm tính bại hoại là kẻ thù đối với đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời, chúng cản trở ngươi thực hành lẽ thật, trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài. Kết quả là cuối cùng ngươi sẽ không đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Như thế chẳng phải là tự đào mộ chôn mình sao? Những tâm tính Sa-tan ngăn cản ngươi tiếp nhận và thực hành lẽ thật. Ngươi không được tránh né chúng, mà phải đương đầu với chúng. Nếu ngươi không thắng được chúng thì chúng sẽ kiểm soát ngươi. Nếu ngươi thắng được chúng thì ngươi sẽ không còn bị chúng kìm kẹp và ngươi sẽ được tự do(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi nhận thấy mình cũng không ăn vì sợ mắc nghẹn. Vì bị cách chức do không tìm kiếm lẽ thật, hành động theo tâm tính kiêu ngạo, làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác phúc âm của hội thánh, tôi trở nên đề phòng và hiểu lầm rất nhiều, không muốn đảm nhận bổn phận quan trọng, chỉ thực hiện bổn phận không quan trọng và chỉ quan tâm việc không mắc phải sai lầm và không gặp vấn đề. Khi được giao bổn phận quan trọng, tôi vô thức rơi vào trạng thái tự bảo vệ. Vì lo rằng nếu hành động theo tâm tính kiêu ngạo, làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh lần nữa, tôi có thể sẽ bị cách chức và đào thải, nên tôi luôn muốn từ chối khi được giao việc, nghĩ rằng làm vậy là bảo vệ mình. Tôi luôn né tránh xử lý tâm tính bại hoại của mình và không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết. Nếu cứ tiếp tục như vậy, không những tâm tính sự sống của tôi sẽ không hề thay đổi, mà cũng không rõ tôi có được cứu rỗi hay không. Lời Đức Chúa Trời cũng đã chỉ cho tôi con đường thực hành, rằng tôi phải ngừng né tránh việc đối mặt với tâm tính bại hoại của mình và nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết.

Sau này, tôi đã phản tỉnh: loại bản tính bại hoại nào đã khiến tôi luôn đề phòng Đức Chúa Trời và từ chối bổn phận được giao. Một ngày nọ, tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Ta vui với những ai không hoài nghi người khác, và Ta thích những ai sẵn lòng chấp nhận lẽ thật; với hai dạng người này, Ta thể hiện sự quan tâm rất lớn, bởi trong mắt Ta, họ là những người trung thực. Nếu ngươi giả dối, khi ấy ngươi sẽ phòng thủ và hoài nghi mọi người và mọi sự, và do đó, đức tin của ngươi ở Ta sẽ được xây dựng trên nền tảng của sự hoài nghi. Ta không bao giờ có thể công nhận đức tin ấy. Thiếu đức tin thật, ngươi càng không có tình yêu đích thực. Và nếu ngươi có khả năng hoài nghi Đức Chúa Trời và tự ý suy đoán về Ngài, thì ngươi hẳn là kẻ giả dối nhất trong tất cả mọi người. Ngươi suy đoán liệu Đức Chúa Trời có thể như con người không: tội lỗi không thể dung thứ, tính cách nhỏ nhen, không có sự công bằng và lý trí, thiếu ý thức công lý, giống như con người, có thủ đoạn độc ác, thâm hiểm xảo trá, vui với cái ác và bóng tối, v.v. Chẳng phải lý do con người có những ý nghĩ như vậy là vì họ thiếu nhận thức dù là nhỏ nhất về Đức Chúa Trời sao? Đức tin như thế chẳng khác nào tội lỗi!