Tôi Không Còn Bị Trói Buộc Bởi Sự Vi Phạm
Một ngày tháng 7 năm 2006, tôi bất ngờ bị bắt trên đường đi họp với các đồng sự. Đêm đó, tôi bị đưa đến một địa điểm bí mật để thẩm vấn. Cảnh sát tìm thấy biên lai tiền bạc của hội thánh trên người tôi, và thế là họ thay phiên nhau thẩm vấn tôi, gây áp lực buộc tôi phải khai tên những người giữ tiền của hội thánh và các lãnh đạo cấp cao. Tôi không khai, nên họ đã đánh tôi bằng thắt lưng da, còng tay tôi và treo tôi lên bằng dây xích sắt. Họ tra tấn tôi như vậy suốt một tuần. Tôi vừa đói vừa khát, chẳng còn chút sức lực nào, thỉnh thoảng tôi lại ngất đi. Khi tỉnh dậy, tôi không biết họ đã cho mình uống thứ gì, nhưng miệng tôi có vị lạ, tôi cảm thấy nghẹt thở và toàn thân đau nhức dữ dội. Lúc đó, xác thịt của tôi đã đạt đến giới hạn chịu đựng, và tôi không biết tiếp theo họ sẽ làm gì với mình. Tôi đã rất sợ hãi, sợ rằng mình sẽ không thể chịu đựng được sự tra tấn và trở thành một Giu-đa, nên tôi thầm tha thiết cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài giúp tôi đứng vững trong lời chứng của mình. Thấy tôi bị dày vò đến thế mà vẫn chưa khai ra các lãnh đạo và tiền bạc của hội thánh, lũ cảnh sát đã thay đổi chiến thuật và dùng tình cảm gia đình để dụ dỗ tôi, chúng nói: “Đã mấy năm rồi cô không về nhà. Gia đình con cái của cô chắc hẳn là nhớ cô lắm. Tiền của hội thánh ở đâu? Nếu khai ra hết, chúng tôi sẽ cho cô về nhà”. Chúng cũng lấy ra một ít tiền mặt và nói rằng đã tìm được những người thủ quỹ của hội thánh. Nghe vậy, tôi thầm nghĩ: “Vì chúng đã tịch thu số tiền đó nên mình có nói với chúng hay không thì cũng chẳng có gì khác biệt. Nếu nói với chúng điều gì đó thì có thể mình sẽ không bị tra tấn nữa”. Thế là tôi đã khai ra một trong những gia đình đang cất giữ tiền của hội thánh, và chúng bảo tôi đưa chúng đi lấy số tiền này. Đến lúc này tôi mới nhận ra mình đã rơi vào bẫy của chúng. Tại thời điểm đó, sức chịu đựng của tôi đã đạt đến cực hạn. Tôi thầm nghĩ: “Mình đã bán đứng gia đình người thủ quỹ rồi. Nếu không đưa chúng đến đó, chắc chắn chúng sẽ tiếp tục tra tấn mình. Hơn nữa, mình đã bị bắt một tuần rồi, hiện giờ tiền của hội thánh có thể đã được chuyển đi rồi”. Trong một thoáng suy nghĩ dại dột, tôi đã dẫn cảnh sát đến nhà người thủ quỹ. Sau khi biết tin tôi bị bắt, hội thánh đã nhanh chóng chuyển tiền đi nơi khác. Người anh em trong gia đình thủ quỹ suýt bị bắt, nhưng dưới sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, anh ấy đã thoát khỏi cuộc đột kích của cảnh sát. Vì không tìm thấy tiền của hội thánh, cảnh sát đã tùy tiện kết án tôi một năm chín tháng tù.
Mỗi ngày ở trong tù tôi đều thấy vô cùng khổ sở và đau đớn, đặc biệt là khi nghĩ đến những lời này của Đức Chúa Trời: “Đối với những kẻ đã không cho Ta thấy chút ít sự trung thành nào suốt trong những kỳ hoạn nạn, Ta sẽ không thương xót nữa, vì lòng thương xót Ta chỉ nới đến thế thôi. Hơn nữa, Ta không thích bất kỳ ai đã một lần phản bội Ta, Ta càng không thích kết giao với những kẻ bán đứng những lợi ích của bạn bè mình. Đây là tâm tính của Ta, bất kể người đó có thể là ai” (Hãy chuẩn bị đầy đủ những việc lành cho đích đến của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi biết rất rõ mình đã trở thành Giu-đa khi bán đứng các anh chị em. Tôi đã xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời; tôi đã phạm một tội lỗi không thể tha thứ. Nghĩ đến đây, lòng tôi đau đớn vô cùng. Tôi đã phản bội Đức Chúa Trời; chắc chắn Ngài sẽ không cứu rỗi tôi. Công cuộc tin Đức Chúa Trời của tôi có lẽ đã chấm dứt. Từ đó trở đi, tôi vô cùng chán nản và mỗi ngày đều phải sống trong đau khổ. Tôi đau lòng quá, cảm thấy mình nên chết đi thì hơn. Tôi chỉ chờ đến lúc chết, khi đó tôi sẽ được tự do. Dù vẫn cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nhưng hễ nghĩ đến sự vi phạm của mình, tôi lại cảm thấy Ngài không cần tôi nữa, và tôi nghĩ mình không xứng đáng đến trước Ngài. Hai năm sau khi tôi ra tù, các anh chị em đã tìm thấy tôi, nhận ra tôi đã có chút hiểu biết về bản thân, họ cho phép tôi tiếp tục sống đời sống hội thánh và sắp xếp bổn phận cho tôi. Tôi đã rất cảm động và nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang cho tôi cơ hội để ăn năn, và tôi càng cảm thấy mình mắc nợ Ngài hơn. Tôi đã khóc nức nở và cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con thực sự không xứng đáng đến trước Ngài. Khi có chuyện xảy ra, con không hề làm chứng gì cả. Con đã bán đứng các anh chị em, trở thành Giu-đa và mang dấu ô nhục. Hôm nay, Ngài đã cho con cơ hội quay lại hội thánh và thực hiện bổn phận của mình, con thấy được lòng thương xót của Ngài”. Tôi đã thầm quyết tâm siêng năng thực hiện bổn phận, bù đắp sự vi phạm của mình và đền đáp tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Sau này, dù hội thánh có sắp xếp bổn phận gì cho tôi, tôi cũng sẽ luôn tích cực phối hợp. Dù gặp phải hoàn cảnh ác liệt đến đâu, tôi cũng không để những khó khăn đó làm mình gục ngã. Tôi muốn cố gắng hết sức để bù đắp cho sự vi phạm của mình.
Một ngày nọ, tôi nghe tin Trần Hoa bị bắt và trở thành Giu-đa, bán đứng nhiều lãnh đạo, người làm công và các gia đình thủ quỹ, sau đó bị thanh trừ khỏi hội thánh. Nghe được tin này, tôi lâp tức liên tưởng đến bản thân. Tôi cũng từng bán đứng mọi người, suýt nữa dẫn đến việc bị cảnh sát tịch thu tiền của hội thánh, còn khiến cho người anh em làm thủ quỹ không thể trở về nhà. Tôi nghĩ rằng bản chất việc bán đứng người anh em đó của tôi cũng giống như của Trần Hoa; đó là một vết nhơ lớn. Đức Chúa Trời sẽ không tha thứ cho sự vi phạm của tôi. Bây giờ, Trần Hoa đã bị thanh trừ khỏi hỏi thánh, có thể một ngày nào đó tôi cũng sẽ bị thanh trừ và đào thải như thế. Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy rất chán nản. Sau đó, dù được hội thánh giao cho bổn phận nào, mặc dù vẫn làm nhưng tôi không còn năng nổ dâng mình cho Đức Chúa Trời như trước nữa. Đôi lúc, khi cần phải trả giá và tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật, tôi lại chẳng tìm kiếm nữa. Tôi hoàn thành công việc ở mức chấp nhận được theo quy định và chỉ bỏ chút sức lực. Tôi cũng không quan tâm liệu công tác của mình có đạt được kết quả hay không, mà chỉ dựa vào chút lương tâm ít ỏi vừa đủ để duy trì bổn phận của mình. Tôi nhớ lúc đó có một người chị em sợ bị bắt nên không dám thực hiện bổn phận. Tôi biết mình nên giúp đỡ và hỗ trợ chị ấy, nhưng vì đã phản bội Đức Chúa Trời, làm sao tôi có đủ tư cách để thông công với người khác chứ? Tôi không có tâm trạng suy ngẫm xem nên thông công thế nào để đạt được kết quả, nên tôi chỉ thông công cho có và nói một chút hiểu biết đạo lý. Tôi biết việc thực hiện bổn phận với thái độ như vậy là không phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, nên tôi muốn cố gắng thay đổi tình trạng của mình, nhưng ngay khi nghĩ đến việc mình đã gây ra vi phạm lớn đến thế và không có hy vọng được cứu rỗi, tôi lại thấy thiếu động lực, và mỗi ngày trôi qua đều không mục đích. Khi tỏ lộ tâm tính bại hoại trong quá trình thực hiện bổn phận, tôi biết mình nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề của bản thân, làm như vậy cũng sẽ có lợi cho công việc và lối vào sự sống của tôi, nhưng ngay khi nghĩ đến sự vi phạm không thể tha thứ của mình và việc mình có thể bị thanh trừ, tôi lại không thể làm được. Trong công việc hằng ngày, tôi chỉ hoàn thành ở mức vừa đủ, và tôi đã không tập trung tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tình trạng của mình. Sau này, tôi thường xuyên bị đau đầu và đau dạ dày tái đi tái lại. Tôi đã điều trị nghiêm túc ngay từ đầu, nhưng càng ngày bệnh của tôi không những không khỏi mà còn trở nên trầm trọng hơn. Tôi tự hỏi liệu căn bệnh này có phải là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời hay không. Trước đây, tôi đã phản bội Đức Chúa Trời, khiến Ngài chán ghét, ghê tởm tôi, và giờ thì tôi mắc bệnh. Đức Chúa Trời chắc chăn không cần tôi nữa. Những lúc không đạt được kết quả gì trong bổn phận, tôi liền nghĩ Đức Chúa Trời đã không còn công tác trên tôi. Tôi thấy thật vô ích khi tiếp tục theo đuổi lẽ thật và thực hiện bổn phận. Bất cứ khi nào có những suy nghĩ này, trong lòng tôi đều có một cảm giác buồn bực khó tả. Tôi thực sự hối hận vì hồi đó đã phản bội Đức Chúa Trời. Nếu lúc ấy có thể chịu đựng lâu hơn một chút, chẳng phải tôi đã đứng vững trong lời chứng rồi sao? Tại sao tôi lại bán đứng người anh em đó chứ? Tôi hận bản thân vì đã quan tâm quá nhiều đến xác thịt và không có tấm lòng thực sự muốn Đức Chúa Trời. Nếu ngày đó đứng vững làm chứng, thì chẳng phải tôi sẽ không cần chịu nỗi giày vò tinh thần này sao? Càng nghĩ về điều đó, tôi càng buồn và thường xuyên sống trong trạng thái tiêu cực.
