Một chút phản tỉnh và nhận thức về tính ích kỷ của bản thân

22/10/2025

Bởi Nghiêm Trân, Trung Quốc

Vào tháng 4 năm 2024, tôi được chọn làm lãnh đạo tiểu khu. Lúc đó, tôi cảm thấy áp lực vô cùng. Tôi cảm thấy bổn phận này trách nhiệm thật nặng nề, sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, cũng phải lo liệu nhiều việc và trả giá không ít. Nhưng tôi nhận ra bổn phận này đến với mình là ân đãi của Đức Chúa Trời, và tôi không nên chỉ nghĩ đến lợi ích xác thịt của riêng mình, nên đã vui vẻ tiếp nhận. Vì mới nhận bổn phận này nên công việc được giao cho tôi tương đối nhẹ nhàng, tôi chỉ phụ trách công tác văn tự và đời sống hội thánh. Lúc rảnh rỗi, tôi còn có thể xem video, nghe thánh ca. Tôi cảm thấy thực hiện bổn phận như vậy cũng khá tốt. Không lâu sau, một người chị em phối hợp với tôi bị cách chức vì không làm công tác thực tế, nên tôi đã tiếp quản công tác thanh lọc mà chị ấy phụ trách. Khi bàn giao công tác, tôi mới phát hiện công tác thanh lọc tồn tại rất nhiều vấn đề: nhân sự sắp xếp tài liệu thanh trừ không đủ, còn có rất nhiều tài liệu thanh trừ bị tồn đọng cần xét duyệt. Tôi cảm thấy khối lượng công việc của mình đột nhiên tăng lên rất nhiều. Công việc cứ dồn dập hết việc này đến việc khác, lịch trình mỗi ngày của tôi đều kín mít.

Một hôm, khi tôi đang xử lý công việc trong tay, người chị em cộng sự là Khâu Diễm nói: “Công tác phúc âm hiện đang gặp khó khăn, hiệu quả công tác sa sút nghiêm trọng, cần mọi người cùng nhau bàn bạc để giải quyết”. Lúc trước khi làm lãnh đạo hội thánh, tôi cũng biết chút ít về tình hình này. Khi các anh chị em gặp khó khăn trong việc rao truyền phúc âm thì dễ bị chùn bước, còn lãnh đạo và người làm công lại không chú trọng giải quyết những vấn đề thực tế này mà cứ một mực thúc giục tiến độ. Đây là nguyên nhân chính khiến công tác phúc âm không đạt hiệu quả. Lúc đó tôi định nói ra vấn đề này, nhưng lại nghĩ: “Công tác thanh lọc mình đang phụ trách cũng có nhiều vấn đề, ngày nào đầu óc cũng không ngơi nghỉ. Nếu giờ lại tham gia vào công tác phúc âm, chẳng phải mình sẽ phải lo thêm việc sao? Mình lấy đâu ra nhiều sức lực như vậy chứ?”. Thế là tôi nghĩ mình cứ lo cho tốt công việc mình phụ trách là được. Nghĩ vậy, tôi không nói gì cả, chỉ tiếp tục làm việc của mình. Lúc này, Khâu Diễm hỏi tôi: “Trước đây chị từng làm lãnh đạo hội thánh, chắc chị cũng hiểu chút ít về tình hình công tác phúc âm của hội thánh, chị có đề xuất gì hay không?”. Tôi thầm nghĩ: “Công việc trong tay mình còn chưa xử lý xong, giờ mà bàn bạc công tác phúc âm thì chẳng phải công việc của mình sẽ bị trì hoãn sao?”. Thế là tôi từ chối: “Chị cứ bàn với Lý Nguyệt là được rồi. Hiện tại tôi đang có việc gấp cần xử lý”. Rồi tôi lại tiếp tục làm việc của mình. Lý Nguyệt thấy thái độ của tôi như vậy, bèn nghiêm túc nói: “Suy cho cùng, một người nhìn nhận vấn đề cũng có giới hạn. Giải quyết khó khăn trong công tác cần mọi người cùng tham gia. Thái độ của chị như vậy là vô trách nhiệm!”. Nghe chị ấy chỉ trích, trong lòng tôi cũng thấy áy náy, cảm thấy mình làm vậy thật quá ích kỷ. Lúc này tôi mới dừng công việc trong tay và tham gia thảo luận. Tôi cũng nói ra những vấn đề mà mình nhận thấy khi thực hiện bổn phận trong hội thánh, và chẳng bao lâu sau, qua thông công, chúng tôi đã tìm ra được phương án giải quyết.

Vài ngày sau, Lý Nguyệt và Khâu Diễm đang thảo luận về vấn đề bồi dưỡng người chăm tưới. Họ nói rằng một số lãnh đạo hội thánh không chú trọng bồi dưỡng nhân sự, dẫn đến việc hội thánh thiếu người chăm tưới, khiến một số người mới không được chăm tưới kịp thời, gây cản trở nghiêm trọng cho công tác chăm tưới người mới. Họ nói cần phải viết thư cho các lãnh đạo hội thánh để trao đổi về vấn đề này. Họ cũng mời tôi tham gia thảo luận để giải quyết vấn đề, nhưng tôi lại nghĩ: “Chuyện này đâu phải bàn một lần là xong. Những vấn đề này vừa tốn thời gian lại vừa hao tâm tổn trí, vả lại công tác chăm tưới cũng đâu phải do mình phụ trách. Bàn bạc chuyện này sẽ làm trì hoãn công việc trong tay mình, sau này nếu công việc tồn đọng, mình còn phải tốn thêm thời gian để xử lý. Hơn nữa, vấn đề có được giải quyết thì công lao cũng đâu thuộc về mình. Vừa tốn thời gian công sức, lại còn làm trì hoãn công việc của bản thân, mình được gì trong chuyện này đây?”. Thế là tôi trả lời qua loa: “Tôi không nhìn thấu những vấn đề này lắm, cũng không đưa ra được đề xuất gì hay ho. Các chị cứ bàn trước đi, rồi viết thư thông công với các lãnh đạo hội thánh, viết xong chúng ta cùng xem lại”. Nghe tôi trả lời, các chị em không nói gì, đành phải tự mình bàn bạc trước. Sau đó, Khâu Diễm viết xong thư và nhờ chúng tôi góp ý. Tôi xem lướt qua, thấy có vài chỗ chưa rõ ràng, cần bổ sung và hoàn thiện, nhưng tôi lại không muốn bỏ công sức ra sửa, nên chỉ nói sơ qua một vài vấn đề tồn tại. Nghe tôi góp ý xong, Khâu Diễm vẫn không biết phải bổ sung thế nào, bèn khó xử nói: “Tôi không giỏi viết thư lắm, sửa lại cũng thấy khó, hay là chị giúp tôi sửa và bổ sung nhé? Như vậy sẽ không làm trì hoãn công tác”. Tôi vẫn một mực bảo chị ấy tự sửa. Thấy tôi cứ đùn đẩy mãi, cuối cùng chị ấy chỉ trích tôi: “Hôm qua bàn vấn đề này chị đã không tham gia, bây giờ thư viết xong rồi, nhờ chị bổ sung hoàn thiện chị cũng không giúp. Công tác hội thánh là một thể thống nhất, ai cũng có trách nhiệm, chị chỉ lo cho phần việc của mình, như vậy thật quá ích kỷ và đê tiện!”. Khi nghe chị ấy nói vậy, tôi cảm thấy rất oan ức, và bắt đầu có cái nhìn không tốt về các chị em, nghĩ rằng họ không hề thấu hiểu cho khó khăn của tôi. Tôi nghĩ: “Mình mới làm bổn phận này chưa được bao lâu, công việc mỗi ngày đã nhiều lắm rồi. Giờ lại muốn mình dành thêm thời gian cho công việc mà các chị phụ trách, đến lúc công việc của các chị đạt hiệu quả thì công lao cũng thuộc về các chị. Mình chỉ là người tham gia sau hậu trường, chẳng được lợi lộc gì. Công việc của mình bị tồn đọng lại còn phải tốn thời gian và công sức để xử lý, như vậy thì thiệt thòi quá!”. Nhưng thấy chị ấy có vẻ khó xử, tôi đành miễn cưỡng đồng ý và sửa lại lá thư. Nhưng trong lòng tôi cảm thấy rất ức chế, cảm thấy bổn phận này quá khó. Tôi không chỉ phải theo dõi công việc của mình mà còn phải tham gia vào công việc của các chị em, tôi chỉ muốn thoát khỏi hoàn cảnh này. Thời gian đó, tôi thực hiện bổn phận trong trạng thái đờ đẫn, tê dại, không cảm nhận được công tác của Đức Thánh Linh, mỗi ngày chỉ làm bổn phận một cách máy móc theo thói quen. Trong đau khổ, tôi mang tình trạng của mình đến trước Đức Chúa Trời, cầu nguyện và tìm kiếm: “Lạy Đức Chúa Trời, con cảm thấy áp lực rất lớn trước những vấn đề trong bổn phận, nhưng lại còn phải tham gia vào công tác chung, trong lòng con cảm thấy kháng cự. Con biết tình trạng của mình không đúng, nhưng lòng con không thể thuận phục được. Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt con, để con có thể tìm kiếm lẽ thật và hiểu được tâm ý của Ngài”.

Khi tĩnh nguyện, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi tin vào sự tể trị của Đức Chúa Trời, thì ngươi phải tin rằng những điều diễn ra hằng ngày, dù xấu hay tốt, đều không xảy ra ngẫu nhiên. Không phải là ai đó cố ý làm khó ngươi hay nhắm vào ngươi; những điều này đều được Đức Chúa Trời an bài và sắp đặt(Để đạt được lẽ thật, ta phải học hỏi từ con người, sự việc và sự vật xung quanh, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời ngay lập tức tháo gỡ nút thắt trong lòng tôi. Những con người, sự việc, sự vật xảy đến mỗi ngày đều là một phần của sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, tôi cần phải tĩnh tâm trước Ngài để rút ra bài học và nhận biết tâm tính bại hoại của mình. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, tôi lại cảm thấy các chị em không thấu hiểu cho khó khăn của mình. Tôi đã sống trong tình trạng chỉ chăm chăm vào con người và sự việc, không có chút thuận phục nào. Tôi phải gạt bản thân sang một bên, đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh bản thân.

Sau đó, tôi đọc được lời Đức Chúa Trời: “Bất kể đảm đương công tác gì, những kẻ địch lại Đấng Christ không bao giờ suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Họ chỉ suy xét xem lợi ích của bản thân có bị tổn hại hay không, chỉ nghĩ về chút việc nhỏ trước mắt và có lợi cho họ. Đối với họ, công tác chính của hội thánh chỉ là điều họ làm khi rảnh rỗi. Họ không hề coi trọng nó. Họ chỉ làm khi bị thúc ép, chỉ làm những gì họ thích làm, và chỉ làm những việc để duy trì địa vị và quyền lực của riêng mình. Trong mắt họ, công tác do nhà Đức Chúa Trời sắp xếp, công tác truyền bá phúc âm, và lối vào sự sống của những người được Đức Chúa Trời chọn đều không quan trọng. Dù người khác gặp khó khăn gì trong công tác, đã phát hiện ra và phản ánh vấn đề gì với họ, lời nói chân thành đến mức nào, thì những kẻ địch lại Đấng Christ cũng không để ý đến, không nhúng tay vào, cứ như thể điều này không liên quan gì đến họ. Bất kể công tác của hội thánh phát sinh vấn đề lớn thế nào, họ cũng không quản, không hỏi han. Ngay cả khi vấn đề đang ở ngay trước mắt, họ cũng chỉ giải quyết một cách chiếu lệ. Chỉ khi nào họ bị Bề trên trực tiếp tỉa sửa và ra lệnh giải quyết một vấn đề thì họ mới miễn cưỡng làm chút công tác thực tế và trình cho Bề trên xem thứ gì đó; ngay sau đó, họ sẽ tiếp tục bận rộn với việc riêng của mình. Đối với công tác của hội thánh, đối với những việc quan trọng ở phạm vi rộng hơn, họ không quan tâm, họ không xem ra gì. Thậm chí có phát hiện vấn đề, họ cũng không xử lý, và họ đưa ra những câu trả lời qua loa chiếu lệ hoặc ậm ừ khi được hỏi về vấn đề, chỉ giải quyết chúng một cách hết sức miễn cưỡng. Đây là biểu hiện của sự ích kỷ và đê tiện, có phải không?(Bài bàn thêm 4: Tổng kết về phẩm chất nhân tính và thực chất tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ (Phần 1), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). “Nếu một người tin vào Đức Chúa Trời nhưng lại không nghe theo lời Ngài, không chấp nhận lẽ thật hay thuận phục những sự sắp đặt và an bài của Ngài; nếu họ chỉ biểu lộ một vài hành vi tốt nhất định, nhưng lại không thể chống lại xác thịt và chẳng chịu từ bỏ sĩ diện hay lợi ích nào của bản thân; nếu, mặc dù bên ngoài họ luôn tỏ ra đang thực hiện bổn phận, nhưng họ vẫn sống theo tâm tính Sa-tan của mình, không hề từ bỏ hay thay đổi những triết lý cùng cách sống của Sa-tan, và không hề thay đổi – thì làm sao họ có thể tin vào Đức Chúa Trời được? Đó là tin vào tôn giáo. Những người như vậy bề ngoài từ bỏ mọi thứ và dâng mình, nhưng hãy nhìn vào con đường họ đi, cùng căn nguyên và xuất phát điểm của mọi việc họ làm, họ không dựa trên lời Đức Chúa Trời hay lẽ thật; thay vào đó, họ tiếp tục hành động theo những quan niệm và tưởng tượng suy đoán chủ quan, tham vọng và dục vọng của riêng mình. Những triết lý cùng tâm tính của Sa-tan tiếp tục là cơ sở cho sự tồn tại và hành động của họ. Trong những vấn đề mà họ không hiểu lẽ thật, thì họ không tìm kiếm lẽ thật; trong những vấn đề mà họ hiểu lẽ thật, thì họ không thực hành lẽ thật, không tôn Đức Chúa Trời là vĩ đại hay quý trọng lẽ thật. Dù họ mang danh nghĩa và nói ngoài môi miệng rằng mình tin và thừa nhận Đức Chúa Trời, và dù nhìn bên ngoài họ có thể thực hiện bổn phận và theo Đức Chúa Trời, nhưng họ sống theo tâm tính Sa-tan trong mọi lời nói việc làm của mình. Những lời họ nói và việc họ làm đều là sự bộc lộ tâm tính bại hoại. Các ngươi sẽ không thấy họ thực hành hay trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, càng không thấy họ tìm kiếm và thuận phục lẽ thật trong mọi sự. Trong hành động, họ quan tâm đến lợi ích bản thân trước hết, và đáp ứng những dục vọng và ý định của mình trước hết. Đây mà là người theo Đức Chúa Trời sao? (Không.) … Bất kể đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, họ chẳng thiết lập được mối quan hệ bình thường với Ngài, bất kể họ làm gì hoặc gặp phải chuyện gì, điều đầu tiên họ nghĩ đến là: ‘Mình muốn làm gì đây? Làm gì sẽ có lợi cho mình, làm gì không có lợi cho mình? Nếu mình làm thế này thế kia thì sẽ thế nào?’ – đây là những điều họ quan tâm trước hết. Họ chẳng hề quan tâm xem dạng thực hành nào sẽ làm vinh danh Đức Chúa Trời, làm chứng về Đức Chúa Trời, hoặc làm thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời, họ cũng không cầu nguyện để tìm kiếm xem yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, và lời Ngài phán gì. Họ không bao giờ để tâm xem tâm ý hay yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, cũng không quan tâm chuyện phải thực hành như thế nào để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Dù đôi khi họ cầu nguyện trước Đức Chúa Trời và thông công với Ngài, nhưng đó chỉ đơn thuần là nói chuyện với bản thân, không phải là thật tâm tìm kiếm lẽ thật. Khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời và đọc lời Ngài, họ không liên hệ chúng với những vấn đề mình gặp trong đời thực. Vậy thì, trong hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt, họ đối xử như thế nào với quyền tối thượng, sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời? Khi gặp phải những chuyện không thỏa mãn ý nguyện của mình, thì họ tránh né và chống đối chúng trong lòng. Khi gặp phải những chuyện gây tổn hại cho lợi ích của họ hoặc cản trở thỏa mãn lợi ích của họ, thì họ tìm đủ mọi cách để thoát ra, đấu tranh để tối đa hóa lợi ích của mình và tránh bất kỳ tổn thất nào. Họ không tìm cách đáp ứng tâm ý của Đức Chúa Trời, mà chỉ tìm cách đáp ứng dục vọng của riêng họ. Đây mà là tin Đức Chúa Trời sao? Người như thế có mối quan hệ với Đức Chúa Trời không? Không, không có. Họ sống theo một cách sống đê hèn, bỉ ổi, cương ngạnh và xấu xa. Họ không chỉ không có mối quan hệ với Đức Chúa Trời, mà họ còn quá đỗi đi ngược lại quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời mọi nơi mọi lúc. Họ thường nói: ‘Cầu cho Đức Chúa Trời tể trị và cai quản mọi sự trong đời tôi. Tôi nguyện ý để Đức Chúa Trời ngồi trên ngai, tể trị và cai quản lòng tôi. Tôi nguyện ý thuận phục những sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời’. Tuy nhiên, khi gặp phải chuyện gì tổn hại đến lợi ích của mình, họ lại không thể thuận phục. Thay vì tìm kiếm lẽ thật trong hoàn cảnh được Đức Chúa Trời sắp đặt, họ lại tìm cách xoay chuyển và trốn tránh hoàn cảnh đó. Họ không muốn thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, chỉ muốn làm mọi việc theo ý mình, miễn là lợi ích của họ không bị tổn hại. Họ hoàn toàn không đếm xỉa đến tâm ý của Đức Chúa Trời, chỉ quan tâm đến lợi ích của mình, đến hoàn cảnh, tâm trạng và cảm xúc của mình. Đây mà là tin Đức Chúa Trời sao? (Thưa, không.)” (Người ta không thể được cứu rỗi bởi tin vào tôn giáo hay tham gia vào nghi thức tôn giáo, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời thông công của Đức Chúa Trời rất rõ ràng. Một người thực sự tin Đức Chúa Trời thì có thể tìm kiếm lẽ thật và thuận phục công tác của Ngài khi đối mặt với những điều không phù hợp với quan niệm của mình. Nếu khi đối mặt với những điều không phù hợp với quan niệm, một người không hề tìm kiếm lẽ thật, chỉ xem xét lợi ích của riêng mình và tìm lối thoát, thì người đó không phải là người thực sự tin Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời không khen ngợi họ. Kẻ địch lại Đấng Christ chính là loại người này. Họ không bao giờ xem xét lợi ích của nhà Đức Chúa Trời hay tình hình chung trong khi thực hiện bổn phận của mình, mà chỉ làm những gì có lợi cho danh lợi và địa vị của họ. Nếu điều gì đó không mang lại lợi ích cho họ, thì dù họ có nhận