Cái gọi là “biết mình”

14/01/2025

Bởi Joseph, Hàn Quốc

Sau khi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, tôi luôn nhóm họp với các anh chị em đã tin Đức Chúa Trời từ lâu. Khi thấy mọi người có thể nói về sự bại hoại mà họ tỏ lộ khi thông công lời của Đức Chúa Trời, đồng thời đối chiếu, phản tỉnh bản thân và mổ xẻ sự bại hoại của mình theo lời của Đức Chúa Trời, tôi rất ngưỡng mộ và bắt đầu bắt chước họ. Dần dần, trong các buổi nhóm họp, tôi cũng đã có thể đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, thừa nhận sự bại hoại của mình. Tôi nghĩ đây chính là biết mình. Một số anh chị em thấy tôi mới tin Đức Chúa Trời được hai, ba năm, nhưng khi nói về chuyện biết mình thì lại rất rõ ràng, có chiều sâu, nên họ dành cho tôi những ánh nhìn ngưỡng mộ. Tôi cảm thấy rất tự hào, cho rằng mình có tố chất tốt, biết cách biết mình, và nếu tiếp tục mưu cầu như thế này, sự thay đổi tâm tính và sự cứu rỗi sẽ không còn xa. Sau đó, tôi chú trọng dốc công sức vào việc thông công biết mình, thường xuyên trích dẫn những lời nghiêm khắc vạch trần con người của Đức Chúa Trời để đối chiếu chính mình, để người khác thấy rằng nhận thức của tôi sâu sắc và thấu đáo, thấy lối vào sự sống của tôi tốt hơn người khác. Tôi chưa bao giờ phản tỉnh về việc liệu cách nhận thức như vậy có đúng không, cho đến khi tôi trải qua vài lần bị tỉa sửa, tôi mới nhận ra sự biết mình của tôi chỉ là giả tạo.

Tháng 11 năm 2020, tôi cùng hai chị em khác kiểm tra video mà các anh chị em thực hiện. Thời điểm đó, có rất nhiều video được gửi đến, và nhiều vấn đề được các anh chị em nêu ra, một số vấn đề tôi không biết giải quyết thế nào. Lúc đó, tôi bắt đầu có thái độ qua loa chiếu lệ, nghĩ rằng: “Mình phụ trách nhiều nhóm, công việc rất bận rộn, nhiều video còn đang xếp chồng, cần kiểm tra. Nếu xem xét kỹ lưỡng, đánh giá từng video dựa trên các nguyên tắc, cũng như cố giải quyết nghiêm chỉnh từng vấn đề mà anh chị em nêu ra, thì sẽ mất nhiều sức lực. Còn đâu thời gian rảnh cho mình nữa? Cứ để một số vấn đề mà mình chưa thể xem xét sang một bên đã. Hơn nữa, hai chị em làm cùng cũng kiểm tra video chậm hơn, nếu mình kiểm tra nhanh hơn chẳng phải mình tự báo hại mình sao? Mình chỉ cần có tiến độ tương đương với mọi người là được. Với cả, không ai có thể thực hiện bổn phận hoàn hảo cả, mình lại còn có nhiều lẽ thật chưa hiểu thấu. Đâu thể nào giải quyết triệt đệ hết thảy mọi vấn đề, làm thế là được rồi”. Nghĩ như vậy, tôi đã không bỏ nhiều sức lực vào việc giải quyết một số vấn đề trong video, cũng như các thắc mắc của anh chị em. Khi kiểm tra xong các video, vì tôi kiểm tra nhiều video hơn các chị em làm cùng khác, tôi bắt đầu tự mãn, nghĩ rằng mình khá siêng năng, có trách nhiệm trong bổn phận. Tuy nhiên, không lâu sau, người phụ trách kiểm tra các video chúng tôi gửi lên, và phát hiện nhiều vấn đề nguyên tắc, liền viết thư tỉa sửa chúng tôi nghiêm khắc: “Các anh chị đã thực hiện bổn phận này lâu rồi, mà những vấn đề nguyên tắc cơ bản vẫn còn xảy ra, thật không thể chấp nhận được! Đây không phải là vì các anh chị không nắm bắt các nguyên tắc, mà là làm việc qua loa chiếu lệ một cách nghiêm trọng. Các anh chị phải nghiêm túc phản tỉnh thái độ đối với bổn phận của mình!”. Khi nghe những lời tỉa sửa nghiêm khắc, tôi cảm thấy ấm ức và phản kháng, nghĩ rằng: “Dạo gần đây, mình đã dồn rất nhiều công sức vào bổn phận, sao anh chị không hề nhắc đến mặt tốt của chúng tôi, mà chỉ chăm chăm vạch trần vấn đề của chúng tôi? Hơn nữa, không ai có thể thực hiện bổn phận hoàn hảo, luôn có thiếu sót. Chúng tôi hiểu lẽ thật nông cạn, không thấy rõ một vài vấn đề, việc một số video chúng tôi gửi lên có vấn đề là điều bình thường. Sao anh chị không hiểu?”. Tôi tiếp tục cãi lý trong lòng. Khi trò chuyện với các chị em làm cùng, tôi đều kết thúc bằng việc bày tỏ quan điểm của mình, dù cố ý hay không: “Người phụ trách quá là đòi hỏi, không có gì là hoàn hảo cả. Dù video có được kiểm tra bao nhiêu lần thì vẫn có lỗi thôi…”. Sau đó, khi thấy hai chị em đều viết bài phản tỉnh và nhận thức, tôi mới nhận ra mình chỉ toàn phản kháng và muốn cãi lý khi bị tỉa sửa, và đó không phải là biết mình! Việc tỉa sửa này đến từ Đức Chúa Trời, và mình cần tiếp nhận, phản tỉnh, và biết mình. Do đó, tôi tìm lời Đức Chúa Trời để giải quyết tình trạng qua loa chiếu lệ trong bổn phận của mình, và bắt đầu suy nghĩ làm thế nào để viết bài phản tỉnh bản thân sao cho sâu sắc. Tôi đã trích dẫn nhiều lời nghiêm khắc hơn của Đức Chúa Trời vạch trần sự qua loa chiếu lệ của con người, nói những lời rằng mình lơ là bổn phận là phản bội nghiêm trọng Đức Chúa Trời, và thực hiện bổn phận qua loa chiếu lệ cho thấy nhân tính kém, lan truyền những luận điệu sai lầm để mê hoặc mọi người khiến tôi như con sâu làm rầu nồi canh. Sau khi viết xong, tôi so sánh những lời phản tỉnh