Một lần nọ, tôi nói về tình trạng của mình với một người chị, và chị ấy đã đọc cho tôi đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Ngoài ra còn có một nguyên nhân khác khiến con người chìm đắm trong cảm xúc chán nản, đó là một số việc cụ thể xảy ra với người ta trước khi họ trưởng thành hoặc sau khi họ đã là người lớn, tức là họ vi phạm gì đó hoặc làm một vài việc ngu xuẩn, ngu muội và vô tri. Vì những vi phạm, việc làm ngu xuẩn và vô tri này, mà họ chìm vào sự chán nản. Kiểu chán nản này là sự tự lên án bản thân, đồng thời cũng là một kiểu xác định mình là loại người gì. … Bất cứ khi nào nghe một bài giảng hoặc một mối thông công về lẽ thật, sự chán nản này dần len lỏi vào tâm trí và thâm tâm họ, và họ tự tra hỏi bản thân: ‘Mình có ổn không? Mình có thể mưu cầu lẽ thật không? Mình có thể đạt được sự cứu rỗi không? Mình là loại người như thế nào? Mình đã từng làm điều đó trước đây, mình đã từng là loại người như thế. Liệu mình có vô phương cứu vãn không? Liệu Đức Chúa Trời có còn cứu mình không?’. Có người đôi khi có thể buông bỏ cảm giác chán nản và thoát khỏi chúng. Họ dùng sự chân thành và dốc hết sinh lực của mình vào việc thực hiện bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, thậm chí có thể dồn hết toàn bộ thể xác và tinh thần vào việc mưu cầu lẽ thật và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, và họ dốc nỗ lực vào lời Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, ngay khi một hoàn cảnh hoặc bối cảnh đặc biệt nào đó xuất hiện, cảm xúc chán nản lại một lần nữa chiếm thế thượng phong và lại khiến họ cảm thấy bị buộc tội trong thâm tâm. Họ tự nhủ: ‘Trước đây mi đã từng làm việc đó và mi là loại người như thế. Mi có thể đạt được sự cứu rỗi không? Thực hành lẽ thật có ích gì chứ? Đức Chúa Trời nghĩ gì về việc mi đã làm? Liệu Đức Chúa Trời có tha thứ cho những gì mi đã làm không? Liệu bây giờ trả giá theo cách này có thể bù đắp cho sự vi phạm đó không?’. Trong thâm tâm, họ thường tự trách, buộc tội bản thân, thường nghi ngờ, luôn tra hỏi bản thân. Họ không bao giờ có thể thoát khỏi hay gạt bỏ những cảm giác chán nản này, và họ không ngừng cảm thấy bất an về chuyện đáng xấu hổ mà mình đã từng làm. Vì vậy, mặc dù đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm, nhưng dường như họ chưa bao giờ nghe hay hiểu bất kỳ điều gì Đức Chúa Trời phán. Cứ như thể họ không biết liệu việc đạt được sự cứu rỗi có liên quan gì đến họ hay không, liệu họ có thể được xá tội và cứu chuộc hay không, hay liệu họ có đủ tư cách để tiếp nhận sự phán xét, hình phạt và sự cứu rỗi của Ngài hay không. Họ không hề biết gì về tất cả những điều này. Bởi vì không nhận được bất kỳ câu trả lời nào, và bởi vì không nhận được bất kỳ kết luận chính xác nào, nên họ luôn cảm thấy chán nản trong lòng. Trong thâm tâm, họ nhớ đi nhớ lại những gì mình đã làm, họ tua đi tua lại trong tâm trí, nhớ lại mọi chuyện đã bắt đầu như thế nào và kết thúc ra sao, nhớ từ đầu đến cuối. Dù có nhớ thế nào đi nữa, họ vẫn luôn cảm thấy tội lỗi, và vì vậy họ luôn cảm thấy chán nản về vấn đề này suốt những năm qua. Ngay cả khi đang thực hiện bổn phận, ngay cả khi đang phụ trách một công tác nào đó, họ vẫn cảm thấy như thể không còn hy vọng được cứu rỗi. Vì vậy, họ chưa bao giờ thẳng thắn đối mặt với chuyện mưu cầu lẽ thật, cũng không coi đó là điều đúng đắn và quan trọng nhất. Họ tin rằng sai lầm họ đã phạm phải hoặc điều họ đã làm trong quá khứ bị hầu hết mọi người coi thường, hoặc họ có thể bị mọi người lên án và khinh thường, hoặc thậm chí bị Đức Chúa Trời lên án. Cho dù công tác của Đức Chúa Trời đang ở giai đoạn nào hay Ngài đã phán bao nhiêu lời, họ cũng chưa bao giờ đối mặt với chuyện mưu cầu lẽ thật một cách đúng đắn. Tại sao lại như vậy? Họ không có đủ dũng khí để thoát khỏi sự chán nản của mình. Đây là kết luận cuối cùng mà kiểu người này rút ra sau khi thể nghiệm kiểu sự việc này, và vì họ không rút ra được kết luận chính xác nên họ không có khả năng thoát khỏi sự chán nản của bản thân” (Cách mưu cầu lẽ thật (2), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). Những lời này của Đức Chúa Trời có liên quan mật thiết đến trạng thái của tôi. Thực ra, trong vài năm gần đây, bất cứ khi nào nghe nói có ai đó bị khai trừ vì là Giu-đa, tôi liền nghĩ đến mình, nghĩ rằng mình đã bán đứng người anh em đó, trở thành Giu-đa và vi phạm trước Đức Chúa Trời, không biết sau này Đức Chúa Trời có còn cần mình nữa không? Mình có còn hy vọng được cứu rỗi không? Ngay khi nghĩ đến chuyện này, tôi lại sống trong tiêu cực. Mặc dù bề ngoài thực hiện bổn phận nhưng trong lòng tôi không thực sự mang gánh nặng, và tôi càng cảm thấy việc mưu cầu lẽ thật không liên quan đến mình. Tôi luôn đặt mình ngoài hàng ngũ những người theo đuổi lẽ thật. Tôi không dám tiếp nhận những lời hướng dẫn, khích lệ hay khuyên nhủ của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng những lời đó không được phán cho những người như tôi. Tôi thậm chí còn cảm thấy mình không xứng đáng khi thề nguyện trước Đức Chúa Trời, và càng không xứng được tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của lời Ngài. Đặc biệt là khi nghe tin Trần Hoa đã trở thành Giu-đa và bị thanh trừ, tôi đã nghĩ mình với Trần Hoa chẳng khác gì nhau. Tôi muốn cứu lấy bản thân nên đã khai ra người anh em kia và nơi cất tiển của hội thánh, dẫn đến việc anh ấy bị truy lùng và không thể trở về nhà. Để bảo vệ bản thân, tôi đã mang đến tai họa lớn như thế cho người anh em này. Tôi thực sự quá ích kỷ, quá thiếu nhân tính! Bản chất hành động của tôi là của Giuđa. Theo như những gì tôi đã làm, Đức Chúa Trời có thể làm bất cứ điều gì với tôi. Ngay cả khi Ngài có tống tôi xuống địa ngục thì cũng không quá đáng. Nhưng Đức Chúa Trời đã không hề đối xử với tôi dựa trên sự vi phạm của tôi, mà còn cho tôi cơ hội sống đời sống hội thánh và thực hiện bổn phận của mình. Việc tôi có thể sống và thực hiện bổn phận ngày hôm nay chính là nhờ ân điển và sự nâng đỡ của Đức Chúa Trời. Lẽ ra tôi nên mưu cầu lẽ thật và giải quyết sự bại hoại của mình, ăn năn và thực hiện tốt bổn phận. Tuy nhiên, tôi vẫn bị ám ảnh bởi sự vi phạm trước đây và lo cho tiền đồ, vận mệnh của mình. Sống trong trạng thái chán nản và tiêu cực, tôi ngày càng trở nên thụ động hơn khi thực hiện bổn phận, điều này không chỉ gây ra tổn thất cho công tác mà còn cản trở lối vào sự sống của tôi. Tôi đã đánh mất nhiều cơ hội để đạt được lẽ thật. Sau khi đọc đoạn lời này của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy Ngài đang nói chuyện trực tiếp với tôi. Ngài không muốn mọi người rơi vào trạng thái chán nản sau khi vi phạm; Ngài muốn mọi người có thể phản tỉnh và tiếp tục phấn đấu theo đuổi mục tiêu của mình. Bất kể lúc nào cũng không được từ bỏ việc mưu cầu lẽ thật. Thấy được tình yêu chân thực của Đức Chúa Trời, tôi đã quyết tâm tìm kiếm lẽ thật và loại bỏ trạng thái tiêu cực đang trói buộc mình.
Sau đó, tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Mọi người tin Đức Chúa Trời hòng để được ban phước, được tưởng thưởng, được đội mão triều thiên. Chẳng phải điều này tồn tại trong lòng mọi người sao? Thật sự là như vậy. Mặc dù mọi người không thường nói về nó, và thậm chí còn che đậy động cơ và ham muốn được phước, nhưng khao khát và động cơ sâu thẳm trong lòng người này luôn bất di bất dịch. Dù con người có hiểu được bao nhiêu lý thuyết thuộc linh, họ có trải nghiệm hay nhận thức gì, có thể thực hiện bổn phận gì, phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ, hay phải trả giá thế nào, họ cũng không bao giờ buông bỏ được động lực muốn có phước lành ẩn giấu sâu trong lòng, và luôn âm thầm lao nhọc phục vụ động lực đó. Chẳng phải đây là điều sâu kín nhất trong lòng người sao? Nếu không có động cơ nhận được phước lành này, các ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Các ngươi sẽ thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời với thái độ ra sao? Con người sẽ ra sao nếu động cơ được nhận phước lành ẩn sâu trong lòng họ bị dẹp bỏ? Có lẽ nhiều người sẽ trở nên tiêu cực, trong khi một số người sẽ trở nên mất động lực làm bổn phận. Họ sẽ mất hứng thú trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, như thể linh hồn của họ đã tan biến. Trông họ như thể bị mất hồn. Đó là lý do tại sao Ta phán động cơ được nhận phước lành là điều được ẩn giấu sâu kín trong lòng người” (Sáu dấu chỉ của sự phát triển trong sự sống, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi thấy Đức Chúa Trời vạch rõ rằng con người tin vào Ngài đều là có động cơ ngầm, tất cả đều nhằm mục đích đạt được phước lành. Khi tiền đồ, vận mệnh của họ bị ảnh hưởng và không thể đạt được phước lành, họ cho rằng việc tin vào Đức Chúa Trời là vô nghĩa, họ sẽ sống trong trạng thái chán nản và không muốn phấn đấu nữa. Đây là sự mưu cầu sai lầm của con người khi tin vào Đức Chúa Trời. Tôi đã phản tỉnh bản thân dựa trên lời của Đức Chúa Trời: Hồi đó, khi mới tiếp nhận giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời, tôi đã dâng mình và tìm mọi cách để đạt được phước lành. Sau khi bị bắt, tôi đã bán đứng người anh em đó và đã vi phạm vì sợ phải chịu đau khổ và bị hành hạ đến chết. Tôi từng nghĩ mình sẽ không bao giờ có cơ hội được cứu rỗi nữa, tôi sống trong tâm trạng chán nản và tự quy định bản thân. Sau khi ra tù, tôi sẵn lòng tiếp nhận và thuận phục bất cứ bổn phận nào chỉ vì để chuộc tội và nhận được phước lành chứ không phải là vì ăn năn thực sự. Có lần khi nghĩ mình sẽ không được cứu rỗi và nhận được phước lành nữa, tôi đã trở nên tiêu cực đến mức không còn tâm trạng để thực hiện bổn phận. Tôi nhận ra lúc đó mình thực hiện bổn phận chỉ là để đạt được phước lành, và đang giao dịch với Đức Chúa Trời. Tôi chẳng khác nào Phao-lô cả. Hồi đó, Phao-lô đã làm mọi cách để chống đối Đức Chúa Jêsus, bắt giữ và bách hại các môn đồ của Chúa, và cuối cùng, ông ta đã bị ánh sáng chói lóa đánh gục. Lúc đó, ông ta đã thừa nhận mình có tội, và sau này ông rao truyền phúc âm cho Chúa cũng là để chuộc tội; cả hai điều này đều không phải là thực sự ăn năn và thay đổi. Ông không biết thực chất chống đối Đức Chúa Trời của mình, và khi có được chút thành quả trong công tác, ông ta liền tưởng mình đã có chút vốn liếng đến mức dám công khai thực hiện giao dịch với Đức Chúa Trời, và nói rằng: “Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:8). Ông đã xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, bị Đức Chúa Trời rủa sả và trừng phạt. Ngẫm lại lời Đức Chúa Trời, tôi càng hận bản thân hơn. Tôi đã làm một điều ác khủng khiếp như vậy mà vẫn đang đổi chác với Đức Chúa Trời; tôi thật không có chút lý trí nào! Kể cả sau này nếu tôi không có được kết cục và đích đến tốt đẹp thì đó vẫn là sự công chính của Đức Chúa Trời. Đó là vì tôi đã hành ác và phản bội Đức Chúa Trời. Những vết phồng rộp ở chân tôi là do con đường tôi đã đi; tôi gieo nhân nào thì phải gặt quả nấy. Cho dù kết cục của tôi có thế nào đi chăng nữa, tôi cũng nên đứng vào vị trí loài thọ tạo của mình và thực hiện tốt bổn phận; tôi nên có lý trí và thực hành như vậy. Tôi đã đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Ngài, “Lạy Đức Chúa Trời! Con đã tin Ngài để có được phước lành, phần thưởng, khi từ bỏ và dâng mình, con lại đang đổi chác với Ngài. Con chẳng có chút lý trí nào cả! Nếu ai đó nuôi một con chó, nó sẽ biết báo ơn chủ và giữ nhà. Còn con thì… Ngài đã chăm tưới và cung ứng cho con rất nhiều lẽ thật, cũng như tỏ lòng thương xót và bao dung với con, vậy mà con lại đổi chác với Ngài. Khi nghĩ bản thân có thể sẽ không có đích đến tốt đẹp, con đã không muốn chăm chỉ thực hiện bổn phận nữa. Con còn tệ hơn cả một con chó! Lạy Đức Chúa Trời, con sẵn lòng ăn năn. Dù sau này kết cục của con có thế nào, con cũng sẽ trung thành thực hiện bổn phận và không còn tin Ngài chỉ để đạt được phước lành nữa”.
Sau đó, tôi đã đọc được thêm một số lời của Đức Chúa Trời, những lời này đã giúp tôi có chút hiểu biết về tâm tính công chính của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Hầu hết mọi người đều có vi phạm trong quá khứ và những vết nhơ. Chẳng hạn như, một số người đã chống đối Đức Chúa Trời và nói những điều báng bổ; một số người đã từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời và không thực hiện bổn phận của họ, rồi bị Đức Chúa Trời ghét bỏ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời khi họ phải đối mặt với những cám dỗ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời bằng việc ký tên vào ‘Tam thư’ khi họ bị bắt; một số người đã ăn cắp của lễ; một số người đã phung phí của lễ; một số người thường xuyên làm nhiễu loạn đời sống hội thánh và gây hại cho những người được Đức Chúa Trời chọn; một số người thì lập bè phái và trừng trị người khác, làm xáo trộn hội thánh; một số người thường xuyên truyền bá các quan niệm và cái chết, làm hại các anh chị em; và một số người thì lăng nhăng và dâm loạn, đã gây ảnh hưởng cực kỳ xấu. Điều đó đủ để nói rằng ai cũng có những vi phạm và vết nhơ. Ấy thế mà một số người có thể tiếp nhận lẽ thật và ăn năn trong khi những người khác thì lại không thể và có chết cũng không chịu ăn năn. Bởi vậy người ta nên được đối xử theo như thực chất bản tính của họ và những biểu hiện nhất quán của họ. Những người có thể ăn năn là những người thật sự tin Đức Chúa Trời, còn những kẻ thực sự không ăn năn, những kẻ đáng bị thanh trừ và khai trừ thì sẽ bị thanh trừ và khai trừ. … Đức Chúa Trời xử lý từng người dựa theo các tình huống thực tế về hoàn cảnh và bối cảnh của người đó, cũng như theo các hành động, cư xử và thực chất bản tính của họ. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ xử oan bất kỳ ai. Đây là một mặt của sự công chính của Đức Chúa Trời. … Việc Đức Chúa Trời xử lý một con người không đơn giản như người ta nghĩ. Khi thái độ của Ngài đối với một người là khinh ghét hoặc ác cảm, hoặc khi nói đến điều người này phát biểu trong một bối cảnh nhất định, thì Ngài hiểu rõ tình trạng của họ. Điều này là do Đức Chúa Trời dò xét nội tâm và thực chất con người. Con người luôn nghĩ: ‘Đức Chúa Trời chỉ có thần tính của Ngài. Ngài công chính và không cho phép con người xúc phạm. Ngài không xét đến những khó khăn của con người hay đặt mình vào vị trí của con người. Nếu một người chống đối Đức Chúa Trời, Ngài sẽ trừng phạt họ’. Mọi chuyện hoàn toàn không phải là như vậy. Nếu đó là cách người ta hiểu về sự công chính của Ngài, công tác của Ngài, và cách Ngài đối xử với con người, thì họ đã sai lầm nghiêm trọng. Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của mỗi người không dựa trên quan niệm và trí tưởng tượng của con người mà dựa trên tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đáp trả mỗi người tùy theo những gì họ đã làm. Đức Chúa Trời là công chính, và sớm hay muộn Ngài sẽ khiến tất cả mọi người đều hoàn toàn tâm phục khẩu phục” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng Đức Chúa Trời có nguyên tắc trong cách đối xử với con người. Ngài không quyết định kết cục của con người dựa trên sự vi phạm nhất thời của họ, mà là dựa vào bối cảnh và bản chất hành động của họ, và việc liệu một người có thể tiếp nhận lẽ thật và thực sự ăn năn hay không; đây là sự công chính của Đức Chúa Trời. Nghĩ đến đây, lòng tôi chợt thấy sáng tỏ. Tôi nhận ra Đức Chúa Trời đối xử với con người không chỉ có sự phán xét công chính mà còn có lòng thương xót. Không phải với ai Ngài cũng đối xử như nhau. Nghĩ lại lúc phản bội Đức Chúa Trời vì xác thịt yếu đuối, tôi tưởng rằng chỉ cần làm những việc như thế thì mình sẽ bị lên án và đào thải, và dù có ăn năn thế nào đi nữa, tôi cũng không thể được cứu rỗi. Có vẻ tôi đã không hiểu tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Cả tôi và Trần Hoa đều đã bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Hội thánh đã cho tôi một cơ hội khác để thực hiện bổn phận, chủ yếu dựa trên bối cảnh và bản chất sự phản bội của tôi, dựa trên hành vi nhất quán của tôi khi thực hiện bổn phận. Hồi đó, tôi bị cảnh sát tra tấn suốt bảy ngày bảy đêm, và cơ thể tôi không thể chịu đựng thêm chút nào nữa. Tôi đã không nhìn thấu âm mưu xảo quyệt của Sa-tan, và trong một phút yếu lòng, tôi đã phản bội Đức Chúa Trời. Chuyện đó không gây ra tổn thất lớn, nhưng sau đó tôi đã hối hận và ghê tởm chính mình. Đây được coi là một sự vi phạm nghiêm trọng và nhà Đức Chúa Trời đã cho tôi cơ hội ăn năn. Trong khi đó, sau khi Trần Hoa bị bắt, cảnh sát chỉ mới hỏi cô ta vài câu thì chị đã khuất phục trước sức mạnh tàn bạo của con rồng lớn sắc đỏ và bán đứng nhiều lãnh đạo, người làm công và các gia đình cất giữ sổ sách, dẫn đến việc nhiều anh chị em bị bắt và gây thiệt hại to lớn cho công tác hội thánh. Sự vi phạm của Trần Hoa không phải chỉ là yếu đuối nhất thời; mà chị ấy có thực chất của một Giu-đa. Hội thánh đã thanh trừ chị ấy dựa trên tính chất hành động của chị và hậu quả mà nó gây ra. Đây hoàn toàn là sự công chính của Đức Chúa Trời. Hiểu được điều này, tôi đã có một số hiểu biết về tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, thấy rằng tâm tính của Ngài rất đẹp đẽ và tốt lành. Tuy nhiên, tôi đã đề phòng và nghi ngờ Đức Chúa Trời, và giờ tôi càng cảm thấy mắc nợ Ngài nhiều hơn. Tôi quyết tâm ăn năn và thay đổi, nếu có bị bắt và bị bách hại lần nữa, thì dù xác thịt có đau đớn đến thế nào, hoặc kể cả có chết, tôi vẫn sẽ đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời và hạ nhục Sa-tan, không phản bội Đức Chúa Trời nữa.