(Làm thế nào để biết Đức Chúa Trời trên trần gian, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi thấy rằng mình có bản tính giả dối và tà ác, suy nghĩ như những kẻ bất nghĩa, lúc nào cũng hoài nghi Đức Chúa Trời, đề phòng Ngài như đề phòng kẻ xấu. Tôi nghĩ rằng giao cho tôi bổn phận quan trọng là để tỏ lộ và đào thải tôi. Vì trước đây tôi đã vi phạm do hành động theo tâm tính kiêu ngạo, làm nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, nên tôi lo rằng nếu vi phạm thêm lần nữa, tôi sẽ có nguy cơ bị đào thải, nên tôi sống trong trạng thái đề phòng và hiểu lầm Đức Chúa Trời. Vì vậy, khi lãnh đạo giao cho tôi giám sát công tác thanh lọc của hội thánh, tôi lo rằng mình sẽ mắc sai lầm khi đánh giá người khác. Nếu tôi buộc tội sai người tốt hoặc để lại kẻ ác hay kẻ địch lại Đấng Christ trong hội thánh, từ đó gây ra những nguy hiểm tiềm ẩn trong hội thánh, đó sẽ là vi phạm nghiêm trọng và có thể tôi sẽ bị đào thải. Nghĩ vậy, tôi tìm lý do để trốn tránh và từ chối. Bây giờ nhìn lại, nếu không có trải nghiệm bị cách chức, tôi sẽ không bao giờ nhận ra mình có tâm tính kiêu ngạo như vậy, cũng chẳng nhận ra mình không tìm kiếm lẽ thật và hành động theo ý mình khi công tác và đang đi theo con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Chính sự sửa phạt và sửa dạy kịp thời của Đức Chúa Trời đã khiến tôi phải phản tỉnh về bản thân, kéo tôi trở lại từ con đường lầm lỗi. Nếu không nhờ Đức Chúa Trời, tôi không biết mình sẽ làm điều ác gì khi bị bản tính kiêu ngạo và tự đại của mình khống chế. Mặc dù tôi có chút đau khổ khi bị cách chức, nhưng đó là cách mà Đức Chúa Trời bảo vệ và cứu rỗi tôi, trong đó chứa đựng dụng ý thiết tha của Ngài. Trải nghiệm thất bại đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi: Nó cho tôi thấy hậu quả nghiêm trọng khi hành động theo tâm tính kiêu ngạo, cho tôi trải nghiệm rằng tâm tính công chính của Đức Chúa Trời không thể bị xúc phạm. Khi tiếp tục thực hiện bổn phận, tôi tự nhắc mình không được hành động theo tâm tính kiêu ngạo mà phải có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Khi gặp vấn đề, tôi nên trưng cầu ý kiến của người khác và tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật để tránh mắc phải sai lầm lớn. Tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính và tốt lành, tình yêu và sự cứu rỗi của Ngài là có thật, không hề có một chút giả dối. Miễn là tôi có thể phản tỉnh về bản thân và thức tỉnh, Đức Chúa Trời sẽ cho tôi cơ hội thực hành, nhưng tôi luôn hoài nghi Đức Chúa Trời và đề phòng Ngài, nghĩ Ngài nhỏ nhen và vô tâm như con người, không có sự công bằng và công chính. Tôi nghĩ Đức Chúa Trời chỉ dùng bổn phận này để tỏ lộ và đào thải tôi, đây chẳng phải là vu khống cho Đức Chúa Trời sao? Tôi đúng là giả dối! Đức Chúa Trời yêu người trung thực, và người trung thực có thể đón nhận và thực hành lẽ thật. Còn tâm tính giả dối đã khiến tôi nghi ngờ Đức Chúa Trời và đề phòng Ngài. Tôi đã trốn tránh bổn phận được giao hết lần này đến lần khác, không thể hoàn thành trách nhiệm và bổn phận với tấm lòng cởi mở và trung thực. Nếu cứ tiếp tục như vậy, chẳng phải tôi đang tự đào hố chôn mình sao? Nhận ra điều đó, tôi thấy hối hận vô cùng, thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, chỉ muốn trân trọng cơ hội thực hiện bổn phận, trông cậy vào Đức Chúa Trời để thực hiện tốt công tác thanh lọc, không chống cự hay từ chối nữa.

Từ đó trở đi, tôi bắt đầu thực hiện công tác thanh lọc trong hội thánh. Một ngày nọ, có một vụ khai trừ làm tôi chú ý. Người sắp bị khai trừ là chị Lý, trước đây đã từng tiếp đãi tôi. Chị ấy vốn là người tiếp đãi, tôi còn ghen tị vì chị được thực hiện bổn phận ít quan trọng hơn và khả năng vi phạm nghiêm trọng cũng thấp hơn, và thực hành đức tin như vậy sẽ ít rủi ro hơn. Nhưng sự thật lại không như tôi nghĩ, dù không thực hiện bổn phận quan trọng nhưng tâm tính kiêu ngạo của chị Lý chưa bao giờ thay đổi, thậm chí chị còn lợi dụng và thao túng con gái mình, cũng là lãnh đạo hội thánh, với vọng tưởng kiểm soát hội thánh, và việc làm của chị đã gây hỗn loạn cho hội thánh. Tôi nhận ra hầu hết những người bị tỏ lộ là người không tin và kẻ hành ác đều không thực hiện bổn phận quan trọng, nhưng sau cùng vẫn bị đào thải do không mưu cầu lẽ thật, ngông nghênh làm càn theo tâm tính Sa-tan, không biết đường ăn năn, và làm đủ mọi điều ác. Điều này làm tôi khá bất ngờ. Sau này, tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Có người nghĩ: ‘Bất cứ ai làm lãnh đạo cũng đều ngu muội, vô tri và đang tự chuốc lấy sự hủy diệt cho chính mình, bởi vì làm lãnh đạo thì chắc chắn người ta sẽ bộc lộ sự bại hoại cho Đức Chúa Trời thấy. Nếu họ không làm công việc này thì liệu có bộc lộ sự bại hoại nhiều như vậy không?’. Thật là một ý tưởng hoang đường! Nếu ngươi không làm lãnh đạo, ngươi sẽ không bộc lộ sự bại hoại sao? Không làm lãnh đạo, dù ngươi bộc lộ ít sự bại hoại hơn, thì có nghĩa là ngươi đã đạt được sự cứu rỗi sao? Theo lập luận này, phải chăng tất cả những người không giữ vai trò lãnh đạo đều là những người có thể sống sót và được cứu rỗi? Nói như vậy chẳng phải quá nực cười sao? Những người giữ vai trò lãnh đạo hướng dẫn dân được Đức Chúa Trời chọn ăn uống lời Đức Chúa Trời và trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Yêu cầu và tiêu chuẩn này cao, nên không thể tránh khỏi việc các lãnh đạo sẽ bộc lộ một số tình trạng bại hoại khi mới bắt đầu tập sự. Đây là chuyện bình thường và Đức Chúa Trời không định tội. Đức Chúa Trời không những không định tội mà Ngài còn khai sáng, soi sáng và hướng dẫn những người này, cũng như đặt thêm trọng trách lên họ. Miễn sao họ có thể thuận phục sự dẫn dắt và công tác của Đức Chúa Trời thì họ sẽ trưởng thành nhanh hơn trong sự sống so với người thường. Nếu họ là những người mưu cầu lẽ thật thì họ có thể bước vào con đường được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện. Đây là chuyện được Đức Chúa Trời ban phúc lành nhất. Có người không thấy được điều này, và họ bóp méo sự thật. Theo sự hiểu biết của con người, dù người lãnh đạo có thay đổi đến đâu, Đức Chúa Trời cũng sẽ không quan tâm; Ngài sẽ chỉ xem các lãnh đạo và chấp sự bộc lộ sự bại hoại nhiều như thế nào, và chỉ dựa vào chuyện này mà định tội họ. Còn đối với những người không phải là lãnh đạo và chấp sự, vì họ ít bộc lộ bại hoại nên dù họ không thay đổi thì Đức Chúa Trời cũng sẽ không định tội họ. Suy nghĩ như thế chẳng phải là hoang đường sao? Chẳng phải đó là báng bổ Đức Chúa Trời sao? Nếu trong lòng ngươi chống đối Đức Chúa Trời nghiêm trọng như vậy thì ngươi có thể được cứu rỗi không? Ngươi không thể được cứu rỗi. Đức Chúa Trời quyết định kết cục của con người chủ yếu dựa trên việc họ có lẽ thật và lời chứng thật hay không, và điều này chủ yếu phụ thuộc vào việc họ có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không. Nếu họ quả thật mưu cầu lẽ thật và có thể thực sự ăn năn sau khi bị phán xét và hành phạt vì mắc phải vi phạm, thì miễn sao họ không nói những lời hay làm những điều báng bổ Đức Chúa Trời, thì họ chắc chắn sẽ có khả năng đạt được sự cứu rỗi. Theo tưởng tượng của các ngươi, tất cả những tín hữu bình thường theo Đức Chúa Trời đến cùng đều có thể đạt được sự cứu rỗi, còn những người giữ vai trò lãnh đạo đều phải bị đào thải. Nếu được yêu cầu làm lãnh đạo, các ngươi sẽ nghĩ rằng nếu không làm thì không được, nhưng nếu ngươi làm lãnh đạo thì ngươi sẽ vô thức bộc lộ sự bại hoại, và đó giống như tự đưa mình lên đoạn đầu đài vậy. Chẳng phải tất cả những chuyện này là do các ngươi hiểu lầm Đức Chúa Trời sao? Nếu kết cục của con người được xác định dựa trên sự bại hoại mà họ bộc lộ thì không ai có thể được cứu rỗi. Nếu vậy, Đức Chúa Trời thực hiện công tác cứu rỗi để làm gì? Nếu đúng là như vậy thì sự công chính của Đức Chúa Trời nằm ở đâu? Con người sẽ không thể nhìn thấy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Vì vậy, các ngươi đều đã hiểu sai tâm ý của Đức Chúa Trời, và điều này cho thấy rằng các ngươi không có nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng Đức Chúa Trời không quyết định kết cục của con người theo bổn phận mà họ thực hiện hay mức độ bại hoại mà họ tỏ lộ, mà theo việc họ có mưu cầu lẽ thật hay tập trung giải quyết tâm tính bại hoại sau khi nó bộc lộ hay không. Đức Chúa Trời cứu rỗi những người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại, nếu Đức Chúa Trời quyết định kết cục con người theo mức độ bại hoại mà họ bộc lộ, thì tất cả chúng ta đều bị đào thải. Vậy thì ai sẽ được cứu rỗi đây? Quan điểm ấy của tôi thật nực cười. Tôi nhận ra mặc dù lãnh đạo và người giám sát thường tỏ lộ những mặt bại hoại và thiếu sót, nhưng miễn là họ mưu cầu lẽ thật, thường xuyên phản tỉnh bản thân và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, họ sẽ càng hiểu thêm nhiều lẽ thật và lối vào sự sống của họ sẽ phát triển nhanh hơn. Tôi nghĩ rằng những lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ bị tỏ lộ và đào thải gặp phải số phận đó không phải vì họ là lãnh đạo và người giám sát, mà là vì họ đều chán ghét lẽ thật, lúc nào cũng theo đuổi danh tiếng và địa vị, làm việc ác gây nhiễu loạn công tác hội thánh, sau nhiều lần tỉa sửa mà vẫn không ăn năn. Tôi cũng nhận ra lý do mà trước đây tôi bị cách chức lãnh đạo, là vì tôi không mưu cầu lẽ thật và không đi đúng con đường, chứ không liên quan đến việc tôi thực hiện bổn phận quan trọng. Vậy mà tôi lại không hiểu được điều đó, không phản tỉnh nguyên nhân gốc rễ làm tôi vấp ngã và thất bại, không rút ra bài học cho bản thân sau này, mà lại dùng những quan điểm sai lầm để hoài nghi và đánh giá Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là báng bổ Đức Chúa Trời sao? Tôi nghĩ đến Phi-e-rơ, người có thể vui mừng trước sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời. Nếu sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời rời bỏ ông, ông cảm thấy hoảng loạn, bất an và không thể nào sống tiếp. Tôi thấy Phi-e-rơ yêu lẽ thật bằng cả tấm lòng, khao khát những điều tích cực, trân trọng sự phán xét, hành phạt, sửa phạt và sửa dạy của Đức Chúa Trời. Trong môi trường đó, ông có thể phản tỉnh những thiếu sót và khuyết điểm, tìm kiếm lẽ thật và mưu cầu sự thay đổi. Còn tôi, sau khi thất bại và bị tỏ lộ, tôi rơi vào trạng thái đề phòng, hiểu lầm, tiêu cực và chống cự. Tôi lo mình sẽ lại bị tỏ lộ nếu đảm nhận thêm một bổn phận quan trọng nữa, nên tôi từ chối hết lần này đến lần khác. Hóa ra tôi thực sự chán ghét lẽ thật. Tôi luôn muốn che giấu tâm tính bại hoại của mình, nhưng khi làm vậy, tôi không thể tự nhận thức về bản thân, huống chi là tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề kịp thời. Sau cùng, tôi đánh mất cơ hội được cứu rỗi vì tâm tính của tôi không hề thay đổi. Tôi đã tìm thấy một vài con đường thực hành thông qua trải nghiệm của Phi-e-rơ: Khi tỏ lộ mặt bại hoại của mình, tôi nên tập trung hiểu rõ bản thân và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, học tập từ thất bại của những người khác để cảnh báo chính mình.

Tháng 8 năm 2021, tôi được anh chị em chọn làm lãnh đạo hội thánh. Trong lòng vẫn còn nghi ngờ, nên tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con muốn đảm nhận bổn phận này và làm phần việc của mình, nhưng con vẫn thấy lo lắng. Xin hãy dẫn dắt con”. Sau khi cầu nguyện, tôi nhớ lại khi ăn uống lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra Đức Chúa Trời khiến con người thực hiện bổn phận không phải là để đào thải họ, mà là để họ tìm kiếm lẽ thật, thay đổi tâm tính, và được cứu rỗi khi thực hiện bổn phận. Tôi cũng thấy hội thánh hiện đang bị chia rẽ, cần nhiều người cùng thực hiện công tác hội thánh, vào thời điểm quan trọng như vậy, tôi không thể chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình. Nếu tôi lại từ chối bổn phận của mình thì thật không có nhân tính! Tôi phải quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận tôi nên làm. Sau này, tôi cứ suy nghĩ: “Tại sao mình cứ rụt rè và sợ hãi khi được giao bổn phận quan trọng? Đằng sau chuyện này là ý định sai trái nào?”. Khi đang tìm kiếm, tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời; “Những kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không bao giờ thuận phục sự sắp đặt của nhà Đức Chúa Trời, và họ luôn liên kết chặt chẽ bổn phận, danh lợi và địa vị với hy vọng được phúc lành và đích đến trong tương lai của họ, cứ như thể một khi danh dự và địa vị của họ bị mất đi thì họ sẽ không có hy vọng được phúc lành và phần thưởng, và điều này chẳng khác nào giết chết họ vậy. Họ cho rằng: ‘Mình phải cẩn thận, không thể sơ suất! Nhà đức chúa trời, các anh chị em, lãnh đạo và người làm công, thậm chí cả đức chúa trời đều không đáng để cậy dựa, đều không phải là đối tượng để mình cậy dựa. Người đáng để cậy dựa nhất, người đáng để tin cậy nhất chính là bản thân, mình không tính toán cho mình thì ai có thể lo cho mình đây? Ai có thể nghĩ cho tiền đồ của mình? Ai có thể nghĩ cho mình về sau có được phúc hay không? Cho nên mình phải vì mình mà dày công lên kế hoạch, dày công tính toán, không thể sơ suất, không thể có một chút cẩu thả nào, nếu không, chẳng may bị lợi dụng thì phải làm sao?’