Lựa chọn giữa việc học và bổn phận
Bởi Lộ Dạng, Trung Quốc Trong trí nhớ của em, bố mẹ em chưa bao giờ hòa thuận. Chuyện cãi nhau xảy ra như cơm bữa, có những lúc bố em còn...
Hoan nghênh tất cả những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời!
Hồi nhỏ, vì nhà tôi rất nghèo nên gia đình tôi bị hàng xóm láng giềng và họ hàng coi thường. Từ nhỏ, mẹ đã dạy tôi rằng: “Con phải học hành cho thật giỏi để sau này làm rạng danh gia đình”. Tôi khắc ghi lời mẹ trong lòng và nỗ lực học tập, hy vọng sau này có thể đạt được bằng cấp cao, có công việc tốt để cải thiện cuộc sống gia đình. Có lần, sau khi phẫu thuật vì bị gãy xương, tôi xuất viện với chân bó bột và không thể đi lại được, mẹ tôi ngày nào cũng cõng tôi đến trường. Dù đau đớn và phải chịu những ánh mắt kỳ lạ của người khác, tôi vẫn kiên trì đến lớp. Dù gặp phải vài tai nạn trong suốt thời gian đi học, tôi cũng chưa bao giờ từ bỏ việc học. Để thi đỗ vào một trường đại học tốt, tôi không bao giờ dám lơ là việc học. Mỗi ngày từ 7 giờ sáng đến 11 giờ tối, ngoài thời gian ăn uống và sinh hoạt cá nhân ra, tôi đều dành hết cho việc học. Cuối cùng, tôi đã thi đỗ vào một trường đại học hàng đầu. Năm ba đại học, tôi lại chuẩn bị thi cao học. Để có thể thi đỗ vào chương trình cao học danh giá, tôi đã tự cô lập bản thân trong gần một năm, dành hơn mười tiếng mỗi ngày trong thư viện để ôn luyện các môn thi, không dám để bản thân lơ là chút nào. Cuối cùng, tôi đã đạt được nguyện vọng và được nhận vào một trong những chương trình cao học danh giá nhất cả nước. Sau khi tốt nghiệp, tôi bắt đầu làm việc tại một viện nghiên cứu thuộc cơ quan nhà nước và có một cuộc sống “sáng cắp ô đi, tối cắp về”. Phúc lợi và lương bổng cũng khá tốt. Những người họ hàng từng coi thường chúng tôi giờ đây bắt đầu mang quà đến thăm hỏi. Khi gặp lại bạn học, họ cũng hết lời khen ngợi và tán dương tôi. Tôi trở thành niềm tự hào của bố mẹ, trong lòng cũng cảm thấy rất vui.
Nhưng sau khi đi làm, tôi cảm thấy một sự trống rỗng khó tả trong lòng. Tôi đã làm trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học một thời gian dài, và càng nghiên cứu nhiều kiến thức khoa học, tôi càng nhận ra trên thế giới này có quá nhiều điều chưa biết không thể dò thấu. Dù tôi có dành cả đời để nghiên cứu, thì kết quả cuối cùng cũng chỉ như một giọt nước trong biển cả. Vậy thì việc tiếp tục nghiên cứu này có ý nghĩa gì chứ? Tôi không biết mình nên theo đuổi điều gì, cũng không biết làm sao để thoát khỏi cảm giác trống rỗng và mông lung này. Tôi cố gắng lấp đầy cuộc sống của mình bằng việc tập thể dục và đọc sách, nhưng cũng chẳng ích gì. Mỗi khi rảnh rỗi, một cảm giác trống rỗng bao la lại xâm chiếm và gặm nhấm tôi. Để cảm thấy cuộc sống trọn vẹn hơn, tôi quyết định nộp đơn vào một trường đại học danh tiếng ở nước ngoài để học cao hơn, hy vọng có thể đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn. Mặc dù biết rằng điều này sẽ mang lại áp lực rất lớn, nhưng tôi vẫn tự an ủi mình rằng: “Cuộc sống là vậy, ‘người vươn lên cao, nước chảy xuống thấp’, đó là chuyện rất bình thường”. Ngay khi tôi đang chuẩn bị phấn đấu cho mục tiêu này, tình cờ tôi đã nghe được phúc âm thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Qua việc đọc lời Đức Chúa Trời, tôi biết được rằng con người do Đức Chúa Trời tạo ra, thuở ban đầu không hề bị bại hoại, con người có thể sống hòa thuận với nhau mà không có xung đột, nhưng sau khi bị Sa-tan làm bại hoại, con người đã phát sinh đủ loại tâm tính bại hoại, bắt đầu tranh đấu và lừa dối lẫn nhau, sống trong bóng tối và đau khổ. Để cứu rỗi nhân loại và để cho con người đạt được lẽ thật và sự sống, Đức Chúa Trời đã thực hiện ba giai đoạn công tác là Thời đại Luật pháp, Thời đại Ân điển và Thời đại Vương quốc. Hiện tại, Đức Chúa Trời đang thực hiện giai đoạn công tác cuối cùng, đó là bày tỏ mọi lẽ thật cho nhân loại, để con người có thể thoát khỏi sự trói buộc và hãm hại của Sa-tan, thoát khỏi tâm tính bại hoại của Sa-tan, và cuối cùng được đưa vào một đích đến tốt đẹp. Càng đọc lời Đức Chúa Trời, tôi càng thấy thu hút, và qua lời Ngài, tôi đã hiểu được ý nghĩa và những lẽ mầu nhiệm của cuộc đời, trong lòng tôi tận hưởng được sự bình an và vui mừng chưa từng có.
Một lần, tôi đọc được lời này của Đức Chúa Trời: “Từ khi loài người nghĩ ra khoa học xã hội, tâm trí của con người đã trở nên bị chiếm lĩnh bởi khoa học và kiến thức. Khoa học và kiến thức từ đó đã trở thành những công cụ để cai trị nhân loại, không còn đủ chỗ cho con người thờ phượng Đức Chúa Trời, và không còn những điều kiện thuận lợi cho việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Vị trí của Đức Chúa Trời ngày càng giảm sút trong lòng con người. Không có Đức Chúa Trời trong lòng, thế giới nội tâm của con người thật tăm tối, vô vọng và trống rỗng. Rồi sau đó, nhiều nhà khoa học xã hội, sử gia, và chính trị gia đã đứng ra phát biểu các lý thuyết về khoa học xã hội, lý thuyết về sự tiến hóa của loài người, và các lý thuyết khác trái với lẽ thật rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người, để lấp đầy trái tim và trí óc nhân loại. Và theo cách này, những người tin rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên mọi thứ đã trở nên ngày càng ít hơn, và những người tin vào thuyết tiến hóa đã trở nên ngày càng đông đảo hơn. Ngày càng có nhiều người xem những bản ghi chép về công tác của Đức Chúa Trời và những lời của Ngài trong thời đại Cựu Ước như thần thoại và truyền thuyết. Trong lòng họ, mọi người trở nên thờ ơ với sự tôn nghiêm và vĩ đại của Đức Chúa Trời, thờ ơ với tín điều rằng Đức Chúa Trời tồn tại và nắm quyền tể trị vạn vật. Sự tồn vong của nhân loại cùng vận mệnh của các quốc gia và các dân tộc không còn quan trọng đối với họ nữa, và con người sống trong một thế giới trống rỗng chỉ quan tâm đến ăn, uống và theo đuổi khoái lạc. … Rất ít người chủ động tìm cho ra nơi Đức Chúa Trời làm công tác của Ngài ngày nay, hay tìm kiếm cách Ngài tể trị và sắp đặt đích đến của con người. … Khoa học, kiến thức, tự do, dân chủ, sự hưởng thụ và an nhàn: những điều này chỉ mang lại cho con người sự an ủi nhất thời. Ngay cả khi có những điều này, nhân loại vẫn không khỏi phạm tội và than vãn về những bất công của xã hội. Có được những điều này cũng không thể ngăn cản khao khát và ham muốn khám phá của con người. Đó là bởi con người do Đức Chúa Trời tạo dựng, những sự hy sinh và khám phá vô nghĩa của con người chỉ có thể ngày càng đem lại khổ não cho họ, khiến họ kinh hãi mãi không thôi, không biết làm sao để đối mặt với tương lai của nhân loại hoặc làm sao để đối mặt với con đường sau này. Thậm chí nhân loại còn sợ khoa học và kiến thức, lại càng sợ cảm giác trống rỗng. Trong thế giới này, bất kể ngươi sống trong một quốc gia tự do hay một quốc gia không có nhân quyền, thì ngươi cũng hoàn toàn không thể thoát khỏi số phận của nhân loại. Cho dù ngươi là kẻ cai trị hay kẻ bị trị, ngươi cũng hoàn toàn không thể thoát khỏi dục vọng muốn khám phá số phận, bí ẩn và đích đến của nhân loại, lại càng không thể thoát khỏi cảm giác trống rỗng kỳ lạ khó tả. Những hiện tượng chung này của nhân loại được các nhà xã hội học gọi là hiện tượng xã hội, nhưng không một vĩ nhân nào có thể đứng ra giải quyết những vấn đề như thế. Con người, suy cho cùng, chỉ là con người, địa vị và sự sống của Đức Chúa Trời, không ai có thể thay thế được. Nhân loại không chỉ cần một xã hội công bằng, trong đó mọi người đều được no đủ, bình đẳng và tự do; điều nhân loại cần là sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và sự cung ứng sự sống của Ngài cho họ. Chỉ khi con người đạt được sự cung ứng sự sống của Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của Ngài, thì những nhu cầu, ham muốn khám phá, và sự trống rỗng tâm linh của con người mới được giải quyết” (Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã làm lòng tôi cảm động. Tôi nhận ra khoa học và kiến thức mà tôi theo đuổi bấy lâu nay không phải là lẽ thật, chúng vốn dĩ không thể cung ứng cho nhu cầu tâm linh hay giải quyết những hoang mang trong đời của tôi. Càng theo đuổi chúng, lòng tôi càng bị khoa học và kiến thức chiếm hữu, khiến tôi ngày càng xa cách Đức Chúa Trời. Dù người khác thấy tôi có bằng cấp cao và tương lai tươi sáng, nghĩ rằng tôi nên hạnh phúc, nhưng tôi lại không hề hạnh phúc. Ngược lại, tôi còn đầy hoang mang và mơ hồ về tương lai. Để thoát khỏi cảm giác trống rỗng và mông lung này, tôi đã cố gắng lấp đầy cuộc sống bằng việc tập thể dục và đọc sách, nhưng chẳng có gì có thể xoa dịu được sự trống rỗng trong lòng, nên tôi lại tự thuyết phục mình theo đuổi những mục tiêu cao hơn trong cuộc đời, tin rằng có một mục tiêu để phấn đấu thì sẽ thoát khỏi cảm giác này, nhưng ngược lại, tôi lại càng cảm thấy dồn nén hơn. Tôi nhận ra rằng, dù tôi có dốc cả đời vào việc nghiên cứu khoa học, tôi cũng sẽ không hiểu được nhiều về thế giới này, mà càng nghiên cứu, tôi càng gặp nhiều điều chưa biết, càng cảm thấy hoang mang và không hiểu nổi về thế giới. Tôi nhận ra rằng dù tôi có đọc bao nhiêu sách, có được bao nhiêu kiến thức khoa học, dù người khác có thấy tương lai tôi hứa hẹn thế nào đi nữa, thì tất cả cũng đều vô ích, không thể giải quyết được sự trống rỗng trong lòng hay những hoang mang trong cuộc sống của tôi. Tôi cũng hiểu ra tại sao mình luôn không thể thoát khỏi sự giày vò của nỗi trống rỗng; đó là vì tôi chưa tìm thấy Đức Chúa Trời, chưa nhận được sự cung ứng lẽ thật sự sống của Ngài cho con người, và không hiểu được những lẽ mầu nhiệm hay ý nghĩa của cuộc đời. Nhân loại do Đức Chúa Trời tạo ra, và Đức Chúa Trời có thể cung cấp những gì con người cần cho sự sống. Chỉ có Đức Chúa Trời hiểu rõ nhất nhân loại cần gì, và chỉ có lẽ thật do Đức Chúa Trời bày tỏ mới có thể giải quyết được sự trống rỗng trong tâm hồn con người. Để có nhiều thời gian ăn uống lời Đức Chúa Trời hơn, tôi quyết định không dành thời gian và sức lực để theo đuổi việc học cao hơn ở nước ngoài nữa. Tôi thấy việc dạy học ở một trường quốc tế cũng là một lựa chọn tốt, vì có các kỳ nghỉ lễ, nghỉ hè và nghỉ đông đều đặn, lương thậm chí còn cao hơn so với làm việc ở viện nghiên cứu. Dạy học cũng là một công việc ổn định và được tôn trọng, nên tôi đã chuyển nghề và bắt đầu dạy học tại một trường.
Một hôm, tôi đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời, và hiểu thêm phần nào về ý nghĩa và giá trị của việc thực hiện bổn phận. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Là những thành viên của nhân loại và là những Cơ Đốc nhân mộ đạo, trách nhiệm và nghĩa vụ của tất cả chúng ta chính là phải dâng thân tâm mình để hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời, vì toàn bộ con người của chúng ta đều đến từ Đức Chúa Trời và tồn tại nhờ sự tể trị của Đức Chúa Trời. Nếu thân tâm chúng ta không cống hiến cho sự ủy thác của Đức Chúa Trời và sự nghiệp chính nghĩa của nhân loại, thì linh hồn của chúng ta sẽ cảm thấy hổ thẹn trước những người đã tuẫn đạo vì sự ủy thác của Đức Chúa Trời, và càng hổ thẹn hơn trước Đức Chúa Trời, Đấng đã cung cấp cho chúng ta mọi thứ” (Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đức Chúa Trời tìm kiếm những người mong mỏi Ngài xuất hiện. Ngài tìm kiếm những người có thể nghe lời của Ngài, những người đã không quên sự ủy nhiệm của Ngài và dâng thân tâm của họ cho Ngài. Ngài tìm kiếm những người thuận phục như đứa trẻ sơ sinh trước mặt Ngài và không chống đối Ngài. Nếu ngươi dâng mình cho Đức Chúa Trời, không bị cản trở bởi bất kỳ thế lực nào, thì Đức Chúa Trời sẽ nhìn ngươi với sự ưu ái và sẽ ban phước lành cho ngươi. Nếu ngươi ở địa vị cao, có tiếng tăm, sở hữu kiến thức phong phú, làm chủ nhiều của cải và được nhiều người ủng hộ, nhưng những điều này không ngăn cản ngươi đến trước mặt Đức Chúa Trời chấp nhận sự kêu gọi của Ngài cùng sự ủy nhiệm của Ngài và làm những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở ngươi, thì mọi thứ ngươi làm sẽ là chính nghĩa ý nghĩa nhất trên đất và là sự nghiệp chính nghĩa nhất của nhân loại” (Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được tâm ý của Ngài. Công tác trong thời kỳ sau rốt này là giai đoạn công tác cuối cùng của Đức Chúa Trời trong việc cứu rỗi nhân loại. Đức Chúa Trời hy vọng rằng sẽ có thêm nhiều người tiếp nhận sự ủy thác của Ngài, để họ đưa những người đang sống trong trống rỗng và đau khổ đến trước mặt Ngài để nhận sự cứu rỗi, và thoát khỏi sự dày vò và bại hoại của Sa-tan. Đây là sự nghiệp chính nghĩa nhất của nhân loại, và là trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng ta với tư cách là Cơ Đốc nhân. Bất kể địa vị, danh vọng, kiến thức hay tài sản của một người lớn đến đâu, nếu người đó có thể buông bỏ những điều này để chấp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo, thì đó là điều được Đức Chúa Trời khen ngợi. Tôi nghĩ về việc trước khi tin Đức Chúa Trời, tôi đã sống trong trống rỗng và đau khổ, không biết phải đi con đường nào trong tương lai, và cảm thấy đau đớn, bất lực biết bao khi đối mặt với khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Chính sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đã giải thoát tôi khỏi cuộc sống trống rỗng và mông lung đó, giúp tôi có được chỗ nương tựa và phương hướng. Đức Chúa Trời đã cho phép tôi nghe được tiếng Ngài trước, nên tôi phải rao truyền phúc âm của Đức Chúa Trời cho những người, giống như tôi, đang sống trong trống rỗng và đau khổ, để họ cũng có thể nghe được tiếng Đức Chúa Trời, hiểu được lẽ thật, và sống trong bình an và vui mừng. Với những suy nghĩ đó, tôi muốn có nhiều thời gian hơn để thực hiện bổn phận. Nhưng lịch trình hàng ngày của tôi ở trường đã kín mít, và đôi khi tôi thậm chí không có thời gian để đọc thêm lời Đức Chúa Trời. Thấy các anh chị em đang tích cực thực hiện bổn phận, tôi cảm thấy rất sốt ruột, và muốn từ bỏ công việc đang chiếm quá nhiều thời gian và sức lực của mình. Nhưng tôi lại không nỡ buông bỏ. Tôi đã dành gần hai mươi năm học hành chăm chỉ chỉ để có được bằng cấp tốt và một công việc tốt, và lúc này, tôi chưa làm việc được bao lâu, cũng chưa chăm sóc, phụng dưỡng được cho bố mẹ, vậy làm sao tôi có thể cứ thế mà buông bỏ tất cả? Tôi cảm thấy rất mâu thuẫn và không biết nên lựa chọn thế nào.
Một hôm, tôi nghe được một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời và trong lòng thấy vô cùng xúc động.
Ngươi phải đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời trên tất cả những điều khác
1 Nếu ngươi ao ước tin vào Đức Chúa Trời, và nếu ngươi muốn đạt được Đức Chúa Trời và đạt được sự hài lòng của Ngài, vậy thì trừ khi ngươi chịu được một mức độ đau khổ nhất định và bỏ ra một lượng nỗ lực nhất định, nếu không thì ngươi sẽ không thể đạt được những điều này. Các ngươi đã nghe nhiều bài giảng, nhưng chỉ nghe thôi thì không có nghĩa là bài giảng này là của ngươi; ngươi phải tiếp thu nó và biến nó thành điều thuộc về ngươi. Ngươi phải đồng hóa nó vào đời sống của mình và đưa nó vào sự tồn tại của mình, cho phép những lời lẽ và sự giáo huấn này dẫn đường cho ngươi sống, mang giá trị và ý nghĩa của sự tồn tại vào đời sống của ngươi. Khi điều đó xảy ra, việc ngươi nghe những lời này sẽ là xứng đáng.
2 Nếu những lời Ta phán không mang lại bất kỳ sự tiến bộ nào trong đời sống của ngươi hay thêm bất kỳ giá trị nào vào sự tồn tại của ngươi, vậy thì việc các ngươi lắng nghe chúng chẳng nghĩa lý gì. Ngươi phải xem việc tin Đức Chúa Trời là chuyện ý nghĩa nhất trong đời, quan trọng hơn cả cái ăn cái mặc hay bất kỳ thứ gì khác – như vậy thì ngươi sẽ có thu hoạch. Nếu ngươi chỉ tin khi mình có thời gian, và không có khả năng dành toàn bộ sự chú ý cho đức tin của mình, và nếu ngươi luôn qua loa trong đức tin, vậy thì ngươi sẽ không đạt được gì cả.
– Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất X, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời nhiều lần, tôi hiểu ra rằng, khi tin Đức Chúa Trời mà muốn đạt được lẽ thật và một cuộc đời đích thực thì không phải chỉ đọc lời Ngài và hiểu một vài đạo lý là đủ. Để đạt được những điều này, cần phải thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời trong cuộc sống thực tế, và để lời Đức Chúa Trời thay đổi sự mưu cầu trong đời của mình. Nếu chỉ nói miệng tin Đức Chúa Trời mà không thực hành và trải nghiệm lẽ thật trong mọi phương diện, và vẫn xem việc theo đuổi tiền đồ thế gian là mục tiêu cuộc đời, thì sống như vậy sẽ không bao giờ đạt được lẽ thật. Đức Chúa Trời đã bày tỏ rất nhiều lẽ thật trong thời kỳ sau rốt, vậy mà tôi vẫn chưa đọc hết nhiều lời của Ngài, thậm chí còn chưa hiểu hết câu chữ và đạo lý. Thế nhưng, tôi lại tin Đức Chúa Trời một cách hời hợt như vậy, mỗi ngày dành rất nhiều thời gian cho công việc không mang lại lợi ích gì cho sự sống của mình, và không có thêm thời gian để ăn uống lời Đức Chúa Trời và hiểu lẽ thật. Nếu cứ tiếp tục tin Đức Chúa Trời một cách hời hợt như vậy, thì đến cuối cùng, tôi sẽ không bao giờ hiểu được lẽ thật, chứ đừng nói đến việc thực sự thể nghiệm và nhận biết lẽ thật. Sau khi hiểu được những điều này, lòng tôi đã sáng tỏ. Tôi không thể tiếp tục tin Đức Chúa Trời một cách hời hợt như vậy, nếu không sẽ tự hủy hoại cơ hội được cứu rỗi của mình. Tôi không ngừng cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong lòng, hy vọng Ngài sẽ dẫn dắt tôi đưa ra lựa chọn đúng đắn.
Tôi cứ tự hỏi tại sao, dù đã biết rằng tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật là con đường đúng đắn trong cuộc đời, nhưng tôi vẫn cảm thấy rất khó khăn khi phải từ bỏ công việc để thực hiện bổn phận. Tôi thực sự lo lắng về điều gì? Tôi nhận ra một lý do là tôi khó lòng gạt bỏ suy nghĩ về bố mẹ. Tôi lo rằng nếu không đi làm kiếm tiền, tôi sẽ không thể báo hiếu bố mẹ đàng hoàng, và sẽ phụ công sức và kỳ vọng của bố mẹ sau bao nhiêu năm. Tôi tìm kiếm xem lời Đức Chúa Trời nói gì về phương diện này. Tôi nhớ lại hai đoạn lời Đức Chúa Trời và tìm ra để đọc. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ngay từ khoảnh khắc cất tiếng khóc chào đời trên thế gian này, ngươi bắt đầu thực hiện chức trách của mình. Vì kế hoạch của Đức Chúa Trời và sự tiền định của Ngài, mà ngươi thực hiện vai trò của mình và bắt đầu hành trình cuộc đời. Bất kể lai lịch của ngươi như thế nào, bất kể hành trình phía trước của ngươi như thế nào, tóm lại, không một ai có thể thoát khỏi những sự sắp đặt và an bài của Trời, không một ai kiểm soát được vận mệnh của chính mình, vì chỉ có Đấng tể trị vạn vật mới có thể làm công tác như vậy” (Đức Chúa Trời là nguồn sự sống của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đức Chúa Trời đã tạo ra thế gian này và mang con người, một sinh vật sống mà được Ngài ban cho sự sống, vào trong đó. Tiếp đến, con người bắt đầu có cha mẹ và họ hàng, và không còn đơn độc. Kể từ giây phút đầu tiên nhìn thấy thế giới vật chất này, con người đã được định sẵn để tồn tại trong sự tiền định của Đức Chúa Trời. Chính hơi thở sự sống từ Đức Chúa Trời hỗ trợ mỗi một thể sống trong suốt quá trình lớn lên đến tuổi trưởng thành. Trong quá trình này, không ai cảm thấy rằng con người tồn tại và lớn lên dưới sự chăm sóc của Đức Chúa Trời, thay vào đó, họ tin rằng con người đang lớn lên dưới ơn dưỡng dục của cha mẹ, và chính bản năng sống của mỗi người điều khiển sự trưởng thành của họ. Điều này là bởi vì con người không biết ai ban sự sống cho mình, hoặc nó đã đến từ đâu, càng không biết cách thức mà bản năng sống tạo ra những phép mầu. Họ chỉ biết rằng thức ăn là nền tảng để sự sống của họ được tiếp tục, rằng nghị lực là nguồn gốc cho sự sống họ tồn tại, và rằng những niềm tin trong tâm trí của họ chính là nguồn vốn mà sự tồn tại của họ phụ thuộc vào. Con người hoàn toàn không nhận biết gì về ân điển và sự chu cấp của Đức Chúa Trời, cứ như vậy họ lãng phí sự sống mà Đức Chúa Trời đã ban cho mình… Không một người nào được Đức Chúa Trời chăm sóc ngày đêm này biết chủ động thờ phượng Ngài. Đức Chúa Trời chỉ tiếp tục làm việc trên con người mà không đặt bất cứ kỳ vọng nào, như Ngài đã lên kế hoạch. Ngài làm vậy với hy vọng một ngày nào đó, con người sẽ thức tỉnh khỏi giấc mơ của mình và chợt hiểu giá trị và ý nghĩa sự sống, hiểu cái giá mà Đức Chúa Trời đã trả cho tất cả những điều mà Ngài đã ban cho con người, hiểu tâm lý khẩn thiết của Đức Chúa Trời khi cực khổ chờ đợi con người quay về với Ngài” (Đức Chúa Trời là nguồn sự sống của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, lòng tôi trở nên sáng tỏ và vô cùng cảm động. Con người đến từ Đức Chúa Trời, và hơi thở sự sống của chúng ta là do Đức Chúa Trời ban cho. Chúng ta không nợ bố mẹ bất cứ điều gì. Việc bố mẹ nuôi nấng và cho tôi ăn học là sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Bố mẹ chỉ đang thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của họ. Tôi có trình độ học vấn thế nào cũng là do Đức Chúa Trời tiền định, chứ không phải do bố mẹ quyết định. Tôi phải lĩnh hội tình yêu và sự hy sinh của bố mẹ từ Đức Chúa Trời. Nhìn lại, không có giai đoạn nào trong cuộc đời tôi nằm trong tầm kiểm soát của tôi. Ví dụ, trong số những đứa trẻ cùng tuổi ở làng tôi, chỉ có tôi bỏ lỡ nhiều buổi học vì vài tai nạn, nhưng việc học của tôi vẫn tiến triển thuận lợi. Ngoài ra, tôi đã gặp vài tai nạn nghiêm trọng khi còn nhỏ, nhưng lần nào cũng tai qua nạn khỏi. Tôi có được ngày hôm nay là nhờ sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời, và lòng biết ơn lớn nhất của tôi nên dành cho Đức Chúa Trời. Thêm vào đó, mỗi chúng ta đều có sứ mạng riêng. Tôi có bổn phận và trách nhiệm phải hoàn thành, và một con đường trong đời mà Đức Chúa Trời đã vạch ra cho tôi, và tôi không nên sống chỉ vì những kỳ vọng của bố mẹ. Bố mẹ tôi có số phận riêng của họ, và không phải cứ làm việc chăm chỉ và kiếm tiền là tôi có thể thay đổi số phận của họ. Nếu Đức Chúa Trời không tiền định cho họ những điều kiện sống thuận lợi, thì dù tôi có cố gắng thế nào, họ cũng sẽ không được hưởng lợi. Tôi không nên cứ cố gắng tạo ra một cuộc sống hạnh phúc cho bố mẹ bằng chính đôi tay của mình. Bây giờ tôi đã tìm thấy con đường đúng đắn trong đời, và đã nhận được sự cung ứng sự sống từ lời Đức Chúa Trời, tôi nên thực hành theo lời Đức Chúa Trời, trông cậy vào Đức Chúa Trời, phó thác mọi sự, kể cả bố mẹ, cho Ngài, và siêng năng mưu cầu lẽ thật.
Mặc dù tôi định từ bỏ công việc và dâng mình hoàn toàn cho Đức Chúa Trời, nhưng khi nghĩ đến việc từ bỏ tương lai mà tôi đã theo đuổi hơn hai mươi năm, lòng tôi vẫn cảm thấy có chút luyến tiếc. Trong khi tìm kiếm và suy ngẫm, tôi nhận ra rằng sự thiếu quyết tâm của mình là do tôi chưa nhìn thấu danh lợi, vì tôi vẫn muốn nổi bật và theo đuổi một cuộc sống hơn người, và cũng vì tôi không hiểu được ý nghĩa của việc mưu cầu lẽ thật. Vì vậy, tôi đã có ý thức tìm kiếm lẽ thật trong phương diện này. Tôi đọc lời Đức Chúa Trời: “Ngươi nhìn xem giữa những người ngoại đạo, có nhiều ca sĩ, diễn viên nổi tiếng khi chưa thành danh thì giỏi chịu khổ, kính nghiệp. Nhưng khi thành danh, kiếm được nhiều tiền và phát tài thì họ không đi theo con đường đúng đắn nữa. Một số dùng ma túy, một số tự sát và đều trở thành những kẻ đoản mệnh. Nguyên nhân là gì? Đó là do họ hưởng thụ vật chất quá mức, quá thoải mái, không biết làm thế nào để được hưởng thụ, để được kích thích. Có người bắt đầu dùng ma túy, tìm kiếm sự kích thích và lạc thú lớn hơn, lâu dần họ không thể thiếu được nó. Có người sử dụng ma túy quá liều mà chết, có người không biết cách nào để giải thoát, cuối cùng trực tiếp tự sát. Có quá nhiều ví dụ như vậy. Dù ngươi ăn ngon mặc đẹp, nhà cao cửa rộng ra sao, hưởng thụ thế nào, cuộc sống thoải mái đến đâu, dục vọng của ngươi được thỏa mãn đầy đủ đến đâu, cuối cùng chỉ là sự trống rỗng chồng chất, kết quả chính là sự diệt vong. Liệu rằng hạnh phúc mà người ngoại đạo mưu cầu có phải là hạnh phúc thực sự không? Thật ra, đó không phải là hạnh phúc mà chỉ là tưởng tượng của con người, là một phương thức sa đọa, một con đường làm người ta sa đọa. Thứ gọi là hạnh phúc mà con người mưu cầu thực tế lại là sự khổ đau. Đó không phải là mục tiêu mà người ta nên mưu cầu, cũng không phải là giá trị của cuộc sống con người. Một số phương thức, thủ đoạn của Sa-tan để làm bại hoại con người chính là khiến họ lấy sự thỏa mãn về xác thịt, buông thả về tình dục làm mục tiêu. Dùng cách này làm tê liệt, dụ dỗ, làm bại hoại con người, khiến họ cảm thấy đó là hạnh phúc và mưu cầu mục tiêu đó. Con người cứ thế tin rằng đạt được những thứ đó là đạt được hạnh phúc, vì vậy họ cố gắng hết sức để mưu cầu những mục tiêu đó. Kết quả là sau khi đạt được, họ không hề thấy hạnh phúc mà lại thấy trống rỗng và đau đớn. Điều này chứng tỏ rằng đó không phải là con đường đúng đắn mà là con đường dẫn đến cái chết” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Con người dốc hết nghị lực cả đời chiến đấu chống lại số phận, bận rộn cả đời để nuôi gia đình mình và chạy qua chạy lại vì công danh lợi lộc. Những điều mà con người yêu quý là tình thân, tiền bạc và danh lợi, và họ xem đây là những điều quý giá nhất trong đời. Tất cả mọi người đều phàn nàn về số phận hẩm hiu của họ, nhưng họ lại gạt ra qua một góc những vấn đề nên hiểu và tìm kiếm nhất: tại sao con người sống, con người phải sống như thế nào, giá trị và ý nghĩa của việc sống là gì. Họ dành cả cuộc đời mình, bất kể bao nhiêu năm, chỉ để bôn ba mưu cầu danh lợi, cho đến khi thanh xuân đã qua đi, cho đến khi da nhăn tóc bạc. Họ sống theo cách này cho đến khi ý thức được danh lợi không thể ngăn nổi tuổi già dần đến, tiền bạc không thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm linh, cho đến khi hiểu ra rằng không ai có thể thoát khỏi quy luật sinh, lão, bệnh, tử, không ai có thể thoát khỏi sự an bài của số phận. … Mặc dù đủ loại kỹ năng sinh tồn mà con người dành cả đời để nắm vững làm cho con người có thể được dư dật về hưởng thụ vật chất, nhưng chúng không bao giờ mang lại sự an ủi và vững vàng đích thực cho tâm linh của họ, ngược lại, chúng khiến con người liên tục mất phương hướng, khó kiểm soát bản thân, và bỏ lỡ cơ hội này đến cơ hội khác để hiểu về ý nghĩa của cuộc sống; chúng cũng khiến cho con người âm thầm lo lắng về cách để đối diện với cái chết cho đúng đắn. Một đời của con người bị hủy hoại như vậy đấy. Đấng Tạo Hóa đối xử công bằng với mọi người, ban cho mọi người cơ hội cả đời để thể nghiệm sự tể trị của Ngài, thế nhưng, chỉ khi cái chết đến gần, khi bóng ma của nó lờ mờ xuất hiện, thì con người mới bắt đầu tỉnh ngộ – và khi đó thì đã quá muộn!” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng, dù đời sống vật chất của một người có tốt đến đâu hay đạt được bao nhiêu danh lợi, thì đó cũng không phải là hạnh phúc thật sự. Việc mưu cầu danh lợi là một phương tiện mà Sa-tan dùng để mê hoặc con người xa rời Đức Chúa Trời. Dù tôi có dành cả đời để theo đuổi tiền bạc, danh và lợi, thì những thứ đó cũng không thể giải thoát tôi khỏi sự trống rỗng và đau khổ trong tâm hồn, mà ngược lại, chúng sẽ khiến tôi bỏ lỡ cơ hội đạt được lẽ thật và hủy hoại cuộc đời mình. Tôi không nỡ bỏ việc vì muốn dùng nó để đạt được mức thu nhập hậu hĩnh, để có một cuộc sống hơn người và hạnh phúc, và để người khác không còn coi thường gia đình tôi nữa. Nhưng sau khi có được những thứ đó, tôi có thực sự hạnh phúc không? Tôi đã dành gần hai mươi năm để theo đuổi bằng cấp cao nhằm có được sự tôn trọng của người khác, và giờ đây tôi đã có được sự ngưỡng mộ của mọi người cùng những lời tâng bốc và khen ngợi từ bạn bè và người thân, nhưng lòng tôi không hề cảm thấy bình an hay yên ổn, và sâu thẳm trong lòng, cảm giác trống rỗng và mông lung vẫn thường xuyên bao trùm và gặm nhấm tôi. Hơn nữa, sự theo đuổi này đặt tôi dưới áp lực rất lớn. Tôi luôn bị cuốn vào sự so sánh và cạnh tranh với người khác, đến nỗi sau khi tốt nghiệp, tôi lo rằng nếu không học cao hơn, tôi sẽ bị tụt hậu và bị coi thường. Dù tôi không hề thích công việc nghiên cứu khoa học, nhưng vì muốn được người khác coi trọng, tôi vẫn ép mình đi du học, tiếp tục nghiên cứu, thậm chí dành cả đời để phấn đấu vì điều này. Tôi nhận ra rằng việc mưu cầu danh lợi giống như một cái hố không đáy. Nó không bao giờ có thể được thỏa mãn, và nó mang lại cảm giác bị đè nén và bất an cho tâm hồn, hoàn toàn không mang lại hạnh phúc. Giống như nhiều người nổi tiếng và nhà văn – họ có danh vọng, giàu sang và sung túc về vật chất, nhưng cuối cùng, họ vẫn cảm thấy cuộc sống trống rỗng và không biết phải theo đuổi điều gì. Một số thậm chí còn tìm đến ma túy, trong khi những người khác bị trầm cảm và tự tử. Điều này chứng tỏ rằng danh lợi, tiền bạc và sự sung túc về vật chất không thể mang lại một cuộc sống hạnh phúc thật sự. Đức Chúa Trời đã cho tôi cơ hội để mưu cầu lẽ thật và biết Đấng Tạo Hóa, và nếu tôi tiếp tục dành phần lớn thời gian mỗi ngày cho công việc và việc mưu cầu danh lợi, không bỏ thêm thời gian để suy ngẫm lời Đức Chúa Trời và mưu cầu việc hiểu rõ lẽ thật, thì sự mưu cầu của tôi sẽ không khác gì con đường của người thế gian, và cuối cùng, tôi sẽ trở thành nô lệ của tiền bạc, danh lợi, và tôi sẽ sống một cuộc đời không thể thoát khỏi sự trống rỗng và nỗi sợ hãi cái chết trong lòng. Chẳng phải là đã sống hoài sống phí một kiếp hay sao? Bây giờ tôi đã may mắn được tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, và tôi đã hiểu được cuộc đời là gì, thế giới này là gì, giá trị và ý nghĩa của cuộc đời là gì. Chỉ bằng cách dành nhiều thời gian hơn để thực hiện bổn phận, mưu cầu để đạt được lẽ thật và biết sự tể trị của Đức Chúa Trời, cuộc sống của tôi mới có thể thực sự có giá trị và ý nghĩa. Sau khi hiểu được những điều này, tôi đã có một sự hiểu biết rõ ràng hơn về con đường tôi nên chọn trong cuộc đời, và tôi quyết tâm từ bỏ công việc đang chiếm quá nhiều thời gian của mình.
Sau đó, tôi đọc thêm hai đoạn lời của Đức Chúa Trời, điều này càng tiếp thêm động lực cho tôi. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Khi các ngươi nghe xong bài thánh ca ‘Đấng nắm giữ quyền tối thượng trên vạn vật’, trong lòng nên suy ngẫm về điều gì? Nếu con người hiểu được vì sao lại sinh ra, vì sao lại chết đi, biết rằng Đấng tể trị vạn vật của thế giới này, cũng chính là Đấng quản lý mọi sự rốt cuộc là ai, rốt cuộc ở đâu, Ngài có yêu cầu gì với con người. Hiểu được tất cả những chuyện này, con người sẽ biết nên đối xử với Chúa của tạo vật ra sao, biết nên thờ phượng, thuận phục Chúa của tạo vật, trong lòng sẽ có chỗ dựa, thế là sẽ bình an, hạnh phúc, không cần phải sống trong giày vò, đau khổ như thế này nữa. Xét cho cùng, con người phải hiểu lẽ thật. Chọn một con đường để sống là rất quan trọng, con người sống ra sao cũng rất quan trọng. Con người sống ra sao, đi con đường nào sẽ quyết định cuộc đời của con người hạnh phúc hay đau khổ. Đây là điều mà con người nên hiểu rõ. … Dù trên thế giới này, con người có bận rộn, sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc, gia tộc to lớn, địa vị hiển hách đến đâu thì liệu họ có thể bước lên con đường đúng đắn của cuộc sống không? Liệu con người có thể thông qua việc theo đuổi danh lợi, chạy theo thế giới và sự nghiệp mà nhìn thấy sự thật về Đức Chúa Trời sáng tạo vạn vật, Đức Chúa Trời tể trị vận mệnh loài người không? Chuyện đó là không thể. Cho dù con người theo đuổi điều gì, đi con đường như thế nào, nếu kẻ đó không công nhận rằng Đức Chúa Trời là Đấng tể trị số phận loài người thì hắn đang đi vào con đường sai lầm, không phải là con đường đúng đắn, mà là con đường sai lạc và tà đạo. Cho dù chỗ dựa tinh thần của ngươi có làm cho ngươi thỏa mãn hay không, cho dù chỗ dựa tinh thần của ngươi là ở đâu thì cũng đều không phải là niềm tin thật sự, không phải là con đường nhân sinh đúng đắn. Thế niềm tin thật sự là gì? Đó là việc tiếp nhận sự xuất hiện, công tác của Đức Chúa Trời, tiếp nhận mọi lẽ thật mà Ngài đã bày tỏ. Những lẽ thật này chính là con đường nhân sinh đúng đắn của cuộc sống, là những lẽ thật và sự sống mà con người nên mưu cầu. Đi theo con đường nhân sinh đúng đắn tức là đi theo Đức Chúa Trời, hiểu được lẽ thật dưới sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời, biết phân biệt thiện ác, biết thế nào là sự vật tích cực, thế nào là sự vật tiêu cực, biết được sự tể trị của Đức Chúa Trời, sự toàn năng của Đức Chúa Trời. Khi lòng người thật sự hiểu rõ rằng Đức Chúa Trời không chỉ tạo ra trời đất và vạn vật, mà càng là Đấng tể trị của vũ trụ, thì con người có thể thuận phục mọi sắp xếp và an bài của Ngài, sống theo lời Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Như vậy sẽ bước lên con đường nhân sinh đúng đắn. Khi con người bước lên con đường nhân sinh đúng đắn của cuộc sống, sẽ hiểu rõ tại sao lại sống, nên sống thế nào mới là sống trong ánh sáng, mới nhận được sự khen ngợi, chúc phúc của Đức Chúa Trời” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Kinh Thánh có chép về Gióp: ‘Rồi Gióp qua đời tuổi cao tác lớn’ (Gióp 42:17). Điều này có nghĩa là khi Gióp qua đời, ông đã không hối tiếc và không cảm thấy đau đớn, mà rời khỏi thế giới này một cách tự nhiên. … Bất kể những gì Gióp đã trải qua, những sự theo đuổi và mục tiêu của ông trong đời không đau đớn mà là hạnh phúc. Ông hạnh phúc không chỉ bởi những phước lành hay lời khen ngợi do Đấng Tạo Hóa ban cho, mà quan trọng hơn thế, bởi những sự theo đuổi và mục tiêu cuộc đời của ông, cũng bởi ông dần nhận thức và thực sự lĩnh hội sự tể trị của Đấng Tạo Hóa thông qua việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, càng bởi sự đích thân thể nghiệm những việc làm kỳ diệu của Đấng Tạo Hóa khi trải nghiệm sự tể trị của Ngài, cùng những thể nghiệm và ký ức ấm lòng mà khắc cốt ghi tâm khi cùng Đức Chúa Trời sống với nhau, quen nhau và hiểu nhau. Gióp vui sướng bởi vì sự an ủi và niềm vui đến từ việc biết được tâm ý của Đấng Tạo Hóa, và bởi lòng kính sợ nảy sinh sau khi thấy rằng Ngài vĩ đại, tuyệt diệu, đáng mến và thành tín. Gióp có thể đối mặt với cái chết mà không hề đau khổ vì ông biết rằng, khi chết, ông sẽ trở về bên cạnh Đấng Tạo Hóa. Chính những sự theo đuổi và gặt hái được của ông trong cuộc đời đã cho phép ông bình thản đối mặt cái chết, cho phép ông bình thản đối mặt với viễn cảnh Đấng Tạo Hóa lấy lại mạng sống mình, và hơn thế nữa, cho phép ông không vướng bận và tinh sạch đối diện Đấng Tạo Hóa” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng con người chỉ có một cơ hội trong đời, và việc lựa chọn con đường đời là vô cùng quan trọng, vì nó quyết định cuộc đời của một người có hạnh phúc và giá trị hay không. Nếu một người dành phần lớn cuộc đời để theo đuổi danh lợi thế gian, hoặc tập trung vào gia đình và những ham muốn xác thịt, thì họ không thể đi trên con đường đúng đắn, cũng không thể biết Đấng Tạo Hóa, và chắc chắn sẽ không hiểu tại sao mình sống. Sống cả đời theo cách này cũng chỉ là trống rỗng và đau khổ. Chỉ bằng cách đi theo Đức Chúa Trời, dùng thời gian của mình để thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo, mưu cầu lẽ thật và biết Đức Chúa Trời, cuộc sống của người ta mới thực sự có giá trị. Giống như Gióp, ông đã có thể nghiệm thật sự và thực tế về sự tể trị và an bài của Đấng Tạo Hóa, chính nhờ trải nghiệm và hiểu biết chân thật về sự tể trị của Đấng Tạo Hóa, mà ông đã có thể thuận phục thẩm quyền của Ngài, thoát khỏi nỗi sợ hãi cái chết và cuối cùng, “qua đời tuổi cao tác lớn”. (Gióp 42:17). Qua sự mưu cầu của mình, Gióp đã đạt được một cuộc đời thực sự hạnh phúc và ý nghĩa. Mưu cầu theo con đường này mới có thể giải quyết được sự trống rỗng trong cuộc đời và nỗi sợ hãi cái chết. Tôi phải noi gương Gióp và mưu cầu để sống thể hiện ra một cuộc đời ý nghĩa. Sau khi hiểu được điều này, tôi đã nghỉ việc.
Sau khi nghỉ việc, tôi cảm thấy được giải thoát vô cùng. Tôi không còn cần phải dành quá nhiều thời gian cho những kiến thức sách vở vô nghĩa, và không phải đối mặt với những âm mưu và lừa dối nơi công sở. Tôi cũng có nhiều thời gian hơn để nhóm họp với các anh chị em, ăn uống lời Đức Chúa Trời, và thực hiện bổn phận, nhờ đó tôi đã có một số tiến bộ trong lối vào sự sống của mình. Trong môi trường do Đức Chúa Trời an bài, tôi đã trải qua những thất bại và vấp ngã, cũng như bị tỉa sửa. Điều này giúp tôi nhận ra tâm tính bại hoại kiêu ngạo và tự cho mình là đúng của bản thân. Tôi cũng hiểu rằng, với tư cách là một loài thọ tạo, tôi nên đứng đúng vị trí của mình, học cách làm một người có lý trí, có thể làm tốt bổn phận của một loài thọ tạo một cách thực tế. Tôi có thể từ bỏ công việc, đi theo Đức Chúa Trời và theo đuổi một cuộc đời có giá trị và ý nghĩa, tất cả là nhờ sự dẫn dắt và chỉ lối của lời Đức Chúa Trời. Tôi thực sự vô cùng biết ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?
Bởi Lộ Dạng, Trung Quốc Trong trí nhớ của em, bố mẹ em chưa bao giờ hòa thuận. Chuyện cãi nhau xảy ra như cơm bữa, có những lúc bố em còn...
Bởi Kelsey, Thái LanTừ nhỏ tôi đã luôn đạt điểm tốt ở trường và thường tham gia các cuộc thi văn nghệ. Có thể nói rằng con đường học vấn...
Bởi Bạch Lộ, Trung QuốcTôi sinh ra trong một gia đình làm nông, cả nhà sống bằng nghề trồng trọt. Từ khi tôi còn nhỏ, cha và ông ngoại đã...
Từ nhỏ, tôi luôn được điểm cao và thường đạt điểm cao nhất lớp trong các kỳ thi. Mỗi lần công bố điểm thi, tên và ảnh của tôi luôn...