Một lối sống tuyệt vời
Hồi nhỏ, bố mẹ thường dạy tôi rằng đối với người khác chớ nên quá thẳng thắn, chuyện gì cũng nên dĩ hòa vi quý, đó chính là triết lý của cuộc sống. Vì vậy, tôi luôn sống theo những triết lý của Sa-tan như “Thấy lỗi của bạn chớ nói gì thì tình bạn trường tồn tốt đẹp” và “Đánh người đừng đánh vào mặt, chửi người đừng nhằm điểm yếu” với bạn cùng lớp, hàng xóm, bạn bè – tất cả mọi người. Mỗi khi thấy ai đó làm gì không đúng, tôi đều không muốn làm họ xấu hổ và cố gắng không phơi bày điểm yếu của họ. Mọi người luôn khen tôi hiểu chuyện và quan tâm tới người khác. Bản thân tôi cũng nghĩ làm như vậy là đúng, rằng đó là nguyên tắc cơ bản nhất để sống hòa thuận với người khác. Sau khi có đức tin và trải nghiệm sự phán xét và hình phạt trong lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra làm vậy không hẳn là tốt, mà là sống theo triết lý của Sa-tan. Làm vậy chẳng giúp được ai, mà thậm chí có thể gây tổn thương cho người khác. Quan điểm sống của tôi đã thay đổi và lời của Đức Chúa Trời đã cho tôi biết nguyên tắc ứng xử.
Tháng 8 năm 2019, khi được chọn là lãnh đạo hội thánh, tôi rất biết ơn Đức Chúa Trời vì đã ban cho tôi cơ hội này. Tôi thầm quyết tâm sẽ gánh vác trọng trách của bổn phận đó. Một thời gian sau, tôi nhận thấy công tác của các anh chị em có vài vấn đề. Chẳng hạn một số người thực hiện bổn phận không cẩn thận, khiến các video mà họ thực hiện có vài vấn đề rất rõ ràng. Một số người không phối hợp tốt với các anh chị em khác, nên mọi người không đồng điệu với nhau, ảnh hưởng tới hiệu quả công việc. Khi nhận thấy điều này, tôi nghĩ, “Họ đang bộc lộ sự bại hoại khi thực hiện bổn phận. Nếu không chỉ ra thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác của nhà Đức Chúa Trời. Mình cần thông công với họ và phân tích cho họ hiểu ra vấn đề và thay đổi”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Nếu mình nói hết vấn đề của mọi người ra ngay sau khi vừa đảm nhận bổn phận này, thì họ sẽ nghĩ gì về mình đây? Liệu họ có nói mình quá nghiêm khắc với họ, hay mình quá khắt khe và khó hòa đồng hay không? Nếu để lại ấn tượng với mọi người như vậy thì liệu họ có xa lánh mình không? Thôi quên đi. Không nhắc đến chuyện đó nữa. Trước tiên mình phải tạo quan hệ tốt với mọi người”. Vậy là tôi cứ thế bỏ qua mọi vấn đề của các anh chị em, lúc nào cũng sợ làm họ mất mặt hoặc thấy khó xử, và có thể khiến chúng tôi mất hòa khí.
