Bài học rút ra từ việc khoe khoang
Vào tháng 5 năm 2021, các hội thánh tôi phụ trách đều tổ chức bầu cử. Trong các cuộc họp, các anh chị em nêu ra rất nhiều vấn đề xoay quanh việc bầu cử, và tôi nương cậy vào Đức Chúa Trời để giải quyết mọi vấn đề. Các cuộc bầu cử đều diễn ra suôn sẻ. Tôi cảm thấy rất hài lòng về bản thân vì đã tự mình quản lý các cuộc bầu cử này. Tôi cảm thấy như mình có tố chất tốt và một số kỹ năng làm việc.
Và trong một cuộc họp, một chị cộng sự của tôi bảo rằng một lãnh đạo hội thánh tên Lý đang gieo rắc mối bất hòa và gây hỗn loạn trong hội thánh. Họ không chắc về thực chất của cô ta, nên không dám tùy tiện cách chức cô ta. Tôi cũng không rõ cô ta là loại người nào, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài khai sáng, dẫn dắt. Sau đó, một chị khác bảo Lý không cho chị Lưu, người chúng tôi giao cộng tác với Lý, được thực hiện bổn phận, và Lý bảo rằng cô ta không biết chị Lưu phải làm gì. Nghe xong, tôi nghĩ rõ ràng là Lý đã được báo trước về việc chị Lưu phụ trách công tác hội thánh cùng cô ta. Sao có thể nói là không biết chứ? Cô ta đã không để chị Lưu tham gia công tác. Chẳng phải thế nghĩa là cô ta không muốn chia sẻ quyền lực sao? Rồi tôi nhớ tới một lần có một chị tới hội thánh đó làm dự án. Lý không hợp tác mà thay vào đó lại biến chị kia thành bù nhìn. Rồi tôi nghĩ Đức Chúa Trời phán dạy kẻ địch lại Đấng Christ có xu hướng lập đế chế riêng, và càng nghĩ kỹ, tôi càng thấy đó chính là cách Lý cư xử. Thế nên tôi đã thông công với hai người chị này, tham khảo tới lời Đức Chúa Trời, về động cơ, mưu chước của Lý cùng bản chất và hậu quả của chúng. Tôi cũng nói phải phân định và xác định được Lý là một kẻ địch lại Đấng Christ, và thông công về một số lẽ thật có liên quan. Điều này giúp họ phân định được Lý. Lúc đầu, tôi cảm thấy đấy là sự khai sáng dẫn dắt của Đức Chúa Trời, nhưng rồi tôi nghĩ tôi là người đã hiểu ra được một vấn đề phức tạp như vậy và chỉ ra cho các chị em một con đường tiến tới. Nếu tôi không hiểu lẽ thật, Đức Chúa Trời đã không thể khai sáng cho tôi. Khi về tới nhà, tôi vui mừng hớn hở kể với một chị khác, về việc mình đã nương cậy Đức Chúa Trời ra sao để phát hiện ra Lý là một kẻ địch lại Đấng Christ, và cách tôi dạy cho người khác một số điểm chính để phân định kẻ địch lại Đấng Christ. Tôi thấy chị ấy chăm chú lắng nghe, và tôi nghĩ dù vấn đề có khó khăn đến đâu, tôi cũng có thể giải quyết được bằng cách thông công, Hẳn tôi thực sự phải sáng suốt và có tố chất khá tốt. Tôi bắt đầu ngẩng cao đầu, cảm giác như mình giỏi hơn người khác, mình là người sâu sắc. Tôi thường khoe khoang về bản thân. Sau đó, cứ khi nào có gì liên quan đến việc phân định mà chị ấy không chắc, chị lại tìm hỏi tôi, và tôi lại càng cảm thấy tự tin hơn trong việc hiểu lẽ thật, tự tin mình là một nhân tài thiết yếu. Tôi sung sướng như ở trên mây. Sau đó tôi được sắp xếp quản lý một cuộc bầu cử khác. Trong một cuộc họp, chị La có hỏi về một vấn đề mà không ai hiểu rõ ngọn nguồn hay giải quyết được. Sau đó, nhờ mối thông công của một chị mà tôi được thông sáng, và dựa trên sự thông sáng đó tôi thông công để chị La tự ngẫm lại mình, cuối cùng cũng giải quyết được vấn đề. Tôi cảm thấy như mình hiểu thấu được vấn đề không ai hiểu được. Tôi có thể thông công để giải quyết vấn đề mà người khác không làm được, thế hẳn là tôi rất có tố chất. Khi bắt đầu quá trình bầu cử, một vài chị em đưa ra một số câu hỏi mà không ứng viên nào biết cách để giải quyết. Tôi cảm thấy chẳng ai trong bọn họ có thể giải quyết được vấn đề, nên phải là tôi chỉ cho họ cách xử lý. Tôi bắt đầu lần lượt nói về từng vấn đề của các chị em, và bảo họ nên làm gì. Một chị ngưỡng mộ nói: “Chúng tôi chẳng ai thấy được việc này hay biết phải làm gì. Chị đã làm thế nào vậy?” Nghe thế tôi rất vui và tự mãn, trả lời: “Tôi có nhiều trải nghiệm hơn nên có thể hiểu được những việc này”. Sau đấy, khi các anh chị em nêu ra các vấn đề, tôi làm như thể mình muốn các ứng viên cố gắng giải quyết, nhưng khi thấy họ gặp khó khăn tìm được đúng lời Đức Chúa Trời, tôi chỉ nghĩ là họ không đủ khả năng. Tôi muốn cho họ thấy mình có thể dùng lời Đức Chúa Trời giải quyết vấn đề giỏi thế nào. Sau đó, khi thông công, tôi chỉ tập trung nói điều cần nói, chứ không yêu cầu mọi người lên tiếng. Dần dần, mọi ứng viên thôi không nói gì nữa, cứ để mặc một mình tôi nói. Nó đã thành bục phát biểu của riêng chị. Rồi tôi nhận ra có điều gì đó không ổn, chủ yếu các ứng viên phải được phát biểu ý kiến, để mọi người có thể thấy liệu họ có sáng suốt và tố chất không, có giải quyết được vấn đề thực tế không, rồi mới quyết được cách bỏ phiếu. Nhưng khi các ứng viên không lên tiếng, không ai thấy được liệu họ có thể thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề không. Vậy làm sao bầu chọn được chứ? Chẳng phải thế là phá hỏng cuộc bầu cử sao? Tôi bắt đầu tìm kiếm lý do dẫn đến việc này, và xin ý kiến phản hồi của mọi người. Một số ứng viên nói rằng tôi cứ khoe khoang việc mình hiểu được lẽ thật nhiều thế nào, khiến họ thấy họ không giỏi bằng, nên họ ngại không nói gì nữa. Khi họ nói vậy, Tôi nghĩ đến việc mình không thể ngừng khoe khoang khoác lác, và thấy hơi có lỗi. Tôi giữ mồm giữ miệng lại, sợ phủ nhận ý kiến của người khác và kiềm chế họ, gây cản trở cuộc bầu cử.
Sau cuộc họp, tôi ngay lập tức tìm kiếm lẽ thật liên quan đến vấn đề của mình, và đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Những người không hiểu lẽ thật có khả năng nghĩ quá cao về bản thân – và khi họ bắt đầu nghĩ quá cao về bản thân, liệu có dễ khiến họ khiêm tốn trở lại không? (Không). Những người bình thường có chút ý thức sẽ không đánh giá cao bản thân mà không có lý do. Khi họ chưa đạt được bất cứ điều gì, không có gì để cống hiến cho mọi người, và không ai trong nhóm chú ý gì đến họ, thì họ không đánh giá cao về bản thân. Họ có thể hơi kiêu ngạo vàái kỷ, hoặc họ có thể cảm thấy mình có phần tài năng và giỏi hơn những người khác, nhưng có khả năng họ không đánh giá cao bản thân; họ khiêm tốn hơn hầu hết mọi người. Người ta đánh giá cao bản thân trong hoàn cảnh nào? Khi người khác khen ngợi họ vì một thành tích nhỏ nào đó. Họ cho rằng mình giỏi hơn người khác, rằng người khác tầm thường và không có gì nổi bật, rằng mình là người có địa vị, và không cùng đẳng cấp, cùng trình độ với người khác, rằng mình cao hơn họ. Và bằng cách này, họ đặt mình cao hơn vốn dĩ của họ. Và họ nghĩ rằng họ đánh giá cao về bản thân là chính đáng. Họ tự đánh giá mình như thế nào? Những gì họ tin là: ‘Mình có sức mạnh, tố chất và trí khôn, và mình sẵn sàng theo đuổi lẽ thật. Bây giờ mình cũng đã đạt được một điều gì đó – mình đã tạo dựng được tên tuổi cho bản thân, danh tiếng và giá trị của mình cao hơn người khác, vì vậy mình phải nổi bật giữa đám đông, mình phải là người được mọi người nể phục, và vì vậy mình đánh giá cao về bản thân là đúng’. Đây là những gì họ nghĩ trong đầu, và cuối cùng nó trở thành một lẽ đương nhiên – một điều tất yếu – rằng họ nên đánh giá cao về bản thân. Họ tin rằng điều này là hợp lý. Nếu họ không đánh giá cao về bản thân, họ cảm thấy mất cân bằng, giống như họ không xứng đáng với thân phận của mình và sự tán dương của người khác; và vì vậy họ đánh giá cao về bản thân cũng là tự nhiên” (“Những nguyên tắc một người nên cư xử” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Ngài cho ta thấy thời khắc kẻ bại hoại đạt được điều gì đó, chúng sung sướng như trên mây, nghĩ chúng giỏi hơn mọi người, nghĩ chúng có địa vị, trội hơn người khác. Chúng không thể ngừng khoe khoang, khoác lác – thật nông cạn. Tôi thấy mình như vậy. Tôi hoàn thành được một số việc, có chút thông sáng về kẻ địch lại Đấng Christ, nên nghĩ mình tuyệt vời, sáng suốt và có tố chất, nghĩ mình là nhân tài thiết yếu. Khi thấy các ứng viên không thể giải quyết một số vấn đề trong cuộc bầu cử, tôi đã coi thường họ. Tôi đã không thực sự nghe xem mối thông công của họ có sự khai sáng của Đức Thánh Linh không. Tôi không thể giữ mồm giữ miệng, cứ thể hiện khả năng hiểu lẽ thật và giải quyết vấn đề của mình, điều này gây gián đoạn quá trình bầu cử. Vai trò của tôi là chủ trì cuộc bầu cử nên đáng ra tôi phải hướng dẫn người khác bày tỏ ý kiến, để họ có thể hiểu nhau, rồi từ đó dựa trên nguyên tắc, chọn ra được một lãnh đạo giỏi. Đó là bổn phận của tôi. Nhưng tôi lại quá ngạo mạn đến mức mất hết lý trí, chỉ biết khoe khoang, tự biên tự diễn. Đó mà là làm bổn phận sao? Chẳng phải tôi chỉ đang gây cản trở cuộc bầu cử sao? Tôi quá kiêu ngạo, có được một vài thành công là phấn khích như trên mây, nghĩ mình giỏi hơn mọi người khác.
Sau đó tôi đọc được một đoạn thực sự mở mang tầm mắt trong lời Ngài. “Là người được Đức Chúa Trời sử dụng, mọi con người đều xứng đáng làm việc cho Đức Chúa Trời, nghĩa là, mọi người đều có cơ hội được Đức Thánh Linh sử dụng. Tuy nhiên, có một điểm các ngươi phải nhận ra: Khi con người làm công việc được Đức Chúa Trời ủy nhiệm, con người đã được trao cho cơ hội được Đức Chúa Trời sử dụng, nhưng những gì con người nói và biết không hoàn toàn là vóc giạc của con người. Tất cả những gì các ngươi có thể làm là biết rõ hơn về những thiếu sót của mình trong quá trình làm việc, và được Đức Thánh Linh khai sáng hơn. Theo cách này, các ngươi sẽ có thể đạt được sự bước vào tốt hơn trong quá trình làm việc. Nếu con người coi sự dẫn dắt đến từ Đức Chúa Trời là sự bước vào của chính mình và là điều vốn có trong bản thân mình, thì vóc giạc của con người sẽ không có khả năng phát triển. Sự khai sáng mà Đức Thánh Linh thực hiện trong con người xảy ra khi họ ở trong trạng thái bình thường; vào những thời điểm như thế, mọi người thường nhầm lẫn sự khai sáng họ nhận được là vóc giạc thực tế của chính họ, bởi cách Đức Thánh Linh khai sáng thì đặc biệt bình thường, và Ngài tận dụng những gì vốn có trong con người. Khi mọi người làm việc và nói chuyện, hay khi họ đang cầu nguyện và thực hiện những tận hiến tâm linh, thì một lẽ thật sẽ đột nhiên trở nên rõ ràng đối với họ. Tuy nhiên, trên thực tế, những gì con người nhìn thấy chỉ là sự khai sáng bởi Đức Thánh Linh (đương nhiên, sự khai sáng này liên quan đến sự hợp tác của con người) và không đại diện cho vóc giạc thật của con người. Sau một thời gian trải nghiệm mà con người gặp phải một số khó khăn và thử luyện, vóc giạc thật của con người trở nên rõ ràng trong những hoàn cảnh ấy. Chỉ khi đó, con người mới phát hiện ra vóc giạc của họ không quá lớn, và sự ích kỷ, những suy tính cá nhân, và lòng tham của con người đều nổi lên. Chỉ sau vài vòng trải nghiệm như thế này, nhiều người trong số những người được thức tỉnh trong tâm linh mới nhận ra rằng những gì họ đã trải nghiệm trong quá khứ không phải là hiện thực của cá nhân họ, mà là một sự soi sáng chốc lát từ Đức Thánh Linh, và rằng con người chỉ nhận lãnh sự sáng này” (Công tác và sự bước vào (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Qua lời Đức Chúa Trời tôi thấy được việc đạt được điều gì đó trong bổn phận không có nghĩa là tôi hiểu được lẽ thật hay có vóc giạc lớn lao. Bất cứ thành tựu nào cũng đến từ sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Thánh Linh, chứ không phải vì tôi hiểu được lẽ thật. Nghĩ lại về kẻ địch lại Đấng Christ Lý, ban đầu tôi đã không thấy được bức tranh thật, hay biết cách xử lý cô ta. Mà nhờ nhận xét của một chị mới khiến tôi suy ngẫm, rồi Đức Thánh Linh khai sáng tôi. Đó là cách tôi nhìn ra và thấy được cô ta là kẻ địch lại Đấng Christ. Đó không phải là vóc giạc thật của tôi hay việc tôi thấu hiểu cô ta. Lúc đầu, tôi cũng không biết chị La có chuyện gì, mà phải tới khi một chị khác thông công thì tôi mới được khai sáng, hiểu ra tình trạng thật của chị ấy và giải quyết được vấn đề. Điều đó cũng đến từ Đức Thánh Linh. Tất cả đều là sự soi dẫn của Đức Chúa Trời. Không có thông tin của người chị em hay sự khai sáng của Đức Thánh Linh, tôi sẽ không nhìn ra hay hiểu được chuyện gì cả. Thế mà tôi trơ trẽn nhận công về mình cho mọi việc, nghĩ mình có sự thông sáng và hiểu sâu sắc về lẽ thật. Tôi thật quá tự cao tự đại. Tôi không hiểu được công tác của Đức Thánh Linh hay nhìn rõ được vóc giạc của chính mình. Tôi lầm tưởng, nghĩ rằng vì có thể làm được chút việc là tôi có thực tế của lẽ thật. Tôi tự mãn, sống trong trạng thái tự tâng bốc mình. Tôi hưởng công trạng cho công tác của Đức Thánh Linh, cũng như sự thông công và ý kiến hữu ích của các anh chị em. Tôi luôn nghĩ mình đang làm rất tốt, và ngày càng trở nên ngạo mạn, vô liêm sỉ. Tôi không ngừng khoe khoang để khiến các anh chị em ngưỡng mộ. Tôi đang trên con đường chống lại Đức Chúa Trời, xúc phạm tâm tính Ngài mà không hay biết. Tôi thật đáng thương hại và ngu ngốc. Điều cốt yếu là phân biệt được công tác của Đức Thánh Linh và vóc giạc thực tế của mình. Như thế ta sẽ không nhận công tác của Đức Thánh Linh thành thực tế lẽ thật của mình và sẽ không say sưa với bản thân. Sau đó, tôi trở nên điềm tĩnh hơn. Trong các buổi họp, khi tôi có chút hiểu biết sâu sắc và con đường thực thành để chia sẻ, tôi tạ ơn sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Tôi thôi không còn nghĩ tất cả là thành quả của mình, và thôi không khoe khoang.