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời khác của Đức Chúa Trời và học được cách nhìn nhận sự vi phạm của mình. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Và làm thế nào ngươi có thể được Đức Chúa Trời xá tội và tha thứ? Điều này phụ thuộc vào tấm lòng của ngươi. Nếu ngươi thực sự thú tội, thực sự nhận ra lỗi lầm và vấn đề của mình, và dù đó là một vi phạm mà ngươi phạm phải hay một tội chướng, thì ngươi cũng có thái độ thực sự thú tội, thực sự căm ghét những gì mình đã làm, và thực sự quay đầu, để không bao giờ tái phạm nữa, thì một ngày nào đó, ngươi sẽ nhận được sự xá tội và tha thứ của Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời sẽ không còn quyết định kết cục của ngươi dựa trên những điều vô tri, ngu xuẩn và bẩn thỉu mà ngươi đã từng làm trước đây nữa. … Có người hỏi: ‘Con phải cầu nguyện bao nhiêu thì mới biết được Đức Chúa Trời đã tha thứ cho mình?’. Khi ngươi không còn cảm thấy bị buộc tội vì vấn đề này nữa, khi ngươi không còn rơi vào sự chán nản vì vấn đề này nữa, đó là lúc ngươi đã đạt được kết quả, và điều đó cho thấy rằng Đức Chúa Trời đã xá tội cho ngươi. Khi không có ai, hay quyền lực, thế lực bên ngoài nào có thể làm nhiễu loạn ngươi và khi ngươi không bị kìm kẹp bởi bất kỳ con người, sự việc hay sự vật nào nữa, thì đó là lúc ngươi đạt được kết quả. Đây là bước đầu tiên ngươi cần thực hiện. Bước thứ hai là, trong khi liên tục khẩn cầu Đức Chúa Trời xá tội, ngươi nên chủ động tìm kiếm những nguyên tắc mà ngươi nên tuân thủ khi thực hiện bổn phận của mình – chỉ có như thế, ngươi mới có thể làm tròn bổn phận của mình. Tất nhiên, đây cũng là một hành động thực tế, một biểu hiện và thái độ thực tế bù đắp cho sự vi phạm của ngươi, đồng thời chứng tỏ rằng ngươi đã ăn năn và quay đầu; đây là điều ngươi nên làm. Ngươi thực hiện bổn phận của mình, sự ủy thác mà Đức Chúa Trời giao cho mình tốt đến mức nào? Ngươi tiếp cận nó với thái độ chán nản hay với những nguyên tắc Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi phải tuân theo? Ngươi có dâng lòng trung thành của mình không? Đức Chúa Trời xá tội cho ngươi dựa trên cơ sở nào? Ngươi đã bày tỏ sự ăn năn nào chưa? Ngươi đang thể hiện điều gì với Đức Chúa Trời? Nếu muốn nhận được sự xá tội của Đức Chúa Trời thì trước hết ngươi phải thành tâm: một mặt ngươi phải có thái độ thành khẩn thú tội, đồng thời ngươi cũng phải dâng sự thành tâm và làm tròn bổn phận của mình, nếu không thì chẳng còn gì để nói. Nếu ngươi có thể làm được hai điều này, nếu ngươi có thể lay động Đức Chúa Trời bằng thành tâm và thành ý của mình, để Đức Chúa Trời tha tội lỗi cho ngươi, thì ngươi cũng sẽ giống như những người khác. Đức Chúa Trời sẽ nhìn ngươi giống như cách Ngài nhìn người khác, Ngài sẽ đối xử với ngươi giống như cách Ngài đối xử với người khác, và Ngài sẽ phán xét và hành phạt, thử luyện và tinh luyện ngươi giống như cách Ngài làm với người khác – ngươi sẽ được đối xử không khác gì. Như thế, ngươi sẽ không chỉ có quyết tâm và mong muốn mưu cầu lẽ thật, mà trong quá trình ngươi mưu cầu lẽ thật, Đức Chúa Trời còn sẽ khai sáng, dẫn dắt và cung ứng cho ngươi theo cách tương tự. Tất nhiên, vì bây giờ ngươi thành tâm thật ý, có thái độ thành khẩn, nên Đức Chúa Trời sẽ đối xử với ngươi không khác bất kỳ ai khác và ngươi sẽ có cơ hội đạt được sự cứu rỗi như những người khác. Các ngươi hiểu được không? (Thưa, hiểu.)” (Cách mưu cầu lẽ thật (2), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). Suy ngẫm về lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu ra rằng dù một người từng có vi phạm gì, điều Đức Chúa Trời muốn là sự ăn năn và thay đổi thực sự của họ. Nếu một người phạm sai lầm, họ phải đến trước Đức Chúa Trời và thành khẩn thừa nhận tội lỗi của mình. Tiếp theo, họ phải giữ vững bổn phận một cách trung thành, dùng những hành động thiết thực để bù đắp cho những vi phạm của mình. Đa-vít cũng thế, Đức Chúa Trời đã sai một nhà tiên tri đến để nói chuyện với ông vì ông đã phạm tội ngoại tình khi ngủ với vợ của U-ri. Đa-vít biết mình đã phạm tội, ông thừa nhận điều đó và tỏ ra ăn năn với Đức Chúa Trời. Ông đã khóc đến mức có thể làm trôi chiếc giường trong phòng mình, và khi về già, ông thậm chí còn không chạm vào cô gái đã sưởi ấm chăn cho ông. Ngoài ra, cùng với sự ăn năn sâu sắc, ông còn dùng hành động thực tế để giữ vững bổn phận của mình, xây dựng đền thánh và dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Thái độ của Đa-vít đối với sự vi phạm của mình không phải là thái độ chán nản mà là thái độ tích cực và tiến về phía trước. Ông đã thực sự ăn năn và thay đổi. Cả Phi-e-rơ cũng vậy, ông đã từ chối Chúa ba lần và đánh mất lời chứng. Thái độ của Phi-e-rơ cũng không phải là thái độ chán nản. Thay vào đó, ông thành khẩn thừa nhận những vi phạm của mình trước Đức Chúa Trời và thực sự ăn năn. Cuối cùng, ông bị đóng đinh lộn ngược vì Chúa như một lời chứng cho sự yêu kính ông dành cho Đức Chúa Trời. Tôi phải noi gương Đa-vít và Phi-e-rơ, đối mặt với sự vi phạm của mình bằng sự tích cực và buông bỏ trạng thái chán nản, mưu cầu sự ăn năn và thay đổi thực sự trước Đức Chúa Trời. Đây là sự thực hành và thái độ mà tôi nên có.
Sau đó, tôi đã phản tỉnh về lý do tại sao lúc trước mình lại phản bội Đức Chúa Trời khi bị bắt. Đó là vì tôi đã quá quan tâm đến xác thịt và quá trân trọng sinh mạng của mình. Tôi nghĩ về những gì Đức Chúa Jêsus đã nói: “Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống, thì sẽ cứu” (Lu-ca 9:24). Thực ra, việc tôi sống hay chết đều do Đức Chúa Trời sắp đặt và tể trị. Miễn là có thể đứng vững trong lời chứng cho Đức Chúa Trời thì dù có bị cảnh sát bách hại đến chết thì cái chết của tôi cũng có giá trị và ý nghĩa. Giờ khi đã phản bội Đức Chúa Trời, và dù xác thịt không phải chịu đau khổ, thì tôi cũng phải chịu nỗi đau trong tim. Hễ cứ nghĩ đến việc đã khai ra người anh em đó và tiền của hội thánh là lòng tôi lại đau như cắt. Điều này đã trở thành vết nhơ không thể xóa nhòa; một nỗi đau bất tận của tôi. Trên thực tế, đau khổ về mặt xác thịt chỉ là tạm thời và nó sẽ qua đi nếu ta biết chịu đựng, nhưng nỗi đau trong lòng thì sẽ luôn còn mãi. Tôi bảo toàn được xác thịt nhưng lại mất đi sự bình yên và niềm vui, sống như một xác chết biết đi. Tôi nghĩ đến những anh chị em trong tù đã đứng vững làm chứng. Mặc dù thân xác họ phải chịu nhiều đau khổ, và một số thậm chí còn bị cảnh sát đánh chết, nhưng họ đã chết vì chính nghĩa. Cái chết như vậy có giá trị và ý nghĩa, được Đức Chúa Trời khen ngợi và ghi nhớ. Tôi nhận ra rằng có một khía cạnh khác giải thích tại sao mình lại bán đứng hội thánh, đó là tôi đã không nhận ra âm mưu xảo quyệt của cảnh sát. Khi nghe chúng nói chúng đã tìm thấy tiền của hội thánh, tôi bèn nghĩ rằng vì chúng đã lấy được tiền rồi nên tôi có nói hay không thì cũng thế thôi. Nếu nói ra, tôi sẽ không bị tra tấn nữa. Kết quả là tôi đã đánh mất chứng ngôn của mình. Thực tế, bất kể chúng có tìm thấy tiền của hội thánh hay không thì tôi cũng nên im lặng. Điều Đức Chúa Trời muốn là lòng trung thành và lời chứng của tôi. Khi tìm ra nguyên nhân thất bại của mình, tôi đã quyết tâm: Sau này, nếu lại bị bắt, dù có chết tôi cũng sẽ không bán đứng lợi ích của hội thánh nữa. Nghĩ lại những năm qua, tôi đã luôn né tránh vấn đề này. Tôi không muốn đối mặt với thực tế và giải quyết vấn đề của riêng mình. Mặc dù hận bản thân nhưng tôi chưa bao giờ thực sự biết chính mình. Tôi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng chán nản. Dưới sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời, cuối cùng tôi đã loại bỏ được sự ngăn cách và hiểu lầm giữa mình và Đức Chúa Trời. Giờ đây, Đức Chúa Trời đã ban cho tôi ân điển được thực hiện bổn phận chăm tưới cho người mới, và tôi phải thực hiện công tác chăm tưới của mình theo nguyên tắc, dẫn dắt các anh chị em hiểu được lẽ thật, đặt nền móng cho con đường thật và chuẩn bị những việc tốt lành. Bây giờ tôi đã có thể nhìn nhận đúng đắn sự vi phạm của mình, và tôi không còn hiểu lầm hay đề phòng Đức Chúa Trời nữa. Tôi cũng đã cởi mở và thông công về trải nghiệm thất bại này với các anh chị em, làm chứng cho tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Trong các buổi nhóm họp, tôi đã tích cực thông công, và khi gặp vấn đề, khó khăn trong bổn phận, tôi có thể chủ động tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh bản thân. Sau một thời gian thực hành như vậy, rõ ràng là tôi đã thay đổi được trạng thái của mình và đang được Đức Chúa Trời dẫn dắt thực hiện bổn phận. Thấy Đức Chúa Trời đã không bỏ rơi tôi vì sự vi phạm của tôi mà vẫn dẫn dắt và hướng dẫn tôi tôi nhận ra rằng vi phạm không phải là điều đáng sợ nhất. Miễn là một người thành tâm sám hối và có thể thực hành lẽ thật theo nguyên tắc, thì họ có thể có được lòng thương xót và sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Đúng như Đức Chúa Trời phán: “Sự nhân từ và khoan dung của Đức Chúa Trời không hiếm hoi – Sự sám hối đích thực của con người mới hạn hữu” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Việc tôi có thể có được hiểu biết và trải nghiệm này đều là nhờ sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời! Vinh danh Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?