Thành quả của việc Chia sẻ Phúc âm
Một thời gian trước, tôi đã gặp một nữ Cơ Đốc nhân người Philippines trên mạng tên là Teresa. Tìm hiểu về chị ấy, tôi thấy chị có đức tin chân thật vào Chúa. Chị ấy nói mình không đạt được gì từ các buổi đi lễ nhà thờ, và thấy ngày càng có nhiều tín đồ chạy theo xu hướng thế tục. Chị cảm thấy hội thánh của mình thật hoang tàn và muốn tìm một hội thánh có công tác của Đức Thánh Linh. Chị cũng nói mình muốn đọc thêm nhiều lời Đức Chúa Trời, biết Ngài và sống một cuộc đời mới. Thấy được sự khao khát thuộc linh của chị ấy, tôi rất muốn chia sẻ phúc âm với chị để chị có thể nghe được tiếng Đức Chúa Trời và bước vào nhà của Ngài. Có lần tôi đã hỏi chị rằng chị muốn gì ở đức tin của mình. Chị nói: “Tôi muốn đến vương quốc của Đức Chúa Trời và ở bên Ngài mãi mãi, nhưng tôi là một tội nhân và không đáng được vào vương quốc của Ngài”. Tôi bảo chị ấy rằng chúng ta phải hiểu tiêu chuẩn để được vào vương quốc của Đức Chúa Trời nếu muốn vào đó, và tôi đã hỏi liệu chị ấy có muốn tìm hiểu thêm không? Chị ấy đã rất phấn khích nói: “Có chứ!” Tôi thấy chị là một tín hữu đích thực muốn tìm kiếm, nên tôi đã háo hức chia sẻ lời chứng về công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Nhưng lúc đó đã đến giờ chị ấy phải đi làm, nên chúng tôi phải kết thúc cuộc trò chuyện của ngày hôm đó.
Chị ấy rất bận rộn với công việc, phải làm từ sáng sớm đến tối khuya, và sau khi hết giờ làm là mệt lử và cần phải nghĩ ngơi. Chị ấy đã dành chút thời gian nghỉ ít ỏi mình có mỗi tuần để đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi không có nhiều cơ hội để nói chuyện. Mỗi lần tôi liên lạc với chị là gần như chị ấy đều đang ở chỗ làm, nên chúng tôi thực sự không có thời gian để nói chuyện. Sau một thời gian, tôi bắt đầu cảm thấy chán nản. Tôi nghĩ rằng chúng tôi phải nói chuyện trực tuyến vì không ở cùng một nước, nên nếu chị ấy không có thời gian lên mạng, thì làm sao tôi có thể chia sẻ công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt với chị ấy được chứ? Tôi bắt đầu nghĩ rằng mình đã bó tay rồi, và nên quên chuyện ấy đi thôi. Có lẽ sẽ có ai đó chia sẻ phúc âm với chị ấy. Đúng lúc tôi định từ bỏ, thì nhớ ra Đức Chúa Trời đã phán điều này. “Ngươi có ý thức được trọng trách mình mang trên vai, có ý thức được việc mình được ủy nhiệm và trách nhiệm của ngươi không? Ý thức về sứ mạng lịch sử của ngươi đâu rồi? Ngươi sẽ là chủ nhân trong thời đại kế tiếp một cách tương xứng như thế nào? Ngươi có ý thức rõ về vai trò làm chủ không? Ngươi giải thích thế nào về chủ nhân của vạn vật? Có thật đấy là chủ nhân của mọi sinh vật sống và của mọi thứ vật chất trên đời này không? Ngươi có kế hoạch gì cho sự tiến triển trong giai đoạn tiếp theo của công tác? Bao nhiêu người đang chờ đợi ngươi làm người chăn dắt của họ? Nhiệm vụ của ngươi có nặng nề không? Họ là những người tội nghiệp, đáng thương, mù quáng, và hoang mang, đang kêu gào trong bóng tối rằng: ‘Con đường ở đâu?’ Họ mới trông ngóng ánh sáng làm sao, ánh sáng mà bất thần lao xuống như một ngôi sao băng và xua tan các thế lực của bóng tối đã chế ngự con người biết bao năm. Ai có thể biết hết mức độ mà họ khắc khoải hy vọng đến thế nào, họ ngày đêm mong ngóng điều này đến thế nào? Thậm chí vào ngày sự sáng lóe qua, những người chịu đau khổ ghê gớm này vẫn bị cầm tù trong ngục tối, chẳng có hy vọng được phóng thích; khi nào họ mới hết khóc than? Thật bất hạnh ghê gớm cho những linh hồn yếu đuối chưa từng được ban cho sự nghỉ ngơi này, và từ lâu họ đã bị giam chặt trong tình trạng này bởi những gông cùm tàn nhẫn và lịch sử bất động. Ai đã nghe tiếng kêu gào của họ? Ai đã chứng kiến tình trạng thảm thương của họ? Ngươi có bao giờ thoáng nghĩ lòng Đức Chúa Trời lo lắng và đau buồn đến thế nào không? Làm sao Ngài có thể chịu nổi khi thấy nhân loại vô tội do chính tay Ngài tạo dựng lại phải chịu sự dằn vặt như vậy? Xét cho cùng, loài người là những nạn nhân đã bị đầu độc. Và mặc dù con người đã sống sót đến ngày nay, nhưng có ai biết được rằng nhân loại từ lâu nay đã bị kẻ ác đầu độc không? Ngươi đã quên mất rằng ngươi là một trong số những nạn nhân sao? Chẳng lẽ ngươi không sẵn lòng đấu tranh, vì tình yêu của ngươi dành cho Đức Chúa Trời, để cứu rỗi những người sống sót này sao? Chẳng lẽ ngươi không sẵn lòng dốc hết mọi sức lực để đền đáp Đức Chúa Trời, Đấng yêu thương nhân loại như máu thịt của chính Ngài sao?” (Ngươi nên chú tâm đến sứ mạng tương lai của ngươi như thế nào? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Suy ngẫm về lời Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy mình thật tồi tệ. Tôi đã không nỗ lực hết mình để chia sẻ phúc âm với chị ấy, và thậm chí còn không nói với chị ấy rằng Đức Chúa Jêsus đã tái lâm. Chị ấy có đức tin chân thành nơi Chúa và khao khát được hiểu ý muốn của Ngài, nhưng tinh thần chị đang rất u ám, và không được cung dưỡng. Đúng lúc chị ấy rất cần được giúp đỡ, thì tôi lại từ bỏ chị ấy. Vậy thì khi nào chị ấy mới nghe được tiếng Đức Chúa Trời đây? Hiện nay các thảm họa đang ngày càng lớn dần, nếu tôi không làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời ngay lúc này, chị ấy có thể sẽ lỡ mất sự cứu rỗi. Nghĩ vậy, tôi thậm chí còn cảm thấy tệ hơn, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con biết với Ngài không gì là không thể. Nếu chị ấy là một trong những con chiên của Ngài, con muốn cố hết sức để chia sẻ phúc âm. Xin hãy dẫn dắt con”. Sau khi cầu nguyện, tôi đột nhiên nhận ra rằng chị ấy không có nhiều thời gian, nhưng tôi có thể sắp xếp trước thời gian để chúng tôi có thể cùng cầu nguyện. Nên tôi đã hỏi chị về chuyện đó và chị ấy đồng ý ngay lập tức. Chúng tôi đã định thời gian là khoảng 5 giờ sáng gì đó. Lúc đó, tôi thực sự rất bận thực hiện bổn phận của mình, và tối nào tôi cũng làm việc đến tận 2, 3 giờ sáng. Tôi nghĩ nếu mình dậy sớm như thế thì hầu như chẳng được ngủ gì cả. Nhưng tôi đã tự nhủ rằng nếu tôi lo lắng cho sự thoải mái thể chất của mình, thì sẽ làm trì hoãn việc Teresa đến trước Đức Chúa Trời. Tôi biết như vậy là sai. Tôi nhớ Đức Chúa Trời từng phán: “Xác thịt thuộc về Sa-tan. Bên trong nó là những ham muốn ngông cuồng, nó chỉ nghĩ cho bản thân nó, nó muốn tận hưởng sự thoải mái và say sưa trong an nhàn, đắm mình trong sự lười biếng và nhàn rỗi, và khi đã thỏa mãn nó đến một mức nào đó thì cuối cùng ngươi sẽ bị nó nuốt chửng” (Chỉ yêu mến Đức Chúa Trời mới thực sự là tin vào Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi biết rằng thỏa mãn xác thịt tức là thỏa mãn Sa-tan. Tôi đã không đưa ra được chứng ngôn và thực hiện bổn phận, cũng như đánh mất cơ hội làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Tôi đã cầu nguyện, sẵn sàng quay lưng lại với xác thịt và trả giá thêm để chia sẻ phúc âm với chị ấy và đưa chị ấy vào nhà Đức Chúa Trời. Chúng tôi đã bắt đầu họp để cầu nguyện vào sáng sớm, và khi tôi cầu nguyện chân thành cho chị ấy, hy vọng chị ấy sẽ có thêm nhiều thời gian để chúng tôi cùng thông công về lời Đức Chúa Trời, chị ấy đã nói với tôi rất nghiêm túc: “Tôi có thể cảm thấy chị rất chân thành. Cảm ơn chị đã cầu nguyện cho tôi. Tôi thực sự rất xúc động”. Nghe chị ấy nói vậy tôi thấy rất ấm lòng, và nhận ra rằng mọi người thực sự có thể cảm nhận được khi ai đó chân thành. Tôi đã thầm quyết tâm với Đức Chúa Trời rằng chắc chắn mình sẽ đưa Teresa vào nhà Đức Chúa Trời. Vì vậy tôi đã đề nghị với chị rằng chúng tôi nên định rõ chút thời gian để cùng thông công về Kinh Thánh. Chị ấy đã đồng ý và cố dành ra 30 phút mỗi ngày để thông công, và cũng đề cập rằng mình muốn biết cách để được vào vương quốc của Đức Chúa Trời.
Chúng tôi đã nói về điều đó ngay trong buổi thông công ngày hôm sau. Tôi nói: “Mọi tín hữu đều muốn được vào vương quốc, vậy chúng ta cần phải làm gì? Chúng ta phải lắng nghe Chúa. Đức Chúa Jêsus phán: ‘Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi’ (Ma-thi-ơ 7:21). Chúa đã nói rất rõ. Chìa khóa để vào được thiên quốc là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Điều đó nghĩa là gì? Nói đơn giản, việc làm theo ý Đức Chúa Trời là đưa lời Chúa vào thực hành và nghe theo những điều răn của Ngài. Nghĩa là không phạm tội và đưa lời Đức Chúa Trời vào thực hành, yêu thương và tuân phục Đức Chúa Trời từ tận đáy lòng. Những người luôn dối trá, phạm tội và chống đối Đức Chúa Trời, làm trái với các yêu cầu của Ngài, không làm theo ý muốn của Ngài, thì có đáng được vào thiên quốc không?” Chị ấy nói: “Không. Chúng ta liên tục dối trá, phạm tội bằng lời nói, và ngày càng có nhiều người chạy theo các xu hướng thế tục, chạy theo tiền bạc. Chúng ta không thờ phượng Đức Chúa Trời chân thành và thậm chí các mục sư cũng không ngoại lệ. Như vậy làm sao chúng ta có thể vào vương quốc được?” Tôi đáp: “Phải. Chúng ta đã được Đức Chúa Jêsus cứu chuộc và tội lỗi của chúng ta được tha thứ, nhưng chúng ta cứ mãi dối trá và phạm tội. Ban ngày chúng ta phạm tội, ban đêm thì lại thú tội. Kinh Thánh nói: ‘Nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Ðức Chúa Trời’ (Hê-bơ-rơ 12:14). Nếu cứ như vậy, chúng ta không đáng được vào vương quốc. Nhưng chúng ta đều biết Đức Chúa Trời yêu thương con người và Ngài muốn tất cả chúng ta được cứu rỗi cũng như vào vương quốc của Ngài, để sống trong sự sáng của Ngài. Vậy, Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều này cho chúng ta như thế nào? Kinh Thánh nói: ‘Cũng vậy, Ðấng Christ đã dâng mình chỉ một lần đặng cất tội lỗi của nhiều người; Ngài lại sẽ hiện ra lần thứ hai, không liên quan đến tội lỗi, nhưng để ban sự cứu rỗi cho kẻ chờ đợi Ngài’ (Hê-bơ-rơ 9:28). Chúa lại đến vào thời kỳ sau rốt để cứu rỗi chúng ta, và giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi xiềng xích tội lỗi, biến chúng ta thành những người biết vâng phục Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn của Ngài, để chúng ta có thể được cứu rỗi triệt để và vào được vương quốc”. Chị ấy đã rất phấn khích khi nghe điều này, và nói: “Tôi không muốn phạm tội nữa. Vậy Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng ta khỏi tội lỗi như thế nào?” Tôi đã gửi cho chị ấy xem một vài câu Kinh Thánh. Câu đầu tiên là: “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật” (Giăng 17:17). Rồi đến: “Tôi thấy trong tay hữu Ðấng ngồi trên ngôi một quyển sách viết cả trong lẫn ngoài, có đóng bảy cái ấn. Tôi cùng thấy một vị thiên sứ mạnh mẽ cất tiếng lớn kêu rằng: Ai đáng mở quyển sách nầy và tháo những ấy nầy? … Kìa, sư tử của chi phái Giu-đa, tức là Chồi của vua Ða-vít, đã thắng, thì có thể mở quyển sách ấy và tháo bảy cái ấn ra” (Khải Huyền 5:1-5). Tôi nói: “Chúa đã phán rằng Ngài sẽ dùng lẽ thật để thánh hóa con người, và cả Khải huyền cũng như Cuốn Sách của Daniel cũng nói rằng có một cuốn sách được niêm phong sẽ được mở ra vào thời kỳ sau rốt. Cuốn sách này đề cập đến những lời mới được Đức Chúa Trời phán vào thời kỳ sau rốt, và đây là lẽ thật sẽ thánh hóa con người. Chỉ có chính Đức Chúa Trời mới có thể mở ra cuốn sách này và bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi nhân loại. Chúa phán rất nhiều lẽ thật để làm tinh sạch và thay đổi chúng ta khi Ngài đến vào thời kỳ sau rốt, để cứu rỗi chúng ta khỏi tội lỗi. Sách Khái huyền cũng nói rất nhiều lần ‘Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh’ (Khải Huyền chương 2,3). Đức Chúa Trời sẽ phán dạy các hội thánh vào thời kỳ sau rốt. Chúng ta chỉ cần lắng nghe lời Ngài. Chúng ta không thể nghênh tiếp Chúa trừ khi nghe tiếng Ngài, và đây là cơ hội duy nhất của chúng ta để được làm tinh sạch và cứu rỗi, để xứng đáng với vương quốc”.
Lúc đó khi đang thông công, Teresa đã hỏi tôi: “Tại sao Chúa lại cần phải phán những lời mới vào thời kỳ sau rốt? Tôi đã đọc Kinh Thánh cả đời và nó đã cho tôi đức tin cũng như dạy tôi rất nhiều điều, nó dạy tôi biết khoan dung, kiên nhẫn và biết tha thứ. Tôi cảm thấy Kinh Thánh là đã đủ rồi, và các mục sư cũng luôn nói mọi lời của Đức Chúa Trời đều nằm trong Kinh Thánh, những gì không nằm trong Kinh Thánh thì không phải là lời của Ngài”. Tôi có thể thấy Teresa đã có một số quan niệm về việc Chúa phán dạy vào thời kỳ sau rốt, rằng chị ấy đang không chấp nhận điều đó, nên tôi đã không trực tiếp bác bỏ những gì chị ấy đã nói. Tôi đã chia sẻ trải nghiệm của riêng mình với chị ấy. Tôi nói: “Tôi cũng từng nghĩ như chị. Tôi đã cho rằng mọi điều Chúa phán đều nằm trong Kinh Thánh, và ngoài Kinh Thánh ra, Đức Chúa Trời không phán bất kỳ lời mới nào. Nhưng sau đó, tôi đã nghe một người anh em nhắc đến điều Chúa đã phán và nó đã khiến tôi phải nhìn nhận khác đi. Đức Chúa Jêsus phán: ‘Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật’ (Giăng 16:12-13). Đó là điều Chúa đã phán vơi các môn đồ của mình lúc đó. Ngài nói Ngài còn nhiều điều hơn muốn chia sẻ, nhưng lúc đó con người lại thiếu vóc giạc và không thể hiểu được. Ngài cần phải phán nhiều hơn vào thời kỳ sau rốt để dẫn dắt con người hiểu và bước vào lẽ thật, để chúng ta có thể được giải thoát khỏi xiềng xích tội lỗi và cứu rỗi triệt để”. Sau đó tôi đã nhớ đến một ví dụ rất hay và chia sẻ với chị ấy. “Hãy tưởng tượng đến một đứa trẻ. Khi còn nhỏ, mẹ nó dạy nó nói và đi, liệu mẹ nó có bảo nó là phải kiếm nhiều tiền để có thể chăm sóc cho cha mẹ không? Tất nhiên là không. Nó còn quá nhỏ để hiểu điều đó, nên vào độ tuổi đó, cha mẹ nó chỉ nói với nó những điều nó có thể hiểu được. Rồi khi nó lớn và học được thêm nhiều điều, thì họ mới nói với nó nhiều hơn về cuộc sống, như là tìm việc làm và lập gia đình. Cũng giống như vậy Đức Chúa Jêsus thực hiện công tác cứu chuộc vào Thời đại Ân điển dựa trên nhu cầu của con người, bày tỏ cách để ăn năn, dạy cho con người biết khiêm nhường và khoan dung, cầm lấy cây thập giá, tha thứ cho người khác bảy mươi lần bảy. Nhưng còn những thứ khác Chúa không nói cho con người – đó là mọi lẽ thật để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại. Ngài để dành những điều này cho lúc Ngài đến vào thời kỳ sau rốt, và đây là cuốn sách bị niêm phong đã được tiên tri trong Sách Khải huyền. Trải qua 2000 năm, không ai đọc được cuốn sách đó, vì nó chưa được mở cho đến khi Chúa trở lại vào thời kỳ sau rốt. Chị có nghĩ những gì được viết trong cuốn sách đó có thể có trong Kinh Thánh không?” Chị ấy chân thành nói: “Nó không thể có trong Kinh Thánh được”. Tôi đã chia sẻ mối thông công này với chị ấy thêm vài lần nữa cho đến khi chị ấy nói mình đã hiểu.
Nhưng ngày hôm sau khi tôi lại nhắc đến việc Chúa phán dạy vào thời kỳ sau rốt, chị ấy lại nói tất cả những lời của Chúa trong thời kỳ sau rốt lẽ ra nên nằm trong Kinh Thánh. Lúc đầu tôi tưởng mình đã nghe nhầm, nên đã hỏi lại để xác nhận điều chị ấy nói. Và đúng là chị ấy đã nói như vậy. Tôi cảm thấy rất thất vọng, và nghĩ, hóa ra chị ấy thật sự vẫn không hiểu. Tôi cảm thấy rất chán nản. Tôi nghĩ, lúc đầu việc sắp xếp thời gian với chị ấy đã rất khó rồi, mà giờ thậm chí sau khi tôi đã giải thích vải lần mà chị ấy vẫn không hiểu. Đến khi nào thì chị ấy mới hiểu được điều này đây? Tôi đã không nói gì, mà bắt đầu nghĩ đến việc tìm đường thoái lui. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng không phải là chị ấy hoàn toàn không hiểu gì từ mối thông công của chúng tôi. Việc thuyết phục được ai đó quá dễ dàng không phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Rồi tôi đột nhiên nhớ đến những lời này của Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi bổn phận này; ngươi nên đối đãi với mọi đối tượng Phúc Âm bằng tình yêu thương và sự kiên nhẫn trong khả năng tốt nhất của mình, chịu đựng mọi khó khăn cần thiết, làm công việc của mình đến cùng với ý thức trách nhiệm, và có thể trình bày về mọi hành động của mình với Đức Chúa Trời. Đây là thái độ mà ngươi nên có để thực hiện bổn phận của mình” (“Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Nếu một đối tượng Phúc Âm liên tục đặt câu hỏi, ngươi nên ứng phó như thế nào? Ngươi không nên sợ mất thời gian và phiền hà khi trả lời họ, mà hãy nghĩ ra mọi cách có thể để giải quyết câu hỏi của họ, cho đến khi họ hiểu và không hỏi lại nữa. Khi đó, ngươi sẽ làm tròn trách nhiệm của mình và lòng của ngươi sẽ không có cảm giác tội lỗi. Điều này có nghĩa là không còn cảm giác tội lỗi với họ phải không? Không phải. Ngươi sẽ không còn cảm giác tội lỗi với Đức Chúa Trời, bởi vì bổn phận này, trách nhiệm này được Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi” (“Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi cảm thấy tự xấu hổ khi nghĩ về những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi. Tôi chỉ mới thông công vài lần, mà đã không muốn tiếp tục cố gắng vì chị ấy vẫn chưa buông bỏ quan niệm của mình. Tôi đã không biết yêu thương. Lúc đầu, khi trở thành một tín hữu, tôi cũng đã có nhiều quan niệm, nhưng các anh chị em đã liên tục thông công với tôi và cầu nguyện cho tôi trước khi tôi buông bỏ những quan niệm đó, và tôi đã đến trước Đức Chúa Trời để tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Đó là nhờ tình yêu thương và sự bao dung của Đức Chúa Trời. Vậy thì tại sao tôi lại không thể kiên nhẫn thông công với chị ấy khi chia sẻ phúc âm chứ? Cảm thấy rất xấu hổ, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, nếu chị ấy là một con chiên của Ngài, xin Ngài hãy dẫn dắt con. Con sẽ làm mọi thứ có thể để hợp tác với Ngài”. Sau khi cầu nguyện, tôi nghĩ đến việc Kinh Thánh đã trở thành nền tảng đức tin của Teresa bao năm qua rồi. Việc cô ấy không hoàn toàn chấp nhận ngay được khi nghe những lời mới của Đức Chúa Trời là hoàn toàn dễ hiểu, vì thời kỳ sau rốt không có trong Kinh Thánh. Tôi nghĩ mình có thể nói chuyện với chị về điều đó từ một góc nhìn khác. Sau đó, tôi đã chia sẻ một vài đoạn lời Đức Chúa Trời với chị ấy. “Bản thân Đức Chúa Trời là sự sống, là lẽ thật, và sự sống cùng lẽ thật của Ngài đồng tồn tại. Những ai không có khả năng đạt được lẽ thật sẽ không bao giờ có được sự sống. Không có sự hướng dẫn, hỗ trợ, và cung cấp lẽ thật, ngươi chỉ có thể có được câu chữ, giáo lý, và hơn cả, là cái chết. Sự sống của Đức Chúa Trời là vĩnh hằng, và lẽ thật cùng sự sống của Ngài đồng tồn tại. Nếu ngươi không thể tìm thấy nguồn lẽ thật, thì ngươi không thể có được dưỡng chất cho sự sống; nếu ngươi không được cung cấp sự sống, thì ngươi chắc chắn sẽ không có được lẽ thật, và do vậy, ngoài những tưởng tượng và quan niệm ra, toàn bộ thân thể ngươi sẽ chẳng có gì ngoài xác thịt – xác thịt đầy mùi hôi thối của ngươi. Hãy biết rằng những lời sách vở không được xem là sự sống, những ghi chép lịch sử không thể được thờ phượng như lẽ thật, và những điều lệ trong quá khứ không thể được dùng làm bản ghi lại những lời Đức Chúa Trời phán bảo ngày nay. Chỉ có những gì được Đức Chúa Trời bày tỏ khi Ngài đến trên đất và sống giữa con người thì mới là lẽ thật, là sự sống, là ý muốn của Đức Chúa Trời, và là cách thức làm việc hiện tại của Ngài” (Chỉ Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mới có thể ban cho con người con đường sự sống vĩnh cửu, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Sự thật Ta muốn giải thích ở đây là điều này: Đức Chúa Trời là gì và có gì mãi mãi vô tận và vô hạn. Đức Chúa Trời là nguồn của sự sống và vạn vật; Ngài không thể được thấu hiểu bởi bất cứ tạo vật nào. Cuối cùng, Ta muốn tiếp tục nhắc với mọi người: Đừng bao giờ phân định Đức Chúa Trời trong sách vở, trong lời, hay trong những lời phán trước kia của Ngài nữa. Chỉ có một từ để miêu tả đặc điểm công tác của Đức Chúa Trời: mới mẻ. Ngài không thích đi những con đường cũ hay lặp lại công tác của mình; hơn thế nữa, Ngài không muốn con người thờ phượng Ngài bằng cách phân định Ngài trong một phạm vi nhất định. Đây là tâm tính của Đức Chúa Trời” (Lời bạt, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau đó, tôi đã thông công với chị ấy: “Đức Chúa Trời là nguồn lẽ thật, và sự khôn ngoan của Ngài là vô hạn. Đức Chúa Trời có thể luôn bày tỏ nhiều lẽ thật hơn dựa trên nhu cầu của nhân loại. Làm sao Ngài có thể bị giới hạn với những điều nói trong Kinh Thánh được? Chẳng phải đó là giới hạn Đức Chúa Trời với những gì chứa trong Kinh Thánh sao?” Rồi tôi kể cho chị ấy nghe một câu truyện ngụ ngôn của Trung Quốc về một con ếch ngồi ở đáy giếng. Tôi nói: “Có một con ếch sống ở dưới đáy giếng, và chỉ có thể thấy được bầu trời thông qua miệng giếng. Vì thế nó nghĩ bầu trời chỉ to bằng cái miệng giếng thôi. Rồi một ngày có một cơn bão lớn gây mưa nhiều đến nỗi nó có thể nhảy ra khỏi cái giếng. Nó thấy bầu trời rộng vô tận, thực sự lớn hơn rất nhiều so với cái miệng giếng. Nó nhận ra mình đã không thấy được toàn bộ bầu trời vì nó đã ở dưới đáy giếng”. Tôi đã nói mình cũng cảm thấy như vậy, và rằng hiểu biết của tôi về Đức Chúa Trời thực sự còn nông cạn. Đức Chúa Trời quá vĩ đại và chúng ta thì quá nhỏ bé. Đức Chúa Trời là vô tận và phong phú, và chúng ta có thể không bao giờ biết Ngài có gì và là gì bằng trí óc của mình. Làm sao chúng ta có thể giới hạn Đức Chúa Trời được? Đức Chúa Jêsus đã phán: “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống” (Giăng 14:6). Đức Chúa Trời là nguồn lẽ thật. Tôi đã hỏi chị ấy liệu Đức Chúa Trời có thể bày tỏ nhiều lẽ thật hơn những gì có trong Kinh Thánh, những điều thậm chí còn cao siêu hơn thế, mọi thứ con người cần trong thời kỳ sau rốt không. Chị ấy nói: “Tất nhiên là có rồi”. Tôi có thể thấy quan niệm của chị ấy đã bắt đầu thay đổi, và chị ấy cũng đã mở lòng. Tôi đã gửi cho chị ấy câu kinh giống như vậy: “Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh” (Khải Huyền 2:7). Tôi đã nói với chị ấy rằng điều Thần phán dạy các hội thánh chính xác là những gì Chúa phán khi Ngài trở lại vào thời kỳ sau rốt. Và Kinh Thánh ghi lại những gì Đức Chúa Trời đã phán và làm trong Thời đại Luật pháp và Thời đại Ân điển. Khi tôi hỏi liệu những lời mới được Chúa bày tỏ khi Ngài tái lâm có thể có trước trong Kinh Thánh không, thì chị ấy đã cười và nói: “Giờ thì tôi hiểu rồi. Lời Chúa khi Ngài tái lầm không có trong Kinh Thánh, và Đức Chúa Trời có thể phán những lời không nằm trong Kinh Thánh”. Chị ấy thực sự đã rất xúc động, và nói rằng con người không hiểu rõ Đức Chúa Trời. Chị muốn đọc thêm lời Đức Chúa Trời và hiểu hơn về Ngài.
Tôi cũng đã rất phấn khích khi thấy Teresa đã sẵn sàng chấp nhận Chúa sẽ tái lâm và lại tiếp tục phán. Vì vậy, tôi đã hỏi chị: “Vì Chúa sẽ tái lâm và lại phán thêm nhiều lời, chị nghĩ Ngài sẽ dùng phương tiện nào để truyền đạt lời Ngài?” Chị ấy nói: “Thông qua Thần”. Tôi bảo chị ấy đó cũng là điều mà tôi từng nghĩ, nhưng tôi đã tìm hiểu Kinh Thánh cùng các anh chị em và thấy nó nói: “Vì như chớp nháng lòe từ dưới phương trời nầy đến dưới phương trời kia, thì Con người trong ngày Ngài cũng như vậy. Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra” (Lu-ca 17:24-25). Còn có câu “Việc đã xảy đến trong đời Nô-ê, thì cũng sẽ xảy đến trong ngày Con người” (Lu-ca 17:26), và cả “Các ngươi cũng hãy chực cho sẵn, vì Con người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ” (Ma-thi-ơ 24:44). Tôi nói: “Những câu này đều nhắc đến việc Chúa sẽ tái lâm làm ‘Con người’. Con người nghĩa là Ngài được sinh ra bởi con người và có nhân tính bình thường. Ngài sẽ không được gọi là Con người nếu Ngài ở trong hình dạng thuộc linh. Đức Giê-hô-va đã ở hình dạng thuộc linh, nên Ngài không được gọi như vậy. Điều đó nghĩa là Chúa sẽ trở lại trong xác thịt vào thời kỳ sau rốt. Nếu Ngài đến trong một linh thể phục sinh, ngự trên mây và công khai xuất hiện với mọi người, tất cả sẽ phủ phục xuống, run rẩy sợ hãi, và không ai dám chối bỏ Ngài. Vậy thì làm sao lời Chúa rằng ‘Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra’ sẽ ứng nghiệm được?” Có vẻ như Teresa đang suy ngẫm gì đó, nên tôi lại tiếp tục hỏi chị ấy: “Tại sao Chúa lại quyết định đến trong xác thịt vào thời kỳ sau rốt mà không phải ở dạng Thần?” Chị ấy lắc đầu. Tôi nói: “Con người không thể thấy hay chạm được vào Đức Chúa Trời ở hình dạng thuộc linh. Nếu một linh thể đột nhiên xuất hiện và phán, chị sẽ cảm thấy thế nào?” Con người sẽ sợ hãi và bối rối. Đức Chúa Trời có muốn mọi người cảm thấy sợ hãi khi Ngài phán dạy chúng ta không? Chắc chắn là không. Và nhân loại bại hoại quá uế tạp; chúng ta không đáng được thấy Thần của Đức Chúa Trời. Thấy Thần của Đức Chúa Trời chỉ khiến chúng ta mất mạng. Sau khi giải thích tất cả những điều này, tôi đã đọc thêm lời Đức Chúa Trời cho chị ấy nghe. “Việc cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời không được thực hiện trực tiếp bằng phương cách của Thần và thân phận của Thần, vì con người không thể chạm vào hay nhìn thấy Thần của Ngài, cũng không thể đến gần. Nếu Ngài cố gắng cứu con người trực tiếp theo cách của Thần, thì con người sẽ không thể nhận lãnh sự cứu rỗi của Ngài. Nếu Đức Chúa Trời không mặc lấy hình dáng bên ngoài của một con người thọ tạo, thì sẽ không có cách nào để con người nhận được sự cứu rỗi này. Vì con người không có cách nào tiếp cận Ngài, cũng như không ai có thể đến gần đám mây của Đức Giê-hô-va. Chỉ bằng cách trở thành một con người thọ tạo, nghĩa là, chỉ bằng cách đặt lời của Ngài vào trong thân thể xác thịt mà Ngài sắp trở thành, thì Ngài mới có thể đích thân làm thấm nhuần lời này bên trong tất cả những ai theo Ngài. Chỉ khi đó con người mới có thể đích thân nhìn và nghe thấy lời Ngài, và hơn nữa mới có thể sở hữu được lời Ngài, và bằng cách này, họ mới đi đến chỗ được cứu rỗi hoàn toàn. Nếu Đức Chúa Trời không trở nên xác thịt, sẽ không một con người nào của thịt và huyết có thể nhận được sự cứu rỗi lớn lao như thế, cũng không một người nào sẽ được cứu rỗi. Nếu Thần của Đức Chúa Trời hoạt động trực tiếp giữa nhân loại, thì toàn bộ nhân loại sẽ bị hạ gục, nếu không, không có cách nào để tiếp xúc được với Đức Chúa Trời, họ sẽ hoàn toàn bị Sa-tan bắt giữ” (Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (4), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đây là lợi thế của Đức Chúa Trời khi trở nên xác thịt: Ngài có thể tận dụng kiến thức của nhân loại và sử dụng ngôn ngữ của con người để nói chuyện với mọi người, và bày tỏ ý muốn của Ngài. Bằng ngôn ngữ của con người, theo cách của con người, Ngài đã giải thích hay ‘dịch’ lại cho con người ngôn ngữ thần thánh, sâu sắc của mình mà mọi người đang chật vật để hiểu. Điều này giúp con người hiểu ý muốn của Ngài và biết những gì Ngài muốn làm. Ngài cũng có thể nói chuyện với mọi người từ góc nhìn của con người, sử dụng ngôn ngữ của con người và trao đổi với mọi người theo cách họ hiểu được. Ngài thậm chí có thể phán dạy và công tác sử dụng ngôn ngữ và kiến thức của con người để mọi người có thể cảm nhận được lòng tốt và sự gần gũi của Đức Chúa Trời, để họ có thể thấy được lòng Ngài” (Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời III, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Sau đó tôi tiếp tục thông công: “Đức Chúa Trời đã quyết định đến trong xác thịt, và sống một cuộc sống thật giữa chúng ta để Ngài có thể gần gũi hơn với chúng ta và cung cấp cho chúng ta lẽ thật để cửu rỗi chúng ta. Cũng giống như các bậc cha mẹ đối với con cái. Một người cha, người mẹ có muốn con cái sợ hãi mỗi khi nhìn thấy mình không?” Tất nhiên là không. Nên tôi đã bảo chị ấy: “Các bậc cha mẹ sẽ không bao giờ muốn con cái của mình sợ hãi, trốn tránh bất cứ khi nào nhìn thấy họ, vậy còn Đức Chúa Trời thì sao? Nếu Đức Chúa Trời chỉ đứng từ trên trời mà phán, chúng ta sẽ sợ và xa lánh Ngài. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta xa lánh, cảm thấy Ngài khó gần, vì vậy việc Ngài tái lâm cũng giống như khi Đức Chúa Jêsus đã đến. Ngài đến trong xác thịt, như một Con người bình thường, bằng xương bằng thịt, ăn và nói chuyện với các môn đồ của Ngài, luôn giúp họ giải quyết vấn đề và những băn khoăn của mình. Thấy Đức Chúa Trời thực sự hiện hữu, sống giữa nhân loại giúp chúng ta cảm thấy gần gũi với Ngài hơn nhiều. Ngoài ra, Đức Chúa Trời có thể dùng ngôn ngữ của mình để bày tỏ lẽ thật, cung ứng và nuôi dưỡng chúng ta. Ngài có thể dùng các ví dụ và phép loại suy để chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý muốn của Ngài, và chúng ta sẽ dễ hiểu hơn cũng như dễ bước vào lẽ thật hơn. Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta quá thực tế và quý giá! Bằng cách trở nên xác thịt, Đức Chúa Trời chịu đựng sự sỉ nhục và đau khổ khủng khiếp để phán và công tác cho chúng ta hiểu lẽ thật, thoát khỏi tội lỗi và được cứu rỗi triệt để. Đây là sự cứu rỗi lớn lao nhất của Ngài đối với nhan loại bại hoại”. Lúc này, Teresa đã xúc động đến phát khóc. Chị ấy nói: “Giờ thì tôi hiểu rồi. Chúa đang trở lại trong hình dạng nhập thể. Tôi cũng muốn Đức Chúa Trời đến giữa chúng ta trong xác thịt. Ngài rất yêu thương chúng ta. Chúng ta không xứng đáng với điều đó…” Nhìn cách Teresa xúc động lúc đó, trong lòng tôi cũng rất cảm động, và tôi đã nhớ đến điều Đức Chúa Trời đã phán: “Ngươi có thể truyền đạt tâm tính được Đức Chúa Trời bày tỏ trong mỗi thời đại theo một cách cụ thể, bằng một ngôn ngữ mà chuyển tải một cách phù hợp ý nghĩa của thời đại được không? Ngươi, kẻ trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, có thể mô tả chi tiết tâm tính công chính của Đức Chúa Trời không? Ngươi có thể chứng thực về tâm tính của Đức Chúa Trời một cách rõ ràng và chính xác không? Làm sao ngươi truyền được những điều ngươi đã thấy và trải nghiệm cho những tín đồ khốn khổ, đáng thương, và sùng đạo, những kẻ đói khát sự công chính và đang chờ đợi ngươi chăn dắt họ?” (Ngươi nên chú tâm đến sứ mạng tương lai của ngươi như thế nào? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Để làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời, ngươi phải dựa vào kinh nghiệm, kiến thức của ngươi, và cái giá ngươi đã trả. Chỉ như vậy ngươi mới có thể đáp ứng ý muốn của Ngài” (Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nhớ lại khoảng thời gian mình chia sẻ phúc âm, hầu như tôi chỉ chia sẻ lý thuyết với mọi người và không bao giờ nghĩ liệu tôi có hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời không, liệu tôi có thể chia sẻ lời chứng từ trải nghiệm thực của mình không. Trải nghiệm này đã cho tôi thấy rằng chia sẻ phúc âm không chỉ là nói chuyện với người khác, mà còn là cơ hội để tôi biết rõ Đức Chúa Trời hơn. Tôi cũng có thể cảm nhận được tình yêu của Đức Chúa Trời thông qua mối thông công của mình với Teresa. Nếu Ngài không đến để công tác và phán trong xác thịt, chúng ta sẽ không thể nào hiểu được lẽ thật hay làm tinh sạch tâm tính bại hoại của mình được. Cuối cùng chúng ta sẽ bị hủy diệt trong các thảm họa. Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta thật quá ví đại. Sau đó Teresa đã nói: “Mối thông công hôm nay hoàn toàn mới mẻ đối với tôi. Tôi thực sự đã thu được rất nhiều từ chuyện này”.
Tôi đã rất phấn khích khi nghe chị ấy nói như thế, và đã nói với chị ấy rằng: “Đức Chúa Jêsus đã tái lâm thành Đức Chúa Trời Toàn Năng nhập thể. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ những lời mới và đang thực hiện công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại triệt để. Điều này đã ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh, gồm có: ‘Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Ðức Chúa Trời’ (1 Phi-e-rơ 4:17), và ‘Cha cũng chẳng xét đoán ai hết, nhưng đã giao trọn quyền phán xét cho Con’ (Giăng 5:22)”. Teresa thực sự rất phấn khích khi nghe Chúa đã tái lâm, nhưng chị cũng có phần bối rối. Chị hỏi: “Đức Chúa Jêsus đã thứ tội cho chúng ta khi Ngài chịu bị đóng đinh. Tại sao Chúa lại cần trở lại và thực hiện công tác phán xét để cứu rỗi nhân loại trong thời kỳ sau rốt?” Tôi đã đọc cho chị ấy một vài lời của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Mặc dù Jêsus đã làm nhiều công tác giữa con người, nhưng Ngài chỉ hoàn thành việc cứu chuộc toàn thể nhân loại và trở thành của lễ chuộc tội cho con người; Ngài vẫn chưa loại bỏ khỏi con người tất cả những tâm tính bại hoại của họ. Để hoàn toàn cứu rỗi con người khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, không chỉ cần Jêsus trở thành của lễ chuộc tội và gánh lấy những tội lỗi của con người, mà còn cần Đức Chúa Trời làm công tác vĩ đại hơn nữa để hoàn toàn loại bỏ khỏi con người tâm tính Sa-tan bại hoại của họ. Và vì thế, khi con người đã được tha thứ tội lỗi, Đức Chúa Trời đã trở lại xác thịt để dẫn dắt con người vào thời đại mới, và bắt đầu công tác của hình phạt và sự phán xét. Công tác này đã đưa con người vào một cõi cao hơn. Tất cả những ai quy phục dưới sự thống trị của Ngài sẽ được hưởng lẽ thật cao hơn và nhận lãnh những phước lành lớn hơn. Họ sẽ thực sự sống trong sự sáng, và họ sẽ đạt được lẽ thật, đường đi, và sự sống” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ngươi chỉ biết rằng Jêsus sẽ ngự xuống trong thời kỳ sau rốt, nhưng chính xác Ngài sẽ ngự xuống như thế nào? Một tội nhân như các ngươi, người vừa mới được cứu chuộc, và chưa được thay đổi hoặc được Đức Chúa Trời hoàn thiện, ngươi có thể hợp lòng Đức Chúa Trời sao? Đối với ngươi, ngươi vẫn còn bản ngã cũ của mình, đúng là ngươi đã được Jêsus cứu rỗi, và ngươi không bị xem là một tội nhân nhờ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, nhưng điều này không chứng minh rằng ngươi vô tội và không ô uế. Làm sao ngươi có thể nên thánh nếu ngươi chưa được thay đổi? Bên trong, ngươi bị bủa vây bởi sự bất khiết, ích kỷ và hèn hạ, nhưng ngươi vẫn muốn được ngự xuống với Jêsus – ngươi chẳng thể may mắn vậy được! Ngươi đã bỏ qua một bước trong niềm tin của mình vào Đức Chúa Trời: Ngươi chỉ đơn thuần đã được cứu chuộc, nhưng ngươi vẫn chưa được thay đổi. Để ngươi hợp lòng Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời phải đích thân thực hiện công tác thay đổi và làm cho ngươi thanh sạch; nếu không thì ngươi, kẻ chỉ được cứu chuộc, sẽ không có khả năng đạt được sự nên thánh. Theo cách này, ngươi sẽ không đủ tư cách để dự phần trong những phước lành của Đức Chúa Trời, vì ngươi đã bỏ qua một bước trong công tác quản lý con người của Đức Chúa Trời, là bước then chốt để thay đổi và hoàn thiện. Và vì vậy, ngươi, một tội nhân vừa được cứu chuộc, không có khả năng trực tiếp thừa hưởng cơ nghiệp của Đức Chúa Trời” (Xét về danh xưng và thân phận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi nói: “Đức Chúa Jêsus đã cứu chuộc chúng ta. Vậy sự cứu chuộc này đã đạt được thành quả gì? Chúng ta được cứu chuộc khỏi tội lỗi để không còn bị trừng phạt vì vi phạm luật pháp nữa. Đây là điều mà công tác cứu chuộc của Đức Chúa Jêsus đã đạt được. Tội lỗi của chúng ta được tha thứ thông qua đức tin vào Chúa, nhưng chúng ta lúc nào cũng luôn dối trá và phạm tội. Ban ngày chúng ta sống trong vòng luẩn quẩn của tội lỗi, và đêm đến thì lại thú tội, mãi không thể thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi. Tại sao lại như vậy? Đó là vì chúng ta không thể loại bỏ được bản tính tội lỗi của mình. Bản tính tội lỗi này giống như một khối u ác tính ẩn trong con người chúng ta. Nếu nó không được loại bỏ, chúng ta có thể được tha thứ một ngàn lần, mười ngàn lần, nhưng sẽ không bao giờ thoát khỏi tội lỗi hay xứng đáng được vào vương quốc. Đây là lý do Chúa cần phải trở lại và thực hiện công tác phán xét. Công tác phán xét đó là để giải quyết bản tính tội lỗi của chúng ta, để chúng ta có thể hoàn toàn thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi, được làm cho tinh sạch và cứu rỗi triệt để”.
Teresa thực sự rất hạnh phúc khi nghe điều này, và nói: “Chị có thể nói cho tôi nghe về công tác phán xét được không? Đức Chúa Trời thực hiện sự phán xét này để cứu rỗi chúng ta khỏi tội lỗi như thế nào?” Tôi đã đọc cho chị ấy nghe một đoạn lời của Đức Chúa Trời. “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt dùng nhiều lẽ thật khác nhau để dạy dỗ con người, để phơi bày bản chất của con người, và để mổ xẻ những lời nói và hành động của con người. Những lời này bao gồm nhiều dạng lẽ thật, chẳng hạn như bổn phận của con người, con người nên vâng lời Đức Chúa Trời như thế nào, con người nên trung thành với Đức Chúa Trời ra sao, con người phải sống trọn nhân tính bình thường, cũng như sự khôn ngoan và tâm tính của Đức Chúa Trời như thế nào, v.v. Tất cả những lời này đều nhắm vào bản chất của con người và tâm tính bại hoại của họ. Cụ thể, những lời vạch trần cách con người hắt hủi Đức Chúa Trời, được phán ra liên quan đến việc con người là hiện thân của Sa-tan và là một thế lực thù địch chống lại Đức Chúa Trời như thế nào. Trong quá trình thực hiện công tác phán xét của mình, Đức Chúa Trời không chỉ đơn giản làm rõ bản tính của con người bằng một vài lời; Ngài phơi bày, xử lý và tỉa sửa qua thời gian dài. Tất cả những phương pháp phơi bày, xử lý và tỉa sửa khác nhau này không thể được thay thế bằng những lời thông thường, mà phải bằng lẽ thật con người tuyệt đối không bao giờ có. Chỉ có những phương pháp như thế này mới có thể được gọi là sự phán xét; chỉ thông qua kiểu phán xét này thì con người mới có thể bị khuất phục và hoàn toàn bị thuyết phục về Đức Chúa Trời, và hơn nữa mới có được kiến thức thực sự về Đức Chúa Trời. Điều mà công tác phán xét mang lại là sự hiểu biết của con người về diện mạo thật của Đức Chúa Trời và sự thật về sự phản nghịch của chính mình. Công tác phán xét cho phép con người đạt được nhiều hiểu biết về ý muốn của Đức Chúa Trời, về mục đích công tác của Đức Chúa Trời, và về những lẽ mầu nhiệm mà họ không thể hiểu được. Nó cũng cho phép con người nhận ra và biết được thực chất bại hoại và nguồn gốc sự bại hoại của mình, cũng như khám phá ra sự xấu xa của con người. Những tác dụng này đều do công tác phán xét mang lại, vì thực chất của công tác này thực ra là công tác mở ra lẽ thật, đường đi và sự sống của Đức Chúa Trời cho tất cả những ai có đức tin vào Ngài. Công tác này là công tác phán xét được thực hiện bởi Đức Chúa Trời” (Đấng Christ thực hiện công tác phán xét bằng lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc đoạn này, tôi nói: “Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời thực hiện sự phán xét của Ngài bằng lời để vạch trần bản tính Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời của nhân loại. Công tác này phơi bày mọi biểu hiện của tâm tính Sa-tan và chống đối Đức Chúa Trời của chúng ta để chúng ta hiểu được sự thật về việc Sa-tan đã làm chúng ta bại hoại trầm trọng như thế nào, đồng thời thấy được tâm tính công chính, thánh khiết của Đức Chúa Trời. Nhờ bị lời Đức Chúa Trời phán xét, hành phạt, tỉa sửa và xử lý, mà chúng ta thấy được mọi tâm tính Sa-tan mà mình tỏ lộ, như là kiêu ngạo, dối trá, ích kỷ và tham lam. Chúng ta có thể hy sinh cho Đức Chúa Trời, nhưng khi có chuyện gì xảy ra mà mình không thích, như là ốm đau hay đối mặt với thảm họa, chúng ta đã hiểu lầm và trách móc Đức Chúa Trời. Sự phán xét này là cách duy nhất để chúng ta thấy rằng mặc dù chúng ta hy sinh cho Đức Chúa Trời, nhưng đó chỉ là vì phước lành, phần thưởng, và để được vào vương quốc. Chúng ta đang đổi chác với Đức Chúa Trời. Chúng ta không có sự tuân phục thực sự với Ngài, huống hồ là thực sự yêu mến Ngài. Thông qua sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, và những gì được tỏ lộ bởi những điều đã xảy ra với chúng ta, chúng ta thấy được sự thật về sự bại hoại của mình và ghét bỏ nó. Chúng ta cũng cảm nghiệm được rằng tâm tính công chính, thánh khiết của Đức Chúa Trời sẽ không dung thứ cho sự xúc phạm và chúng ta sẽ tôn kính cũng như tuân phục Ngài. Đây là cách duy nhất để có thể thấy được Sa-tan đã làm chúng ta bại hoại trầm trọng như thế nào. Không có sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, chúng ta sẽ không bao giờ có thể thấy được sự thật về sự bại hoại của mình hay thoát khỏi nó. Đặc biệt là chúng ta sẽ không bao giờ biết yêu thương hay vâng phục Đức Chúa Trời. Giống như một người bị bệnh, nếu họ không biết mình bị cái gì, họ sẽ không điều trị hay không biết mình cần phương pháp điều trị nào, nên họ không đỡ bệnh được. Nhưng nếu họ đi gặp bác sĩ, bác sĩ có thể nói cho họ biết họ bị bệnh gì, nguyên nhân và cách điều trị, và họ sẽ khỏi bệnh nếu làm theo lời khuyên của bác sĩ. Vì vậy Đức Chúa Trời phán xét nhân loại bằng lời Ngài trong thời kỳ sau rốt để giải quyết bản tính tội lỗi và các tâm tính Sa-tan bại hoại của chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự phán xét và hình phạt đó để được giải thoát khỏi tội lỗi, loại bỏ được các tâm tính Sa-tan bại hoại, được Đức Chúa Trời cứu rỗi và vào được thiên quốc”. Lúc đó, Teresa đã nói: “Giờ thì tôi hiểu rồi. Công tác phán xét là để Đức Chúa Trời làm tinh sạch và cứu rỗi chúng ta. Tôi muốn thoát khỏi cuộc sống luôn phạm tội và thú tội này, nên tôi cần phải chấp nhận sự phán xét và làm tinh sạch của Đức Chúa Trời”. Sau đó, chúng tôi đã cùng xem một vài bộ phim phúc âm và đọc nhiều lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Teresa đã nói với tôi rằng: “Những lời này thật có quyền năng và thẩm quyền. Chúng làm rung chuyển trời đất. Đây là tiếng của Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời Toàn Năng quả thực là Jêsus tái lâm. Ngài là Chúa trở lại để làm tinh sạch và cứu rỗi chúng ta!” Rồi chị ấy háo hức hỏi tôi: “Làm sao để tôi có thể có được một cuốn sách lời Đức Chúa Trời Toàn Năng? Tôi có thể trực tiếp thông công với các tín hữu khác ở đâu?” Tôi đã nói mình có thể giới thiệu với chị ấy với một số thành viên hội thánh ở địa phương và gửi cho chị một bản trực tuyến “Lời xuất hiện trong xác thịt”. Chị ấy đã rất phấn khích – mắt chị sáng rực, và chị nói mình muốn có cuốn sách để đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng càng sớm càng tốt.
Nhìn thấy cái cách chị ấy hân hoan nghênh tiếp Chúa, tôi thực sự vô cùng cảm tạ sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Chúa Trời đã cho phép Teresa nghe được tiếng Đức Chúa Trời và bước vào nhà Ngài. Hai ba ngày sau, chị ấy bảo với tôi rằng chị đã nói cho người bạn thân nhất của mình biết tin Chúa đã tái lâm rồi, nhưng người này lại cảnh báo chị ấy đừng tin chuyện này. Mục sư của chị ấy cũng đã gọi cho chị và đe dọa chị, nói rằng việc này sẽ khiến chị ấy bị khai trừ khỏi hội thánh. Chị ấy nói: “Tôi chắc chắn rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đấng Christ của thời kỳ sau rốt vì lời Ngài là lẽ thật và chỉ có Đấng Christ mới có thể bày tỏ lẽ thật. Ngài là Jêsus tái lâm. Tôi sẽ không bị bạn bè tác động đâu, và mục sư cũng không thể ngăn cản tôi”. Chị cũng nói: “Tôi đã tìm kiếm một hội thánh đích thực nhiều năm nay rồi, nhưng đã luôn phải thất vọng. Không hội thánh nào mang đến nguồn cung ứng cả và ngày càng có nhiều thành viên đang chạy theo các xu hướng thế tục. Tôi đã cảm thấy bất lực. Tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời. Tôi chưa từng mơ rằng mình sẽ nghe được tiếng Đức Chúa Trời và nghênh tiếp Chúa. Cuối cùng tôi đã tìm được hội thánh của Đức Chúa Trời”. Chị ấy đã rất xúc động và tôi có thể thấy nước mắt trong mắt chị – trông chị tràn đầy hy vọng. Tôi cũng đã vô cùng xúc động. Tôi thấy rằng khi một con chiên của Đức Chúa Trời nghe được tiếng Ngài, họ sẽ đi theo Ngài và giữ vững đức tin của mình dù Sa-tan có cản trở thế nào. Nhưng nghĩ đến việc tôi đã nản lòng và muốn bỏ cuộc khi gặp khó khăn, sẵng sàng bỏ qua chị ấy, suýt từ bỏ việc chia sẻ lời chứng với chị về công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, tôi cảm thấy vô cùng ân hận và tội lỗi. Tôi cũng thấy chỉ có Đức Chúa Trời thực sự yêu thương và chăm sóc cho chúng ta như thế nào, vì khi tôi định từ bỏ, lời Đức Chúa Trời đã khai sáng và dẫn dắt tôi kịp thời, để tôi có thể thấy được sự dấy loạn của mình và hiểu được sự cấp thiết trong ý muốn cứu rỗi loài người của Đức Chúa Trời. Sau đó tôi có thể hợp tác với Đức Chúa Trời từng chút một để làm chứng cho Teresa về công tác của Ngài trong thời kỳ sau rốt.
Đây cũng là một trải nghiệm sâu sắc đối với tôi rằng chia sẻ phúc âm là giúp cứu người. Đó là sử dụng cảm xúc và trải nghiệm thực tế của tôi để làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời, để đưa một người đang mong mỏi sự đến của Chúa, một người từ thế giới tăm tối, vào nhà của Đức Chúa Trời. Không gì ý nghĩa hơn điều đó cả. Tôi cũng thấy được niềm vui và cảm xúc của một người thực sự luôn đau đáu mong chờ sự tái lâm của Chúa khi họ nghe được tiếng Ngài và nghênh tiếp Ngài. Vả tôi có thể cảm nhận được Đức Chúa Trời hy vọng rằng sẽ có thêm nhiều tín hữu chân chính đến trước Ngài và nhận sự cứu rỗi của Ngài như thế nào. Có rất nhiều người trên thế giới đang sống trong bóng tối, mong mỏi sự đến của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời rất buồn và Ngài lo lắng cho họ. Vì vậy tôi càng cảm thấy việc chia sẻ phúc âm là trách nhiệm của tôi, đó là sứ mệnh của tôi. Tôi cũng đã thề với Đức Chúa Trời rằng dù có gặp phải trở ngại nào, tôi cũng sẽ dựa vào Ngài và thực hiện bổn phận chia sẻ phúc âm của mình. Tôi sẽ chia sẻ lời chứng dựa trên hiểu biết thực sự của mình về Đức Chúa Trời và đưa chiên của Ngài đến trước Ngài, để họ có thể sớm nhận được ân điển của sự cứu rỗi của Ngài trong thời kỳ sau rốt.
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?