Có lần, một chị bảo tôi rằng anh Vương rất bảo thủ trong lúc thực hiện bổn phận và không chịu tiếp thu ý kiến đóng góp của người khác, gây cản trở công việc. Tôi đã đi hỏi thăm ý kiến của những người khác, và họ đều nói anh Vương rất kiêu căng, hống hách, coi thường người khác, và hầu hết những ai làm việc với anh ấy đều thấy không thoải mái. Khi nghe những lời phản ánh đó, tôi nhận thấy vấn đề của anh Vương vô cùng nghiêm trọng. Nếu không xử lý ngay sẽ không có lợi cho lối vào sự sống của anh ấy hay công tác của nhà Đức Chúa Trời. Tôi phải tìm anh để thông công, giúp anh hiểu được sự nghiêm trọng của vấn đề. Nhưng khi nói chuyện với anh Vương, tôi lại chỉ muốn thoái thác. Tôi nghĩ… “Những vấn đề mà mọi người đưa ra đều là những điểm tồi tệ nhất của anh Vương. Nếu mình mổ xẻ từng chuyện ra, chẳng phải anh Vương sẽ nghĩ mình đang xem thường và coi anh ấy chẳng ra gì sao? Vậy chẳng phải là sẽ làm anh mất mặt sao? Nếu anh Vương cảm thấy mình đang công kích anh ấy, chẳng phải anh sẽ rất oán giận mình sao? Mình thường xuyên gặp anh Vương trong các buổi gặp mặt và thực hiện bổn phận. Nếu hai người thấy khó xử thì làm sao hợp tác tốt với nhau được?” Lúc đó, tôi nhớ trong các buổi gặp mặt anh Vương luôn nói mình có tâm tính kiêu ngạo. Nếu tôi chỉ nhắc đến việc đó mà không xoáy sâu hay động chạm tới những vấn đề nhạy cảm, thì anh ấy sẽ không mất mặt lắm, và hai chúng tôi cũng không bị khó xử. Vì vậy trong lúc thông công, tôi chỉ đề cập qua loa chuyện đó, nói rằng anh ấy kiêu căng và đang coi thường người khác. Anh Vương lắng nghe và thừa nhận mình có những vấn đề đó, rằng anh ấy đã biết từ lâu rồi. Tôi biết anh ấy không nhận ra vấn đề này nghiêm trọng đến mức nào, nhưng tôi cũng không nói thêm nữa. Do anh Vương không hiểu rõ được bản thân mình, nên khi thực hiện bổn phận, anh ấy vẫn cứng đầu như vậy, không thể hợp tác với người khác và khiến mọi việc đình trệ. Sau đó, anh ấy bị điều chuyển đi. Anh đảm nhận một bổn phận khác, nhưng vẫn không bỏ được tâm tính bại hoại đó, và làm việc cũng không hiệu quả lắm. Một hôm, người giám sát anh Vương nói chuyện với tôi và tỏ ra vô cùng tức tối, “Chị không nhận ra anh Vương có vấn đề à? Nếu có thì sao chị không thông công cho anh ấy? Anh ấy đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tiến độ công việc của chúng tôi”. Lời nói nghiêm khắc của chị ấy khiến tôi cảm thấy như thể Đức Chúa Trời đang thông qua chị để khiển trách tôi vì không thực hành lẽ thật. Tôi thấy rất buồn và có lỗi với họ. Giá mà tôi kịp thời chỉ ra những vấn đề của anh Vương, và anh ấy thật sự suy ngẫm về chúng, thì anh ấy có thể đã làm tròn bổn phận của mình. Nhưng thay vào đó, anh ấy không thực sự hiểu được bản tính Sa-tan của mình, nên không những không hoàn thành bổn phận lúc trước, mà còn không chịu thay đổi sau khi bị điều chuyển. Anh ấy vẫn đang cản trở công tác của hội thánh. Chẳng phải tôi đang làm tổn thương người khác và trì hoãn công tác của nhà Đức Chúa Trời hay sao? Tôi thường nghĩ mình có nhân cách tốt, nhưng giờ lại thấy mình chỉ đang cố gắng duy trì mối quan hệ với người khác để không làm họ mất mặt và tạo ấn tượng xấu cho họ. Nhưng làm vậy chẳng giúp ích gì cho lối vào sự sống của người khác hay công tác của nhà Đức Chúa Trời. Như vậy có phải là có nhân cách tốt không?
Sau đó, tôi đọc được lời này của Đức Chúa Trời: “Phải có một tiêu chuẩn để có nhân tính tốt. Nó không liên quan đến việc đi theo con đường tiết độ, không tuân thủ các nguyên tắc, cố gắng không xúc phạm ai, nịnh hót ở mọi nơi ngươi đến, ngọt ngào và khéo léo với mọi người ngươi gặp, và làm cho mọi người cảm thấy dễ chịu. Đây không phải là tiêu chuẩn. Vậy tiêu chuẩn là gì? Nó bao gồm việc đối xử với Đức Chúa Trời, với những người khác, và các sự việc bằng một tấm lòng chân thật, có thể chịu trách nhiệm, và thực hiện tất cả những điều này theo cách rõ ràng cho mọi người thấy và cảm nhận. Hơn nữa, Đức Chúa Trời dò xét tấm lòng của con người và biết chúng, mỗi một tấm lòng. Một số người luôn khoe khoang rằng họ có nhân tính tốt, khẳng định chưa bao giờ làm điều gì xấu, không ăn cắp tài sản của người khác, hoặc thèm muốn những thứ của người khác. Họ thậm chí còn đi xa đến mức cho phép người khác lợi dụng khi có tranh chấp về quyền lợi, thà chịu thiệt thòi, và không bao giờ nói xấu ai chỉ để người khác nghĩ rằng họ là người tốt. Tuy nhiên, khi thực hiện bổn phận của mình trong nhà Đức Chúa Trời, họ là những người ranh ma và láu cá, luôn bày mưu cho mình. Họ không bao giờ nghĩ đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, không bao giờ coi là khẩn cấp với những việc Đức Chúa Trời coi là khẩn cấp hoặc nghĩ như Đức Chúa Trời nghĩ, và họ không bao giờ có thể gạt sang một bên lợi ích riêng của mình để thực hiện bổn phận. Họ không bao giờ từ bỏ lợi ích của riêng mình. Ngay cả khi họ thấy những kẻ xấu phạm tội ác, họ cũng không vạch trần chúng; họ không hề có nguyên tắc nào. Đây không phải là một ví dụ về nhân tính tốt” (“Trao tấm lòng chân thật của mình cho Đức Chúa Trời và ngươi có thể có được lẽ thật” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời của Đức Chúa Trời đã chỉ ra những nguyên tắc ứng xử. Người tốt thực sự không chọn cách tiết chế hay giữ im lặng trước những vấn đề của người khác. Họ không mưu cầu sự hòa hợp, hay cố gắng giữ mối quan hệ hoàn hảo với người khác. Tiêu chuẩn đánh giá người tốt thực sự nằm ở việc sống có nguyên tắc và có ý thức về sự công bằng. Luôn tuân theo nguyên tắc mà không lo sợ làm mất lòng người khác để bảo vệ nhà Đức Chúa Trời khỏi tổn hại lợi ích. Khi tương tác với các anh chị em, tôi chỉ tập trung vào việc không làm mất mặt hay đắc tội với mọi người. Tôi cho rằng miễn duy trì được mối quan hệ thì mọi người sẽ nghĩ tốt về mình. Nhưng điều đó lại không hề phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật. Tôi thấy người khác làm những điều bại hoại và cản trở công tác của nhà Đức Chúa Trời, nhưng tôi chỉ muốn giữ hình ảnh đẹp của mình trong mắt mọi người, không bảo vệ lợi ích của hội thánh mà lại nhắm mắt cho qua. Dù thấy rõ mọi việc nhưng tôi cứ lờ đi. Đặc biệt là với anh Vương, tôi biết những vấn đề của anh đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới công tác của nhà Đức Chúa Trời. Nhưng lại lo anh ấy có thể nghĩ tôi đang cố ý công kích, nên sẽ không chấp nhận những gì tôi nói và nảy sinh thành kiến với tôi. Vì vậy khi thông công cho anh ấy, tôi chỉ nói qua loa mà không đi sâu vào vấn đề. Kết quả là anh ấy nghĩ những chuyện đó không nghiêm trọng. Bề ngoài, tôi vẫn giữ được hình tượng tốt đẹp của mình, nhưng thật ra, tôi đang phá hỏng công tác của hội thánh và lối vào sự sống của các anh chị em. Tôi thấy mình chỉ đang ra vẻ là “người tốt”, kẻ thích chiều lòng người khác, một kẻ dối trá thực sự.
Sau đó, trong những lần cầu nguyện, tôi đã đọc được đoạn này trong những lời Đức Chúa Trời: “Một số lãnh đạo hội thánh không quở trách những anh chị em mà họ thấy thực hiện bổn phận một cách cẩu thả và chiếu lệ, mặc dù họ nên làm như vậy. Khi thấy điều gì đó rõ ràng là phương hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, họ nhắm mắt làm ngơ và không chất vấn gì để không gây xúc phạm gì cho người khác. Mục đích và mục tiêu thực sự của họ không phải là để thể hiện sự cân nhắc đối với điểm yếu của người khác – họ biết rất rõ ý định của mình: ‘Nếu tôi tiếp tục duy trì điều này và không gây xúc phạm cho bất kỳ ai, họ sẽ nghĩ tôi là một lãnh đạo tốt. Họ sẽ có ý kiến tốt và đánh giá cao về tôi. Họ sẽ ưu ái và thích tôi’. Bất kể lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị thiệt hại đến mức nào, và cho dù dân sự được Đức Chúa Trời chọn có bị cản trở đến mức nào trong việc bước vào sự sống của họ, hoặc đời sống hội thánh của họ có bị quấy rầy đến mức nào, những người như vậy vẫn kiên trì theo đuổi triết lý sa-tan của mình là không gây xúc phạm. Trong lòng họ không bao giờ có ý thức tự khiển trách mình; cùng lắm, họ có thể, lúc nhân tiện, thì đề cập một cách qua loa về một vấn đề nào đó, và vậy là xong việc đó. Họ không thông công lẽ thật, cũng không chỉ ra bản chất vấn đề của người khác, và lại càng không mổ xẻ tình trạng của mọi người. Họ không dẫn mọi người bước vào thực tế lẽ thật, và họ không bao giờ truyền đạt ý muốn của Đức Chúa Trời là gì, hoặc những điều sai trái mà con người thường phạm phải, hoặc những kiểu tâm tính bại hoại mà con người phơi bày. Họ không giải quyết những vấn đề thực tế này; thay vào đó, họ luôn dung túng những điểm yếu và sự tiêu cực của người khác, thậm chí cả sự bất cẩn và thờ ơ của họ. Họ luôn để những hành động và hành vi của những người này diễn ra mà không bị điểm mặt đặt tên và chính vì họ làm như vậy nên hầu hết mọi người đều nghĩ rằng: ‘Lãnh đạo của chúng ta giống như một người mẹ đối với chúng ta. Họ thậm chí còn hiểu những điểm yếu của chúng ta hơn cả Đức Chúa Trời. Vóc giạc của chúng ta có thể quá nhỏ để đáp ứng yêu cầu của Đức Chúa Trời, nhưng đủ để chúng ta có thể đáp ứng yêu cầu của lãnh đạo. Họ là một lãnh đạo tốt đối với chúng ta. Nếu một ngày nào đó mà Bề trên thay thế lãnh đạo của chúng ta, chúng ta nên lên tiếng và đưa ra những ý kiến và mong muốn khác nhau của chúng ta. Chúng ta nên cố gắng thương lượng với Bề trên’. Nếu mọi người nuôi những suy nghĩ như vậy – nếu họ có loại quan hệ này với lãnh đạo của mình, và ấn tượng như vậy về họ, và đã nảy sinh trong lòng họ những cảm giác phụ thuộc, ngưỡng mộ, tôn trọng và tôn sùng đối với lãnh đạo của mình – thì các lãnh đạo phải cảm thấy thế nào? Trong vấn đề này, nếu họ cảm thấy có chút tự trách mình, có chút khó chịu, và cảm thấy mắc nợ Đức Chúa Trời, thì họ không nên lưu luyến địa vị hoặc hình ảnh của mình trong lòng người khác. Họ nên chứng thực cho Đức Chúa Trời và tôn vinh Ngài, để Ngài có một vị trí trong lòng mọi người, và để mọi người tôn kính Đức Chúa Trời là vĩ đại. Chỉ như vậy, lòng họ mới thực sự được bình yên, và ai làm được như vậy mới là người theo đuổi lẽ thật. Tuy nhiên, nếu đây không phải là mục tiêu đằng sau hành động của họ, và thay vào đó, họ sử dụng các phương pháp và kỹ thuật này để lôi kéo mọi người đi lạc khỏi con đường thật và từ bỏ lẽ thật, đi xa đến nỗi dung túng cho việc mọi người thực hiện bổn phận một cách bất cẩn, chiếu lệ và vô trách nhiệm, với mục đích chiếm một vị trí nhất định trong lòng mọi người và giành được thiện cảm của họ, đây chẳng phải là một nỗ lực để thu phục mọi người sao? Và đây chẳng phải là một điều xấu xa, đáng ghét sao? Thật ghê tởm!” (“Đối với những người dẫn dắt và những người làm công, việc chọn một con đường là điều vô cùng quan trọng (1)” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời của Đức Chúa trời đã vạch trần bản chất và động cơ đằng sau hành động của tôi. Từ khi trở thành lãnh đạo, tôi luôn thận trọng để giữ quan hệ tốt đẹp với mọi người. Tôi không vạch trần vấn đề của các anh chị em mà chỉ muốn giữ thể diện cho họ. Thậm chí tôi còn không nhận ra mức độ cấp thiết khi thấy anh Vương đang phá hoại và cản trở công tác của hội thánh. Thay vào đó, tôi chỉ lo giữ ý với mọi người, muốn duy trì hình tượng của mình trong lòng họ. Nhìn bên ngoài, tôi có vẻ là người tử tế, vô hại, nhưng đó chỉ là tấm bình phong khiến các anh chị em hiểu lầm. Tôi dùng hành động và lời hay ý ngọt để lấy lòng mọi người, để được các anh chị em yêu quý và kính trọng. Làm vậy tôi có thể củng cố vị trí của mình. Tôi muốn đi trên con đường bằng phẳng và đã hi sinh lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để đạt được điều đó. Tôi đã đi ngược lại các nguyên tắc của lẽ thật và làm tổn hại đến công tác của nhà Đức Chúa Trời. Tôi đang đi vào con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Lúc này, tôi bỗng nhớ tới lời của Đức Chúa Trời: “Ngươi có thể đặc biệt tử tế và tận tình với bà con, bạn bè, vợ (hay chồng), con trai và con gái, cha mẹ của ngươi, và không bao giờ lợi dụng người khác, nhưng nếu ngươi không thể tương hợp với Đấng Christ, nếu ngươi không thể tương tác hòa hợp với Ngài, thì ngay cả khi ngươi dâng trọn mọi thứ của mình có để cứu lấy láng giềng hay tận tình chăm sóc cha, mẹ, và các thành viên trong gia đình ngươi, Ta cũng sẽ nói rằng ngươi vẫn xấu xa, và hơn nữa là kẻ đầy những thủ đoạn quỷ quyệt” (Những ai không tương hợp với Đấng Christ thì hẳn là những kẻ chống đối của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nhà Đức Chúa Trời đã cho tôi trở thành lãnh đạo để hướng dẫn mọi người thực hành lẽ thật và thực hiện bổn phận của mình, bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời, thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề của người khác để họ có thể hiểu ra sự bại hoại của bản thân và học cách thực hiện bổn phận theo nguyên tắc. Trách nhiệm của tôi là vậy. Nhưng tôi lại không thực hiện bổn phận như Đức Chúa Trời yêu cầu. Mà chỉ tập trung duy trì các mối quan hệ và giữ thanh danh của mình với người khác, cuối cùng lại gây tổn hại cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và cản trở lối vào sự sống của mọi người. Tôi đang đứng về phía Sa-tan. Tôi thấy mình giống hệt những gì mà lời của Đức Chúa Trời đã phơi bày. Tôi không những không phải là người tốt, mà còn là một kẻ xấu xa, lươn lẹo, ích kỷ và đáng khinh. Nếu không hối cải và thay đổi, tôi sẽ cản trở lối vào sự sống của các anh chị em. Cuối cùng tôi cũng hiểu được những nguyên tắc sống của mình khi tương tác với người khác. Tôi thực sự thấy câu “Thấy lỗi của bạn chớ nói gì thì tình bạn trường tồn tốt đẹp” và “Đánh người đừng đánh vào mặt, chửi người đừng nhằm điểm yếu” đều là những chất độc của Sa-tan, chứ không phải nguyên tắc ứng xử đúng đắn. Tôi đã cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, sẵn sàng hối cải và sửa đổi hướng đi sai lầm của mình.
Sau đó, tôi đã đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi muốn có mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, thì lòng ngươi phải hướng về Đức Chúa Trời. Với điều này làm nền tảng, ngươi cũng sẽ có mối quan hệ bình thường với người khác. Nếu ngươi không có một mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, thì dù ngươi có làm gì để duy trì các mối quan hệ với người khác, cho dù ngươi làm việc chăm chỉ ra sao hay dốc bao nhiêu sức, tất cả vẫn chỉ liên quan đến triết lý sống của con người. Ngươi đang duy trì vị thế của mình giữa mọi người qua góc độ và triết lý của con người, để cho mọi người tán dương ngươi, nhưng ngươi chẳng làm theo lời Đức Chúa Trời nhằm thiết lập mối quan hệ bình thường với mọi người. Nếu ngươi không tập trung vào mối quan hệ với mọi người, mà lo duy trì mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, nếu ngươi sẵn sàng dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời và học cách vâng lời Ngài, thì tự nhiên những mối quan hệ của ngươi với mọi người sẽ trở nên bình thường. Theo cách này, những mối quan hệ này không thiết lập trong xác thịt, mà là trên nền tảng là tình yêu Đức Chúa Trời. Hầu như không có sự tương tác về xác thịt, nhưng trong tinh thần, có sự thông công, tình yêu thương lẫn nhau, sự an ủi lẫn nhau và sự cung cấp cho nhau. Tất cả điều này đều được thực hiện trên nền tảng một tấm lòng làm thỏa mãn Đức Chúa Trời. Những mối quan hệ này không được duy trì bằng cách dựa theo triết lý sống của con người, mà được định hình rất tự nhiên qua việc mang trọng trách vì Đức Chúa Trời. Nó không cần đến nỗ lực của con người. Ngươi chỉ cần thực hành theo các nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời” (Việc thiết lập một mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời là rất quan trọng, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đức Chúa Trời giúp tôi nhận ra mối quan hệ đích thực giữa người với người không thể được xây dựng dựa trên những triết lý sống thực dụng. Chỉ có nuôi dưỡng tinh thần của người khác theo lời của Đức Chúa Trời mới mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Khi thấy người khác thực hiện bổn phận với tâm tính bại hoại làm ảnh hưởng tới công việc của họ, lẽ ra tôi không nên chỉ tập trung vào hình tượng và địa vị của mình, mà nên áp dụng lời của Đức Chúa Trời vào vấn đề đó để giúp họ hiểu được tâm tính bại hoại của bản thân, và thông công lời Đức Chúa Trời để họ có thể thực hiện tốt bổn phận. Nếu làm vậy thì Đức Chúa Trời sẽ chấp nhận. Trong các buổi gặp mặt, nhờ lời của Đức Chúa Trời soi sáng, anh Vương thường có thể hiểu được bản thân, chứng tỏ anh ấy muốn giải quyết những vấn đề của mình. Chỉ là anh ấy không hiểu căn nguyên của vấn đề và không thực sự căm ghét bản thân nên anh vẫn sống với sự bại hoại khi chuyện không hay xảy ra. Nếu như tôi dùng lời của Đức Chúa Trời để phân tích bản chất của vấn đề để anh Vương có thể tìm ra hướng thực hành trong đó, thì hẳn đã giúp ích được cho anh rồi. Khi nhận ra điều đó, tôi muốn thay đổi hướng đi sai lầm của mình và làm theo những yêu cầu của Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi tóm tắt những vấn đề của anh Vương khi thực hiện bổn phận và liệt kê từng điểm một. Tôi thông công cho anh, mổ xẻ hành vi của anh và phân tích căn nguyên của vấn đề. Sau đó, anh Vương không hề ghét bỏ hay xa lánh tôi như tôi tưởng, mà ngược lại còn chấp nhận sự thông công của tôi. Sau đó, anh gửi cho tôi một tin nhắn và nói “Thật may vì chị đã nói chuyện này với tôi, nếu không, chắc tôi không thể nhận ra vấn đề nghiêm trọng tới mức nào”. Tôi đã thật sự rất cảm động. Sau khi tôi sửa đổi động cơ, và không quan tâm mọi người nghĩ gì về mình nữa, mà chỉ tập trung thực hành lời của Đức Chúa Trời và tuân thủ các nguyên tắc, tôi có thể hỗ trợ mọi người xung quanh một cách thiết thực. Tôi cũng thấy bình yên, nhẹ nhõm trong lòng.
Sau đó, tôi nhận thấy có một chị tỏ ra trì trệ và ngang bướng trong khi thực hiện bổn phận. Điều đó gây ra rất nhiều vấn đề. Chị ấy biết mình có khuyết điểm và suy nghĩ rất tiêu cực. Tôi nhận thấy những vấn đề này chủ yếu là do thái độ của chị về bổn phận của mình, nên muốn nói ra chuyện này. Nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Chị ấy đang rất thất vọng, chán nản rồi. Nếu mình còn nói tới những chuyện đó, chẳng phải sẽ càng sát muối vào vết thương của chị sao? Nếu chị ấy càng suy nghĩ tiêu cực hơn, mọi người có thể nói rằng mình thật thiếu nhân tính và không có lòng khoan dung, và sẽ tẩy chay mình”. Tôi nghĩ chỉ cần tìm được cách giải quyết các vấn đề trong bổn phận của chị ấy là được, sau đó, tôi sẽ không phải nhắc đến chúng nữa. Nhưng rồi tôi nhận ra mình lại dang hành động theo những triết lý Sa-tan xấu xa đó, nếu tôi không chỉ ra vấn đề cho chị ấy, chị ấy sẽ không nhìn thấy sự bại hoại của bản thân và điều đó cũng chẳng giúp ích được gì cho chị ấy. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật mà mình nên đi sâu vào trong tình huống đó. Sau đó, tôi đã đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời không bao giờ chần chừ hay do dự trong hành động của mình; các nguyên tắc và mục đích đằng sau những hành động của Ngài đều rõ ràng và minh bạch, thuần khiết và hoàn hảo, hoàn toàn không có âm mưu hay toan tính nào pha lẫn trong đó. Nói cách khác, thực chất của Đức Chúa Trời không chứa chấp bóng tối hay sự xấu ác” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Đức Chúa Trời không ôn hòa; Ngài không bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng của con người. Đối với Ngài, một là một và hai là hai; đúng là đúng và sai là sai. Không có sự mơ hồ” (“Chỉ thật sự vâng phục mới là đức tin thật” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi nhận thấy những lời nói và hành động của Đức Chúa Trời đều rất có nguyên tắc, yêu ghét rõ ràng. Đức Chúa Trời tán đồng khi mọi người làm điều tích cực, nhưng khi họ đi ngược lại lẽ thật và làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì Ngài khinh ghét những việc đó. Mọi hành động của Đức Chúa Trời đều rất rõ ràng – không có chuyện nhập nhằng. Điều này khiến tôi nhớ tới lúc Chúa Jêsus bị đóng đinh lên thập giá, Phi-e-rơ đã nói, “Hỡi Chúa, Ðức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!” (Ma-thi-ơ 16:22). Nhưng Chúa lại nói “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta” (Ma-thi-ơ 16:23). Câu nói này cho thấy Phi-e-rơ thực chất đang cản trở công tác của Đức Chúa Trời, thế nên Ngài xác định đây là hành động của Sa-tan. Chúa Jêsus không hề do dự vì e ngại sẽ làm tổn thương lòng tự trọng của Phi-e-rơ hay khiến ông phải buồn. Ngài đã ra quyết định rõ ràng dựa trên những hành động của Phi-e-rơ để Phi-e-rơ có thể thấy thái độ của Đức Chúa Trời rất rõ ràng và hiểu được bản chất những hành động của mình. Thái độ của Đức Chúa Trời với mọi người giúp tôi nhận ra những nguyên tắc thực hành. Chúng ta cần biết khoan dung và kiên nhẫn trước một vài vấn đề của các anh chị em, nhưng nếu vấn đề đó ảnh hưởng tới bổn phận của họ hoặc cản trở công tác của nhà Đức Chúa Trời, thì cần phải thông công và tuân theo các nguyên tắc của lẽ thật. Tôi không thể là kẻ trung dung, làm vừa lòng mọi người được. Tôi biết chị ấy đang suy nghĩ tiêu cực, nhưng nếu tôi xuất phát từ động cơ đúng đắn, không xem thường chị ấy hay mắng mỏ thậm tệ, mà thông công lẽ thật một cách chân thành để giúp phân tích các vấn đề, thì chị ấy có thể hiểu ra sự bại hoại của mình. Sau đó, chúng tôi có thể tìm ra hướng thực hành và tôi có thể làm tròn bổn phận theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi tìm đến chị ấy để thông công về các vấn đề và thảo luận những quan điểm sai lầm của chị. Tôi chia sẻ cả kinh nghiệm của bản thân để hướng dẫn chị. Mới đầu, tôi sợ thông công như vậy thì gay gắt quá, và chị ấy có thể không chịu được. Nhưng khi tôi thông công xong, chị ấy không tỏ ra chán nản hơn hay xa lánh tôi như tôi tưởng, trái lại, chị nói rất chân thành rằng lúc trước chị thực sự không hiểu những vấn đề của mình và chị ấy chấp nhận với việc bị xử lý như vậy. Sau đó, chị ấy đã thay đổi thái độ khi thực hiện bổn phận và bắt đầu không ngừng tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật. Tôi rất vui khi thấy điều đó. Thật hạnh phúc khi thực hành lẽ thật và thực hiện bổn phận theo yêu cầu của Đức Chúa Trời.
Khi giao tiếp ứng xử với người khác, tôi đã luôn sợ sẽ làm họ mất thể diện khi nói chuyện quá gay gắt, nên đã xử lý các mối quan hệ dựa trên những triết lý thực dụng. Sống như vậy thật mệt mỏi. Nhờ có những trải nghiệm này và có sự dẫn dắt trong lời của Đức Chúa Trời, tôi đã biết làm người tốt thực sự là như thế nào. Tôi cũng hiểu điều quan trọng là bảo vệ các nguyên tắc của lẽ thật và thực hành lời Đức Chúa Trời khi tương tác với những người khác. Đó mới là nguyên tắc ứng xử đúng đắn.
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?