của mình với hai chị em, và cảm thấy những lời của mình sâu sắc hơn. Tôi cảm thấy vui mừng với bản thân, nghĩ rằng mình có thể phản tỉnh và biết mình khi bị tỉa sửa, cũng như có thể mổ xẻ bản thân sâu sắc qua lời của Đức Chúa Trời. Tôi tin mình đã học được bài học. Tôi cũng cảm thấy tự hào đôi chút, nghĩ rằng người phụ trách sau khi đọc những lời phản tỉnh của tôi, chắc chắn sẽ thấy rằng một trưởng nhóm như tôi có hiểu biết sâu hơn các chị em làm cùng, và có lối vào sự sống tốt hơn. Thêm nữa, tôi đã viết về bản thân thật tiêu cực, vì vậy lần này người phụ trách sẽ không còn gì để nói. Nhưng không ngờ vài ngày sau, tôi nhận được thư khác từ người phụ trách, lá thư này thậm chí còn nghiêm khắc hơn trước đó, chỉ thẳng ra rằng sự phản tỉnh và nhận thức của tôi hời hợt, tôi không thực sự biết mình, rằng những quan điểm sai lầm của tôi mê hoặc các chị em, khiến họ phớt lờ việc biết mình, và hậu quả rất nghiêm trọng, yêu cầu tôi tiếp tục phản tỉnh. Tôi thấy những lời vạch trần nghiêm khắc đó thật khó để chấp nhận, nghĩ rằng: “Sao lại nói mình không thực sự biết mình? Mình đã dựa vào lời Đức Chúa Trời để phản tỉnh và mổ xẻ sự bại hoại của mình, nhận thức của mình sâu sắc hơn cả hai chị em kia mà. Đây không phải là thực sự biết mình sao? Nếu các chị em không biết về bản thân, sao có thể bị mình mê hoặc được? Mình chỉ buột miệng nói vài câu, sao có thể là mê hoặc họ được?”. Vài ngày sau đó, tôi cảm thấy chống đối, trong lòng ấm ức vô cùng, nghĩ rằng người phụ trách đang nhắm đến mình và cố làm khó mình. Tôi chỉ tập trung vào người đó mà không hề phản tỉnh hay biết mình. Lòng tôi ngày càng tăm tối và chán nản, không thể bình tâm khi thực hiện bổn phận, và lời cầu nguyện của tôi không thể tìm đến Đức Chúa Trời. Tôi nhận thấy tình trạng của mình không ổn chút nào. Lúc đó, tôi nhớ lại lá thư mà tôi đã viết cho người phụ trách. Tôi đã viết rất hay, thừa nhận rằng mình đã lan truyền sự tiêu cực và khiến chị em làm cùng đứng về phía mình, trở nên bất mãn với người phụ trách. Tôi cũng thừa nhận việc tôi lan truyền luận điệu sai lầm, mê hoặc người khác, khiến tôi thành con sâu làm rầu nồi canh, nhưng tại sao khi người phụ trách vạch trần và tỉa sửa như vậy, tôi lại không thể chấp nhận mà còn chống đối? Có phải nhận thức trước đó của tôi chỉ là giả tạo không? Đây không phải là sự biết mình chân thật. Tôi cũng nhận ra rằng tôi đã ép bản thân viết một vài lời để đối chiếu và biết mình hòng tạo ấn tượng tốt với người phụ trách. Kiểu biết mình này là sai lầm và lừa dối? Lúc này đây, tôi mới dần nhận ra mình chưa thực sự tiếp nhận tỉa sửa, và cũng không có sự biết mình chân thật. Tâm hồn tôi chìm trong bóng tối và nặng nề chính là do Đức Chúa Trời ghê tởm những việc làm của tôi và giấu mặt với tôi. Tôi đến trước Đức Chúa Trời cầu nguyện, xin Ngài khai sáng cho tôi thấy rõ những vấn đề thực sự trong bản thân mình.

Sau đó, tôi đọc được những lời của Đức Chúa Trời: “Có người khi thông công về chuyện biết mình thì chỉ cần mở miệng là nói những lời như: ‘Tôi là ma quỷ, tôi là Sa-tan sống, kẻ chống đối Đức Chúa Trời. Tôi phản nghịch với Ngài và phản bội Ngài. Tôi là một con rắn độc, một kẻ ác, một kẻ đáng bị rủa sả!’. Đây có phải là sự biết mình thật sự không? Họ chỉ nói những lời chung chung, tại sao lại không lấy ví dụ để nói rõ hơn? Tại sao họ không mổ xẻ và bộc lộ những chuyện xấu xa mình đã làm? Có một số người không biết phân định, khi nghe xong còn cảm thấy rằng: ‘Đây mới là thực sự biết mình! Biết cả việc mình là ma quỷ, là Sa-tan, còn có thể rủa sả chính mình. Cảnh giới này cao biết chừng nào!’. Có nhiều người, đặc biệt là những người mới tin Đức Chúa Trời, sẽ dễ bị những lời này mê hoặc, cảm thấy người này vừa đơn thuần vừa có hiểu biết thuộc linh, là người yêu lẽ thật và có thể làm lãnh đạo. Kết quả sau khi tiếp xúc một thời gian thì họ phát hiện rằng chuyện không phải như vậy, so với tưởng tượng của họ thì cứ như là hai người. Họ thấy người này đặc biệt giả dối và quỷ quyệt, rất giỏi ngụy trang và giả mạo, điều này khiến họ vô cùng thất vọng. … Ví dụ, họ biết rằng mình giả dối, cũng biết rằng bên trong mình chứa đầy toan tính nhỏ nhen và những ý đồ xấu, khi người khác bộc lộ sự giả dối thì họ cũng có thể phân định được. Vậy thì ngươi phải xem sau khi họ thừa nhận mình giả dối thì có thể thật sự ăn năn hay không, có thể rũ bỏ sự giả dối hay không. Nếu họ lại bộc lộ sự giả dối, hãy xem trong thâm tâm họ có tự trách hay không, có cảm giác xấu hổ, có thật sự hối lỗi hay không. Nếu họ không có cảm giác xấu hổ, càng không có lòng ăn năn, vậy thì việc họ biết mình giả dối chính là qua loa và chỉ có hình thức, không phải nhận biết thực sự. Họ không cảm thấy giả dối là một điều tà ác đến mức nào, cũng không cảm thấy giả dối chính là bản tính ma quỷ, càng không cảm thấy giả dối là một hành vi vô sỉ và đê tiện thế nào. Họ cho rằng: ‘Con người ai cũng giả dối, chỉ có kẻ ngốc mới không như vậy. Có một chút giả dối thì cũng không phải là người xấu. Tôi không làm điều ác, tôi không phải là người giả dối nhất’. Một người như vậy có thể thực sự biết mình không? Chắc chắn là không thể. Bởi họ không nhận biết được tâm tính giả dối của mình, họ không ghê tởm sự giả dối, khi nói về sự biết mình thì cũng chỉ là ngụy trang và nói suông. Không nhận biết được tâm tính bại hoại của chính mình thì không phải là thực sự biết mình nữa. Người giả dối không thể thực sự biết mình chính là vì họ không dễ tiếp nhận lẽ thật. Vì vậy, cho dù người giả dối có nói được bao nhiêu câu chữ và đạo lý thì họ cũng sẽ không có được sự biến đổi thật sự(Chỉ sự tự biết mình mới có lợi cho việc mưu cầu lẽ thật, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Làm sao có thể phân định được liệu một người có yêu lẽ thật hay không? Một mặt, chúng ta phải xem liệu người này có thể biết mình dựa trên lời Đức Chúa Trời hay không, họ có thể phản tỉnh bản thân, có thực sự hối lỗi hay không. Mặt khác, chúng ta phải xem liệu họ có thể tiếp nhận và thực hành lẽ thật hay không. Nếu họ có thể tiếp nhận và thực hành lẽ thật thì họ là người yêu lẽ thật và có thể vâng phục công tác của Đức Chúa Trời. Nếu họ chỉ thừa nhận lẽ thật nhưng lại chưa bao giờ tiếp nhận và cũng không thực hành lẽ thật, cũng giống như có một số người nói: ‘Lẽ thật nào tôi cũng hiểu cả, chỉ là không thực hành được mà thôi’, điều này đủ để chứng tỏ họ không phải là người yêu lẽ thật. Có người thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và cũng thừa nhận rằng mình có tâm tính bại hoại. Họ cũng nói rằng mình sẵn lòng ăn năn, bằng lòng làm lại một con người mới, nhưng sau đó thì họ lại không có một chút biến đổi nào. Lời nói và hành động của họ vẫn như trước, họ nói về chuyện biết mình cũng giống như nói đùa hay hô khẩu hiệu. Căn bản là họ không phản tỉnh bản thân và biết mình từ tận đáy lòng mình. Quan trọng nhất là họ không có thái độ ăn năn, càng không cởi mở bộc lộ sự bại hoại của mình một cách đơn thuần để phản tỉnh bản thân một cách chân thực. Thay vào đó, họ giả vờ biết mình cho có lệ và cho có hình thức. Đây đích xác không phải là những người thật sự biết mình và tiếp nhận lẽ thật. Loại người này khi nói về sự biết mình thì đều chỉ là làm cho có hình thức, đều là ngụy trang, lừa gạt và đều là những kẻ giả thuộc linh. Một số người giả dối nhìn thấy người khác thông công về sự biết mình thì lòng họ liền nghĩ: ‘Mọi người đều đang mở lòng và mổ xẻ sự giả dối của bản thân. Nếu tôi không nói gì thì mọi người sẽ cho rằng tôi không biết mình. Vậy thì tôi cũng phải làm cho có hình thức!’. Sau đó, họ bèn nói về sự giả dối của mình một cách rất nghiêm trọng, thậm chí phê bình gay gắt, khiến cho người khác cảm thấy họ biết mình một cách đặc biệt sâu sắc. Mọi người nghe xong thì ai cũng tưởng rằng họ thật sự đã biết mình, đều nhìn họ với ánh mắt ghen tị. Trong lòng họ liền cảm thấy vô cùng vinh dự, như mặt được dát vàng. Sự biết mình cho có hình thức này cộng thêm khả năng ngụy trang và lừa gạt đã mê hoặc được con người(Chỉ sự tự biết mình mới có lợi cho việc mưu cầu lẽ thật, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Qua sự vạch trần trong lời Đức Chúa Trời và sự đối chiếu với bản thân, tôi nhận ra rằng sự biết mình của tôi chỉ là giả hình, lừa dối. Sự biết mình của tôi chỉ là để làm hài lòng người phụ trách. Khi người phụ trách chỉ ra vấn đề của chúng tôi, nói rằng chúng tôi thực hiện bổn phận không có trách nhiệm, qua loa, và khi các chị em làm cùng tôi đều phản tỉnh, mà tôi không biết mình thì sẽ bị coi là không tiếp nhận sự tỉa sửa. Thân là trưởng nhóm mà phản tỉnh nông cạn hơn người khác, chẳng phải nghĩa là lối vào sự sống của tôi yếu kém? Với ý như vậy, tôi miễn cưỡng viết một vài lời phản tỉnh và biết mình, nhưng đây không phải nhận thức thực sự từ đáy lòng, cũng không phải nhận thức thực sự khi tiếp nhận phán xét và hình phạt trong lời Đức Chúa Trời. Tôi không có cảm giác đau khổ hay mang nợ nào. Tôi chỉ đang làm cho người khác thấy, hô khẩu hiệu và khoa trương. Ngoài miệng, tôi thừa nhận thái độ qua loa chiếu lệ của mình, nhưng trong lòng tôi không thực sự tin như vậy. Tôi còn nghĩ: “Làm bổn phận có vấn đề hay sai sót thì chẳng sao cả. Ai có thể thực hiện bổn phận mà không có vấn đề? Người phụ trách chỉ túm lấy một vấn đề nhỏ trong bổn phận của mình để tỉa sửa và chỉ trích. Thật là quá khắt khe!”. Tôi thậm chí còn reo rắc sự bất mãn sau lưng người phụ trách. Như thế mà là thực sự biết mình sao? Tệ hơn nữa, mặc dù trong lòng tôi không tiếp nhận sự tỉa sửa của người phụ trách, tôi vẫn tỏ ra rằng mình đã tiếp nhận, lấy lời Đức Chúa Trời vạch trần sự qua loa chiếu lệ của con người mà áp lên mình. Tôi thấy trạng thái trong ngoài bất nhất, lừa dối mọi người, tạo ấn tượng giả cho họ. Tôi thực sự giả dối! Chỉ khi những sự thật này được tỏ lộ, tôi mới tâm phục khẩu phục. Mình không có nhận thức thực sự về bản thân. Sự biết mình của tôi đơn giản là những lời nói suông, sáo rỗng, chẳng có gì ngoài sự giả tạo, lừa dối. Dù phản tỉnh trông có vẻ sâu sắc, rõ ràng đến đâu thì tất cả cũng chỉ là giả dối, không thật lòng. Nhận ra điều này, tôi mới thực sự tỉnh ngộ. Trong suốt những năm tin Đức Chúa Trời, tôi luôn nói về sự biết mình và mổ xẻ bản thân trong các buổi nhóm họp, nhưng nhận thức nhiều đến vậy mà tôi chẳng thay đổi được bao nhiêu. Tôi biết mình chỉ để được người khác ngưỡng mộ, tán dương, để thể hiện cái gọi là lối vào sự sống tốt của mình, thậm chí khi nhóm họp còn thầm so sánh với các chị em về mối thông công và nhận thức, xem ai nhận thức sâu sắc, thấu đáo hơn. Sự biết mình của tôi chỉ nằm trên giấy, mặc dù tôi hô khẩu hiệu rất mạnh mẽ, và những lời phơi bày bản thân cũng rất gay gắt, thậm chí đôi khi tôi còn tự gọi mình là ma quỷ, Sa-tan, hay kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng đó không thực sự là tiếp nhận sự phán xét trong lời Đức Chúa Trời, không xuất phát từ đáy lòng, mà chỉ là nhặt lời của Đức Chúa Trời để nói những đạo lý có vẻ sâu sắc mà lại sáo rỗng, nhưng lại không thực sự nhận thức được tình trạng bại hoại của mình. Kiểu biết mình này đã đánh lừa người khác và bịt mắt chính tôi. Tôi luôn nghĩ rằng chỉ cần thừa nhận sự bại hoại của mình và đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời vạch trần thực chất bại hoại của con người, thì đó đã là thực sự biết mình. Tôi còn ngưỡng mộ mình về điều đó. Nhưng thực tế là tôi không thể tiếp nhận nổi một ý kiến đúng đắn, và khi bị tỉa sửa, tôi chỉ cãi lý và cố tìm cách bào chữa cho mình. Nếu tiếp tục như vậy, dù tôi có tin Đức Chúa Trời cả đời và luôn nói về sự biết mình hàng ngày, thì cũng không bao giờ có được sự hối cải hay thay đổi thực sự, và cuối cùng tâm tính Sa-tan trong tôi sẽ không bao giờ thay đổi, và tôi chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời từ bỏ và đào thải. Nhận ra điều này, tôi thấy mình thật ngu muội và đang ở trong tình trạng nguy hiểm.

Sau đó, tôi đọc được lời của Đức Chúa Trời: “Một số kẻ địch lại Đấng Christ đặc biệt giỏi giả vờ, lừa gạt mọi người và tạo hình tượng giả. Khi gặp người hiểu lẽ thật, họ bắt đầu nói về việc biết mình, cũng như nói rằng họ là ma quỷ, Sa-tan, nhân tính họ không tốt, và họ đáng bị rủa sả. Giả sử ngươi hỏi họ: ‘Anh nói rằng anh là ma quỷ, Sa-tan, vậy anh đã phạm phải những việc ác nào?’. Họ sẽ nói: ‘Tôi không làm gì cả, nhưng tôi là ma quỷ. Và không những là ma quỷ, tôi còn là Sa-tan nữa!’. Ngươi lại hỏi họ: ‘Anh nói rằng anh là ma quỷ, Sa-tan, vậy anh đã phạm phải những việc ác nào của ma quỷ, Sa-tan, và anh đã chống đối Đức Chúa Trời như thế nào? Anh có thể nói sự thật về những việc ác anh đã làm không?’. Họ sẽ nói: ‘Tôi không làm gì ác cả!’. Rồi ngươi ép thêm và hỏi: ‘Nếu anh không làm gì ác cả, vậy tại sao anh lại nói anh là ma quỷ, Sa-tan? Anh nói thế để cố đạt được điều gì?’. Khi ngươi nghiêm túc với họ như vậy, họ sẽ không có gì để nói. Thực ra họ đã làm nhiều việc xấu, nhưng họ sẽ tuyệt đối không nói sự thật với ngươi. Họ sẽ chỉ nói chút lời khoác lác, tuôn ra chút đạo lý để nói suông về việc biết mình. Khi nói đến việc cụ thể họ lôi kéo người, lừa gạt người, dùng người dựa trên tình cảm, không xem trọng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đi ngược lại sự sắp xếp công tác, lừa gạt Bề trên, giấu giếm các anh chị em như thế nào, và đã gây ra bao nhiêu thiệt hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì họ sẽ không nói một lời nào về những sự thật này. Đây có phải là thực sự biết mình không? (Thưa, không.) Khi họ nói rằng họ là ma quỷ, Sa-tan, chẳng phải họ đang giả vờ biết mình để đề cao và làm chứng cho bản thân sao? Đó chẳng phải là thủ đoạn họ sử dụng sao? (Thưa, phải.) Người bình thường không thể nhìn thấu thủ đoạn này. … Có lúc Sa-tan mê hoặc con người bằng cách đề cao và làm chứng cho bản thân, và có lúc nó có thể thừa nhận sai lầm một cách lòng vòng khi không còn lựa chọn nào khác, nhưng tất cả chỉ là bề ngoài, và mục đích của nó là để có được sự đồng tình và thông cảm của mọi người. Thậm chí nó còn nói: ‘Không ai hoàn hảo cả. Ai cũng có tâm tính bại hoại, và ai cũng có thể phạm sai lầm. Chỉ cần có thể sửa chữa sai lầm thì chính là người tốt’. Khi nghe thấy vậy, mọi người sẽ cảm thấy đúng, và tiếp tục tôn sùng cũng như đi theo Sa-tan. Thủ đoạn của Sa-tan là chủ động thừa nhận sai lầm của nó, và tán dương, nâng cao vị trí của nó trong lòng mọi người một cách trá hình để mọi người tiếp nhận mọi thứ về nó – thậm chí cả những sai lầm của nó – và sau đó tha thứ cho những lỗi lầm này, dần dần quên đi, và cuối cùng hoàn toàn tiếp nhận Sa-tan, trở nên trung thành với nó đến chết, không bao giờ rời bỏ hay từ bỏ nó, và đi theo nó đến cùng. Đây chẳng phải là thủ đoạn làm việc của Sa-tan sao? Đây chính là cách Sa-tan làm việc, và kẻ địch lại Đấng Christ cũng sử dụng dạng thủ đoạn này mà làm việc để thỏa mãn dã tâm và mục đích khiến mọi người tôn sùng và đi theo họ. So với hậu quả của việc Sa-tan mê hoặc và làm bại hoại con người, thì hậu quả mà việc này dẫn đến là cùng một loại, không khác gì cả(Mục 4. Họ đề cao và làm chứng cho bản thân, Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Phản tỉnh về bản thân, tôi chính là người mà Đức Chúa Trời đã vạch trần. Khi bị tỉa sửa, trong lòng tôi rõ ràng đang cãi lý và không thuận phục, nhưng để khiến người khác nghĩ rằng tôi có thể tiếp nhận lẽ thật, và biến ấn tượng xấu của người phụ trách thành ấn tượng tốt về tôi, tôi liền nhanh chóng mổ xẻ và nhận thức vấn đề của mình, dùng những từ ngữ nghiêm khắc để đối chiếu bản thân, như “thiếu nhân tính”, “mê hoặc người khác”, “gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh”, để người ta nghĩ rằng tôi biết mình sâu sắc, thấu đáo. Nhưng thực ra, tôi chỉ đang lùi một bước để tiến hai bước, thừa nhận lỗi lầm ngay lập tức để người khác không thể nói gì, khiến mọi người khen ngợi và ngưỡng mộ tôi, nghĩ rằng tôi có thể tiếp nhận lẽ thật, có lối vào sự sống, biết sai thì sửa đổi. Tôi đã dùng vẻ bề ngoài và đạo lý sáo rỗng để che đậy bản thân, thực chất là chỉ muốn thể hiện, tôn mình lên và lừa dối người khác. Tôi thấy trong nhận thức của mình ẩn chứa rất nhiều ý đồ và mưu mẹo đáng xấu hổ, muốn tẩy trắng bản thân, mê hoặc người khác, khiến họ ngưỡng mộ mình. Tôi thật đáng kinh tởm! Hơn nữa, tôi thật sự không nghĩ vấn đề của mình nghiêm trọng đến thế, nhưng tôi lại tự mô tả mình là người xấu xa, đê tiện. Thực chất, những gì tôi đang làm là làm chứng giả, mê hoặc người khác. Chỉ qua sự tỏ lộ này, tôi mới nhận ra bản tính mình thực sự quá giả dối, đến cả việc biết mình mà cũng giả vờ và giả mạo. Người phụ trách vạch trần, tỉa sửa tôi là hoàn toàn đúng!

Sau đó, tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời, từ đó có thêm nhận thức về con đường sai lầm mà tôi đã đi. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Trong số những người tìm kiếm sự sống, Phao-lô là người đã không biết bản chất của chính mình. Ông không hề khiêm nhường hay thuận phục, ông cũng không biết thực chất chống đối Đức Chúa Trời của mình. Và vì vậy, ông là người chưa từng trải qua những kinh nghiệm chi tiết, và là người không đưa lẽ thật vào thực hành. Phi-e-rơ thì khác. Ông biết những khiếm khuyết, sự yếu đuối và tâm tính bại hoại của mình như một loài thọ tạo, và vì vậy, ông đã có một con đường thực hành để thay đổi tâm tính mình; ông không phải là một trong những người chỉ có giáo lý mà không có hiện thực. Những ai thay đổi là những người mới đã được cứu rỗi, họ là những người có đủ tư cách theo đuổi lẽ thật. Những ai không thay đổi thuộc về những người tự nhiên bị lỗi thời; họ là những người chưa được cứu rỗi, nghĩa là những người bị Đức Chúa Trời ghét bỏ. Họ sẽ không được Đức Chúa Trời nhớ đến cho dù công việc của họ có to tát đến đâu. Khi ngươi so sánh điều này với sự theo đuổi của chính mình, cuối cùng ngươi giống loại người như Phi-e-rơ hay Phao-lô tự nó đã phải rõ ràng. Nếu vẫn không có lẽ thật trong những gì ngươi tìm kiếm, và nếu thậm chí ngày nay ngươi vẫn còn kiêu ngạo và xấc xược như Phao-lô, vẫn liến thoắng tự đề cao bản thân như ông ta, thì ngươi chắc chắn là một kẻ suy đồi thất bại. Nếu ngươi tìm kiếm giống như Phi-e-rơ, nếu ngươi tìm kiếm những sự thực hành và những thay đổi thực sự, và không kiêu ngạo hay ngoan cố, mà cố gắng thực hiện bổn phận của mình, thì ngươi sẽ là một loài thọ tạo có thể đạt được chiến thắng. Phao-lô đã không biết thực chất hay sự bại hoại của chính mình, ông càng không biết về sự phản nghịch của bản thân. Ông không bao giờ đề cập đến sự bất chấp đáng khinh của mình đối với Đấng Christ, cũng không quá hối hận. Ông chỉ đưa ra một lời giải thích ngắn gọn, và sâu thẳm trong lòng mình, ông không hoàn toàn hàng phục Đức Chúa Trời. Mặc dù ông đã ngã trên đường đến Đa-mách, nhưng ông không nhìn sâu vào bản thân mình. Ông hài lòng với việc chỉ đơn thuần miệt mài làm việc, và đã không xem việc biết bản thân và thay đổi tâm tính cũ của mình là những vấn đề cốt yếu nhất. Ông đã thỏa mãn với việc chỉ đơn thuần nói lẽ thật, với việc cung cấp cho người khác như một sự xoa dịu cho lương tâm của chính mình, và với việc không còn bắt bớ các môn đồ của Jêsus để an ủi bản thân và tha thứ cho những tội lỗi trong quá khứ của mình. Mục tiêu ông đã theo đuổi không gì khác hơn là một mão triều thiên trong tương lai và một công việc tạm thời, mục tiêu ông theo đuổi là ân điển dồi dào. Ông đã không tìm kiếm đủ lẽ thật, cũng không cố gắng tiến sâu hơn vào lẽ thật mà trước đây ông chưa hiểu. Vì vậy, sự hiểu biết của ông về bản thân có thể nói là sai lầm, và ông đã không chấp nhận hình phạt hay sự phán xét. Việc ông có thể làm việc không có nghĩa là ông đã sở hữu một sự hiểu biết về bản tính hay thực chất của chính mình; ông chỉ tập trung vào những thực hành bên ngoài. Hơn nữa, điều ông phấn đấu không phải là sự thay đổi, mà là kiến thức. Công việc của ông hoàn toàn là kết quả của sự xuất hiện của Jêsus trên đường đến Đa-mách. Đó không phải là điều ông đã quyết tâm thực hiện ban đầu, đó cũng không phải là công việc xảy ra sau khi ông đã chấp nhận việc tỉa sửa tâm tính cũ của mình. Cho dù ông đã làm việc ra sao, tâm tính cũ của ông vẫn không thay đổi, và vì vậy, công việc của ông đã không chuộc lại được những tội lỗi trong quá khứ của mình mà chỉ đơn thuần đóng một vai trò nhất định trong các hội thánh thời đó. Một người như thế này, người có tâm tính cũ không thay đổi – nghĩa là, người đã không nhận được sự cứu rỗi, và càng không có lẽ thật – thì tuyệt đối không thể trở thành một trong những người được Đức Chúa Jêsus chấp nhận(Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời phơi bày con đường mà Phi-e-rơ và Phao-lô đã đi. Thành công của Phi-e-rơ khi tin Đức Chúa Trời là vì ông tha thiết mưu cầu lẽ thật và chú trọng vào biết mình. Ông đối chiếu nghiêm ngặt bản thân với những lời mà Đức Chúa Jêsus phơi bày con người, phản tỉnh bản thân dựa theo những lời Đức Chúa Trời, và cuối cùng có được sự biết mình thực sự. Thất bại của Phao-lô là do ông thiếu nhận thức về thực chất bại hoại của mình. Ông chỉ hài lòng với nhận thức qua lời nói, gọi mình là tội nhân, là đầu sỏ tội lỗi, nhưng không bao giờ mổ xẻ hay tiết lộ cách ông phản nghịch và chống đối Đức Chúa Jêsus, những điều ác ông đã phạm. Sự biết mình của ông trống rỗng và giả tạo, chẳng những không giúp ông thay đổi tâm tính sự sống, mà còn khiến ông ngày càng kiêu ngạo, cuối cùng, ông trơ tráo làm chứng cho chính mình, tuyên bố mình sống như Đấng Christ. Qua sự phơi bày trong lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra mình đang đi trên con đường giống như Phao-lô. Trong những năm tin Đức Chúa Trời, tại các buổi nhóm nhóm hay trước mặt các anh chị em, tôi luôn nói về việc biết mình, nói mình kiêu ngạo, ích kỷ, đê tiện, thiếu nhân tính, thậm chí tự nhận mình là ma quỷ, là Sa-tan. Tôi có thể nói những lời tự biết mình này một cách trôi chảy, bất kể về khía cạnh tâm tính bại hoại nào mà tôi nhận ra, tôi đều có thể nói hàng chục phút. Nhưng trong lòng tôi không hề thấy đau đớn, sầu khổ. Tôi tự hỏi: “Với tất cả sự biết mình này, trong ngần ấy năm, mình đã thực sự tiếp nhận lời phán xét nào của Đức Chúa Trời chưa? Mình có thực sự căm ghét bản thân không? Mặt tâm tính bại hoại nào của mình đã thực sự thay đổi?”. Mỗi khi tham gia nhóm họp hoặc bị người khác vạch trần, tôi chỉ nói vài nhận thức về mặt đạo lý để qua loa cho xong chuyện, nhưng không cảm thấy áy náy hay mắc nợ trong lòng, cũng chẳng suy nghĩ về việc làm thế nào để mưu cầu thay đổi. Càng biết mình theo cách này, tôi càng trở nên cẩu thả, mất động lực để tiến bộ trong bổn phận. Việc biết mình không mang lại bất kỳ thay đổi nào cho tôi, mà ngược lại còn khiến tôi tự mãn, tự mình khen mình, nghĩ rằng mình đã nhận biết về sự qua loa chiếu lệ, ích kỷ, đê tiện của mình, đã nhận ra mình thiếu nhân tính. Thậm chí, tôi còn nghĩ rằng mình nhận thức sâu sắc và thấu đáo hơn người khác, cho rằng điều này có nghĩa là tôi đã bước vào lẽ thật. Sự biết mình giả hình như thế không chỉ lừa dối người khác mà còn mê hoặc chính tôi, để cuối cùng tôi chính là người bị thiệt hại. Thực ra, một số anh chị em đã thấy rõ được cái gọi là biết mình này của tôi. Một anh thậm chí đã nói: “Sự biết mình mà anh nói dường như rất cao siêu, vượt ngoài tầm với của mọi người. Ban đầu, tôi cũng ngưỡng mộ, nhưng sau đó không thấy anh có nhiều thay đổi hay lối vào!”. Phản tỉnh lại, điều này thật đáng buồn! Bao năm qua, khi tôi thực hiện bổn phận, Đức Chúa Trời đã sắp xếp nhiều môi trường cho tôi, và tôi cũng đã qua nhiều lần tỉa sửa, nhưng tôi đã lãng phí hết những cơ hội đó, không thực sự phản tỉnh hay biết mình trong những chuyện này. Đức Chúa Trời đã bày tỏ bao nhiêu lời, vạch trần mọi khía cạnh về tâm tính bại hoại của con người, mong muốn con người có thể thực sự tiếp nhận sự phán xét trong lời Ngài, thoát khỏi tâm tính bại hoại và được cứu rỗi. Nhưng tôi lại dùng những lời của Ngài làm công cụ để khoe khoang, trang bị cho bản thân một đống đạo lý, nhưng lại không thay đổi tâm tính bại hoại chút nào, giống như những người Pha-ri-si giả hình. Nghĩ đến điều này, tôi cảm thấy khủng hoảng, nhận ra mình không thể tiếp tục như vậy nữa. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi chỉnh đốn những mưu cầu sai lầm của mình và thực sự biết mình.

Thông qua cầu nguyện và tìm kiếm, tôi đã tìm thấy con đường thực hành và lối vào trong lời Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời phán: “Nếu như với ngươi, biết mình chỉ là công nhận sơ sài những thứ bề ngoài – nếu ngươi chỉ nói rằng ngươi kiêu ngạo và tự nên công chính, rằng ngươi phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời – thì đây không phải là sự nhận biết thật mà chỉ là giáo lý. Ngươi phải tích hợp vào thực tế: ngươi phải đưa ra ánh sáng bất kỳ vấn đề nào mà ngươi có những ý định cũng như quan điểm sai lầm hoặc ý kiến ngớ ngẩn, để thông công và mổ xẻ. Chỉ đây mới là thật sự biết mình. Nếu chỉ dựa trên những hành động của mình, ngươi sẽ không có được sự biết mình; ngươi phải nắm bắt được đâu là mấu chốt và giải quyết gốc rễ vấn đề. Một thời gian sau, ngươi phải phản tỉnh về bản thân và tóm tắt xem mình đã giải quyết những vấn đề nào và những vấn đề nào vẫn còn tồn tại. Vì vậy, ngươi cũng phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những vấn đề này. Ngươi không được thụ động, ngươi không được lúc nào cũng cần người khác dỗ dành, thúc ép ngươi làm việc, hay thậm chí xỏ mũi ngươi dắt đi; ngươi phải có con đường riêng cho lối vào sự sống. Ngươi phải thường xuyên dò xét bản thân để xem mình đã nói và làm gì trái với lẽ thật, xem những ý định nào của ngươi là sai và ngươi đã bộc lộ những tâm tính bại hoại nào. Nếu ngươi luôn thực hành và bước vào theo cách này – nếu ngươi đặt ra những yêu cầu nghiêm khắc với bản thân – thì dần dần ngươi sẽ có thể hiểu được lẽ thật và có lối vào sự sống. Khi ngươi thực sự hiểu lẽ thật thì ngươi sẽ thấy rằng mình quả thực chẳng là gì cả. Một lý do là, ngươi có tâm tính bại hoại nghiêm trọng; một lý do khác là, ngươi quá thiếu kém và ngươi không hiểu bất kỳ lẽ thật nào. Nếu đến một ngày, ngươi thực sự tự biết mình được như vậy thì ngươi sẽ không còn khả năng kiêu ngạo nữa, ngươi sẽ có lý trí và có khả năng vâng phục trong nhiều chuyện. Vấn đề mấu chốt ngay lúc này là gì? Thông qua thông công và mổ xẻ về thực chất của các quan niệm, con người đã hiểu được nguyên nhân khiến họ hình thành quan niệm; họ có thể giải quyết một số quan niệm, nhưng như vậy không có nghĩa là họ có thể thấy rõ thực chất của mọi quan niệm, mà chỉ có nghĩa là họ tự biết mình chút ít, nhưng sự tự biết mình của họ chưa đủ sâu hoặc chưa đủ rõ. Nói cách khác, họ vẫn không thể thấy rõ thực chất bản tính của mình, cũng không thể thấy những tâm tính bại hoại nào đã bén rễ trong lòng mình. Mức độ tự biết mình mà người ta có thể đạt được theo cách này là có giới hạn. Một số người nói: ‘Tôi biết tâm tính của mình cực kỳ kiêu ngạo – chẳng phải như vậy nghĩa là tôi biết mình sao?’ Sự hiểu biết như vậy là quá hời hợt và chẳng thể giải quyết được vấn đề. Nếu ngươi thực sự biết mình thì tại sao ngươi còn tìm kiếm sự thăng tiến cá nhân, tại sao ngươi còn khao khát địa vị và sự xuất chúng? Như vậy nghĩa là bản tính kiêu ngạo của ngươi vẫn chưa bị loại bỏ. Cho nên, sự thay đổi phải bắt đầu từ suy nghĩ và quan điểm của ngươi, những ý định đằng sau lời nói và hành động của ngươi(Cách con người bước vào thời đại mới, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc những lời của Đức Chúa Trời, tôi đã thấy rõ hơn về con đường để biết mình. Tôi đã phản tỉnh và nhận ra bản thân sau sự việc lần này, tự hỏi: “Tại sao mình lại thực hiện bổn phận qua loa chiếu lệ? Tại sao khi người phụ trách vạch trần và tỉa sửa mình vô trách nhiệm, thì mình lại không muốn tiếp nhận? Ý định và quan điểm nào đang chi phối điều này?”. Trong quá trình phản tỉnh, tôi nhận ra một mặt tôi quá nuông chiều xác thịt, chỉ cần gặp khó khăn về mặt xác thịt là tôi liền muốn lơ là. Bên cạnh đó, tôi có một suy nghĩ đê tiện, rằng bổn phận là công việc của ba người, nếu tôi làm nhiều hơn, bỏ công sức hay chịu đựng nhiều hơn các chị em khác, thì chẳng phải tôi là kẻ ngốc và bị thiệt thòi sao? Tôi xem việc thực hiện bổn phận như việc làm thuê cho chủ, luôn tính toán thiệt hơn, cảm thấy mình thiệt thòi nếu làm nhiều hơn hoặc chịu khổ hơn người khác. Dù trông có vẻ tôi đang thực hiện bổn phận, nhưng thực tế tôi đầy rẫy những mưu tính tà ác, chỉ lo cho lợi ích của mình. Tôi thật sự quá ích kỷ và đê tiện! Ngoài ra, tôi cũng phát hiện ra mình có một quan điểm sai lầm khác, tin rằng không ai hoàn hảo cả, không ai có thể thực hiện bổn phận hoàn hảo, việc sai sót, có vấn đề là bình thường, nên khi bị tỉa sửa, tôi không phản tỉnh hay biết mình, còn nghĩ người phụ trách yêu cầu quá khắt khe. Khi thực sự phản tỉnh và mổ xẻ bản thân, tôi nhận ra quan điểm này không phù hợp với lẽ thật. Dù Đức Chúa Trời không đòi hỏi chúng ta thực hiện bổn phận hoàn hảo, nhưng Ngài mong rằng chúng ta có thể cống hiến hết mình trong bổn phận, đó là nguyên tắc cần tuân theo khi thực hiện bổn phận. Nhưng tôi lại giữ lấy quan điểm sai lầm, không muốn bỏ công sức ngay cả khi chỉ cần cố gắng hơn một chút là có thể tránh được vấn đề. Tôi không chỉ không tận lực, mà thậm chí còn không tận tâm, khiến cho vấn đề phát sinh ngày càng nhiều trong bổn phận, trực tiếp gây trở ngại và tổn hại đến bổn phận của mình. Nhận ra điều này, tôi đã có thể hiểu một chút về tình trạng bên trong của mình.

Khi tôi vừa có chút nhận thức, người phụ trách tổ chức một buổi nhóm họp, hỏi xem chúng tôi nhận thức thế nào khi bị tỉa sửa, tỏ lộ gần đây. Tôi sắp xếp lại những gì muốn nói trong đầu, tự hỏi: “Mình phải nói như thế nào để người phụ trách thấy mình đã tự nhận thức về bản thân đây? Làm sao để thể hiện rằng mình đã nhận thức sâu sắc? Nếu nhận thức của mình quá nông cạn, liệu người phụ trách và các chị em làm cùng có xem thường vì lối vào sự sống kém cỏi của mình không?”. Khi những suy nghĩ này xuất hiện, tôi chợt nhận ra mình vẫn đang cố gắng che đậy bản thân bằng những đạo lý cao thâm để khiến người khác ngưỡng mộ. Tôi biết đây là cơ hội mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho tôi để thực hành lẽ thật, trở thành một người trung thực, nên tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, quyết tâm sẽ nói lẽ thật từ trong lòng, không quan tâm anh chị em khác nhìn mình như thế nào, và hiểu gì thì chia sẻ nấy. Sau đó, tôi đã thông công hành vi che đậy bản thân và mê hoặc người khác, cũng như ý định ẩn sau việc đó. Tôi cũng thú nhận rằng, hiện tại tôi chỉ mới nhận ra rằng nhận thức trước đây là giả vờ và giả mạo, và tôi nhận thức được ý định qua loa chiếu lệ của mình, nhưng tôi hoàn toàn không nhận ra bản tính và hậu quả của việc qua loa chiếu lệ. Khi tôi bày tỏ những suy nghĩ và nhận thức chân thực, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản, vì cuối cùng tôi đã cho mọi người thấy con người thật của mình, không còn phải cố gắng vắt óc che đậy bản thân nữa. Sau đó, tôi thường xuyên ăn uống lời Đức Chúa Trời về sự phán xét và vạch trần trạng thái qua loa trong bổn phận, phản tỉnh và nhận ra tình trạng và hành vi của mình. Những điều tôi không hiểu, tôi tìm đến anh chị em. Nhờ sự giúp đỡ, hướng dẫn của mọi người, tôi đã có được một chút nhận thức thực tế về bản thân. Khi thực hiện lại bổn phận, tôi cũng ít qua loa chiếu lệ hơn trước. Khi gặp vấn đề hay khó khăn trong bổn phận, không biết cách giải quyết, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời và cậy dựa vào Ngài, tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật có liên quan, hoặc thông công với chị em làm cùng, hay tìm đến người phụ trách để hỏi, cố gắng hiểu và làm rõ hoàn toàn các vấn đề. Dù cách thực hành này tốn thời gian, công sức hơn, khiến tôi chịu đựng nhiều hơn so với trước đây, nhưng qua quá trình tìm kiếm và thông công, tôi hiểu rõ hơn về một số lẽ thật, và vấn đề được giải quyết kịp thời, hiệu quả công tác cũng dần được cải thiện.

Nhờ trải nghiệm này, tôi đã tìm thấy một số con đường thực hành trong việc biết mình. Tôi cũng nhận ra chỉ khi nắm bắt được những suy nghĩ, ý định và tỏ lộ sự bại hoại của mình, phản tỉnh và hiểu chúng khi đối chiếu với lời Đức Chúa Trời, thì tôi mới có thể được Đức Thánh Linh khai sáng, thấy rõ tính chất của vấn đề, nhận ra tâm tính và thực chất bại hoại của mình, từ đó thực sự căm ghét bản thân và sẵn lòng hối cải, thay đổi. Việc dán nhãn vào bản thân, tuân thủ các quy định, biết mình một cách giả hình, chỉ là để cho người khác ấn tượng, sẽ không mang lại sự ăn năn hay hối cải thực sự, cùng lắm những việc này chỉ dẫn đến tuân thủ quy tắc, kiểm soát bản thân, nhưng cuối cùng những lỗi cũ vẫn lặp lại, giống như người trong tôn giáo phạm tội rồi lại thú tội, mà không hề thay đổi tâm tính dù tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm chăng nữa. Tôi nhận ra tầm quan trọng của việc thực sự biết mình, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc chúng ta có thể hối cải, thay đổi và được cứu rỗi. Nhìn lại những năm tháng tin Đức Chúa Trời, bề ngoài tôi ăn uống lời Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận hàng ngày, nhưng tôi chưa thực sự tiếp nhận sự phán xét hay hình phạt trong lời Ngài. Nếu không phải lần tỉa sửa này đến với tôi, tôi vẫn sẽ sống trong quan niệm, tưởng tượng của mình mà không biết mình. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời vì đã sắp đặt hoàn cảnh này để sửa chữa những lệch lạc trong việc mưu cầu của mình.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger