Tình nghĩa không được hơn nguyên tắc
Khoảng sáu tháng trước, tôi và Ruthy thực hiện bổn phận trong cùng một nhóm. Ruthy có học thức cao, có tố chất tốt và rất giỏi kỹ năng chuyên môn. Chị ấy được đánh giá cao trong nhóm. Còn phần tôi, cho dù xét về phương diện nào, tôi cũng luôn đầy thiếu sót. Tôi thường làm hỏng việc trong bổn phận và bị phơi bày, nhưng mà Ruthy không bao giờ khinh thị hay xem thường tôi, lại còn luôn an ủi và khích lệ tôi. Nghĩ ra chuyện gì là chị ấy lại đến chuyện trò với tôi, khiến tôi rất cảm động và trong lòng tôi xem chị ấy là bạn thân. Dù tôi biết tâm tính chị ấy có phần kiêu ngạo và cũng không dễ tiếp thu góp ý của người khác, nhưng vì tình cảm dành cho chị ấy, nên tôi không bao giờ chỉ ra vấn đề cho chị. Tôi còn nghĩ rằng ai mà chẳng có tâm tính bại hoại, chuyện này đâu thể giải quyết một sớm một chiều. Suốt một thời gian, tôi cứ liên tục gặp vấn đề trong bổn phận, và lòng đầy tiêu cực, tôi đã muốn từ bỏ, nhưng ngay khi đó Ruthy đã chủ động đề xuất cộng tác với tôi và kiên nhẫn giúp đỡ tôi về vấn đề kỹ thuật. Tôi đã có được một số kết quả trong bổn phận và cuối cùng có thể thở phào nhẹ nhõm. Ruthy đã giúp tôi vượt qua khủng hoảng, nên tôi cảm thấy chị ấy thật sự yêu mến tôi, và tôi thật lòng biết ơn chị ấy. Một thời gian sau, chị ấy trở thành lãnh đạo. Tôi thật lòng mừng cho chị ấy và thường xuyên động viên chị ấy.
Một tối nọ, khi tôi chuẩn bị đi ngủ, đột nhiên Ruthy nhắn tin cho tôi, nói rằng chị đã bị cách chức và đang tan nát cõi lòng. Khi nói chuyện với chị, tôi mới biết có một số anh chị em đã phản ánh về chị. Lãnh đạo đã đọc chi tiết thư phản ánh cho chị nghe, chị thấy đó đều là chuyện phóng đại và khó lòng chấp nhận nổi. Ví dụ như, các anh chị em nói chị vô cùng ham muốn danh lợi và địa vị, dù chị thừa nhận có xem trọng những thứ đó, nhưng mà làm gì đến mức “vô cùng ham muốn” chứ. Thư phản ánh còn nói rằng chị không cộng tác hòa hợp, không làm công tác thực tế, rồi khi chuyện không theo ý mình thì chị hậm hực, gây nhiễu loạn công tác của hội thánh. Chị thừa nhận mình có vài vấn đề trong bổn phận, nhưng không đến nỗi như thế. Khi kể lể nỗi bất bình, chị còn òa khóc. Chị ấy còn nói những ngời viết thư phản ánh này toàn là thành phần bất hảo, và chị có thành kiến với những người đã phản ánh lẫn lãnh đạo xử lý vấn đề này, còn nghĩ lãnh đạo này chỉ nghe câu chuyện phiến diện. Chị ấy còn nói dù chị có vấn đề trong bổn phận, nhưng đâu có ai thông công mấy chuyện đó để giúp chị, giờ lại đột ngột cách chức chị khiến chị quá đỗi bất công. Chị càng nói, nỗi bất bình càng dâng cao. Thấy chị ấy khổ sở như thế, trong lòng tôi cùng thấy buồn, nhưng khi an ủi chị, tôi tự nhủ: “Những lời trong thư phản ánh thật sự là thổi phồng quá mức sao? Chị ấy thật sự bị cách chức oan sao?”. Lúc đó, đột nhiên Ruthy nói ra một câu khiến trong lòng tôi bỗng thấy rất không ổn: Chị ấy bảo: “Theo tôi thấy, thư phản ánh này hệt như đấu tố thời cách mạng văn hóa. Họ chỉ muốn tung cả đống tội danh chống lại tôi để nhằm triệt hạ và bôi xấu tôi”. Nghe chị ấy nói vậy, tôi bỗng giật mình. Tôi cảm thấy chị ấy nói vậy thì kỳ quá. Bị phản ánh và cách chức là vấn đề nghiêm trọng, thế mà chị ấy chẳng phản tỉnh bản thân, tìm kiếm lẽ thật, cũng không rút ra bài học gì. Lại còn so sánh việc anh chị em phản ánh và cách chức chị với kiểu đấu tố của Trung Cộng, cảm thấy họ đang cố trừng phạt chị. Vấn đề này thật sự nghiêm trọng đây! Tôi liền nhắc nhở chị đừng nói những lời như thế, và chị nên phản tỉnh đi.
Sau đó, tôi nghe những anh chị em cộng tác với chị nói rằng trong thời gian làm lãnh đạo, chị không làm công tác thực tế, cũng không cộng tác hòa hợp, hiếm khi để tâm đến công tác vốn là trách nhiệm của chị. Khi lãnh đạo theo dõi công tác của chị và phát hiện ra vấn đề thì đã thông công hỗ trợ, chỉ ra và xử lý chị, nhưng chị cứ phản đối, không tiếp thu, luôn viện cớ, đùn đẩy trách nhiệm và nói đây là vấn đề của người khác, thậm chí chối bỏ hết trách nhiệm của mình. Theo những điều này, tôi thấy chắc chắn rằng nội dung thư phản ánh của các anh chị em đúng là xác thực. Rồi tôi nghĩ đến chuyện Ruthy nói thư phản ánh đó chẳng khác gì kiểu đấu tố thời cách mạng văn hóa, và tôi biết chuyện này thực sự nghiêm trọng rồi đây. Rõ ràng chị ấy không làm công tác thực tế, không tiếp thu khi được lãnh đạo xử lý. Chị ấy là lãnh đạo giả đáng bị cách chức. Nhưng chị ấy chẳng phản tỉnh bản thân, lại so sánh một thư phản ánh chính đáng của các anh chị em với kiểu đấu tố của Trung Cộng. Như thế không chỉ là không tiếp nhận lẽ thật, mà còn là bóp méo sự thật và xuyên tạc thực tế! Đấy chính là chống đối và làm loạn, là phỉ báng những điều tích cực, và là sự xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời! Càng suy nghĩ, tôi càng thấy sợ hãi. Tôi cảm thấy tâm tính chị ấy tà ác, nếu cứ tiếp tục chống đối, không chịu phản tỉnh hay ăn năn, thì chị ấy sẽ bị thanh lọc chiếu theo nguyên tắc thanh trừ và đào thải của hội thánh. Tôi đã cân nhắc có nên phản ánh lên lãnh đạo về tình trạng hiện thời của chị ấy và những lời chị ấy nói với tôi không. Nhưng rồi tôi nghĩ: “Nếu lãnh đạo biết về tình trạng của chị ấy, đặt cạnh hành vi của chị ấy khi làm lãnh đạo, rồi xác định rằng chị ấy là kẻ hành ác hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật, liệu chị ấy có bị thanh lọc khỏi hội thánh không?”. Nghĩ đến những chuyện đó, lòng tôi cứ day dứt. Đấy thật sự không phải là kết quả mà tôi mong đợi. Tôi cũng nghĩ về những lúc chúng tôi tiếp xúc với nhau, về việc chị ấy đã rất tốt với tôi, và thấy tôi nên cố giúp đỡ và an ủi chị ấy hơn nữa. Nếu biết tôi phản ánh lên lãnh đạo về những điều chị ấy tâm sự với tôi, thì chị ấy sẽ bị tổn thương lắm. Chị đã mở lòng nói những điều đó với tôi vì chị ấy tin tôi, giờ mà tôi phản ánh chị ấy lên lãnh đạo thì quá vô tình vô nghĩa. Tôi cứ trăn đi trở lại chuyện này, chẳng biết nói sao nữa. Tôi cứ suy nghĩ rằng làm như thế sẽ là phản bội bạn bè, thậm chí là vô lương tâm. Và thế là tôi không nêu vấn đề của chị ấy với bất kỳ ai. Mỗi khi có thời gian, tôi lại nhắn tin hỏi thăm tình hình chị ấy hoặc gửi lời Đức Chúa Trời cho chị ấy. Tôi mong chị ấy có thể điều chỉnh tình trạng sai trái của mình và làm tròn bổn phận càng sớm càng tốt. Dù đang bảo vệ tình cảm chị em với Ruthy, nhưng trong lòng tôi cứ thấy bất an. Tôi biết vấn đề của chị ấy khá nghiêm trọng, nhưng tại sao tôi chẳng nói gì. Chẳng phải tôi đang che đậy cho chị ấy sao? Suốt thời gian đó, lòng tôi cứ rối bời. Không nói gì, thì tôi thấy cắn rứt lương tâm, nhưng nếu nói ra, tôi lại thấy mình phụ lòng Ruthy. Toàn bộ chuyện này thật sự khiến tôi khó xử, chẳng biết phải làm sao. Vậy là, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi, giúp tôi hiểu được ý Ngài về chuyện này và tìm ra con đường thực hành.
Một hôm nọ, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Các ngươi phải học cách phân định đâu là hành vi tốt, đâu là thực hành lẽ thật và thay đổi tâm tính của mình. Thay đổi tâm tính mình bao gồm thực hành lẽ thật, lắng nghe lời Đức Chúa Trời, vâng lời Ngài và sống theo lời Ngài. Vậy một người phải làm gì để thực hành và sống theo lời Đức Chúa Trời? Giả sử có hai người là bạn rất tốt của nhau. Họ đã giúp đỡ nhau trước đây, họ đã cùng nhau vượt qua những lúc khó khăn và họ sẽ hy sinh mạng sống của mình để cứu nhau. Đó có phải là thực hành lẽ thật không? Đó là tình bằng hữu, đó là coi trọng người khác hơn bản thân mình, đó là hành vi tốt, nhưng không phải là thực hành lẽ thật. Thực hành lẽ thật là hành động theo lời và yêu cầu của Đức Chúa Trời, là vâng lời và làm hài lòng Đức Chúa Trời. Hành vi tốt chỉ là để thỏa mãn các mối quan hệ của thể xác và duy trì sự gắn kết tình cảm. Vì vậy, tình bằng hữu, bảo vệ các mối quan hệ, giúp đỡ, bao dung và làm hài lòng nhau, đây đều là những việc riêng tư, cá nhân và không liên quan gì đến thực hành lẽ thật. Vậy Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải đối xử với người khác như thế nào? (Đức Chúa Trời yêu cầu chúng ta phải đối xử với nhau theo nguyên tắc. Nếu người khác làm điều gì sai trái, điều gì không phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật, thì chúng ta không được nghe theo họ, ngay cả khi đó là cha mẹ của chính mình. Chúng ta phải bám sát các nguyên tắc của lẽ thật và bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời.) (Đức Chúa Trời yêu cầu các anh chị em phải giúp đỡ lẫn nhau. Nếu thấy người khác có vấn đề, chúng ta phải chỉ ra, thông công về vấn đề đó và cùng nhau tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật để giải quyết. Chỉ bằng cách làm như vậy, chúng ta mới thực sự giúp đỡ họ.) Ngài muốn hành vi của con người đối với nhau phải được xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc của lẽ thật, bất kể mối quan hệ của họ là gì. Bất cứ điều gì nằm ngoài những nguyên tắc này đều không được tính là thực hành lẽ thật. Ví dụ: một người làm điều gì đó gây tổn hại đến công tác của hội thánh mà mọi người đều chỉ trích và phản đối. Bạn của anh ta nói: ‘Các người không phải vạch trần người ta chỉ vì người ta đã phạm sai lầm nữa! Tôi là bạn của anh ấy; trước hết, tôi phải thông cảm cho anh ấy; tôi phải khoan dung với anh ấy và giúp đỡ anh ấy. Tôi không thể chỉ trích anh ấy như các người được. Tôi phải an ủi anh ấy, không làm tổn thương anh ấy, và tôi sẽ nói với anh ấy rằng lỗi lầm đó không có gì to tát. Ai mà chỉ trích và gây khó dễ cho anh ấy một lần nữa thì biết tay tôi. Các người chẳng ai thân thiết với anh ấy bằng tôi. Chúng tôi là bạn tốt. Bạn bè phải quan tâm đến nhau, và tôi sẽ bảo vệ anh ấy khi cần’. Đây có phải là thực hành lẽ thật không? (Không, đây là một triết lý sống.) Tâm lý của người này cũng dựa trên một nền tảng lý thuyết khác: anh ta tin rằng ‘Bạn tôi đã giúp tôi trong lúc cuộc đời tôi khó khăn nhất, đau đớn nhất. Mọi người đều bỏ rơi tôi, chỉ có anh ấy là chăm sóc và giúp đỡ tôi. Bây giờ anh ấy đang gặp rắc rối, đến lượt tôi phải giúp anh ấy – tôi cảm thấy đây mới là có lương tâm và có nhân tính. Làm sao các người có thể gọi mình là con người nếu các người tin Đức Chúa Trời nhưng thậm chí không có một chút lương tâm nào? Chẳng phải nếu thế thì đức tin nơi Đức Chúa Trời và việc thực hành lẽ thật của các người chỉ là những lời sáo rỗng sao?’. Những lời này nghe có vẻ đúng. Hầu hết mọi người đều không phân định được thực chất của chúng – ngay cả người đã nói ra những lời đó, anh ta nghĩ rằng hành động của mình bắt nguồn từ lẽ thật. Nhưng những hành động của anh ta có đúng không? Thực tế thì không đúng. Xem xét kỹ hơn, từng lời anh ta nói đều bắt nguồn từ đạo đức, luân lý và lương tâm. Theo thước đo của đạo đức con người, người này có lương tâm và đứng đắn. Bảo vệ bạn mình như thế này khiến anh ta là một người tốt. Nhưng có ai biết đằng sau ‘người tốt’ này ẩn giấu tâm tính và thực chất gì không? Anh ta không phải là một tín hữu thực sự của Đức Chúa Trời. Trước hết, khi có chuyện xảy ra, anh ta không nhìn nhận tình huống theo lời Đức Chúa Trời. Anh ta không tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, mà thay vào đó chọn nhìn nhận vấn đề theo luân lý, đạo đức và châm ngôn sống của người ngoại đạo. Anh ta coi những dị giáo và ngụy biện của Sa-tan là lẽ thật, gạt lời Đức Chúa Trời sang một bên. Làm thế là anh ta đang nhạo báng lẽ thật và phớt lờ những gì lời Đức Chúa Trời phán. Điều này cho thấy anh ta không yêu lẽ thật. Anh ta thay thế lẽ thật bằng những châm ngôn sống của Sa-tan cùng những quan niệm, đạo đức và luân lý của con người, đồng thời hành động theo triết lý của Sa-tan. Anh ta thậm chí còn tự tin nói rằng đây là thực hành lẽ thật và đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời, rằng đây là cách hành động công chính. Chẳng phải anh ta chỉ đang sử dụng vỏ bọc công chính này để vi phạm lẽ thật sao?” (Hành vi tốt không có nghĩa là tâm tính của người ta đã thay đổi, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời phơi bày chính xác tình trạng của tôi. Tôi phản tỉnh về suy nghĩ của mình trong mấy ngày qua. Dù tôi biết Ruthy không tiếp nhận lẽ thật và bí mật gieo rắc sự tiêu cực và lan truyền dối trá, nhưng tôi bao che, không phản ánh về chị ấy. Tất cả là vì tôi bị ảnh hưởng bởi triết lý Sa-tan như “sẵn sàng hy sinh vì bạn bè” và nghĩ rằng trọng tình nghĩa, trọng nhân nghĩa là có đạo đức. Khi là người ngoại đạo, tôi đã xem rất nhiều nhân vật trên phim và truyện tuyệt đối tận tâm với bạn bè, trong lòng rất thán phục họ. Tôi cảm thấy làm như thế mới là chính nhân quân tử và là người tốt thực sự. Họ là hình mẫu sống của tôi. Tôi tự nhủ mình phải là người xem trọng tình nghĩa, đề cao nghĩa khí, nếu ai đó có ân với mình thì phải đền đáp gấp bội, tuyệt đối không được làm gì phụ lòng họ, nếu không thì sẽ là vô lương tâm, đáng khinh bỉ. Sau khi tin Đức Chúa Trời, những kiểu suy nghĩ đó vẫn còn trong tôi. Nếu có ai tốt với tôi, thể hiện sự quan tâm đặc biệt dành cho tôi, thì tôi sẽ ghi nhớ ân tình đó, và nếu họ gặp bất kể khó khăn, bất kể vấn đề gì, tôi sẽ luôn giúp đỡ họ và không bao giờ làm gì tổn hại tình bằng hữu. Vì tôi bị ràng buộc bởi cái gọi là “đạo đức” này, nên dù biết Ruthy có vấn đề và tôi nên giữ vững nguyên tắc mà phản ánh về chị ấy, nhưng tôi lại không thể làm được việc thực hành lẽ thật. Tôi cứ nghĩ rằng nếu mình nói ra những gì chị ấy tâm sự riêng, thì sẽ là phụ lòng chị ấy. Những triết lý Sa-tan này đang kiểm soát tôi, khiến tôi không thể phân biệt đúng sai, hoàn toàn không có nguyên tắc. Càng phản tỉnh, tôi càng thấy mình quá đỗi ngu muội, quá đỗi hồ đồ. Dù tôi tin Đức Chúa Trời và đọc lời Ngài, nhưng mỗi khi gặp chuyện tôi vẫn dựa vào triết lý Sa-tan. Cuối cùng, tôi thấy được mình thật thảm hại, chẳng có chút thực tế của lẽ thật nào!
Sau đó, tôi đọc được thêm một đoạn lời Đức Chúa Trời “Làm sao có thể có sự tốt lành trong những kẻ không yêu mến lẽ thật chứ? Làm sao có thể có sự công chính trong những kẻ chỉ yêu xác thịt? Chẳng phải cả sự công chính lẫn sự tốt lành đều chỉ được nhắc đến khi liên quan đến lẽ thật hay sao? Chẳng phải chúng được dành riêng cho những ai hết lòng yêu kính Đức Chúa Trời hay sao? Những kẻ không yêu lẽ thật và những kẻ chỉ là những xác chết thối rữa – chẳng phải tất cả những kẻ này đều chứa chấp sự xấu xa hay sao? Những kẻ không thể sống thể hiện ra lẽ thật – chẳng phải tất cả bọn chúng đều là kẻ thù của lẽ thật hay sao? Vậy còn các ngươi thì sao?” (Chỉ những người được hoàn thiện mới có thể sống một cuộc đời có ý nghĩa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ngươi có thể đặc biệt tử tế và tận tình với bà con, bạn bè, vợ (hay chồng), con trai và con gái, cha mẹ của ngươi, và không bao giờ lợi dụng người khác, nhưng nếu ngươi không thể tương hợp với Đấng Christ, nếu ngươi không thể tương tác hòa hợp với Ngài, thì ngay cả khi ngươi dâng trọn mọi thứ của mình có để cứu lấy láng giềng hay tận tình chăm sóc cha, mẹ, và các thành viên trong gia đình ngươi, Ta cũng sẽ nói rằng ngươi vẫn xấu xa, và hơn nữa là kẻ đầy những thủ đoạn quỷ quyệt” (Những ai không tương hợp với Đấng Christ thì hẳn là những kẻ chống đối của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra công chính và thiện lành đích thực không phải là trung thành với bất kỳ con người nào. Dù ta có hữu hảo hay trung thành với bạn bè hay người thân thế nào đi nữa, dù được người khác xem là tốt lành hay được xã hội tuyên dương, cũng không thể được gọi là công chính và thiện lành. Công chính và thiện lành đích thực là do lẽ thật xác định, và đấy là những điều tương hợp với lẽ thật. Khi gặp chuyện, nếu có thể thực hành lẽ thật, hành động theo lời Đức Chúa Trời, gạt đi tình cảm mà giữ vững nguyên tắc, bảo vệ công tác của hội thánh thì mới là thể hiện sự công chính và yêu mến lẽ thật, như vậy mới được Đức Chúa Trời khen ngợi. Tôi nghĩ về chuyện ông Lot trong Kinh Thánh, vào thời khắc quan trọng, ông có thể đổi hai người con gái để cứu hai sứ giả của Đức Chúa Trời, và hành động này được Đức Chúa Trời xem là công chính. Tôi lại nghĩ về chuyện ông Nô-ê, khi nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời, ông đã mất 100 năm để đóng tàu, và dù trong thời gian đó, ông đã chịu nhiều đau khổ, phỉ báng và xét đoán, nhưng ông vẫn có thể quan tâm đến lời Đức Chúa Trời và hoàn thành điều Ngài ủy thác. Đấy chính là công chính. Tôi đã hiểu ra rằng khi thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời, thì người ta có thể thực hành tuyệt đối theo lời Ngài, bất kể chịu bao nhiêu đau khổ hay thậm chí là mất đi mạng sống, họ vẫn hoàn toàn sự ủy thác của Đức Chúa Trời, bảo vệ công tác nhà Ngài. Chỉ có như thế mới được gọi là công chính và thiện lành. Tôi luôn bảo vệ các mối quan hệ và dùng tình nghĩa đối xử với người khác. Tôi biết Ruthy đang âm thầm gieo rắc sự tiêu cực và dối trá, thế mà tôi chẳng phản ánh. Tôi ưu tiên tình nghĩa với Ruthy và che đậy cho chị ấy bất chấp công tác của hội thánh bị tổn hại. Tôi đã đặt tình cảm lên hàng đầu và vi phạm lẽ thật. Như thế mà là công chính và thiện lành sao? Thực chất, tôi đang chống đối Đức Chúa Trời và bị Ngài lên án. Nghĩ đến đó, tôi nhận ra vấn đề của mình nghiêm trọng đến thế nào, lòng tôi vô cùng sợ hãi. Tôi không được tiếp tục hành động theo tình cảm nữa, mà phải theo sát lẽ thật và nguyên tắc bằng cách phản ánh Ruthy. Vậy là tôi đã viết ra các vấn đề của Ruthy rồi gửi cho lãnh đạo.
Chẳng bao lâu sau, lãnh đạo bảo tôi: “Vấn đề của Ruthy khá nghiêm trọng. Từ khi bị cách chức, chị ấy chẳng phản tỉnh, vẫn cứ bất phục và căm phẫn, cứ gieo rắc quan niệm và sự tiêu cực, chẳng đóng vai trò tích cực gì. Phải phơi bày các vấn đề của chị ấy lần nữa. Nếu chị ấy không nhận ra chúng nghiêm trọng đến thế nào, thì có thể chị ấy sẽ tiếp tục gieo rắc sự tiêu cực và thực sự quấy nhiễu đời sống hội thánh”. Lãnh đạo còn nhờ tôi góp sức trong chuyện này. Đột nhiên, tôi thấy lo lắng, lòng lại nảy sinh mâu thuẫn: “Nếu mình thông công để phơi bày các vấn đề của Ruthy, thì phải nói trước mặt nhiều người, chị ấy sẽ nghĩ sao về mình đây? Chị ấy có ghét mình không? Chị ấy có bị tổn thương không? Chị ấy có nghĩ mình không phải là người đáng để tâm sự, rồi làm ngơ mình không?”. Tôi chẳng dám hình dung cảnh phơi bày chị ấy, chỉ muốn bỏ chạy cho rồi. Lãnh đạo thấy tôi lưỡng lự, nên bảo tôi rằng: “Nếu chị thấy không thoải mái, thì không cần tham gia đâu. Cứ suy nghĩ đi”. Tôi chẳng nói gì cả. Sau đó, tôi thấy cứ day dứt và tự hỏi lòng: “Tại sao mình lại sợ đối diện với Ruthy đến vậy? Tại sao mình không có can đảm để phơi bày chị ấy? Mình vẫn sống theo tình cảm và muốn bảo vệ các mối quan hệ người với người”. Nhận ra như thế, tôi thấy rất có lỗi và cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, xin giúp con. Xin cho con can đảm để thoát khỏi sự ảnh hưởng hắc ám của Sa-tan. Con nguyện ý mưu cầu lẽ thật”.
Sau khi cầu nguyện, tôi đọc được vài lời Đức Chúa Trời liên quan đến tình trạng của tôi. “Một khi lẽ thật đã trở thành sự sống trong ngươi, khi ngươi quan sát thấy một người nào đó phạm thượng đối với Đức Chúa Trời, không kính sợ Đức Chúa Trời, bất cẩn và chiếu lệ trong khi thực hiện bổn phận của họ, hoặc người nào đó làm gián đoạn và cản trở công tác của hội thánh, ngươi sẽ phản ứng theo các nguyên tắc của lẽ thật, sẽ có thể xác định và phơi bày họ khi cần thiết. Nếu lẽ thật chưa trở thành sự sống của ngươi, và ngươi vẫn sống trong tâm tính Sa-tan của mình, thì khi ngươi phát hiện ra những kẻ ác và ma quỷ, những kẻ gây gián đoạn và quấy rầy đến công tác của hội thánh, thì ngươi sẽ giả mù giả điếc; ngươi sẽ tảng lờ chúng mà không bị lương tâm trách móc. Thậm chí ngươi sẽ nghĩ rằng bất cứ ai đang gây nhiễu loạn đến công tác của hội thánh thì chẳng liên quan gì đến ngươi. Cho dù công tác của hội thánh và những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời có bị ảnh hưởng đến đâu, ngươi cũng không quan tâm, can thiệp hoặc cảm thấy tội lỗi – điều này khiến ngươi trở thành một người không có lương tâm hoặc ý thức, một kẻ chẳng tin, một kẻ phục vụ. Ngươi ăn của Đức Chúa Trời, uống của Đức Chúa Trời và tận hưởng tất cả những gì đến từ Đức Chúa Trời, ấy thế mà lại cảm thấy rằng bất kỳ sự tổn hại nào đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời đều không liên quan đến ngươi – điều này khiến ngươi trở thành kẻ phản bội ăn cháo đá bát. Nếu ngươi không bảo vệ những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời thì ngươi thậm chí có phải là con người không? Đây là một con quỷ đã len lỏi vào hội thánh. Ngươi giả vờ tin Đức Chúa Trời, giả vờ là người được chọn, và ngươi muốn ăn bám trong nhà Đức Chúa Trời. Ngươi không sống cuộc sống của một con người, và rõ ràng là một trong những kẻ chẳng tin. Nếu ngươi là người thực sự tin Đức Chúa Trời, thì dù ngươi chưa đạt được lẽ thật và sự sống, chí ít ngươi cũng sẽ nói và hành động từ phía Đức Chúa Trời; chí ít, ngươi cũng sẽ không thừ ra đó khi thấy những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị xâm hại. Khi ngươi giục lòng nhắm mắt làm ngơ, ngươi sẽ cảm thấy tội lỗi, không thoải mái, và sẽ tự nhủ: ‘Mình không thể ngồi đây và không làm gì, mình phải đứng lên và nói gì đó, mình phải gánh lấy trách nhiệm, mình phải phơi bày hành vi xấu xa này, mình phải ngăn chặn nó, để những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không bị tổn hại, và đời sống hội thánh không bị nhiễu loạn’. Nếu lẽ thật đã trở thành sự sống của ngươi, thì ngươi sẽ không chỉ có dũng khí, quyết tâm này, và sẽ không chỉ có khả năng hiểu vấn đề hoàn toàn, mà ngươi còn thực hiện trách nhiệm mình nên gánh vác vì công tác của Đức Chúa Trời và vì lợi ích của nhà Ngài, và bổn phận của ngươi bởi đó sẽ được thực hiện” (Chỉ những ai thực sự quy phục Đức Chúa Trời mới có lòng kính sợ Ngài, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Trong hội thánh, hãy đứng vững trong lời chứng của các ngươi về Ta, hãy gìn giữ lẽ thật; đúng là đúng và sai là sai. Đừng nhầm lẫn giữa đen và trắng. Các ngươi sẽ chiến đấu với Sa-tan và phải tiêu diệt nó hoàn toàn để nó không bao giờ có thể trỗi dậy nữa. Các ngươi phải dùng mọi thứ mình có để bảo vệ lời chứng về Ta. Đây phải là mục tiêu trong mọi hành động của các ngươi – đừng quên điều này” (Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 41, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời của Đức Chúa Trời, lòng tôi đầy xúc động và hổ thẹn. Tôi ngẫm lại những hành vi gần đây của mình, tôi chính là loại người mà Đức Chúa Trời phơi bày, phản nghịch, không bảo vệ công tác của hội thánh, và chối bỏ lẽ thật. Tôi biết rằng sau khi bị cách chức, Ruthy đã không thật sự phản tỉnh hay ăn năn, thậm chí còn ghét những anh chị em đã phản ánh chị ấy. Tôi biết chị ấy đang gieo rắc quan niệm, tiêu cực và chống đối. Chị ấy đã thể hiện bản tính chán ghét, thu hận lẽ thật, về bản chất, chị ấy là kẻ hành ác. Người nào quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời và có ý thức công chính, thì khi thấy hành động này, họ sẽ đứng lên bảo vệ công tác hội thánh và ngăn chặn hành động của Sa-tan. Họ sẽ không để đời sống và công tác của hội thánh bị nhiễu loạn. Thế mà dù đã mắt thấy tai nghe, tôi vẫn lưỡng lự, chần chừ, không dám phơi bày Ruthy, sợ tình nghĩa của chúng tôi sẽ bị tổn hại. Vào thời điểm then chốt này, tôi chẳng quan tâm công tác của hội thánh hay tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật. Tôi cứ giữ những triết lý Sa-tan, cùng với ma quỷ Sa-tan xem trọng yêu thương, tình nghĩa, đứng về phía nó mà che đậy cho kẻ hành ác. Bản chất việc làm này của tôi chính là tà ác. Khi đối diện với lẽ thật, mọi hành động của tôi đều sai lầm. Càng suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi càng nhận thấy rõ ràng những vấn đề của mình. Tôi cũng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời đã chọn tôi vào nhà Ngài, đã liên tục dẫn dắt và cung dưỡng cho tôi, cho tôi cơ hội mưu cầu lẽ thật và được cứu rỗi, nhưng vào thời điểm quan trọng, tôi chẳng quan tâm ý muốn của Ngài, chọn bảo vệ cho Sa-tan. Thật sự tôi là kẻ phản trắc, đã phản bội Ngài. Tôi thật sự đã phụ lòng Ngài! Tôi không được tiếp tục ưu tiên tình cảm hay bảo vệ các mối quan hệ của mình nữa. Dù có làm mất lòng người ta hay không, nếu vi phạm lẽ thật và xúc phạm Đức Chúa Trời thì chính là hoàn toàn thiếu nhân tính! Tôi nhớ lại lời của Đức Chúa Trời phán rằng: “Những mối quan hệ của ngươi không thiết lập trong xác thịt, mà là trên nền tảng là tình yêu Đức Chúa Trời. Hầu như không có sự tương tác về xác thịt, nhưng trong tinh thần, có sự thông công, tình yêu thương lẫn nhau, sự an ủi lẫn nhau và sự cung cấp cho nhau. Tất cả điều này đều được thực hiện trên nền tảng một tấm lòng làm thỏa mãn Đức Chúa Trời. Những mối quan hệ này không được duy trì bằng cách dựa theo triết lý sống của con người, mà được định hình rất tự nhiên qua việc mang trọng trách vì Đức Chúa Trời. Nó không cần đến nỗ lực của con người. Ngươi chỉ cần thực hành theo nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời” (Việc thiết lập một mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời là rất quan trọng, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Những lời của Đức Chúa Trời khiến tôi hiểu ra rằng các mối quan hệ giữa người với người không nên làm theo các triết lý trần tục. Đúng ra, phải sống theo lời Đức Chúa Trời. Nghĩa là thông công với nhau về lối vào sự sống, giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau, có thể thông công, giúp đỡ, giám sát và cảnh tỉnh cho nhau khi họ vi phạm nguyên tắc hoặc bước theo con đường sai trái, có thể phơi bày và ngăn cản những ai gây nhiễu loạn công tác hội thánh… đây là những nguyên tắc để tương tác. Khi thấy những vấn đề của Ruthy, tôi đã ưu tiên tình cảm và nghĩa khí dành cho chị ấy. Làm như thế là vô lý và không tương hợp với lẽ thật. Đấy là hành động của người ngoại đạo và kẻ chẳng tin. Lòng tôi giờ đã hết mâu thuẫn và tôi đã có can đảm để thực hành lẽ thật.
Rồi tôi đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời nữa phơi bày tác hại của những ý niệm văn hóa truyền thống như “sẵn sàng hy sinh vì bạn bè” và tôi thấy được khai sáng hơn nhiều. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Được sinh ra trong một vùng đất ô uế như thế, con người đã bị xã hội tiêm nhiễm nghiêm trọng, họ bị ảnh hưởng bởi những đạo đức phong kiến, và họ đã được dạy dỗ tại ‘các học viện cao học’. Suy nghĩ lạc hậu, đạo đức bại hoại, quan điểm về cuộc sống tầm thường, triết lý sống hèn hạ, sự tồn tại hoàn toàn vô giá trị, lối sống và tập quán suy đồi – tất cả những điều này đã xâm nhập nghiêm trọng vào lòng người, xói mòn và tấn công nặng nề lương tâm họ. Kết quả là, con người ngày càng xa cách Đức Chúa Trời, và ngày càng chống đối Đức Chúa Trời. Tâm tính của con người trở nên xấu xa hơn theo từng ngày, và không có một ai sẽ sẵn lòng từ bỏ bất cứ điều gì vì Đức Chúa Trời, không một ai sẽ sẵn lòng vâng lời Đức Chúa Trời, hơn nữa, cũng không một ai sẽ sẵn lòng tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, dưới quyền của Sa-tan, con người không làm gì ngoài việc theo đuổi thú vui, đắm chìm trong sự bại hoại của xác thịt trong vùng đất bùn lầy” (Có một tâm tính không thay đổi là thù nghịch với Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Sa-tan đã bịa đặt và hư cấu nhiều câu chuyện dân gian hoặc những câu chuyện xuất hiện trong những sách lịch sử, để lại cho con người những ấn tượng sâu sắc về văn hóa truyền thống hoặc các nhân vật mê tín. Ví dụ như, ở Trung Quốc có ‘Tám người bất tử vượt biển’, ‘Tây du ký’, ‘Ngọc Hoàng Thượng Đế’, ‘Na Tra chinh phục Long Vương’, và ‘Phong Thần Diễn Nghĩa’. Chẳng phải những thứ này đã ăn sâu vào tâm trí của con người sao? Ngay cả khi một vài người trong số các ngươi không biết tất cả các chi tiết, nhưng các ngươi vẫn biết những câu chuyện khái quát, và chính nội dung khái quát này khắc sâu vào lòng ngươi và tâm trí ngươi, vì thế ngươi không thể quên được chúng. Đây là những ý tưởng hoặc truyền thuyết đa dạng mà Sa-tan đã chuẩn bị cho con người từ rất lâu, và đã bị gieo rắc ở những thời điểm khác nhau. Những thứ này trực tiếp gây tổn hại và ăn mòn linh hồn của con người và làm con người bị mê hoặc hết lần này đến lần khác. Điều đó có nghĩa là một khi ngươi đã chấp nhận văn hóa truyền thống, những câu chuyện, hoặc những thứ mê tín như vậy, một khi chúng đã thành nếp trong tâm trí ngươi, và một khi chúng khắc sâu vào lòng ngươi, thì điều đó giống như ngươi bị mê hoặc – ngươi bị mắc kẹt và bị chi phối bởi những cái bẫy văn hóa này, những ý tưởng và câu chuyện truyền thống này. Chúng chi phối đời sống của ngươi, quan điểm sống của ngươi, và sự phán xét của ngươi về mọi thứ. Còn hơn thế, chúng chi phối sự theo đuổi con đường sống thực sự của ngươi: Đây thực sự là một sự mê hoặc gian ác. Dù cố gắng hết sức có thể, thì ngươi cũng không thể rũ bỏ chúng; ngươi chặt vào chúng nhưng ngươi không thể đốn ngã chúng; ngươi đánh vào chúng nhưng ngươi không thể đánh lui chúng. Hơn nữa, sau khi con người vô tình bị mê hoặc như thế, thì họ vô tình bắt đầu thờ phượng Sa-tan, nuôi dưỡng hình ảnh của Sa-tan trong lòng mình. Nói cách khác, họ lập Sa-tan làm thần tượng của mình, một đối tượng để họ thờ phượng và tôn kính, thậm chí còn đi xa đến mức xem nó là Đức Chúa Trời. Một cách vô tình, những thứ này ở trong lòng con người, kiểm soát lời nói và hành động của họ. Hơn nữa, đầu tiên ngươi xem những câu chuyện và truyền thuyết này là sai, nhưng sau đó ngươi vô tình thừa nhận sự tồn tại của chúng, tạo chúng thành những nhân vật có thật, và biến chúng thành những đối tượng thật và hiện hữu. Trong sự không hay biết của ngươi, ngươi tiếp nhận những ý tưởng này và sự hiện hữu của những thứ này theo tiềm thức. Theo tiềm thức ngươi cũng tiếp rước những con quỷ, Sa-tan, và các thần tượng vào nhà riêng của mình và vào lòng mình – đây thực sự là một sự mê hoặc” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất VI, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng những lời được cho là từ miệng các bậc thánh nhân và hiền nhân, cùng những tư tưởng trong các câu chuyện kinh điển đã ảnh hưởng đến biết bao thế hệ, tất cả đều phát xuất từ Sa-tan. Sa-tan đã dùng những lời nói và tư tưởng này để khống chế nhân loại. Những tư tưởng này vốn đã bắt rễ sâu trong lòng người và chúng có ảnh hưởng sâu sắc với con người. Cũng như ý tưởng rằng người ta phải hy sinh vì bạn bè, nhìn bề ngoài, nó là nghĩa khí đáng trọng, xem liều mạng sống vì bạn bè là một việc cao thượng. Khi người ta tiếp nhận tư tưởng và quan điểm này rồi, họ phải giúp bạn bè, bất kể người đó là sai hay đúng, thậm chí liều cả mạng sống để giúp đỡ, hỗ trợ. Làm như thế là không có nguyên tắc, bất phân phải trái. Kể cả nếu người bạn đó làm ái, họ cũng phải bảo vệ, thậm chí liều cả mạng sống, như vậy được xem là trượng nghĩa. Kỳ thực, làm thế là không có lý trí, hành xử chỉ dựa trên cảm tính. Hiện giờ, tôi không còn xem nghĩa khí là một thứ cao quý nữa. Thay vào đó, tôi cảm thấy những người mang tâm thức đó thật thảm hại và đáng thương. Họ sống không có giá trị và chết đi cũng vô nghĩa. Tôi nghĩ đến chuyện mình đã bị tâm thức này gây hại nặng nề. Để bảo vệ tình nghĩa, tôi biết lẽ thật đấy mà không chịu thực hành. Tôi thậm chí còn nghĩ rằng có tình có nghĩa là có nhân tính tốt. Tôi thật sự quá ngu xuẩn mà. Những quan niệm mà Sa-tan đề cao này chính là thuốc độc cho con người. Chúng khiến tôi mơ hồ về chuyện đúng sai, không thể phân biệt được điều gì là tích cực và điều gì là tiêu cực. Chúng thu hẹp và bóp méo tâm trí tôi. Chúng ngăn tôi có quan hệ người với người bình thường. Tôi nhớ lại những lời Đức Chúa Trời phán: “Nguyên nhân gốc rễ của những tâm tính bại hoại phát sinh trong con người chính là sự lừa dối, bại hoại và độc tố của Sa-tan. Con người đã bị Sa-tan trói buộc và điều khiển, và chịu sự tổn hại nghiêm trọng mà Sa-tan đã gây ra đối với suy nghĩ, đạo đức, sự thông sáng, và ý thức của họ. Chính vì những điều cơ bản của con người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại, và hoàn toàn không giống như cách Đức Chúa Trời ban đầu đã tạo ra họ, nên con người chống đối Đức Chúa Trời và không tiếp nhận được lẽ thật” (Có một tâm tính không thay đổi là thù nghịch với Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Trước đây, tôi chỉ thừa nhận trên lý thuyết rằng mình bị Sa-tan làm bại hoại nghiêm trọng, rằng tôi đã mất hết nhân tính, nhưng tôi không thật sự hiểu được sự bại hoại sâu sắc của con người biểu lộ thế nào. Giờ tôi đã hiểu rõ hơn một chút. Chất độc của Sa-tan và tư tưởng của văn hóa truyền thống vốn đã trở thành bản tính của con người. Chúng đã chà đạp và bóp méo tư tưởng của con người, và con người mất đi nhân tính và tư duy bình thường. Mọi suy nghĩ của con người đều chống đối Đức Chúa Trời và vi phạm lẽ thật. Không có lẽ thật do Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ và công tác cứu rỗi của Ngài phân tích từng điểm một của các triết lý trần tục, chất độc Sa-tan và bản chất của văn hóa truyền thống, thì làm sao tôi hiểu được những điều này? Tôi sẽ chỉ ngày càng bị Sa-tan làm hại và làm cho bại hoại. Tôi càng cảm thấy rằng chỉ có lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, và chỉ có lời Ngài mới có thể thay đổi và cứu rỗi con người. Lời của Đức Chúa Trời thật quá quý báu. Văn hóa truyền thống và những triết lý Sa-tan làm hại và khiến con người nên bại hoại. Chỉ có tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, xem xét mọi chuyện và hành động theo lời Đức Chúa Trời, thì người ta mới giữ được lý trí và nhân tính bình thường.
Vài ngày sau đó, lãnh đạo mời Ruthy đến. Tôi đã nói ra mọi vấn đề tôi thấy nơi chị ấy, không dè dặt gì cả. Khi phơi bày chị ấy, tôi cảm thấy thanh thản. Tôi biết rằng làm thế là tương hợp với lẽ thật và nguyên tắc, và dù sau này chị ấy có nghĩ gì về tôi, có không muốn thấy mặt tôi nữa, thì tôi cũng thấy thanh thản và không bao giờ hối hận về hành động của mình, vì tôi đang thực hành lẽ thật mà.
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?