. Cho nên họ đề phòng lãnh đạo và người làm công của nhà Đức Chúa Trời, sợ sau khi người khác phân định và nhìn thấu được họ rồi sẽ cách chức họ, phá hỏng giấc mộng được phúc của họ. Họ cho rằng nhất định phải giữ được danh tiếng và địa vị, như vậy mới có hy vọng được phúc. Một kẻ địch lại Đấng Christ coi việc được phúc lành còn lớn hơn cả trời, lớn hơn cả mạng sống, quan trọng hơn cả việc mưu cầu lẽ thật, việc thay đổi tâm tính hay việc được cứu rỗi, quan trọng hơn việc làm tốt bổn phận của họ và làm một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn. Họ cho rằng việc làm một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn, làm tốt bổn phận của mình và được cứu rỗi đều là những điều nhỏ nhặt không đáng đề cập đến, không có gì cả, chỉ có được phúc lành là điều cả cuộc đời họ không bao giờ có thể quên được. Bất kể họ gặp phải việc gì, dù lớn hay nhỏ, họ đều liên hệ nó với việc được phúc lành, đều phải cẩn thận và dè dặt để lại lối thoát cho mình. Vì vậy, khi bổn phận của họ được điều chỉnh, nếu đó là một sự đề bạt, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ cho rằng họ có hy vọng được phúc lành. Nếu đó là sự giáng chức, từ tổ trưởng trở thành tổ phó, hoặc từ tổ phó thành một thành viên bình thường, thì họ linh cảm được rằng chuyện không hay sắp đến và hy vọng được phúc lành của họ thật mong manh. Loại quan điểm này thế nào? Đó có phải là quan điểm đúng đắn không? Tuyệt đối không phải. Quan điểm này quá vô lý!(Mục 12. Họ muốn rút lui khi không có được địa vị và hết hy vọng được phúc, Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Lời Đức Chúa Trời phơi bày rằng những kẻ địch lại Đấng Christ chỉ tin Đức Chúa Trời để có được phước lành, đặt lợi ích bản thân làm ưu tiên hàng đầu trong bổn phận của mình và coi việc có được phước lành là quan trọng nhất. Khi phản tỉnh biểu hiện của mình, tôi thấy mình như một kẻ địch lại Đấng Christ. Là loài thọ tạo, tôi không nghĩ cách thực hiện bổn phận tốt nhất mà lại ưu tiên chuyện có được phước lành. Khi thực hiện bổn phận, tôi luôn rụt rè và thận trọng, lúc nào cũng lo mình sẽ mắc sai lầm và vi phạm, rồi mất cơ hội có được phước lành. Tôi nhận ra biểu hiện của mình là do những triết lý Sa-tan như “Người không vì mình, trời tru đất diệt” và “Không cầu có công, chỉ cần không lỗi” đã ăn sâu trong lòng tôi và trở thành triết lý sống của mình. Tôi chỉ nghĩ con người nên sống cho chính mình, và việc tin Đức Chúa Trời để có được phước lành là chính đáng. Khi hội thánh yêu cầu tôi thực hiện bổn phận của mình, tôi liên tục cân nhắc xem bổn phận nào sẽ cho tôi nhiều phước lành nhất, không có rủi ro tỏ lộ thiếu sót và sự bại hoại, tránh đặt tôi vào tình huống có thể mắc sai lầm lớn. Tôi chỉ thực hiện bổn phận thỏa mãn những điều kiện này. Trái lại, tôi chống cự và từ chối những bổn phận không cho tôi có được phước lành. Tôi hoàn thành bổn phận chủ yếu là để có được phước lành, và tôi rất kén chọn khi đón nhận bổn phận, tôi không hề quan tâm đến công tác của hội thánh. Thái độ thuận phục và trung thành của tôi đối với Đức Chúa Trời nằm ở đâu? Tôi sống theo triết lý xử thế Sa-tan, lúc nào cũng muốn có được gì đó từ Đức Chúa Trời, từ chối bổn phận được giao vì tương lai và vận mệnh của mình. Vậy chẳng phải là phản bội Đức Chúa Trời sao? Càng phản tỉnh tôi càng cảm thấy ý định của tôi khi tin vào Đức Chúa Trời thật đê tiện. Nếu tôi không giải quyết vấn đề này, nó sẽ trở thành trở ngại ngăn tôi khỏi con đường đúng đắn khi tin vào Đức Chúa Trời. Nếu tiếp tục như vậy và tâm tính sự sống của tôi không thay đổi, Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm tôi và sau cùng tôi sẽ bị đào thải. Tôi nghĩ đến Phao-lô, người đã dâng mình suốt cả đời cho Đức Chúa Trời chỉ để được mão triều thiên và phần thưởng. Khi thực hiện công tác, ông không mưu cầu lẽ thật hay sự thay đổi tâm tính, mặc dù đã công tác nhiều năm nhưng tâm tính Sa-tan của ông vẫn không thay đổi. Sau cùng, ông đã bị Đức Chúa Trời trừng phạt vì chống lại Ngài. Tôi đã đi cùng con đường với Phao-lô, nếu tôi không ăn năn thì Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm tôi vì không mưu cầu lẽ thật và tôi sẽ bị đào thải! Tôi quỳ trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện trước Ngài: “Lạy Đức Chúa Trời, giờ con mới nhận ra mình đã ích kỷ và đê tiện thế nào. Kể từ khi có đức tin, con chỉ tìm kiếm phước lành. Con không muốn tiếp tục đi vào con đường sai lầm này. Con chỉ muốn thực hiện tốt bổn phận và mưu cầu lẽ thật”.

Sau này, tôi đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời, nó giúp tôi hiểu rõ hơn ý nghĩa và giá trị khi thực hiện bổn phận. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Bất kể con người làm bổn phận gì thì đó đều là chuyện chính đáng nhất, chuyện tốt đẹp nhất và chính nghĩa nhất trong nhân loại. Làm một loài thọ tạo thì phải làm bổn phận của mình mới có thể được Đấng Tạo Hóa khen ngợi. Loài thọ tạo sống dưới sự thống trị của Đấng Tạo Hóa, và họ tiếp nhận tất cả những gì Đức Chúa Trời chu cấp và mọi thứ đến từ Đức Chúa Trời, do đó họ nên hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Đây là chuyện thiên kinh địa nghĩa, cũng là điều mà Đức Chúa Trời đã tiền định. Từ đó có thể thấy rằng, đối với con người thì việc thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo là chính nghĩa, đẹp đẽ và cao thượng hơn bất cứ điều gì khác được thực hiện trong khi còn sống trong thế gian; không có gì trong nhân loại có ý nghĩa hơn hoặc xứng đáng hơn và không có gì mang lại ý nghĩa và giá trị lớn lao hơn cho cuộc sống của một loài thọ tạo hơn là việc thực hiện bổn phận của một con người thọ tạo. Trên đất, chỉ có nhóm người thật lòng thật dạ thực hiện bổn phận của loài thọ tạo mới là những người thuận phục Đấng Tạo Hóa. Nhóm này không chạy theo trào lưu của thế giới bên ngoài; họ thuận phục sự dẫn dắt và chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, chỉ nghe lời của Đấng Tạo Hóa, tiếp nhận những lẽ thật mà Đấng Tạo Hóa bày tỏ, và sống theo lời Đấng Tạo Hóa. Đây là lời chứng chân thực nhất, vang dội nhất, và là lời chứng tốt nhất về việc tin Đức Chúa Trời. Đối với một loài thọ tạo, việc có thể thực hiện bổn phận của loài thọ tạo, có thể làm hài lòng Đấng Tạo Hóa là điều tốt đẹp nhất giữa nhân loại và nên trở thành giai thoại được lưu truyền trong nhân loại. Bất cứ điều gì được Đấng Tạo Hóa giao phó cho các loài thọ tạo thì họ cũng nên tiếp nhận vô điều kiện; đối với nhân loại, đây là chuyện hạnh phúc và vinh hạnh, và đối với những người thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo, thì không gì tốt đẹp hơn hoặc đáng nhớ hơn – đó là điều tích cực. … Là một loài thọ tạo, khi đến trước Đấng Tạo Hóa thì phải thực hiện bổn phận của mình. Đây là một chuyện rất chính đáng, và là trách nhiệm mà con người nên thực hiện. Trên cơ sở loài thọ tạo thực hiện bổn phận của mình, Đấng Tạo Hóa đã làm công tác lớn hơn nữa giữa nhân loại. Ngài đã thực hiện một bước công tác nữa trên con người, đó là công tác gì? Ngài cung cấp lẽ thật cho nhân loại, cho phép họ đạt được lẽ thật từ Ngài khi họ thực hiện bổn phận của mình và qua đó loại bỏ tâm tính bại hoại của họ và được làm cho tinh sạch. Như thế, họ đạt đến việc thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời và đi vào con đường đúng đắn trong cuộc đời, và cuối cùng, họ có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, đạt được sự cứu rỗi hoàn toàn và không còn bị Sa-tan làm cho đau khổ. Đây là hiệu quả mà Đức Chúa Trời yêu cầu nhân loại cuối cùng phải đạt được thông qua việc thực hiện bổn phận của họ(Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 7)). Thật vậy, giống như con cái có nghĩa vụ và tránh nhiệm phải hiếu thảo với cha mẹ, loài thọ tạo có trách nhiệm thực hiện bổn phận của mình, không nên có sự giao dịch đổi chác khi làm điều đó. Tôi là loài thọ tạo, Đức Chúa Trời đã cho tôi sự sống, cho tôi những thứ tôi cần, ân đãi cho tôi đến trước Ngài và nhận được sự cung ứng từ lời Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, đó là tình yêu và lòng thương xót mà Đức Chúa Trời dành cho tôi. Đức Chúa Trời mong rằng tôi sẽ tìm kiếm lẽ thật và mưu cầu lối vào sự sống khi thực hiện bổn phận. Ngài mong rằng qua những tình huống mà Ngài sắp đặt, tôi sẽ phản tỉnh về bản thân và tự nhận thức, giải quyết tâm tính bại hoại của mình, bước đi trên con đường kính sợ Đức Chúa Trời và tránh khỏi điều ác, thoát khỏi sự bại hoại và được Ngài cứu rỗi. Tôi nên buông bỏ ý định và mong muốn có được phước lành, dâng tấm lòng mình cho Đức Chúa Trời, hoàn thành trách nhiệm và bổn phận một cách chân thành để an ủi tấm lòng của Đức Chúa Trời. Từ đó, tôi cảm thấy tự do hơn khi thực hiện bổn phận, dù đôi khi vẫn còn đề phòng và hiểu lầm Đức Chúa Trời, tôi bắt đầu vô thức tìm kiếm lẽ thật, chống lại bản thân, ưu tiên lợi ích của hội thánh, thực hiện bổn phận theo nguyên tắc lẽ thật, không còn rụt rè và thận trọng. Khi bắt đầu thực hành điều này, tôi cảm thấy thoải mái và bình yên.

Nhìn lại trải nghiệm này, dù là khi làm lãnh đạo hay khi bị thuyên chuyển, tôi thấy rằng Đức Chúa Trời đã cẩn thận sắp đặt tất cả các tình huống này để tôi tự nhận thức về bản thân và thoát khỏi sự bại hoại. Nhờ lời Đức Chúa Trời khai sáng và soi sáng, tôi đã nhận ra những quan điểm sai lầm, sự bại hoại và ô uế trong bổn phận của mình, hiểu được dụng ý thiết tha của Đức Chúa Trời khi cứu rỗi con người, cuối cùng thoát khỏi những hiểu lầm và đề phòng.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger