Cuộc tranh luận của tôi với các mục sư

11/07/2023

Bởi Kiệt Mông, Ấn Độ

Tháng 1 năm 2019, một người bạn đã làm chứng với tôi về công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Sau đó tôi đã đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và chúng thực sự hấp dẫn tôi. Đây chính là sự đến của lẽ thật mới mà tôi hằng mong mỏi, nên tôi rất phấn khởi. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã lý giải những điều mà giới tôn giáo không giải thích được – những lẽ nhiệm mầu của Kinh Thánh, lẽ nhiệm mầu của sự nhập thể, căn nguyên sự bại hoại của con người, và con đường để rũ bỏ tội lỗi, được làm tinh sạch và được cứu rỗi. Không một con người nào có thể phán được những lời như thế. Tôi thấy đây là tiếng Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm. Thế nên tôi đã hoan hỉ tiếp nhận và đem tin mừng này đi chia sẻ với cả gia đình của mình. Mẹ, cô, và một số anh chị em của tôi đã tiếp nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng. Chúng tôi hội họp và đọc lời Đức Chúa Trời mỗi ngày, tận hưởng những lẽ thật mà Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ. Chúng tôi thấy mình nhận được rất nhiều, nhiều hơn những gì đã có bao năm qua trong tôn giáo.

Không lâu sau, mục sư và chấp sự địa phương biết chuyện về đức tin của tôi. Vào một tối nọ, một chấp sự bất ngờ tìm đến nhà tôi và hỏi tôi, “Sao dạo này anh và mẹ anh không đến hội họp?” Tôi mới bảo, “Tôi sẽ không hội họp ở hội thánh nữa vì tôi đã tìm được con đường thật. Đức Chúa Jêsus đã tái lâm – chính là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tôi đã đọc nhiều lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng, và thấy rất kinh ngạc, tôi chưa bao giờ đọc được điều gì mới lạ như thế. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã tỏ lộ nhiều lẽ nhiệm mầu của Kinh Thánh. Tôi phát hiện ra lời Đức Chúa Trời Toàn Năng phán đều là lẽ thật, và Ngài chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm mà tôi hằng mong mỏi”. Nghe tôi nói thế, anh ta hoài nghi đáp lại, “Đức Chúa Jêsus đã tái lâm? Sao lại như thế được?” Tôi mới bảo, “Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bắt đầu Thời đại Vương quốc và đang thực hiện công tác mới. Thời đại Ân điển đã là quá khứ và Đức Thánh Linh không còn công tác ở các hội thánh tôn giáo nữa. Giống như lúc Đức Chúa Jêsus đến công tác, mọi người ai nấy đều rời xa đền thờ và đi theo Ngài. Bây giờ chúng ta cần phải theo kịp công tác mới của Đức Chúa Trời để được Đức Chúa Trời cứu rỗi vào thời kỳ sau rốt”. Thấy tôi quyết tâm tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, anh ta nói tôi sẽ bị khai trừ xong rồi hậm hực bỏ về. Sau đó, mục sư và các chấp sự địa phương đến quấy rầy một gia đình vừa mới tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời. Mục sư nói với họ, “Các vị gia nhập Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, không còn hội họp ở hội thánh. Các vị bị lừa rồi, Chúa chưa tái lâm đâu. Là một mục sư, tôi nắm rõ Kinh Thánh trong lòng bàn tay. Nếu Đức Chúa Trời Toàn Năng thực sự là Đức Chúa Jêsus tái lâm, chắc chắn tôi phải biết chứ”. Chị ta còn nói, “Nếu các vị một mực đòi rời hội thánh, thì phải nói công khai trước mặt mọi người rằng các vị đã quay lưng với Đức Chúa Jêsus. Còn nữa, hội thánh cũng sẽ không giúp đỡ các vị trong bất cứ chuyện gì. Vào Chúa nhật tuần này, các vị phải đến hội thánh để gạch tên và thông báo với toàn thể cộng đoàn. Nếu không các vị sẽ bị đuổi ra khỏi thôn”. Tôi rất tức giận. Mỗi người, ai cũng có quyền tự do tín ngưỡng, thế mà họ dùng thủ đoạn bỉ ổi để cản trở mọi người tìm hiểu con đường thật. Nếu thật sự là bầy tôi thiện lương, lẽ ra họ nên có tâm tìm kiếm, để xem Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng là gì và tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Nhưng đối diện với sự tái lâm của Chúa, họ mù quáng chống đối và lên án. Sao có thể gọi là những người tìm kiếm lẽ thật được?

Qua ngày hôm sau tôi tới gặp họ. Anh đó nói họ tin Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời thật, nên kể cả có bị đuổi ra khỏi thôn, họ vẫn tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng. Sau đó, mục sư tung tin đồn và bịa đặt để ngăn cản mọi người tìm hiểu con đường thật. Việc này cho tôi thấy rõ rằng tin vào Đức Chúa Trời và đi theo Ngài không phải là việc dễ dàng. Như Đức Chúa Jêsus đã phán, “Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít(Ma-thi-ơ 7:13-14). Dù bị mục sư cản trở và bức bách, nhưng chúng tôi đã tiếp nhận con đường thật và tìm được con đường tới sự sống đời đời. Chúng tôi đã được ban phước lành. Tôi nhớ tới việc Đức Chúa Jêsus bị Do Thái giáo áp bức khi Ngài đến công tác. Lúc đó không nhiều người đi theo Ngài. Hiện tại Đức Chúa Trời Toàn Năng đã đến công tác, Ngài cũng bị giới tôn giáo áp bức. Đa số mọi người tin và nghe lời mục sư, không tiếp nhận sự tái lâm của Chúa. Việc đó cũng làm sáng tỏ một sự thật rằng: Con đường thật đã bị áp bức từ xa xưa. Một số ít tiếp nhận con đường thật và đi theo Đức Chúa Trời, trong khi nhiều người sùng bái con người và nghe lời các mục sư trong tôn giáo. Điều này khiến tôi có đức tin mạnh mẽ hơn để đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng.

Sau đó bà ta báo cáo chuyện tôi tin Đức Chúa Trời Toàn Năng lên Trung ương Liên hiệp Giáo hội. Một tối nọ, bà ta đến nhà tôi, dẫn theo một đám người, bảo tôi đến nhà của một chấp sự để giải thích rõ đức tin của tôi vào Đức Chúa Trời Toàn Năng cho toàn bộ các mục sư và đồng sự nghe. Họ quá tà ác, phản đối và lên án công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời. Tôi không đủ can đảm để đối diện với họ. Nhưng tôi cũng biết rằng nếu như tôi không đi gặp họ thì họ sẽ tung tin đồn nhảm. Đức Chúa Trời đã ân đãi tôi, cho tôi nghe được tiếng Ngài và hiểu được lẽ thật. Hiện tại Ngài cần tôi làm chứng cho công tác của Ngài, tôi không thể trốn chạy. Nên tôi đã cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng, xin hãy dẫn dắt con và cho con lời lẽ mà con cần để con vững tin và làm chứng cho công tác của Ngài”. Khi tới nhà của chấp sự đó, tôi ngồi xuống ghế và thấy hơn chục người ngồi xung quanh tôi, bao gồm cả 5 mục sư của Liên hiệp Giáo hội, cũng như mục sư, chấp sự trong thôn và một số thành viên của cộng đoàn. Nhìn thấy có quá nhiều người ở đó khiến tôi lại cảm thấy sợ hãi, vì tôi thật sự không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi không ngừng thầm cầu nguyện Đức Chúa Trời giúp cho tôi bình tĩnh lại. Dần dần lòng tôi không còn thấy sợ hãi nữa vì tôi biết có Đức Chúa Trời Toàn Năng ở bên mình. Sau đó, một mục sư niên trưởng của Liên hiệp Giáo hội lên giọng nghiêm túc hỏi tôi, “Tại sao anh, mẹ và bà anh không tham gia hội họp ở hội thánh nữa? Anh có biết hội thánh là gì không? Anh có biết rời hội thánh là phản bội Đức Chúa Jêsus, và Ngài sẽ bỏ rơi anh không?” Tôi bảo với bà ta, “Đức Chúa Jêsus phán rằng, ‘Vì nơi nào có hai ba người nhơn danh ta nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ(Ma-thi-ơ 18:20). Một hội thánh chân chính là gì? Một hội thánh không quan trọng có bao nhiêu thành viên hay nằm ở đâu. Dù số người hội họp đông hay ít, chỉ cần có công tác của Đức Thánh Linh, sự hiện diện của Đức Chúa Trời và sự cung dưỡng của lẽ thật, thì nó là một hội thánh. Giờ hãy nhìn vào hội thánh ngày nay, nó có công tác của Đức Thánh Linh không? Đọc lời Đức Chúa Trời có thấy sáng tỏ không? Những buổi hội họp có thú vị, có cung dưỡng gì không? Các mục sư chỉ rao giảng những điều cũ rích và không giúp được gì cho việc mưu cầu hiểu biết Chúa. Các tín hữu không có được sự cung dưỡng sự sống. Họ yếu đuối và tiêu cực, mưu cầu tiền tài, ham mê thế gian. Hội thánh ngày nay hệt như đền thờ thời Đức Chúa Jêsus – nó đã đánh mất công tác của Đức Thánh Linh và không thể gọi là một hội thánh chân chính. Tại sao tôi và người nhà của tôi muốn tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng và ngừng hội họp ở hội thánh à? Là vì mọi lời Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ chính là lẽ thật. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã tỏ lộ nhiều lẽ nhiệm mầu bí ẩn của Kinh Thánh. Đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng thực sự giúp tôi đại khai nhãn giới, trong lòng sáng tỏ và linh hồn được cung dưỡng. Đây chính là thành quả từ công tác của Đức Thánh Linh. Đức Chúa Trời Toàn Năng là sự xuất hiện của Đức Chúa Trời thật, và Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng là hội thánh chân chính. Ngày nay, nhiều tín hữu từ các giáo phái khác nhau mong mỏi sự tái lâm của Chúa đang đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng trên mạng qua nhiều phương tiện khác nhau. Họ tin chắc rằng đây chính là tiếng Đức Chúa Trời. Tại sao các vị không chịu tìm hiểu đi? Các vị là mục sư, những người rao giảng trong hội thánh. Các vị nên dẫn dắt các tín hữu nghênh tiếp Chúa. Như thế mới là có trách nhiệm với sự sống của họ!” Nghe tôi nói xong bọn họ đều im lặng.

Sau đó mục sư tra vấn tôi, hỏi rằng: “Anh nói Đức Chúa Jêsus đã tái lâm. Làm sao anh biết được?” Rồi bà ta mở Kinh Thánh ra và chỉ vào một đoạn, bảo tôi: “Kinh Thánh có viết, ‘Về ngày và giờ đó, chẳng có ai biết chi cả, thiên sứ trên trời hay là Con cũng vậy, song chỉ một mình Cha biết thôi(Ma-thi-ơ 24:36). Đoạn này nói sẽ chẳng ai biết lúc nào Chúa đến. Sao anh lại biết?” Tôi nói, “Nếu không ai biết Ngài đến, làm sao chúng ta nghênh tiếp Ngài đây? Kinh Thánh viết ‘Về ngày và giờ đó, chẳng có ai biết chi cả’ nghĩa là không ai biết lúc nào Ngài đến, nhưng Ngài sẽ phán sau khi đến; Ngài sẽ thực hiện công tác của Ngài. Khi chúng ta nghe tiếng Chúa và thấy lẽ thật mà Ngài bày tỏ, chẳng phải sẽ biết Ngài đã đến sao? Như Đức Chúa Jêsus phán, ‘Ðến khuya, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đến, hãy đi ra rước người!(Ma-thi-ơ 25:6). ‘Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta(Khải Huyền 3:20). Cho nên điểm mấu chốt để nghênh tiếp Chúa là nghe tiếng Ngài. Nếu nghe thấy ai đó gọi rằng chàng rể đến, thì chính là đang làm chứng rằng Đức Chúa Jêsus đã tái lâm, chúng ta nên ra nghênh tiếp Ngài và khiêm hạ mà nghe tiếng Ngài. Chỉ loại người đó mới được coi là trinh nữ khôn ngoan có thể nghênh tiếp Chúa và được vào dự tiệc cùng Ngài. Theo quan điểm của các vị thì chẳng ai hay biết kể cả sau khi Chúa đến. Vậy thì làm sao lý giải được những câu Kinh Thánh này, và làm sao chúng ứng nghiệm?” Tôi còn đưa ra thêm ví dụ chọ họ hiểu. Tôi nói, “Hãy nhớ lúc Đức Chúa Jêsus đến công tác. Ban đầu đâu có ai nhận ra Ngài là Đức Chúa Trời. Khi Ngài bắt đầu công tác và phán dạy, Đức Thánh Linh đã làm chứng: ‘Nầy là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng(Ma-thi-ơ 3:17). Sau đó Ngài bắt đầu phô bày những dấu kỳ và phép lạ, chữa lành người bệnh, rao giảng con đường ăn năn, và tha tội cho mọi người. Ngài bắt đầu công tác cứu chuộc từ Thời đại Ân điển. Lúc đó mọi người mới nhận ra Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chuộc của nhân loại, là chính Đức Chúa Trời. Chẳng phải đức tin của chúng ta vào Chúa chỉ dựa vào công tác và lời của Ngài sao? Hiện tại, đại họa đã bắt đầu – tất cả những lời tiên tri về việc Chúa đến đã ứng nghiệm. Đức Chúa Jêsus đã tái lâm và đang công tác. Ngài đang bày tỏ lẽ thật cần thiết để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại, và Ngài đang thực hiện công tác phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời. Ngài lập nên một nhóm những người đắc thắng. Đây là những sự thật không ai có thể chối cãi. Chúng ta không thể thụ động chờ ngày tận thế, đánh giá công tác của Đức Chúa Trời dựa vào quan niệm được. Như thế chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội để nghênh tiếp Chúa mất”. Sau đó, một mục sư trẻ trong Trung ương Liên hiệp Giáo hội nổi giận và hỏi tôi: “Đức Chúa Trời Toàn Năng này đang ở đâu? Anh đã thấy Ngài chưa? Nếu không, sao anh dám chắc chắn Ngài là Đức Chúa Jêsus tái lâm?” Đáp lại, tôi hỏi chị ta một câu hỏi: “Chị tin vào Đức Chúa Jêsus – vậy chị thấy Ngài chưa? Chẳng ai thấy Chúa cả, vậy tại sao chúng ta vẫn tin vào Ngài?” Chẳng ai đáp lại. Rồi tôi nói tiếp, “Lúc Đức Chúa Jêsus công tác trong xác thịt, chẳng phải nhiều người thấy Ngài sao? Các thầy tế lễ cả, thầy thông giáo và những người Pha-ri-si đã thấy mặt Chúa, nhưng họ có nhận ra Ngài là Chúa không? Họ có đi theo Ngài không? Họ không những không đi theo Ngài mà còn lên án và chối bỏ Ngài, cuối cùng đã cùng nhau đóng đinh Ngài lên thập giá. Việc đó nói lên điều gì? Kể cả có thấy mặt Chúa, nếu không hiểu Ngài và không nhận ra tiếng Đức Chúa Trời, thì ta vẫn sẽ chống đối Đức Chúa Trời và bị Ngài định tội. Nếu được sinh ra vào thời đại đó, thấy Đức Chúa Jêsus và nghe bài giảng của Ngài, thì các vị có nhận ra Ngài là Đấng Christ không? Chuyện này khó nói lắm”. Nghe tôi nói xong, mục sư đó bắt bẻ, “Anh nói Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm. Căn cứ vào đâu?” Tôi trả lời, “Đức Chúa Jêsus phán: ‘Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta(Giăng 10:27). Để xác định Đức Chúa Trời Toàn Năng có phải là hiện thân của Đức Chúa Trời không, quan trọng là xem lời Ngài phán có phải lẽ thật không. Tôi sẽ đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng cho các vị nghe để các vị xem đây có phải tiếng Đức Chúa Trời không. Như vậy các vị sẽ biết Đức Chúa Trời Toàn Năng có phải Đức Chúa Jêsus tái lâm không”. Rồi tôi đọc mấy đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng trên điện thoại cho họ nghe.

Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ta đang làm công tác của Ta trên khắp vũ trụ, và ở phương Đông, những tiếng sấm không ngừng rền vang, rung chuyển tất cả các quốc gia và giáo phái. Chính tiếng nói của Ta đã dẫn dắt toàn nhân loại đến với hiện tại. Ta khiến toàn nhân loại bị chinh phục bởi tiếng nói của Ta, rơi vào dòng chảy này, và quy phục trước Ta, vì từ lâu Ta đã lấy lại vinh quang của Ta từ khắp thế gian và ban phát lại ở phương Đông. Ai lại không mong mỏi được nhìn thấy vinh quang của Ta? Ai lại không thấp thỏm chờ đợi Ta trở lại? Ai lại không khao khát được thấy Ta xuất hiện trở lại? Ai lại không mòn mỏi trông mong vẻ đáng mến của Ta? Ai lại không bước ra sự sáng? Ai lại không nhìn vào sự giàu có của Ca-na-an? Ai lại không mong mỏi Đấng Cứu Chuộc quay lại? Ai lại không tôn sùng Ngài, Đấng có quyền năng vĩ đại? Tiếng nói của Ta sẽ lan truyền khắp thế gian; Ta sẽ đối mặt với dân sự được Ta chọn và phán thêm nhiều lời nữa với họ. Như những tiếng sấm vang dội làm rung chuyển núi sông, Ta phán những lời của Ta với cả vũ trụ và với nhân loại. Do vậy, lời trong miệng Ta đã trở thành báu vật của con người, và cả nhân loại đều trân quý lời của Ta. Tia chớp lóe lên từ phương Đông rọi sáng đến tận phương Tây. Lời của Ta, con người không muốn vứt bỏ nó đi và đồng thời không hiểu thấu, nhưng lại hạnh phúc hơn nữa vì có được nó. Mọi người đều vui mừng và hân hoan, ăn mừng việc Ta đến, như thể một đứa trẻ vừa được sinh ra. Bằng tiếng nói của Ta, Ta sẽ mang cả nhân loại đến trước Ta. Từ đó, Ta sẽ chính thức bước vào nhân loại để họ sẽ thờ phụng Ta. Với vinh quang mà Ta tỏa ra và lời từ miệng Ta, Ta sẽ khiến toàn nhân loại đến trước Ta và thấy rằng tia chớp lóe lên từ phương Đông và Ta cũng đã hạ xuống ‘Núi O-li-ve’ ở phương Đông. Họ sẽ thấy rằng từ lâu Ta đã xuống trần, không phải với tư cách là Người Con của dân tộc Do Thái nữa mà là Tia chớp của phương Đông. Vì Ta đã phục sinh từ lâu, đã rời khỏi nhân loại, và sau đó tái xuất hiện với vinh quang giữa nhân loại. Ta là Đấng được thờ phụng từ cách đây rất lâu, và Ta cũng là đứa trẻ sơ sinh bị người Y-sơ-ra-ên bỏ rơi từ cách đây rất lâu. Hơn nữa, Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng vinh quang tột đỉnh của thời đại này! Hãy để tất cả tới trước ngai của Ta và thấy diện mạo vinh quang của Ta, nghe tiếng nói của Ta, và nhìn vào việc làm của Ta. Đây là toàn bộ ý muốn của Ta; đó là hồi kết và phần cao trào của kế hoạch của Ta, cũng như mục đích của sự quản lý của Ta: để mọi quốc gia thờ phụng Ta, mọi miệng lưỡi thừa nhận Ta, mọi người đặt đức tin vào Ta, và mọi người chịu khuất phục Ta!(Bảy tiếng sấm rền – Tiên đoán rằng Phúc Âm của vương quốc sẽ truyền bá khắp vũ trụ, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mang đến sự sống, và mang đến con đường lẽ thật bền vững và vĩnh cửu. Lẽ thật này là con đường mà thông qua đó con người đạt được sự sống, và đây là con đường duy nhất mà qua đó con người mới biết đến Đức Chúa Trời và được Đức Chúa Trời chấp thuận. Nếu ngươi không kiếm tìm con đường sự sống được Đấng Christ của thời kỳ sau rốt cung cấp, thì ngươi sẽ không bao giờ có được sự chấp thuận của Jêsus, và sẽ không bao giờ đủ tư cách để bước vào cánh cổng của vương quốc thiên đàng, bởi ngươi vừa là con rối, vừa là tù nhân của lịch sử. Những ai bị chi phối bởi phép tắc, bởi câu chữ, và bị trói buộc bởi lịch sử sẽ không bao giờ có thể có được sự sống, cũng như không thể đạt được con đường sự sống đời đời. Đó là bởi vì tất cả những gì họ có được chỉ là nước đục mà họ đã bám vào hàng ngàn năm nay, thay vì nước sự sống tuôn chảy từ ngôi. Những ai không được cung cấp nước sự sống thì sẽ vẫn mãi là những xác chết, là những món đồ chơi của Sa-tan, và là con cái của địa ngục. Vậy thì làm sao họ có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời? Nếu ngươi chỉ cố bám víu vào quá khứ, chỉ cố giữ mọi thứ nguyên trạng bằng cách đứng yên, và không thử thay đổi hiện trạng cũng như buông bỏ lịch sử, thì chẳng phải ngươi sẽ luôn luôn chống lại Đức Chúa Trời sao? Các bước trong công tác của Đức Chúa Trời lớn lao và vĩ đại, như sóng trào và sấm dội – mà ngươi thì ngồi thụ động chờ đợi sự hủy diệt, bám lấy sự dại dột của mình và chẳng làm gì cả. Bằng cách này, làm sao ngươi có thể được xem là một người đang theo bước chân của Chiên Con?(Chỉ Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mới có thể ban cho con người con đường sự sống vĩnh cửu, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).

Họ cứ thì thầm to nhỏ với nhau, trông có vẻ sửng sốt. Một lát sau, mục sư niên trưởng chỉ vào tôi và nói, “Tôi cho rằng những gì anh đọc không thể là lời Đức Chúa Trời. Những lời của Đức Chúa Trời rất nhân từ, nhưng đằng này lại quá nghiêm khắc. Đây không phải lời Đức Chúa Trời”. Tôi nói, “Các vị nghĩ Đức Chúa Trời nhân từ và Ngài không dùng những lời nghiêm khắc để phơi bày và rủa sả mọi người. Các vị có chắc quan điểm này đúng với sự thật không? Chính Đức Chúa Jêsus đã phán nhiều lời quở trách mọi người. Các vị không nhớ thật à? Ngài đã lên án những người Pha-ri-si, phán rằng, ‘Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi đóng nước thiên đàng trước mặt người ta; các ngươi không vào đó bao giờ, mà có ai muốn vào, thì lại ngăn trở(Ma-thi-ơ 23:13). ‘Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi đi khắp dưới nước trên bộ để khuyên một người vào đạo mình; và khi đã khuyên được rồi, thì các ngươi làm cho họ trở nên người địa ngục gấp hai các ngươi(Ma-thi-ơ 23:15). Còn nhiều lời như thế này nữa. Điều này chứng tỏ tâm tính của Đức Chúa Trời không những chứa đựng sự nhân từ và yêu thương, mà còn oai nghiêm và thịnh nộ. Chúng ta không thể lượng định công tác và lời của Đức Chúa Trời theo quan niệm và tưởng tượng của mình. Như thế là mắc tội phán xét và hạn định Đức Chúa Trời”. Tôi nói tiếp: “Kinh Thánh còn tiên tri công tác phán xét thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời: ‘Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Ðức Chúa Trời(1 Phi-e-rơ 4:17). Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và phán xét nhân loại vào thời kỳ sau rốt, phân loại tất cả mọi người, tách chiên ra khỏi dê, lúa mì khỏi cỏ dại, và tách bầy tôi tốt ra khỏi những bầy tôi xấu. Nếu Đức Chúa Trời đến công tác vào thời kỳ sau rốt và vẫn giữ sự nhân từ và yêu thương, không có sự phán xét và rủa xả công chính, thì khi nào thời đại mới kết thúc?” Sau đó tôi đọc cho họ nghe một đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng nữa. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Giả sử, khi tiết lộ kết cục của con người trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời vẫn ban cho con người lòng nhân từ cùng tình yêu vô hạn và tiếp tục yêu thương họ, không bắt con người phải chịu sự phán xét công chính mà cho họ thấy sự khoan dung, kiên nhẫn, tha thứ, và tha tội cho con người dù tội lỗi của họ nghiêm trọng đến mức nào, mà không có bất kỳ sự phán xét công chính nào: vậy thì bao giờ mọi sự quản lý của Đức Chúa Trời mới kết thúc được? Khi nào thì một tâm tính như vậy có thể dẫn mọi người tới đích đến thích hợp của loài người? Lấy ví dụ, một quan tòa luôn yêu thương, một quan tòa với khuôn mặt nhân hậu và một tấm lòng nhu mì. Người yêu mến mọi người bất kể những tội ác mà họ có thể đã gây ra, và người yêu thương, nhẫn nại với họ bất kể họ là ai. Trong trường hợp đó, bao giờ người mới có thể đạt được một phán quyết công bình? Trong thời kỳ sau rốt, chỉ có sự phán xét công chính mới có thể phân chia con người theo loại của họ và đưa con người vào một cõi mới. Theo cách này, toàn bộ thời đại được kết thúc thông qua tâm tính phán xét và hành phạt công chính của Đức Chúa Trời(Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nghe xong, họ không còn phản bác gì nữa. Một lát sau, mục sư niên trưởng chỉ tay vào tôi và nói với giọng điệu giáo huấn: “Anh có biết Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng đến từ đâu không? Đến từ Trung Quốc đấy, và bị chính phủ Trung Quốc cấm cản. Chính phủ của một quốc gia còn không thừa nhận đó là con đường thật, vậy mà anh còn tin sao?” Tôi đáp lại bằng câu hỏi: “Chính phủ Trung Quốc là ai? Họ có tin vào Đức Chúa Trời không, hay chỉ là một chế độ Sa-tan vô thần? Là một mục sư, làm sao bà có thể tin một chế độ Sa-tan chứ? Thật quá sức ngu xuẩn. Theo như lý luận của bà, bất cứ điều gì mà một chính phủ không thừa nhận thì không thể là con đường thật. Như thế có phù hợp với sự thực không? Khi Đức Chúa Jêsus đến công tác, Ngài không chịu sự đàn áp và lên án của chính quyền sao? Sao Ngài lại bị đóng đinh lên thập giá? Chẳng phải những người Pha-ri-si cấu kết với chính phủ La Mã để đóng đinh Đức Chúa Jêsus lên thập giá sao? Nếu chiếu theo lý luận của bà, bất cứ điều gì mà một chính phủ đàn áp và cấm cản thì không thể là con đường thật. Vậy chẳng phải bà đang chối bỏ và lên án công tác của Đức Chúa Jêsus à? Như thế chẳng phải hoang đường sao? Kinh Thánh viết, ‘Còn cả thế gian đều phục dưới quyền ma quỉ(1 Giăng 5:19). Cả thế giới nằm trong tay Sa-tan. Chính quyền cũng là những con người bại hoại – họ có biết Đức Chúa Trời không? Đến hôm nay, chúng ta chưa thấy bất cứ lãnh tụ quốc gia nào chủ động tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng hay dẫn dắt mọi người thờ phượng Ngài. Như thế cho thấy điều gì? Dù là một quốc gia có tôn giáo hay là một quốc gia vô thần, chẳng có nhà cầm quyền nào thực sự biết Đức Chúa Trời. Làm sao họ phân biệt được con đường thật hay con đường giả? Họ chẳng thể biết được. Họ đánh giá mọi việc hoàn toàn dựa vào lý luận Sa-tan, không hề có lẽ thật”.

Nghe tôi nói xong những lời đó, tất cả bọn họ đều á khẩu. Sau một hồi lâu, mục sư niên trưởng chỉ tay vào tôi, tức giận nói, “Nếu anh rời bỏ hội thánh mà người trong nhà anh bị bệnh, mục sư sẽ không cầu nguyện cho họ. Họ sẽ không lành bệnh và khi họ chết, linh hồn sẽ không được lên thiên đàng. Anh sẽ làm thế nào hả?” Trong lòng tôi biết rằng bà mục sư này đang cố lợi dụng tập tục lâu đời của thôn để khống chế tôi. Chúng tôi đã từng rất tôn thờ các mục sư, dựa dẫm vào họ để cầu nguyện cho gia đình. Các mục sư thực sự có địa vị rất cao trong lòng các tín hữu, và chúng tôi dựa dẫm vào họ trong mọi chuyện. Nhưng từ khi tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi biết rằng mục sư không đại diện cho Đức Chúa Trời, và họ không thể quyết định mọi người có được lên thiên đàng sau khi chết hay không. Cho nên tôi nói với họ, “Sau này nếu có chuyện xảy ra trong gia đình, chúng tôi không cần các vị cầu nguyện nữa”. Vừa lúc đó, mục sư trẻ lên tiếng, “Nếu như không có ai giúp anh cử hành tang lễ, anh sẽ làm gì đây?” Tôi mới trả lời dứt khoát, “Nếu như người nhà tôi mất, chúng tôi sẽ tự tay chôn cất. Không cần phải cử hành nghi thức tang lễ gì cả. Trong Kinh Thánh có viết, ‘Lại một môn đồ khác thưa cùng Ngài rằng: Lạy Chúa, xin Chúa cho phép tôi về chôn cha tôi trước đã. Nhưng Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy theo ta, để kẻ chết chôn kẻ chết(Ma-thi-ơ 8:21-22). Giữa cái chết của người nhà và mệnh lệnh của Chúa, điều gì quan trọng nhất? Chúa đã hướng dẫn chúng ta đi theo Ngài và trong lòng tôn kính Ngài là vĩ đại. Đó là điều quan trọng nhất. Tại sao các vị chỉ biết chú trọng đến những nghi thức vô nghĩa thay vì tìm kiếm lẽ thật và nghênh tiếp sự tái lâm của Chúa? Kết cục và đích đến của mọi người nằm trong tay Đức Chúa Trời. Con người không thể quyết định được. Mọi người không thể vào thiên quốc chỉ bằng lời cầu nguyện của mục sư – thật là suy nghĩ ngu xuẩn”. Tôi nói tiếp, “Hiện tại Đức Chúa Jêsus đã tái lâm và bày tỏ nhiều lẽ thật. Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường loại bỏ tội lỗi để chúng ta được làm tinh sạch và được cứu rỗi. Nếu chúng ta không đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng hay tiếp nhận sự phán xét và làm tinh sạch của lời Ngài mà sống trong những nghi thức tôn giáo vô nghĩa, như thế có đủ để trở nên tinh sạch không?” Nghe tôi nói xong, họ không còn lời nào để phản bác lại tôi nữa. Rồi một mục sư khác cười và nói với tôi, “Jemong, anh là một người có tố chất, có tư tưởng. Hội thánh rất coi trọng anh. Nếu anh tiếp tục công tác trong hội thánh và tìm thêm nhiều người gia nhập, hội thánh sẽ trở nên hùng mạnh hơn. Cùng nhau chúng ta có thể thực hiện công tác của Đức Chúa Trời – như thế tốt biết mấy!”

Tôi có thể thấy họ quá sức giả dối. Họ chỉ chú trọng việc làm sao quản lý thêm nhiều người, vì nếu như thế họ sẽ có thêm nhiều của lễ. Họ không hề mong mỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Tôi mới nói với họ, “Nghênh tiếp Chúa quan trọng hơn bất cứ điều gì. Dù các vị có nói gì đi nữa, tôi sẽ không bao giờ ngừng đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng! Các vị là mục sư của hội thánh. Tại sao các vị không dẫn dắt các tín hữu nghênh tiếp sự tái lâm của Chúa mà lại chống đối và lên án? Các vị không sợ chống đối Đức Chúa Trời thì sẽ bị Ngài trừng phạt sao?” Vừa lúc đó, mục sư trẻ tuổi cực kỳ nóng giận ngắt lời tôi, “Mọi việc chúng tôi đang làm là để bảo vệ bầy chiên. Nếu anh nhất quyết tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, hội thánh sẽ khai trừ anh, anh không được phép đến cướp chiên của chúng tôi!” Tôi càng tức giận hơn khi nghe chị ta nói thế. Chúa đã tái lâm và Ngài muốn tìm chiên của Ngài. Những lãnh đạo hội thánh này nên chủ động dẫn dắt các tín hữu tìm hiểu con đường thật, đưa chiên của Đức Chúa Trời đến trước Ngài. Một bầy tôi trung thành sẽ làm vậy. Nhưng họ không làm như thế. Để bảo vệ địa vị và sinh kế của mình, họ lừa dối và mê hoặc các tín hữu dưới chiêu bài bảo vệ bầy chiên, dụ dỗ mọi người theo họ, chống đối và lên án công tác của Đức Chúa Trời. Họ quá đạo đức giả rồi, đích thị là những đầy tớ xấu xa! Tôi nhớ đến một đoạn trích lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Ngày nay, rất nhiều người cũng phạm phải sai lầm tương tự. Họ rao giảng hết sức mình về việc Đức Chúa Trời sắp xuất hiện, nhưng đồng thời lại lên án sự xuất hiện của Ngài; điều ‘không thể’ của họ một lần nữa giới hạn sự xuất hiện của Đức Chúa Trời trong phạm vi trí tưởng tượng của họ. Và vì thế Ta đã thấy nhiều người cất lên tiếng cười hoang dã và ầm ĩ sau khi nghe lời Đức Chúa Trời. Nhưng tiếng cười này có gì khác sự lên án và báng bổ của người Do Thái không? Các ngươi không tôn kính trước sự hiện diện của lẽ thật, lại càng không có thái độ khao khát mong cầu. Tất cả những gì các ngươi làm là tìm hiểu bừa bãi và chờ đợi với sự bàng quan. Các ngươi có thể thu lượm được gì từ việc tìm hiểu và chờ đợi như vậy? Các ngươi có nghĩ rằng mình sẽ nhận được sự hướng dẫn từ đích thân Đức Chúa Trời không? Nếu các ngươi không thể nhận ra những lời phán của Đức Chúa Trời, làm sao các ngươi có thể đủ điều kiện để chứng kiến sự xuất hiện của Đức Chúa Trời?(Phụ lục 1: Sự xuất hiện của Đức Chúa Trời đã mở ra một thời đại mới, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng phán rất rõ ràng. Những mục sư này không hề có chút thái độ tôn kính đối với lẽ thật hay công tác của Đức Chúa Trời. Họ là những kẻ địch lại Đấng Christ, những đầy tớ xấu xa bị Đức Chúa Trời phơi bày vào thời kỳ sau rốt. Họ không có tư cách chứng kiến sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, khi thấy đức tin của tôi vào Đức Chúa Trời Toàn Năng quá kiên định, không thể lay chuyển, họ đành để tôi về.

Họ lan truyền quan niệm và tung tin đồn giữa các tín hữu. Họ không cho ai liên hệ với các tín hữu của Đức Chúa Trời Toàn Năng, và mê hoặc mọi người chống đối Ngài. Họ cảnh báo từng người rằng nếu ai đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng thì sẽ bị khai trừ khỏi hội thánh. Nhiều người không dám tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng vì sự mê hoặc và cản trở này. Thấy mục sư nhất quyết chống đối công tác của Đức Chúa Trời khiến tôi rất tức giận, và tôi muốn lý luận với họ. Nhưng tôi biết có cố gắng mấy cũng vô ích. Tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời, xin Ngài khai sáng để tôi biết phải làm những gì. Sau đó một chị thông công với tôi, “Ngày xưa những người Pha-ri-si một mực đòi Đức Chúa Jêsus bước xuống từ thập giá để chứng tỏ Ngài là Đấng Mê-si, nhưng Ngài không làm thế. Dù Đức Chúa Jêsus không chứng minh cho họ thấy, nhưng chẳng phải phúc âm của Ngài được truyền bá khắp thế giới sao? Đức Chúa Trời cai quản và an bài mọi sự. Ngài dùng việc làm của những kẻ địch lại Đấng Christ để giúp chúng ta phân biệt thiện và ác. Thông qua họ, chúng ta thấy Sa-tan đã mê hoặc mọi người và chống đối Đức Chúa Trời như thế nào. Chúng ta thấy được sự tà ác và vô sỉ của Sa-tan, khinh ghét nó, và cự tuyệt những mục sự tôn giáo đó. Đó là sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời”. Nghe mối thông công của chị ấy, lòng tôi thấy rất sáng tỏ, và tôi không còn bị mục sư kìm hãm nữa. Vì mục sư đã phong tỏa các hội thánh nghiêm ngặt nên chúng tôi chia sẻ phúc âm ở những nơi khác trước. Không lâu sau, nhiều người đã tìm hiểu và tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng.

Sau đó tôi đọc thêm được mấy đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. Chúng đã làm sáng tỏ thực chất chống đối Đức Chúa Trời của các mục sư. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Các ngươi có ước được biết nguyên nhân gốc rễ vì sao người Pha-ri-si đã chống đối Jêsus không? Các ngươi có ước được biết thực chất của người Pha-ri-si không? Họ đầy ảo tưởng về Đấng Mê-si. Hơn thế nữa, họ chỉ tin rằng Đấng Mê-si sẽ đến, mà không mưu cầu lẽ thật của sự sống. Và vì vậy, cho đến tận ngày nay họ vẫn chờ đợi Đấng Mê-si, bởi vì họ không có hiểu biết gì về con đường sự sống, và không biết con đường lẽ thật là gì. Các ngươi nói xem, làm sao những kẻ ngốc nghếch, cố chấp và dốt nát như vậy có thể có được phước lành của Đức Chúa Trời? Làm sao họ có thể thấy được Đấng Mê-si? Họ đã chống đối Jêsus bởi vì họ đã không biết đường hướng làm việc của Đức Thánh Linh, bởi vì họ đã không biết con đường lẽ thật mà Jêsus đã phán, và hơn thế nữa, bởi vì họ đã không hiểu về Đấng Mê-si. Và bởi vì họ đã chưa bao giờ nhìn thấy Đấng Mê-si và chưa bao giờ ở cùng Đấng Mê-si, họ đã phạm sai lầm là bám víu thuần túy vào danh của Đấng Mê-si trong khi chống đối thực chất của Đấng Mê-si bằng bất kỳ giá nào có thể. Những người Pha-ri-si này về bản chất là cố chấp, kiêu ngạo, và đã không vâng phục lẽ thật. Nguyên tắc niềm tin vào Đức Chúa Trời của họ là: Bất kể sự thuyết giáo của Ngài có thâm thúy ra sao, thẩm quyền của Ngài cao đến đâu, thì Ngài vẫn không phải là Đấng Christ trừ khi Ngài được gọi là Đấng Mê-si. Quan điểm này không phải thật pghi lý và hoang đường hay sao?(Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Có những người đọc Kinh Thánh trong những giáo đường lớn và nghêu ngao nó suốt cả ngày, nhưng không ai trong số họ hiểu được mục đích công tác của Đức Chúa Trời. Không ai trong số họ có thể biết Đức Chúa Trời; càng không ai trong số họ có thể phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Họ đều là những người vô giá trị, hèn hạ, tất cả đều đứng trên cao để dạy bảo Đức Chúa Trời. Họ cố ý chống đối Đức Chúa Trời ngay cả khi họ mang cờ xí của Ngài. Trong khi họ tuyên xưng đức tin ở nơi Đức Chúa Trời, họ vẫn ăn thịt và uống huyết của con người. Tất cả những kẻ như thế là những con quỷ nuốt linh hồn của con người, những con quỷ vương cố tình cản đường những ai đang cố gắng bước trên con đường đúng, và là những chướng ngại vật cản trở những ai tìm kiếm Đức Chúa Trời. Họ có thể ra vẻ có ‘thể chất tốt’, nhưng làm sao những người đi theo họ biết rằng họ không ai khác hơn là những kẻ địch lại Đấng Christ, là những người dẫn dắt con người chống lại Đức Chúa Trời? Làm sao những người đi theo họ biết rằng họ là những con quỷ sống hết mình trong việc nuốt những linh hồn của con người?(Tất cả những ai không biết Đức Chúa Trời đều là những người chống đối Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi đã từng rất coi trọng các mục sư. Họ đã công tác cho Chúa nhiều năm và thông thuộc Kinh Thánh. Họ có vẻ thực sự thương người. Trong các bài giảng, họ bảo các tín hữu cảnh giác và nhẫn nại chờ đợi sự tái lâm của Chúa, nên tôi nghĩ họ là những tín hữu chân thành mong mỏi sự tái lâm của Chúa. Nhưng sự tỏ lộ của lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và sự thật trước mắt đã xóa bỏ hoàn toàn quan điểm đó. Họ có vẻ tận tụy, nhưng khi nghe nói có người loan báo tin mừng Chúa tái lâm thì họ lộ rõ bộ mặt chống đối và căm ghét Đức Chúa Trời. Khi tôi làm chứng trước họ về công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng, họ vô cùng kiêu ngạo, cố chấp bám vào nghĩa đen trong Kinh Thánh. Dù lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng đầy thẩm quyền và quyền năng như thế nào, họ cũng không chịu tiếp nhận, đồng thời không ngừng chống đối và lên án. Thâm chí họ còn đe dọa, cản trở các tín hữu tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Họ âm mưu cản trở mọi người tìm hiểu con đường thật chỉ vì địa vị và sinh kế của bản thân. Họ sợ nếu mọi người tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng thì sẽ không ai cho họ của lễ, và họ sẽ mất đi địa vị vốn có. Tất cả những việc họ làm giống hệt những người Pha-ri-si đã làm để chống lại Đức Chúa Jêsus 2.000 năm trước, bị Đức Chúa Trời lên án và rủa xả. Đức Chúa Jêsus đã lên án họ, phán rằng: “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi đóng nước thiên đàng trước mặt người ta; các ngươi không vào đó bao giờ, mà có ai muốn vào, thì lại ngăn trở(Ma-thi-ơ 23:13). “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi đi khắp dưới nước trên bộ để khuyên một người vào đạo mình; và khi đã khuyên được rồi, thì các ngươi làm cho họ trở nên người địa ngục gấp hai các ngươi(Ma-thi-ơ 23:15).

Trong cuộc tranh luận trực diện với họ, hoàn toàn là nhờ Đức Chúa Trời Toàn Năng đã cho tôi sức mạnh, và có kết quả đó là nhờ chút lẽ thật mà tôi hiểu được qua việc đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đây là trải nghiệm rất đặc biệt trong đời tôi. Nếu tôi không tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng và không đọc lời Ngài, tôi cũng sẽ như các tín hữu khác, tin vào Đức Chúa Trời nhưng tôn thờ và đi theo con người. Tôi sẽ không thể nào phân định được những người Pha-ri-si đạo đức giả, những kẻ địch lại Đấng Christ đó. Cuối cùng tôi sẽ đi sai đường vì sùng bái mục sư và sẽ bị Đức Chúa Trời loại bỏ. Tạ ơn Đức Chúa Trời Toàn Năng!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Bị cản trở trong đức tin

Bởi Phanh Bác, Trung Quốc Tôi trở thành người Công giáo vào năm 1988. Vài năm sau, tôi được chỉ định vào hội đồng giáo xứ. Dù bận rộn thế...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger