Lời của Đức Chúa Trời giúp tôi hiểu rõ mình
Bởi Miễu Tiểu, Hàn Quốc Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt dùng nhiều lẽ thật khác nhau để dạy dỗ con người, để...
Hoan nghênh tất cả những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời!
Vào tháng Sáu năm 2022, tôi được biết có hơn ba mươi anh chị em đã bị cảnh sát bắt giữ, trong đó có cả mấy lãnh đạo. Lúc ấy, nhiều anh chị em và các gia đình có địa điểm nhóm họp đều tiềm ẩn nguy cơ về an toàn, sách lời Đức Chúa Trời cũng cần gấp rút được di chuyển. Lãnh đạo liền sắp xếp tôi và hai chị em đến hội thánh Thần Quang để xử lý hậu quả. Tôi nghĩ thầm: “Trước đây mình từng bị bắt nên có tiền án rồi, với lại bao năm nay Đảng Cộng sản vẫn không ngừng truy bắt mình. Nếu đi xử lý hậu quả thì khó tránh khỏi phải lộ diện, rồi lúc cần thiết còn phải tiếp xúc với những người tiềm ẩn nguy cơ về an toàn. Nếu lại bị bắt nữa, Đảng Cộng sản chắc chắn sẽ không bỏ qua cho mình đâu. Dù họ không đánh chết mình thì cũng phải kết án mình tám năm, mười năm tù là ít. Công tác của Đức Chúa Trời sắp kết thúc rồi, ngộ nhỡ cảnh sát đánh chết mình hoặc đánh cho mình tàn phế, thì chẳng phải bao năm nay mình từ bỏ gia đình, sự nghiệp, bao nhiêu sự dâng mình đều đổ sông đổ biển hết sao? Vậy thì làm sao mà được cứu rỗi, được vào thiên quốc nữa chứ?”. Nhưng ngay khi vừa nghĩ vậy, trong lòng tôi lại thấy hơi dằn vặt, tự nhủ: “Giờ này là lúc nào rồi mà mình vẫn chỉ nghĩ cho bản thân thế này, thật là quá ích kỷ đi mà”. Chính lúc đó, tôi nhớ đến lời của Đức Chúa Trời: “Công tác của Đức Chúa Trời là vì nhân loại, và sự hợp tác của con người là vì sự quản lý của Đức Chúa Trời. Sau khi Đức Chúa Trời đã làm những việc Ngài cần làm, thì con người được yêu cầu không tiếc công thực hành, và phải hợp tác với Đức Chúa Trời. Trong công tác của Đức Chúa Trời, con người không nên tiếc công sức, nên thể hiện lòng trung thành của mình, và không nên đắm chìm trong vô số quan niệm, hoặc ngồi thụ động và chờ đợi cái chết. Đức Chúa Trời có thể hy sinh bản thân Ngài cho nhân loại, vậy thì tại sao con người không thể thể hiện lòng trung thành của mình với Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời một lòng một dạ với con người, vậy thì tại sao con người không thể thể hiện một chút hợp tác? Đức Chúa Trời làm việc vì nhân loại, vậy thì tại sao con người không thể thực hiện một vài bổn phận của mình vì sự quản lý của Đức Chúa Trời? Công việc của Đức Chúa Trời đã đi xa đến mức này, vậy mà các ngươi vẫn chỉ nhìn mà không hành động, các ngươi nghe nhưng không lay động. Chẳng phải những người như thế là những đối tượng của sự diệt vong sao? Đức Chúa Trời đã dành hết mọi thứ của Ngài cho con người, vậy thì tại sao, hôm nay, con người không có khả năng thực hiện bổn phận mình một cách sốt sắng? Với Đức Chúa Trời, công tác của Ngài là ưu tiên số một, và công tác quản lý của Ngài là quan trọng tột bậc. Với con người, đưa những lời của Đức Chúa Trời vào thực hành và thực hiện những yêu cầu của Đức Chúa Trời là ưu tiên hàng đầu của họ. Tất cả các ngươi nên hiểu được điều này” (Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, lương tâm tôi vô cùng cắn rứt. Đảng Cộng sản đang điên cuồng bách hại hội thánh; anh chị em đang gặp nguy hiểm và cần được báo gấp để ẩn náu; sách lời Đức Chúa Trời cũng cần được di chuyển; với lại, còn rất nhiều công tác của hội thánh cần xử lý gấp. Vào lúc thế này, rất cần có người đứng ra để nhanh chóng xử lý ổn thỏa hậu quả và giảm thiểu tổn thất. Như vậy mới hợp với tâm ý Đức Chúa Trời. Nhưng tôi chỉ nghĩ đến sự an nguy của bản thân, hoàn toàn không nghĩ gì đến công tác của hội thánh, cũng không đoái hoài đến tâm ý Đức Chúa Trời. Tôi thấy mình thật không có lương tâm, quá ích kỷ và đê tiện! Thế là tôi đã tiếp nhận bổn phận này, và cùng hai chị em bàn bạc cụ thể cách thức xử lý hậu quả.
Một tối nọ, một người chị em nói không biết có thứ gì đó bị gắn lên xe điện của chị ấy, chúng tôi liền vội vàng kiểm tra, thì phát hiện cả hai chiếc xe điện của chúng tôi đều đã bị gắn thiết bị theo dõi. Điều này có nghĩa là chúng tôi có thể đã bị cảnh sát nhắm đến, và bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ bị bắt. Lúc đó, lòng tôi hoang mang bất an, những cảnh tượng bị tra tấn sau lần bắt giữ trước đây cũng ùa về trước mắt. Hồi đó, để ép tôi khai ra tiền bạc của hội thánh và tố giác anh chị em, cảnh sát đã dùng thủ đoạn tra tấn là không cho tôi ngủ: cả ngày họ không cho tôi ngủ, hễ tôi bắt đầu thiếp đi là họ đánh đập hoặc dọa nạt. Cứ như vậy suốt hai mươi ngày liền. Họ hành hạ tôi đến mức sống không bằng chết, nếu không có sự trông nom và bảo vệ của Đức Chúa Trời, tôi đã chết từ lâu rồi. Mỗi khi nhớ lại những chuyện này, tôi vẫn còn thấy rùng mình. Tôi lại nghĩ, bây giờ mình đã hơn sáu mươi tuổi rồi, sức khỏe cũng không tốt, lại còn bị bệnh tim, cao huyết áp, nếu lại bị bắt nữa, liệu mình có chịu nổi những trận tra tấn, đòn roi tàn bạo không? Đảng Cộng sản hành hạ người tin Đức Chúa Trời thì đúng là không từ một thủ đoạn nào, đánh chết người cũng chẳng phải chịu tội gì. Lỡ như mình bị cảnh sát đánh chết, hoặc bị đánh cho tàn phế không thể tự lo liệu cho bản thân, vậy thì còn tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận thế nào được nữa? Tôi nghĩ: “Thôi bỏ đi, tạm thời đừng thực hiện bổn phận nữa, cứ tìm một nơi nào đó trốn đi trước đã, như vậy tương đối an toàn hơn”. Trong lòng tôi còn oán trách lãnh đạo không biết sắp xếp, sao lại để một người có nguy cơ về an toàn như mình đi xử lý hậu quả cơ chứ? Càng nghĩ như vậy, lòng tôi lại càng chùng xuống. Sau đó, tôi nhận ra tình trạng của mình không ổn, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, đức tin của con quá nhỏ bé. Khi phát hiện xe bị gắn thiết bị theo dõi, con đã chìm trong sợ hãi, chỉ muốn trốn đi như con rùa rụt cổ. Con thật quá ích kỷ. Lạy Đức Chúa Trời, con nguyện cậy dựa Ngài, hướng về Ngài, và dùng đức tin để trải nghiệm hoàn cảnh này, đồng thời cũng mong Ngài dẫn dắt để con phản tỉnh và nhận ra những vấn đề của mình”. Sau khi cầu nguyện, tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Cho đến khi mọi người trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và hiểu được lẽ thật, thì chính bản tính của Sa-tan chiếm hữu và thống trị họ từ bên trong. Cụ thể, bản tính đó bao gồm những gì? Ví dụ, tại sao ngươi ích kỷ? Tại sao ngươi bảo vệ vị trí của chính mình? Tại sao ngươi nặng tình cảm đến thế? Tại sao ngươi vui thích những điều bất chính đó? Tại sao ngươi thích những điều ác đó? Cơ sở để ngươi thích những điều như vậy là gì? Những điều này đến từ đâu? Tại sao ngươi vui đến vậy khi chấp nhận chúng? Đến bây giờ, các ngươi đều đã hiểu ra rằng lý do chính đằng sau tất cả những điều này là độc tố của Sa-tan ở trong con người. Vậy độc tố của Sa-tan là gì? Nó có thể được thể hiện ra như thế nào? Ví dụ, nếu ngươi hỏi: ‘Người ta nên sống thế nào? Người ta nên sống vì điều gì?’ thì người ta sẽ trả lời: ‘Người không vì mình, trời tru đất diệt’. Chỉ một câu nói này đã thể hiện chính gốc rễ của vấn đề. Triết lý và lô-gic của Sa-tan đã trở thành sự sống của con người. Bất kể người ta theo đuổi điều gì thì họ cũng làm như vậy vì bản thân họ – và do đó họ sống chỉ cho bản thân họ. ‘Người không vì mình, trời tru đất diệt’ – đây là triết lý xử thế của con người, và chúng cũng đại diện cho bản tính của con người. Những lời này đã trở thành bản tính của nhân loại bại hoại và chúng là chân dung thật của bản tính Sa-tan của nhân loại bại hoại. Bản tính Sa-tan này đã trở thành nền tảng tồn tại của nhân loại bại hoại. Trong vài ngàn năm qua, nhân loại bại hoại đã sống theo độc tố này của Sa-tan, mãi cho đến tận ngày nay” (Làm thế nào để đi con đường của Phi-e-rơ, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Qua sự vạch rõ của lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng mỗi khi gặp phải hoàn cảnh nguy hiểm, tôi luôn chỉ nghĩ cho bản thân mình, mà gốc rễ của điều này là do đã bị chính những tư tưởng đó – những chất độc của Sa-tan như “Người không vì mình, trời tru đất diệt” và “Không có lợi đừng làm” – ảnh hưởng và hun đúc sâu sắc. Những câu nói này đã trở thành tiêu chuẩn để tôi hành động và đối nhân xử thế. Sống theo những tư tưởng và quan điểm này, tôi trở nên tự tư tự lợi, lấy việc được lợi và không chịu thiệt làm nguyên tắc của mình. Trước đây khi làm việc ngoài xã hội, tôi cũng đối nhân xử thế như vậy, ngay cả việc kết giao bạn bè cũng chọn những người có thể giúp đỡ mình. Sau khi tin Đức Chúa Trời và bắt đầu thực hiện bổn phận, tôi vẫn chỉ nghĩ cho bản thân, thích làm những việc bề ngoài vừa nhẹ nhàng lại vừa được lòng lãnh đạo. Khi hoàn cảnh thoải mái, tôi có thể chịu khổ và dâng mình trong bổn phận, nhưng khi hoàn cảnh trở nên tồi tệ và liên quan đến sự an nguy của bản thân, tôi chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình, hoàn toàn không đoái hoài gì đến công tác của hội thánh. Khi lãnh đạo sắp xếp tôi xử lý hậu quả, điều đầu tiên tôi lo lắng là sự an nguy của bản thân. Đặc biệt là khi phát hiện xe điện của chúng tôi bị gắn thiết bị theo dõi, tôi càng lo sợ bị cảnh sát giám sát, lo rằng ngày nào đó mình có thể bị bắt, thậm chí có nguy cơ mất mạng. Tôi thậm chí đã nghĩ đến việc từ bỏ bổn phận, trốn đi đâu đó để bảo toàn mạng sống của mình trước. Trong đầu tôi chỉ toàn nghĩ đến bản thân, mặc kệ công tác của hội thánh, cũng chẳng quan tâm liệu anh chị em có bị bắt hay không. Tôi thật quá ích kỷ và đê tiện! Việc xử lý hậu quả đòi hỏi phải chạy đua với thời gian, và vào thời điểm then chốt như thế này, bất cứ ai có lương tâm và lý trí cũng sẽ đứng ra bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cố gắng hết sức để giảm thiểu tổn thất. Ngay cả khi điều đó có nghĩa là bị bắt, bị tù đày, hoặc mất mạng, họ cũng sẽ chọn bảo vệ công tác của hội thánh để lòng Đức Chúa Trời được an ủi đôi chút. Còn tôi, khi đối mặt với nguy hiểm, lại chỉ muốn chạy trốn, muốn làm con rùa rụt cổ. Như vậy thì còn chút nhân tính nào nữa đâu? Nhận ra điều này, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ, hối hận và căm ghét chính mình. Tôi không muốn trốn chạy khỏi hoàn cảnh này nữa, và sẵn lòng thuận phục để xử lý hậu quả cho ổn thỏa.
Sau đó, tôi lại đọc được một đoạn lời khác của Đức Chúa Trời: “Bất kể Sa-tan ‘hùng mạnh’ đến đâu, bất kể nó trơ tráo và tham vọng như thế nào, bất kể khả năng gây hại của nó lớn cỡ nào, bất kể những chiêu trò nó dùng để làm hư hoại và dụ dỗ con người có đa dạng ra sao, bất kể những trò bịp bợm và mưu đồ nó dùng để dọa dẫm con người có tinh ranh cỡ nào, bất kể hình thức tồn tại của nó có thể thay đổi như thế nào, thì nó cũng chưa bao giờ có thể tạo ra một sinh vật sống nào, chưa bao giờ có thể đặt ra các luật lệ và quy tắc cho sự tồn tại của muôn vật, nó chưa bao giờ có thể cai trị và kiểm soát bất kỳ vật gì, có sự sống hay không có sự sống. Trong khắp vũ trụ bao la rộng lớn, không có một người nào hay vật gì được sinh ra từ nó, hoặc tồn tại vì nó; không có một người nào hay vật gì bị nó cai trị hoặc bị nó kiểm soát. Ngược lại, nó không những phải sống dưới sự thống trị của Đức Chúa Trời, mà hơn thế nữa, còn phải thuận phục tất cả những lệnh truyền và mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, thì Sa-tan khó mà đụng đến thậm chí một giọt nước hay một hạt cát trên đất; không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, Sa-tan thậm chí không được tự ý di chuyển những con kiến trên đất, chứ đừng nói đến loài người, những người đã được Đức Chúa Trời tạo ra. Trong mắt Đức Chúa Trời, Sa-tan còn thấp kém hơn những bông hoa huệ trên núi, những con chim bay trên trời, những con cá dưới biển và những con giòi trên đất. Vai trò của nó giữa muôn vật là phục vụ muôn vật, phục vụ loài người, phục vụ công tác của Đức Chúa Trời và kế hoạch quản lý của Ngài” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời thật có thẩm quyền và quyền năng! Đọc xong lời Ngài, lòng tôi tràn đầy đức tin, nhận ra rằng dù Đảng Cộng sản có lộng hành đến mấy thì vẫn ở trong tay Đức Chúa Trời. Nó chỉ là công cụ để Đức Chúa Trời dùng nhằm hoàn thiện dân được Ngài chọn. Mọi việc nó làm đều nằm trong phạm vi cho phép của Đức Chúa Trời, nếu Đức Chúa Trời không cho phép, nó cũng không thể làm hại được ai. Dù cho có đối mặt với cảnh sát, tôi cũng sẽ không bị bắt. Tôi nhớ lại mấy năm trước, khi nhiều lãnh đạo và người làm công ở khu vực chúng tôi bị bắt, chúng tôi vẫn nhóm họp mà không hề hay biết. Đột nhiên, có hơn mười cảnh sát đến gõ cửa. Họ gõ liên tục mấy phút liền, còn chúng tôi thì cứ cầu nguyện mãi và không mở cửa. Nửa tiếng sau, cảnh sát nghĩ không có ai ở nhà nên đã cử hai người ở lại canh gác, những người còn lại thì bỏ đi. Sau đó, chúng tôi quan sát qua cửa sổ, và khi cảnh sát không để ý, chúng tôi đã nhân cơ hội đó để trốn thoát. Một lần khác, sau khi chúng tôi nhóm họp xong, tôi và một người anh em vừa rời đi thì hai chị em khác đã bị cảnh sát chặn lại trong phòng. Các chị em vội vàng ôm máy tính trốn dưới gầm giường, không ngờ rằng dù cảnh sát lại không phát hiện ra dù họ ở ngay trước mắt. Từ những sự thật này, tôi đã thấy được sự toàn năng của Đức Chúa Trời, và tôi biết rằng mọi sự đều ở trong tay Ngài. Dù xe điện của tôi bị gắn thiết bị theo dõi, việc tôi có bị bắt hay không không phải do cảnh sát quyết định, mà là do Đức Chúa Trời quyết định. Nếu Đức Chúa Trời cho phép tôi bị cảnh sát bắt, thì dù tôi có trốn ở đâu cũng không thoát được. Tôi phải thuận phục sự tể trị và sắp đặt của Đức Chúa Trời. Nhận ra điều này, lòng tôi được vững vàng và bình tĩnh lại, không còn quá rụt rè sợ hãi nữa. Sau đó, chúng tôi tiếp tục công tác xử lý hậu quả, di chuyển an toàn tất cả sách lời Đức Chúa Trời và đưa các anh chị em đến những nơi an toàn để thực hiện bổn phận.
Sau khi sắp xếp xong công tác của hội thánh này, tôi lại đến một hội thánh khác để xử lý hậu quả ở đó. Tôi tìm hai người phụ trách để bàn bạc cách nhanh chóng khôi phục lại công tác hội thánh cho bình thường. Nhưng hoàn toàn không ngờ tới, xe điện của một trong hai người phụ trách đó cũng bị gắn thiết bị theo dõi, cảnh sát thậm chí còn đến nơi ở của chúng tôi để dò la tình hình. Bầu không khí căng thẳng lại một lần nữa bao trùm chúng tôi, và tôi cảm thấy vô cùng ngột ngạt. Đảng Cộng sản như bóng ma, không ngừng bắt bớ và bách hại người tin Đức Chúa Trời, gây rối và phá hoại công tác của hội thánh. Thật đáng nguyền rủa muôn phần! Ngày hôm sau, tôi lại nhận được thư của lãnh đạo cấp trên, sắp xếp tôi và một chị em xử lý một lá thư tố cáo. Thư báo rằng có một kẻ địch lại Đấng Christ đang nắm quyền trong hội thánh, áp bức và hành hạ người khác, gây ra hỗn loạn trong hội thánh. Họ nói sự việc khá khẩn cấp và yêu cầu tôi xử lý ngay lập tức. Lúc đó tôi không muốn đi, trong lòng còn oán trách người viết thư tố cáo, nghĩ thầm: “Hoàn cảnh đã đủ tồi tệ rồi, lại còn chọn đúng lúc này mà viết thư tố cáo. Chúng tôi xử lý hậu quả đã đủ bận rồi, anh chị còn thêm dầu vào lửa nữa!”. Đúng lúc đó, tôi lại biết tin hai người bị bắt đã trở thành Giu-đa, và cả hai đều quen biết tôi. Cảnh sát thậm chí còn hỏi họ về tình hình của tôi, và tôi không biết họ đã tiết lộ bao nhiêu thông tin của mình cho cảnh sát. Tôi nghĩ: “Cảnh sát vốn đã truy lùng mình rồi, nếu mình lại lộ diện nữa, chẳng phải là tự đâm đầu vào họng súng sao? Nếu bị bắt, cảnh sát sẽ không dễ dàng buông tha cho mình đâu. Dù không đánh chết thì chắc chắn cũng đánh cho mình tàn phế”. Lòng tôi vô cùng mâu thuẫn: “Việc xử lý thư tố cáo liên quan đến công tác của hội thánh, nếu những kẻ địch lại Đấng Christ và những kẻ ác này không được xử lý kịp thời thì sẽ gây thêm hỗn loạn, anh chị em cũng sẽ tiếp tục bị áp bức, hành hạ. Nhưng lá thư tố cáo này liên quan đến mấy hội thánh, còn phải đến tận nơi điều tra xác minh, nếu mình cứ lộ diện như vậy, sớm muộn gì cũng có nguy cơ bị bắt!”. Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy vô cùng căng thẳng, lòng không tài nào bình tĩnh lại được. Thế là tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài ban cho tôi đức tin và sức mạnh. Sau khi cầu nguyện, tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời đề cập đến việc các môn đồ của Đức Chúa Jêsus đã tử vì đạo vì Ngài. Tôi vội vàng tìm những lời này để đọc.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Các môn đồ đó của Đức Chúa Jêsus đã chết như thế nào? Trong số các môn đồ, có những người bị ném đá, bị kéo lê phía sau một con ngựa, bị đóng đinh lộn ngược xuống, bị ngũ mã phanh thây – mọi kiểu chết chóc đã xảy đến với họ. Lý do cho cái chết của họ là gì? Họ đã bị xử tử đúng luật vì tội lỗi của họ phải không? Không. Họ loan truyền phúc âm của Chúa, nhưng người đời không tiếp nhận, ngược lại còn lên án, đánh chửi, còn đẩy họ vào chỗ chết – đó là cách mà họ tử vì đạo. … Thật ra, đây là cách thể xác của họ đã chết và qua đời; đây là cách thức họ rời khỏi thế giới loài người, nhưng điều đó không có nghĩa kết cục của họ là như vậy. Bất kể những cách thức họ chết và ra đi như thế nào đi nữa, hay nó đã xảy ra làm sao, thì cũng không phải là cách Đức Chúa Trời quy định kết cục cuối cùng cho những sinh mệnh, cho những loài thọ tạo đó. Đây là một điều ngươi phải thấy rõ. Trái lại, họ đã sử dụng một cách chính xác những cách thức đó để lên án thế gian này và làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời. Những loài thọ tạo này đã sử dụng mạng sống quý giá nhất của họ – họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của sự sống để làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời, để làm chứng cho quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời và tuyên bố cho Sa-tan và thế gian rằng những việc làm của Đức Chúa Trời là đúng, rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, rằng Ngài là Chúa và là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời. Thậm chí đến giây phút cuối cùng của sự sống họ, họ không bao giờ chối bỏ danh của Đức Chúa Jêsus. Đây chẳng phải là một hình thức tuyên án thế gian này hay sao? Họ đã dùng mạng sống của mình để tuyên bố với thế gian, để xác nhận với loài người rằng Đức Chúa Jêsus là Chúa, rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, rằng Ngài là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, rằng công tác cứu chuộc toàn nhân loại mà Ngài làm khiến cho nhân loại này được tiếp tục sống sót – sự thật này đời đời không bao giờ thay đổi. Những người đã tử vì đạo vì rao truyền phúc âm của Đức Chúa Jêsus, họ đã thực hiện bổn phận của mình đến mức độ nào? Đã đến mức tối đa chưa? Mức tối đa được biểu lộ như thế nào? (Họ đã dâng mạng sống của mình.) Đúng vậy, họ đã trả giá bằng mạng sống của mình” (Rao truyền phúc âm là bổn phận không thể thoái thác của tất cả những người tin Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Khi những người trung thành với Đức Chúa Trời biết rõ hoàn cảnh đang nguy hiểm, họ vẫn bất chấp nguy hiểm để làm tốt việc giải quyết hậu quả và họ giữ cho những tổn thất đối với nhà Đức Chúa Trời ở mức tối thiểu, sau đó họ mới rút lui. Họ không ưu tiên sự an nguy của riêng mình. Các ngươi nói xem, ở đất nước tà ác của con rồng lớn sắc đỏ này, ai có thể đảm bảo rằng không hề có mối nguy hiểm nào khi tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận? Bất kể một người đảm nhận bổn phận gì thì cũng đều có hiểm nguy nào đó – tuy nhiên việc thực hiện bổn phận là do Đức Chúa Trời ủy thác, và trong khi đi theo Đức Chúa Trời, người ta phải chấp nhận hiểm nguy khi thực hiện bổn phận của mình. Người ta nên vận dụng sự khôn ngoan và cần thực hiện các biện pháp để đảm bảo an toàn, nhưng không nên đặt an nguy cá nhân của mình lên hàng đầu. Họ nên quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, đặt công tác của nhà Ngài và việc rao truyền phúc âm lên hàng đầu. Hoàn thành sự ủy thác Đức Chúa Trời giao cho ngươi là điều quan trọng nhất, và điều này được đặt lên hàng đầu. Những kẻ địch lại Đấng Christ đặt sự an nguy cá nhân lên hàng đầu; cảm thấy mọi chuyện khác đều không liên quan đến họ. Bất kể ai gặp chuyện gì họ cũng mặc kệ, chỉ cần bản thân không sao là được rồi, như thế là họ thấy thoải mái. Họ không có chút lòng trung thành nào, là điều được quyết định bởi thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ” (Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 2)). Vào Thời đại Ân điển, các môn đồ của Đức Chúa Jêsus đã làm chứng cho Ngài và truyền bá phúc âm, và vì điều này, họ bằng lòng hy sinh mạng sống mình. Ví dụ, Phi-e-rơ đã vì Đức Chúa Trời mà bị đóng đinh ngược trên thập tự giá, một lòng trung thành cho đến chết; Ê-tiên thì bị ném đá đến chết vì loan truyền phúc âm của Đức Chúa Jêsus, vân vân. Họ đã trả giá bằng mạng sống mình để loan truyền lời Đức Chúa Trời và làm chứng cho công tác của Ngài trước thế gian. Mặc dù họ bị bách hại và chết về phần xác thịt, nhưng cái chết của họ thật có giá trị và ý nghĩa, và họ đã được Đức Chúa Trời khen ngợi. Tôi nghĩ đến việc, vào thời kỳ sau rốt, nhiều người thật lòng tin và đi theo Đức Chúa Trời, vì loan truyền và làm chứng cho phúc âm thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng, mà đã bị bắt giữ và phải chịu đựng sự tra tấn tàn khốc. Một số người đã bị đánh đến chết, một số bị đánh cho tàn phế, nhưng họ thà ngồi tù cả đời chứ không chịu phủ nhận hay phản bội Đức Chúa Trời. Họ thà chết chứ không chịu làm Giu-đa. Cuối cùng, họ đã làm chứng đắc thắng Sa-tan. Hiện tại, hội thánh đang gấp rút cần người xử lý công tác, nhưng tôi lại luôn đặt sự an nguy của bản thân lên hàng đầu, coi mạng sống của mình quan trọng hơn tất cả. Tôi chẳng hề trung thành hay thuận phục Đức Chúa Trời, nói gì đến việc làm chứng cho Ngài. Sống lay lắt một cách thấp hèn thế này mà không thực hiện bổn phận thì còn có ý nghĩa gì nữa? Tôi cũng nhận ra sự lĩnh hội của mình thật lệch lạc, vì tôi luôn lo sợ rằng nếu bị đánh chết hoặc đánh cho tàn phế, tôi sẽ mất cơ hội được cứu rỗi. Nhưng trên thực tế, được cứu rỗi là nói đến việc trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời đến mức người ta có thể thoát bỏ được tâm tính bại hoại của mình và đạt được sự thuận phục thật sự đối với Đức Chúa Trời. Nếu tôi không thể thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, nếu không mưu cầu lẽ thật và làm tốt bổn phận của mình, cũng không thoát khỏi tâm tính bại hoại, trong hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt, mà thay vào đó lại chọn cách chạy trốn, làm con rùa rụt cổ, thì tôi mới thực sự đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Nhận ra điều này, tôi quyết tâm thuận phục sự tể trị và sắp đặt của Đức Chúa Trời, và dù sau này có phải đối mặt với hoàn cảnh nào đi nữa, trước hết tôi sẽ làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. Nếu một ngày nào đó thực sự bị bắt, đó cũng là sự cho phép của Đức Chúa Trời, và tôi sẽ noi gương các môn đồ của Đức Chúa Jêsus, trung thành với Đức Chúa Trời cho đến chết. Thế là, tôi cải trang, vừa xử lý hậu quả, vừa tiến hành xác minh lá thư tố cáo. Sau đó, qua xác minh, tôi phát hiện hầu hết nội dung trong thư tố cáo không phù hợp với sự thật, một phần nhỏ còn là vu khống và hãm hại. Tôi cũng biết được người viết thư tố cáo này thường xuyên săm soi người này chuyện kia, gây chuyện thị phi, còn kích động chia rẽ, ai góp ý thì liền trả thù người đó, nhân tính rất ác. Cuối cùng, với sự đồng ý của đa số thành viên trong hội thánh, người đó đã bị khai trừ khỏi hội thánh.
Qua trải nghiệm xử lý hậu quả lần này, tôi đã có chút nhận thức về bản tính ích kỷ của mình, đồng thời tôi cũng thấy rằng công tác của Đức Chúa Trời thật vô cùng khôn ngoan. Đức Chúa Trời dùng sự bắt bớ và bách hại của Đảng Cộng sản để phục vụ cho việc hoàn thiện dân được Ngài chọn, và cũng để tỏ lộ các loại người. Ví dụ, lần này nhiều lãnh đạo, người làm công và anh chị em trong hội thánh bị bắt, có người vì muốn bảo toàn bản thân trong hoàn cảnh ác liệt mà sợ hãi không dám thực hiện bổn phận nữa; có người sau khi bị bắt, vì muốn bảo toàn mạng sống đã trở thành Giu-đa, bán đứng anh chị em, thậm chí còn ký vào “Tam Thư” để phủ nhận và phản bội Đức Chúa Trời. Nhưng cũng có một số người, sau khi bị bắt và trải qua sự tẩy não, cưỡng bức, dụ dỗ và tra tấn của con rồng lớn sắc đỏ, vẫn không đánh mất đức tin nơi Đức Chúa Trời. Họ thà chịu cảnh tù đày, bị kết án chứ không chịu làm Giu-đa, thề chết không phản bội Đức Chúa Trời. Họ đã làm chứng tốt đẹp và vang dội cho Đức Chúa Trời, và dù xác thịt phải chịu nhiều đau khổ, nhưng lời chứng của họ đã được Đức Chúa Trời khen ngợi và ghi nhớ. Cứ như vậy, Đức Chúa Trời đã phân chia từng người theo loại của mình. Mặc dù con rồng lớn sắc đỏ vẫn đang bắt bớ và bách hại chúng tôi, nhưng các công tác của hội thánh vẫn diễn ra bình thường; những anh chị em gặp nguy hiểm cũng như sách lời Đức Chúa Trời đều đã được di chuyển đến nơi an toàn; những kẻ ác và những kẻ chẳng tin gây ra sự nhiễu loạn và gián đoạn cũng đã bị thanh trừ khỏi hội thánh. Hoàn cảnh này cho phép tôi thấy được những việc làm kỳ diệu của Đức Chúa Trời, và rằng tất cả công tác của Đức Chúa Trời đều do chính Ngài thực hiện. Đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời cũng lớn mạnh thêm. Tạ ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?
Bởi Miễu Tiểu, Hàn Quốc Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt dùng nhiều lẽ thật khác nhau để dạy dỗ con người, để...
Bởi Junior, Châu Phi Từ khi còn nhỏ, tôi luôn bị ảnh hưởng bởi xã hội. Làm gì tôi cũng thích làm theo người khác. Những người quanh tôi là...
Bởi Tiểu Mạch, Tây Ban Nha Bắt đầu từ năm ngoái, tôi phụ trách việc chăm tưới trong hội thánh người mới. Một lần nọ, trong một cuộc họp,...
Bởi Vạn Tâm Bình, Trung Quốc Tháng Ba năm 2020, tôi chuyển đến một hội thánh mới. Ở hội thánh cũ, tôi là một lãnh đạo, và các anh chị em...