thấy vấn đề hay người khác tìm kiếm sự giúp đỡ, kẻ địch lại Đấng Christ cũng sẽ nhắm mắt làm ngơ, bịt tai không nghe. Họ hoàn toàn lạnh lùng, vô tình, ích kỷ, đê tiện và vô nhân tính. Đối mặt với sự vạch rõ của lời Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy xấu hổ và bẽ bàng. Vào khoảnh khắc đó, dưới ánh sáng của lời Đức Chúa Trời, mọi sự oan ức, chống đối và không phục của tôi đều trở nên thật vô lý. Tôi nghĩ lại việc mình đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm. Bề ngoài, tôi đã vứt bỏ gia đình và sự nghiệp, có vẻ như thực sự tin Đức Chúa Trời, nhưng trong bổn phận, mọi suy nghĩ và cân nhắc của tôi đều vì lợi ích của bản thân, tôi không hề bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời chút nào. Sao tôi có thể là thành viên của nhà Đức Chúa Trời được chứ? Khi các chị em thảo luận về những vấn đề trong công tác phúc âm và muốn cùng nhau tìm ra giải pháp, dù tôi hiểu một số tình hình cụ thể, nhưng lại sợ rằng nếu nói ra thì sẽ phải tham gia giải quyết, làm trì hoãn công việc của mình, nên tôi đã lấy cớ bận việc để từ chối tham gia. Khi hội thánh thiếu người chăm tưới và cần gấp một lá thư thông công về việc bồi dưỡng nhân sự gửi cho các lãnh đạo, tôi lại sợ công việc của mình sẽ tăng thêm, và nghĩ rằng dù có làm tốt thì cũng chẳng được ghi công, nên tôi chỉ trả lời qua loa và không muốn tham gia. Khi người chị em viết xong lá thư và nhờ tôi kiểm tra, tôi nhận thấy có vấn đề nhưng lại không muốn tốn thời gian sửa chữa. Đối với những công việc này, không phải là tôi không phát hiện ra vấn đề hay không biết cách giải quyết, mà là vì tôi quá ích kỷ và đê tiện, chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình. Nếu điều gì đó không có lợi cho danh dự hay địa vị của tôi, tôi sẽ không muốn làm. Trong lòng tôi làm gì có chút địa vị nào cho Đức Chúa Trời chứ? Với biểu hiện như vậy, khi bị chị em tỉa sửa là ích kỷ và đê tiện, tôi còn cảm thấy oan ức, muốn trốn tránh và từ bỏ bổn phận này. Tôi thật quá vô lý! Đặc biệt là khi tôi đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Họ không tìm cách đáp ứng tâm ý của Đức Chúa Trời, mà chỉ tìm cách đáp ứng dục vọng của riêng họ. Đây mà là tin Đức Chúa Trời sao? Người như thế có mối quan hệ với Đức Chúa Trời không? Không, không có”. Tôi cảm thấy có chút cảm động. Tôi đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, ăn uống rất nhiều lời của Ngài và hưởng thụ biết bao ân điển, phước lành của Ngài, nhưng khi thấy vấn đề nảy sinh trong những công tác trọng yếu như công tác phúc âm và công tác chăm tưới, tôi lại phớt lờ. Sao tôi có thể tự gọi mình là người tin Đức Chúa Trời được chứ? Ngay cả trong việc đem sức lực phục vụ, tôi cũng không có lòng trung thành! Chỉ sau khi nhận ra những điều này, tôi mới thấy tâm tính bại hoại của mình nghiêm trọng đến mức nào, và trong lòng cảm thấy có chút sợ hãi. Thế là tôi đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con thấy tình trạng của mình thật nguy hiểm. Con đã hành động và cư xử theo tâm tính Sa-tan, con đã vô cùng ích kỷ và phản nghịch! Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài khai sáng và dẫn dắt con, để con có thể thực sự nhận biết tâm tính bại hoại của mình”.

Một hôm, tôi đọc được lời Đức Chúa Trời: “Sau khi bị Sa-tan làm bại hoại, người ta sẽ mất đi lương tâm và lý trí. Lòng họ hoàn toàn bị Sa-tan mê hoặc, và họ tiếp nhận nhiều tư tưởng và quan điểm đến từ Sa-tan, cũng như một vài cách nói và luận điệu từ các trào lưu tà ác. Khi mọi chuyện đến mức này, thì lương tâm và lý trí của họ đã bị bại hoại và ăn mòn hoàn toàn rồi – có thể nói rằng lúc này lương tâm và lý trí của họ đã hoàn toàn mất đi. Điều được biểu hiện ra là phẩm chất nhân tính của họ rất kém và rất ác. Nghĩa là, trước khi họ tiếp nhận những điều tích cực, trong lòng họ đã tiếp nhận nhiều điều sai lầm từ Sa-tan. Những thứ này đã làm bại hoại nghiêm trọng nhân tính của họ, dẫn đến nhân tính của họ rất kém cỏi. Ví dụ, sau khi họ tiếp nhận tư tưởng và quan điểm của Sa-tan từ thế gian rằng, ‘Người không vì mình, trời tru đất diệt’, thì lương tâm của họ sẽ tốt hơn hay giữ nguyên, hay sẽ xấu đi? (Thưa, sẽ xấu đi.) Và những biểu hiện cụ thể của sự xấu đi này là gì? (Thưa, họ làm bất kỳ việc gì cũng chỉ cân nhắc đến lợi ích của bản thân.) Vì mục đích và lợi ích của bản thân, mà họ không từ thủ đoạn nào. Họ có thể lừa người, hại người, có thể làm bất kỳ điều gì trái với đạo đức và lương tâm. Càng làm, họ càng tàn độc, lòng họ càng đen tối, tri giác của lương tâm càng mai một, và càng mất đi nhân tính. Vì lợi ích của bản thân, họ sẽ lừa bịp và lừa gạt bất kỳ ai… Lý do họ có thể lừa gạt bất kỳ ai là gì? Căn nguyên là gì? Đó là vì họ đã tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm của Sa-tan, và họ hành động dưới sự chi phối của những tư tưởng và quan điểm của Sa-tan. Cuối cùng, lương tâm và lý trí trong nhân tính của họ không còn tác dụng gì nữa; nghĩa là, những điều cơ bản mà nhân tính nên có đã hoàn không còn tác dụng gì nữa, chúng hoàn toàn bị ăn mòn và khống chế bởi những tư tưởng tà ác của Sa-tan. Quá trình ăn mòn và khống chế là quá trình họ tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm này, và, đương nhiên, đó cũng là quá trình họ bị làm bại hoại(Cách mưu cầu lẽ thật (10), Lời, Quyển 7 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Lời Đức Chúa Trời đã vạch rõ gốc rễ vấn đề khiến tôi không muốn tham gia vào công tác chung, đó là do tôi bị ảnh hưởng bởi các độc tố của Sa-tan, chúng khiến tôi trở nên vô cùng ích kỷ, đê tiện và không có nhân tính. Tôi đã sống theo những triết lý xử thế của Sa-tan như “Tuyết mái nhà mình lo mà quét, chớ quản nhà người mái đẫm sương” và “Người không vì mình, trời tru đất diệt”. Tôi đã trở nên vô cùng ích kỷ và tư lợi, làm bất cứ việc gì cũng đều cân nhắc xem có lợi cho mình hay không. Việc gì có lợi cho danh dự và địa vị của mình thì tôi mới dồn tâm sức làm, còn việc gì không có lợi thì tôi mặc kệ. Ngay cả khi người khác tìm đến nhờ giúp đỡ hay nhắc nhở, tôi cũng không quan tâm, thậm chí còn cho rằng đó là chuyện đương nhiên, rằng việc không thuộc trách nhiệm của mình thì dù có vấn đề cũng chẳng liên quan đến tôi, và tôi có đủ lý do để phớt lờ. Dưới sự chi phối của những tư tưởng và quan điểm đó, tôi đã phớt lờ công tác phúc âm, và khi các chị em tìm đến nhờ giúp đỡ, tôi vẫn bịt tai không nghe. Ngay cả khi công tác phúc âm bị cản trở, dù có vài ý tưởng giải quyết, tôi cũng không muốn tham gia. Khi việc thiếu người chăm tưới trong hội thánh đã ảnh hưởng đến công tác chăm tưới, tôi lại sợ làm trì hoãn công việc của mình, ảnh hưởng đến danh tiếng và địa vị, nên đã không muốn phối hợp hài hòa với các chị em để giải quyết vấn đề, và dù việc này đã làm trì hoãn công tác chăm tưới, tôi cũng không hề cảm thấy chút áy náy nào. Biểu hiện ích kỷ và đê tiện của tôi rõ ràng như vậy, nhưng khi chị em nói tôi ích kỷ, tôi vẫn không phục, còn lý luận và chống đối trong lòng, không hề cảm thấy chút xấu hổ nào khi mình không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời vì sự ích kỷ và đê tiện. Tôi đã sống theo các độc tố của Sa-tan, hoàn toàn không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Lương tâm và lý trí của tôi đã tê liệt. Để tránh phải lo nghĩ và mệt mỏi nhiều thêm, tôi hoàn toàn không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời hay lợi ích của nhà Ngài. Cách tôi đối đãi với bổn phận thực chất là từ chối nó, là phản bội Đức Chúa Trời! Nhận ra những điều này, cuối cùng tôi cảm thấy căm ghét tâm tính bại hoại ích kỷ và đê tiện của mình.

Trong một lần tĩnh nguyện, tôi đọc được lời của Đức Chúa Trời: “Đối với tất cả những ai thực hiện bổn phận, bất kể họ hiểu lẽ thật sâu sắc hay nông cạn, thì cách đơn giản nhất để thực hành bước vào thực tế lẽ thật chính là nghĩ đến những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời trong mọi việc, và buông bỏ dục vọng cá nhân, các ý định, động cơ, thể diện và địa vị cá nhân. Hãy đặt những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời lên hàng đầu – đây là điều chí ít người ta nên làm. Nếu một người thực hiện bổn phận mà thậm chí không thể làm được nhiêu đó, thì làm sao có thể nói là họ thực hiện bổn phận được? Đó không phải là thực hiện bổn phận. Trước tiên, ngươi nên nghĩ đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, và xem xét công tác của hội thánh. Đặt những điều này lên hàng đầu; sau đó hẵng nghĩ đến chuyện địa vị của mình đã đứng vững hay chưa, người khác nhìn nhận mình thế nào. Các ngươi không cảm thấy dễ dàng hơn chút nào khi chia nó thành hai bước và dung hòa một chút như thế sao? Nếu thực hành như thế này trong một thời gian, ngươi sẽ cảm thấy rằng việc thỏa mãn Đức Chúa Trời không phải là quá khó. Ngoài ra, ngươi có thể thực hiện trách nhiệm của mình, thực hiện nghĩa vụ và bổn phận của mình, và gạt bỏ những ham muốn cá nhân, những ý định và động cơ của mình; ngươi nên quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, và đặt lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, công tác của hội thánh, cũng như bổn phận mà ngươi nên thực hiện lên hàng đầu. Sau khi trải nghiệm điều này một thời gian, ngươi sẽ cảm thấy làm người như vậy là tốt. Đây là sống minh bạch rõ ràng, không làm kẻ đê tiện, hèn hạ; đây là sống quang minh chính đại, chứ không phải sống một cách hèn nhát, dơ bẩn, và đê tiện. Ngươi sẽ cảm thấy rằng đây là cách một người nên hành động và là hình tượng mà họ nên sống thể hiện ra. Dần dần, ham muốn thỏa mãn lợi ích của bản thân ngươi sẽ giảm đi(Chỉ có thể có được sự tự do và giải phóng bằng cách loại bỏ tâm tính bại hoại, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã chỉ ra cho tôi một con đường thực hành. Khi bổn phận và lợi ích cá nhân xung đột, tôi nên đặt lợi ích của nhà Đức Chúa Trời lên hàng đầu trong mọi việc. Đây là thái độ mà một người trung thành với bổn phận nên có. Mặc dù chúng tôi đã phân chia trách nhiệm, nhưng khi công việc của các chị em gặp vấn đề, thì tôi phải ưu tiên công tác chung của hội thánh. Những việc như rao truyền phúc âm, chăm tưới người mới, bầu chọn lãnh đạo và chấp sự của hội thánh đều là những công tác quan trọng, nếu những công tác này xảy ra vấn đề mà không được giải quyết kịp thời thì sẽ làm trì hoãn tiến độ. Tôi phải phân biệt được việc nào quan trọng hơn. Dù công việc trong tay tôi rất nhiều, nhưng nếu sắp xếp thời gian hợp lý hơn một chút thì công việc cũng sẽ không bị trì hoãn quá nhiều. Tôi không thể chỉ tập trung vào phần việc của mình, mà còn phải cân nhắc đến công tác chung. Mặc dù đôi khi tham gia thảo luận và đưa ra quyết định cho công tác chung đòi hỏi nhiều thời gian và công sức hơn, nhưng qua việc tìm kiếm và thảo luận thực tế, tôi đã dần dần nắm bắt được một số nguyên tắc mà không hề hay biết. Đây cũng là một cách để tôi cải thiện bản thân. Đây thực ra không phải là chịu khổ, mà là điều rất có lợi cho tôi. Trước đây tôi cảm thấy mệt mỏi là vì tư tưởng của mình có vấn đề, nhưng khi suy nghĩ thay đổi, tôi không còn cảm thấy khổ sở nữa.

Một hôm, tôi đọc được thêm lời của Đức Chúa Trời: “Cách người ta thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời hoàn toàn khác với cách làm việc giữa những người ngoại đạo. Khác ở chỗ nào? Các anh chị em cùng nhau đọc lời Đức Chúa Trời và kết nối với nhau về thuộc linh. Họ có thể sống hòa thuận và nói thật lòng với nhau. Họ có thể thông công lẽ thật với nhau theo cách đơn thuần và cởi mở, vui hưởng lời Đức Chúa Trời và giúp đỡ lẫn nhau. Hễ có ai gặp khó khăn là họ cùng nhau tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề. Họ có thể đạt được sự hợp nhất về tâm linh, có thể quy phục trước lẽ thật và trước Đức Chúa Trời. Những người ngoại đạo thì khác. Hết thảy họ đều có những bí mật riêng, họ không trao đổi cởi mở mà còn đề phòng lẫn nhau, thậm chí còn hục hặc và ganh đua lẫn nhau. Cuối cùng, họ chia tay trong sự bất hòa và đường ai nấy đi(Sự hợp tác hài hòa, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng để đạt được kết quả tốt trong bổn phận ở nhà Đức Chúa Trời, chúng ta phải đồng tâm hiệp ý phối hợp. Tôi nên gạt bỏ những ham muốn ích kỷ của mình và đặt công tác của nhà Đức Chúa Trời lên hàng đầu, và bất kể công việc của ai gặp vấn đề, chúng ta nên cùng nhau tìm kiếm giải pháp, như vậy chúng ta mới có thể dễ dàng nhận được công tác của Đức Thánh Linh và nâng cao hiệu quả bổn phận của mình. Giống như Đức Chúa Jêsus đã phán: “Quả thật, ta lại nói cùng các ngươi, nếu hai người trong các ngươi thuận nhau ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc chi, thì Cha ta ở trên trời sẽ cho họ(Ma-thi-ơ 18:19). Ai cũng có thiếu sót, có những việc không hiểu, không biết làm hoặc không nhìn thấu được, và không có công việc nào có thể được hoàn thành bởi một người. Chúng ta cần phối hợp hài hòa và phát huy thế mạnh cũng như kỹ năng của mỗi người. Chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể làm tốt bổn phận của mình. Công tác của nhà Đức Chúa Trời là một tổng thể, và bất kể hạng mục công việc nào gặp vấn đề, mọi người cần phối hợp để giải quyết. Hiểu được điều này, tôi không còn cảm thấy chống đối khi tham gia vào công tác chung nữa. Sau đó, khi thực hiện bổn phận, chúng tôi đều chú trọng vào việc phối hợp hài hòa, và khi gặp những vấn đề không rõ hoặc nhìn không thấu trong công việc, chúng tôi đều chủ động đưa chúng ra thảo luận và trao đổi. Qua sự phối hợp thực tế như vậy, tôi có cái nhìn toàn diện hơn về các vấn đề, tôi cảm thấy ít áp lực hơn trong bổn phận, và các vấn đề cũng có thể được giải quyết nhanh hơn.

Vài tuần sau, kết quả công tác phúc âm vẫn không tốt, nên chúng tôi muốn nhóm lại để thông công và tổng kết. Tôi nghĩ: “Các vấn đề trong công tác phúc âm không thể được làm rõ chỉ trong vài lời. Chúng ta sẽ cần xem xét báo cáo công tác của từng hội thánh rồi tìm hiểu những vấn đề và khó khăn mà các anh chị em gặp phải khi rao truyền phúc âm thì mới có thể giải quyết được. Nhưng mình vẫn còn vài lá thư cần trả lời, bàn bạc công tác phúc âm sẽ tốn rất nhiều thời gian, và sẽ làm trì hoãn công việc của mình”. Thế là tôi hơi không muốn tham gia. Ngay lúc đó, tôi nhận ra mình lại đang bộc lộ sự ích kỷ. Vì vậy tôi tìm đến lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Bất kể việc lớn hay nhỏ, bất kể là ai giao việc đó cho ngươi, cho dù nhà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi hay là một lãnh đạo hay người làm công của hội thánh giao cho ngươi thì thái độ của ngươi nên là: ‘Bổn phận này đã được giao cho mình, thì đây là sự nâng đỡ và ân đãi của Đức Chúa Trời. Mình phải dựa theo nguyên tắc lẽ thật mà làm cho tốt. Dù chỉ có tố chất trung bình, nhưng mình sẵn lòng đảm nhận trách nhiệm này và dốc hết sức để làm tốt. Nếu làm không tốt, mình sẽ chịu trách nhiệm, nếu làm tốt, thì đó cũng không phải là công lao gì. Đây là điều mình nên làm’. Tại sao Ta lại nói cách người ta tiếp cận bổn phận là vấn đề về nguyên tắc? Nếu ngươi thực sự có lòng gánh vác trách nhiệm và là người có trách nhiệm thì ngươi sẽ có thể đảm đương nổi công tác của hội thánh và làm tốt bổn phận mà mình nên làm(Chức trách của lãnh đạo và người làm công (8), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng một lãnh đạo đạt tiêu chuẩn trước hết phải có ý thức trách nhiệm, và họ phải đặt lợi ích của nhà Đức Chúa Trời lên hàng đầu. Mặc dù công việc này chủ yếu là trách nhiệm của người phối hợp với tôi, nhưng nó liên quan đến việc công tác phúc âm của hội thánh có thể tiến triển thuận lợi hay không. Với tư cách là một lãnh đạo, tôi cũng có một phần trách nhiệm trong việc này, và tôi không thể chỉ xem xét lợi ích của riêng mình – điều đó sẽ hoàn toàn vô nhân tính. Tôi phải ưu tiên đúng cách và gạt bỏ lợi ích của mình. Tôi nhận ra rằng công việc của tôi thực tế có thể được hoãn lại, và vì vậy tôi đã chủ động tham gia vào buổi phân tích và thảo luận này. Khi có những điểm trao đổi chưa rõ ràng, tôi đã chủ động trao đổi thêm, và trong quá trình phối hợp, tôi đã thấy được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Tôi cũng tìm ra được một số phương pháp và con đường để giải quyết các vấn đề, và trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng.

Qua lần trải nghiệm bị tỏ lộ như vậy, tôi đã có được một số sự phân định về tâm tính Sa-tan ích kỷ và đê tiện của mình. Trước đây, tôi không nghĩ ích kỷ là một vấn đề lớn, nhưng giờ đây, qua sự vạch rõ của lời Đức Chúa Trời, tôi thấy rõ rằng khi con người sống theo tâm tính bại hoại ích kỷ và đê tiện của mình, họ sẽ ngày càng vô nhân tính, thiếu lương tâm và lý trí, và họ sẽ không đạt được kết quả tốt trong bổn phận. Chỉ bằng cách sống theo lời Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật, và hành động theo nguyên tắc, người ta mới có thể sống ra hình tượng giống con người. Chỉ khi đó người ta mới có thể có được sự bình an thực sự trong lòng. Tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho phép tôi đạt được những hiểu biết và thu hoạch này!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger