Giờ thì tôi đã có thể nói thật lòng mình
Khi tôi thực hiện bổn phận cùng một anh chị em nào đó, nếu thấy ai mắc lỗi cá nhân hoặc họ đã làm gì đó không phù hợp với lẽ thật, tôi biết rất rõ rằng mình nên nhắc nhở hay giúp đỡ họ, nhưng tôi thường tránh những vấn đề này vì không muốn xúc phạm người khác. Cách đây không lâu, có một vài chuyện đã xảy ra khiến tôi nhận ra sự nguy hại và hậu quả quả của cách cư xử đó và đã giúp tôi thay đổi tình hình.
Cũng gần đây thôi, một ngày nọ, vào cuối buổi họp, người chị chủ trì buổi họp đã nói rằng chúng tôi cần chuẩn bị chọn ra vài người trong số chúng tôi để thực hiện bổn phận chăm tưới và sẽ đi truyền bá phúc âm. Chị ấy cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của cả hai công tác này. Chị yêu cầu chúng tôi suy nghĩ thật kỹ về chuyện này theo các nguyên tắc, rồi thảo luận nhóm để đưa ra quyết định. Thật ngạc nhiên là anh James, người cùng thực hiện bổn phận với tôi, sáng hôm sau đã gọi cho tôi trước và nói rằng anh đã chọn được một số anh chị em cũng như đã sắp xếp để tập hợp họ lại với nhau. Anh ấy mời tôi cùng anh thông công với họ về việc thay đổi bổn phận của họ. Nghe anh ấy nói vậy, tôi thầm nghĩ: “Chẳng phải anh làm như vậy là quyết định hấp tấp và khinh suất hay sao? Chúng ta đâu đã cùng nhau thảo luận về vấn đề này, hơn nữa, hiện giờ mọi người đều đang thực hiện bổn phận của riêng mình. Nếu anh chỉ thực hiện sự thay đổi này một cách mù quáng, rồi hóa ra quyết định đó không ổn, chẳng phải điều đó sẽ ảnh hưởng đến công tác của hội thánh sao?” Tôi muốn nói với James suy nghĩ của mình, nhưng tôi bắt đầu cảm thấy mâu thuẫn. Khi nghe thấy giọng anh trong điện thoại có vẻ rất phấn khích. Anh ấy có thể sẽ buồn nếu tôi nói anh ấy đang đưa ra quyết định quá hấp tấp và rằng anh ấy không nên làm việc một cách thiển cận như vậy. Nếu tôi từ chối lời mời của anh, chẳng phải anh sẽ cảm thấy như thể tôi đang bác bỏ ý tưởng của anh và nghĩ tôi là kẻ ngạo mạn sao? Tôi đã kìm nén tất cả những suy nghĩ đó và không nói một lời nào. Mặc dù rất lo lắng về những gì anh ấy đã đề xuất, tôi vẫn nhận lời mời của anh và đồng ý cùng anh chủ trì các cuộc họp thông công với các anh chị em.
Sau khi gác máy, tôi đã thấy đoạn lời này của Đức Chúa Trời, nó đã được chia sẻ trong nhóm WhatsApp. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ngươi không được nhầm lẫn, đồng ý mù quáng với mọi người mà không có chính kiến; thay vào đó, ngươi phải có lòng can đảm để đứng lên và phản đối những điều không đến từ Ta. Nếu ngươi biết rõ rằng có điều gì đó là sai, nhưng ngươi giữ im lặng, thì ngươi không phải là người thực hành lẽ thật” (“Chương 12” của Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu trong Lời xuất hiện trong xác thịt). Tôi cảm thấy những lời này như đang trực tiếp nói với tôi. Đó là một trải nghiệm thực sự sâu sắc về việc Đức Chúa Trời thực sự có thể nhìn thấu tâm can chúng ta như thế nào. Chẳng phải chính tôi, người biết rõ rằng điều đó là sai nhưng vẫn im lặng, là người đã bị vạch trần trong lời Đức Chúa Trời hay sao? Không, tôi không thể làm người như vậy nữa. Nên tôi đã lấy hết dũng khí, định sẽ nói ra. Nhưng khi nghĩ đến James đã nhiệt huyết như thế nào, tôi sợ anh sẽ cảm thấy mình đang đối đầu với anh nếu ngăn cản anh làm như vậy. Sau một hồi đấu tranh nội tâm, tôi chỉ biết tự trấn an, nghĩ rằng có thể chưa chắc là mình đã đúng. Có thể tôi đã không nhận thấy điều gì đó. Và thế là tôi đã bỏ qua lẽ thật, không quan tâm đến sự khiển trách của Đức Chúa Trời, và không nói gì với anh James cả. Sau đó tôi thuận theo kế hoạch của anh James và bắt đầu tổ chức công việc.
Trong khi chờ đợi, tôi đã nói với chị đảm trách bổn phận này. Sau khi nghe xong, chị ấy đã họp tôi và James trên trực tuyến và đã nghiêm khắc khiển trách chúng tôi. Chị nói: “Có những yêu cầu cụ thể cho việc lên kế hoạch và sắp xếp thay đổi nhân sự. Ta phải chọn người chia sẻ phúc âm hay làm bổn phận chăm tưới tùy theo điểm mạnh cá nhân của họ để không gây trở ngại cho công tác của hội thánh. Chẳng phải việc các anh ngẫu hứng bảo một nhóm người đi chia sẻ phúc âm là làm rối loạn công tác của hội thánh sao? Các anh đã không tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật hay thảo luận điều đó với mọi người. Việc này về bản chất là hành động bừa bãi”. Nghe chị ấy nói vậy, tôi cảm thấy rất buồn và tội lỗi. Tôi biết đó là Đức Chúa Trời đang tỉa sửa và xử lý tôi, và chị ấy hoàn toàn đúng. Chúng tôi đã hành động bừa bãi và không theo nguyên tắc. Thông qua việc tự kiểm điểm, cuối cùng tôi nhận ra rằng mình nên biết từ chối và ngăn chặn bất cứ việc gì không mang lại lợi ích cho hội thánh, và kể cả nếu không hiểu rõ chuyện gì đó, tôi cũng vẫn nên nói ra suy nghĩ của mình và cùng tìm kiếm cũng như thông công với mọi người. Tôi không thể chỉ mù quáng hùa theo, vì điều đó có thể làm gián đoạn công tác của hội thánh. Nhưng vì muốn bảo vệ mối quan hệ và hình ảnh của mình với Jamess tôi đã sẵn sàng cản trở công tác của hội thành chứ không chỉ ra vấn đề của anh ấy, thậm chí còn quay lưng lại với sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Tôi thấy mình thật xảo quyệt, ích kỷ và đáng khinh. Càng nghĩ, tôi càng thấy mình ngu ngốc, càng chán ghét và ghê tởm bản thân.
Sau đó, khi suy ngẫm về việc này, tôi tự hỏi tại sao mình lại luôn bảo vệ tư lợi thay vì thực hành lẽ thật. Trong cơn đau khổ, tôi đã đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã làm việc bằng tâm tính Sa-tan của mình. Con không thực hành lẽ thật kể cả khi biết rõ điều đó là sai. Con thấy mình đã bị Sa-tan làm cho bại hoại trầm trọng. Đức Chúa Trời ơi, xin hãy cứu rỗi con”. Sau đó, tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Những ai thành thật tin vào Đức Chúa Trời là những người sẵn lòng đưa lời Đức Chúa Trời vào thực hành và sẵn lòng thực hành lẽ thật. Những ai thực sự có thể đứng vững trong lời chứng của mình đối với Đức Chúa Trời cũng là những người sẵn lòng đưa lời Ngài vào thực hành và đích thực có thể đứng về phía lẽ thật. Những kẻ phải dùng đến thủ đoạn và sự bất công hết thảy đều thiếu lẽ thật, và tất cả họ đều mang lại sự xấu hổ cho Đức Chúa Trời” (Lời cảnh báo cho những ai không thực hành lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Gia đình của Đức Chúa Trời không cho phép những kẻ không thực hành lẽ thật tồn tại, cũng không cho phép tồn tại những kẻ cố ý phá hoại hội thánh. Tuy nhiên bây giờ không phải lúc thực hiện công tác trục xuất; những kẻ như thế cuối cùng sẽ đơn thuần bị phơi bày và loại bỏ. Không còn những việc làm vô ích được dành cho những người này nữa; những kẻ thuộc về Sa-tan không thể đứng về phía lẽ thật, trong khi những ai mưu cầu lẽ thật thì có thể. Những ai không thực hành lẽ thật thì không xứng đáng được nghe về con đường lẽ thật và không xứng đáng làm chứng cho lẽ thật. Lẽ thật đơn thuần là không dành cho họ nghe; đúng hơn, nó được nhằm vào những ai thực hành nó” (Lời cảnh báo cho những ai không thực hành lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi vô cùng chua xót. Một tín hữu tin vào Đức Chúa Trời chân chính sẽ sẵn lòng thực hành lời Đức Chúa Trời, và khi đối mặt với rắc rối, họ có thể tìm kiếm lẽ thật và đưa nó vào thực hành, đứng về phía Đức Chúa Trời. Những kẻ không thực hành lẽ thật sẽ nghe theo các tâm tính Sa-tan bại hoại của họ, đứng về phía Sa-tan và phá hoại hội thánh. Tôi nhận ra rằng, bằng việc làm kẻ thích làm hài lòng người khác và không thực hành lẽ thật, tôi đang đứng về phía Sa-tan. Mỗi lần gặp phải một tình huống đòi hỏi tôi phải đứng ra để bảo vệ lợi ích của hội thánh, là tôi lại không đưa lẽ thật vào thực hành vì sợ xúc phạm người khác hay đánh mất vị trí của mình trong lòng họ. Tôi biết rằng nếu cứ tiếp tục như vậy, cuối cùng tôi sẽ bị Đức Chúa Trời cự tuyệt và loại bỏ. Lúc đó, tôi chỉ mới nhận ra bản chất việc làm của những kẻ thích làm hài lòng người khác, mà hầu như không có chút hiểu biết nào về căn nguyên sự bại hoại sa-tan của tôi, vì vậy một lần nữa, Đức Chúa Trời đã chỉ ra những thiếu sót của tôi thông qua một người anh em để giúp tôi biết mình hơn.
Tôi nhớ có lần, khi tôi và anh Michael đang cùng thực hiện bổn phận chăm tưới, anh ấy đã cởi mở và chia sẻ rằng: “Anh Matthew, dạo gần đây chúng ta ngày càng ít làm việc nhóm. Anh hầu như không chỉ ra những sai sót của tôi, và khi thấy tôi làm gì đó không phù hợp với lẽ thật anh cũng không nói gì. Nếu cứ vậy thì làm sao tôi có thể phát triển được đây? Tôi cần anh giúp mình nhận ra vấn đề và cần được tỉa sửa cũng như xử lý để ít nhiều được tiến bộ”. Tôi đã cảm thấy cực kỳ tồi tệ khi nghe anh ấy nói vậy, và tôi đã hình dung ra mọi lần tương tác của chúng tôi. Tôi nhận ra gần đây anh ấy thực hiện bổn phận mà chẳng chịu suy nghĩ gì, chỉ làm qua loa trong các cuộc họp dành cho các tín hữu mới. Anh chỉ cứ thế mà thông công bất cứ đề tài nào chúng tôi đã lên kế hoạch sẽ bàn luận mà không tùy chỉnh dựa trên các khó khăn hay vấn đề thực tế của họ, dựa trên các nguyên tắc giải quyết vấn đề và đem lại thu hoạch. Nên kết quả của những cuộc họp này không tốt và không kịp thời giải quyết vấn đề của các tín hữu mới. Tôi đã không đề cập bất cứ gì về điều đó với anh, sợ rằng anh sẽ có ác cảm với tôi. Tôi đã lảng tránh tất cả các vấn đề đó. Và anh Michael đã đúng – tôi đã thấy vấn đề của anh nhưng lại không nói với anh. Tôi là kẻ thích làm hài lòng người khác, hành động như một người bạn tốt nhất của mọi người. Tôi biết rằng việc suy nghĩ như một kẻ thích làm hài lòng người khác vẫn cứ tiếp tục kiểm soát tôi, không để tôi thực hành lẽ thật. Tôi không biết phải làm sao cả, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy dẫn dắt con để con biết được bản tính bại hoại của mình và loại bỏ xiềng xích của tâm tính Sa-tan bại hoại của con”.
Sau đó, tôi đã đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời phán: “Ngươi hiểu gì về bản tính của con người? Điều quan trọng nhất là phân biệt nó từ góc độ thế giới quan, nhân sinh quan, và những giá trị của con người. Những người thuộc về ma quỷ thì đều sống cho bản thân họ. Nhân sinh quan và những câu cách ngôn của họ chủ yếu đến từ những câu nói của Sa-tan, chẳng hạn như ‘Người không vì mình, trời tru đất diệt’. Những lời nói ra bởi các quỷ vương, các vĩ nhân, và các triết gia đó của thế gian đã trở thành chính cuộc sống của họ. … Sa-tan làm bại hoại con người qua giáo dục, ảnh hưởng của các chính phủ quốc gia và của những người nổi tiếng cùng các vĩ nhân. Những lời tà ma của họ đã trở thành bản chất cuộc sống của con người. ‘Người không vì mình, trời tru đất diệt’ là một châm ngôn nổi tiếng của Sa-tan đã thấm nhuần vào trong mọi người, và đã trở thành cuộc sống của con người. Có những câu triết lý sống khác cũng tương tự như thế. Sa-tan sử dụng nền văn hóa truyền thống của từng quốc gia để giáo dục, lừa dối và làm bại hoại con người, khiến nhân loại rơi vào và bị nhấn chìm dưới vực sâu không đáy của sự hủy diệt, và cuối cùng con người bị Đức Chúa Trời hủy diệt bởi vì họ phục vụ Sa-tan và chống đối Đức Chúa Trời. Hãy tưởng tượng hỏi ai đó đã tích cực trong xã hội hàng chục năm câu hỏi sau: ‘Vì rằng anh đã sống trên thế gian lâu như vậy và đã đạt được rất nhiều, anh sống theo những câu châm ngôn nổi tiếng nào?’ Người ấy có thể nói: ‘Câu quan trọng nhất là: “Quan chức không gây khó dễ cho người mang theo quà, và người không biết bợ đỡ thì không làm được gì”’. Chẳng phải những lời này đại diện cho bản tính của người đó sao? Không ngần ngại sử dụng mọi phương tiện để đạt được địa vị đã trở thành bản tính của anh ta, chế độ quan chức và thành công sự nghiệp là cuộc sống của anh ta. Vẫn có nhiều độc tố sa-tan khác trong đời sống con người, trong hành động và hành vi của họ. Ví dụ, những triết lý sống của họ, cách làm việc của họ, và những câu cách ngôn của họ đều đầy những độc tố của con rồng lớn sắc đỏ, và tất cả chúng đều đến từ Sa-tan. Do đó, mọi thứ chảy trong xương và máu con người đều là mọi thứ của Sa-tan” (“Làm thế nào để biết bản tính con người” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Anh biết đó, những lời này của Đức Chúa Trời đã cho tôi thấy được căn nguyên của vấn đề. Tôi đã luôn là “người tử tế” vì Sa-tan đã dùng xã hội và nền giáo dục chính quy để khiến tôi chìm trong những triết lý sống và lối ngụy biện như: “Người không vì mình trời tru đất diệt”, “Lời thuận tình tạo hữu hảo, lời bộc trực gây hiềm thù”, vân vân… Chúng đã trở thành các nguyên tắc hành xử của tôi. Thực ra, khi còn nhỏ, tôi làm gì nói gì cũng rất vô tư; tôi sẽ nói ra bất cứ điều gì mình thấy. Nếu thấy bạn học bị bắt nạt ở trường, tôi sẽ đứng lên bảo vệ họ, khiến tôi trở thành mục tiêu bị quấy rối. Khi thấy những sai sót của bạn bè hay người thân hoặc thấy họ làm gì đó tồi tệ, tôi sẽ nói thẳng cho họ biết. Họ thường không thoải mái lắm và sẽ nổi nóng với tôi, hoặc thậm chí đối xử lạnh nhạt với tôi. Sau đó tôi sẽ xin lỗi và xin họ tha thứ hòng để mọi chuyện được êm thắm. Kết quả của những trải nghiệm này là tôi bắt đầu cảm thấy, muốn tồn tại trong thế giới này, có sao nói vậy, nói thẳng nói thật, không hẳn là tốt, và sẽ tự chuốc lấy những rắc rối không cần thiết. Từ đó trở đi, tôi trở nên ranh mãnh và hay lảng tránh, không nói ra để bảo vệ mối quan hệ của chúng tôi khi thấy ai đó làm điều họ không nên làm. Khi làm như vậy, tôi phát hiện mối quan hệ của mình với mọi người trở nên “hòa thuận” hơn nhiều và tôi có thể hòa đồng với gần như tất cả mọi người. Một số người thậm chí còn khen tôi vì điều đó. Dần dần, tôi đã bắt đầu tiếp nhận các triết lý Sa-tan như: “Biết rõ người khác không đúng nhưng tốt nhất là đừng chỉ ra”, “Im lặng là vàng”, “Lời thuận tình tạo hữu hảo, lời bộc trực gây hiềm thù” và “Người sáng suốt là người biết giữ mình, chỉ cầu không phạm lỗi”. Và tôi đã xem những lời này là lẽ sống, là kim chỉ nam cho hành vi của tôi. Anh biết đó, ở thế giới ngoài kia, những người dùng những lời tâng bốc và xu nịnh, luôn cố xem gió thổi chiều nào theo chiều đó, dùng chiến thuật hai mặt, là những người khá thành công. Họ thường được tôn sùng là biểu tượng của trí thông minh và có khả năng đọc cảm xúc. Nhưng các phóng viên nói sự thật hay những người vạch trần những bất công trong xã hội thường có kết cục rất khủng khiếp. Mất việc là còn đỡ, có khi họ còn bị người ta trả thù và thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng. Cả xã hội đều tôn thờ tư duy cũng như lập luận của Sa-tan, và điều này khiến tôi còn chắc chắn hơn rằng nhất thiết phải nghe theo những triết lý này để sống. Và vì thế, một khi chúng ta đã tin và chấp nhận những ngụy biện và lạc thuyết sa-tan này, những triết lý trần tục này, thì cái nhìn của chúng ta về cuộc sống và thế giới sẽ trở nên méo mó. Sau khi có được đức tin, tôi đã hiểu được rằng Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải trung thực, nhưng tôi vẫn bị kiểm soát bởi các những tâm tính sa-tan này, vẫn không thực hành lẽ thật mà mình đã hiểu rõ. Tôi không sẵn sàng nói thật nói thẳng và bảo vệ đời sống của hội thánh khi thấy anh Michael làm việc máy móc gây ảnh hưởng đến hiệu quả của các cuộc họp. Tôi biết anh James đang đơn phương hành động và điều đó sẽ làm gián đoạn công tác của hội thánh, nhưng tôi đã không ngăn cản anh ấy. Tôi thậm chí còn nhẫn tâm quay lưng lại với sự khai sáng của Đức Chúa Trời, đi giúp anh thực hiện điều đó để không làm anh phật lòng hay khiến anh nghĩ xấu về tôi. Tôi nhận ra mình đang sống bằng các nguyên tắc sinh tồn của Sa-tan, trở nên ngày càng ích kỷ, đáng khinh, lươn lẹo và gian manh. Tôi đã không hề bảo vệ lợi ích của hội thánh và hoàn toàn thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vô trách nhiệm. Lối sống của tôi thật hèn hạ. Sau đó tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời và xin Ngài giúp tôi thoát khỏi gông cùm của Sa-tan và đưa lời Ngài vào thực hành, vì tôi khó mà tự mình làm được.
Sau khi cầu nguyện, tôi cảm thấy lòng mình an yên hơn. Sau đó tôi đã cởi mở với các anh chị em về trải nghiệm của mình. Rồi anh biết không, tôi chợt nhớ đến đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Vương quốc của Ta cần những người trung thực, những người không đạo đức giả hay giả dối. Chẳng phải những người thật thà và trung thực không được nhiều người thích trên thế gian sao? Ta thì hoàn toàn ngược lại. Những người trung thực được hoan nghênh đến với Ta; Ta hài lòng với loại người này, và Ta cũng cần loại người này. Đây chính là sự công chính của Ta” (“Chương 33” của Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu trong Lời xuất hiện trong xác thịt). “Các ngươi nên biết rằng Đức Chúa Trời thích những người trung thực. Về thực chất, Đức Chúa Trời là thành tín, và vì thế lời Ngài luôn có thể tin cậy được; hơn nữa, hành động của Ngài là không có sai sót và không thể nghi ngờ, đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời thích những người tuyệt đối trung thực với Ngài” (Ba điều răn, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Thực chất của Đức Chúa Trời là công chính và thánh khiết, nên mọi điều Ngài nói và làm đều đáng tin cậy. Không có gì bị pha tạp bởi các triết lý sa-tan cả. Đối với Đức Chúa Trời, trắng là trắng, đen là đen, không có nửa này nửa nọ! Điều này nhắc tôi nhớ đến Đức Chúa Jêsus từng phán: “Song ngươi phải nói rằng: phải, phải; không, không. Còn điều người ta nói thêm đó, bởi nơi quỉ dữ mà ra” (Ma-thi-ơ 5:37). Đức Chúa Trời luôn yêu cầu chúng ta phải làm người trung thực, và đây là lẽ thật. Trong thế giới, nơi Sa-tan làm chủ, người trung thực không được đón nhận nồng nhiệt và luôn phải sống chật vật. Nhưng trong nhà Đức Chúa Trời thì không có chuyện đó. Đức Chúa Trời đòi hỏi những người trung thực, ngay thẳng, có ý thức công lý, phải đủ dũng cảm để vạch trần sự thật, và có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Chỉ có họ mới có thể được Đức Chúa Trời tuyên dương, và chỉ có họ mới là những người Đức Chúa Trời yêu mến và chấp nhận. Điều đó nhắc tôi nhớ đến câu này trong Sách Khải Huyền về những người đắc thắng: “Trong miệng chúng chẳng có lời nói dối nào hết, cũng không có dấu vết gì” (Khải Huyền 14:5). Từ những lời này, chúng ta hiểu được rằng Đức Chúa Trời yêu mến những người trung thực và căm ghét những kẻ đê tiện, tráo trở, chỉ biết nịnh hót người khác. Những người như thế chắc chắn cuối cùng sẽ bị Đức Chúa Trời loại bỏ. Đây là sự khác biệt giữa thế giới ngoài kia và nhà Đức Chúa Trời. Cuối cùng tôi đã hiểu rằng chính lẽ thật đang cầm quyền trong nhà Đức Chúa Trời, vì thế tôi không nên bỏ thực hành lẽ thật vì sợ xúc phạm người khác. Thay vào đó, tôi nên sợ xúc phạm Đức Chúa Trời vì đi theo Sa-tan và không thực hành lẽ thật. Bị người khác chối bỏ và lên án không có gì đáng sợ cả. Những gì người ta nghĩ về tôi không quyết định kết cục của tôi. Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể quyết định kết cục của tôi, và tôi chỉ nên tập trung vào những gì Đức Chúa Trời nghĩ về tôi cũng như mối quan hệ của tôi với Đức Chúa Trời, không phải mối quan hệ của tôi với người khác. Tôi luôn từng nhiều lần bảo vệ mối quan hệ của mình với người khác, quay lưng lại với lẽ thật. Nhưng cuối cùng tôi nhận ra rằng điều tôi cần theo đuổi là sự chấp thuận của Đức Chúa Trời, thực hành lời Đức Chúa Trời, làm người trung thực, và nói thẳng nói thật cũng như cởi mở với các anh chị em. Thực tế, từ trải nghiệm của các anh chị em, chúng ta có thể thấy rằng việc nhắc nhở người khác hay cho họ ý kiến phản hồi không phải là sẽ xúc phạm họ như ta tưởng tượng. Nếu họ là một người tìm kiếm lẽ thật, kể cả khi thỉnh thoảng điều đó có thể sẽ làm tổn thương lòng tự tôn của họ, thì sau khi tìm kiếm lẽ thật họ có thể sẽ rút ra được bài học và các anh chị em sẽ thân thiết với nhau hơn. Đó mới là một mối quan hệ bình thường giữa người với người.
Sau vụ đó, tôi bắt đầu thực hành nói thật và làm người trung thực. Sau đó, tôi phát hiện người anh em tên Tom đã không nghiêm túc trong các buổi họp của mình với các tín hữu mới, mà chỉ làm qua loa. Tôi đã muốn đi gặp anh để thông công về vấn đề của anh, nhưng lại bắt đầu cảm thấy mâu thuẫn. Nếu tôi chỉ ra vấn đề của anh, anh ấy có thể nghĩ tôi đang đòi hỏi quá nhiều ở anh và anh sẽ không còn thích tôi nữa. Tôi tự hỏi liệu việc đó có ảnh hưởng đến mối quan hệ của chúng tôi sau này hay không. Khi nghĩ như vậy, tôi lập tức nhớ lại những sai lầm trong quá khứ của mình, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi thực hành lẽ thật. Một ngày nọ sau cuộc họp, tôi đã tìm anh Tom và chỉ ra sự thiếu trách nhiệm của anh trong bổn phận cũng như phương pháp tiếp cận cuộc họp tùy tiện của anh. Sau đó chúng tôi đã thông công về các nguyên tắc của đời sống hội thánh để hiểu rõ hơn về ý muốn của Đức Chúa Trời đối với bổn phận của chúng tôi. Tôi đã rất ngạc nhiên là anh ấy không những không giận, mà thực sự còn cảm ơn tôi vì đã giúp anh nhận ra thiếu sót của mình. Anh cũng đã có thể tìm ra một con đường để thực hành. Sau đó anh đã nói thế này trong một cuộc họp: “Việc một anh chị em nào đó góp ý, chỉ ra những thiếu sót hay sai lầm của chúng ta thực sự rất hữu ích cho chúng ta”. Sau đó, tôi để ý thấy anh đã có trách nhiệm hơn trong các cuộc họp. Tôi đã rất xúc động. Tôi nhận ra những người chân thành theo đuổi lẽ thật sẽ không oán giận tôi vì đã nói sự thật – tôi đã từng quá xảo quyện, luôn suy đoán linh tinh về người khác và coi thường họ. Tôi cũng có được hiểu biết thực sự rằng làm người trung thực và nói thật cực kỳ có lợi cho lối vào sự sống của các anh chị em và cho công tác của nhà Đức Chúa Trời.
Trải nghiệm đó đã giúp tôi hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời và không còn sợ bị người khác ghét bỏ khi ăn nói trung thực nữa. Tôi vô cùng cảm tạ sự khai sáng và dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời vì đã cho tôi hiểu về bản tính xảo quyệt của mình cũng như phân định được ít nhiều các triết lý của Sa-tan. Tôi cũng đã hiểu rõ hơn về thực chất công chính và thánh khiết của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Trong Đức Chúa Trời không có sự giả dối, không xấu xa, không đố kị và không xung đột, mà chỉ có sự công chính và chân thật, và tất cả mọi thứ Ngài có gì và là gì nên được con người mong cầu. Con người nên phấn đấu và khao khát điều đó. Khả năng nhân loại đạt được điều này dựa trên cơ sở nào? Nó dựa trên cơ sở sự hiểu biết của họ về tâm tính của Đức Chúa Trời và sự hiểu biết của họ về thực chất của Đức Chúa Trời. Vì vậy, hiểu được tâm tính của Đức Chúa Trời và Ngài có gì và là gì là bài học cả đời cho mỗi người; đây là mục tiêu cả đời được theo đuổi bởi mỗi người đang cố gắng thay đổi tâm tính của họ và cố gắng để biết Đức Chúa Trời” (Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời III, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Chúng ta có thể cảm thấy sự thánh khiết và lòng nhân từ của Đức Chúa Trời qua lời Ngài – Không có sự dối trá hay gian xảo nơi Đức Chúa Trời. Trái lại, ở Ngài chỉ có sự công chính và đáng tin cậy. Sự đáng mến tràn ngập khắp thực chất Đức Chúa Trời có gì và là gì. Từ tận đáy lòng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời và sẵn lòng mưu cầu việc trở thành một người trung thực được Đức Chúa Trời yêu quý, không còn cố lừa gạt Ngài hay con người nữa! Amen! Tạ ơn Đức Chúa Trời Toàn Năng!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?