Ai có thể cứu rỗi nhân loại và triệt để cải biến vận mệnh của chúng ta?
Khi nhắc đến vận mệnh, hầu hết mọi người đều đánh đồng rằng những người có tiền tài, địa vị, và thành công thì tức là có vận mệnh tốt, còn những người nghèo, không có địa vị, những người gặp tai họa và khó khăn, bị người khác coi thường, thì là người có vận mệnh xấu. Vì thế, để thay đổi vận mệnh, họ nỗ lực theo đuổi tri thức, hy vọng tri thức sẽ giúp họ đạt được giàu sang, địa vị và do đó thay đổi số phận của họ. Tiền tài, địa vị và thành công trong cuộc sống có thực sự đồng nghĩa với vận mệnh tốt hay không? Việc chịu tai ương và bất hạnh có thực sự đồng nghĩ với vận mệnh xấu hay không? Hầu hết mọi người đều không hiểu rõ về điều này và vẫn đang nỗ lực theo đuổi tri thức để thay đổi số phận. Nhưng tri thức có thể thay đổi vận mệnh của một người không? Ai thực sự có thể cứu rỗi nhân loại và cách mạng hóa vận mệnh của chúng ta? Hôm nay chúng ta hãy cùng bàn luận vấn đề này nhé.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể thấy nhiều người có được tri thức cũng có thể đạt được tiền tài và địa vị. Họ có cuộc sống sung túc và thậm chí có thể trở nên nổi tiếng hay được ca tụng. Sự thành công và nổi tiếng khiến họ có vẻ có vận mệnh tuyệt vời. Nhưng có thật sự như vậy không? Họ có thực sự hạnh phúc không? Họ có thể có quyền lực, tầm ảnh hưởng và có vẻ có tiếng tăm, nhưng họ vẫn có cảm giác trống trải và đau khổ, mất đi niềm vui sống. Một số thậm chí còn dùng ma túy hay tự sát. Và một số còn lợi dụng quyền lực và tầm ảnh hưởng của mình để làm bất cứ gì mình muốn, làm những việc xấu xa và phạm tội, cuối cùng là bị đi tù, thân bại danh liệt. Chẳng phải phần lớn những người này đều thuộc giới trí thức hay sao? Tại sao những người có vẻ sáng suốt, hiểu luật pháp đó lại có thể làm những việc khủng khiếp như thế? Tại sao họ lại làm ra những việc lố bịch như vậy? Tại sao mọi chuyện lại thành ra như vậy? Ngày nay, mọi người đều muốn được đi học, ai cũng theo đuổi tri thức, và các giai cấp thống trị ở mọi quốc gia, mọi dân tộc đều là các trí thức. Thậm chí cả thế giới đều được cầm quyền bởi các trí thức, được người tài lãnh đạo. Rõ ràng là với sự cầm quyền của giới trí thức, thế giới phải ngày càng văn minh hơn và biết yêu thương hơn. Nhưng điều gì đang thực sự xảy ra với thế giới? Nó đang rơi vào tình trạng lộn xộn và hỗn loạn, con người lừa lọc, đấu đá, thậm chí chém giết nhau. Tất cả bọn họ đều phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời, họ ghét lẽ thật và đề cao cái ác, không muốn ăn năn, kích động cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời và sự căm phẫn của con người. Các thảm họa lần lượt ập đến, và thế giới luôn có nguy cơ nổ ra chiến tranh lớn. Rõ ràng là trí thức nắm quyền và thể chế chính trị toàn những người tài lãnh đạo không mang lại xã hội hòa bình và hạnh phúc, mà thay vào đó lại mang đến cho chúng ta ngày càng nhiều thảm họa và đau khổ hơn. Các đại dịch bùng phát ngày càng nhiều, chiến tranh nổ ra không ngừng, theo sau là những cơn động đất và nạn đói. Con người tràn ngập sợ hãi, như thể ngày tận thế đã đến. Lý do thực sự của điều này là gì? Tại sao khi con người có được tri thức, quyền lực và địa vị, họ lại làm quá nhiều điều khủng khiếp như vậy? Tại sao việc có các tri thức và một nhà nước do người tài lãnh đạo lại mang đến quá nhiều thảm họa cho một quốc gia và một dân tộc như thế? Đây là điều rất đáng để suy nghĩ! Liệu việc có được tri thức có thể khiến ai đó tốt hơn và thoát khỏi tội lỗi không? Liệu có được tri thức có thể khiến người ta tử tế hơn và không làm việc xấu nữa không? Liệu tri thức có thể cứu con người khỏi phạm tội và cứu họ khỏi các thế lực của Sa-tan không? Tôi càng lúc càng nghi ngờ khả năng tri thức có thể thay đổi vận mệnh của một người. Tại sao sau khi có được tri thức và địa vị, hầu hết mọi người lại ngày càng kiêu ngạo và tự cho mình là công chính? Tại sao càng hiểu biết nhiều, họ càng ra vẻ ta đây hơn? Khi cầm quyền, họ trở nên lầm lạc và độc đoán, phá hoại và mang đến tai họa. Có vẻ như cùng với nền giáo dục tốt hơn và khoa học phát triển hơn, một đất nước nên được quản lý tốt hơn và người dân nên văn minh hơn, hạnh phúc và khỏe mạnh hơn. Nhưng một quốc gia như thế có thực sự tồn tại không? Chưa bao giờ có. Điều đó thực sự khiến mọi người phải vò đầu bứt tóc! Tôi đã đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Từ khi loài người nghĩ ra khoa học xã hội, tâm trí của con người đã trở nên bị chiếm lĩnh bởi khoa học và kiến thức. Khoa học và kiến thức từ đó đã trở thành những công cụ để cai trị nhân loại, không còn đủ chỗ cho con người thờ phượng Đức Chúa Trời, và không còn những điều kiện thuận lợi cho việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Vị trí của Đức Chúa Trời ngày càng giảm sút trong lòng con người. Không có Đức Chúa Trời trong lòng, thế giới nội tâm của con người thật tăm tối, vô vọng và trống rỗng. Rồi sau đó, nhiều nhà khoa học xã hội, sử gia, và chính trị gia đã đứng ra phát biểu các lý thuyết về khoa học xã hội, lý thuyết về sự tiến hóa của loài người, và các lý thuyết khác trái với lẽ thật rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người, để lấp đầy trái tim và trí óc nhân loại. Và theo cách này, những người tin rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên mọi thứ đã trở nên ngày càng ít hơn, và những người tin vào thuyết tiến hóa đã trở nên ngày càng đông đảo hơn. Ngày càng có nhiều người xem những bản ghi chép về công tác của Đức Chúa Trời và những lời của Ngài trong thời đại Cựu Ước như thần thoại và truyền thuyết. Trong lòng họ, mọi người trở nên thờ ơ với sự tôn nghiêm và vĩ đại của Đức Chúa Trời, thờ ơ với tín điều rằng Đức Chúa Trời tồn tại và nắm quyền tể trị vạn vật. Sự tồn vong của nhân loại cùng vận mệnh của các quốc gia và các dân tộc không còn quan trọng đối với họ nữa, và con người sống trong một thế giới trống rỗng chỉ quan tâm đến ăn, uống và theo đuổi khoái lạc. … Rất ít người chủ động tìm cho ra nơi Đức Chúa Trời làm công tác của Ngài ngày nay, hay tìm kiếm cách Ngài tể trị và sắp đặt đích đến của con người. Và theo cách này, con người không biết rằng nền văn minh của nhân loại trở nên ngày càng ít có khả năng đi theo những ước muốn của con người, và thậm chí có nhiều người còn cảm thấy rằng, sống trong một thế giới như vậy, họ ít hạnh phúc hơn những người đã qua đời. Ngay cả người dân của các quốc gia từng rất văn minh cũng bộc lộ những bất bình như vậy. Vì nếu không có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, cho dù những nhà cầm quyền và những nhà xã hội học có vắt óc ra sao để bảo tồn nền văn minh nhân loại, thì cũng chẳng ích gì. Không ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong lòng con người, vì không ai có thể là sự sống của con người, và không có lý thuyết xã hội nào có thể giải phóng con người khỏi sự trống rỗng mà họ phải chịu đựng. Khoa học, kiến thức, tự do, dân chủ, giải trí, thoải mái: những điều này chỉ mang lại cho con người một sự an ủi nhất thời. Ngay cả khi có những điều này, con người chắc chắn vẫn phạm tội và than vãn về những bất công của xã hội. Những điều này không thể ngăn cản sự thèm muốn và khao khát khám phá của con người. … Con người, suy cho cùng, chỉ là con người, địa vị và sự sống của Đức Chúa Trời không ai có thể thay thế được. Nhân loại không chỉ đòi hỏi một xã hội công bằng, trong đó mọi người đều được no đủ, bình đẳng và tự do; điều nhân loại cần là sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và sự cung cấp sự sống cho họ của Ngài. Chỉ khi con người nhận được sự cung cấp sự sống của Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của Ngài thì những nhu cầu, khao khát khám phá, và sự trống rỗng tâm linh của con người mới được giải quyết. Nếu người dân của một quốc gia hay một dân tộc không thể nhận được sự cứu rỗi và chăm sóc của Đức Chúa Trời, thì một quốc gia hoặc dân tộc như vậy sẽ bước trên con đường suy tàn, về phía sự tối tăm, và sẽ bị Đức Chúa Trời hủy diệt” (Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Lời Đức Chúa Trời quá đúng đắn và đã thực sự tỏ lộ sự thật của vấn đề. Tri thức thực sự được tạo ra như thế nào? Rõ ràng là nó đến từ những danh nhân, vĩ nhân, những đối tượng được ca tụng trong suốt chiều dài lịch sử. Nho giáo, thuyết tiến hóa của Darwin, Tuyên ngôn Cộng sản của Marx và lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa duy vật và thuyết tiến hóa đều được sản sinh từ những suy nghĩ và lý thuyết mà những danh nhân này đã viết thành sách, là nền tảng cho khoa học và lý thuyết trong xã hội hiện đại của chúng ta. Tất cả các học thuyết và lý thuyết này đã được các giai cấp thống trị khuyến khích trong suốt các thời đại. Chúng đã được đưa vào sách giáo khoa và các lớp học, và trở thành châm ngôn cho nhân loại. Chúng đã giáo dục, làm mục ruỗng và mụ mị hết thế hệ này đến thế hệ khác, trở thành công cụ cho các giai cấp cầm quyền lừa gạt và làm bại hoại nhân loại. Toàn thể nhân loại đã ngày càng trở nên bại hoại dưới sự giáo dục cũng như ảnh hưởng của tri thức và khoa học, và vì thế xã hội đã trở nên đen tối, hỗn loạn hơn, đến mức cả Đức Chúa Trời và con người đều phẫn nộ. Hiện nay thiên tai ngày càng xảy ra thường xuyên hơn và tai họa không ngừng ập đến. Các cuộc chiến tranh lớn có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Con người đang sống trong sợ hãi, như thể họ đang đối mặt với ngày tận thế. Điều này thực sự khiến chúng ta phải thắc mắc liệu khoa học và tri thức có thực sự là lẽ thật hay không. Con người ngày càng theo đuổi và tiếp nhận chúng, nhưng họ không thể thoát khỏi tội lỗi hay tìm được hạnh phúc, thay vào đó lại ngày càng trở nên bại hoại và tà ác, chìm trong tội lỗi và đau khổ mà họ không thể thoát ra. Hãy cùng xem xét bản chất thật sự của các danh nhân và vĩ nhân được mọi người tôn thờ. Họ đều là những người theo chủ nghĩa vô thần và thuyết tiến hóa, phủ nhận và chối bỏ Đức Chúa Trời. Họ không tin rằng Đức Chúa Trời tồn tại, hay tin rằng Ngài cai trị vạn vật. Họ đặc biệt không chấp nhận những lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ. Trong tất cả các bài diễn văn của họ, không có lời nào vạch trần sự đen tối của xã hội; không có lời nào vạch trần bản chất và thực tế về sự bại hoại của con người do Sa-tan gây ra; không có lời nào vạch trần bản tính và thực chất tà ác của các giai cấp thống trị, hay làm chứng cho sự tồn tại và công tác của Đức Chúa Trời, hay làm chứng cho những việc làm và tình yêu thương của Đức Chúa Trời, hoặc phù hợp với lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời. Mọi lời nói của họ đều là những lời dị giáo và ngụy biện, chống đối Đức Chúa Trời. Nhìn chung, các bài diễn văn của họ toàn là để duy trì lợi ích của các giai cấp thống trị, để lừa gạt, làm bại hoại và gây hại cho nhân loại. Kết quả là họ đã dẫn loài người bước vào con đường đen tối, tà ác, và loài người đã trở thành cùng một hạng với Sa-tan, chống đối, phản bội Đức Chúa Trời. Trong giai cấp thống trị có những hạng người nào? Họ có đức hạnh và khôn ngoan không? Không hề. Đến nay chưa có một ai mà vừa khôn ngoan vừa có đức hạnh cả. Cái gọi là khôn ngoan và đức hạnh của họ đã lộ rõ thực chất của nó, và tất cả những tội ác họ phạm phải đằng sau đã được đưa ra ánh sáng. Đó là bằng chứng cho thấy trong suốt chiều dài lịch sử khi con người bị Sa-tan làm bại hoại, không có kẻ cai trị nào có tài hay có đức cả, và tất cả những người cầm quyền đều là hiện thân của Sa-tan và ác quỷ. Ý tưởng và lý thuyết nào của họ đã làm nhân loại bại hoại trầm trọng nhất? Chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa duy vật, thuyết tiến hóa và chủ nghĩa cộng sản. Họ đã truyền bá vô số dị giáo và ngụy biện, bao gồm: “Hoàn toàn không có Đức Chúa Trời”, “Chẳng hề có Đấng Cứu Rỗi”, “Vận mệnh trong tay ta”, và “Kiến thức có thể thay đổi vận mệnh”. Những điều này ăn sâu vào lòng mọi người từ khi họ còn nhỏ và lớn dần lên trong họ. Hậu quả là gì? Con người bắt đầu phủ nhận Đức Chúa Trời và mọi thứ đến từ Ngài, kể cả việc Ngài đã tạo dựng trời, đất, muôn vật, và rằng Ngài cai trị muôn vật. Con người được Đức Chúa Trời tạo dựng, nhưng họ phủ nhận sự thật này, và họ bóp méo sự thật, nói rằng nhân loại đã tiến hóa từ loài vượn, như thể con người đồng hạng với động vật vậy. Những lý thuyết thuộc về kiến thức ngụy biện, vô lý này chiếm lấy tâm trí con người, chiếm đóng trong lòng họ và trở thành một phần bản tính của họ, vì vậy tất cả bọn họ đều phủ nhận Đức Chúa Trời, xa cách Ngài và càng lúc càng khó tiếp nhận lẽ thật. Họ cũng thường trở nên kiêu ngạo, xấu xa và bại hoại hơn. Họ đánh mất mọi lương tâm và lý trí, hoàn toàn mất đi nhân tính và kết quả là vô phương cứu rỗi. Đây là cách mà loài người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại đến mức trở thành ác quỷ. Đây là kết quả tồi tệ của những người theo đuổi tri thức và sử dụng tri thức đó để thay đổi vận mệnh của họ. Sự thật chỉ ra rằng khoa học và tri thức không phải là lẽ thật và không thể trở thành cuộc sống của chúng ta, mà chúng trái ngược với lẽ thật và không phù hợp với lẽ thật. Tất cả những gì chúng có thể làm là làm bại hoại, tổn thương và hủy hoại nhân loại.
Vậy tại sao lại nói những thứ này không phải là lẽ thật? Vì tri thức không đến từ Đức Chúa Trời, mà nó đến từ sự bại hoại mà Sa-tan gây ra cho con người. Nó đến từ những danh nhân, vĩ nhân mà nhân loại bại hoại tôn thờ. Vì vậy chúng ta có thể nói một cách chắc chắn rằng tri thức không phải là lẽ thật. Thứ nhất, tri thức không thể giúp con người biết được thực chất bại hoại của họ hay giúp họ tự biết mình. Thứ hai, tri thức không thể làm tinh sạch các tâm tính bại hoại của con người, mà chỉ khiến con người ngày càng kiêu ngạo. Thứ ba, tri thức không thể cứu rỗi nhân loại khỏi tội lỗi và làm tinh sạch họ. Thứ tư, tri thức không thể giúp con người học được lẽ thật, biết về Đức Chúa Trời và vâng phục Ngài. Thứ năm, tri thức không thể giúp con người có được hạnh phúc thực sự hay mang sự sáng đến cho họ, và đặc biệt là không thể cho họ một đích đến tốt đẹp. Và như vậy, tri thức không phải là lẽ thật, và nó không thể cứu nhân loại khỏi tội lỗi hay các thế lực của Sa-tan. Vì thế chúng ta có thể tin chắc rằng tri thức không thể thay đổi số phận của một người. Chỉ có những gì đến từ Đức Chúa Trời mới là lẽ thật; chỉ có lời Ngài mới là lẽ thật. Chỉ có lẽ thật mới có thể là sự sống của con người và có thể làm tinh sạch sự bại hoại của họ, giúp họ thoát khỏi tội lỗi và trở nên thánh khiết. Chỉ có lẽ thật mới cho phép con người phục hồi lương tâm, lý trí, và sống trọn hình tượng con người thực sự. Chỉ có lẽ thật mới có thể cho con người phương hướng và mục tiêu đích thực trong cuộc sống, và chỉ có lẽ thật mới có thể giúp con người biết Đức Chúa Trời, đạt được phước lành của Ngài và có được một đích đến tốt đẹp. Đó là vì sao chỉ có lẽ thật được bày tỏ bởi Đức Chúa Trời trong xác thịt mới có thể cứu rỗi nhân loại khỏi các thế lực của Sa-tan, cho phép họ hoàn toàn hướng về Đức Chúa Trời. Chỉ có Đấng Cứu Thế mới có thể cứu rỗi nhân loại và cách mạng hóa vận mệnh của nhân loại, cho chúng ta một đích đến tốt đẹp. Vậy tại sao tri thức lại không thể cứu rỗi nhân loại? Đó là vì con người bị Sa-tan làm cho bại hoại quá trầm trọng, có bản tính Sa-tan và sống bằng những tâm tính Sa-tan, thường xuyên phạm tội và làm ác. Trong hoàn cảnh thích hợp, họ có thể làm bất cứ việc ác nào, và khi nắm quyền lực trong tay, họ sẽ lộ rõ bản chất và hành động phóng túng. Và tri thức đến từ nhân loại bại hoại, từ Sa-tan, nên tri thức không phải là lẽ thật. Dù nhân loại bại hoại có học được bao nhiêu đi nữa, họ cũng không thể biết được thực chất và sự thật về sự bại hoại của bản thân, thực sự không thể thật lòng ăn năn và hướng về Đức Chúa Trời. Không lượng tri thức nào có thể giải quyết bản tính tội lỗi của một người, huống hồ là thay đổi tâm tính bại hoại của họ. Bất kể nhân loại bại hoại có được bao nhiêu tri thức, họ cũng không thể thoát khỏi tội lỗi hay các thế lực của Sa-tan, và đạt được sự thánh khiết. Nếu không tiếp nhận lẽ thật, họ không thể đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời, và không thể giải quyết vấn đề về bản tính tội lỗi của mình. Tri thức của nhân loại bại hoại càng cao, thì họ càng khó chấp nhận lẽ thật và họ càng có khả năng phủ nhận, chống đối Đức Chúa Trời. Khi con người theo đuổi nhiều tri thức hơn, họ trở nên ngạo mạn và tự nên công chính hơn, cũng như tham vọng hơn. Họ không khỏi bước vào con đường tội lỗi. Đó là lý do tri thức chỉ có thể làm bại hoại, gây hại và hủy hoại con người. Nhiều người không thể nhận ra thực chất của tri thức hay thấy được tri thức thực sự có ích gì. Họ không thấy được xuất xứ, nguồn gốc của tri thức, mà chỉ mù quáng tôn thờ và theo đuổi nó thay vì theo đuổi lẽ thật. Tại sao tất cả những danh nhân đó lại làm quá nhiều việc ác, mang đến khổ đau cho mọi người và gây hại cho đất nước sau khi lên cầm quyền, gây ra đủ loại tai họa, phạm những điều sai quấy khủng khiếp vô phương cứu chuộc như thế? Đó là những hậu quả của việc tôn thờ và theo đuổi tri thức. Điều này cho chúng ta thấy rằng tri thức không thể thay đổi số phận con người, và dù tri thức của một người có cao thâm thế nào đi nữa, họ cũng không thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi nếu không có đức tin và tiếp nhận lẽ thật. Họ sẽ không được Ngài ban phước hay có một vận mệnh tốt đẹp dù kiến thức của họ có cao thâm như thế nào, mà họ sẽ xuống địa ngục khi chết. Đức Chúa Trời là công chính và Ngài tể trị số phận nhân loại, nên bất cứ ai không đạt được sự chấp thuận hay phước lành của Ngài đều không thể có vận mệnh tốt, mà phải chịu sự hủy diệt, diệt vong và xuống địa ngục.
Giờ đây, những người khôn ngoan không tôn thờ tri thức nữa mà họ đang khao khát một Đấng Thánh khiết đến, Đấng Cứu Thế xuống trần để cứu rỗi nhân loại. Không ai hy vọng sẽ có danh nhân vĩ đại nào cứu rỗi nhân loại cả. Họ thậm chí không thể cứu lấy bản thân, thì làm sao có thể cứu toàn nhân loại được? Sự thật cho chúng ta thấy rằng tri thức không thể đảm bảo một vận mệnh tốt, và ý tưởng phát triển thông qua khoa học, giáo dục chỉ là vớ vẩn. Chỉ có Đấng Cứu Thế mới có thể cứu rỗi nhân loại khỏi tội lỗi và các thế lực của Sa-tan; chỉ có Đấng Cứu Thế bày tỏ lẽ thật mới có thể dẫn chúng ta vào con đường ánh sáng; chỉ có tiếp nhận mọi lẽ thật được Đấng Cứu Thế bày tỏ mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự bại hoại của Sa-tan, để chúng ta có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi triệt để và đạt được sự chấp thuận, phước lành của Ngài. Đây là cách duy nhất để thay đổi hoàn toàn vận mệnh của chúng ta. Rõ ràng con người có thể thay đổi số phận bằng cách tiếp nhận sự xuất hiện và công tác của Đấng Cứu Thế, tiếp nhận mọi lẽ thật được Đấng Cứu Thế bày tỏ trong thời kỳ sau rốt, và bằng cách được làm tinh sạch thông qua việc tiếp nhận sự phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Nói một cách đơn giản, cách duy nhất để thực sự cách mạng hóa vận mệnh của một người là tiếp nhận lẽ thật. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên thế giới này, Ngài đã tạo dựng nên nhân loại này, và hơn thế nữa, Ngài là kiến trúc sư của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại và nền văn minh nhân loại. Chỉ có Đức Chúa Trời an ủi nhân loại này, và chỉ có Đức Chúa Trời ngày đêm chăm sóc cho nhân loại này. Sự phát triển và tiến bộ của con người không thể tách rời quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, lịch sử và tương lai của nhân loại không thể thoát khỏi những sắp đặt của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi là một Cơ Đốc nhân chân chính, thì ngươi chắc chắn sẽ tin rằng sự thăng trầm của bất kỳ quốc gia hay dân tộc nào cũng đều xảy ra theo những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Chỉ mình Đức Chúa Trời biết vận mệnh của một quốc gia hoặc một dân tộc, và chỉ mình Đức Chúa Trời điều khiển tiến trình của nhân loại này. Nếu nhân loại muốn có một số phận tốt đẹp, nếu một đất nước muốn có một vận mệnh tốt đẹp, thì con người phải khấu đầu thờ phượng Đức Chúa Trời, ăn năn và xưng tội trước Đức Chúa Trời, nếu không thì số phận và đích đến của con người sẽ là một thảm họa không thể tránh khỏi” (Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Giờ thì rõ ràng chúng ta có thể thấy các trí thức thậm chí không thể tự cứu mình, thì làm sao họ có thể cứu nhân loại được? Chỉ có Đấng Cứu Thế mới có thể cứu rỗi nhân loại khỏi tội lỗi, và mang lại ánh sáng, hạnh phúc và đích đến tốt đẹp cho nhân loại. Vậy thì ai là Đấng Cứu Thế? Chắc chắn rằng Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể trong hình hài con người, đến giữa nhân loại để thực hiện công tác cứu rỗi. Ngài là Đấng Cứu Thế của chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng Đấng Cứu Thế là hiện thân của Đức Chúa Trời, rằng Ngài là Đức Chúa Trời mặc lấy xác thịt con người. Đó là ý nghĩa của sự nhập thể. Vì thế, Đức Chúa Trời nhập thể là Đấng Cứu Thế giáng thế giữa chúng ta. Đức Chúa Trời đã nhập thể hai lần để cứu rỗi nhân loại kể từ khi Ngài tạo dựng loài người. 2.000 năm trước, Ngài đã trở nên xác thịt thành Đức Chúa Jêsus và giảng rằng: “Hãy ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 4:17). Ngài đã bày tỏ nhiều lẽ thật và cuối cùng đã bị đóng đinh để cứu chuộc nhân loại, đóng vai trò như của lễ chuộc tội cho nhân loại. Đây là minh chứng rõ ràng về tình yêu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Mọi người trên khắp thế giới đã tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Thế của họ, xưng tội và ăn năn với Đức Chúa Trời, và tội lỗi của họ đã được tha thứ. Họ đã hưởng sự bình yên và niềm vui mà Đức Chúa Trời ban cùng với rất nhiều ân điển của Ngài. Khi Đức Chúa Jêsus hoàn thành công tác cứu chuộc của Ngài, Ngài đã tiên tri nhiều lần: “Ta đến mau chóng” và “sự Con người đến”. “Vì Con người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ” (Ma-thi-ơ 24:44). Vì thế, những người đã tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Thế của họ đang chờ Ngài đến trong thời kỳ sau rốt, chờ Đấng Cứu Thế xuống để cứu rỗi họ và đưa họ vào vương quốc thiên đàng. Đức Chúa Jêsus đã tiên tri: “Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” (Giăng 16:12-13). “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật” (Giăng 17:17). Dựa trên lời tiên tri của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ trở nên xác thịt thành Con người vào thời kỳ sau rốt, bày tỏ nhiều lẽ thật để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại triệt để, hòng đưa nhân loại vào một đích đến tốt đẹp. Vì thế, Đức Chúa Trời nhập thể trong thời kỳ sau rốt là Đấng Cứu Thế xuất hiện trước con người. Vậy chúng ta nên nghênh tiếp Đấng Cứu Thế như thế nào? Đức Chúa Jêsus phán: “Chiên ta nghe tiếng ta” (Giăng 10:27). “Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh” (Khải Huyền 2:7). Đức Chúa Jêsus đã liên tục nhắc nhở chúng ta rằng mấu chốt của việc nghênh tiếp Chúa là lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời, và tiếp nhận lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ khi Ngài tái lâm vào thời kỳ sau rốt. Các thảm họa hiện đang ở ngay trước mắt chúng ta. Chúng ta có thể thấy rằng trên khắp thế giới, chỉ có Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ mọi lẽ thật cứu rỗi nhân loại, và ngoài Đức Chúa Trời Toàn Năng, không ai có thể phát biểu lẽ thật. Điều này chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Jêsus tái lâm, rằng Ngài là Đấng Cứu Thế đến để cứu rỗi nhân loại trong thời kỳ sau rốt. Đây là một tin tức cực kỳ tốt lành. Cách duy nhất để chúng ta có thể thay đổi vận mệnh là tiếp nhận sự cứu rỗi của Đấng Cứu Thế, và tiếp nhận lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt dùng nhiều lẽ thật khác nhau để dạy dỗ con người, để phơi bày bản chất của con người, và để mổ xẻ những lời nói và hành động của con người. Những lời này bao gồm nhiều phương diện của lẽ thật, chẳng hạn như bổn phận của con người, con người nên vâng lời Đức Chúa Trời như thế nào, con người nên trung thành với Đức Chúa Trời ra sao, con người phải sống trọn nhân tính bình thường, cũng như sự khôn ngoan và tâm tính của Đức Chúa Trời như thế nào, v.v. Tất cả những lời này đều nhắm vào bản chất của con người và tâm tính bại hoại của họ. Cụ thể, những lời vạch trần cách con người hắt hủi Đức Chúa Trời, được phán ra liên quan đến việc con người là hiện thân của Sa-tan và là một thế lực thù địch chống lại Đức Chúa Trời như thế nào. Trong quá trình thực hiện công tác phán xét của mình, Đức Chúa Trời không chỉ đơn giản làm rõ bản tính của con người bằng một vài lời; Ngài phơi bày, xử lý và tỉa sửa qua thời gian dài. Tất cả những phương pháp phơi bày, xử lý và tỉa sửa khác nhau này không thể được thay thế bằng những lời thông thường, mà phải bằng lẽ thật con người tuyệt đối không bao giờ có. Chỉ có những phương pháp như thế này mới có thể được gọi là sự phán xét; chỉ thông qua kiểu phán xét này thì con người mới có thể bị khuất phục và hoàn toàn bị thuyết phục về Đức Chúa Trời, và hơn nữa mới có được kiến thức thực sự về Đức Chúa Trời. Điều mà công tác phán xét mang lại là sự hiểu biết của con người về diện mạo thật của Đức Chúa Trời và sự thật về sự phản nghịch của chính mình. Công tác phán xét cho phép con người đạt được nhiều hiểu biết về ý muốn của Đức Chúa Trời, về mục đích công tác của Đức Chúa Trời, và về những lẽ mầu nhiệm mà họ không thể hiểu được. Nó cũng cho phép con người nhận ra và biết được thực chất bại hoại và nguồn gốc sự bại hoại của mình, cũng như khám phá ra sự xấu xa của con người. Những tác dụng này đều do công tác phán xét mang lại, vì thực chất của công tác này thực ra là công tác mở ra lẽ thật, đường đi và sự sống của Đức Chúa Trời cho tất cả những ai có đức tin vào Ngài. Công tác này là công tác phán xét được thực hiện bởi Đức Chúa Trời” (Đấng Christ thực hiện công tác phán xét bằng lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ quá nhiều lẽ thật, được thu thập và viết lại thành các cuốn sách về lời Đức Chúa Trời, chẳng hạn như “Lời xuất hiện trong xác thịt”, tổng cộng có hàng triệu từ. Những lời này đều là lẽ thật được Đức Chúa Trời bày tỏ vì công tác phán xét của Ngài vào thời kỳ sau rốt, và lượng lời phán này lớn hơn nhiều so với lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ trong Thời đại Luật pháp và Thời đại Ân điển. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ mọi lẽ nhiệm mầu về kế hoạch quản lý để cứu rỗi nhân loại của Ngài, Ngài đã mặc khải mọi lẽ nhiệm mầu về Kinh Thánh mà con người chưa từng hiểu được, Ngài đã vạch trần lẽ thật về sự bại hoại của nhân loại do Sa-tan gây ra và bản tính Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời của chúng ta. Điều này giúp chúng ta nhận ra căn nguyên tội lỗi và lẽ thật về sự bại hoại của mình. Mọi người đã hoàn toàn bị thuyết phục khi đối mặt với các sự thật và bắt đầu căm ghét bản thân, cảm thấy hối hận và thực sự ăn năn. Đức Chúa Trời cũng bày tỏ mọi lẽ thật mà con người cần thực hành và bước vào, để chúng ta có thể sống theo lời Ngài, sống trọn hình tượng con người thực sự và sống trọn hình tượng lẽ thật. Đó là cách duy nhất để đạt được lời hứa và phước lành của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ quá nhiều lẽ thật, đều là để làm tinh sạch sự bại hoại của nhân loại và cứu rỗi chúng ta khỏi các thế lực của Sa-tan, để chúng ta có thể hướng về phía Đức Chúa Trời và biết Ngài. Những lẽ thật này là châm ngôn chân chính duy nhất cho cuộc sống và là những lời dạy để đạt được sự cứu rỗi, và đủ để thay đổi hoàn toàn vận mệnh của một người, cho phép họ tiếp cận đích đến tốt đẹp – Vương quốc của Đức Chúa Trời. Các thảm họa lớn đã bắt đầu xảy ra. Cách duy nhất để biến hy vọng tốt đẹp của họ thành hiện thực là tiếp nhận sự xuất hiện và công tác của Đấng Cứu Thế. Tiếp nhận mọi lẽ thật được Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ là cách duy nhất để đạt được sự chấp thuận của Đức Chúa Trời, có được sự bảo vệ và phước lành của Ngài trước các thảm họa lớn để mà sống sót và được Ngài đưa vào vương quốc của Ngài. Nếu mọi người không tiếp nhận mọi lẽ thật được Đấng Cứu Thế bày tỏ, mà chỉ chờ đợi một vị thần giả trong tưởng tượng của họ, hay một tà linh đến cứu họ khỏi thảm họa, thì đó chỉ là ảo tưởng. Cuối cùng họ sẽ trắng tay, nỗ lực bao nhiêu cũng chẳng được gì. Các vị thần giả và các tà linh không thể cứu con người. Chỉ có Đức Chúa Trời trong xác thịt, Đấng Cứu Thế mới có thể cứu rỗi nhân loại, đó là cách duy nhất để con người có được vận mệnh và đích đến tốt đẹp. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mang đến sự sống, và mang đến con đường lẽ thật bền vững và vĩnh cửu. Lẽ thật này là con đường mà thông qua đó con người đạt được sự sống, và đây là con đường duy nhất mà qua đó con người mới biết đến Đức Chúa Trời và được Đức Chúa Trời chấp thuận. Nếu ngươi không kiếm tìm con đường sự sống được Đấng Christ của thời kỳ sau rốt cung cấp, thì ngươi sẽ không bao giờ có được sự chấp thuận của Jêsus, và sẽ không bao giờ đủ tư cách để bước vào cánh cổng của vương quốc thiên đàng” (Chỉ Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mới có thể ban cho con người con đường sự sống vĩnh cửu, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Những ai mong muốn có được sự sống mà không dựa vào lẽ thật do Đấng Christ phán dạy là những kẻ nực cười nhất thế gian, và những ai không chấp nhận con đường sự sống do Đấng Christ mang lại đều bị lạc trong mộng tưởng. Và vì vậy, Ta nói rằng những kẻ không chấp nhận Đấng Christ của thời kỳ sau rốt sẽ mãi bị Đức Chúa Trời ghê tởm. Đấng Christ là cổng vào vương quốc của con người trong thời kỳ sau rốt, và không có ai có thể đi vòng sau Ngài. Không ai có thể được Đức Chúa Trời hoàn thiện mà không thông qua Đấng Christ. Ngươi tin vào Đức Chúa Trời, vậy thì ngươi phải chấp nhận những lời của Ngài và vâng phục con đường của Ngài. Ngươi không thể chỉ nghĩ tới việc nhận lãnh ân phước trong khi không có khả năng nhận lãnh lẽ thật, và không có khả năng chấp nhận sự cung cấp sự sống. Đấng Christ đến trong thời kỳ sau rốt để cho tất cả những ai thực sự tin ở Ngài có thể được cung cấp sự sống. Công tác của Ngài là để khép lại thời đại cũ và bước vào thời đại mới, và công tác của Ngài là con đường mà tất cả những ai sẽ bước vào thời đại mới phải đi qua. Nếu ngươi không thể thừa nhận Ngài, mà thay vào đó chỉ trích, báng bổ, hay thậm chí hành hạ Ngài, thì ngươi chắc chắn sẽ bị thiêu đốt đời đời, và sẽ không bao giờ bước vào được vương quốc của Đức Chúa Trời. Bởi Đấng Christ này, chính Ngài là sự tỏ hiện của Đức Thánh Linh, sự tỏ hiện của Đức Chúa Trời, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã giao phó để làm công tác của Ngài trên trần thế. Và vì vậy, Ta nói rằng nếu ngươi không chấp nhận tất cả những gì được thực hiện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt, thì ngươi đang báng bổ Đức Thánh Linh. Quả báo mà những kẻ báng bổ Đức Thánh Linh phải chịu là điều hiển nhiên với tất cả mọi người” (Chỉ Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mới có thể ban cho con người con đường sự sống vĩnh cửu, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?