Nhưng chẳng bao lâu sau, vì tôi không có hiểu biết thực sự về bản tính bại hoại của mình, tôi lại bắt đầu khoe khoang khi có cơ hội. Trong một buổi họp của những người làm công, chị Trương bảo trong hội thánh có một lãnh đạo tên Trần không thanh lọc một số kẻ ngoại đạo và kẻ hành ác, và những người đó là họ hàng của Trần. Chị Trương không chắc về Trần, và không biết phải giải quyết thế nào. Điều này khiến tôi nghĩ đến việc Đức Chúa Trời dạy kẻ địch lại Đấng Christ có xu hướng gia đình trị, và tôi thấy đó chính là điều Trần định làm. Thế là tôi dùng lời Ngài để thông công với các anh chị em về thực chất hành vi của Trần. Mọi người đều đồng tình và hồ hởi nói rằng đó là một buổi họp rất tuyệt, giúp họ hiểu được lẽ thật để giải quyết vấn đề. Những lời này khiến tôi tự cao tự đại. Tôi cũng nghĩ lần trước, tôi đã hiểu chính xác Lý là một kẻ địch lại Đấng Christ, hiểu cô ta có thực chất đó. Lần này tôi lại nhìn ra được vấn đề của Trần, nên tôi nghĩ mình thực sự hiểu được lẽ thật. Tôi nghĩ nếu mình đến từng hội thánh và chia sẻ thông công, các anh chị em có thể đạt được sự thông sáng nào đó. Sau khi kết luận như vậy, tôi lại phấn khích như trên mây. Ngày họp hôm sau, tôi bắt đầu nói về việc mình phân định mọi người dạo gần đây, về việc có một lãnh đạo tốt trong hội thánh quan trọng ra sao, chỉ khi nào lãnh đạo có thể làm công tác thực tế thì mới có thể loại được hết những kẻ gây rối. Khi đó, tôi nhận ra lối nói này có thể khiến người khác nghĩ mình đang khoe khoang về sự thông sáng của mình, về việc tôi có thể làm công việc thực tế. Thế là tôi vội nói việc phân định kẻ địch lại Đấng Christ lần này là sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Lúc đó có một anh nói: “Đó thực sự là sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, không phải là do chị”. Tôi không vui khi nghe thế và không hoàn toàn đồng ý với anh ấy. Tôi tự nhủ: Sao không phải là do tôi chứ? Dĩ nhiên đó là sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, nhưng tôi cũng có phẩn mà. Nếu không thì sao chỉ có mình tôi nhìn thấy được vấn đề của Trần? Chỉ mình tôi có gánh nặng, có tố chất, nên Đức Chúa Trời mới khai sáng tôi. Sau buổi họp đó, tôi đau dạ dày tới mức không ăn nổi gì, và tối đó tôi bị sốt cao. Tôi nhận ra đây chính là Đức Chúa Trời sửa dạy tôi. Trong vài ngày qua tôi lại bắt đầu ba hoa, tự tâng bốc bản thân. Tôi mau chóng đến trước Ngài để tự kiểm điểm bản thân.
Rồi tôi đọc được đoạn này trong lời Ngài: “Trong quá trình thực hiện bổn phận của mình, các ngươi có thể ý thức được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời và sự khai sáng của Đức Thánh Linh không? (Có). Nếu các ngươi có thể ý thức được công tác của Đức Thánh Linh mà vẫn luôn đánh giá cao bản thân mình, và rằng mình sở hữu sự thực tế, thì điều gì đang xảy ra ở đây? (Khi việc thực hiện bổn phận có được thành quả nào đó, con người dần dần bắt đầu nghĩ rằng một nửa công lao thuộc về Đức Chúa Trời, và một nửa thuộc về con người. Con người phóng đại sự hợp tác của mình đến mức không giới hạn, nghĩ rằng không có gì quan trọng hơn sự hợp tác của con người, và rằng sự khai sáng của Đức Chúa Trời sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hợp tác này). Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại khai sáng cho ngươi? Đức Chúa Trời cũng có thể khai sáng cho những người khác không? (Có). Khi Đức Chúa Trời khai sáng cho ai đó, đây là ân điển của Đức Chúa Trời. Và chút hợp tác đó từ phía ngươi là gì? Đó có phải là điều mà ngươi được hưởng công trạng – hay đó là bổn phận, trách nhiệm của ngươi? (Bổn phận và trách nhiệm). Khi ngươi nhận ra rằng đó là bổn phận và trách nhiệm, thì đây là trạng thái tâm lý đúng đắn, và ngươi sẽ không có ý nghĩ cố gắng tranh công. Nếu những gì ngươi tin luôn là ‘Đây là vốn liếng của tôi. Liệu sự khai sáng của Đức Chúa Trời có thể hiệu quả không nếu không có sự hợp tác của tôi? Điều này cần sự hợp tác của con người; sự hợp tác của con người chiếm phần lớn ở đây’, thì điều này là sai. Làm sao ngươi có thể hợp tác nếu Đức Thánh Linh không khai sáng ngươi, và nếu Đức Chúa Trời đã không làm gì, và không ai thông công các nguyên tắc của lẽ thật cho ngươi? Ngươi cũng sẽ không biết những gì Đức Chúa Trời yêu cầu; ngươi thậm chí sẽ không biết con đường thực hành. Ngay cả khi ngươi muốn vâng phục Đức Chúa Trời và hợp tác trong công tác của Đức Chúa Trời, ngươi cũng sẽ không biết phải làm thế nào. Chẳng phải ‘sự hợp tác’ này của ngươi là những lời sáo rỗng sao? Nếu không có sự hợp tác thực sự, ngươi chỉ hành động theo những ý tưởng của mình – trong trường hợp đó, bổn phận mà ngươi thực hiện có thể đạt chuẩn không? (Không). Không, điều này chỉ ra một vấn đề. Vấn đề đó là gì? Bất kể một người thực hiện bổn phận gì, việc đạt được kết quả để đáp ứng Đức Chúa Trời và có được sự chấp thuận của Ngài, cũng như việc thực hiện bổn phận của họ theo tiêu chuẩn, đều phụ thuộc vào những hành động của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thực hiện trách nhiệm của mình, nếu ngươi thực hiện bổn phận của mình, nhưng Đức Chúa Trời không hành động và Đức Chúa Trời không bảo ngươi phải làm gì, thì ngươi sẽ không biết con đường của mình, phương hướng của mình, hoặc những mục tiêu của mình. Rốt cuộc thì nó dẫn đến điều gì? Đó sẽ là một sự phí công, ngươi sẽ chẳng thu được gì. Do đó, việc thực hiện bổn phận của ngươi theo tiêu chuẩn và việc có thể đứng vững trong nhà Đức Chúa Trời, cung cấp sự khai trí cho các anh chị em và được Đức Chúa Trời chấp thuận là hoàn toàn phụ thuộc vào Đức Chúa Trời! Con người chỉ có thể làm những việc mà cá nhân họ có khả năng, những việc mà họ phải làm, và những việc nằm trong khả năng vốn có của họ – chỉ thế thôi. Do đó, kết quả cuối cùng gặt hái được từ bổn phận của ngươi được xác định bởi sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời và sự khai sáng từ Đức Thánh Linh, điều khiến ngươi hiểu được con đường, mục tiêu, phương hướng và các nguyên tắc do Đức Chúa Trời cung cấp” (“Những nguyên tắc một người nên cư xử” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Khi ngươi được Đức Chúa Trời thu phục, ngươi không chỉ sở hữu công tác của Đức Thánh Linh; chủ yếu là ngươi có thể sống thể hiện ra những yêu cầu của Đức Chúa Trời thực tế. Chỉ đơn thuần có được công tác của Đức Thánh Linh không có nghĩa rằng ngươi có được sự sống. Mấu chốt là ngươi có thể hành động theo yêu cầu của Đức Chúa Trời thực tế đối với ngươi hay không, nó liên quan đến việc ngươi có thể được thu phục bởi Đức Chúa Trời hay không. Những điều này mới là ý nghĩa to lớn nhất của công tác của Đức Chúa Trời thực tế trong xác thịt” (Ngươi phải biết rằng Đức Chúa Trời thực tế chính là Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc, tôi thấy cực kỳ xấu hổ. Tôi hiểu được rằng mọi điều ta đạt được trong bổn phận đều là nhờ sự soi dẫn của Đức Chúa Trời. Không được Ngài khai sáng, không có lẽ thật Ngài bày tỏ, dù ta có chăm chỉ làm ra sao, cũng không bao giờ làm được gì. Hơn nữa, việc giải quyết được bất cứ vấn đề gì nảy sinh trong công tác là bổn phận của một người lãnh đạo, là trách nhiệm của họ. Không làm thế là thất bại, còn nếu làm được thì chỉ là đang làm bổn phận thôi. Chẳng có gì phải khoe khoang cả. Thế mà tôi lầm tưởng tất cả đều là thành quả của bản thân, nên mới thể hiện, khoe khoang. Tôi thật phi lý. Khả năng nhận định kẻ địch lại Đấng Christ của tôi chẳng phải hoàn toàn là nhờ lời Ngài sao? Không có Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật, tiết lộ thực chất và hành vi của chúng, thì dù tôi có chăm chỉ làm thế nào hay vắt óc nhiều bao nhiêu, tôi cũng không bao giờ tìm được một kẻ. Tôi nhận ra mình chẳng có gì để khoe khoang cả. Chính sự hướng dẫn và lời Đức Chúa Trời đã chỉ dạy tôi con đường thực hành và các nguyên tắc, nên tôi mới biết mình nên làm gì. Nếu không, không bao giờ tôi hiểu được lẽ thật hay hoàn thành được việc gì. Thế mà tôi mù quáng và ngu dốt, không làm theo lời Ngài, mà ngược lại cố lấy cắp vinh hiển của Ngài, khoe khoang để được các anh chị em tôn sùng. Tệ hơn, khi một người anh em nói đấy là sự dẫn dắt của Ngài, chứ không phải là công của tôi, tôi thấy khó chịu, nghĩ phần việc của tôi rất quan trọng. Tôi thật ngạo mạn và vô lý! Con đường tôi đi là đường của kẻ địch lại Đấng Christ chống lại Đức Chúa Trời. Tôi cũng lầm tưởng mình có được công tác của Đức Thánh Linh vì tôi hiểu lẽ thật, nhưng giờ tôi hiểu ra có công tác của Thần không có nghĩa là có lẽ thật hay sự sống, mà điều cốt yếu là liệu người đó có thể thực hành lời Đức Chúa Trời hay không. Chỉ bằng cách trải nghiệm và sống theo lời Đức Chúa Trời mới thực sự là hiểu lẽ thật và có thực tế của lẽ thật. Tôi đã tự tán tụng mình quá lâu rồi, luôn nghĩ nếu mình không hợp tác, Đức Thánh Linh sẽ không làm việc nơi tôi, nghĩ mình có thể nhận nửa công trạng. Tôi trơ tráo đánh cắp vinh hiển của Đức Chúa Trời. Một kẻ ngạo mạn, vô lý như tôi sao có thể sở hữu thực tế của lẽ thật được chứ? Tôi luôn nghĩ mình có thể nhận biết được kẻ địch lại Đấng Christ, mà không chút nhận thức về con đường mình đang trở thành một kẻ như vậy. Tôi thật ngạo mạn và thiếu hiểu biết. Rồi tôi đến cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, “Lạy Đức Chúa Trời, con không biết mình, đã cướp vinh quang của Ngài. Con đang đi con đường chống lại Ngài. Xin Đức Chúa Trời cứu rỗi con”.
Sau khi cầu nguyện, tôi đọc được đoạn lời Đức Chúa Trời này: “Từ ‘vinh quang’ không áp dụng cho con người, mà chỉ cho Đức Chúa Trời, cho Đấng Tạo Hóa; nó không liên quan đến con người. Con người có thể nỗ lực, và họ có thể hợp tác, nhưng điều này vẫn nằm dưới sự hướng dẫn của công tác của Đức Thánh Linh; họ có thể làm gì nếu không có công tác của Đức Thánh Linh? Điều tương tự cũng xảy ra với từ ‘lời chứng’: Dù ‘làm chứng’ như một động từ hoặc ‘lời chứng’ như một danh từ, cả hai đều không có bất kỳ mối liên hệ nào với con người thọ tạo. Chỉ Đấng Tạo Hóa mới xứng đáng với lời chứng và sự làm chứng của mọi người; điều này được xác định bởi thân phận, địa vị và bản chất của Đức Chúa Trời, và là phần dành cho Ngài vì tất cả những gì được thực hiện bởi Đức Chúa Trời, và vì tất cả những hy sinh mà Ngài đã thực hiện. Khả năng của con người là rất giới hạn, và không gì khác ngoài sản phẩm của việc được hướng dẫn bởi sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Bản tính của con người là khi họ hiểu một chút lẽ thật và có thể làm một số việc, họ trở nên xấc xược. Không có sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, không ai có khả năng vâng phục và chứng thực cho Đức Chúa Trời. Bởi vì họ đã được Đức Chúa Trời tiền định cho có một số ân tứ hoặc thế mạnh, hoặc học một nghề hay kỹ năng nào đó, hoặc thông minh một chút, nên con người trở nên tự mãn và luôn cố chia sẻ một phần vinh quang và lời chứng của Đức Chúa Trời – điều này không hợp lý, phải không? Nó hoàn toàn phi lý; đây là ví dụ về việc vượt quá giới hạn và coi bản thân khác với thực chất của mình. Sự khiêm nhường của con người chẳng phải bởi họ đã tự hạ mình. Con người vốn đã luôn khiêm nhường và thấp kém. Sự khiêm nhường của Đức Chúa Trời là bởi vì Ngài hạ mình. Nói một người là khiêm nhường tương đương với việc đề cao người đó, trong khi thực tế, con người là thấp hèn. Con người luôn muốn ganh đua với Đức Chúa Trời. Điều này đặt họ vào vai trò của Sa-tan; đây là bản tính của Sa-tan. Họ thực sự là con cháu của Sa-tan” (“Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, tham vọng của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ những lợi ích ấy để đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 1)” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Đọc đoạn này khiến tôi thực sự được khai sáng. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa tạo dựng tất cả chúng ta. Đức Chúa Trời trở nên xác thịt và đã ban mọi thứ, chỉ là để cứu rỗi chúng ta khỏi quyền lực của Sa-tan. Ngài đã làm công tác vĩ đại như vậy, nhưng chưa bao giờ thể hiện một chút nào. Ngài cũng không cảm thấy như thể đã làm điều gì quá to tát, hay đáng tán dương, thay vào đó Ngài khiêm nhường, ẩn giấu, lặng lẽ làm công tác. Thực chất của Đức Chúa Trời thật đáng mến, thật nhân từ. Chỉ Đức Chúa Trời mới xứng đáng được vinh hiển, được chúng ta tán dương, thờ phượng đời đời. Tôi chỉ là một loài thọ tạo, một con người bại hoại. Đức Chúa Trời ban cho tôi chút ân tứ, chút khả năng để hiểu được lời Ngài để tôi có thể hiểu được lẽ thật có được chút thông sáng. Đó là ân điển của Đức Chúa Trời. Tôi đã được quá nhiều từ Ngài, mà chưa bao giờ làm chứng cho Ngài hay làm Ngài vinh hiển. Thay vào đó tôi lại ngạo mạn quá sức, nghĩ mình ta đây to tát lắm, và muốn cướp vinh hiển của Ngài, đưa các anh chị em đến trước mặt mình. Tôi thật vô liêm sỉ. Nhưng rồi tôi nhận ra Sa-tan đã truyền tâm tính Sa-tan vào tôi, và tôi không sở hữu lẽ thật nào cả. Bất cứ thành tựu nào tôi đạt được đều là nhờ sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, thế nên mọi vinh hiển phải thuộc về Ngài, và tôi phải làm bổn phận từ vị trí của một loài thọ tạo.
Sau đó, tôi tự ngẫm lại mình, sao tôi lại vô lý như vậy chứ? Tôi đã đọc được vài đoạn lời Đức Chúa Trời giúp tôi hiểu được điều này. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Sự kiêu ngạo là gốc rễ của tâm tính bại hoại ở con người. Con người càng kiêu ngạo thì họ càng có khả năng chống đối lại Đức Chúa Trời. Vấn đề này nghiêm trọng đến mức nào? Không chỉ những người có tâm tính kiêu ngạo coi người khác bên dưới họ, mà, tệ nhất là họ thậm chí còn ra vẻ bề trên với Đức Chúa Trời. Mặc dù, bên ngoài, một số người có vẻ tin vào Đức Chúa Trời và theo Ngài, nhưng họ không hề coi Ngài là Đức Chúa Trời. Họ luôn cảm thấy rằng họ sở hữu lẽ thật và tự cao tự đại. Đây là thực chất và gốc rễ của tâm tính kiêu ngạo, và nó đến từ Sa-tan. Do đó, vấn đề kiêu ngạo phải được giải quyết. Cảm thấy mình tốt hơn những người khác – là chuyện nhỏ. Vấn đề quan trọng là tâm tính kiêu ngạo của một người ngăn họ vâng phục Đức Chúa Trời, sự trị vì của Ngài và sự sắp đặt của Ngài; người như vậy luôn muốn cạnh tranh với Đức Chúa Trời để giành quyền cai trị những người khác. Loại người này không tôn kính Đức Chúa Trời dù chỉ một chút, nói chi đến việc yêu Đức Chúa Trời hay vâng phục Ngài. Những người kiêu ngạo và tự phụ, đặc biệt là những ai kiêu ngạo đến mức mất hết cả ý thức, không thể vâng phục Đức Chúa Trời trong niềm tin của họ vào Ngài, và thậm chí còn đề cao và làm chứng cho chính mình. Những người như vậy chống đối lại Đức Chúa Trời nhiều nhất. Nếu mọi người muốn đi đến chỗ họ tôn kính Đức Chúa Trời, thì trước tiên họ phải giải quyết tâm tính kiêu ngạo của mình. Ngươi càng giải quyết triệt để tâm tính kiêu ngạo của ngươi, thì ngươi sẽ càng tôn kính Đức Chúa Trời hơn, và chỉ khi đó ngươi mới có thể vâng phục Ngài và có thể có được lẽ thật và biết Ngài” (Trích từ Thông công của Đức Chúa Trời). “Tốt nhất là các ngươi dành nhiều nỗ lực hơn cho lẽ thật của việc nhận biết bản thân. Tại sao các ngươi chưa được ân huệ của Đức Chúa Trời? Tại sao tâm tính của các ngươi lại đáng ghê tởm đối với Ngài? Tại sao điều các ngươi nói lại khiến Ngài căm ghét? Ngay khi các ngươi chứng tỏ được một chút lòng trung thành, các ngươi tự ca ngợi mình, và các ngươi đòi phần thưởng cho một sự đóng góp nhỏ bé; các ngươi coi thường người khác khi các ngươi thể hiện sự vâng phục đôi chút, và trở nên khinh thường Đức Chúa Trời khi hoàn thành nhiệm vụ vụn vặt nào đó. Để đón tiếp Đức Chúa Trời, các ngươi đòi tiền, quà, và những lời ca tụng. Các ngươi đau lòng khi quyên góp một hai xu; khi các ngươi quyên góp mười xu, các ngươi muốn có phúc lành và được đối đãi khác biệt. Thật chướng tai gai mắt khi nói hoặc nghe về nhân tính như của các ngươi. Có bất cứ điều gì đáng khen ngợi trong những lời nói và việc làm của các ngươi không? Những ai thực hiện bổn phận của mình và những ai không thực hiện; những ai dẫn dắt và những ai theo sau; những ai đón tiếp Đức Chúa Trời và những ai không đón tiếp; những ai bố thí và những ai không bố thí; những ai rao giảng và những ai đón nhận lời; và những điều tương tự: tất cả những người như thế đều tự ca ngợi họ. Các ngươi không thấy điều này nực cười ư? Hoàn toàn biết rõ rằng mình tin vào Đức Chúa Trời, ấy vậy mà các ngươi không thể tương hợp với Đức Chúa Trời. Hoàn toàn biết rõ rằng các ngươi không có giá trị, các ngươi vẫn khoa trương như thế. Các ngươi không cảm thấy ý thức của mình đã bị hư hỏng đến mức các ngươi không còn tự chủ nữa sao?” (Những ai không tương hợp với Đấng Christ thì hẳn là những kẻ chống đối của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Ngài vạch trần căn nguyên của việc con người khoe khoang. Nguyên nhân chủ yếu là từ bản tính ngạo mạn, từ việc không tự biết mình. Khi tôi đạt được thành tích nhỏ trong công tác, tôi không thể không thấy tự hào về bản thân, khoe khoang mà không hề tự biết mình. Tôi làm được vài việc và hoàn toàn đánh mất bản thân, không hề nghĩ đến Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ mọi thành tích của mình đều là của mình, trơ tráo giành công với công tác của Đức Chúa Trời hòng để người khác tôn thờ mình. Tôi nghĩ mình sở hữu thực tế của lẽ thật, và suy nghĩ ngông cuồng là đến mọi hội thánh để mọi người có thể học được chút lẽ thật từ tôi. Tôi thấy mình trở nên cực kỳ ngạo mạn. Tôi đã hoàn toàn không biết mình, thực chất của mình hay mình là ai, mà chỉ thấy bản thân là nguồn mạch lẽ thật. Chẳng phải trong lời nói và hành động của mình, tôi đang cố thay thế Đức Chúa Trời, hành xử như chính Ngài? Càng tự kiểm điểm mình, tôi càng thấy sợ điều bản thân mình lộ ra. Điều này xúc phạm nghiêm trọng Đức Chúa Trời. Đó là một tình trạng rất nguy hiểm. Trước đây tôi chưa bao giờ xem khoe khoang là điều nghiêm trọng, mà giờ tôi mới thấy đó là cách đánh lừa và kiểm soát mọi người, đó là con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu không nhờ sự sửa dạy kịp thời của Đức Chúa Trời, thật sự tôi không biết mình có thể ngạo mạn đến mức nào nữa. Khi đó sẽ là quá muộn để ăn năn hối cải mọi điều tà ác tôi đã làm. Sau khi nhận ra toàn bộ việc này, tôi thấy sợ và ghê tởm bản tính ngạo mạn của mình. Tôi cũng khẩn cầu Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi thực sự ăn năn và cư xử theo lương tâm.
Sau đó, tôi đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi sẽ mãi mãi là một vật thọ tạo nhỏ bé, và bất kể các kỹ năng và khả năng của ngươi có giỏi đến mức nào, bất kể ngươi có bao nhiêu ân tứ, thì mọi thứ của ngươi đều dưới sự thống trị của Đấng Tạo Hóa. … Là một trong những vật thọ tạo, con người phải giữ vị trí của riêng mình, và cư xử một cách thấu đáo. Hãy nghiêm túc bảo vệ những gì Đấng Tạo Hóa giao phó cho ngươi. Đừng vi phạm phép tắc, hoặc làm những điều ngoài khả năng của ngươi hoặc điều gì ghê tởm đối với Đức Chúa Trời. Đừng cố gắng trở nên vĩ đại, hoặc trở thành một siêu nhân, hoặc hơn những người khác, mà cũng đừng cố gắng trở thành Đức Chúa Trời. Con người không nên mong muốn như thế này. Việc cố gắng trở nên vĩ đại hoặc làm siêu nhân là ngớ ngẩn. Việc cố gắng trở thành Đức Chúa Trời thậm chí còn nhục nhã hơn; điều đó thật kinh tởm và đáng khinh. Điều đáng khen ngợi, và điều các vật thọ tạo nên nắm giữ hơn bất kỳ điều gì khác, là trở nên một vật thọ tạo thực sự; đây là mục tiêu duy nhất mà tất cả mọi người nên theo đuổi” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã cho tôi con đường thực hành. Tôi chỉ là một người bình thường, dù Đức Chúa Trời có ban cho tôi ân tứ gì hay tôi đạt được thành tích gì trong bổn phận, tôi cũng sẽ chỉ là một loài thọ tạo trước Đức Chúa Trời. Thân phận và địa vị của tôi không bao giờ thay đổi. Tôi không nên có tham vọng hay khao khát gì, tôi chỉ cần biết chỗ của mình và làm bổn phận của mình. Nhận ra được điều này khiến tôi cực kỳ nhẹ nhõm, và biết cách thực hiện.
Trong buổi họp sau đó, khi tôi giải quyết vấn đề của mọi người, khi tôi đạt được điều gì đó, tôi không ghi nhận đó là khả năng của mình, mà ngược lại dâng hết vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Một lần nọ, khi thảo luận công việc với một chị, tôi đưa ra một gợi ý cụ thể cho chị ấy và thấy chị chăm chú lắng nghe. Tôi tự hỏi liệu chị ấy có ngưỡng mộ mình, có nghĩ tôi hiểu được lẽ thật và có thể giải quyết vấn đề không. Nhưng rồi tôi nhận ra việc tôi có thể chia sẻ con đường thực hành, tất cả là nhờ sự khai sáng của Đức Chúa Trời. Đó cũng là bổn phận của tôi với tư cách là lãnh đạo, không có gì phải khoe khoang cả. Mọi vinh hiển đều thuộc về Đức Chúa Trời. Sau đấy, tôi chấn chỉnh tư tưởng của mình tập trung thông công với chị ấy để giải quyết vấn đề, cố làm tốt bổn phận của mình. Sau khi làm vậy, tôi thấy thoải mái hơn nhiều. Tôi có được hiểu biết và thay đổi này hoàn toàn là nhờ sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời. Vinh danh Đức Chúa Trời Toàn Năng!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?